Mục 8. Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời (Phần 1)

Phần bổ sung: Mổ xẻ về các vấn đề nảy sinh khi ghi chép lại bài giảng đạo

Ta nghe có người nói rằng những người ghi chép lại đã cắt bỏ câu chuyện khỏi phần đầu của một số bài giảng đạo vừa rồi, chỉ để lại nội dung bài giảng chính thức phía sau. Có phải là có chuyện như vậy không? Những câu chuyện bị tách khỏi bài giảng phía sau là gì? (Thưa, “Câu chuyện của Đại Bảo và Tiểu Bảo”, “Câu chuyện của Đại Minh và Tiểu Minh” và “Bàn về vốn liếng: ‘Kệ đi chứ!’”.) Ba câu chuyện này bị tách khỏi nội dung bài giảng, nhưng tại sao? Lý do là gì? Rõ ràng, những người ghi chép lại nghĩ rằng những câu chuyện phía trước không phù hợp với nội dung bài giảng phía sau, nên họ tách ra. Đây có phải là lý do không? Đây chính là việc mà những người ghi chép lại làm. Họ quá kiêu ngạo và tự nên công chính, lấy các câu chuyện ra đưa vào thành chương riêng mà không có bất kỳ nội dung bài giảng nào. Các ngươi nói xem, làm như vậy thì kết quả có tốt không? Ngoài ra, theo các ngươi, câu chuyện được kể phía trước có bắt buộc phải phù hợp và ăn khớp với bài giảng phía sau không? Có bắt buộc phải vậy không? (Thưa, không.) Vậy thì tại sao những người ghi chép lại bài giảng đạo lại hiểu lầm như vậy? Sao họ lại cho là như vậy? Vấn đề đây là gì? Họ thầm nghĩ: “Những câu chuyện Ngài kể là lạc đề. Con sẽ sàng lọc cho Ngài, và khi phân phát, con sẽ không ghép chúng cùng nhau. Bài giảng là bài giảng; từ bài giảng này sang bài giảng kia phải mạch lạc. Nội dung câu chuyện phía trước không nên làm nhiễu loạn cho nội dung bài giảng. Con phải sàng lọc cho Ngài bởi vì bản thân Ngài không hiểu vấn đề”. Đây có phải là một ý tốt không? Ý tốt này của họ bắt nguồn từ đâu? Có phải là bắt nguồn từ quan niệm của con người không? (Thưa, phải.) Khi giảng, Ta có cần phải cân nhắc chu toàn như vậy không? Mỗi câu chuyện Ta kể có cần phải ăn khớp với nội dung phía sau không? (Thưa, không.) Không cần; đây gọi là quy định, quan niệm. Những người ghi chép lại đã phạm phải sai lầm gì? (Thưa, làm việc dựa trên quan niệm và tưởng tượng của họ.) Còn gì nữa? (Thưa, tùy ý làm bậy.) Tính chất của kiểu hành vi này có chút tùy ý làm bậy; họ không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Nói vậy là hợp lý, nhưng vẫn chưa đúng thực chất của việc này. Khi ghi chép lại bài giảng, họ mang kiểu thái độ và kiểu quan điểm nào để nhìn nhận mọi điều Đức Chúa Trời phán? Họ nhìn nhận và nghe những điều được phán này, dù là câu chuyện hay bài giảng, với kiểu tâm thái nào và từ góc độ nào? (Thưa, từ góc độ tri thức và học vấn.) Đúng vậy. Nhìn nhận những câu chuyện được kể và nội dung bài giảng từ góc độ tri thức sẽ dẫn đến vấn đề này. Họ cho rằng khi Ta giảng đạo, dù Ta nói đoạn lời nào, thì nội dung cũng phải theo trình tự; từng câu phải lô-gic, từng câu phải phù hợp với quan niệm của tất cả mọi người, và từng đoạn nội dung đều phải mang tính mục tiêu một cách chặt chẽ. Họ đánh giá bài giảng của Ta dựa trên quan điểm này. Đây có phải biểu hiện của việc không có hiểu biết thuộc linh không? (Thưa, có.) Thật đúng là không có hiểu biết thuộc linh. Sử dụng lô-gic và suy luận để tiếp cận với những điều Ta phán từ góc độ tri thức là phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Ta đang thông công về lẽ thật, chứ không phải là viết luận; ngươi phải rõ điểm này. Mấy người các ngươi nghe giảng tại buổi nhóm họp, rồi về nghe lại những bài giảng này mà họ ghi chép lại, có phát hiện bất kỳ lời hay chuyện quan trọng nào được phán lúc đó mà bị họ cắt bỏ không? Có hiện tượng như vậy không? Chẳng hạn như có thể ngươi nghe một đoạn rất cảm thúc và rất khai trí tại buổi nhóm họp, nhưng sau đó khi nghe bản ghi âm bài giảng, ngươi lại phát hiện ra đoạn đó không còn, đã bị cắt bỏ. Có tình huống kiểu này không? Nếu không nghe kỹ, các ngươi có thể không nhận ra, nên sau này nhớ nghe kỹ. Có lần Ta nghe một bản ghi âm, và ở chỗ Ta vừa bắt đầu thảo luận về các biểu hiện khác nhau của kẻ địch lại Đấng Christ, liệt kê từ một đến mười lăm biểu hiện, họ đã cắt bỏ phần làm rõ và giải thích chi tiết khỏi mỗi biểu hiện, thay vào đó chỉ đơn giản liệt kê biểu hiện thứ nhất, biểu hiện thứ hai, biểu hiện thứ ba, v.v.. Mỗi biểu hiện được phán qua rất nhanh, từ biểu hiện này sang biểu hiện khác, nhanh hơn nhiều so với giáo viên giảng bài. Người bình thường nếu chưa từng nghe bài giảng đó và chưa quen thuộc với nó, thì khi nghe, họ sẽ không có một khoảng trống nào để suy ngẫm cả. Nếu muốn nghe kỹ, họ sẽ luôn phải dừng lại, nghe một câu rồi ghi chú nhanh lại, sau đó suy ngẫm câu này nghĩa là gì, rồi mới phát câu tiếp theo. Nếu không thì tốc độ sẽ quá nhanh, họ không thể theo kịp được. Đây là một sai lầm nghiêm trọng của những người biên tập bản ghi âm bài giảng đó. Bài giảng là cuộc trò chuyện, cuộc thảo luận. Nội dung bài giảng là gì? Nó thảo luận về các lẽ thật khác nhau và các tình trạng khác nhau của con người; hết thảy đều liên quan đến lẽ thật. Vậy thì những nội dung liên quan đến lẽ thật này có dễ để mọi người đón nhận và hiểu được không, hay là họ cần phải suy xét, ngẫm nghĩ và xử lý trong đầu rồi mới dần dần phản ứng? (Thưa, họ cần phải suy xét, ngẫm nghĩ và xử lý trong đầu.) Vậy thì dựa trên tình hình này, người giảng đạo nên giữ tốc độ như thế nào? Nói nhanh như súng bắn có được không? (Thưa, không.) Như giáo viên giảng bài có được không? (Thưa, không.) Như người diễn thuyết có được không? (Thưa, không.) Chắc chắn là không được. Trong bài giảng, phải có phần hỏi đáp, khoảng trống để suy ngẫm, cần phải cho người ta thời gian phản ứng – tốc độ như thế mới phù hợp. Họ ghi chép lại bài giảng mà không hiểu nguyên tắc này; như vậy có phải là không có hiểu biết thuộc linh không? (Thưa, phải.) Như vậy là không có hiểu biết thuộc linh. Họ nghĩ: “Những điều Ngài đang phán này con nghe rồi. Chỉ cần nghe một lần là con nhớ ý chính, và con biết Ngài đang phán về điều gì. Sử dụng kinh nghiệm và những kỹ năng tuyệt vời mà con có được từ việc thường xuyên biên tập bản ghi âm bài giảng, con sẽ làm như vậy và đẩy nhanh tốc độ”. Đẩy nhanh tốc độ thì chẳng sao, nhưng nó đã biến bản ghi chép bài giảng đạo thành cái gì? Nó biến bài giảng thành bài luận. Một khi bài giảng biến thành bài luận, thì nó mất đi cảm giác trực tiếp nghe; vậy thì có thể đạt được hiệu quả tương tự không? Chắc chắn sẽ có sự khác biệt. Sự khác biệt này làm nó tốt hơn hay tệ hơn? (Thưa, tệ hơn.) Tệ hơn. Những người không có hiểu biết thuộc linh tự làm theo ý mình và nghĩ rằng mình thông minh. Họ tin rằng họ có học thức, có kỹ năng, có ân tứ và sáng dạ, nhưng kết quả là họ lại làm những chuyện không có lý trí. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Trong các bài giảng, tại sao thỉnh thoảng Ta đặt câu hỏi cho các ngươi? Có những người nói: “Chắc Ngài sợ chúng con ngủ gật”. Có phải vậy không? Tại sao đôi khi Ta lại nói về chuyện khác, đi lạc đề và thảo luận về những chuyện nhẹ nhàng, vui vẻ? Đó là để cho các ngươi thư giãn, để cho các ngươi có chút khoảng trống để suy ngẫm. Ngoài ra, nó cũng cho phép các ngươi hiểu rộng hơn về một khía cạnh lẽ thật nào đó, để hiểu biết của các ngươi không bị giới hạn trong phạm vi câu chữ, nghĩa đen, đạo lý hoặc cấu trúc ngữ pháp – nó không nên bị giới hạn trong những thứ này. Vì thế, đôi khi Ta nói về những chuyện khác; đôi khi Ta kể chuyện vui để làm dịu bầu không khí, nhưng thực ra, Ta làm vậy chủ yếu để đạt được một kết quả nhất định – các ngươi nên hiểu điều này.

Ngươi thấy đấy, khi một mục sư tôn giáo giảng đạo, ông ta đứng trên bục giảng và chỉ nói về những chủ đề cứng nhắc đó, không hề liên quan một chút nào đến đời sống thực tế của con người, các trạng thái trong lòng họ, hay những vấn đề tồn tại của họ. Hết thảy đều là câu chữ và đạo lý chết. Họ chỉ nói chút lời êm tai và hô hào mấy khẩu hiệu sáo rỗng. Kết quả là nó khiến cho người nghe cảm thấy nhàm chán, và họ không thu hoạch được gì cả. Cuối cùng, nó dẫn đến tình trạng phía trên mục sư giảng, phía dưới không ai chú ý, không có tương tác gì cả. Chẳng phải mục sư đang phí hơi sao? Các mục sư giảng đạo như vậy chỉ để kiếm sống, vì sự sinh tồn của chính mình; họ không quan tâm đến nhu cầu của tín đồ. Còn đối với chúng ta hiện nay, việc giảng đạo của chúng ta không phải là thực hiện nghi lễ tôn giáo hay hoàn thành một dạng công việc được giao – mà là để đạt được một số kết quả. Để đạt được kết quả, tất cả mọi khía cạnh đều phải được xét đến – nhu cầu của đủ mọi loại người, những quan niệm, tưởng tượng và tình trạng của họ, cũng như quan điểm của họ, đều phải được xét đến. Ngoài ra, chúng ta cũng phải xét đến mức độ tiếp nhận đối với ngôn ngữ của con người ở những tầng lớp khác nhau. Một số người có học thức hay những người khá thích ngôn ngữ trang trọng cần nghe chút lời lẽ văn vẻ tương đối đúng ngữ pháp và có tính lô-gic. Họ có thể hiểu được chúng. Lại có những người bình thường, những người ở tầng lớp bên dưới của xã hội, không được tiếp xúc với thứ ngôn ngữ sách vở như thế, thì Ta nên làm gì? Ta phải nói một chút tiếng địa phương. Trước đây, Ta không sử dụng nhiều tiếng địa phương, nhưng qua nhiều năm, Ta cũng học được một chút, và bây giờ, thậm chí đôi khi Ta còn bật ra những câu tục ngữ hai phần hoặc kể chuyện vui. Như thế, sau khi nghe, tất cả mọi người, bất kể tầng lớp xã hội, sẽ cảm thấy nội dung mà Ta phán dễ hiểu và có thể gần gũi hơn với họ. Nhưng nếu toàn là ngôn ngữ địa phương, thì nội dung bài giảng sẽ nghe không đủ chiều sâu, nên phải kết hợp với một chút ngôn ngữ sách vở, hết thảy đều được bày tỏ bằng ngôn ngữ của đời sống thường ngày; chỉ khi đó mới đáp ứng được tiêu chuẩn tối thiểu. Một khi ngôn ngữ địa phương bắt đầu được sử dụng, thì việc nói những cái như “tức là”, “kiểu”, “Ý Ta là”, v.v., đưa vào quá nhiều lối diễn đạt như thế có thể ảnh hưởng đến mức độ truyền tải lẽ thật. Nhưng nếu toàn là ngôn ngữ sách vở, tất cả đều được nói một cách rất trang trọng và chính quy, tuân theo lô-gic và lập luận ngữ pháp từng bước một, thậm chí không mắc chút sai lầm nào, giống như đọc bài luận hoặc đọc văn bản, tức là đọc một bài văn đã được soạn sẵn từ đầu đến cuối, đọc không sai một chữ nào, thậm chí đến cả dấu câu cũng không sai chút nào, thì theo các ngươi, như thế có được không? Như thế sẽ quá phiền phức, Ta không có sức lực làm điều đó. Một mặt là vậy. Ngoài ra, dù có học thức hay không, ai cũng có những biểu hiện thuộc đủ mọi khía cạnh của nhân tính, và những sự biểu hiện nhân tính này liên quan đến đời sống thực tế. Mà đời sống thực tế lại gắn liền với ngôn ngữ của đời sống thường ngày, gắn liền với hoàn cảnh sống của ngươi. Hoàn cảnh sống này đầy dạng ngôn ngữ thường ngày này, xen lẫn chút ngôn ngữ địa phương, thêm chút từ vựng đơn giản có chút phong cách văn chương. Như vậy là đủ; về cơ bản, nó hàm chứa và bao gồm toàn bộ phạm vi quan tâm. Dù già hay trẻ, không có học thức hay có chút tri thức, thì về cơ bản, tất cả mọi người đều có thể nắm bắt được, tất cả mọi người đều có thể nghe và hiểu được; họ sẽ không cảm thấy nhàm chán, và họ sẽ không cảm thấy vượt quá tầm của họ. Đây là điều phải tính đến khi thông công và giảng đạo, xét đến mọi khía cạnh nhu cầu của con người. Để bài giảng đạo có kết quả, ngươi phải xét đến tất cả những khía cạnh này: tốc độ nói, lựa chọn từ ngữ và cách biểu đạt. Thêm vào đó, khi biểu đạt một điều gì đó và thông công về một khía cạnh lẽ thật, thì truyền đạt đến đâu là thấu đáo? Đến đâu là chưa đủ thấu đáo? Nên bổ sung những khía cạnh nào? Tất cả những điều này cũng phải được xét đến. Nếu ngươi thậm chí còn không xét đến những khía cạnh này, thì khả năng tư duy của người quá kém. Chỗ người khác tưởng tượng trong hai chiều, thì ngươi phải có thể tư duy trong ba chiều. Ngươi phải thấy thấu đáo hơn và chuẩn xác hơn người khác, có thể nhìn rõ đủ loại vấn đề, cũng như cảm nhận được các nguyên tắc lẽ thật liên quan. Như thế, tất cả mọi khía cạnh của tâm tính bại hoại mà người ta có thể nghĩ đến, biểu hiện hoặc bộc lộ, cũng như những tình trạng liên quan, về cơ bản đều được bàn đến, và tất cả mọi người đều có thể nghe và hiểu. Có phải những người ghi chép lại bài giảng đạo cũng có những tố chất và cách nghĩ này không? Nếu họ không có những điều này, mà thay vào đó luôn dựa vào tri thức họ học được để tổng kết điểm chính của bài giảng, tư tưởng trọng tâm, ý chính của từng phần, thì sẽ giống như học sinh Trung Quốc học văn. Đầu tiên, giáo viên cho học sinh xem trước toàn bộ văn bản, sau đó đọc kỹ. Trong bài chính khóa đầu tiên, giáo viên nói về ý chính của đoạn thứ nhất, giới thiệu từ vựng mới và thảo luận về ngữ pháp liên quan. Khi học xong tất cả các phần, ngươi sẽ phải học thuộc lòng, cuối cùng đặt câu với từ vựng mới, rồi học thuộc tư tưởng trọng tâm của văn bản, cũng như mục đích viết của tác giả. Như vậy, ngươi sẽ hiểu được đầy đủ những gì mà văn bản đang cố gắng truyền tải. Những thứ này ai cũng học, ai cũng biết, nhưng nếu ngươi áp dụng chúng vào việc ghi chép lại bài giảng đạo, thì quá sơ đẳng. Ta nói cho ngươi biết, nếu viết luận thì ngươi có thể sử dụng những thứ này; đó chỉ là thường thức cơ bản để viết. Nhưng nếu ngươi áp dụng tư tưởng, triết lý và cách làm này vào việc ghi chép lại bài giảng đạo, chẳng phải ngươi có thể phạm sai lầm sao? Chắc chắn ngươi có thể phạm sai lầm. Ngươi không biết tại sao Ta muốn kể câu chuyện này, ngươi không cố gắng hiểu lẽ thật mà mình phải hiểu được từ câu chuyện này – đây là sai lầm. Ngoài ra, ngươi có thể hiểu được lẽ thật trong cả câu chuyện lẫn nội dung bài giảng không? Nếu ngươi không thể hiểu được, thì ngươi không có hiểu biết thuộc linh. Người không có hiểu biết thuộc linh thì có tư cách gì để ghi chép lại bài giảng đạo chứ?

Theo tất cả các ngươi, tại sao Ta lại kể chuyện? Những người ghi chép lại bài giảng đạo không biết lý do tại sao, nên họ thêm quan điểm riêng của họ vào. Họ cho rằng nếu Ta muốn kể chuyện, thì nó phải phù hợp với nội dung phía sau – họ không biết tại sao Ta lại kể chuyện. Các ngươi cũng không biết, phải không? Các ngươi không biết thì Ta sẽ nói cho các ngươi biết lý do. Từ đầu cho đến nay, Ta đã giảng về các biểu hiện khác nhau của kẻ địch lại Đấng Christ khoảng mười lần, và Ta mới chỉ giảng được một nửa. Nếu Ta nói một mạch xong nội dung này trong một lần, thì chủ đề sẽ rất khô khan, phải không? Nếu mỗi khi chúng ta bắt đầu, Ta đều nói ngay vào chủ đề chính – đầu tiên, cho tất cả mọi người ôn lại nội dung thảo luận lần trước, sau đó Ta bắt đầu phán, tất cả các ngươi vội vàng ghi lại, ghi và ghi, cố gắng căng mắt ra; rồi nếu sau khi phán xong, Ta cho tất cả mọi người tổng kết lại, tất cả mọi người dụi mắt, lật sổ và đọc lại nội dung vừa được thông công hôm nay, và cuối cùng, sau khi có vẻ như tất cả mọi người đã nhớ sơ qua, thì Ta phán: “Ngày hôm nay chúng ta dừng lại ở đây, buổi nhóm họp kết thúc, buổi sau chúng ta sẽ nói tiếp”, thì tất cả mọi người sẽ hơi buồn rầu: “Buổi thông công nào cũng nói về những điều này, cùng một mô thức; nội dung quá dài dòng và khô khan”. Ngoài ra, thông công về lẽ thật phải đa chiều, mọi người tiến bộ đồng thời trong mọi khía cạnh lẽ thật. Cũng giống như việc bước vào sự sống của con người: người ta phải phát triển về mặt biết mình, thay đổi tâm tính, biết Đức Chúa Trời, nhận biết các tình trạng khác nhau của chính mình, và nhân tính, sự thấu suốt của mình, cùng tất cả các khía cạnh khác – hết thảy những điều này phải tiến bộ đồng thời. Nếu trong thời gian này, Ta chỉ thảo luận về việc phân định các biểu hiện khác nhau của kẻ địch lại Đấng Christ, thì mọi người có lẽ sẽ gạt những khía cạnh lẽ thật khác sang một bên, và suốt ngày suy nghĩ: “Ai có vẻ giống kẻ địch lại Đấng Christ nhỉ? Mình có phải là kẻ địch lại Đấng Christ không? Xung quanh mình có bao nhiêu kẻ địch lại Đấng Christ?”. Làm vậy sẽ ảnh hưởng đến việc bước vào các khía cạnh lẽ thật khác của họ. Vì thế, Ta suy nghĩ làm sao để nội dung bài giảng có thể bao gồm thêm một khía cạnh lẽ thật nữa, để mọi người có thể hiểu thêm một lẽ thật nữa; nghĩa là khi thảo luận về chủ đề “Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ”, mọi người cũng có thể tình cờ hiểu một số khía cạnh khác. Kết quả của bài giảng đạo như thế tốt hơn, chẳng phải sao? (Thưa, phải.) Chẳng hạn như ngươi ăn món chính, đôi khi ăn kèm quả táo. Như vậy thì sẽ cung cấp thêm chất dinh dưỡng, chẳng phải sao? (Thưa, phải.) Vậy thì nói Ta nghe, Ta có cần kể chuyện không? (Thưa, có.) Chắc chắn là cần. Nếu không cần thì Ta kể chuyện làm gì? Sử dụng câu chuyện để giảng về một số chủ đề nhẹ nhàng, vui vẻ cho phép mọi người có được và thu hoạch được điều gì đó trong các khía cạnh lẽ thật khác. Đây là chuyện tốt. Khi giảng xong về những chủ đề nhẹ nhàng này, Ta quay trở lại chủ đề chính. Sắp xếp như thế là phù hợp. Trước khi ăn món chính, ngươi ăn gì? (Thưa, món khai vị.) Đây là món khai vị. Món khai vị thường rất ngon và kích thích khẩu vị, phải không? Vì thế, khi Ta kể chuyện, ngươi có thể thu được một khía cạnh lẽ thật từ câu chuyện đó, làm sâu thêm hiểu biết hoặc nhận thức của mình. Như vậy hoàn toàn tốt. Tất nhiên, những người không có hiểu biết thuộc linh nghe kể chuyện và chỉ nghe trên tầng bề mặt, họ không thấy được lẽ thật bên trong mà đáng ra họ nên hiểu. Họ không có hiểu biết thuộc linh – cái này thì chịu rồi. Chẳng hạn như khi nghe “Câu chuyện của Đại Bảo và Tiểu Bảo”, có những người chỉ nhớ Đại Bảo xấu, Tiểu Bảo ngốc. Họ nhớ tên của Đại Bảo và Tiểu Bảo, nhưng lại không nhớ người đàn ông trong câu chuyện bộc lộ tâm tính bại hoại trong những tình huống nào, kiểu tâm tính nào bộc lộ, tâm tính này là thế nào, hoặc nó liên quan gì đến lẽ thật. Bản thân ngươi bộc lộ kiểu tâm tính này trong những tình huống nào? Liệu ngươi có nói những lời như thế không? Nếu ngươi nói: “Tôi sẽ không nói những lời như thế”, thì rắc rối rồi, vì nó chứng tỏ ngươi chưa hiểu lẽ thật. Có những người nói: “Khi gặp phải những tình huống nhất định, tôi có thể nói những lời như thế, đó là một kiểu tâm tính sinh ra trong một trạng thái nhất định”. Nhận biết được điều này rồi thì coi như ngươi đã không uổng công nghe câu chuyện này. Sau khi nghe câu chuyện, có những người nói: “Đại Bảo là loại người gì vậy? Thậm chí anh ta còn bắt nạt và lừa gạt một đứa con nít. Thật hèn hạ! Tôi sẽ không lừa gạt trẻ con như thế”. Đây chẳng phải là không có hiểu biết thuộc linh sao? Họ chỉ nói về bản thân sự việc, nhưng không hiểu lẽ thật trong câu chuyện đang được thông công. Họ không thể liên hệ tình huống với bản thân mình; đây chính là không có hiểu biết thuộc linh, không có hiểu biết thuộc linh một cách nghiêm trọng. Những người ghi chép lại bài giảng đạo gặp phải vấn đề này. Hễ có điều gì liên quan đến lẽ thật, liền có những người bộc lộ quan điểm của kẻ chẳng tin; hễ liên quan đến lẽ thật, liền có những người không có hiểu biết thuộc linh; hễ liên quan đến lẽ thật, liền có những người trở nên dễ lệch lạc, có những người trở nên cương ngạnh, có những người trở nên tà ác, và có những người trở nên chán ghét lẽ thật. Vậy thì những người ghi chép lại bài giảng đạo có tâm tính gì? Ít nhất thì họ cũng kiêu ngạo và tự đại, tự làm theo ý mình, không hiểu hoặc không tìm kiếm để hiểu. Thậm chí họ còn không hỏi về chuyện đó, cứ thế trực tiếp tách câu chuyện ra khỏi nội dung phía sau. Họ nghĩ: “Giao cho con ghi chép lại những bài giảng này, thì con có quyền đưa ra quyết định này. Con vung rìu một nhát là chặt gọn câu chuyện ra khỏi. Đây chính là cách con sẽ xử lý các bài giảng đạo. Ngài giao cho con mà. Nếu Ngài không thích thì đừng sử dụng con”. Đây chẳng phải là kiêu ngạo và tự đại sao? Họ nghe không hiểu lẽ thật, và cũng không hiểu được lẽ thật. Họ không biết bổn phận của mình là gì, hay họ nên và không nên làm gì – những điều này họ không biết. Những người không có hiểu biết thuộc linh chỉ có thể làm những chuyện không có lý trí, những chuyện vô nhân tính, vô nhân cách. Họ cũng chỉ làm những chuyện vi phạm các nguyên tắc lẽ thật, tự cho mình là thông minh, và không có sự thuận phục. Các bản ghi âm bài giảng đạo của Ta được giao cho họ để ghi chép lại, và bất kể họ có quan điểm hay suy nghĩ gì về cách xử lý, họ cũng không hỏi Ta. Vấn đề này chẳng phải rất nghiêm trọng sao? (Thưa, phải.) Nghiêm trọng đến đâu? (Thưa, nó có tính chất bóp méo lời Đức Chúa Trời.) Nó quả là có chút tính chất này.

Ta kể một câu chuyện, thảo luận một khía cạnh lẽ thật cụ thể, rồi sau đó Ta giảng về các khía cạnh khác. Hai điều này có tương hợp hay không, liệu Ta có cân nhắc về điều này không? Trước tiên, Ta phải cân nhắc điều này, nhưng tại sao Ta lại không nhất quyết rằng hai khía cạnh này phải tương hợp? Ta có biết chuyện đó không? (Thưa, có.) Vậy tại sao nó lại trở thành vấn đề đối với những người ghi chép lại bài giảng đạo? Ta biết câu chuyện Ta đang kể không liên quan đến bài giảng phía sau. Họ có ý thức được điều này không? Không. Thậm chí họ còn chưa suy xét kỹ về việc này. Họ cho rằng: “Ngài được Đức Thánh Linh chỉ dẫn; chỉ cần nghe giống lẽ thật là được. Hôm đó, Ngài kể một câu chuyện, rồi sau đó thảo luận về một nội dung cụ thể. Hai cái này thì liên quan gì đến nhau? Tại sao Ngài lại phán như vậy? Phán xong thì có thể mang đến ích lợi gì chứ? Ngài chẳng biết gì cả. Như thế không được!”. Đầu tiên, Ta muốn phán gì, phán như thế nào, nội dung cụ thể bao gồm những gì – nói Ta nghe, khi quyết định những điều này, Ta có ở trong trạng thái tỉnh táo không? (Thưa, có.) Ta thực sự ở trong trạng thái tỉnh táo, chắc chắn Ta không ở trong trạng thái hồ đồ; tâm trí Ta có mạch tư duy rõ ràng. Nếu người ta không có hiểu biết thuộc linh, không biết cách tìm kiếm lẽ thật, và mù quáng phân tích, mù quáng phân loại, lại còn nghĩ rằng như thế không tệ, thì chẳng phải họ là người Pha-ri-si điển hình sao? Họ chỉ thích nghe lý luận thùng rỗng kêu to, chứ không thích nghe bài giảng thực tế, thiết thực. Kết quả là họ không hiểu ngay cả những lẽ thật nông cạn nhất. Họ không có hiểu biết thuộc linh một cách nghiêm trọng! Không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, con người dễ kiêu ngạo và tự nên công chính, ngày càng to gan vô cùng; họ dám xét đoán bất kỳ chuyện gì, nghĩ rằng họ hiểu hết. Nhân loại bại hoại chính xác là vậy; đây chính là tâm tính của họ. Cả gan làm loạn là chuyện tốt hay chuyện xấu? (Thưa, chuyện xấu.) Cả gan hay nhát gan thực ra không quan trọng; cái quan trọng là trong lòng có chút kính sợ Đức Chúa Trời nào hay không. Sau này, khi các ngươi nghe bản ghi âm bài giảng, hãy chú ý phân định xem có bất kỳ điều mấu chốt nào bị cắt bỏ khỏi bản chép lại hay không. Những kẻ không có hiểu biết thuộc linh này, đôi khi những điều họ làm có thể vô tình gây nhiễu loạn và phá hoại. Họ nói đó không phải là cố ý – nhưng không cố ý có đồng nghĩa với việc tâm tính họ không phải là tâm tính bại hoại không? Nó vẫn là tâm tính bại hoại. Ta nói chuyện này đến đây thôi.

Phần bổ sung:

Những ước mơ của Tiểu Cương

Hôm nay, Ta sẽ bắt đầu bằng cách kể một câu chuyện. Các ngươi có hứng thú nghe kể chuyện không? Các ngươi có thể thu hoạch được đôi chút từ những câu chuyện không? Trong câu chuyện có những việc xảy ra, và trong những việc này có lẽ thật. Một vài tình trạng, sự bộc lộ, ý định và tâm tính bại hoại của những người trong các câu chuyện này thực ra đều tồn tại nơi hết thảy mọi người và có liên quan đến hết thảy mọi người. Nếu ngươi hiểu và có thể nhận ra những thứ này trong các câu chuyện, thì chứng tỏ ngươi có hiểu biết thuộc linh. Có một vài người nói: “Ngài nói con có hiểu biết thuộc linh – chẳng phải có nghĩa là con yêu thích lẽ thật sao?”. Không nhất định là như vậy; đây là hai chuyện khác nhau. Có những người có hiểu biết thuộc linh nhưng không yêu thích lẽ thật. Họ chỉ hiểu lẽ thật là coi như xong, họ không đối chiếu lẽ thật với bản thân, cũng không thực hành lẽ thật. Có những người có hiểu biết thuộc linh, sau khi nghe những câu chuyện, họ phát hiện bản thân cũng có những vấn đề này, rồi họ ngẫm nghĩ cách để bước vào và thay đổi sau này – như vậy thì sẽ đạt được kết quả mong muốn. Vì vậy, hôm nay Ta sẽ kể một câu chuyện. Chủ đề này nhẹ nhàng và mọi người sẽ sẵn lòng lắng nghe. Hai ngày qua, Ta đã ngẫm nghĩ xem câu chuyện nào có thể giúp phần lớn mọi người nghe xong thì có thể có thu hoạch và được gây dựng, còn có thể gây ân tượng sâu sắc hơn nữa về một phương diện của lẽ thật đối với họ, cũng như có thể giúp họ liên hệ với thực tế, và đạt được lợi ích thông qua việc bước vào một phương diện của lẽ thật hoặc chỉnh đốn một loại khía cạnh lệch lạc. Ta quên đặt tên cho câu chuyện đã kể lần trước, nên hôm nay chúng ta sẽ đặt tên cho câu chuyện đó. Các ngươi nghĩ nên gọi là gì? (Thưa, là “Quà tặng đặc biệt”.) Hãy bỏ từ “đặc biệt”, và gọi là “Quà tặng”. Từ “đặc biệt” có vẻ hơi lạ, và mọi người sẽ chú ý vào từ này. Từ “Quà tặng” có ý nghĩa mơ hồ hơn. Vậy, câu chuyện Ta sẽ kể hôm nay là gì? Câu chuyện hôm nay mang tên “Những ước mơ của Tiểu Cương”. “Tiểu” nghĩa là “nhỏ”, các ngươi đều biết rồi, còn “Cương” thì sao? (Thưa, là “Cương vị”.) Đúng vậy. Khi nghe thấy tên này, các ngươi sẽ biết nội dung của câu chuyện và có thể đoán gần như chính xác. Bây giờ, Ta sẽ bắt đầu kể chuyện.

Tiểu Cương là một chàng trai trẻ nhiệt tình, ham học, siêng năng, và khá thông minh. Vì thích học nên cậu đã tìm hiểu một chút về một số công nghệ máy tính khá phổ biến hiện nay, và trong nhà Đức Chúa Trời, cậu dĩ nhiên được giao làm bổn phận trong Nhóm biên tập video. Khi mới tham gia Nhóm biên tập video, Tiểu Cương rất vui và tự hào. Vì cậu còn trẻ và đã nắm vững một số kỹ thuật nhất định, nên cậu cho rằng công tác video là thế mạnh cũng như sở thích của mình, rằng khi làm bổn phận của mình ở đây thì cậu có thể phát huy sở trường của mình, ngoài ra còn tiến bộ trong lĩnh vực này thông qua quá trình học tập liên tục. Hơn nữa, hầu hết những người cậu tiếp xúc ở đây đều trẻ tuổi, và cậu rất thích môi trường ở đây cũng như bổn phận này. Cho nên, mỗi ngày cậu đều bận rộn làm công tác và học tập rất nghiêm túc. Cứ như vậy, Tiểu Cương ngày nào cũng dậy sớm bắt tay làm công tác, có khi đến tận khuya mới nghỉ ngơi. Vì bổn phận của mình mà Tiểu Cương đã trả giá rất nhiều, cũng chịu khổ rất nhiều, tất nhiên cậu cũng học được nhiều kiến thức liên quan đến nghiệp vụ này; cậu cảm thấy mỗi ngày đều rất viên mãn. Tiểu Cương cũng thường xuyên thông công và nhóm họp với anh chị em, cậu cảm thấy sau khi đến đây, cậu đã tiến bộ hơn so với thời tin Đức Chúa Trời ở quê nhà, cảm thấy cậu đã trưởng thành rồi và có thể đảm nhiệm một số công tác. Cậu cảm thấy rất vui và hài lòng. Ban đầu, khi học công nghệ máy tính, cậu hy vọng một ngày nào đó mình có thể làm việc với máy tính, và giờ thì cầu được ước thấy nên cậu rất trân trọng cơ hội này. Sau một thời gian, công tác và cương vị của Tiểu Cương vẫn không thay đổi. Cậu giữ vững cương vị, trách nhiệm và bổn phận của mình, có vẻ trưởng thành hơn trước. Cậu cũng có tiến bộ trong lối vào sự sống, thường xuyên thông công và cầu nguyện-đọc lời Đức Chúa Trời với anh chị em lúc nhóm họp, hứng thú của cậu đối với việc tin Đức Chúa Trời ngày càng mạnh mẽ. Cũng có thể nói rằng đức tin của Tiểu Cương đang tăng lên từng chút một. Cho nên, cậu có một ước mơ mới: “Nếu mình có thể trở thành người hữu ích hơn trong khi làm việc với máy tính thì quá tuyệt vời!”.

Thời gian trôi qua từng ngày và Tiểu Cương vẫn tiếp tục làm bổn phận như vậy. Một lần cậu tình cờ xem một bộ phim và xem xong thì có ấn tượng sâu sắc với nó. Tại sao vậy? Trong phim có một chàng trai tầm tuổi Tiểu Cương. Biểu hiện, diễn xuất, lời nói và cử chỉ của chàng trai này khiến Tiểu Cương ngưỡng mộ, đồng thời cũng có chút đố kỵ. Xem phim đó xong, thỉnh thoảng cậu tưởng tượng: “Thật tuyệt nếu mình là chàng trai trong phim. Ngày nào mình cũng ngồi trước máy tính để làm và tải đủ loại video lên, dù có bận rộn hay mệt mỏi đến đâu, hay có làm việc vất vả đến đâu thì mình vẫn chỉ là người làm việc ở hậu trường. Có ai biết được chúng tôi làm việc vất vả như thế nào? Nếu một ngày mình có thể xuất hiện trên màn ảnh như chàng trai trong phim, để nhiều người có thể thấy và biết đến mình hơn, thì thật tuyệt biết bao!”. Tiểu Cương xem đi xem lại bộ phim này, cũng như tất cả các cảnh quay khác nhau liên quan đến chàng trai đó. Càng xem, cậu càng ngưỡng mộ, trong lòng càng khao khát, mong mỏi trở thành diễn viên. Và thế là ước mơ mới của Tiểu Cương xuất hiện. Ước mơ mới của cậu là gì? “Mình muốn học diễn xuất, phấn đấu đến một ngày trở thành diễn viên có trình độ, xuất hiện trên màn ảnh rộng, có khí chất như chàng trai kia, khiến thêm nhiều người phải ngưỡng mộ và khao khát được như mình”. Từ đó, Tiểu Cương bắt đầu hành động theo ước mơ của mình. Trong thời gian rảnh, Tiểu Cương tìm kiếm trên mạng đủ loại tài liệu liên quan đến diễn xuất. Cậu cũng xem đủ loại phim và chương trình truyền hình, vừa xem vừa học, đồng thời mơ tưởng đến cơ hội trở thành diễn viên. Từng ngày vẫn cứ thế trôi qua, Tiểu Cương vừa học diễn xuất vừa giữ cương vị của mình. Cuối cùng, nhờ sự kiên trì và nỗ lực, Tiểu Cương đã đạt được một số kỹ năng cơ bản về diễn xuất. Cậu đã học được cách bắt chước, học được cách nói và biểu diễn trước đông người, không hề luống cuống trên sân khấu. Sau nhiều lần yêu cầu, cuối cùng cậu cũng có cơ hội: Có một bộ phim cần một chàng trai trẻ đóng vai chính. Qua buổi thử vai, đạo diễn nhận thấy ngoại hình, khí chất và kỹ năng diễn xuất cơ bản của Tiểu Cương đều đạt yêu cầu. Nếu được đào tạo thêm một chút thì cậu sẽ có thể làm được. Sau khi nghe tin này, Tiểu Cương vô cùng vui mừng và tự nghĩ: “Cuối cùng thì mình có thể từ hậu trường bước lên màn ảnh – một ước mơ khác của mình sắp thành hiện thực!”. Sau đó, Tiểu Cương được chuyển đến Nhóm sản xuất phim để làm bổn phận của mình.

Sau khi Tiểu Cương chuyển sang Nhóm sản xuất phim, môi trường công tác mới mang đến cho cậu sự tươi mới và sức sống. Tiểu Cương cảm thấy mỗi ngày trôi qua đều rất hạnh phúc, không còn nặng nề, tẻ nhạt, và hạn chế như trước nữa, bởi vì cậu sống và công tác ở đây, và nhiều thứ cậu tiếp xúc hằng ngày hoàn toàn khác làm việc với máy tính – cậu sống trong một lĩnh vực công tác khác, trong một thế giới khác. Cứ như vậy, Tiểu Cương chú tâm vào công tác sản xuất phim. Mỗi ngày, cậu đều bận rộn diễn xuất, học lời thoại, nghe hướng dẫn của đạo diễn, và nghe anh chị em phân tích cốt truyện. Đối với Tiểu Cương, phần khó nhất là nhập vai, nên cậu ghi nhớ lời thoại hết lần này đến lần khác và liên tục ngẫm nghĩ về vai diễn của mình. Cậu phải học lại tất cả mọi thứ từ cách nói, cách diễn, cách đi đứng, thậm chí cách ngồi. Sau khi liên tục làm công tác phức tạp và đa dạng này trong một thời gian, cuối cùng Tiểu Cương đã nhận ra làm diễn viên khó khăn đến thế nào. Ngày nào cậu cũng phải ghi nhớ những lời thoại giống nhau, có lúc phải học thuộc lòng, nhưng đến khi chính thức diễn thì cậu luôn mắc lỗi và phải làm lại. Cậu thường bị đạo diễn khiển trách vì một động tác hay lời thoại của cậu không đạt yêu cầu. Nếu diễn không tốt nhiều lần liên tiếp, cậu sẽ bị tỉa sửa, sẽ mất mặt, chịu đau khổ, thậm chí còn dẫn đến những cái nhìn khác lạ hoặc sự chế giễu. Đối diện với những điều này, Tiểu Cương có chút nản lòng: “Nếu biết rằng làm diễn viên trên màn ảnh rộng khó khăn đến vậy thì mình đã không đến đây, nhưng giờ đâm lao phải theo lao. Mình đã ở đây, phim chưa xong mà mình rút lui thì không hợp lý, cũng không biết giải trình thế nào. Đây là ước mơ của mình, mình phải biến nó thành hiện thực, nhưng chặng đường phía trước còn bao xa? Liệu mình có thể kiên trì được không?”. Tiểu Cương bắt đầu dao động. Những ngày tiếp theo, Tiểu Cương miễn cưỡng đối phó với công tác và cuộc sống hằng ngày của mình. Mỗi ngày trôi qua càng trở nên khó chịu hơn, nhưng cậu vẫn chịu đựng và buộc mình tiến về phía trước. Có thể hình dung rằng, trong tương lai, Tiểu Cương chắc chắn sẽ gặp vấn đề trong nhiều phương diện. Cậu bắt đầu thực hiện công tác mình đảm nhận một cách miễn cưỡng. Khi đạo diễn bảo cậu làm gì, cậu chỉ nghe xong rồi thôi. Sau đó, sức cậu bao nhiêu thì cậu cố làm bấy nhiêu, nhưng nếu không làm được thì cậu cũng không khắt khe với bản thân. Ngay lúc này, Tiểu Cương đang ở trạng thái nào? Cậu trải qua mỗi ngày rất miễn cưỡng, rất tiêu cực và rất thụ động, không tiếp nhận sự hướng dẫn và giúp đỡ chân thành của đạo diễn hoặc của anh chị em vào trong lòng. Cậu cho rằng: “Tôi chỉ như thế này thôi, không tiến bộ thêm được đâu. Các anh đang ép tôi làm quá khả năng. Quay được thì quay; không quay được thì thôi. Tôi sẽ quay lại Nhóm biên tập video để làm bổn phận”. Cậu nghĩ đến thời làm công tác trong Nhóm biên tập video thật tốt biết bao, ngày ngày đều được ngồi trước máy tính, cảm giác đó rất an nhàn, rất hạnh phúc! Mọi thứ cậu có và toàn bộ thế giới của cậu đều có trong nháy mắt chỉ với một nút trên bàn phím, cậu có mọi thứ mình muốn chỉ bằng cách kích hoạt một hiệu ứng đặc biệt. Thế giới ảo đó đầy hấp dẫn đối với Tiểu Cương. Ngay lúc này, Tiểu Cương càng thêm nhớ quá khứ và khoảng thời gian cậu làm bổn phận của mình trong Nhóm biên tập video. Cứ thế, ngày tháng trôi qua, rồi vào một đêm nọ, Tiểu Cương không ngủ được. Tại sao cậu không ngủ được? Cậu tự nhủ: “Mình có tư chất phù hợp để làm diễn viên không? Nếu không phù hợp, thì mình nên quay lại Nhóm biên tập video ngay. Bổn phận của Nhóm biên tập video thì nhẹ nhàng, mình ngồi vào máy tính là thoắt cái đã hết nửa ngày, không phải tự nấu ăn. Bổn phận đó không tốn sức, bấm bàn phím một cái là gì cũng có, chỉ có những điều không tưởng tượng nổi, chứ không có gì là không thể làm nổi. Còn bây giờ làm diễn viên thì mình phải học lời thoại mỗi ngày, lời thoại cũng lặp đi lặp lại. Nhưng diễn xuất của mình vẫn chưa đạt yêu cầu, đạo diễn thường mắng mình, anh chị em thường chỉ trích mình. Làm bổn phận này quá vất vả, công tác trong Nhóm biên tập video tốt hơn nhiều!”. Càng nghĩ thì cậu càng hoài niệm. Cậu trằn trọc nửa đêm, không ngủ được, qua nửa đêm mới chìm vào giấc ngủ vì quá mệt và không thể thức được nữa. Sáng hôm sau, vừa mở mắt, điều đầu tiên cậu nghĩ là: “Rốt cuộc, mình có nên rời đi không? Mình có nên quay lại Nhóm biên tập video không? Nếu ở lại đây, mình không biết bộ phim này quay xong có đạt tiêu chuẩn không, và ai biết được mình sẽ phải chịu bao nhiêu đau khổ trong suốt thời gian này. Mình không có tố chất phù hợp để làm diễn viên! Lúc đó, chỉ vì chút bốc đồng và suy nghĩ nông nổi mà mình muốn trở thành diễn viên, mình đúng là hồ đồ! Xem đi, sai một li đi một dặm, mình cũng chẳng có ai để kể về nỗi khổ này. Nhìn vào tình hình hiện tại, có vẻ như không dễ để mình trở thành một diễn viên giỏi, nên mình nên rút lui càng sớm càng tốt. Mình sẽ nói ngay với đạo diễn rằng mình muốn quay lại để không làm chậm trễ chuyện của mọi người”. Sau đó, Tiểu Cương lấy hết can đảm để nói với đạo diễn: “Anh xem, tôi không có tư chất phù hợp để làm diễn viên, nhưng các anh cứ phải chọn tôi – tại sao các anh không để tôi quay lại Nhóm biên tập video?”. Đạo diễn nói: “Không được, chúng ta đã quay được nửa bộ phim này. Nếu đổi diễn viên, chẳng phải sẽ làm trì hoãn công tác của chúng ta sao?”. Tiểu Cương khăng khăng và nói: “Thì sao? Anh muốn kiếm ai thay tôi thì cứ thay, không liên quan gì đến tôi. Dù thế nào đi nữa, anh vẫn phải để tôi đi. Nếu không, tôi sẽ không cố gắng diễn xuất nữa!”. Đạo diễn thấy Tiểu Cương kiên quyết rời đi và họ sẽ không thể hoàn thành việc quay phim, nên đã để cậu rời đi.

Tiểu Cương cuối cùng đã rời Nhóm sản xuất phim để trở lại Nhóm biên tập video. Cậu trở lại nơi công tác trước đây mà mình hiểu rất rõ. Cậu chạm vào ghế, máy tính của mình và cảm thấy thân thuộc. Cậu thích nơi này hơn. Cậu đi đến và ngồi xuống; chiếc ghế mềm mại và máy tính đã sẵn sàng. “Làm video thì tốt hơn, bổn phận này không mệt mỏi. Làm công tác ở hậu trường có lợi thế của nó, có mắc lỗi cũng không ai biết, không ai chỉ trích, chỉ cần sửa ngay là xong”. Cuối cùng, Tiểu Cương đã nhận ra lợi thế của việc trở thành người làm công tác hậu trường. Tâm trạng của cậu lúc này như thế nào? Cậu cảm thấy được an ủi và hết sức vui mừng, nghĩ rằng: “Mình đã chọn đúng. Đức Chúa Trời đã cho mình cơ hội và cho phép mình quay lại cương vị này. Đây là vinh hạnh của mình!”. Cậu vui mừng vì lần này đã đưa ra lựa chọn đúng đắn. Những ngày tiếp theo, Tiểu Cương vẫn tuân thủ lịch trình công tác hằng ngày của Nhóm biên tập video. Trong thời gian này không có chuyện gì đặc biệt xảy ra, Tiểu Cương cứ sống cuộc sống bình thường như vậy mỗi ngày.

Một ngày nọ, khi đang làm video, Tiểu Cương chợt thấy trong một tiết mục vũ đạo có một chàng trai biểu diễn rất tốt, hài hước và có khí chất. Cậu nghĩ: “Cậu ấy tầm tuổi mình; tại sao cậu ấy có thể nhảy còn mình thì không?”. Thế là, Tiểu Cương lại động lòng. Cậu nảy sinh ý nghĩ gì? (Thưa, là vũ đạo.) Tiểu Cương nảy sinh ý nghĩ học vũ đạo. Cậu xem đi xem lại video này và màn trình diễn của chàng trai. Sau đó, cậu hỏi thăm xem học nhảy ở đâu, học như thế nào, vũ đạo cơ bản nhất là gì. Trong khi làm việc, cậu cũng thường xuyên tìm kiếm trên máy tính các tài liệu giảng dạy, video và tư liệu học tập liên quan đến vũ đạo. Tất nhiên, trong quá trình tìm kiếm, Tiểu Cương không chỉ nhìn mà còn học bằng cách thực hành. Để học vũ đạo, Tiểu Cương ngày ngày thức khuya dậy sớm. Dựa trên nền tảng rất hạn chế của mình là nhảy thể thao, cậu bắt đầu chính thức học múa dân gian, ngày ngày dậy sớm để co giãn và uốn cong lưng. Trong quá trình học, Tiểu Cương phải chịu rất nhiều đau đớn về thể xác, cũng dành rất nhiều thời gian, cuối cùng cũng có được một vài thu hoạch nhỏ. Tiểu Cương cảm thấy cơ hội của mình cuối cùng đã đến, rằng cậu có thể nhảy trên sân khấu vì cảm thấy cơ thể mình đã linh hoạt hơn, cũng đã biết một số động tác vũ đạo rồi. Ngoài ra, thông qua việc bắt chước và học tập, cậu đã khá thành thạo một số nhịp điệu khi chơi nhạc. Với tình hình như vậy, Tiểu Cương cảm thấy đã đến lúc đề xuất với hội thánh điều chỉnh bổn phận của cậu. Một lần nữa, sau nhiều lần yêu cầu, cuối cùng Tiểu Cương cũng cầu được ước thấy và gia nhập Nhóm vũ đạo để trở thành một vũ công. Từ đó trở đi, giống như những vũ công khác, Tiểu Cương dậy sớm để tập luyện buổi sáng và tập duyệt tiết mục, cũng thường xuyên tham gia các buổi nhóm họp, thông công, cũng như phân tích và lên kế hoạch tiết mục với những người này. Ngày nào cậu cũng làm công tác này, cuối ngày thì mệt mỏi đến mức cả lưng và chân đau nhức, ngày nào cũng vậy, dù mưa hay nắng. Lúc mới bắt đầu, Tiểu Cương rất tò mò về vũ đạo, nhưng khi đã hiểu và quen thuộc với cuộc sống và nhiều phương diện khác nhau của một vũ công, Tiểu Cương cảm thấy chuyện nhảy múa chỉ có vậy, cứ lặp đi lặp lại một động tác, có lúc bị trẹo mắt cá chân, có lúc bị đau lưng dưới, và có nguy cơ bị thương. Khi nhảy, cậu nghĩ: “Ôi không, làm vũ công cũng khó lắm. Ngày nào mình cũng rất mệt mỏi và đổ mồ hôi khắp người. Việc này chẳng dễ dàng chút nào, còn khó hơn công tác làm video! Không được, mình phải kiên trì!”. Lần này, cậu không dễ dàng bỏ cuộc, vẫn kiên trì cho tới khi cuối cùng cũng đến được buổi tập duyệt cho tiết mục vũ đạo, sau đó tiết mục của họ sẽ được gửi đi để xét duyệt. Đến ngày xét duyệt, tâm trạng của Tiểu Cương như thế nào? Cậu quá phấn khích và tràn đầy mong đợi vào thành quả lao động của mình đến nỗi không ăn trưa. Chẳng phải cậu đã bỏ ra nhiều công sức sao? Cuối cùng, khi kết quả được công bố, tiết mục của họ không qua được vòng xét duyệt đầu tiên. Với Tiểu Cương, tin này như sét đánh ngang tai, và tâm trạng của cậu xuống đến mức tồi tệ. Cậu ngồi sụp xuống ghế: “Chúng tôi đã dành rất nhiều thời gian cho tiết mục này, còn anh nói một câu là gạt đi ngay? Anh có biết chút gì về vũ đạo không? Chúng tôi nhảy múa có nguyên tắc, ai cũng đã trả giá, anh muốn gạt đi là gạt đi sao?”. Sau đó, cậu nghĩ: “Quyền quyết định nằm trong tay họ, nếu họ không duyệt thì chúng ta phải sửa đổi lần nữa. Biết nói lý lẽ với ai chứ? Đâu còn cách nào khác, làm lại thôi”. Vào ngày tiết mục của họ bị từ chối ở vòng xét duyệt đầu tiên, Tiểu Cương không ăn trưa, đến tối cũng chỉ miễn cưỡng ăn một chút. Các ngươi nói xem, tối đó cậu ấy có ngủ được không? (Thưa, không ngủ được.) Cậu lại không ngủ được, trong lòng cứ rối bời: “Tại sao mình đi đâu cũng không được thuận lợi? Đức Chúa Trời không ban phúc cho mình. Tiết mục mất hai tháng luyện tập mà không vượt qua vòng xét duyệt đầu tiên. Mình không biết khi nào tiết mục sẽ vượt qua vòng đánh giá thứ hai, cũng không biết phải mất bao lâu mới được xét duyệt. Khi nào mình mới có thể đứng trên sân khấu và chính thức biểu diễn đây? Mình không còn hy vọng được xuất đầu lộ diện nữa rồi!”. Cậu cứ nghĩ đi nghĩ lại, nghĩ tới nghĩ lui, và cho rằng: “Công tác làm video vẫn tốt hơn. Mình chỉ cần đến đó và ngồi xuống, gõ bàn phím một cái là hoa cỏ, cây cối đều xuất hiện. Muốn chim hót có chim hót, muốn ngựa phi có ngựa phi, mình muốn gì cũng có. Nhưng nhảy múa thì phải vượt qua vòng xét duyệt, ngày nào cũng mệt mỏi đến mức bốc mùi mồ hôi. Có lúc mình mệt đến nỗi ăn không ngon, ngủ không ngon, thế mà tiết mục cũng chẳng vượt qua vòng xét duyệt đầu tiên. Bổn phận này cũng không dễ. Chẳng phải mình quay lại công tác trong Nhóm biên tập video thì sẽ tốt hơn sao?”. Cậu nghĩ đi nghĩ lại: “Như vậy thật chẳng ra gì, tại sao mình lại dao động? Mình không nên nghĩ như vậy, ngủ thôi!”. Cậu ngủ thiếp đi trong sự bối rối. Hôm sau, cậu tỉnh dậy và gần như đã quên hết chuyện đó, nên cậu tiếp tục nhảy múa và tập duyệt. Khi đến ngày xét duyệt vòng hai, Tiểu Cương lại lo lắng. Cậu hỏi: “Liệu tiết mục của chúng ta có thể vượt qua lần xét duyệt này không?”. Mọi người nói: “Ai biết được? Nếu không được duyệt, thì chứng tỏ tiết mục của chúng ta không đủ tốt, và chúng ta sẽ sửa đổi. Nếu được duyệt, chúng ta sẽ chính thức biểu diễn và quay phim. Hãy để mọi thứ thuận theo tự nhiên và tiếp cận chuyện này một cách đúng đắn”. Tiểu Cương nói: “Không được, các anh có thể tiếp cận chuyện này một cách đúng đắn, còn tôi không có thời gian chờ đợi”. Cuối cùng, kết quả của vòng hai được công bố, và tiết mục của họ lại không được duyệt. Tiểu Cương nói: “Hừ, tôi biết mà! Không dễ gì vượt trội trong ngành vũ đạo! Chúng ta tuổi thì trẻ, người thì đẹp, lại biết nhảy múa, đây chẳng phải sở trường của chúng ta sao? Những người xét duyệt đó đố kỵ với chúng ta vì họ không biết nhảy múa, nên đã không duyệt cho chúng ta. Xem ra sau này cũng chẳng bao giờ duyệt cho đâu. Chuyện nhảy múa thật không dễ dàng, tôi sẽ quay về”. Đêm hôm đó, Tiểu Cương ngủ rất ngon vì cậu đã hạ quyết tâm rồi, ngày mai sẽ thu dọn đồ đạc, rời đi và nói lời tạm biệt.

Dù thế nào đi nữa, cuối cùng Tiểu Cương lại cầu được ước thấy và trở lại Nhóm biên tập video, lại ngồi trước máy tính. Nhớ lại cảm giác quen thuộc trong quá khứ, cậu nghĩ rằng: “Mình bẩm sinh có tố chất để làm việc hậu trường. Mình chỉ có thể là người hùng vô danh, đời này không có duyên lên sân khấu hoặc trở nên nổi tiếng rồi. Mình sẽ ngoan ngoãn tiếp tục gõ bàn phím. Đây là bổn phận của mình, nên mình cứ làm công tác này thôi”. Cậu đã ổn định sau nhiều lần trăn trở. Ước mơ thứ hai của cậu đã tan vỡ và không thành hiện thực. Các ngươi nói xem, Tiểu Cương là một người “siêng năng và ham học”, cũng là người “nhiệt tình và có ý chí”, liệu cậu có dễ dàng cam tâm ngồi trước máy tính và làm công tác nhàm chán như vậy không? Không, khả năng cao là cậu sẽ không cam tâm làm vậy.

Gần đây, Tiểu Cương lại đam mê ca hát. Làm sao cậu có thể thay đổi nhanh đến vậy? Tại sao cậu đam mê điều này, tại sao cậu không thể rời xa sân khấu? Có điều gì đó ẩn giấu trong lòng cậu. Lần này, cậu không vội vàng xin đổi bổn phận, mà chỉ ngày ngày tìm kiếm tài liệu, luyện thanh nhạc và luyện hát. Cậu thường xuyên luyện tập đến khản giọng, có lúc nói không thành tiếng. Mặc dù vậy, Tiểu Cương vẫn không nản lòng, vì lần này cậu đã thay đổi chiến lược. Cậu nói: “Lần này, mình không thể thay đổi bổn phận khi chưa hiểu rõ tình hình thực tế. Mình nhất định phải cẩn thận, nếu không sẽ bị mọi người chế giễu. Mình cứ luôn thay đổi bổn phận, thì họ sẽ nhìn nhận mình thế nào? Họ sẽ xem thường mình. Lần này, mình phải tiếp tục luyện tập cho đến khi cảm thấy mình có thể trở thành ngôi sao ca nhạc, giỏi như các ca sĩ trong hội thánh, khi đó mình sẽ đăng ký vào Nhóm Thánh ca”. Cậu nỗ lực luyện tập như vậy mỗi ngày, cả lúc rảnh rỗi và khi làm việc, luyện tập không biết mệt mỏi. Một ngày nọ, khi Tiểu Cương đang làm công tác, nhóm trưởng đột nhiên nói với cậu: “Tiểu Cương, cậu đang làm gì vậy? Nếu cậu làm qua loa chiếu lệ như thế này một lần nữa và không cố gắng làm việc thì sẽ không được làm bổn phận này nữa”. Tiểu Cương nói: “Tôi đâu có như vậy”. Sau đó, mọi người vây quanh và nói: “Tiểu Cương, có chuyện gì? Ồ, cậu đã phạm sai lầm lớn như vậy! Bề trên đã sửa chữa sai lầm này nhiều lần rồi, sao cậu vẫn có thể mắc lỗi thế? Đó là do cậu luyện hát mỗi ngày và không chuyên tâm biên tập video nên cứ mắc lỗi và làm chậm trễ nhiều việc lớn. Nếu cậu mắc lỗi này một lần nữa, hội thánh sẽ khai trừ cậu, không còn muốn cậu nữa. Tất cả chúng tôi sẽ bỏ cậu!”. Tiểu Cương một mực giải thích: “Tôi không cố ý mà, từ giờ tôi sẽ cẩn thận, hãy cho tôi một cơ hội nữa. Đừng khai trừ tôi, tôi xin các anh đừng khai trừ tôi! Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy cứu con!”. Khi hét lên, cậu cảm thấy có một bàn tay lớn vỗ vai mình: “Tiểu Cương, tỉnh dậy! Tỉnh dậy đi, Tiểu Cương!”. Chuyện gì đang xảy ra vậy? (Thưa, cậu ấy đang mơ.) Cậu đang mơ. Cậu nhắm mắt và mơ hồ, hai tay cậu đưa ra cào cấu trong không trung. Mọi người tự hỏi chuyện gì đã xảy ra, rồi họ thấy Tiểu Cương ngủ thiếp đi trên bàn phím. Một người anh em vỗ vai cậu, và sau khi đẩy vài lần thì cuối cùng Tiểu Cương cũng tỉnh dậy. Khi tỉnh dậy, cậu nói: “Ôi, sợ quá, tôi suýt nữa bị khai trừ”. “Vì chuyện gì chứ?”. Tiểu Cương nghĩ lại và nhận ra rằng chẳng có chuyện gì xảy ra. Hóa ra đó chỉ là một giấc mơ, và cậu đã bị giấc mơ này dọa sợ đến mức tỉnh giấc. Câu chuyện đã kết thúc, đây chính là “Những ước mơ của Tiểu Cương”.

Câu chuyện này nói về vấn đề gì? Ước mơ và hiện thực thường xung đột với nhau. Nhiều khi, mọi người cho rằng ước mơ của mình là chính đáng, nhưng họ không biết rằng ước mơ và hiện thực hoàn toàn không giống nhau. Ước mơ chỉ là suy nghĩ viển vông, chỉ là hứng thú nhất thời của ngươi. Nhiều khi, sở thích, dã tâm, và dục vọng của con người trở thành mục tiêu mưu cầu của họ. Ước mơ của con người hoàn toàn không tương hợp với hiện thực. Nếu có quá nhiều ước mơ, con người thường mắc phải những sai lầm nào? Họ sẽ lơ là công tác trước mắt mà họ phải làm tại thời điểm đó. Họ sẽ phớt lờ hiện thực, và gạt sang một bên những bổn phận mà họ phải làm, những công tác mà họ phải làm tốt, cũng như những nghĩa vụ và trách nhiệm mà họ phải làm tròn lúc đó. Họ sẽ không để tâm đến những điều này, mà chỉ tiếp tục theo đuổi ước mơ của mình, liên tục bôn ba vã nỗ lực để hiện thực hóa chúng, và làm nhiều chuyện vô nghĩa. Làm như vậy, họ không những không làm tốt bổn phận của mình mà còn có thể làm chậm trễ và nhiễu loạn công tác của hội thánh. Nhiều người không hiểu lẽ thật, cũng không mưu cầu lẽ thật. Họ xem việc làm bổn phận là gì? Họ xem đó là một công việc, một sở thích hoặc một khoản đầu tư vào sở thích, chứ không xem nó như một sứ mạng hoặc nhiệm vụ mà Đức Chúa Trời giao phó, hoặc trách nhiệm mà họ phải hoàn thành. Họ càng không mưu cầu hiểu lẽ thật hay tâm ý của Đức Chúa Trời trong quá trình làm bổn phận của mình để có thể làm tốt bổn phận và hoàn thành sự uỷ thác của Đức Chúa Trời. Do đó, trong quá trình làm bổn phận, có vài người chịu khổ một chút là đã không còn sẵn lòng và muốn chạy trốn. Khi gặp chút khó khăn hoặc trở ngại, họ sẽ rút lui, và muốn chạy trốn một lần nữa. Họ không tìm kiếm lẽ thật, chỉ nghĩ đến việc chạy trốn. Giống như con rùa rụt đầu, hễ có chuyện gì liền ẩn mình trong mai, đợi đến khi mọi thứ ổn thỏa mới ló đầu ra. Dạng người như vậy có rất nhiều. Đặc biệt, có một vài người khi được giao phụ trách một công tác nào đó, họ không suy ngẫm làm sao để hết mực trung thành, làm sao để làm tốt bổn phận này và công tác này. Thay vào đó, họ ngẫm nghĩ cách đùn đẩy trách nhiệm, cách tránh bị tỉa sửa, cách tránh phải chịu trách nhiệm và cách thoát ra mà không hề hấn gì khi xảy ra vấn đề hoặc sai sót. Trước tiên, họ suy xét đường lùi cho mình, suy xét cách thỏa mãn sở thích và hứng thú của bản thân, chứ không suy xét cách làm tốt bổn phận và thể hiện lòng trung thành. Những người như vậy có thể đạt được lẽ thật không? Họ không dốc công sức vì lẽ thật, và họ không thực hành lẽ thật trong khi làm bổn phận. Họ là loại người đứng núi này trông núi nọ. Hôm nay họ muốn làm việc này, ngày mai họ muốn làm việc kia, họ thấy bổn phận của ai cũng tốt hơn và nhẹ nhàng hơn bổn phận của mình. Tuy nhiên, họ không dốc công sức vào lẽ thật. Họ không ngẫm nghĩ xem những cách nghĩ của mình có vấn đề gì, cũng không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề. Họ luôn chú trọng đến việc khi nào ước mơ của mình sẽ thành hiện thực, ai được xuất đầu lộ diện, ai được Bề trên khen ngợi, ai làm công tác mà không bị tỉa sửa và được đề bạt. Trong lòng họ chứa đầy những chuyện này. Các ngươi nói xem, những người luôn ngẫm nghĩ về những chuyện này thì có thể đạt đến làm bổn phận đạt tiêu chuẩn không? Không bao giờ đạt đến được. Vậy, người làm bổn phận theo cách này là loại người nào? Có phải là người mưu cầu lẽ thật không? Trước hết, có một điều chắc chắn: Những người này không mưu cầu lẽ thật. Họ mưu cầu hưởng chút phúc lành, trở nên nổi tiếng, và nở mày nở mặt trong nhà Đức Chúa Trời, giống như họ vẫn làm trong xã hội. Về thực chất, họ là loại người nào? Họ là kẻ chẳng tin. Kẻ chẳng tin làm bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời giống như làm công tác làm ở thế giới bên ngoài. Họ xem trọng việc ai được đề bạt, ai trở thành trưởng nhóm, ai trở thành lãnh đạo hội thánh, ai được mọi người khen ngợi về công tác của mình, ai được đề cao và đề cử. Họ xem trọng những điều này. Giống như trong một công ty, mọi người xem trọng những chuyện như ai được thăng chức, ai được tăng lương, ai được lãnh đạo khen ngợi, ai thân thiết với lãnh đạo. Nếu họ cũng mưu cầu những điều này trong nhà của Đức Chúa Trời, suốt ngày chỉ xem trọng những điều này, thì chẳng phải họ cũng giống những kẻ chẳng tin sao? Về thực chất, họ là người ngoại đạo, là kẻ chẳng tin điển hình. Bất kể làm bổn phận gì, họ cũng chỉ đem sức lực phục vụ và làm một cách qua loa chiếu lệ. Cho dù có nghe bao nhiêu bài giảng đạo, họ vẫn không tiếp nhận lẽ thật, càng không thực hành lẽ thật. Họ đã tin vào Đức Chúa Trời nhiều năm mà chẳng có chút thay đổi nào, dù họ làm bổn phận bao nhiêu năm mà vẫn không thể trung thành. Họ không có đức tin chân thật vào Đức Chúa Trời, không có lòng trung thành. Họ chính là kẻ chẳng tin.

Có một vài người sợ gánh trách nhiệm trong khi làm bổn phận. Nếu hội thánh giao cho họ một công tác để làm, trước tiên họ sẽ cân nhắc xem công tác đó có yêu cầu họ phải gánh trách nhiệm hay không, và nếu có, họ sẽ không nhận công tác đó. Điều kiện của họ để làm một bổn phận, thứ nhất, đó phải là một công tác nhàn rỗi; thứ hai, công tác đó không bận rộn hay mệt mỏi; và thứ ba, bất kể làm gì cũng không phải gánh bất kỳ trách nhiệm nào. Dạng bổn phận như vậy, họ mới chịu đảm nhận. Đây là loại người gì? Đây chẳng phải là người láu cá, giả dối sao? Một chút trách nhiệm, họ cũng không muốn gánh vác. Lá cây rơi xuống mà họ sợ bể đầu. Một người như thế này có thể làm bổn phận gì? Họ có thể có ích gì trong nhà Đức Chúa Trời? Công tác của nhà Đức Chúa Trời liên quan đến công tác chiến đấu với Sa-tan, cũng như việc mở rộng phúc âm của vương quốc. Có bổn phận nào không đòi hỏi trách nhiệm chứ? Các ngươi nói xem, làm lãnh đạo thì có trách nhiệm không? Chẳng phải trách nhiệm của họ càng lớn hơn, và chẳng phải họ càng phải chịu trách nhiệm sao? Ngươi rao truyền phúc âm, làm chứng, làm video, v.v., bất kể là công tác nào, chỉ cần có liên quan đến các nguyên tắc lẽ thật thì đều có trách nhiệm. Nếu ngươi làm bổn phận một cách vô nguyên tắc thì sẽ ảnh hưởng đến công tác của nhà Đức Chúa Trời, nếu sợ gánh trách nhiệm thì ngươi không thể làm bất kỳ bổn phận nào. Sợ gánh trách nhiệm khi làm bổn phận là người ta hèn nhát, hay tâm tính của họ có vấn đề? Ngươi phải biết phân định chuyện này. Thực ra đây không phải là vấn đề hèn nhát. Nếu người đó mưu cầu tiền tài hoặc chuyện gì đó có lợi cho mình, thì dũng khí của họ sẽ lớn đến thế nào? Hiểm nguy nào họ cũng dám chịu. Nhưng khi làm việc cho hội thánh, cho nhà Đức Chúa Trời, họ lại không chấp nhận chút hiểm nguy nào. Những người như vậy thật ích kỷ và đê tiện, là kẻ gian xảo nhất. Hễ ai không gánh trách nhiệm trong khi làm bổn phận đều không có chút lòng thành nào với Đức Chúa Trời, lòng trung thành lại càng khỏi nói đến. Dạng người nào dám gánh trách nhiệm? Dạng người nào dám gánh trọng trách nặng nề? Chính là người dẫn đầu và dũng cảm tiến tới vào thời điểm quan trọng nhất trong công tác của nhà Đức Chúa Trời, người không ngại gánh trọng trách nặng nề và không ngại gian khổ dữ dội khi họ nhìn ra được công tác quan trọng và chính yếu nhất. Đó mới là người trung thành với Đức Chúa Trời, chiến binh tinh nhuệ của Đấng Christ. Có phải tất cả những người sợ gánh vác trách nhiệm trong bổn phận của mình làm như vậy bởi vì họ không hiểu lẽ thật không? Không, đây là vấn đề về nhân tính. Họ không có tinh thần chính nghĩa, không có tinh thần trách nhiệm, họ là những người ích kỷ và đê tiện, không phải là người thật lòng tin Đức Chúa Trời, và họ không tiếp nhận lẽ thật chút nào. Vì những nguyên nhân này mà họ không thể được cứu rỗi. Những người tin Đức Chúa Trời phải trả giá đắt để đạt được lẽ thật và họ sẽ gặp rất nhiều trở ngại khi thực hành lẽ thật. Họ phải vứt bỏ mọi thứ, từ bỏ lợi ích của xác thịt, và chịu một số đau khổ. Chỉ khi đó họ mới có thể đưa lẽ thật vào thực hành. Như vậy thì, một người sợ gánh trách nhiệm có thể đưa thực hành lẽ thật không? Chắc chắn họ không thể thực hành lẽ thật, chuyện đạt được lẽ thật càng khỏi cần nói đến. Vì sợ thực hành lẽ thật, sợ làm tổn hại đến lợi ích của mình, sợ bị sỉ nhục, bị phỉ báng và xét đoán, nên họ không dám thực hành lẽ thật. Hậu quả là họ không thể đạt được lẽ thật, và cho dù đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, họ cũng không thể đạt được sự cứu rỗi của Ngài. Những người có thể làm bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời phải là những người mang gánh nặng đối với công tác của hội thánh, những người có trách nhiệm, những người có thể giữ vững các nguyên tắc lẽ thật, những người có thể chịu khổ và trả giá. Nếu người ta thiếu đi những điều này thì họ không thích hợp để làm bổn phận, cũng không có đủ các điều kiện để làm bổn phận. Có nhiều người sợ gánh trách nhiệm trong khi làm bổn phận. Việc họ sợ trách nhiệm có ba biểu hiện chính. Biểu hiện thứ nhất là họ chọn những bổn phận không yêu cầu phải gánh trách nhiệm. Nếu lãnh đạo hội thánh sắp xếp cho họ làm một bổn phận, trước tiên họ sẽ hỏi xem làm bổn phận này thì có phải gánh trách nhiệm hay không: nếu có thì họ không nhận. Nếu bổn phận đó không yêu cầu họ gánh trách nhiệm và có trách nhiệm thì họ miễn cưỡng chấp nhận, nhưng vẫn phải xem công tác có mệt mỏi hay lao tâm không, và dù miễn cưỡng chấp nhận bổn phận, họ vẫn không có ý định làm tốt bổn phận đó, lại còn qua loa chiếu lệ. Thanh nhàn chứ không phải lao động, và không để xác thịt phải chịu khổ – đây là nguyên tắc của họ. Biểu hiện thứ hai là khi khó khăn ập đến hoặc họ gặp một vấn đề gì, phương sách đầu tiên của họ là báo cáo với lãnh đạo, nhờ lãnh đạo xử lý và giải quyết, với hy vọng bản thân họ có thể vẫn được nhàn nhã. Họ không quan tâm, không để ý xem lãnh đạo giải quyết vấn đề thế nào, chỉ cần bản thân họ không phải gánh trách nhiệm là được. Làm bổn phận như vậy có phải là trung thành với Đức Chúa Trời không? Làm như vậy gọi là đùn đẩy trách nhiệm, lơ là chức trách, giở trò láu cá. Đây chỉ là nói suông, chứ không làm việc thật. Họ tự nhủ: “Nếu mình phải xử lý việc này rồi cuối cùng mắc sai lầm thì biết làm thế nào? Đến lúc truy cứu trách nhiệm, chẳng phải mình sẽ bị xử lý hay sao? Chẳng phải trách nhiệm sẽ đổ lên mình đầu tiên sao?”. Đây là điều họ lo lắng. Nhưng ngươi có tin rằng Đức Chúa Trời dò xét hết thảy không? Ai cũng mắc sai lầm. Nếu người ta có ý định đúng nhưng thiếu kinh nghiệm và chưa từng xử lý chuyện như thế, nhưng họ đã làm hết sức mình, thì Đức Chúa Trời có thể nhìn thấy như vậy. Ngươi phải tin rằng Đức Chúa Trời dò xét lòng người và dò xét hết thảy. Nếu ngay cả điều này mà còn không tin, thì chẳng phải đó là một kẻ chẳng tin sao? Một người như vậy làm bổn phận thì có ý nghĩa gì chứ? Họ có làm bổn phận này hay không cũng chẳng sao, phải không? Họ sợ gánh trách nhiệm, họ trốn tránh trách nhiệm, gặp chuyện gì cũng không tự nghĩ cách xử lý vấn đề ngay lập tức, mà việc đầu tiên là gọi điện thoại cho lãnh đạo trước, thông báo cho lãnh đạo trước. Đương nhiên, có những người thông báo cho lãnh đạo, đồng thời bản thân họ cũng xử lý vấn đề, nhưng có những người lại không làm như vậy. Đầu tiên họ gọi điện thoại cho lãnh đạo trước, gọi điện thoại xong thì chờ đợi một cách bị động, chờ đợi chỉ thị, lãnh đạo chỉ thị một bước thì họ làm một bước, lãnh đạo nói một chút thì họ làm một chút, lãnh đạo không nói, không chỉ thị thì họ sẽ không làm, cứ trì hoãn như thế. Phải có người thúc giục, giám sát thì họ mới làm chút công tác. Ngươi nói xem người như vậy là đang làm bổn phận sao? Cho dù là đem sức lực phục vụ, họ cũng không có lòng trung thành! Người sợ gánh trách nhiệm khi làm bổn phận còn có một biểu hiện nữa. Có những người khi làm bổn phận thì chỉ làm chút việc bề ngoài, đơn giản, công tác không đòi hỏi phải gánh trách nhiệm. Những việc có khó khăn và phải gánh trách nhiệm, thì họ đẩy cho người khác, nếu xuất hiện vấn đề thì họ đùn đẩy trách nhiệm lên người khác, còn bản thân họ thì không liên quan chút gì. Khi các lãnh đạo hội thánh thấy họ thiếu trách nhiệm, thì kiên nhẫn giúp đỡ hoặc tỉa sửa họ, để họ có thể có trách nhiệm. Nhưng họ vẫn không muốn gánh trách nhiệm, trong lòng nghĩ rằng: “Bổn phận này thật khó làm. Hễ có chuyện thì mình phải gánh trách nhiệm, thậm chí còn có thể bị thanh trừ và đào thải, như vậy thì coi như mình tiêu tùng rồi”. Đây là loại thái độ gì? Làm bổn phận mà không có chút tinh thần trách nhiệm nào thì làm sao có thể làm tốt bổn phận được? Những người không thật lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời thì không thể làm tốt bất kỳ bổn phận nào, và những người sợ gánh trách nhiệm mà làm bổn phận thì chỉ làm chậm trễ mọi việc. Những người như vậy không đáng tin cậy, không xứng để giao phó gì; họ chỉ làm bổn phận để kiếm ăn. Những “kẻ ăn xin” như thế này có nên bị đào thải không? Nên bị đào thải. Nhà Đức Chúa Trời không muốn những người như vậy. Đây là ba biểu hiện của người sợ gánh vác trách nhiệm. Hễ là người sợ gánh vác trách nhiệm trong bổn phận thì thậm chí không thể đạt đến cấp độ của một người phục vụ trung thành, và không xứng để làm bổn phận. Một số người bị đào thải vì loại thái độ này đối với bổn phận của họ. Ngay cả bây giờ, họ có thể cũng không biết lý do và vẫn phàn nàn, nói rằng: “Mình đã làm bổn phận của mình với nhiệt huyết cháy bỏng, vậy tại sao họ lại lạnh lùng ném mình ra ngoài như vậy?”. Đến tận bây giờ, họ cũng không hiểu. Về lý do bị đào thải, những người không hiểu lẽ thật có thể cả đời không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Họ nói bằng lập luận của riêng mình, một mực giảo biện, cảm thấy rằng: “Con người tự bảo vệ mình là bản năng và họ nên làm như vậy. Ai lại không nên bảo vệ cho mình một chút chứ? Ai lại không nên nghĩ về bản thân một chút chứ? Ai lại không chừa đường lùi cho mình chứ?”. Hễ có chuyện là ngươi luôn bảo vệ bản thân, luôn có biện pháp dự phòng, luôn chừa đường lùi cho mình, thì đó có phải là thực hành lẽ thật không? Đây không phải là thực hành lẽ thật – đây là giở trò láu cá. Bây giờ ngươi đang làm bổn phận của mình trong nhà Đức Chúa Trời, nguyên tắc đầu tiên khi làm bổn phận là gì? Đó là trước tiên ngươi phải làm bằng cả tấm lòng, làm hết sức mình, đạt đến bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Như vậy mới là nguyên tắc lẽ thật, một nguyên tắc mà ngươi nên đưa vào thực hành. Có biện pháp dự phòng và chừa đường lùi để bảo vệ bản thân chính là nguyên tắc thực hành và triết lý tối cao của người ngoại đạo. Chuyện gì cũng suy xét cho bản thân trước, xem lợi ích của mình là số một, chẳng thèm suy xét cho người khác, chẳng liên quan gì đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và của người khác, trước hết là suy xét lợi ích của bản thân, sau đó suy xét lợi ích đường lùi cho mình – chẳng phải người ngoại đạo là như vậy sao? Đây chính là người ngoại đạo. Loại người này không xứng để làm bổn phận. Còn có một số người như Tiểu Cương trong câu chuyện trên – cậu là ví dụ điển hình. Họ làm gì cũng không an phận, làm gì cũng muốn được nhẹ nhàng, không phải chịu chút khổ hay trở ngại nào, xác thịt phải được an nhàn, ăn ngủ đúng giờ, mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Ngoài ra, họ muốn làm công tác thì không cần phải gánh vác gì, phải được làm những gì họ thích, những gì họ giỏi, những gì sâu thẳm nội tâm sẵn lòng làm. Nếu không được làm việc mà họ cam tâm tình nguyện, thì họ sẽ không thuận phục chút nào. Họ thay đổi thất thường, một dạ hai lòng. Họ làm gì cũng không bao giờ tận tâm, làm gì cũng chừa đường lùi, vừa chịu khổ đã muốn chùn bước, bị tỉa sửa cũng không được, yêu cầu cao một chút cũng không được, chịu chút khổ cũng không được. Họ làm chuyện gì cũng dựa theo sở thích và và tính toán riêng của mình, không có chút thuận phục nào. Nếu loại người này không thể tìm kiếm lẽ thật và phản tỉnh bản thân, thì những cách làm và tâm tính bại hoại này sẽ khó mà thay đổi. Làm bổn phận với tư cách là người tin vào Đức Chúa Trời thì ít nhất phải có chút thành tâm. Các ngươi nói xem, những người này có thành tâm không? Khi cần nghiêm túc, thì họ chùn bước và không hề có chút thành tâm nào. Như thế thì rất phiền phức và khó xử lý. Họ còn cảm thấy mình rất vĩ đại, và cảm thấy oan ức khi bị cách chức hoặc tỉa sửa. Con người mà không tìm kiếm lẽ thật, cũng không bước vào thực tế lẽ thật thì phiền phức như vậy đấy. Chúng ta dừng chủ đề này ở đây thôi, giờ bắt đầu đi vào chủ đề chính.

Mổ xẻ về cách kẻ địch lại Đấng Christ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời

Hôm nay, chúng ta thông công về mục thứ tám trong các loại biểu hiện khác nhau của kẻ địch lại Đấng Christ: Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời. Mục này các ngươi nghe thì có thể hiểu được không? Trước tiên hãy suy ngẫm xem các ngươi có thể đối chiếu được biểu hiện nào trong mục này với những gì bản thân đã hiểu. Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời – nghĩa đen của câu này thì dễ hiểu, nhưng trong đó có rất nhiều tình trạng, có đủ loại tâm tính mà vài loại người biểu hiện ra, hoặc có đủ loại hành vi do đủ loại tâm tính biểu hiện ra. Đây là chủ đề lớn, chúng ta sẽ phải thông công về nó từ một vài phương diện nhỏ hơn của nó. Nếu xét trên nghĩa đen mà giải thích câu này, thì thông thường, những người hay giảng câu chữ và đạo lý sẽ nói: “Nó có nghĩa là khiến người ta nghe lời họ trong mọi chuyện, họ nói những điều không hợp lẽ thật cũng bắt người ta nghe, nói chút câu chữ đạo lý cũng bắt người ta nghe, nói ra câu nào cũng bắt người ta nghe. Họ luôn có xu hướng ra lệnh cho người khác, phân công công tác cho người khác, cưỡng ép người khác nghe lời họ”. Khi nói một chút về nghĩa đen của câu trên, có phải thông thường người ta sẽ nói như thế này không? Còn gì nữa? “Họ cảm thấy việc gì mình cũng đúng, khiến mọi người cái gì cũng nghe theo họ, họ nói không hợp lẽ thật mà cũng bắt người ta thuận phục. Họ xem mình là lẽ thật, là Đức Chúa Trời, và người ta nghe lời họ cũng là thuận phục lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời. Ý của câu này là vậy”. Nếu các ngươi nói về chủ đề này, thì hãy suy ngẫm xem nên nói thế nào. Nếu bắt đầu từ những gì các ngươi đã thấy hoặc đã đích thân trải nghiệm, thì trước hết nên nói từ phương diện nào? Ngay khi nói về thực tế thì các ngươi chẳng có gì để nói, vậy bình thường khi thông công với anh chị em, các ngươi cũng không có gì để nói sao? Không nói thì làm sao có thể làm tốt công tác chứ? Trước tiên, hãy nói về một vài cách làm và hành vi cụ thể của biểu hiện này. Các ngươi đã thấy qua, đã chứng kiến cái nào rồi? Trong lòng các ngươi có ý niệm gì không? (Thưa, khi làm bổn phận, con có một vài ý nghĩ khá mãnh liệt, bản thân con rất muốn làm như vậy, cũng cảm thấy ý nghĩ này của mình là tốt, là đúng. Khi người khác đưa ra một vài nghi vấn, thì con bảo rằng chuyện này không được chậm trễ, phải nhanh chóng quyết định ngay, rồi cưỡng ép làm theo ý con. Cho dù người khác có muốn tìm kiếm, thì con cũng không cho họ thời gian, con muốn khiến người khác làm việc thuận theo ý nghĩ của con.) Đây là một biểu hiện cụ thể. Còn ai nói nữa nào? (Thưa, có lần, con thông công cùng các anh chị em về chuyện đề bạt và bồi dưỡng nhân sự. Thực ra trong lòng con đã xác định muốn đề bạt người này, cảm thấy mình cũng đã tìm kiếm từ Bề trên rồi và đề bạt người này là đúng. Nhưng có một vài anh chị em không hoàn toàn hiểu rõ về chuyện này, con cũng không thông công về lý do đề bạt người này hay nguyên tắc và lẽ thật cho chuyện này là gì, mà cứ cưỡng ép bảo với anh chị em rằng người này tốt như thế nào và đề bạt người này là phù hợp với nguyên tắc. Đây chính là cưỡng ép người khác phục tùng con và tin rằng con làm việc đó là đúng.) Các ngươi đang nói về cùng một loại vấn đề, một loại tình trạng, về cơ bản phù hợp với điều mà chúng ta nói đến. Có vẻ các ngươi hiểu lẽ thật thì chỉ là hiểu được chút nghĩa đen, vậy Ta phải thông công rồi. Nếu các ngươi hiểu kha khá về điều này, thì coi như đã ổn, và sẽ chuyển sang thông công điều khác. Nhưng hiện tại, có vẻ chưa thể ổn được, nên phải tiếp tục thông công về nó.

Mục thứ tám trong các loại biểu hiện khác nhau của kẻ địch lại Đấng Christ – Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời. Trong chuyện này, có một vài biểu hiện của thực chất kẻ địch lại Đấng Christ. Đây tuyệt đối không phải chỉ là một sự kiện, một câu nói, một quan điểm hoặc là một phương thức xử lý một chuyện, mà là một tâm tính. Vậy đây là tâm tính gì? Nó có vài biểu hiện. Điều thứ nhất là loại người này không thể hợp tác với bất kỳ ai. Đây có phải là một loại cách làm không? (Thưa, không, đây là tâm tính.) Đúng vậy, đây là sự bộc lộ của một loại tâm tính, thực chất của loại tâm tính này chính là kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, loại người này hợp tác với ai cũng không được. Đấy là điều thứ nhất. Điều thứ hai là họ có dục vọng, dã tâm khống chế và chinh phục người khác. Đây có phải là một loại tâm tính không? (Thưa, phải.) Đây có phải là một loại cách làm không? (Thưa, không phải.) Cái này có khác biệt gì với những điều mà các ngươi đã nói? Các ngươi nói về một sự việc, một loại cách làm, chứ không nói về thực chất. Điều này so với những gì các ngươi nói thì có nghiêm trọng hơn không? (Thưa, có.) Điều này đi đến tận căn nguyên. Điều thứ ba là tiếp nhận bất kỳ công tác gì cũng không chịu để người khác tham gia, hỏi han và giám sát. Đây có phải là một thực chất không? (Thưa, phải.) Trong mỗi một thực chất này đều có nhiều biểu hiện và cách làm. Thực chất của điều này ăn khớp với chủ đề của mục thứ tám này, phải không? Điều thứ tư là khi có được một chút kinh nghiệm, tri thức và bài học thì họ giả mạo mình là hóa thân của lẽ thật, nghĩa là nếu họ có thể thông công được một chút lẽ thật thì sẽ cho rằng mình có thực tế lẽ thật rồi, sẽ muốn cho người ta thấy mình là người có lẽ thật, là người thực hành và yêu thích lẽ thật, cũng như có thực tế lẽ thật. Họ giả mạo mình là hóa thân của lẽ thật, tính chất của chuyện này có nghiêm trọng không? (Thưa, nghiêm trọng.) Điều này có ăn khớp với chủ đề của mục thứ tám không? (Thưa, ăn khớp.) Có ăn khớp. Mục thứ tám về cơ bản là bốn điều này. Hãy đọc lại, bắt đầu từ điều thứ nhất. (Thưa, điều thứ nhất là loại người này không thể hợp tác hài hòa với người khác.) Hài hòa nghĩa là có thể hợp tác, loại người này đơn giản là không thể hợp tác với bất kỳ ai. Họ làm việc một mình, làm gì cũng một mình, đặc điểm của điều thứ nhất là “một mình”. Đến điều thứ hai. (Thưa, là có dục vọng và dã tâm khống chế và chinh phục người khác.) Điều này có nghiêm trọng không? (Thưa, nghiêm trọng.) Vậy đặc điểm của điều thứ hai là gì? Dùng một từ để hình dung nó đi. (Thưa, là “tà”.) “Tà” là tính từ, mô tả tâm tính của họ. Nên dùng từ “khống chế”. “Khống chế” là một động tác, là một động tác nảy sinh từ loại tâm tính này. Đến điều thứ ba. (Thưa, là tiếp nhận bất kỳ công tác gì cũng không chịu để người khác tham gia, hỏi han và giám sát.) Đây có phải là một loại tâm tính thường thấy nơi những kẻ địch lại Đấng Christ không? (Thưa, phải.) Đây là tâm tính đặc hữu và mang tính chất đặc trưng của kẻ địch lại Đấng Christ. Có từ nào thích hợp để tổng kết điều này không? Chính là “kháng cự”. Với ai họ cũng kháng cự, không tiếp nhận sự giám sát, hỏi han của anh chị em và con người bình thường, đến sự dò xét của Đức Chúa Trời mà họ cũng không tiếp nhận, đây có phải là đối kháng không? (Thưa, phải.) Đến điều thứ tư. (Thưa, là khi có được một chút kinh nghiệm, tri thức và bài học thì họ giả mạo mình là hóa thân của lẽ thật.) Dùng một từ để tổng kết điều này thì đó là “giả mạo”, giả mạo thì nghiêm trọng hơn làm giả. Những biểu hiện, cách làm, tâm tính cơ bản và đặc trưng có liên quan đến chủ đề của mục thứ tám đều nằm trong bốn điều này. Đặc điểm của điều thứ nhất là “một mình”, họ không hợp tác với bất kỳ ai, mà muốn làm việc một mình, không chịu nghe ai, chỉ biết nghe mình, bắt người khác chỉ được nghe theo mình, không được nghe theo bất kỳ ai khác, có họ thì không có ai khác. Đặc điểm của điều thứ hai là “khống chế”, họ muốn khống chế người khác, dùng đủ loại phương thức mà khống chế ngươi, khống chế cách nghĩ và cách làm của ngươi, khống chế lòng ngươi và quan điểm của ngươi. Họ không thông công về lẽ thật với ngươi, không để ngươi hiểu nguyên tắc lẽ thật, không để ngươi hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời. Họ muốn khống chế ngươi để sử dụng cho họ, để ngươi nói năng, làm việc và cống hiến sức lực cho họ, tôn cao và làm chứng cho họ. Họ muốn khống chế ngươi như nô lệ của họ, con rối của họ. Đặc điểm của điều thứ ba là “kháng cự”, nghĩa là họ kháng cự với tất cả, tất cả những gì có thể cấu thành sự phân định, giám sát và uy hiếp đến công tác và lời nói của họ thì họ nhất loạt kháng cự và chống đối. Đặc điểm của điều thứ tư là “giả mạo”, giả mạo cái gì vậy? Giả mạo mình là hóa thân của lẽ thật, nghĩa là yêu cầu người khác phải ghi nhớ những lời họ nói, những việc họ làm, còn phải ghi chép vào trong sổ. Họ nói: “Ghi nhớ trong đầu sao mà được chứ? Anh phải ghi vào sổ, tôi nói lời nào các anh cũng không hiểu, những lời tôi nói đều quá thâm sâu!”. Họ xem lời của mình là gì? Là lẽ thật. Vậy tiếp theo, chúng ta sẽ thông công từng điều một.

I. Mổ xẻ về việc kẻ địch lại Đấng Christ không thể hợp tác với bất kỳ ai

Điều thứ nhất, không thể hợp tác với bất kỳ ai. Đây là biểu hiện đầu tiên của việc kẻ địch lại Đấng Christ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời. Không thể hợp tác với bất kỳ ai – “bất kỳ ai” này bao gồm tất cả mọi người rồi. Bất kể tính cách có tương hợp hay không, bất kể là trường hợp nào, họ đều không hợp tác được. Đây không phải là vấn đề bộc lộ sự bại hoại bình thường, mà là vấn đề về bản tính. Có những người nói: “Tôi với người đó, tính cách không hợp nhau, cho nên không hợp tác được”. Đây không đơn giản là vấn đề về tính cách, mà là vấn đề về tâm tính bại hoại. Ai có tâm tính bại hoại thì có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng không thể nói rằng người đó có thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ. Nếu họ có thể tìm kiếm lẽ thật, và có thể thuận phục lời của bất kỳ ai miễn là lời đó phù hợp với lẽ thật, thì dạng người này có dễ đạt đến hợp tác hài hòa với người khác không? (Thưa, dễ.) Người có thể thuận phục lẽ thật thì dễ dàng hợp tác với người khác, còn người không thuận phục lẽ thật thì chẳng hợp tác được với ai. Chẳng hạn như, có những người đặc biệt kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, chẳng hề tiếp nhận lẽ thật chút nào, cũng chẳng thể hợp tác hài hòa với bất kỳ ai. Vấn đề như thế này là nghiêm trọng rồi – họ có bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ, không thể thuận phục lẽ thật và Đức Chúa Trời. Con người có tâm tính bại hoại, nếu họ có thể tiếp nhận lẽ thật thì còn dễ được cứu rỗi, còn nếu họ có bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ và không thể tiếp nhận lẽ thật thì phiền phức rồi, họ không dễ được cứu rỗi đâu. Có nhiều kẻ địch lại Đấng Christ bị tỏ lộ chủ yếu là vì họ không thể hợp tác với bất kỳ ai, lúc nào cũng độc đoán chuyên quyền. Đây rốt cuộc là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại hay là thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ? Không thể hợp tác với bất kỳ ai là vấn đề gì? Điều này có liên quan gì đến việc khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời? Nếu chúng ta thông công điều này cho rõ ràng, thì các ngươi sẽ có thể nhìn thấy những người có thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ thì không thể hợp tác với bất kỳ ai. Bất kể ai hợp tác với họ thì đều đường ai nấy đi, thậm chí còn có thể trở thành kẻ thù không đội trời chung. Bề ngoài, có vẻ như một số kẻ địch lại Đấng Christ có trợ thủ hoặc cộng sự, nhưng khi gặp chuyện trong thực tế, cho dù người khác nói đúng thế nào, họ cũng không chịu nghe. Họ thậm chí hoàn toàn không suy xét, càng không bàn thảo hay thông công về điều đó. Họ không hề chú ý đến, như thể những người khác không hiện diện. Khi những kẻ địch lại Đấng Christ nghe những gì người khác nói, họ chỉ đơn thuần làm cho có hoặc làm cho người ta thấy. Nhưng đến thời điểm ra quyết định cuối cùng, thì chính kẻ địch lại Đấng Christ mới là người ra quyết định; người khác nói gì cũng vô ích, hoàn toàn không được xét đến. Chẳng hạn như, khi hai người phụ trách một việc gì đó, và một trong số họ có thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ, thì người này có biểu hiện gì? Cho dù là chuyện gì, thì chỉ có họ là người khởi sự, hỏi han, xử lý và giải quyết hết. Và hầu hết thời gian, họ hoàn toàn không để cộng sự của họ biết rõ điều gì cả. Cộng sự của họ là gì trong mắt họ? Không phải phụ tá, mà đơn thuần là người hiện diện cho có. Trong mắt kẻ địch lại Đấng Christ, các cộng sự đơn thuần không tồn tại. Hễ có chuyện gì thì kẻ địch lại Đấng Christ đều ngẫm nghĩ, khi cảm thấy có hướng hành động ổn rồi, thì họ thông báo cho mọi người làm như vậy, và không ai được phép đặt câu hỏi. Thực chất của sự hợp tác của họ với những người khác là gì? Trên thực tế, đó là một mình có tiếng nói quyết định sau cùng, không bao giờ bàn thảo vấn đề với bất kỳ ai khác, một mình phụ trách công tác, và biến cộng sự của họ thành bù nhìn. Họ luôn hành động một mình và không bao giờ hợp tác với bất kỳ ai. Họ không bao giờ thảo luận hoặc trao đổi về công tác với bất kỳ ai, họ thường một mình đưa ra quyết định, có vấn đề thì một mình xử lý, và trong nhiều việc, khi họ làm xong rồi, xử lý xong rồi, những người khác mới biết chuyện. Những người khác nói với họ: “Anh có chuyện thì phải thông công với chúng tôi. Anh đã xử lý người đó khi nào? Xử lý thế nào? Sao mà chúng tôi lại không biết về việc đó?”. Họ không giải thích, cũng không thèm để ý; đối với họ, các cộng sự của họ không hề có công dụng gì, và chỉ là vật trang trí hay bù nhìn. Gặp bất kỳ chuyện gì, họ sẽ suy nghĩ kỹ, xác định chủ ý, muốn làm thế nào thì làm thế đó. Bất kể có bao nhiêu người xung quanh họ thì những người này cũng như thể không có ở đó. Đối với kẻ địch lại Đấng Christ, họ cũng như không khí mà thôi. Như vậy thì họ có mặt thực tế nào khi hợp tác với những người khác không? Không hề, họ chỉ đang làm lấy lệ và đang đóng kịch. Những người khác nói với họ: “Tại sao khi gặp chuyện, anh không thông công với mọi người khác?”. Họ trả lời: “Mọi người thì biết gì? Tôi là trưởng nhóm, tôi quyết định là được rồi”. Những người khác nói: “Vậy tại sao anh không thông công với cộng sự của mình?”. Họ trả lời: “Tôi đã nói với anh ấy, anh ấy không có ý kiến gì”. Họ dùng việc người khác “không có ý kiến” và “không có chủ kiến” như những cái cớ để che giấu hành vi chuyên quyền độc đoán này của họ. Và sau đó cũng không phản tỉnh gì, người như thế càng không thể tiếp nhận lẽ thật. Đây là vấn đề về bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ.

Hai chữ “hợp tác” nên được giải thích và thực hành thế nào? (Thưa, là có chuyện thì cùng nhau bàn thảo.) Đúng vậy, đây là một cách thực hành. Còn gì nữa? (Thưa, lấy điểm mạnh bù đắp điểm yếu cho nhau, giám sát lẫn nhau.) Nói như vậy là hoàn toàn thích hợp, thực hành như vậy chính là hợp tác hài hòa rồi. Còn gì nữa? Khi gặp chuyện thì trưng cầu ý kiến của người kia, đây có phải là hợp tác không? (Thưa, phải.) Nếu người này thông công, rồi người kia thông công, cuối cùng chỉ làm theo ý của người này, vậy thì còn làm theo quá trình để làm gì? Như thế không gọi là hợp tác, và nó không phù hợp với nguyên tắc, cũng không đem lại hiệu quả của sự hợp tác. Nếu ngươi cứ nói liên hồi như súng máy, người khác muốn nói mà ngươi cũng không cho họ cơ hội nói, ngươi nói hết ý nghĩ của mình rồi thì chẳng thèm nghe người khác nói nữa, đây mà là bàn thảo và thông công sao? Đây gọi là làm cho xong quá trình, chứ chẳng phải là hợp tác. Vậy cái gì mới gọi là hợp tác? Là ngươi nói xong ý nghĩ và quyết định của mình rồi, thì có thể trưng cầu ý kiến và quan điểm của người khác, sau đó đem đối chiếu quan điểm và cách nói của cả hai, ngồi lại với một vài người mà phân định, tìm kiếm nguyên tắc, đạt đến nhận thức chung, xác định con đường thực hành chính xác, như vậy mới gọi là bàn thảo và thông công, như vậy mới gọi là hợp tác. Có những người làm lãnh đạo mà không nhìn thấu được chuyện, bản thân hết cách rồi mới chịu bàn thảo với người khác. Rồi họ lại nói với mọi người rằng: “Chuyện này tôi không thể độc tài, tôi phải hợp tác hài hòa với mọi người, tôi để mọi người đều được phát biểu ý kiến, bàn thảo và xác định xem làm thế nào mới thích hợp”. Mọi người thay nhau nói, nói xong rồi thì hỏi lãnh đạo đó xem ý anh ta thế nào, anh ta mới bảo: “Ý của mọi người giống với ý tôi, tôi cũng nghĩ như vậy. Ban đầu tôi đã dự tính làm như vậy, đưa ra bàn thảo thì xác định được mọi người hoàn toàn nhất trí rồi”. Anh ta có nói lời thật lòng không? Trong lời này có uế tạp, căn bản anh ta không nhìn thấu chuyện này. Anh ta nói ra lời này là có ý mê hoặc và lừa dối, để khiến mọi người đều đánh giá cao anh ta. Việc anh ta trưng cầu ý kiến của mọi người chỉ là việc làm hình thức, để mọi người không nói anh ta độc đoán hay chuyên quyền. Để tránh mang tiếng như vậy, anh ta dùng phương thức này mà che đậy. Thực ra, lúc mọi người nói thì anh ta căn bản đâu có nghe, đâu có để tâm, cũng không thật lòng để mọi người lên tiếng. Bề ngoài thì anh ta để mọi người thông công và bàn thảo, nhưng thực tế thì anh ta chỉ để mọi người lên tiếng hòng tìm được một biện pháp hợp với ý của anh ta. Ngay khi xác định được nên làm thế nào thì thích hợp, anh ta sẽ cưỡng ép mọi người tiếp nhận ý của anh ta bất kể nó có đúng đắn hay không, anh ta khiến mọi người nghĩ rằng cách làm của anh ta là đúng và là ý của mọi người, cuối cùng anh ta cưỡng ép mọi người chấp hành – đây mà gọi là hợp tác sao? Không, vậy đây gọi là gì? Gọi là độc đoán chuyên quyền, muốn một mình có tiếng nói quyết định hết, bất kể đúng sai. Mặt khác, khi gặp chuyện không nhìn thấu được, thì anh ta bảo mọi người lên tiếng trước, chờ mọi người nói xong thì anh ta tổng kết quan điểm của mọi người, tìm ra biện pháp mà anh ta thích và thấy là thích hợp, rồi khiến mọi người tiếp nhận nó. Đây là anh ta mượn danh nghĩa hợp tác, chứ kết quả đạt đến vẫn là hành động theo ý riêng của anh ta, vẫn là một mình anh ta có tiếng nói quyết định. Anh ta bới lông tìm vết, bình luận, xác định ngữ điệu trong lời nói của mọi người, sau đó anh ta tổng kết ra một tuyên bố hoàn chỉnh và chính xác, rồi từ đó mà ra quyết định, khiến mọi người thấy anh ta cao hơn người khác. Bề ngoài thì có vẻ anh ta lắng nghe ý của mọi người, cũng để mọi người lên tiếng, nhưng trên thực tế, cuối cùng vẫn là một mình anh ta quyết định. Thực ra, quyết định này vẫn là kiến giải và quan điểm của mọi người, chỉ là anh ta tổng kết lại, nói một cách hoàn chỉnh và chính xác hơn mà thôi. Có một vài người không nhìn thấu chuyện này thì sẽ cảm thấy anh ta có tầm. Tính chất những hành động này của anh ta là gì? Có phải là quá giảo hoạt không? Tổng kết ý của mọi người rồi nói ra thành ý của anh ta, để khiến mọi người sùng bái và thuận phục anh ta, cuối cùng đều làm theo ý của anh ta, đây mà gọi là hợp tác hài hòa sao? Đây gọi là kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, là độc đoán chuyên quyền, là vơ vét công lao về cho bản thân. Dạng người này khi hợp tác thì không thật thà cho lắm, lại cực kỳ kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, sau một thời gian dài thì đều bị mọi người nhìn ra. Có vài người bảo: “Ngài nói con không thể hợp tác với bất kỳ ai, mà con vẫn có cộng sự đấy thôi. Con và người đó hợp tác rất tốt, con đi đâu thì họ theo đó, con làm gì thì họ làm nấy, con bảo họ đi đâu thì họ đi đấy, bảo họ làm gì thì họ làm nấy, bảo họ làm thế nào thì họ làm thế đó”. Đây có phải là hợp tác không? Không phải, đây gọi là tùy tùng. Tùy tùng nghe lệnh của ngươi mà là hợp tác sao? Họ rõ ràng là một đầy tớ, chẳng có tư tưởng hay quan điểm, càng không có chủ kiến gì. Hơn nữa, họ còn có suy nghĩ của người dễ dãi, làm việc gì cũng không nghiêm túc, toàn là qua loa chiếu lệ và làm cho xong quá trình, chứ chẳng bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, hợp tác kiểu này thì có tác dụng gì chứ? Bất kể hợp tác với ai, họ cũng đều nghe lệnh người kia, đều làm đầy tớ, người ta nói gì thì nghe nấy, người ta bảo làm gì thì làm nấy, đây mà là hợp tác sao? Cái gì mới gọi là hợp tác? Là khi có chuyện thì có thể bàn thảo với nhau, bày tỏ quan điểm và cách nhìn nhận của mình, bổ túc cho nhau, giám sát lẫn nhau, cũng như tìm kiếm với nhau, hỏi ý kiến nhau, cảnh tỉnh lẫn nhau, đây mới là hợp tác hài hòa. Chẳng hạn, ngươi xử lý một chuyện theo ý riêng của mình, rồi có người nói: “Anh làm chuyện này không đúng rồi, hoàn toàn đi ngược lại nguyên tắc. Tại sao anh không tìm kiếm lẽ thật mà tùy ý xử lý như vậy?”. Ngươi nghe xong thì nói: “Đúng rồi, may mà có anh cảnh tỉnh tôi. Anh mà không cảnh tỉnh tôi thì đã gây ra đại họa rồi!”. Đây gọi là cảnh tỉnh lẫn nhau. Vậy thì giám sát lẫn nhau là gì? Con người đều có tâm tính bại hoại, khi làm bổn phận cũng đều có thể qua loa chiếu lệ, chỉ biết bảo vệ địa vị và thể diện của bản thân chứ chẳng bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Tình trạng này ai cũng có, nếu ngươi phát hiện ra người khác có vấn đề thì ngươi nên chủ động thông công với họ, cảnh tỉnh họ nên làm bổn phận theo nguyên tắc, ngoài ra ngươi cũng nên nhắc nhở bản thân, đây chính là giám sát lẫn nhau. Giám sát lẫn nhau thì có tác dụng gì? Là để bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, đồng thời tránh việc người ta đi con đường sai lầm. Việc hợp tác, ngoài tác dụng cảnh tỉnh và giám sát lẫn nhau, còn có hỏi ý kiến nhau. Chẳng hạn như lúc muốn xử lý một người nào đó, ngươi nên thông công với cộng sự của mình, hỏi ý kiến họ rằng: “Chuyện này tôi chưa gặp qua, không biết cách xử lý. Xử lý thế nào mới tốt đây? Trong lòng tôi chẳng rõ ràng được gì cả!”. Người kia mới nói: “Tôi có xử lý loại vấn đề này rồi, bối cảnh hồi đó có khác biệt với trường hợp của người này, ta mà cứ xử lý theo cách y hệt thì sẽ có hơi cứng nhắc tuân thủ quy định. Hiện tại tôi cũng không biết xử lý thế nào cho tốt”. Ngươi mới nói: “Tôi có ý nghĩ này, anh xem có được không? Xét về nhân phẩm thì người này có vẻ là kẻ ác, dù tạm thời vẫn chưa thể xác định chắc chắn. Nhưng họ có thể đem sức lực phục vụ thì cứ để họ đem sức lực phục vụ. Nếu họ không thể đem sức lực phục vụ, lại còn tiếp tục gây nhiễu loạn và gián đoạn, thì chúng ta sẽ tiếp tục xử lý họ”. Người kia nghe xong thì nói: “Làm như vậy được đấy, ổn thỏa hơn, hoàn toàn hợp nguyên tắc. Như vậy sẽ không đàn áp người khác, cũng không phải là trút giận cá nhân, trước hết nên xử lý như vậy đi!”. Hai người bàn thảo với nhau rồi đạt đến nhất trí với nhau, làm công tác như vậy thì sẽ trôi chảy. Nếu hai người không hợp tác, không bàn thảo, người kia không biết nên xử lý thế nào thì đùn đẩy qua cho ngươi, nghĩ bụng rằng: “Anh thích xử lý thế nào thì cứ xử lý thế ấy, lỡ như có sai lầm gì thì đó là trách nhiệm của anh, tôi không gánh cùng anh đâu”. Ngươi thấy được người này làm vậy là không muốn gánh trách nhiệm, nhưng ngươi không chỉ ra cho họ, mà lại làm bừa theo ý riêng, nghĩ bụng: “Anh không muốn gánh trách nhiệm, bắt tôi xử lý chuyện này thì tôi xử lý, tôi sẽ khai trừ người đó”. Hai người không đồng lòng, mỗi người một ý, kết quả là đi ngược lại nguyên tắc, xử lý bừa bãi, một người có thể đem sức lực phục vụ mà bị thanh trừ nhẹ tênh như vậy. Đây mà là hợp tác hài hòa sao? Hợp tác hài hòa thì mới có thể đạt được hiệu quả tích cực. Nếu như một người không gánh vác trách nhiệm, người kia lại bừa phứa làm càn, thì sẽ không có sự hợp tác, ai cũng làm theo ý riêng của mình. Làm bổn phận như thế thì làm sao mà đạt tiêu chuẩn được?

Trong lúc hợp tác mà xảy ra chuyện thì phải hỏi ý kiến và trao đổi với nhau, kẻ địch lại Đấng Christ có thực hành được như vậy không? Kẻ địch lại Đấng Christ không thể hợp tác với bất kỳ ai, họ luôn muốn làm độc tài, đặc trưng của điều này chính là “một mình”. Tại sao lại dùng từ “một mình” để hình dung điều này? Chính là vì trước khi hành động, họ không đến trước mặt Đức Chúa Trời mà cầu nguyện, cũng không tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, càng không tìm người khác để thông công và hỏi rằng: “Làm như vậy có thích hợp không? Sự sắp xếp công tác quy định như thế nào? Chuyện này nên xử lý như thế nào?”. Họ chẳng hề cùng đồng sự và cộng sự của mình bàn thảo và tìm kiếm để đạt đến nhận thức chung. Lúc nào họ cũng tự mình suy ngẫm và lên kế hoạch, tự mình tính toán và sắp xếp. Đối với sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời, họ đọc một cái là đã cho rằng mình hiểu rồi, sau đó mù quáng sắp xếp công tác, đến khi người khác biết chuyện thì công tác đã được sắp xếp xong rồi. Ai muốn nghe quan điểm và ý kiến của họ trước cũng không được, trong lòng họ có tư tưởng và quan điểm gì thì chẳng bao giờ thông công với bất kỳ ai. Có vài người nói: “Chẳng phải lãnh đạo và người làm công đều có cộng sự sao?”. Có lẽ trên danh nghĩa thì họ có cộng sự, nhưng đến khi làm công tác thì chẳng còn nữa, họ làm gì cũng một mình. Mặc dù các lãnh đạo và người làm công có các cộng sự, và mọi người làm bất kỳ bổn phận nào cũng đều có cộng sự, nhưng những kẻ địch lại Đấng Christ cho rằng họ có tố chất tốt và giỏi hơn những người bình thường, vì vậy những người bình thường không xứng đáng là cộng sự của họ, và tất cả đều thua kém họ. Đây là lý do tại sao những kẻ địch lại Đấng Christ thích là người ra quyết định và không thích bàn thảo với người khác. Họ cảm thấy làm như vậy sẽ khiến họ trông bất tài và kém cỏi. Đây là loại quan điểm gì? Đây là loại tâm tính gì? Đây có phải là tâm tính kiêu ngạo không? Họ cho rằng hợp tác và bàn thảo các sự việc với những người khác, hỏi ý kiến và tìm kiếm nơi những người khác, là thấp kém, thua người một bậc, gây tổn thương đến tôn nghiêm của họ. Và vì vậy, để bảo vệ tôn nghiêm của mình, họ làm gì cũng không minh bạch, không nói cho người khác biết, càng không bàn thảo với người khác. Họ cho rằng bàn thảo với người khác là thể hiện bản thân mình kém cỏi, luôn hỏi ý kiến của người khác có nghĩa là không có trí óc, không có chủ kiến, hợp tác với người khác để làm xong một việc hoặc xử lý một chuyện nào đó sẽ làm cho họ có vẻ không có năng lực. Chẳng phải đây là tâm lý kiêu ngạo và vô lý của họ sao? Chẳng phải đây là tâm tính bại hoại của họ sao? Sự kiêu ngạo và tự cho mình là đúng trong họ quá rõ ràng; họ đã mất toàn bộ lý trí của con người bình thường, và đầu óc họ không ổn lắm. Họ luôn nghĩ mình có năng lực, có thể tự mình hoàn thành công việc, và không cần hợp tác với người khác. Vì có những tâm tính bại hoại như vậy nên họ không có cách nào đạt được sự hợp tác hài hòa. Họ cho rằng hợp tác với người khác là làm giảm bớt và phân tán quyền lực của họ, rằng khi chia sẻ công việc với người khác thì quyền lực của họ bị giảm đi và họ không thể tự mình quyết định tất cả, nghĩa là họ không có thực quyền gì và điều này là một tổn thất to lớn đối với họ. Do đó, bất kể gặp chuyện gì, chỉ cần họ tin rằng mình hiểu và biết cách làm thích hợp, thì họ sẽ không bàn thảo với bất kỳ ai, mà sẽ tự ra quyết định. Họ thà mắc sai lầm còn hơn là để người khác biết, họ thà làm sai còn hơn là chia sẻ quyền lực với người khác, và họ thà bị cách chức còn hơn để người khác can thiệp vào công tác của họ. Đây là một kẻ địch lại Đấng Christ. Họ thà làm tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thà đánh cược lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, còn hơn chia sẻ quyền lực của mình với bất kỳ ai khác. Họ cho rằng khi đang làm công tác nào đó hoặc đang xử lý vấn đề nào đó, thì đó không phải là đang thực hiện bổn phận, mà là cơ hội để thể hiện bản thân và nên người xuất chúng, là cơ hội để thực thi quyền lực của mình. Vì vậy, dù ngoài miệng họ nói sẽ hợp tác hài hòa với người khác và khi gặp chuyện thì sẽ bàn thảo cùng nhau, nhưng thực ra trong sâu thẳm nội tâm, họ không muốn từ bỏ quyền lực và địa vị này. Họ cho rằng chỉ cần họ hiểu đạo lý và bản thân họ làm được thì họ không cần hợp tác với bất kỳ ai; họ nghĩ nên hành động độc lập và hoàn thành công việc một cách độc lập, và chỉ như vậy mới gọi là có năng lực. Quan điểm này có đúng không? Họ không biết rằng chỉ cần đi ngược lại các nguyên tắc thì không phải là làm bổn phận, không có cách nào hoàn thành sự ủy thác của Đức Chúa Trời, và chỉ đơn thuần là đem sức lực phục vụ. Khi làm bổn phận, thay vì tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật, họ lại thực thi quyền lực theo cách nghĩ và ý định của mình, khoe khoang, và phô trương bản thân. Bất kể cộng sự của họ là ai hay họ làm việc gì, họ cũng không bao giờ bàn thảo với người khác, họ luôn muốn hành động một mình, và họ luôn muốn có tiếng nói quyết định sau cùng. Rõ ràng là họ đang đùa bỡn với quyền lực và lợi dụng quyền lực để làm việc. Những kẻ địch lại Đấng Christ đều yêu thích quyền lực, và khi có địa vị rồi thì càng muốn có nhiều quyền lực hơn. Chỉ cần có quyền lực trong tay, những kẻ địch lại Đấng Christ sẽ có thể dùng địa vị để khoe khoang và phô trương bản thân, khiến mọi người đánh giá cao mình, đạt được mục đích nên người xuất chúng. Vì vậy, những kẻ địch lại Đấng Christ đặc biệt xem trọng quyền lực và địa vị, và sẽ không bao giờ từ bỏ nó. Bất kể làm bổn phận gì, bất kể liên quan đến phương diện nghiệp vụ nào, rõ ràng họ không hiểu, thế mà cứ giả vờ hiểu. Nếu người khác cáo buộc rằng họ không hiểu mà giả vờ hiểu, thì họ sẽ nói: “Giờ tôi mới học thì cũng sẽ giỏi hơn anh, lên mạng tra tư liệu là hiểu được liền, không phải sao?”. Kẻ địch lại Đấng Christ thì kiêu ngạo và tự cho mình là đúng như vậy đấy. Chuyện gì họ cũng thấy là quá đơn giản, luôn muốn ôm đồm hết. Kết quả là khi Bề trên đến kiểm tra công tác, hỏi họ xem việc này làm thế nào rồi, thì họ nói rằng cũng không tệ, nhưng thực ra ở sau lưng họ toàn làm việc một mình, chẳng bàn thảo với ai, một mình họ quyết định hết. Ngươi mà hỏi họ: “Anh làm việc như vậy thì có nguyên tắc không?”, thì họ còn lôi ra một mớ lý luận mà chứng minh họ làm như vậy là đúng và phù hợp với nguyên tắc. Trên thực tế, cách nghĩ của họ đều sai lệch và sai lầm, họ hoàn toàn không bàn thảo với người khác, lúc nào cũng tự mình định đoạt, tự mình ra quyết định. Quyết định do một người đưa ra thì hầu như lúc nào cũng có sai lệch, vậy cái kiểu tự cho mình là đúng, là chuẩn của họ, rốt cuộc là tâm tính gì? Đây rõ ràng là tâm tính kiêu ngạo. Họ có tâm tính kiêu ngạo, cho nên họ có thể độc đoán chuyên quyền, làm xằng làm bậy, đây chính là chuyên quyền, nắm hết quyền hành. Kẻ địch lại Đấng Christ thì có tâm tính đó, chẳng bao giờ sẵn lòng hợp tác với người khác, cảm thấy làm vậy là thừa, là không cần thiết. Họ lúc nào cũng cảm thấy mình hơn người khác, ai cũng không xứng tầm họ. Cho nên trong lòng kẻ địch lại Đấng Christ không muốn, cũng không sẵn lòng hợp tác với người khác. Họ muốn tự mình ra quyết định, muốn làm độc tài, như vậy thì trong lòng họ mới vui sướng, mới thể hiện được sự cao minh của họ, mới khiến người khác khâm phục và sùng bái họ.

Còn một phương diện nữa, đó là kẻ địch lại Đấng Christ luôn muốn nắm hết quyền hành, một mình định đoạt. Họ có phương diện tâm tính này thì cũng không thể hợp tác với người khác. Ngươi hỏi họ có sẵn lòng hợp tác với người khác hay không, thì họ nói là có, nhưng đến lúc hợp tác thì lại không làm được, đây là chuyện tâm tính. Tại sao lại không hợp tác được? Chẳng hạn như có kẻ địch lại Đấng Christ là phó nhóm, còn một người khác là trưởng nhóm, cái người có thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ này sẽ có thể biến phó nhóm thành trưởng nhóm, biến trưởng nhóm thành phó nhóm, đảo ngược vị thế. Họ làm vậy bằng cách nào? Họ có nhiều thủ đoạn lắm. Một cách trong số đó là khi họ làm việc trước mặt các anh chị em, nghĩa là lúc đa số anh chị em có thể thấy được, thì họ nói nhiều, làm nhiều, thể hiện bản thân, khiến người khác đánh giá cao họ, thừa nhận họ giỏi hơn trưởng nhóm, để thông qua đó mà áp đảo trưởng nhóm. Lâu dài thì các anh chị em sẽ nói trưởng nhóm không bằng phó nhóm. Kẻ địch lại Đấng Christ nghe vậy thì vui mừng, nghĩ thầm: “Cuối cùng mọi người cũng thừa nhận tôi hơn anh ta, vậy là đạt được mục đích rồi”. Trong trường hợp bình thường, phó nhóm nên làm trách nhiệm và nghĩa vụ gì? Họ nên hợp tác với trưởng nhóm mà chấp hành và tiến hành các sắp xếp công tác của hội thánh, đồng thời nêu ý kiến, nhắc nhở và giám sát trưởng nhóm, sau đó thì hai người cùng nhau bàn thảo mà làm việc. Trưởng nhóm thì phải đóng vai trò dẫn đầu, phó nhóm thì phải trợ giúp trưởng nhóm, hợp tác với trưởng nhóm để làm tốt mỗi một công tác. Ngoài việc không gây phá hoại, mọi chuyện khác cũng phải hợp tác với trưởng nhóm, để làm tốt những công tác nên làm. Nếu như trưởng nhóm đi ngược nguyên tắc, thì phó nhóm phải nêu ý kiến, hỗ trợ và chỉnh đốn sai lầm. Hễ trưởng nhóm làm đúng, làm tốt, phù hợp với nguyên tắc lẽ thật thì phó nhóm phải ủng hộ và hợp tác, dốc hết sức và đồng tâm hợp ý mà làm tốt công tác. Nếu xuất hiện vấn đề hoặc phát hiện ra vấn đề thì hai người phải cùng nhau bàn thảo và giải quyết. Những lúc có hai việc cần làm đồng thời, thì hai người phải cùng nhau bàn thảo, rồi sau đó chia ra mà làm cho tốt công tác của mình. Đây gọi là hợp tác, là hợp tác hài hòa. Kẻ địch lại Đấng Christ có hợp tác như vậy với mọi người không? Tuyệt đối không có. Nếu như kẻ địch lại Đấng Christ làm phó nhóm, thì họ sẽ ngẫm nghĩ xem làm thế nào để đảo vị trí với trưởng nhóm, biến trưởng nhóm thành phó nhóm, biến phó nhóm thành trưởng nhóm, để họ chiếm vị trí chủ đạo. Họ sẽ chỉ huy trưởng nhóm làm việc này việc kia, khiến người ta thấy họ giỏi hơn trưởng nhóm nhiều và thích hợp làm trưởng nhóm. Như thế họ sẽ có uy danh cao giữa mọi người, tự nhiên sẽ được chọn làm trưởng nhóm. Họ cố ý khiến trưởng nhóm này bị mất mặt, bị mọi người xem thường, sau đó còn dùng một vài lời nói mà mỉa mai, chế giễu, phơi bày và hạ thấp trưởng nhóm. Từng bước một, sự chênh lệch giữa hai người này ngày một lớn, địa vị của họ trong lòng mọi người cũng ngày một khác đi, cuối cùng kẻ địch lại Đấng Christ này sẽ thành trưởng nhóm, vậy là họ đã lung lạc được lòng người rồi. Họ có loại tâm tính này thì có thể hợp tác hài hòa với người khác được không? Không thể. Bất kể trong trường hợp nào, họ đều muốn một mình dẫn đầu, chuyên quyền, nắm quyền lực trong tay mình. Bất kể cấp hàm của ngươi là gì, là trưởng hay là phó, lớn hay nhỏ, thì trong mắt họ, địa vị và quyền lực của ngươi sẽ sớm trở thành của một mình họ. Dù là ai cùng họ làm bổn phận, hoặc cùng họ làm một công tác, thậm chí là cùng họ tranh luận một vấn đề, thì họ đều làm kiểu một mình một cõi, không hợp tác với bất kỳ ai. Ai cũng không được ngang bằng họ về danh vọng, cấp hàm, năng lực và thanh danh. Ngay khi có ai vượt lên họ, uy hiếp đến địa vị của họ, là họ sẽ nghĩ đủ mọi cách để xoay chuyển cục diện. Chẳng hạn như, mọi người đang bàn thảo một chuyện và sắp rút ra được kết luận rồi, họ tinh mắt nhìn là hiểu ngay, biết nên làm gì rồi. Vậy là họ nói: “Chuyện này chẳng phải dễ làm sao? Còn thảo luận làm gì? Những điều các anh nói đều không ổn!”. Họ nói ra một điều mà mọi người không ai nghĩ đến, một dạng lý luận xa lạ, một lời hoa mỹ suông, cuối cùng bác bỏ hết quan điểm của mọi người. Việc bác bỏ này sẽ khiến mọi người nghĩ: “Người ta đúng là cao minh, sao chúng ta không nghĩ ra được vậy nhỉ? Chúng ta đúng là ngu dân. Không ổn rồi, phải nhờ anh ấy dẫn dắt mới được!”. Đấy là kết quả mà kẻ địch lại Đấng Christ muốn, họ luôn nói lời hoa mỹ suông, đạt đến hiệu quả là được một mình một cõi, được người khác đánh giá cao. Cuối cùng mọi người có ấn tượng gì về họ? Ấn tượng rằng cách nghĩ của họ thì người thường với không tới, cao hơn người thường một bậc. Cao đến mức độ nào chứ? Họ không đến thì mọi người không ra quyết định được, không chốt việc gì được, mà phải chờ họ đến nói một câu. Họ nói xong thì mọi người khâm phục họ, nếu họ nói ra luận điệu sai lầm, thì mọi người vẫn cứ nói đấy là lý luận cao siêu. Như vậy chẳng phải là mê hoặc người ta sao? Vậy tại sao họ không thể hợp tác với người khác? Vì họ cảm thấy: “Hợp tác với người khác là ngồi ngang hàng với nhau, nhưng mà một núi sao chứa nổi hai hổ? Một núi chỉ có thể có một vua, ai trụ được thì làm vua – người có tài như tôi mới có thể trụ nổi. Các anh chị trí óc đều không sáng suốt, tố chất cũng kém, lại nhát gan. Hơn nữa, lúc ở thế gian cũng chưa lừa người gạt người, mà toàn bị người ta lừa. Chỉ tôi mới có tư cách làm lãnh đạo ở đây!”. Chuyện xấu trong mắt họ lại biến thành chuyện tốt. Chuyện xấu mà họ còn khoe khoang, đây chẳng phải là không biết xấu hổ sao? Tại sao họ lại nói như vậy? Họ làm như vậy là vì mục đích gì? Chính là bất kể trong tập thể đông hay ít người, họ đều muốn làm lãnh đạo, nắm giữ vị trí đứng đầu. Ý của họ không phải là vậy sao? (Thưa, phải.) Cho nên, họ nghĩ đủ mọi biện pháp để xem thường, hạ thấp, chế giễu mọi người, sau đó bản thân lại nói lời hoa mỹ suông, khiến mọi người đều phục họ, đều nghe lời họ. Đây mà gọi là hợp tác sao? Đây không phải là hợp tác, vậy thì đây là gì? Đây là điều ứng với mục thứ tám mà chúng ta đang nói: Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời. Đây là nói từ góc độ của chuyện hợp tác. Bất kể làm việc gì, bất kể trong cách nói hay cách làm, kẻ địch lại Đấng Christ có thể hợp tác với người khác để làm bổn phận được không? (Thưa, không thể.) Họ không hợp tác với người khác, chỉ yêu cầu người khác hợp tác với cách nói và cách làm của họ. Vậy họ có thể lắng nghe kiến nghị của người khác không? Tuyệt đối không nghe. Bất kể người khác đề xuất kiến nghị gì, họ đều không để tâm, không hỏi chi tiết và nguyên do, cũng không hỏi xem chuyện này làm thế nào mới hợp lý, lại càng không tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật. Tệ hơn nữa, Ta ở ngay trước mặt mà họ cũng không hỏi Ta, như thể Ta là không khí vậy. Ta hỏi họ có vấn đề gì, thì họ nói là không có. Rõ ràng vừa mới phát sinh chuyện và họ không biết làm thế nào, vậy mà khi ở trước mặt Ta, họ lại chẳng hỏi, thế thì họ có thể hợp tác với ai được? Ai cũng không có tư cách hợp tác với họ, chỉ có thể làm nô lệ và tùy tùng cho họ, có phải vậy không? Một vài người trong số họ cũng có cộng sự, nhưng cộng sự đó thực ra là tùy tùng của họ, như con rối mà thôi. Họ bảo đi đàng đông thì người đó đi đàng đông, họ bảo đi đàng tây thì người đó đi đàng tây, họ cho biết gì thì biết nấy, không cho biết thì người đó cũng chẳng dám hỏi, họ nói thế nào thì sẽ là thế ấy. Có người nói: “Như vậy thì không được, có chuyện gì cũng một mình anh làm chủ hết thì không được. Anh phải tìm một người có thể hợp tác với anh, có thể giám sát anh. Ngoài ra có một vài công tác trước đây anh làm chẳng ra gì, anh phải tìm một người có tố chất và năng lực công tác để hợp tác và giúp đỡ anh. Phải bảo vệ công tác của hội thánh và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời chứ!”. Nghe vậy, họ sẽ nói gì? “Anh mà loại bỏ cộng sự của tôi, thì không có ai khác thích hợp để hợp tác với tôi đâu”. Đây là lời gì vậy? Là họ sẽ không có cộng sự hay là họ tìm không ra người nào làm tùy tùng và nô lệ cho họ như thế? Họ sợ tìm không ra dạng nô lệ và tùy tùng này, tìm không ra dạng “cộng sự” nghe lệnh của họ như vậy. Họ đưa ra khó khăn như vậy thì các ngươi nên giải quyết như thế nào? Ngươi hãy nói: “Ồ, anh tìm không ra cộng sự à? Vậy anh không cần làm công tác này nữa, công tác này sẽ giao cho người nào có cộng sự”. Như vậy chẳng phải sẽ giải quyết được vấn đề sao? Nếu ai cũng không xứng làm cộng sự của ngươi, ai cũng không hợp tác với ngươi được, vậy thì ngươi là thứ gì? Vậy thì ngươi là quái vật, là thứ quái dị. Người thực sự có lý trí thì ít nhất có thể hợp tác được với người bình thường, trừ phi cộng sự này có tố chất quá kém thì mới không được. Người có lý trí thì khi làm bổn phận, trước hết phải học cách hợp tác với người khác và có thể hợp tác với bất kỳ ai, trừ phi đối phương là một người thiểu năng trí tuệ hoặc là ma quỷ thì mới không có cách nào hợp tác. Việc có thể hợp tác với đa số mọi người là một điều rất quan trọng, đây là dấu hiệu cho thấy người ta có lý trí bình thường.

Một trong những đặc trưng rõ ràng nhất về thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ là sự chuyên quyền, nắm hết quyền hành, không nghe lời ai, không xem ai ra gì. Dù ai có điểm mạnh gì, biểu đạt được quan điểm và cao kiến đúng đắn nào, hoặc có cách làm thích hợp gì thì họ cũng không xem những người đó ra gì, như thể không ai có đủ tư cách để hợp tác với họ, cũng không có tư cách tham gia vào những việc họ làm. Kẻ địch lại Đấng Christ chính là có tâm tính như vậy. Có vài người nói đây là nhân tính không tốt, nhưng đây mà là chuyện nhân tính không tốt thông thường sao? Đây hoàn toàn là tâm tính Sa-tan, loại tâm tính này quá hung ác! Tại sao lại nói là tâm tính quá hung ác? Vì kẻ địch lại Đấng Christ đã chiếm đoạt mọi thứ của nhà Đức Chúa Trời, chiếm đoạt tài sản của hội thánh, coi như là tài sản cá nhân, đều thuộc quyền kiểm soát của họ, không cho phép bất cứ ai xen vào. Khi làm công tác của hội thánh, điều họ nghĩ đến chỉ là lợi ích của mình, chỉ là địa vị và thể diện của mình. Họ không cho phép bất kỳ ai làm tổn hại đến lợi ích của mình, càng không cho phép bất cứ ai có tố chất và có thể nói lời chứng trải nghiệm tạo ra mối đe dọa đối với địa vị và thể diện của họ. Cho nên, họ xem những người có thể nói lời chứng trải nghiệm và có thể thông công lẽ thật để chu cấp cho dân được Đức Chúa Trời chọn đều là đối thủ cạnh tranh, rồi chèn ép, bài xích, chỉ mong sao cô lập hoàn toàn những người này lại, cho họ mất hết thanh danh và bị hủy hoại thì trong lòng họ mới yên ổn. Nếu những người này từ đầu đến cuối không tiêu cực, còn có thể tiếp tục thực hiện bổn phận của mình, nói lời chứng, giúp đỡ người khác thì kẻ địch lại Đấng Christ sẽ phải áp dụng thủ đoạn cuối cùng, đó là nắm điểm yếu, định tội hoặc vu oan hãm hại, bịa không thành có để trừng trị người ta, cho đến khi những người này bị thanh trừ khỏi hội thánh thì họ mới hoàn toàn yên tâm. Đây là chỗ nham hiểm nhất, độc ác nhất của kẻ địch lại Đấng Christ. Điều họ lo lắng và sợ hãi nhất chính là những người mưu cầu lẽ thật và người có lời chứng trải nghiệm thực sự, bởi vì dân được Đức Chúa Trời chọn tán thành và ủng hộ nhất là những người có lời chứng trải nghiệm, chứ không phải những người nói suông câu chữ và đạo lý. Kẻ địch lại Đấng Christ không có lời chứng trải nghiệm thực sự, cũng không biết thực hành lẽ thật, cùng lắm chỉ làm chút việc tốt để lấy lòng người khác. Nhưng dù kẻ địch lại Đấng Christ có làm bao nhiêu việc tốt, có nói bao nhiêu lời dễ nghe cũng không đáng giá bằng ích lợi và lợi ích thực tế mà một lời chứng trải nghiệm tốt mang lại cho con người. Người có thể nói lời chứng trải nghiệm thì đem lại kết quả tốt nhất trong việc chăm tưới, chu cấp cho dân được Đức Chúa Trời chọn. Cho nên, kẻ địch lại Đấng Christ thấy ai nói về lời chứng trải nghiệm thì mắt của họ sẽ trừng lên, trong lòng tức giận, thù hận trỗi dậy, hận không thể lập tức bịt miệng những người nói lời chứng, không cho người đó nói tiếp nữa. Nếu như người đó nói tiếp, danh tiếng của kẻ địch lại Đấng Christ sẽ bị mất sạch hoàn toàn, bộ mặt xấu xí của họ sẽ bị bại lộ hoàn toàn cho mọi người đều nhìn thấy, cho nên kẻ địch lại Đấng Christ sẽ tìm cớ để quấy nhiễu và chèn ép người nói lời chứng. Họ chỉ cho phép chính mình nói những câu chữ và đạo lý mê hoặc con người, không cho phép những người được Đức Chúa Trời chọn nói lời chứng trải nghiệm và làm cho Đức Chúa Trời vinh hiển. Từ đây có thể thấy được kẻ địch lại Đấng Christ thù hận người nào nhất, sợ người nào nhất. Chỉ cần ai đó có thể xuất đầu lộ diện và làm một chút công tác, ai đó có thể nói ra lời chứng trải nghiệm thực sự để những người được Đức Chúa Trời chọn được lợi ích, được gây dựng, được giúp đỡ, ai đó được mọi người vô cùng tán thành, thì kẻ địch lại Đấng Christ sẽ đố kỵ và nảy sinh thù hận với người đó. Họ sẽ bài xích và đàn áp, tuyệt đối không cho phép người như vậy đảm đương công tác, để tránh tạo ra mối đe dọa đến địa vị của họ. Những người có thực tế lẽ thật ở bên cạnh kẻ địch lại Đấng Christ thì sẽ tỏ lộ và nêu bật sự bần cùng, đáng thương, xấu xí, tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ, vì vậy khi chọn người hợp tác, chọn đồng sự, họ sẽ không bao giờ chọn những người có thực tế lẽ thật, sẽ không bao giờ chọn những người có thể nói lời chứng trải nghiệm, sẽ không bao giờ chọn những người trung thực, người có thể thực hành lẽ thật. Đây là những người mà kẻ địch lại Đấng Christ đố kỵ nhất, hận nhất, là cái đinh trong mắt, cái gai trong thịt của họ. Những người thực hành lẽ thật này, bất luận có làm bao nhiêu việc tốt, làm bao nhiêu việc có lợi cho công tác của nhà Đức Chúa Trời, thì kẻ địch lại Đấng Christ thường cố gắng hết sức che giấu đi, thậm chí có thể nói xuyên tạc sự thật, những việc tốt thì quy công lao về mình, đẩy những việc xấu lên người khác để nâng cao bản thân và hạ thấp người khác. Kẻ địch lại Đấng Christ vô cùng ghen ghét người mưu cầu lẽ thật và người có thể nói lời chứng trải nghiệm, sợ rằng người đó sẽ đe dọa địa vị của họ, nên họ dùng toàn bộ sức lực để bài xích, đả kích người đó. Họ cũng sẽ không bao giờ cho phép anh chị em tiếp xúc, đến gần hoặc ủng hộ, tán thành những người có thể nói lời chứng trải nghiệm. Điều này tỏ lộ rõ nhất về việc kẻ địch lại Đấng Christ chán ghét lẽ thật, có bản tính Sa-tan thù hận Đức Chúa Trời, đồng thời cũng chứng minh kẻ địch lại Đấng Christ là một dòng chảy ngược tà ác trong hội thánh, là kẻ đầu sỏ trong việc quấy nhiễu công tác của hội thánh và cản trở việc thi hành ý chỉ của Đức Chúa Trời. Hơn nữa, khi ở giữa anh chị em, kẻ địch lại Đấng Christ còn thường xuyên bịa đặt chuyện dối trá, bóp méo sự thật, hạ thấp và định tội những người nào có thể nói lời chứng trải nghiệm, bất kể những người này làm công tác gì, kẻ địch lại Đấng Christ đều tìm đủ mọi lý do để bài xích và đàn áp, lại còn xét đoán những người này là kiêu ngạo, tự cho mình là đúng, thích thể hiện bản thân và có dã tâm. Thực ra những người này đều có một vài lời chứng trải nghiệm và có một vài thực tế lẽ thật, đều có nhân tính tương đối tốt, có lương tâm và lý trí, lại có thể tiếp nhận lẽ thật. Mặc dù những người này có một vài khuyết điểm, thiếu sót, đôi lúc bộc lộ tâm tính bại hoại, nhưng họ có thể phản tỉnh và hối cải. Đây chính là loại người mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi và có hy vọng được Đức Chúa Trời hoàn thiện. Tóm lại, những người này thích hợp làm bổn phận, hợp với các yêu cầu và nguyên tắc của việc làm bổn phận. Thế nhưng, kẻ địch lại Đấng Christ cho rằng, “Tôi không thể chịu đựng được chuyện này. Anh muốn đảm nhiệm vai trò ở địa bàn của tôi để tranh cao thấp với tôi, chuyện này không thể xảy ra, đừng có mơ! Trình độ học vấn của anh cao hơn tôi, tài ăn nói tốt hơn tôi, cũng được lòng người hơn tôi, lại còn mưu cầu lẽ thật hơn tôi, muốn tôi hợp tác với anh, ngộ nhỡ danh tiếng của tôi bị anh cướp đi thì phải làm sao?”. Họ có suy xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời không? Họ không suy xét. Thứ họ suy xét là gì? Họ chỉ suy nghĩ làm sao để giữ vững địa vị của mình. Cho dù kẻ địch lại Đấng Christ biết mình không thể làm được công tác thực tế, thì cũng không bồi dưỡng hay đề bạt những người có tố chất tốt, mưu cầu lẽ thật. Những người họ đề bạt đều là những người xun xoe nịnh nọt, thích sùng bái con người, những người trong lòng tán thành với họ, ngưỡng mộ họ, đều là những người nói chuyện và làm việc một cách giảo hoạt, người không hề hiểu lẽ thật và không có sự phân định. Những kẻ địch lại Đấng Christ đề bạt những người này lên kề cạnh họ để phục vụ họ, chạy quanh vì họ, ngày ngày xoay quanh họ, và điều này mang lại cho những kẻ địch lại Đấng Christ thế lực trong hội thánh, và có nghĩa là nhiều người đến gần họ, đi theo họ, và không ai dám đắc tội với họ. Tất cả những người được kẻ địch lại Đấng Christ bồi dưỡng này đều là những người không mưu cầu lẽ thật. Hầu hết đều không có hiểu biết thuộc linh và chỉ biết tuân thủ quy định. Họ thích chạy theo trào lưu và thế lực. Họ thuộc loại dựa hơi – một đám hồ đồ. Người ngoại đạo có câu gì nhỉ? Thà làm tớ thằng khôn còn hơn làm thầy thằng dại. Kẻ địch lại Đấng Christ thì ngược lại, họ làm thầy của người khác, chuyên môn bồi dưỡng những người này để phất cờ hò reo cho họ. Hễ kẻ địch lại Đấng Christ nắm quyền trong hội thánh rồi, thì sẽ luôn tuyển những kẻ hồ đồ và mù quáng làm trợ thủ cho họ. Còn đối với những ai có tố chất, có thể hiểu lẽ thật và thực hành lẽ thật, có thể gánh vác công tác, nhất là những lãnh đạo và người làm công có thể làm công tác thực tế, thì họ sẽ bài xích và đàn áp. Như vậy trong hội thánh sẽ hình thành hai phe, một phe là những người tương đối trung thực, thật lòng làm bổn phận và mưu cầu lẽ thật, một phe là những người hồ đồ, mù quáng do kẻ địch lại Đấng Christ cầm đầu. Hai phe này liên tục đấu tranh với nhau cho đến khi nào kẻ địch lại Đấng Christ bị tỏ lộ và đào thải mới thôi. Kẻ địch lại Đấng Christ luôn đối chọi và đối đầu với những người thật lòng làm bổn phận và mưu cầu lẽ thật, vậy thì có gây nhiễu loạn nghiêm trọng đến công tác của hội thánh không? Có gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác của Đức Chúa Trời không? Thế lực của kẻ địch lại Đấng Christ này có phải là chướng ngại vật cản trở việc tiến hành ý chỉ của Đức Chúa Trời trong hội thánh không? Có phải là thế lực tà ác chống đối Đức Chúa Trời không? Tại sao kẻ địch lại Đấng Christ làm như vậy? Bởi vì trong lòng họ biết rõ rằng hễ những nhân vật chính diện này mà đứng lên làm lãnh đạo và người làm công thì sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh với họ, thành thế lực đối địch với họ, tuyệt đối không nghe lời và thuận phục họ, tuyệt đối không nghe theo lệnh của họ, và như vậy thì những người này đủ để cấu thành sự uy hiếp đến địa vị của họ. Họ thấy những người này thì trong lòng nảy sinh thù hận. Không bài xích, đánh gục, nói xấu những người này thì trong lòng họ bất an, không yên ổn. Do đó họ phải nhanh chóng bồi đắp thế lực, tăng cường đội ngũ, như vậy mới có thể khống chế thêm nhiều dân được Đức Chúa Trời chọn và không còn phải lo sợ một vài người mưu cầu lẽ thật này uy hiếp đến địa vị của họ. Kẻ địch lại Đấng Christ hình thành thế lực của riêng mình trong hội thánh, ai nghe lời và thuận phục họ, xun xoe nịnh hót họ thì được họ nâng đỡ và cho làm người phụ trách mọi mặt công tác, làm như vậy thì có ích lợi cho công tác của nhà Đức Chúa Trời không? Không ích lợi gì cả. Chẳng những không ích lợi mà còn gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác của hội thánh. Nếu thế lực tà ác này mà chiếm hơn nửa nhân số thì sẽ có khả năng lật đổ hội thánh, bởi vì những người mưu cầu lẽ thật chỉ chiếm thiểu số, trong khi những người đem sức lực phục vụ và những kẻ chẳng tin chỉ muốn ăn bánh cho no bụng lại chiếm ít nhất một nửa nhân số. Trong tình huống đó, nếu kẻ địch lại Đấng Christ mà dồn sức mê hoặc và lung lạc những người này, thì đến lúc hội thánh tổ chức bầu lãnh đạo, họ sẽ tự nhiên chiếm ưu thế. Vì vậy, nhà Đức Chúa Trời luôn nhấn mạnh rằng vào thời điểm bầu cử thì nhất định phải thông công lẽ thật cho thấu đáo, nếu không thể thông công lẽ thật để vạch trần và đánh bại kẻ địch lại Đấng Christ, thì kẻ địch lại Đấng Christ có thể mê hoặc mọi người, được bầu làm lãnh đạo, có thể khống chế và chiếm lĩnh hội thánh. Như vậy chẳng phải rất nguy hiểm sao? Trong hội thánh mà xuất hiện một, hai kẻ địch lại Đấng Christ thì không đến nỗi đáng sợ, nhưng ngay khi kẻ địch lại Đấng Christ hình thành thế lực và có tác động bao trùm, thì lúc đó mới đáng sợ. Cho nên, khi kẻ địch lại Đấng Christ chưa có tác động bao trùm thì phải bị nhổ tận gốc và khai trừ ra khỏi hội thánh, đây là việc cấp bách, cũng là việc phải làm. Ngoài ra, trong hội thánh có một vài kẻ chẳng tin, nhất là những kẻ sùng bái và đi theo con người, thích đi theo thế lực, thích làm đồng bọn và tay sai của ma quỷ, thích kéo bè kết phái, những kẻ chẳng tin và ma quỷ này phải sớm bị thanh trừ. Như vậy mới tránh được việc họ hợp lại với nhau, hình thành thế lực mà gây nhiễu loạn và khống chế hội thánh. Đây là chuyện mà dân được Đức Chúa Trời chọn phải thấy rõ và những người hiểu lẽ thật nên mang gánh nặng về chuyện này. Hễ có mang gánh nặng về công tác của hội thánh và quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời thì phải nhìn thấu những chuyện này, nhất là nhìn thấu chủng loại của kẻ địch lại Đấng Christ, nhìn thấu những tiểu quỷ thích nịnh hót và sùng bái con người, sau đó hạn chế họ hoặc thanh trừ họ ra khỏi hội thánh. Đây là việc thực hành tất yếu. Loại người địch lại Đấng Christ chuyên môn hòa thành một khối với những kẻ hồ đồ, những kẻ vô tích sự và tiểu nhân đê tiện không tiếp nhận và yêu thích lẽ thật, họ sẽ lung lạc những người này, khi “hợp tác” với những người này thì họ đặc biệt hài hòa, thân mật, nhiệt tình. Những người này là thứ gì vậy? Họ chẳng phải là băng nhóm của kẻ địch lại Đấng Christ sao? Bề trên cách chức “thầy” của họ, thì đám đồ đệ này không sẵn lòng chấp nhận, mà sẽ xét đoán Bề trên không công bằng, và hợp lại để lên tiếng bất bình thay cho kẻ địch lại Đấng Christ. Nhà Đức Chúa Trời có thể để họ đạt được ý đồ không? Nhà Đức Chúa Trời chỉ có thể quăng lưới bắt sạch, thanh trừ toàn bộ. Họ là một bọn ác ma địch lại Đấng Christ, không thể để một ai lọt lưới. Loại người địch lại Đấng Christ rất hiếm khi hoạt động đơn độc, hầu như lúc nào cũng hoạt động theo băng nhóm, ít nhất cũng phải được hai, ba người. Tuy nhiên, có những kẻ địch lại Đấng Christ hoạt động đơn độc, đây là vì họ không có bản lĩnh hoặc không có cơ hội, nhưng họ vẫn có một điểm chung, đó là đặc biệt yêu thích địa vị. Ngươi đừng cho rằng vì không có bản lĩnh và trình độ học vấn mà họ không thích địa vị, nghĩ vậy là sai rồi, là không nhìn thấu được thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ. Chỉ cần là kẻ địch lại Đấng Christ thì sẽ thích địa vị. Đã nói rằng kẻ địch lại Đấng Christ không thể hợp tác với bất kỳ ai, vậy thì tại sao họ còn bồi dưỡng một bè lũ hồ đồ, phế vật và thối tha liếm gót họ? Họ muốn hợp tác với những người này sao? Nếu họ thực sự có thể hợp tác với những người này, thì câu “kẻ địch lại Đấng Christ không thể hợp tác với bất kỳ ai” sẽ không thành lập. Không thể hợp tác với bất kỳ ai, “bất kỳ ai” này chủ yếu là nói đến những nhân vật chính diện, nhưng xét theo tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ thì họ cũng không hợp tác với đồng bọn của mình được. Vậy họ bồi dưỡng những người này để làm gì? Họ bồi dưỡng một đám người hồ đồ, dễ sai khiến, dễ chi phối, không có chính kiến, nói gì nghe nấy, sau đó để cho đám này chung tay bảo vệ địa vị của họ. Nếu họ dựa vào bản thân, thân cô thế cô, thì không dễ bảo vệ địa vị, cho nên họ phải lung lạc một đám hồ đồ ngày ngày xoay quanh họ, làm việc cho họ. Họ còn mê hoặc dân được Đức Chúa Trời chọn: họ nói rằng đám hồ đồ của họ đã mưu cầu thế nào, đã chịu khổ ra sao và xứng đáng bồi dưỡng, họ bảo những người này mà có chuyện gì thì đều biết xin ý kiến họ, hỏi họ – rằng những người này đều là người biết nghe lời và thuận phục. Những người này có hợp tác khi làm bổn phận không? Kẻ địch lại Đấng Christ tìm một đám người hành động vì họ, làm tay sai và đồng lõa với họ, để củng cố địa vị của họ, đây không gọi là hợp tác, mà là làm việc kinh doanh riêng. Thế lực của kẻ địch lại Đấng Christ là vậy đấy.

Các ngươi nói xem, hợp tác với người khác có khó không? Thực ra không khó. Thậm chí có thể nói là dễ. Thế nhưng tại sao mọi người vẫn cảm thấy việc này khó? Đó là vì họ có tâm tính bại hoại. Đối với những người có nhân tính, lương tâm và lý trí, việc hợp tác với người khác tương đối dễ dàng, và họ có thể cảm thấy đây là một chuyện vui vẻ. Bởi vì không phải ai cũng dễ dàng tự mình hoàn thành mọi việc, bất kể liên quan đến lĩnh vực nào, hay đang làm việc gì, mà có ai đó ở bên chỉ ra cái này cái kia và hỗ trợ thì luôn là chuyện tốt – sẽ dễ dàng hơn nhiều so với làm một mình. Ngoài ra, những gì tố chất mỗi một người có thể đạt đến hoặc những chuyện bản thân trải nghiệm được đều có giới hạn. Không ai có thể tinh thông mọi việc, cái gì cũng biết, cái gì cũng hiểu, cái gì cũng làm được – đây là chuyện bất khả thi, bất kỳ ai cũng nên có lý trí như vậy. Do đó, bất kể ngươi làm gì, dù là chuyện lớn hay nhỏ, ngươi đều cần có người ở bên để giúp đỡ ngươi, chỉ ra cái này cái kia, nêu ý kiến tham khảo cho ngươi, hoặc hợp tác với ngươi để làm việc. Chỉ có như thế mới đảm bảo ngươi làm việc chính xác hơn, phạm ít lỗi hơn và ít có khả năng lạc lối hơn – đây là chuyện tốt. Nhất là việc phụng sự Đức Chúa Trời không phải là chuyện nhỏ, nếu không giải quyết tâm tính bại hoại của mình thì có thể ngươi sẽ gặp nguy hiểm! Con người có tâm tính Sa-tan, họ có thể phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời mọi lúc mọi nơi. Những người sống theo tâm tính Sa-tan thì có thể phủ nhận, chống đối và phản bội Đức Chúa Trời bất cứ lúc nào. Kẻ địch lại Đấng Christ thì rất ngu xuẩn, họ không ý thức được chuyện này, họ cho rằng: “Không dễ gì mới nắm giữ được quyền lực, sao lại có thể chia sẻ nó với người khác chứ? Phân chia quyền lực cho người khác thì chẳng phải tôi sẽ không có quyền lực nữa sao? Không có quyền lực thì làm sao tôi có thể thể hiện tài năng và bản lĩnh của mình chứ?”. Họ không biết rằng điều Đức Chúa Trời đã giao phó cho con người không phải là quyền lực hay địa vị, mà là một bổn phận. Kẻ địch lại Đấng Christ chỉ tiếp nhận quyền lực và địa vị, họ gạt bổn phận của mình sang một bên, không làm công tác thực tế. Họ chỉ mưu cầu danh lợi và địa vị, chỉ muốn nắm quyền và khống chế dân được Đức Chúa Trời chọn, tham hưởng lợi ích của địa vị. Như vậy là rất nguy hiểm – cách làm này chính là chống đối Đức Chúa Trời! Hễ ai mưu cầu danh lợi và địa vị hơn là làm tốt bổn phận thì đều đang đùa với lửa và đùa với sự sống của họ. Những người đùa với lửa và sự sống của họ thì có thể tự hủy hoại bản thân bất cứ lúc nào. Ngày nay, với tư cách là lãnh đạo hoặc người làm công, ngươi đang phụng sự Đức Chúa Trời, đây không phải là chuyện tầm thường. Không phải ngươi đang làm việc cho một người nào đó, càng không phải làm việc để kiếm miếng ăn và chi phí sinh hoạt; thay vào đó, ngươi đang làm bổn phận của mình trong hội thánh. Nhất là, vì bổn phận này đến từ sự ủy thác của Đức Chúa Trời, cho nên, việc làm bổn phận này ngụ ý gì? Ngụ ý rằng ngươi làm tốt hay không thì đều phải giải trình trước Đức Chúa Trời; cuối cùng, ngươi phải giải thích rõ với Đức Chúa Trời, phải có một kết quả. Điều ngươi đã tiếp nhận là sự ủy thác của Đức Chúa Trời, một trách nhiệm thiêng liêng, vì vậy, bất kể là trách nhiệm lớn hay nhỏ, thì đều là việc nghiêm túc. Nghiêm túc đến mức nào? Ở tầm mức nhỏ, nó liên quan đến việc một con người có thể đạt được lẽ thật trong đời này hay không, liên quan đến cách Đức Chúa Trời nhìn nhận ngươi. Ở tầm mức lớn, nó liên quan trực tiếp đến tiền đồ và số phận của ngươi, đến kết cục của ngươi; nếu ngươi hành ác và chống đối Đức Chúa Trời thì ngươi sẽ bị định tội và trừng phạt. Mọi việc ngươi làm khi làm bổn phận của mình đều được Đức Chúa Trời ghi lại, và Đức Chúa Trời có các nguyên tắc và tiêu chuẩn riêng của Ngài về cách tính điểm và đánh giá; Đức Chúa Trời dựa trên biểu hiện của ngươi khi làm bổn phận mà quyết định kết cục của ngươi. Chuyện này có nghiêm túc không? Đây đúng là chuyện nghiêm túc! Cho nên, khi được giao một công tác thì đó là chuyện cá nhân của ngươi sao? (Thưa, không phải.) Công tác này không phải là chuyện mà một người có thể hoàn thành, nhưng nó cần ngươi gánh vác trách nhiệm. Trách nhiệm này là của ngươi, ngươi phải hoàn thành sự ủy thác này. Điều này liên quan đến chuyện gì? Liên quan đến chuyện hợp tác, về cách hợp tác để phụng sự, cách hợp tác để làm bổn phận, cách hợp tác để hoàn thành sự ủy thác của mình, cách hợp tác để đạt đến tuân theo ý chỉ của Đức Chúa Trời. Nó liên quan đến những chuyện này.

Hợp tác hài hòa bao gồm nhiều nội dung. Chí ít, một điều trong đó là phải để cho người khác nói và đưa ra những đề xuất khác nhau. Nếu ngươi thực sự có lý trí, thì cho dù làm công tác gì, trước tiên ngươi phải học cách tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, còn nên chủ động trưng cầu ý kiến của người khác. Miễn là ngươi xem xét mọi đề xuất một cách nghiêm túc, và sau đó đồng tâm hợp ý giải quyết vấn đề, thì về cơ bản ngươi sẽ đạt được sự hợp tác hài hòa. Bằng cách này, ngươi sẽ gặp ít khó khăn hơn nhiều trong khi làm bổn phận. Bất kể xảy ra vấn đề gì, ngươi cũng sẽ dễ dàng giải quyết và xử lý chúng. Đây là hiệu quả của sự hợp tác hài hòa. Đôi khi có những tranh cãi về những chuyện vặt vãnh, nhưng chỉ cần không ảnh hưởng đến công tác thì chúng sẽ không phải là vấn đề. Tuy nhiên, trong những chuyện quan trọng và những chuyện lớn liên quan đến công tác của hội thánh, ngươi phải đạt được sự đồng thuận và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng. Khi làm lãnh đạo hay người làm công, nếu ngươi luôn ngồi tít trên cao, xem việc làm bổn phận của mình như một chức quan để hưởng thụ, luôn tham hưởng lợi ích của địa vị, luôn có tính toán của riêng mình, luôn quan tâm và hưởng thụ danh lợi và địa vị của riêng mình, luôn làm việc quản lý của riêng mình, và luôn muốn đạt được địa vị cao hơn, muốn quản lý và khống chế nhiều người hơn, và mở rộng phạm vi quyền lực của mình, thì phiền phức rồi. Xem một bổn phận quan trọng như cơ hội để hưởng thụ thời gian làm quan thì rất nguy hiểm. Nếu ngươi luôn hành động như vậy, không muốn hợp tác với bất kỳ ai, không muốn phân tán quyền lực của mình cho người khác, không muốn bị người khác chiếm thế thượng phong, chiếm mất hào quang, nếu ngươi chỉ muốn một mình hưởng hết, thì ngươi trở thành một kẻ địch lại Đấng Christ rồi. Nhưng nếu ngươi thường xuyên tìm kiếm lẽ thật, thực hành chống lại xác thịt, chống lại những ý định và ý nghĩ của riêng mình, và có thể chủ động hợp tác với những người khác, mở lòng để hỏi ý kiến và tìm kiếm với những người khác, chú ý lắng nghe ý kiến và đề xuất của người khác, tiếp nhận lời khuyên đúng đắn và phù hợp với lẽ thật, bất kể nó đến từ ai, thì ngươi đang thực hành theo cách khôn ngoan và đúng đắn, và ngươi có thể tránh đi sai đường, đó là sự bảo vệ cho ngươi. Ngươi phải buông bỏ các chức danh lãnh đạo, buông bỏ bầu không khí bẩn thỉu của địa vị, coi mình như một người bình thường, đứng ngang hàng với những người khác, và có tâm thái trách nhiệm với bổn phận của mình. Nếu ngươi luôn coi bổn phận của mình như một chức quan và địa vị, hay như một vòng nguyệt quế, và tưởng tượng rằng những người khác ở đó để cống hiến sức lực và phục vụ cho địa vị của ngươi, thì phiền phức rồi, Đức Chúa Trời sẽ ghê tởm và kinh tởm ngươi. Nếu trong lòng ngươi cho rằng ngươi bình đẳng với những người khác, ngươi chỉ có thêm một chút sự ủy thác và trách nhiệm từ Đức Chúa Trời, nếu ngươi có thể học cách đặt mình ngang hàng với họ, và thậm chí có thể hạ mình hỏi ý kiến của người khác, có thể nghiêm túc, chăm chú, và để tâm lắng nghe những gì họ nói, thì ngươi sẽ có sự hợp tác hài hòa với những người khác. Sự hợp tác hài hòa này sẽ đem lại tác dụng gì? Nó có tác dụng rất lớn. Ngươi sẽ đạt được những thứ ngươi chưa từng có trước đây, đó là sự sáng của lẽ thật và những thực tế của sự sống; ngươi sẽ khám phá ra ưu điểm của người khác và học hỏi từ những điểm mạnh của họ. Còn một điều nữa: trong quan niệm của mình, ngươi cho rằng người khác khờ khạo, đần độn, ngu xuẩn, hoặc kém cỏi hơn ngươi, nhưng khi ngươi lắng nghe ý kiến của họ, hoặc khi người khác cởi mở với ngươi, ngươi sẽ vô tình phát hiện ra rằng không ai là quá tầm thường như ngươi nghĩ, rằng mọi người đều có thể đưa ra những ý nghĩ khác nhau, đều có giá trị của mình. Nếu ngươi học cách hợp tác hài hòa, thì ngoài việc giúp ngươi học hỏi từ những điểm mạnh của người khác, nó còn có thể tỏ lộ sự kiêu ngạo và tự cho mình là đúng của ngươi, và ngăn ngươi tưởng rằng mình thông minh. Khi không còn xem mình cao minh hơn và giỏi hơn người khác, ngươi sẽ thôi không còn sống trong trạng thái tự yêu mình, tự ngưỡng mộ mình. Đấy chẳng phải là sự bảo vệ cho ngươi sao? Đó là bài học mà ngươi nên học và là lợi ích ngươi nên đạt được khi hợp tác với người khác.

Khi Ta tiếp xúc với mọi người, đa số mọi người nói gì, Ta đều để ý lắng nghe, Ta sẽ để ý quan sát đủ mọi loại người, để ý nghe đủ mọi loại người nói chuyện, học biết ngôn ngữ và cách nói của đủ mọi loại người. Chẳng hạn như, trước đây ngươi cho rằng đa số mọi người chỉ có một chút kiến thức văn hóa, nhưng không hiểu nghiệp vụ, nên không cần tiếp xúc với họ. Nhưng thực ra nghĩ vậy là không đúng. Khi tiếp xúc với những người này, thậm chí khi tiếp xúc một người đặc biệt nào đó, thì ngươi sẽ có thể hiểu ra những thứ trong sâu thẳm nội tâm họ mà ngươi vốn không nhìn thấy và không ý thức được. Chẳng hạn như tư tưởng và quan điểm của người ta có cái lệch lạc, cũng có cái chính đáng hơn, dĩ nhiên, cái “chính đáng” này cũng có khả năng còn cách rất xa lẽ thật và không có liên quan gì đến lẽ thật. Nhưng như vậy là ngươi có thể biết rõ thêm một mặt trong nhân tính của người ta. Chuyện này có tốt cho ngươi không? (Thưa, có.) Đây gọi là kiến thức, cũng là một cách để phát triển kiến thức. Có vài người nói: “Phát triển những thứ này thì có tác dụng gì chứ?”. Nó sẽ có ích cho việc hiểu rõ, phân định và mổ xẻ đủ mọi loại người, càng có ích cho việc giúp đỡ đủ mọi loại người. Đây là lộ trình để làm rất nhiều công tác. Có một vài người giả thuộc linh cho rằng: “Tin Đức Chúa Trời rồi thì không nghe đài, không nghe tin tức, không đọc báo chí, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài nữa. Người trong mọi ngành nghề đều là ma quỷ cả!”. Vậy thì ngươi sai rồi! Ngươi có lẽ thật mà còn sợ tiếp xúc với ma quỷ sao? Đức Chúa Trời ở trong cõi thuộc linh còn có lúc giao tiếp với Sa-tan, vậy Đức Chúa Trời có bị biến đổi không? Một chút cũng không. Ngươi sợ giao tiếp với ma quỷ, trong cái sợ này đã có vấn đề rồi. Thực ra, nên sợ rằng ngươi không hiểu lẽ thật, sợ rằng đối với việc tin Đức Chúa Trời và lẽ thật thì trong lòng ngươi không lĩnh hội đúng đắn, không có quan điểm đúng đắn, lại còn có nhiều quan niệm và tưởng tượng, cũng như quá giáo điều. Cho nên, bất kể ngươi là lãnh đạo, người làm công hay trưởng nhóm, bất kể ngươi đảm nhận công tác gì, đóng vai trò gì, thì ngươi đều phải học cách hợp tác với người khác, giao tiếp với người khác, đừng nói lời hoa mỹ suông, đừng lúc nào cũng giả vờ thanh cao và khiến người khác nghe mình. Nếu ngươi luôn nói lời hoa mỹ suông, chẳng bao giờ thực hành được lẽ thật, chẳng thể hợp tác với người khác, thì đó là ngươi tự làm xấu mặt mình, ai còn để ý đến ngươi nữa? Những người Pha-ri-si đã gục ngã như thế nào? Chính là vì họ luôn nói về lý luận thần học, nói lời hoa mỹ suông. Họ nói mãi nói mãi mà trong lòng chẳng có Đức Chúa Trời – họ đã phủ nhận Đức Chúa Trời, lại còn lợi dụng quan niệm, luật pháp và quy định của con người mà định tội và chống đối Đức Chúa Trời, đóng đinh Đức Chúa Trời lên thập tự giá. Cả ngày họ cầm quyển kinh thánh mà đọc và nghiên cứu, đọc thuộc lòng vanh vách kinh thánh, cuối cùng thì thế nào? Họ chẳng biết Đức Chúa Trời ở đâu hay tâm tính của Đức Chúa Trời là gì, Đức Chúa Trời bày tỏ nhiều lẽ thật như vậy mà họ chẳng tiếp nhận chút nào, lại còn có thể chống đối và định tội Ngài. Vậy chẳng phải họ tiêu tùng rồi sao? Kết quả thế nào, các ngươi đều biết rõ rồi. Khi tin Đức Chúa Trời, trong lòng các ngươi có quan điểm sai lầm như thế không? Các ngươi có khép kín bản thân không? (Thưa, có.) Các ngươi xem Ta có khép kín bản thân không? Có lúc Ta xem tin tức, có lúc Ta xem các chương trình phỏng vấn khách mời đặc biệt hoặc đại loại như vậy, có lúc Ta tán gẫu với các anh chị em, có lúc Ta nói chuyện với người nấu ăn và vệ sinh. Gặp ai, Ta cũng nói đôi lời. Ngươi đừng cảm thấy vì ngươi đảm nhận một công tác, có sở trường gì đó, thậm chí là vì ngươi đảm nhiệm một sứ mạng đặc biệt, mà ngươi đặc biệt hơn người khác, nghĩ như vậy là sai rồi. Ngay khi ngươi cảm thấy bản thân đặc biệt hơn người khác, thì quan điểm sai lầm đó vô hình trung sẽ nhốt ngươi trong lồng, dùng tường đồng vách sắt mà bao bọc ngươi khỏi bên ngoài. Sau đó, ngươi cảm thấy bản thân mình ngồi tít trên cao, không được làm cái này, không được làm cái kia, không được nói chuyện với loại người này, không được chuyện trò với loại người kia, cũng không được cười to, cuối cùng thì thế nào? Ngươi biến thành dạng người gì? (Thưa, thành người lẻ loi cô độc.) Họ thành lẻ loi cô độc rồi. Ngươi xem hoàng đế thời xưa lúc nào cũng nói “quả nhân thế này thế kia”, “quả nhân cho rằng”, lúc nào cũng gọi mình là quả nhân, nghĩa là người cô độc. Ngươi luôn gọi mình là người cô độc, cảm thấy bản thân vĩ đại dường nào, vĩ đại đến nỗi thành thiên tử rồi sao? Ngươi là thiên tử sao? Về thực chất, ngươi là người bình thường. Nếu ngươi luôn cảm thấy bản thân vĩ đại và siêu phàm thì phiền phức rồi, thế nào cũng có chuyện. Ngươi mang theo quan điểm sai lầm đó mà đối nhân xử thế, thì phương thức và phương pháp hành động của ngươi chắc chắn sẽ thay đổi, nguyên tắc của ngươi cũng thay đổi. Ngươi luôn cảm thấy mình là người cô độc, ngồi tít trên cao, thấy mình không nên làm việc này, không nên làm việc kia, cảm thấy làm những việc như vậy thì không phù hợp với địa vị và thân phận của ngươi. Vậy chẳng phải là có chuyện rồi sao? (Thưa, phải.) Ngươi cảm thấy: “Mình có địa vị này, không thể chuyện gì cũng nói với người khác được!”, “Mình có địa vị này, không thể nói với người khác rằng mình cũng có sự phản nghịch!”, “Mình có thân phận này, không thể nói với người khác về sự yếu đuối, khiếm khuyết, tật xấu và thiếu học vấn của mình. Tuyệt đối không được để người khác biết những chuyện này!”. Ngươi làm vậy có mệt không? (Thưa, mệt.) Ngươi sống mệt mỏi đến vậy thì có thể làm tốt bổn phận không? (Thưa, không thể.) Vấn đề này phát xuất từ đâu? Vấn đề phát xuất từ quan điểm của ngươi về bổn phận và địa vị. Bất kể ngươi làm chức “quan” to chừng nào, giữ chức vụ gì, quản bao nhiêu người, thực ra chỉ là khác biệt về bổn phận thôi, ngươi và những người khác chẳng có gì khác nhau cả. Chuyện này ngươi nhìn không thấu, trong lòng luôn cảm thấy: “Không phải là bổn phận khác nhau, mà thực sự là thân phận khác nhau. Mình phải ở trên người khác, sao có thể hợp tác với người khác được chứ? Người khác hợp tác với mình thì còn được, chứ mình thì không thể hợp tác với người khác!”. Ngươi luôn nghĩ như vậy, luôn muốn ngồi tít trên cao, luôn muốn đứng trên vai người khác, đứng trên người khác mà nhìn xuống, vậy thì không dễ để hợp tác với người khác. Ngươi luôn cảm thấy: “Họ thì biết gì chứ? Nếu họ biết thì anh chị em đã chọn họ làm lãnh đạo rồi. Sao lại chọn mình chứ? Chính là vì mình giỏi hơn họ. Mình không nên bàn thảo với họ, vì bàn thảo với họ thì chứng tỏ mình không hơn họ rồi. Để chứng tỏ mình hơn họ thì mình không thể bàn thảo với bất kỳ ai. Không có ai xứng để bàn thảo công tác với mình, ai cũng không xứng!”. Kẻ địch lại Đấng Christ nghĩ như vậy đấy.

Ở Trung Quốc đại lục, Đảng Cộng sản trấn áp tôn giáo tín ngưỡng, hoàn cảnh tồi tệ, ai tin Đức Chúa Trời thì lúc nào cũng có nguy cơ bị bắt, nên lãnh đạo và người làm công không nhóm họp thường xuyên lắm. Có lúc cả tháng không thể họp đồng sự, phải chờ khi nào hoàn cảnh cho phép hoặc tìm được địa điểm thích hợp thì mới họp. Vậy thì làm sao tiến hành công tác đây? Khi có sắp xếp công tác thì phải tìm người để giao đi. Có lần, chúng ta tìm được một người anh em ở gần đó để giao bản sắp xếp công tác cho một lãnh đạo khu vực. Người anh em này là tín hữu bình thường, anh ấy giao được bản sắp xếp công tác đến nơi rồi, thì lãnh đạo khu vực đọc một lượt rồi nói: “Hừm, đúng như mình dự tính mà”. Lãnh đạo này đang khoe khoang điều gì trước mặt người anh em này? Đây gọi là vung vẩy oai phong, khiến người khác nhìn vào liền thấy: “Trời, có tôn nghiêm quá chừng, có phong thái quá chừng!”. Thế còn chưa là gì, ngay sau đó, lãnh đạo này liền nói: “Cử người này giao bản sắp xếp công tác cho tôi sao? Cấp bậc người này không đủ cao!”. Ý của câu này là: “Tôi là lãnh đạo khu vực, là lãnh đạo lớn, sao có thể để một tín hữu bình thường giao đồ cho tôi? Chẳng phải như thế là vượt cấp sao? Bề trên thật sự xem thường tôi rồi, tôi là lãnh đạo khu vực đấy, ít ra cũng phải cử lãnh đạo tiểu khu giao đến cho tôi, ai lại cử một tín hữu bình thường thấp kém nhất để giao cho tôi chứ? Cấp bậc người này không đủ cao!”. Lãnh đạo này là thứ gì vậy? Anh ta nói người giao đồ có cấp bậc không đủ cao thì anh ta trân quý địa vị đến mức nào rồi? Ngươi cho cọng lông gà mà anh ta xem đó là lệnh tiễn, đây chẳng phải là thứ ma quỷ sao? (Thưa, phải.) Đây chính là thứ ma quỷ. Các ngươi nói xem, chúng ta làm công tác trong hội thánh, ai giao đồ gì hoặc truyền tin gì, thì chúng ta có kén chọn không? Trong hoàn cảnh ở Trung Quốc đại lục, anh chị em mà giao những thứ này thì đều gặp nguy hiểm cực lớn, thế mà khi người anh em này giao đồ đến nơi lại còn bị nói là cấp bậc không đủ cao, ngụ ý rằng phải tìm cho ra người có cấp bậc đủ cao, có thân phận và địa vị tương xứng với lãnh đạo này để làm việc giao đồ, như thế mới là không xem thường lãnh đạo này – đây chẳng phải là tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ sao? (Thưa, phải.) Đây chính là tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ. Thứ ma quỷ này chẳng làm được công tác thực tế gì, cũng chẳng có bản lĩnh gì, mà còn yêu cầu như vậy, còn xem trọng địa vị như vậy. Câu nói cửa miệng của người này là gì? Là “Cấp bậc người này không đủ cao”. Ai nói chuyện với họ thì trước hết họ sẽ hỏi: “Anh là lãnh đạo cấp nào? Trưởng nhóm nhỏ à? Đứng qua một bên đi, cấp bậc của anh không đủ cao!”. Nếu người anh em Bề trên nhóm họp, thì anh ta sẽ luôn đi đầu, nói rằng: “Trong số các lãnh đạo của hội thánh, người anh này là cao nhất, tiếp theo đến tôi. Anh ấy ngồi đâu, tôi sẽ ngồi ngay bên cạnh, theo cấp bậc là vậy mà!”. Trong mắt họ phân chia rạch ròi đến vậy. Làm vậy chẳng phải là vô liêm sỉ sao? (Thưa, phải.) Quá vô liêm sỉ, không tự biết mình! Vô liêm sỉ đến mức độ nào? Đến mức khiến người ta kinh tởm. Dù mang cấp bậc lãnh đạo, nhưng anh ta làm được gì? Làm tốt thế nào? Ngươi phải có chút thành quả thì mới có thể nói chuyện tư cách, như vậy mới thích hợp và hợp lôgic. Không có thành quả gì, cũng không làm công tác gì, mà còn bàn chuyện cấp bậc! Vậy anh ta là cấp bậc gì? Ngươi làm lãnh đạo khu vực mà không làm được bao nhiêu công tác thực tế, thì cũng không đủ cấp bậc. Nếu Ta bàn về cấp bậc, thì có người nào có thể gần gũi Ta được không? Không có một ai. Các ngươi thấy Ta tiếp xúc với người khác thì có phân cấp bậc không? Không có, bất kể là gặp mặt ai, hễ nói chuyện được thì Ta nói chuyện một chút, không có thời gian thì Ta chào hỏi rồi thôi. Còn kẻ địch lại Đấng Christ này thì không nghĩ như thế. Họ xem thân phận, địa vị và giá trị bản thân là thứ quan trọng hơn hết thảy, thậm chí còn quý hơn cả mạng sống. Khi cùng nhau làm bổn phận thì các ngươi có phân cấp bậc không? Có một vài người làm việc gì cũng phân cấp bậc, hở một cái là nói người này người kia công tác vượt cấp, thông báo vượt cấp. Vượt cấp gì chứ? Ngươi làm tốt bổn phận đã rồi hẵng nói. Bổn phận gì cũng làm không tốt, công tác gì cũng làm không xong, mà còn phân cấp, ai bảo ngươi làm vậy? Giờ chưa đến lúc phân cấp đâu, ngươi phân cấp bây giờ là quá sớm rồi, chẳng tự biết mình gì cả. Có những lúc chúng ta đến một nơi nào đó, tìm người ở đó giải quyết vấn đề. Khi tìm người thích hợp cho việc này, chúng ta có dựa trên cấp bậc không? Căn bản chúng ta không làm vậy, nếu như công tác này do ngươi phụ trách thì sẽ tìm ngươi, nếu ngươi không có mặt thì tìm người khác. Chúng ta không phân cấp, cũng không phân địa vị cao thấp. Người nào muốn phân cấp thì người đó không tự biết mình, cũng không hiểu nguyên tắc. Ở trong nhà Đức Chúa Trời mà phân chia địa vị, cấp bậc, cấp hàm chi tiết như người ngoại đạo, thì ngươi đúng là quá thiếu lý trí rồi! Ngươi không hiểu lẽ thật, còn thiếu quá nhiều, cũng chẳng hiểu việc tin Đức Chúa Trời là gì.

Chúng ta vừa nói đến việc thực hành hợp tác với người khác, đây có phải là chuyện dễ không? Người nào có thể tìm kiếm lẽ thật, có chút ý thức liêm sỉ, có nhân tính, lương tâm và lý trí thì đều có thể thực hành hợp tác với người khác. Còn những ai không có nhân tính, luôn muốn độc bá địa vị, luôn suy xét đến tôn nghiêm, địa vị và danh lợi của mình thì không thể hợp tác với người khác. Đương nhiên, đây cũng là một biểu hiện chính của những kẻ địch lại Đấng Christ: không hợp tác với bất kỳ ai, cũng chẳng thể đạt đến hợp tác hài hòa với bất kỳ ai. Họ không thực hành nguyên tắc này. Nguyên nhân là gì? Vì họ không sẵn lòng buông bỏ quyền hành, không sẵn lòng để người khác nghĩ rằng có những chuyện họ không nhìn thấu được, rằng có những việc họ cần hỏi xin ý kiến người khác. Họ cho người khác một ấn tượng sai lầm, khiến người khác cho rằng việc gì họ cũng làm được, cái gì họ cũng biết, cái gì họ cũng hiểu, thông tỏ mọi sự, với họ thì việc gì cũng ổn, việc gì cũng có thể, việc gì cũng làm được, không cần người khác, không cần sự giúp đỡ, cảnh tỉnh và đề xuất của người khác. Một mặt là vậy. Mặt khác, tâm tính rõ ràng nhất của những kẻ địch lại Đấng Christ là gì? Chính là, ngươi tiếp xúc với họ, thông qua một hai câu nói của họ thì có thể nhìn thấu họ có loại tâm tính gì? Là tâm tính kiêu ngạo. Họ kiêu ngạo đến mức độ nào? Chính là không có lý trí, giống như bị bệnh thần kinh vậy. Chẳng hạn như, họ uống một ngụm nước mà tạo dáng rất đẹp, thế là họ lấy đó làm cái để khoe khoang, nói rằng: “Chị xem dáng uống nước của tôi đẹp chưa kìa”. Họ cực kỳ khoe khoang và phô trương, đặc biệt là không biết xấu hổ, không có liêm sỉ. Kẻ địch lại Đấng Christ chính là vậy. Trong mắt họ, không có ai bằng họ, họ cực kỳ phô trương, chẳng tự biết mình. Có một số kẻ địch lại Đấng Christ cực kỳ xấu xí, nhưng lại nghĩ diện mạo của mình đẹp lắm, có mặt trái xoan, mắt như hạt hạnh nhân, mày lá liễu. Họ chẳng tự biết mình chút nào. Người bình thường sống đến ba bốn mươi tuổi thì cơ bản đã xác định được chính xác về ngoại hình và tài cán của mình, nhưng loại người địch lại Đấng Christ thì không có phương diện lý tính này. Đây là vấn đề gì? Chính là tâm tính kiêu ngạo của họ vượt quá phạm vi của lý tính bình thường. Họ kiêu ngạo đến mức độ nào? Đến mức ngoại hình như con cóc mà nói mình trông như thiên nga, có chút bất chấp đúng sai, đảo ngược mọi chuyện. Họ kiêu ngạo đến mức độ không còn liêm sỉ, không biết kiềm chế. Người bình thường mà tự khen mình đẹp thì sẽ thấy đó là chuyện không đáng nói và còn biết ngại, khen mình xong thì xấu hổ cả ngày, mặt cứ đỏ lên. Còn loại người địch lại Đấng Christ thì chẳng đỏ mặt, họ khen bản thân đã làm việc tốt gì, có điểm mạnh gì, bản thân tốt thế nào, hơn người khác ra sao, thì lời lẽ cứ thế mà tuôn ra, nói chuyện như bình thường, chẳng đỏ mặt gì cả! Đây chính là kiêu ngạo không có giới hạn, không có liêm sỉ hay lý tính gì nữa. Cho nên trong mắt họ, mỗi một người bình thường, nhất là mỗi một người biết tìm kiếm lẽ thật, có lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường, có tư duy bình thường, thì đều là người xoàng xĩnh, chẳng có tài cán gì, chẳng được như họ, cũng không có sở trường và ưu điểm như họ. Có thể nói, vì cao ngạo mà họ cho rằng hết thảy mọi người đều không như họ. Chính vì nguyên nhân này mà họ làm gì cũng không muốn hợp tác và bàn thảo với bất kỳ ai. Bất kể là lúc nghe giảng đạo, đọc lời Đức Chúa Trời, thấy sự vạch rõ trong lời Đức Chúa Trời, hoặc bị người khác tỉa sửa, họ đều không thừa nhận bản thân có bộc lộ sự bại hoại hoặc có vi phạm, càng không thừa nhận bản thân kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, họ không nhận thức được rằng bản thân họ là một người bình thường và có tố chất trung bình. Những điều này họ không nhận thức được. Bất kể ngươi tỉa sửa thế nào, họ cũng cảm thấy bản thân họ có tố chất tốt, cao hơn người thường, đây chẳng phải là hết thuốc chữa rồi sao? (Thưa, phải.) Như thế là hết thuốc chữa rồi, kẻ địch lại Đấng Christ là vậy. Cho dù bị tỉa sửa thế nào, họ cũng không thể cúi đầu thừa nhận rằng bản thân không ổn và bất lực. Trong mắt họ, thừa nhận vấn đề, lỗi lầm và sự bại hoại của mình thì cũng giống như bị định tội và phải diệt vong, cách nghĩ của họ là vậy. Họ cảm thấy ngay khi người khác nhìn ra lỗi lầm của họ, hoặc khi họ thừa nhận mình có tố chất kém, không có hiểu biết thuộc linh, không hăng hái và không có ý tin Đức Chúa Trời, thì địa vị của họ sẽ khó mà bảo toàn, sẽ không còn địa vị nữa. Họ cảm thấy: “Không có địa vị thì sống còn ý nghĩa gì nữa? Chi bằng chết cho xong!”. Nếu có địa vị rồi, thì họ sẽ kiêu ngạo đến mức không kìm nén nổi, làm xằng làm bậy, lỡ như đâm đầu vào tường và bị tỉa sửa, thì họ sẽ muốn bỏ ngang công việc, tiêu cực và biếng nhác. Ngươi muốn khiến họ làm việc theo nguyên tắc lẽ thật, thì chỉ phí công mà thôi. Họ nghĩ gì nào? “Sao anh không cho tôi địa vị và để tôi hành động một mình? Bảo tôi hợp tác với người khác là chuyện bất khả thi! Đừng tìm cộng sự cho tôi, tôi không cần, chẳng ai xứng để hợp tác với tôi cả. Hay là đừng dùng tôi nữa, bảo người khác làm đi!”. Đây là thứ gì vậy? Một núi không thể có hai hổ – đây là tâm lý và biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ. Đây có phải là hết thuốc chữa rồi không? (Thưa, phải.)

Trong điều thứ nhất: kẻ địch lại Đấng Christ không thể hợp tác với bất kỳ ai, cái “không thể” này bao gồm những gì? Là không hợp tác với bất kỳ ai, cũng không đạt đến được việc hợp tác với người khác, có phải là hai điểm này không? Bao gồm hai hàm ý này, và điều này do thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ quyết định. Cho dù có người cùng hợp tác làm công tác với họ, nhưng về thực chất thì đó không phải là hợp tác thực sự, mà chỉ là làm tùy tùng, phụ họa cho họ, chạy việc vặt và làm việc cho họ, chứ căn bản chẳng đáng được xem là hợp tác. Vậy nên định nghĩa “hợp tác” thế nào? Trên thực tế, mục đích tối hậu của hợp tác chính là để đạt đến hiểu nguyên tắc lẽ thật, làm việc theo nguyên tắc lẽ thật, giải quyết mỗi một vấn đề, đưa ra quyết định đúng đắn, hợp nguyên tắc và không có sai lệch, giảm thiểu sai sót trong công tác, để cho mọi việc ngươi làm đều là đang thực hiện bổn phận chứ không phải bừa phứa làm càn hay làm xằng làm bậy. Biểu hiện thứ nhất trong chuyện kẻ địch lại Đấng Christ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời, chính là họ không thể hợp tác với bất kỳ ai. Có người nói: “Không thể hợp tác với bất kỳ ai đâu đồng nghĩa với việc khiến người khác chỉ thuận phục họ”. Không thể hợp tác với bất kỳ ai nghĩa là họ không nghe lời của bất kỳ ai, không hỏi ý kiến bất kỳ ai, thậm chí cũng không tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời hay nguyên tắc lẽ thật, mà chỉ dựa vào ý riêng của mình để làm việc và hành động. Ngụ ý của điều này là gì? Nghĩa là khi làm công tác thì họ đang nắm quyền chứ không phải là lẽ thật và Đức Chúa Trời nắm quyền. Cho nên, nguyên tắc làm việc của họ là khiến người khác nghe họ, đối đãi với họ như lẽ thật và Đức Chúa Trời. Tính chất của chuyện này là vậy phải không? Có người nói: “Không thể hợp tác với bất kỳ ai, thì có khả năng là họ hiểu lẽ thật và không cần hợp tác với người khác làm gì”. Chuyện này có phải vậy không? Người nào càng hiểu lẽ thật, càng thực hành lẽ thật, thì khi làm việc càng biết hỏi ý kiến và tìm kiếm từ nhiều nguồn, càng bàn thảo và thông công với nhiều người hơn, nỗ lực giảm thiểu tối đa tổn thất và xác suất sai sót. Người càng hiểu lẽ thật thì càng có lý trí, càng sẵn lòng hợp tác với người khác, càng có thể hợp tác với người khác. Không phải vậy sao? Người nào càng không sẵn lòng và không thể hợp tác với người khác thì sẽ không muốn nghe bất kỳ ai, không muốn tham khảo đề xuất của bất kỳ ai, khi làm việc thì không suy xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, cũng không sẵn lòng tìm kiếm xem làm vậy có hợp với nguyên tắc lẽ thật hay không – dạng người này càng không tìm kiếm lẽ thật và không thể hiểu lẽ thật. Họ ngộ nhận điều gì? Đó là “Các anh chị em chọn tôi làm lãnh đạo, đức chúa trời cho tôi cơ hội này để làm lãnh đạo, vậy mọi việc tôi làm đều sẽ hợp lẽ thật, làm gì cũng đúng cả!”. Đây có phải là hiểu lầm không? Tại sao họ lại có dạng hiểu lầm này? Chắc chắn một điều rằng, loại người này không yêu thích lẽ thật, còn có một điểm nữa là họ hoàn toàn không hiểu lẽ thật, đây là chuyện không còn nghi ngờ gì nữa.

Kẻ địch lại Đấng Christ không thể hợp tác với bất kỳ ai, đây là vấn đề nghiêm trọng. Bất kể kẻ địch lại Đấng Christ làm bổn phận gì, hợp tác với ai, thì sẽ luôn có mâu thuẫn và tranh chấp. Có người nói: “Nếu người này mà phụ trách chuyện vệ sinh, ngày ngày dọn dẹp trong nhà, thì có gì để mà không hợp tác được chứ?”. Trong chuyện này có vấn đề về tâm tính: Nghĩa là bất kể sống chung với ai, hay làm việc với ai, thì họ luôn xem thường người khác, luôn muốn dạy dỗ người khác, khiến người khác nghe lời họ. Các ngươi nói xem, dạng người này có thể hợp tác được với ai chứ? Không hợp tác được với ai cả, nghĩa là tâm tính bại hoại của họ quá nghiêm trọng rồi. Họ chẳng những không hợp tác được với người khác, mà còn luôn đứng trên cao mà dạy dỗ người khác, kìm kẹp người khác, luôn muốn cưỡi trên đầu người khác mà ép người ta thuận theo họ. Đây không chỉ là vấn đề về tâm tính, mà còn là vấn đề nghiêm trọng về nhân tính, là không có lương tâm và lý trí. Kẻ ác là vậy, hợp tác với ai cũng không được, chẳng hợp với ai cả. Giữa người với người có những điểm chung nào trong nhân tính? Những điều nào có thể tương hợp với nhau? Lương tâm và lý trí, cùng thái độ yêu thích lẽ thật chính là những điểm chung. Nếu như ai cũng có nhân tính bình thường như vậy thì sẽ có thể chung sống được với nhau, còn nếu không có nhân tính bình thường, thì không có cách nào chung sống với nhau được. Nếu một người có, còn người kia thì không, vậy thì cũng không có cách nào chung sống. Người tốt và kẻ xấu không có cách nào chung sống với nhau, người thiện và kẻ ác cũng không có cách nào chung sống với nhau. Để người với người có thể chung sống bình thường thì phải có những điều kiện nhất định: ít ra phải có lương tâm và lý trí, phải có sự nhẫn nại và bao dung, như vậy mới có thể hợp tác với nhau được. Để có thể hợp tác với nhau khi làm bổn phận thì phải đồng tâm hợp ý, có thể lấy mạnh bù yếu cho nhau, có thể nhẫn nại và bao dung, có ranh giới trong hành xử. Như vậy mới có thể chung sống hòa thuận, cho dù cũng có lúc nảy sinh mâu thuẫn và tranh chấp, nhưng vẫn có thể tiếp tục hợp tác, ít ra cũng không nảy sinh sự đối địch với nhau. Nếu như một người không có ranh giới trong hành xử, không dùng đến lương tâm và lý trí, khi hành động thì lấy chữ “lợi” làm đầu, chỉ biết vụ lợi, luôn muốn lợi dụng người khác, vậy thì không có cách nào hợp tác được rồi. Giữa kẻ ác với nhau, giữa ma vương với nhau cũng như vậy, cứ tranh đấu với nhau, dây dưa không dứt. Đủ loại tà linh trong cõi thuộc linh cũng đều không tương hợp với nhau. Mặc dù có lúc ma quỷ cũng có thể kết thành đồng minh, nhưng đó đều là lợi dụng lẫn nhau để đạt được những mục đích riêng. Chúng kết thành liên minh thì cũng chỉ là tạm thời, chẳng được bao lâu thì sẽ tự động tan rã. Con người với nhau cũng như vậy. Người không có nhân tính thì luôn là con sâu làm rầu nồi canh, chỉ những người có nhân tính bình thường mới dễ dàng hợp tác với người khác, có thể bao dung và nhẫn nhịn với người khác, cũng có thể lắng nghe ý kiến của người khác, khi công tác cũng có thể buông bỏ địa vị của mình mà bàn thảo với người khác. Mặc dù họ cũng có tâm tính bại hoại, cũng luôn muốn khiến người khác nghe lời mình – ngay cả họ cũng có ý định này – nhưng vì họ có lương tâm và lý trí, có thể tìm kiếm lẽ thật, biết mình, cảm thấy làm như vậy là không thích hợp, trong lòng họ thấy cắn rứt và có thể chịu sự ràng buộc, cho nên phương thức và phương pháp hành động của họ sẽ thay đổi từng chút một, như vậy thì họ sẽ có thể hợp tác với người khác. Họ chỉ có sự bộc lộ của tâm tính bại hoại, chứ họ không phải kẻ ác, cũng không có thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ, nên việc hợp tác với người khác không phải là vấn đề lớn. Còn nếu họ là kẻ ác, là kẻ địch lại Đấng Christ, thì sẽ không có cách nào hợp tác với người khác được. Nhà Đức Chúa Trời thanh trừ kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ như vậy đấy. Họ không thể hợp tác hài hòa với bất kỳ ai, kết quả là bị tỏ lộ và đào thải. Còn có nhiều người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, sau khi trải nghiệm nhiều sự tỉa sửa, thì có thể tiếp nhận lẽ thật, thực sự hối cải, cũng có thể bao dung và nhẫn nại với người khác. Dạng người này sẽ có thể dần dần đạt đến hợp tác hài hòa với người khác. Chỉ có kẻ địch lại Đấng Christ là không thể hợp tác với ai, bất kể bộc lộ bao nhiêu tâm tính bại hoại, họ cũng không biết tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, vẫn cứ việc ta ta làm, bừa phứa làm càn. Họ chẳng những không thể hợp tác hài hòa với người khác, mà hễ thấy ai biết phân định họ, bất mãn với họ, thì họ còn trừng trị người ta, có thái độ bài xích và đối địch với người ta, vì không đội trời chung với người ta mà không ngại gây chậm trễ cho công tác của hội thánh. Điều này do thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ quyết định.

Khi rèn luyện chuyện hợp tác hài hòa, các ngươi nên học được bài học nào? Là học hợp tác với người khác, đây là một phương diện thực hành của việc yêu thích lẽ thật, cũng là một dấu hiệu của phương diện này. Nó là một mặt biểu hiện tối thiểu phải có của người có lương tâm và lý tính. Ngươi nói mình có lương tâm, có tôn nghiêm, còn có lý tính, nhưng lại không hợp tác được với ai, cũng không hòa hợp với người nhà, người ngoài hay bạn bè, chung sống với nhau thì tan đàn xẻ nghé, cùng làm với nhau thì tranh chấp mãi không thôi, rồi thành thù địch với nhau. Nếu lúc nào cũng không hòa hợp được với ai thì nguy hiểm cho ngươi rồi. Nếu mặt biểu hiện này là một biểu hiện trong những tâm tính bại hoại của ngươi hoặc trong những hành vi không phù hợp lẽ thật của ngươi, và chỉ là một biểu hiện mà thôi, một biểu hiện mà bản thân ngươi biết, cũng không ngừng tìm kiếm và thay đổi, vậy thì ngươi vẫn còn cơ hội, còn có khả năng cứu vãn, vấn đề chưa lớn. Nếu ngươi là loại người này, bẩm sinh đã không hòa hợp với ai, nói gì cũng vô ích, bản thân ngươi không khắc chế chuyện này được, thì vấn đề nghiêm trọng rồi. Nếu được thông công lẽ thật cỡ nào mà ngươi vẫn cứ không xem chuyện đó ra gì, còn cảm thấy vấn đề này không phải chuyện lớn, chỉ là cuộc sống bình thường của ngươi, là biểu hiện chính trong tâm tính bại hoại của ngươi thôi, vậy thì ngươi có thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ rồi. Nếu ngươi có thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ, thì chuyện này khác hẳn với việc đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ. Có một số người đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, số khác lại chính là kẻ địch lại Đấng Christ, hai chuyện này có khác nhau không? (Thưa, có.) Người đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ thì khi hành động sẽ có những biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ, có thể bộc lộ tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ một cách nổi bật và rõ rệt hơn so với người thường, nhưng họ vẫn có thể làm một vài công tác hợp với lẽ thật, có nhân tính và lý trí. Nếu như chẳng làm được công tác tích cực gì, mọi việc họ làm đều là biểu hiện và sự bộc lộ của kẻ địch lại Đấng Christ – nếu mọi công tác và bổn phận họ làm đều là những sự bộc lộ này, mà không có thứ gì phù hợp lẽ thật – thì họ chính là kẻ địch lại Đấng Christ.

Một số lãnh đạo và người làm công trước đây thường bộc lộ những tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ: Họ bừa phứa làm càn, độc đoán chuyên quyền. Nhưng họ không phạm việc ác lớn rõ ràng nào, nhân tính cũng không quá tệ. Thông qua sự tỉa sửa, thông qua sự giúp đỡ của các anh chị em, thông qua việc bị thuyên chuyển hoặc cách chức, sau khi tiêu cực trong một thời gian, cuối cùng họ bắt đầu nhận thức được những gì mình đã bộc lộ trước đây là tâm tính bại hoại, họ sẵn lòng hối cải và cảm thấy rằng: “Dù thế nào đi nữa, điều quan trọng nhất là kiên trì thực hiện bổn phận của mình. Dù mình đang đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng chưa bị xác định tính chất là kẻ địch lại Đấng Christ. Đây là lòng thương xót của Đức Chúa Trời, vì vậy mình phải tin cho tốt, mưu cầu cho tốt. Đi con đường mưu cầu lẽ thật thì không sai chút nào”. Từng chút một, họ quay đầu lại và sau đó hối cải. Họ có được những biểu hiện tốt, có thể tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật khi làm bổn phận, cũng tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật khi chung sống với người khác. Về mọi mặt, họ đang hướng về phía tốt hơn để bước vào. Vậy thì, chẳng phải họ đã thay đổi rồi sao? Đây là đang chuyển từ việc đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ sang con đường thực hành và mưu cầu lẽ thật. Như vậy là họ có hy vọng và cơ hội đạt được sự cứu rỗi. Ngươi có thể vì họ đã từng có một số biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ hoặc đã đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ mà xác định tính chất của họ là kẻ địch lại Đấng Christ không? Không. Kẻ địch lại Đấng Christ thì thà chết chứ không hối cải. Họ không có liêm sỉ; tâm tính thì hung ác và tà ác, lại còn chán ghét lẽ thật đến cùng cực. Người chán ghét lẽ thật đến cùng cực thì còn có thể thực hành lẽ thật và hối cải không? Đây là chuyện bất khả thi. Họ chán ghét lẽ thật đến cùng cực, điều này quyết định rằng họ tuyệt đối sẽ không hối cải. Người có thể hối cải thì có một điều chắc chắn, đó là họ từng phạm sai lầm nhưng có thể tiếp nhận sự phán xét và hình phạt trong lời Đức Chúa Trời, có thể tiếp nhận lẽ thật, còn có thể dốc hết sức cộng tác khi làm bổn phận, xem lời Đức Chúa Trời là phương châm sống và là thực tế trong cuộc sống của mình. Như vậy là họ tiếp nhận lẽ thật, trong sâu thẳm nội tâm họ không chán ghét lẽ thật. Đây chẳng phải là điểm khác biệt sao? Đây chính là điểm khác biệt. Còn kẻ địch lại Đấng Christ thì chẳng những không tiếp nhận sự tỉa sửa, ai nói phù hợp lẽ thật cũng không chịu nghe, mà còn không tin và không thừa nhận rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, vậy bản tính của họ là gì? Chính là cực kỳ chán ghét lẽ thật, thù hận lẽ thật. Ai thông công về lẽ thật hoặc nói lời chứng trải nghiệm là họ thấy cực kỳ ác cảm, còn muốn thù hằn người thông công về lẽ thật. Nếu trong hội thánh mà có người gieo rắc đủ loại luận điệu tà ác và lố bịch, nói ra những câu hoang đường và lố bịch, thì họ sẽ đặc biệt vui vẻ, nhanh chóng hùa theo, vào cùng một giuộc và hợp tác chặt chẽ với những người đó, đây chính là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, cùng loại thì tìm đến nhau. Hễ nghe thấy dân được Đức Chúa Trời chọn thông công về lẽ thật, nói lời chứng trải nghiệm về chuyện biết mình và thật lòng hối cải, thì họ sẽ giận điếng người, sẽ ngẫm nghĩ làm sao để bài xích và đả kích những người này. Tóm lại, hễ gặp người mưu cầu lẽ thật là họ sẽ thấy ngứa mắt, muốn bài xích, muốn đối địch. Còn gặp ai chuyên giảng câu chữ và đạo lý, phô trương bản thân, thì họ đặc biệt thích và tán thành người đó, như thể gặp được người tâm giao, bạn cùng chí hướng vậy. Nếu như có người nói: “Ai làm nhiều công tác, có công lao lớn, thì sẽ có thể được thưởng lớn, có mão triều thiên lớn, còn có thể cùng Đức Chúa Trời làm vua”, thì họ sẽ kích động vô cùng, nhiệt huyết dâng trào, cảm thấy bản thân cao hơn người ta một cái đầu, cuối cùng cũng được nên người xuất chúng, có không gian để thể hiện bản thân, có thể thể hiện giá trị của mình rồi. Thế là họ thấy rất thỏa mãn. Đây có phải là chán ghét lẽ thật không? Giả dụ ngươi thông công với họ rằng: “Đức Chúa Trời không thích người như Phao-lô. Ngài chán ghét nhất những người đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ và những người cả ngày cứ nói ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, không phải con đã vì Ngài mà làm nhiều việc sao?’. Ngài chán ghét những người suốt ngày cứ cầu xin Ngài ban thưởng và mão triều thiên”. Những lời này chắc chắn là lẽ thật, nhưng khi họ nghe mối thông công như vậy thì trong lòng sẽ cảm thấy thế nào? Họ có thưa “Amen” và tiếp nhận những lời này không? Phản ứng đầu tiên của họ là gì? Chính là trong lòng thấy ác cảm, không sẵn lòng nghe, ý của họ là: “Sao anh chắc chắn về những lời đó vậy? Lời anh nói mà cũng tính à? Tôi không tin những lời này! Tôi sẽ cứ làm như thế, sẽ như Phao-lô đòi Đức Chúa Trời ban mão triều thiên. Tôi làm vậy thì sẽ có thể được phúc, có thể có đích đến tốt đẹp!”. Họ còn bám giữ quan điểm của Phao-lô, làm vậy chẳng phải là đang đối đầu với Đức Chúa Trời sao? Làm vậy chẳng phải là chống đối Đức Chúa Trời một cách rõ ràng sao? Đức Chúa Trời đã vạch rõ và mổ xẻ thực chất của Phao-lô đến vậy, đã nói nhiều đến vậy, câu nào cũng là lẽ thật, vậy mà những kẻ địch lại Đấng Christ không tiếp nhận lẽ thật, không tiếp nhận sự thật rằng mọi hành vi và hành động của Phao-lô đều là chống đối Đức Chúa Trời. Trong lòng họ còn chất vấn rằng: “Anh nói thì là đúng sao? Dựa trên cái gì chứ? Tôi thấy lời nói và hành động của Phao-lô đều đúng cả, chẳng có sai lầm gì. Tôi mưu cầu mão triều thiên và phần thưởng, đấy là tôi có bản lĩnh! Anh có thể cản trở được tôi sao? Tôi sẽ mưu cầu làm công tác, làm nhiều thì sẽ có vốn liếng, có công lao, sẽ có thể vào thiên quốc và được ban thưởng. Làm vậy chẳng có gì không đúng cả!”. Họ ngoan cố như vậy đấy, chẳng tiếp nhận lẽ thật chút nào. Ngươi thông công về lẽ thật với họ thì họ nghe không lọt tai, lại còn thấy chán ghét. Đây chính là thái độ của kẻ địch lại Đấng Christ đối với lời Đức Chúa Trời, đối với lẽ thật và đối với Đức Chúa Trời. Vậy các ngươi nghe lẽ thật rồi thì có cảm giác gì? Các ngươi sẽ cảm thấy bản thân không mưu cầu cũng không hiểu được lẽ thật, còn kém rất xa, sau này phải nỗ lực vươn tới thực tế lẽ thật. Mỗi khi lấy lời Đức Chúa Trời mà đối chiếu với bản thân, thì các ngươi cảm thấy bản thân còn thiếu sót quá nhiều, tố chất thì kém, không có hiểu biết thuộc linh, lại còn qua loa chiếu lệ và tà ác, thế là các ngươi thấy tiêu cực. Tình trạng của các ngươi có phải là vậy không? Nhưng mà kẻ địch lại Đấng Christ thì chẳng bao giờ tiêu cực, lúc nào cũng hăng hái, chẳng bao giờ phản tỉnh bản thân và biết mình, lại còn cảm thấy bản thân chẳng có vấn đề lớn gì. Người luôn kiêu ngạo và tự cho mình là đúng thì như vậy đấy, ngay khi nắm quyền thì họ sẽ biến thành kẻ địch lại Đấng Christ.

II. Mổ xẻ về việc kẻ địch lại Đấng Christ luôn có dã tâm và dục vọng khống chế, chinh phục mọi người

Giờ chúng ta sẽ thông công về điều tiếp theo: Kẻ địch lại Đấng Christ luôn có dã tâm và dục vọng khống chế, chinh phục mọi người. Vấn đề này nghiêm trọng hơn vấn đề không thể hợp tác với bất kỳ ai. Các ngươi nói xem loại người nào thích khống chế và chinh phục người khác? Loại người nào có dã tâm và dục vọng khống chế, chinh phục người khác? Để Ta cho một ví dụ. Người cực kỳ thích địa vị thì có thích khống chế và chinh phục người khác không? Họ có phải là loại người địch lại Đấng Christ không? Họ mê hoặc, khống chế và chế ngự người khác, rồi người khác sùng bái họ và nghe lời họ. Họ sẽ được người khác đánh giá cao, tôn kính, sùng bái và ngưỡng vọng. Như vậy chẳng phải là có địa vị trong lòng người sao? Nếu như không phục họ, không tán thành họ, thì người ta có thể sùng bái họ không? Tuyệt đối không thể. Cho nên, sau khi có địa vị rồi, họ vẫn cần khiến người khác phục, tâm phục khẩu phục và bội phục họ, như vậy người khác mới có thể sùng bái họ. Một loại người là vậy. Lại còn có một loại người đặc biệt kiêu ngạo, họ cũng đối đãi với người khác kiểu đó, trước hết là chế ngự người khác, khiến người khác sùng bái và bội phục mình, như vậy họ mới thỏa mãn. Người đặc biệt hung ác thì cũng thích khống chế người khác, khiến người khác nghe lời họ, xoay quanh họ và làm việc cho họ. Bất kể là người đặc biệt kiêu ngạo hay người đặc biệt hung ác, ngay khi nắm được quyền hành thì họ đều trở thành loại người địch lại Đấng Christ. Kẻ địch lại Đấng Christ luôn có dã tâm, dục vọng khống chế và chinh phục người khác. Khi tiếp xúc với người khác, kẻ địch lại Đấng Christ luôn muốn nắm bắt thấu đáo cách người khác nhìn nhận họ, xem trong lòng người khác có địa vị dành cho họ hay không, có bội phục và sùng bái họ hay không. Nếu gặp người xun xoe tâng bốc, a dua nịnh hót, thì kẻ địch lại Đấng Christ sẽ đặc biệt vui vẻ, sẽ đứng từ địa vị trên cao mà giáo huấn người khác, ba hoa khoác lác, tiêm nhiễm một vài quy định, cách làm, đạo lý và quan niệm cho người khác. Họ khiến người khác tiếp nhận những thứ này như lẽ thật, lại còn nói hay ho rằng: “Anh có thể tiếp nhận những thứ này thì anh là người yêu thích và mưu cầu lẽ thật rồi đấy”. Những người không biết phân định sẽ nghĩ rằng lời họ nói có lý, nhưng trong lòng cứ mơ hồ không rõ, không biết nó có hợp lẽ thật không, chỉ cảm thấy câu nói kiểu đó cũng không có gì là sai hay đi ngược lẽ thật, thế là họ thuận phục kẻ địch lại Đấng Christ. Nếu có ai phân định được kẻ địch lại Đấng Christ và có thể vạch trần họ, thì kẻ địch lại Đấng Christ sẽ bị chọc giận, sẽ không khách khí gì nữa mà sẽ chỉ trích, lên án, uy hiếp người đó, ra oai phủ đầu một trận. Người nào không biết phân định thì sẽ bị họ chế ngự hoàn toàn, bội phục họ đến mức quỳ gối dập đầu, nảy sinh sự sùng bái dành cho họ, phụ thuộc vào họ, thậm chí nảy sinh sự sợ hãi đối với họ. Khi họ đã có loại cảm giác bị nô dịch này rồi, mà mất đi sự dẫn dắt, dạy dỗ và quở trách của kẻ địch lại Đấng Christ, thì trong lòng họ sẽ không yên ổn, mất đi cảm giác an toàn, cảm thấy có khả năng là Đức Chúa Trời không muốn họ nữa. Lúc đó, ai cũng học cách nhìn sắc mặt của kẻ địch lại Đấng Christ mà hành động vì sợ họ sẽ không vui, ai cũng muốn làm họ vui. Những người này đã một lòng một dạ đi theo kẻ địch lại Đấng Christ rồi. Khi công tác, kẻ địch lại Đấng Christ toàn giảng câu chữ và đạo lý, họ giỏi nhất là dạy người khác tuân thủ một vài quy định, nhưng chẳng bao giờ nói cho người khác biết nguyên tắc lẽ thật nên nắm vững là gì, tại sao phải làm như vậy, tâm ý của Đức Chúa Trời là gì, nhà Đức Chúa Trời sắp xếp công tác như thế nào, công tác nào mang tính thực chất và quan trọng nhất, công tác nào chính yếu nhất. Kẻ địch lại Đấng Christ chẳng bao giờ nói về những chuyện quan trọng này. Khi công tác và sắp xếp công tác, kẻ địch lại Đấng Christ chẳng bao giờ thông công về lẽ thật. Bởi vì bản thân họ đâu có hiểu nguyên tắc lẽ thật, cho nên họ chỉ có thể dạy dỗ người khác tuân thủ một vài quy định và đạo lý. Ngay khi người khác đi ngược lại lời nói và quy định của kẻ địch lại Đấng Christ, thì họ sẽ răn dạy và quở trách người đó. Kẻ địch lại Đấng Christ thường mượn danh nghĩa nhà Đức Chúa Trời mà làm công tác, họ đứng ở trên cao mà chỉ trách và dạy dỗ người khác, thậm chí có những người bị họ dạy dỗ đến mức luống ca luống cuống, cảm thấy nếu không làm theo yêu cầu của họ thì sẽ mắc nợ Đức Chúa Trời. Chẳng phải loại người này bị kẻ địch lại Đấng Christ khống chế rồi sao? (Thưa, phải.) Kẻ địch lại Đấng Christ làm như vậy thì đây là loại hành vi gì? Đây là hành vi nô lệ hóa người khác. “Nô lệ hóa”, theo cách nói của con rồng lớn sắc đỏ, chính là “tẩy não”. Cũng giống như khi con rồng lớn sắc đỏ bắt giữ người tin Đức Chúa Trời, nó không chỉ dùng cực hình tra tấn, mà còn dùng một thủ đoạn nữa là tẩy não. Bất kể là nông dân, công nhân hay là phần tử tri thức, con rồng lớn sắc đỏ đều dùng một bộ tà thuyết và luận điệu sai lầm là thuyết vô thần, thuyết tiến hóa và chủ nghĩa Marx-Lênin, mà tẩy não người ta. Bất kể người ta thấy căm ghét, ghê tởm trong lòng thế nào, nó đều cưỡng ép tiêm nhiễm vào người ta, sau đó dùng những tư tưởng và lý luận này mà trói chân trói tay người ta, khống chế lòng người ta. Con rồng lớn sắc đỏ làm như thế để cản trở người ta tin Đức Chúa Trời, mưu cầu lẽ thật, đạt đến được cứu rỗi và hoàn thiện. Cũng theo cách đó, những người bị kẻ địch lại Đấng Christ khống chế này, cho dù đã nghe giảng đạo bao nhiêu cũng không thể hiểu lẽ thật, không thể hiểu rốt cuộc tin Đức Chúa Trời là để làm gì, nên đi con đường nào, mỗi khi hành động thì quan điểm đúng đắn nên có là gì, nên đứng ở lập trường nào. Những điều này họ đều không hiểu, trong lòng chỉ có những câu chữ và đạo lý, cùng lý luận sáo rỗng của kẻ địch lại Đấng Christ. Những người này sau khi bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và khống chế một thời gian dài thì sẽ hoàn toàn giống như kẻ địch lại Đấng Christ, trở thành những người tin Đức Chúa Trời nhưng lại không tiếp nhận lẽ thật chút nào, lại còn có thể chống đối và đối địch với Đức Chúa Trời. Những người bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và khống chế là loại người gì? Chắc chắn họ đều là những người không yêu thích lẽ thật, là người giả hình, tin Đức Chúa Trời mà không mưu cầu lẽ thật, làm bổn phận thì không chuyên tâm vào việc chính đáng. Những người này tin Đức Chúa Trời nhưng không đi theo Đức Chúa Trời, mà lại đi theo kẻ địch lại Đấng Christ, trở thành nô lệ của kẻ địch lại Đấng Christ. Vì vậy mà họ không đạt được lẽ thật, đây là kết quả tất yếu.

Đức Chúa Trời đối đãi với con người theo nguyên tắc nào? Là cưỡng ép sao? Là khống chế sao? Không phải, là trái ngược với khống chế mới đúng. Đức Chúa Trời đối đãi với con người theo nguyên tắc nào? (Thưa, là cho con người ý chí tự do.) Đúng vậy, Đức Chúa Trời cho ngươi ý chí tự do, khiến ngươi ở trong những hoàn cảnh do Ngài sắp đặt mà tự hiểu ra, tự nhiên nảy sinh nhận thức và kinh nghiệm của con người. Ngài khiến ngươi tự nhiên hiểu ra một phương diện lẽ thật, để sau này gặp lại hoàn cảnh như vậy thì ngươi sẽ biết nên làm thế nào, nên chọn lựa thế nào. Ngài khiến ngươi hiểu từ trong sâu thẳm nội tâm rằng thứ gì là đúng, thứ gì là sai, để cuối cùng khiến ngươi tự chọn con đường đúng. Đức Chúa Trời không khống chế hay cưỡng ép ngươi. Còn cách làm của kẻ địch lại Đấng Christ thì hoàn toàn trái ngược, họ dùng cách mê hoặc mà tẩy não và giáo hóa người ta, sau đó biến ngươi thành nô lệ của họ. Tại sao lại nói là nô lệ? Nô lệ là gì? Chính là ngươi không phân định được kẻ địch lại Đấng Christ đúng hay sai, cũng không dám phân định chuyện họ đúng hay sai. Họ đúng hay sai ngươi cũng không biết, ngươi đã hồ đồ, trong lòng đã đục ngầu rồi. Ngươi không biết rõ cái gì là đúng hay cái gì là không đúng, cũng không biết bản thân nên làm gì hay không nên làm gì. Ngươi giống như một con rối chờ chỉ thị của kẻ địch lại Đấng Christ, họ không mở lời thì ngươi không dám làm, họ ra mệnh lệnh rõ ràng thì ngươi mới dám làm việc. Bản năng của ngươi không còn, ý chí tự do cũng không còn phát huy tác dụng, ngươi trở thành người chết rồi. Ngươi có lòng đấy nhưng lại không thể suy nghĩ, ngươi có não đấy mà lại không thể suy xét vấn đề. Ngươi chẳng biết đúng hay sai, chẳng biết cái gì là tích cực hay cái gì là tiêu cực, chẳng biết làm gì là đúng hay làm gì là sai. Vô hình trung, kẻ địch lại Đấng Christ đã khống chế ngươi rồi. Họ khống chế cái gì? Họ khống chế bộ não hay là lòng ngươi? Họ khống chế lòng ngươi, rồi bộ não của ngươi sẽ tự nhiên bị khống chế. Họ khiến ngươi bị trói chân trói tay thật chắc, trói buộc ngươi thật chặt, đến nỗi mỗi bước ngươi đi đều ngần ngại rất lâu, nghi hoặc rất lâu, sau đó rụt lại, rồi lại muốn tiến một bước, muốn làm chút việc, nhưng rồi cũng rụt lại. Mỗi lần ngươi làm gì, thì khải tượng trong chuyện đó đều đục ngầu, chẳng rõ ràng. Điều này không thể tách rời khỏi lời nói mê hoặc người ta của kẻ địch lại Đấng Christ. Thủ đoạn khống chế người khác của kẻ địch lại Đấng Christ chủ yếu là gì? Khi nói năng thì họ toàn nói những lời hợp với quan niệm và tưởng tượng của con người, hợp với tình cảm của con người và hợp với đạo lý. Nghe họ nói thì có vẻ họ có chút nhân tính, nhưng thực ra lại không có chút thực tế lẽ thật nào. Các ngươi nói xem, những người đi theo và bị kẻ địch lại Đấng Christ khống chế thì có thể tận tâm tận lực làm bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Nguyên nhân là gì? Vì họ không hiểu lẽ thật, đây là nguyên nhân chính yếu nhất. Còn có một điểm nữa, đó là kẻ địch lại Đấng Christ chơi đùa với quyền lực, khi làm bổn phận thì họ không thực hành lẽ thật, cũng không tận tâm tận lực, vậy thì đám lâu la đi theo họ có thể thực hành lẽ thật không? Kẻ địch lại Đấng Christ như thế nào thì đám lâu la của họ cũng như thế ấy. Trong những việc không thực hành lẽ thật, đi ngược lại nguyên tắc, bán rẻ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, chuyên quyền ngang ngược, kẻ địch lại Đấng Christ đều đi đầu, vậy thì đám lâu la của họ có thể không bị ảnh hưởng sao? Không thể nào không bị ảnh hưởng. Vậy những người bị họ kìm kẹp và khống chế sẽ như thế nào? Sẽ đề phòng và nghi kỵ lẫn nhau, tranh đấu với nhau, tranh danh lợi, tranh nở mày nở mặt, tranh vốn liếng với nhau. Trong sâu thẳm nội tâm, hết thảy mọi người bị kẻ địch lại Đấng Christ khống chế đều chia năm xẻ bảy và không tương hợp. Họ cẩn thận dè dặt khi hành động, chẳng mở lòng với nhau, cũng không có quan hệ giao tế bình thường. Họ không có sự thông công bình thường giữa người với người, không cầu nguyện-đọc, không có đời sống thuộc linh bình thường. Họ chẳng có gắn kết gì cả, chẳng khác gì những nhóm người thuộc về Sa-tan và không có đức tin ở thế gian. Kẻ địch lại Đấng Christ mà nắm quyền thì sẽ như thế. Người với người đề phòng nhau, tranh giành cấu xé, phá đám, đố kỵ và xét đoán nhau, so sánh xem ai không chịu trách nhiệm: “Anh không chịu trách nhiệm, thì tôi cũng không chịu trách nhiệm. Anh chẳng hề suy xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời thì vin vào đâu mà đòi tôi suy xét? Tôi cũng không suy xét đâu!”. Nơi đó còn là nhà Đức Chúa Trời nữa sao? Không còn nữa. Vậy thì nơi đó là gì? Là doanh trại của Sa-tan. Ở đó lẽ thật không nắm quyền, không có công tác của Đức Thánh Linh, không có phúc lành và sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Vì vậy những người này, ai cũng giống như tiểu quỷ. Bề ngoài, những lời họ khen ngợi người khác có vẻ rất dễ nghe: “Người ta thật sự yêu kính Đức Chúa Trời, người ta có thể dâng hiến, người ta có thể chịu khổ khi làm bổn phận!”. Nhưng nếu để họ đánh giá người ta, thì lời họ nói sau lưng và trước mặt người ta lại khác nhau. Các anh chị em mà rơi vào tay lãnh đạo giả, thì khi làm bổn phận sẽ chia năm xẻ bảy, không có hiệu quả và không có công tác của Đức Thánh Linh, đa số mọi người cũng không mưu cầu lẽ thật, đây chẳng phải là bị kẻ địch lại Đấng Christ khống chế rồi sao? Những người này không thể được gọi là hội thánh nữa, họ hoàn toàn thuộc về doanh trại của Sa-tan, thuộc về băng nhóm của kẻ địch lại Đấng Christ.

Tại sao kẻ địch lại Đấng Christ luôn muốn khống chế người khác? Chính là vì họ không bảo vệ lợi ích nhà Đức Chúa Trời, cũng không quan tâm đến lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn. Họ chỉ suy xét đến quyền lực, địa vị và danh vọng của bản thân. Họ cho rằng chỉ cần khống chế lòng người, khiến mọi người đều sùng bái họ thì dã tâm và dục vọng của họ sẽ được thỏa mãn. Đối với những chuyện liên quan đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, liên quan đến công tác của hội thánh hoặc lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn, thì họ chẳng quan tâm chút nào, có xuất hiện vấn đề thì họ cũng không nhìn thấy. Nhà Đức Chúa Trời sắp xếp nhân sự có chỗ nào không thích hợp, phân phối tài vật có chỗ nào không hợp lý, để mất mát quá nhiều hay là có ai phung phí tài vật, ai gây nhiễu loạn và gián đoạn khi làm công tác, ai dùng người không đúng, hay ai đang qua loa chiếu lệ khi làm công tác, đủ mọi vấn đề này họ đều nhìn không thấy, càng không xử lý. Họ xử lý những chuyện gì? Họ can thiệp những chuyện gì? (Thưa, những chuyện vặt vãnh.) Chuyện vặt vãnh là những chuyện gì? Hãy nói cụ thể xem. (Thưa, có lãnh đạo giải quyết chuyện ở nhà của một vài anh chị em, chẳng hạn như trong nhà có ai không hợp ai. Đây chỉ là những chuyện trong cuộc sống thường nhật.) Đây là việc mà lãnh đạo giả làm. Kẻ địch lại Đấng Christ thì làm những việc gì? (Thưa, kẻ địch lại Đấng Christ không quan tâm đến lối vào sự sống của anh chị em hay những chuyện đi ngược lại nguyên tắc lẽ thật. Họ chỉ quan tâm đến chuyện gì liên quan đến thể diện và địa vị của họ, chẳng hạn như người khác không nghe lời họ, hoặc thấy họ không vừa mắt, v.v..) Đây là một phương diện, những chuyện như vậy có xảy ra. Họ nhìn xem ai thấy họ chướng mắt, ai không cung kính với họ, ai phân định được họ, họ nhìn thấy rồi thì ghi khắc những chuyện này vào lòng, xem đây là những chuyện rất quan trọng. Còn gì nữa? (Thưa, nếu hội thánh ở đâu đó bầu lên một người phân định được họ, không đồng lòng với họ, thì họ sẽ nghĩ đủ mọi cách để bới móc khuyết điểm của người đó, khiến người đó bị thay thế. Họ thích làm những việc như vậy.) Những người làm việc xấu có khuyết điểm gì, vấn đề gì hoặc gây nhiễu loạn và gián đoạn thế nào, thì kẻ địch lại Đấng Christ cũng chẳng quan tâm, mà họ chuyên môn bới móc khuyết điểm của những người làm bổn phận và mưu cầu lẽ thật, tìm lý do và cái cớ để thay thế người đó. Việc kẻ địch lại Đấng Christ khống chế người khác còn có một biểu hiện chính yếu nữa, đó là họ không chỉ khống chế các anh chị em bình thường, mà còn khống chế những người phụ trách đủ mọi hạng mục công tác. Họ luôn muốn khống chế toàn bộ quyền lực trong tay mình, cho nên chuyện gì họ cũng chất vấn, cũng quan sát, xem người khác làm như thế nào. Họ không hề thông công với người khác chút nguyên tắc lẽ thật nào, mà cứ để người khác tự do muốn làm gì thì làm. Họ muốn khiến hết thảy mọi người đều nghe lời họ và thuận phục họ. Họ luôn sợ quyền lực bị phân tán và rơi vào tay người khác. Khi thảo luận vấn đề, bất kể có bao nhiêu người thông công, khi mọi người thông công ra được kết quả rồi, thì khi đến chỗ họ đều bị gạt đi hết, đều phải bàn lại từ đầu. Vậy kết quả cuối cùng là gì? Mọi người đều nghe lời họ thì mới xong chuyện, chỉ cần không nghe lời họ, thì sẽ phải thông công mãi, có lúc thông công đến tận nửa đêm mà chẳng ai được đi ngủ, thông công đến lúc mọi người đều nghe lời họ thì họ mới thôi. Kẻ địch lại Đấng Christ làm những việc như vậy đấy. Kẻ địch lại Đấng Christ làm như vậy thì có ai cho rằng họ có trách nhiệm với công tác không? Có trách nhiệm với công tác, so với kiểu chuyên quyền của kẻ địch lại Đấng Christ, thì khác nhau ở điểm nào? (Thưa, khác nhau ở ý định.) Người ta nghiêm túc và có trách nhiệm với công tác là để thông công nguyên tắc lẽ thật cho rõ ràng và khiến mọi người hiểu được lẽ thật. Còn kẻ địch lại Đấng Christ thì nghiêm túc và có trách nhiệm là để duy trì quyền lực, để chiếm thế thượng phong cho bản thân, để bác bỏ mọi quan điểm bất đồng ý kiến với họ và có thể khiến họ mất mặt. Hai ý định này có khác nhau không? (Thưa, có.) Khác biệt ở chỗ nào? Các ngươi có phân định được không? Khiến người ta hiểu nguyên tắc lẽ thật thông qua việc thông công, so với tranh giành thể diện cá nhân, thì có khác biệt gì? (Thưa, khác về ý định.) Không chỉ là ý định, chắc chắn là khác nhau về ý định rồi. (Thưa, xem cách làm nào có lợi cho nhà Đức Chúa Trời hơn.) Có lợi cho nhà Đức Chúa Trời hơn là một điểm khác biệt nữa, như vậy là có suy xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Nhưng khác biệt chính yếu nhất là gì? Khi người ta thực sự thông công lẽ thật, ngươi vừa nghe là thấy ngay người này không phải đang phân bua biện bạch. Mọi điều họ thông công đều là để khiến mọi người hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, đều là làm chứng cho tâm ý của Đức Chúa Trời. Thông công như thế làm rõ về các nguyên tắc lẽ thật, mọi người nghe xong đều có con đường để đi, đều biết nguyên tắc là gì, biết rồi thì nên làm gì, từ đó khi làm bổn phận, họ không dễ đi ngược lại nguyên tắc, mục tiêu thực hành càng thêm chuẩn xác. Trong mối thông công như vậy không hề lẫn tạp bất kỳ sự phân bua biện bạch cá nhân nào. Nhưng những người muốn giành phần thắng về mình và khống chế người khác dưới quyền mình thì sẽ nói kiểu gì? Sẽ nói về nội dung gì? Họ sẽ nói về lý do của bản thân, về cách nghĩ, ý định và mục đích của họ khi làm những việc đó, khiến mọi người có thể tiếp nhận, có thể chấp nhận và không hiểu lầm về họ. Toàn bộ đều là biện bạch, chứ không hề có chút lẽ thật nào. Ngươi nghe cho kỹ thì thấy trong lời họ thông công chẳng hề có chút lẽ thật nào, toàn là câu nói, cái cớ và lý do của con người, chỉ toàn những thứ đó mà thôi. Họ nói xong rồi thì mọi người có hiểu được nguyên tắc lẽ thật không? Không hiểu, nhưng lại hiểu nhiều về tâm ý của họ. Đây chính là thủ đoạn của kẻ địch lại Đấng Christ, họ muốn khống chế người khác như vậy. Ngay khi họ cảm thấy địa vị và bộ mặt của mình giữa mọi người bị tổn hại, bị ảnh hưởng, thì họ liền gấp rút triệu tập nhóm họp, nghĩ đủ mọi biện pháp để cứu vãn. Cứu vãn kiểu gì? Chính là tìm cái cớ, nói ra một vài lý do, nói ra những gì mà họ suy nghĩ lúc đó. Họ nói những điều này vì mục đích gì? Là để xóa bỏ mọi sự hiểu lầm của mọi người đối với họ. Cũng giống như con rồng lớn sắc đỏ, trừng trị người ta rồi thì lại minh oan, xóa bỏ tội danh, nó làm như vậy với mục đích gì? (Thưa, để tẩy trắng.) Chính là làm xong việc xấu thì minh oan cho ngươi, bồi thường cho ngươi, khiến ngươi cảm thấy nó vẫn tốt và đáng tin, làm như vậy thì sự thống trị của nó sẽ không bị đe dọa. Kẻ địch lại Đấng Christ cũng như vậy, mọi lời họ nói, mọi việc họ làm không có gì là không vì bản thân họ. Họ không tài nào nói được một lời vì lẽ thật, càng không thể nói lời nào hay làm việc gì vì lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Mọi lời nói, việc làm của họ đều là vì danh dự và địa vị của họ. Có người nói: “Ngài xác định họ là kẻ địch lại Đấng Christ thì oan cho họ quá. Bởi vì họ rất giỏi ra sức, làm việc rất cần mẫn, thức khuya dậy sớm mà công tác và bôn ba vì nhà Đức Chúa Trời, có lúc bận rộn đến nỗi quên ăn. Họ chịu khổ quá nhiều mà!”. Họ chịu khổ vì ai chứ? (Thưa, vì bản thân.) Vì bản thân họ thôi. Nếu không có địa vị, họ có thể làm như vậy sao? Họ bôn ba vì danh dự và địa vị của bản thân, họ bôn ba để được phần thưởng. Nếu không ban phần thưởng cho họ, hoặc nếu họ không có danh lợi và địa vị, thì họ đã rút lui từ lâu rồi. Họ làm những việc này là làm trước mắt người khác, đồng thời họ còn muốn cho Đức Chúa Trời biết, cho Đức Chúa Trời thấy họ làm hết mọi việc này mà ban cho họ phần thưởng họ nên nhận được. Thứ tối hậu mà họ muốn chính là phần thưởng, họ đâu muốn đạt được lẽ thật, điểm này ngươi phải thấy cho rõ. Khi họ cảm thấy bản thân có đủ vốn liếng rồi, khi họ có cơ hội lên tiếng giữa mọi người rồi, thì nội dung họ nói đều là thứ gì? Thứ nhất là khoe khoang công lao – một kiểu tâm lý chiến của họ. Tâm lý chiến là gì? Chính là khiến cho sâu thẳm nội tâm mỗi một người đều biết họ thay mặt nhà Đức Chúa Trời mà làm không ít việc tốt, biết họ có công, đã chịu nguy hiểm, cũng đã làm công tác nguy hiểm, đã bôn ba quá nhiều và chịu khổ không ít, nên trước mặt mọi người họ phô bày tư cách và nói về vốn liếng. Thứ hai, họ nói nhăng nói cuội về một vài lý luận viển vông, khiến người ta nghe thì có cảm giác hiểu nhưng rồi lại không hiểu. Những lý luận của họ nghe thì có vẻ rất cao thâm, rất khó nắm bắt, rất trừu tượng, và chúng khiến người ta sùng bái họ. Rồi họ lại nói nhăng nói cuội về một vài điều mà họ cho rằng mọi người chưa hề hiểu, chẳng hạn như kỹ thuật khoa học, không gian vũ trụ, tài chính kế toán, còn có một vài chuyện xã hội và chính trị, thậm chí là chuyện của giới giang hồ hắc đạo, những chuyện bịp bợm lừa đảo. Họ nói về lịch sử của bản thân. Đây là gì vậy? Chính là khoe khoang. Mục đích của việc khoe khoang chính là để chơi trò tâm lý chiến. Các ngươi nói xem họ có ngu ngốc không? Nếu nói những điều này mà không có tác dụng gì trên người khác, thì họ có nói không? Họ sẽ không nói. Họ nói cái gì cũng đều có mục đích, đều là để phô bày tư cách, phô trương và khoe khoang.

Còn nữa, kẻ địch lại Đấng Christ thường xuyên dùng dáng điệu nào? Bất kể đi đến đâu, họ đều có dáng điệu gia trưởng, đi đến đâu họ cũng nói: “Các anh bận rộn làm việc gì vậy? Công việc thế nào rồi? Có khó khăn gì không? Nhanh làm việc các anh được giao đi! Đừng có qua loa chiếu lệ, công tác của nhà đức chúa trời đều là đại sự, không được để chậm trễ!”. Họ giống hệt như một gia trưởng, luôn giám sát người trong nhà làm việc. Gia trưởng nghĩa là gì? Chính là người trong nhà có thể phạm sai lầm và đi lầm đường, nên cần họ canh chừng cho. Không có họ canh chừng thì người khác sẽ không làm bổn phận và đều bị vấp ngã. Kẻ địch lại Đấng Christ cho rằng người khác đều là kẻ ngốc, đều là con nít, nếu không có họ nhọc lòng, nếu như họ không trông chừng một giây, thì sẽ có người làm chuyện sai lầm và đi lầm đường. Đây là quan điểm gì vậy? Đây chẳng phải là dùng dáng điệu gia trưởng sao? (Thưa, phải.) Vậy họ có làm công tác cụ thể không? Họ chẳng hề làm công tác cụ thể. Công tác của mình thì họ sắp xếp cho người khác làm hết, còn bản thân họ chỉ làm quan, làm lão gia. Nếu người khác làm tốt công tác thì coi như đó là việc họ làm, công lao đều quy về họ. Họ chỉ tham hưởng lợi ích của địa vị, chứ chẳng hề làm những việc có ích cho công tác của nhà Đức Chúa Trời. Có phát hiện ra ai qua loa chiếu lệ và bỏ bê nhiệm vụ trong khi làm bổn phận, ai gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh, thì họ cũng chỉ khích lệ và an ủi vài câu, chứ chẳng bao giờ phơi bày hay hạn chế, chẳng bao giờ đắc tội với người khác. Nếu có người không sẵn lòng nghe lời họ thì họ sẽ nói: “Tôi vì anh chị em mà hao tâm tổn trí, nói đến bạc cả môi, tôi mệt đến nỗi người gần gãy làm đôi! Anh chị em làm tôi hao tâm quá!”. Họ nói ra những lời đó chẳng phải là không biết xấu hổ sao? Các ngươi nghe xong thì có cảm thấy ác cảm và kinh tởm không? Đây chính là một biểu hiện trong dục vọng luôn muốn khống chế người khác của kẻ địch lại Đấng Christ. Loại người địch lại Đấng Christ này thông công với mọi người như thế nào? Chẳng hạn như, họ nói với Ta rằng: “Những người bề dưới này không biết nghe lời, không xem công tác của hội thánh ra gì, qua loa chiếu lệ, lại còn tùy tiện tiêu bậy tiền của nhà đức chúa trời. Những người này đúng là súc sinh, còn chẳng bằng loài heo, chó!”. Đây là giọng điệu gì vậy? Họ đang biến mình thành ngoại lệ, ý họ là: “Tôi suy xét cho lợi ích của nhà đức chúa trời, còn họ thì không suy xét như vậy”. Họ xem mình là ai nào? Là “đại sứ hình tượng”. Đại sứ hình tượng là gì? Ngươi xem, đại sứ hình tượng của một vài quốc gia là người như thế nào? Họ được chọn nhờ cuộc thi hoa hậu, có ngoại hình xinh đẹp, giỏi ăn nói và đã trải qua huấn luyện. Ở sau hậu trường, họ mồi chài và qua lại với những người đàn ông có ba phẩm chất cao-giàu-đẹp, những quan chức cấp cao và doanh nhân giàu có, cho nên mới được làm đại sứ hình tượng. Họ dựa vào điều gì để làm đại sứ hình tượng? Đơn giản là dựa vào ngoại hình đẹp, dáng người đẹp và giỏi ăn nói sao? Chủ yếu là họ dựa vào các mối quan hệ sau hậu trường. Có phải vậy không? (Thưa, phải.) Chuyện là như vậy. Kẻ địch lại Đấng Christ mà luôn có dáng điệu của lãnh đạo, gia trưởng thì luôn muốn dùng dáng điệu và phong thái này mà mê hoặc và khống chế người khác. Đây chẳng phải là có chút “phong độ” của đại sứ hình tượng sao? Họ đứng đó, tay chắp sau lưng, khi anh chị em cúi đầu với họ, thì họ nói: “Không tệ, làm tốt lắm!”. Họ dựa vào cái gì mà nói câu đó? Họ đặt mình vào vị trí nào vậy? Ta đi đến đâu cũng không nói câu đó, các ngươi có từng nghe Ta nói câu đó chưa? (Thưa, chưa.) Có lúc Ta cũng nói: “Các ngươi có thể an tâm mà làm bổn phận, cơ hội này không dễ có đâu! Các ngươi phải nắm chắc cơ hội này, làm bổn phận cho tốt, đừng hành ác và gây nhiễu loạn để rồi bị đuổi đi”. Nhưng từ đâu mà Ta nói câu này? Từ tấm lòng chân thật. Còn kẻ địch lại Đấng Christ thì nghĩ gì? Họ không nghĩ được như vậy, cũng không làm như vậy. Họ bảo người khác làm tốt, còn bản thân họ có làm tốt hay không? Họ đâu làm tốt được. Họ khiến người khác làm cho tốt, bán mạng cho họ, ra sức cho họ, cuối cùng công lao đều quy về họ. Hiện tại các ngươi có bán mạng cho Ta khi làm bổn phận không? (Thưa, không.) Các ngươi cũng không ra sức cho Ta, các ngươi làm bổn phận và nghĩa vụ của mình, rồi nhà Đức Chúa Trời nuôi các ngươi. Nói Ta nuôi các ngươi thì có quá đáng không? (Thưa, không quá đáng.) Câu này cũng không kể là sai, trên thực tế thật ra là vậy. Nhưng nếu ngươi bảo Ta nói câu đó thì Ta không nói đâu, Ta cũng không bao giờ nói ra câu đó, Ta chỉ nói rằng nhà Đức Chúa Trời nuôi các ngươi, là các ngươi làm bổn phận của mình trong nhà Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời nuôi các ngươi. Vậy các ngươi làm bổn phận cho ai? (Thưa, cho bản thân.) Là các ngươi làm bổn phận và nghĩa vụ của bản thân, đây là phần trách nhiệm của loài thọ tạo mà bản thân các ngươi nên làm. Các ngươi làm việc này trước Đức Chúa Trời, tuyệt đối đừng nói là đang làm công cho Ta, Ta không cần. Ta không cần bất kỳ ai làm công cho Ta, Ta đâu phải ông chủ, cũng không phải tổng giám đốc công ty, Ta không kiếm tiền từ các ngươi, các ngươi cũng không ăn gì của Ta. Chúng ta chỉ phối hợp với nhau, Ta thông công cho các ngươi những lẽ thật mà Ta nên thông công, cho các ngươi hiểu, để các ngươi đi trên con đường đúng đắn, như thế trong lòng Ta sẽ yên ổn, trách nhiệm và nghĩa vụ của Ta đã hoàn thành rồi. Đây là phối hợp với nhau, mỗi người lo phần việc của mình, chẳng thể nói đến chuyện ai lợi dụng ai, ai sử dụng ai, ai ăn của ai – đừng làm kiểu đó, vô ích thôi, lại còn khiến người ta kinh tởm. Ngươi thực sự làm tốt công tác sao cho mọi người đều có thể thấy rõ, thì cuối cùng sẽ dễ dàng đến trước mặt Đức Chúa Trời mà giải trình. Kẻ địch lại Đấng Christ có lý trí như vậy không? Không có. Họ gánh vác chút trách nhiệm, có chút công lao, đã từng làm được chút việc là liền khoe mẽ, khoe đến mức khiến người ta kinh tởm thẳng thừng – thậm chí họ còn muốn làm đại sứ hình tượng nữa. Nếu ngươi không cố làm đại sứ hình tượng, có thể làm chút công tác một cách thực tế, thì mọi người còn có chút tôn trọng dành cho ngươi. Còn ngươi mà khoe mẽ phong thái của đại sứ hình tượng, chẳng làm công tác cụ thể nào, làm công tác gì cũng khiến Bề trên phải hao tâm tổn trí, phải đích thân chỉ ra cho ngươi, giám sát và chỉ dẫn thêm cho ngươi, công tác gì cũng đều là Bề trên làm cho, thế mà sau đó ngươi còn cảm thấy bản thân có năng lực, bản lĩnh đã tăng lên, cảm thấy việc gì cũng do chính mình làm, như vậy chẳng phải là không biết xấu hổ sao? Kẻ địch lại Đấng Christ thì có thể làm như vậy, họ có thể cướp lấy vinh quang của Đức Chúa Trời. Người bình thường mà trải qua một vài chuyện rồi thì đều có thể hiểu ra một vài lẽ thật, đều có thể thấy được rằng: “Tố chất của mình quá kém, chẳng ra gì cả, nếu như không có Bề trên hao tâm tổn trí, giám sát và cầm tay giúp đỡ mình, thì mình chẳng làm được việc gì, mình đơn giản chỉ là con rối. Giờ mình đã biết mình được một chút, biết trình độ của mình thế nào, sau này mà Bề trên có tỉa sửa thì mình sẽ không oán trách gì, sẽ thuận phục”. Biết trình độ của mình rồi thì sẽ làm công tác trong phần việc của mình một cách thật thà và thực tế, Bề trên giao việc gì thì cũng tận tâm tận lực mà làm cho tốt. Kẻ địch lại Đấng Christ có làm như vậy không? Họ không làm như vậy, họ không suy xét đến lợi ích và công tác của nhà Đức Chúa Trời. Lợi ích lớn nhất của nhà Đức Chúa Trời là gì? Là tài sản của hội thánh sao? Là của lễ của Đức Chúa Trời sao? Không phải. Vậy thì là gì? Việc làm bổn phận của tất cả mọi người xoay quanh công tác nào? Rao truyền phúc âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời, khiến nhân loại đều hiểu được Đức Chúa Trời và trở về với Ngài, đây chính là lợi ích lớn nhất của nhà Đức Chúa Trời. Lợi ích lớn nhất đó phân chia xuống, thành các nhóm, các hạng mục công tác, rồi phân chia chi ly hơn thành đủ loại bổn phận mà mỗi một người làm, đây chính là lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Các ngươi đã từng thấy ra điều này chưa? Chưa! Khi Ta vừa nói đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, các ngươi liền nghĩ đến tiền, nhà, xe. Những thứ này là lợi ích gì chứ? Chẳng phải chúng chỉ là chút thứ vật chất thôi sao? Liệu có ai nói rằng: “Những thứ này không tính là lợi ích, vậy thì chúng ta cứ tùy tiện phung phí”? Làm vậy có được không? (Thưa, không được.) Tuyệt đối không được. Phung phí của lễ là trọng tội.

Ngoài dục vọng và dã tâm muốn khống chế người khác ra, kẻ địch lại Đấng Christ còn hứng thú với chuyện gì? Cơ bản là chẳng còn gì nữa. Họ chẳng thấy hứng thú lắm với bất kỳ chuyện gì khác. Về chuyện mỗi người có đang làm bổn phận thích hợp hay không, sắp xếp nhân sự có phù hợp hay không, có ai gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh không, các hạng mục công tác của hội thánh tiến triển có thuận lợi không, khâu nào vẫn còn có vấn đề, khâu nào vẫn còn yếu kém, khâu nào vẫn chưa được nghĩ đến, công tác chưa được làm chuẩn ở chỗ nào, v.v. những chuyện này kẻ địch lại Đấng Christ đều không quan tâm, cũng chẳng hỏi han. Họ chẳng bao giờ quan tâm, cũng chẳng bao giờ làm những công tác cụ thể này. Chẳng hạn như đối với công tác phiên dịch, chỉnh sửa video, sản xuất phim, văn tự và rao truyền phúc âm, v.v., họ đều không nghiêm túc theo dõi, chỉ cần chuyện gì không liên quan đến danh lợi và địa vị của họ thì dường như đều không dính dáng gì đến họ. Vậy họ chỉ làm việc gì? Họ làm chút công tác sự vụ, những công tác bề ngoài mà người khác có thể chú ý và nhìn thấy. Họ làm xong chút công tác này rồi thì lấy đó mà phô bày tư cách, bắt đầu hưởng thụ lợi ích của địa vị. Kẻ địch lại Đấng Christ có quan tâm đến lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn không? Họ không quan tâm, họ chỉ quan tâm đến danh dự và địa vị của họ, chỉ quan tâm xem chuyện gì có thể cho họ thể hiện bản thân, khiến người khác đánh giá cao và sùng bái họ. Cho nên bất kể trong công tác của hội thánh có xuất hiện vấn đề gì, họ cũng đều không quan tâm hay hỏi han, bất kể vấn đề có nghiêm trọng đến đâu, gây tổn thất lớn thế nào cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, họ đều không cảm thấy đó là vấn đề. Các ngươi nói xem, họ còn có trái tim không? Loại người này có lòng trung thành không? Họ có phải là người yêu thích và tiếp nhận lẽ thật không? Những điều này phải bị đặt một dấu chấm hỏi. Vậy hằng ngày họ phải làm những gì để có thể biến công tác của hội thánh thành một mớ bòng bong? Chỉ riêng chuyện này thôi đã đủ chứng tỏ họ không hề quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, cũng không làm công tác mang tính thực chất mà Đức Chúa Trời giao cho. Họ chỉ toàn bận rộn làm một vài công tác mang tính sự vụ bề ngoài, khiến người khác thấy có vẻ như họ đang làm việc. Bề ngoài họ bận rộn làm bổn phận, khiến người khác thấy họ có nhiệt tâm, có đức tin, và cách này đã che mắt được một số người. Nhưng họ lại không làm công tác thực chất nào của hội thánh, những công tác chăm tưới và cung ứng lẽ thật thì họ không làm chút gì cả. Họ chẳng bao giờ biết dùng lẽ thật để giải quyết vấn đề, mà chỉ biết làm một chút công tác mang tính sự vụ, một chút công tác khiến họ nở mày nở mặt. Còn đối với công tác thực chất của hội thánh, thì họ chỉ toàn qua loa chiếu lệ, vô trách nhiệm, không hề có chút tinh thần trách nhiệm nào. Bất kể xuất hiện bao nhiêu vấn đề, họ cũng không bao giờ tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, chỉ làm bổn phận cho có là coi như xong. Họ chỉ làm một chút công tác mang tính sự vụ bề ngoài, mà lại cho rằng đó là làm công tác thực tế. Khi thực hiện bổn phận, kẻ địch lại Đấng Christ làm xằng làm bậy, độc đoán chuyên quyền, biến công tác của hội thánh thành một mớ bòng bong, rối tinh rối mù, chẳng có công tác nào đạt tiêu chuẩn và không có sai sót, công tác nào Bề trên cũng phải can thiệp, hỏi han và giám sát thì mới có thể làm tốt. Kể cả như vậy, vẫn có một số người bị cách chức rồi thì trong lòng đầy oán trách, không phục, ngụy biện cho mình, đổ trách nhiệm lên lãnh đạo và người làm công cấp trên. Làm vậy chẳng phải là bất chấp lý lẽ sao? Lúc không có chuyện gì thì không nhìn ra được thái độ thực sự của người ta đối với lẽ thật, đến khi bị tỉa sửa hay cách chức thì thái độ thực sự của họ đối với lẽ thật sẽ bị tỏ lộ. Người tiếp nhận lẽ thật thì bất kể trong tình huống nào cũng có thể tiếp nhận, mình sai thì có thể thừa nhận sai lầm, có thể đối diện với sự thật và tiếp nhận lẽ thật. Còn người không yêu thích lẽ thật thì cho dù sai lầm của họ bị bại lộ, họ cũng không thừa nhận mình sai, càng không biết tiếp nhận sự xử lý của nhà Đức Chúa Trời, thậm chí có người còn viện ra những lý do nào? “Ý định của tôi là muốn làm tốt, chỉ là tôi làm không tốt thôi. Bây giờ làm tệ như vậy cũng không thể trách tôi. Ý định của tôi tốt mà, tôi cũng đã chịu khổ và trả giá, cũng đã dâng mình, cũng đâu hành ác gì!”. Họ viện những lý do và cái cớ này mà không chịu tiếp nhận sự xử lý của nhà Đức Chúa Trời, như vậy thì có thích hợp không? Bất kể đưa ra lý do hay cái cớ gì cũng đâu che đậy nổi thái độ của một người đối với lẽ thật và Đức Chúa Trời. Đây là vấn đề liên quan đến thực chất bản tính của họ, là vấn đề thể hiện rõ nhất. Bất kể có gặp chuyện hay chưa, thái độ của ngươi đối với lẽ thật sẽ đại diện cho thực chất bản tính của ngươi, sẽ là thái độ của ngươi đối với Đức Chúa Trời. Muốn biết ngươi đối đãi với Đức Chúa Trời như thế nào, thì cứ nhìn vào cách ngươi đối đãi với lẽ thật là biết thôi.

Khi bàn về biểu hiện khống chế người khác của kẻ địch lại Đấng Christ, chúng ta đã nói đến nội dung gì? (Thưa, kẻ địch lại Đấng Christ chỉ hứng thú với chuyện khống chế người khác.) Không sai. Người đặc biệt kiêu ngạo và yêu thích địa vị thì có đầy “hứng thú” với chuyện khống chế người khác. Cái “hứng thú” này không phải là thứ tích cực, mà là dục vọng và dã tâm, là thứ tiêu cực và mang nghĩa xấu. Tại sao họ thấy hứng thú với chuyện khống chế người khác? Nói một cách khách quan, thì đó là bản tính của họ, nhưng còn có một nguyên nhân nữa: Những người có thể khống chế người khác thì có cảm tình và say mê đặc biệt đối với địa vị, danh lợi, hư vinh và quyền lực. Có thể nói như vậy không? (Thưa, có thể.) Vậy loại cảm tình và say mê đặc biệt này có tương tự của Sa-tan không? Đây có phải là thực chất của Sa-tan không? Sa-tan suốt ngày ngẫm nghĩ cách mê hoặc và khống chế con người, ngày ngày tiêm nhiễm một số tư tưởng và quan điểm sai lầm cho con người. Bất kể dùng cách tiêm nhiễm và giáo dục, hay là văn hóa truyền thống, khoa học, tri thức cao thâm hay học thuyết, nó càng tiêm nhiễm cho con người những thứ này thì con người càng sùng bái nó. Sa-tan tiêm nhiễm những thứ này cho con người vì mục đích gì? Sau khi bị tiêm nhiễm rồi, con người sẽ có tư tưởng của Sa-tan, có triết lý và phương thức sinh tồn của Sa-tan, như vậy cũng tương đương với việc Sa-tan đã ăn sâu bén rễ trong lòng người rồi. Con người sẽ dựa vào Sa-tan mà sống, con người sống cũng là Sa-tan sống, là ma quỷ sống. Có phải vậy không? Việc kẻ địch lại Đấng Christ khống chế người khác, có phải cũng mang tính chất như vậy không? Họ muốn biến hết thảy mọi người thành người như họ, muốn khiến hết thảy mọi người đều sống vì họ, tùy họ sử dụng, làm việc cho họ. Và chuyện gì cũng nằm trong sự kiểm soát của họ: suy nghĩ, lời nói, cách nói, tư tưởng và quan điểm, góc độ và thái độ hành động, thậm chí là thái độ đối với Đức Chúa Trời, đức tin, ý chí và ý nguyện làm bổn phận, tất cả những điều này của người ta đều phải nằm dưới sự khống chế của họ. Khống chế đến mức độ nào? Trước hết, họ sẽ tẩy não và giáo hóa người ta, sau đó khiến người ta làm gì cũng giống họ, thế là họ trở thành “cha đỡ đầu”. Để biến người ta thành như thế, kẻ địch lại Đấng Christ dùng rất nhiều phương thức, từ mê hoặc, đến tiêm nhiễm, đe dọa, còn gì nữa? (Thưa, tâm lý chiến.) Cái này nằm trong mê hoặc rồi. Còn gì nữa? (Thưa, bức ép và mua chuộc.) Mua chuộc thế nào? Có những người khi làm bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời thì làm xằng làm bậy, kẻ địch lại Đấng Christ có thể thấy rõ chuyện này không? Họ thấy quá rõ đi chứ. Vậy họ có xử lý không? Họ không xử lý. Tại sao họ không xử lý? Họ muốn dùng chuyện đó mà mua chuộc người ta, họ bảo người ta rằng: “Tôi không xử lý anh là đang cho anh lợi ích, anh phải cảm ơn tôi. Anh làm việc xấu, tôi nhìn thấy mà không trình báo, không xử lý gì anh cả, tôi đã vị nể anh rồi, sau này chẳng phải anh nên mang ơn đội nghĩa tôi sao?”. Người này sẽ cảm kích họ, xem họ là ân nhân, hai người họ là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Trong thời gian kẻ địch lại Đấng Christ nắm quyền, họ có thể mua chuộc dạng người như vậy, những người hành ác, gây tổn hại lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, xét đoán sau lưng Đức Chúa Trời và âm thầm phá hoại. Họ bảo vệ bè lũ kẻ ác như vậy. Đây có phải là một kiểu khống chế không? (Thưa, phải.) Thực ra, trong sâu thẳm nội tâm, kẻ địch lại Đấng Christ biết những người này không phải là người bảo vệ lợi ích nhà Đức Chúa Trời. Trong lòng họ đều biết rõ chuyện này, một kiểu ngầm hiểu, thế là họ cấu kết với nhau làm việc xấu. “Chúng ta cùng một loại, anh không suy xét đến lợi ích của nhà đức chúa trời, anh lừa bịp đức chúa trời, tôi cũng lừa bịp đức chúa trời, anh không mưu cầu lẽ thật, tôi cũng không mưu cầu lẽ thật”. Kẻ địch lại Đấng Christ sẽ mua chuộc những người này. Đây có phải là mua chuộc không? (Thưa, phải.) Họ không ngại khiến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bị tổn hại, họ đánh đổi cái giá là lợi ích của nhà Đức Chúa Trời để dung túng những người này làm xằng làm bậy, ngồi mát ăn bát vàng trong nhà Đức Chúa Trời, trông như thể họ nuôi những người này vậy. Vô hình trung, những người này sẽ biết ơn họ. Đến lúc nhà Đức Chúa Trời xử lý những kẻ ác đó, thì những người này sẽ nhìn nhận kẻ địch lại Đấng Christ như thế nào? Trong lòng họ sẽ nghĩ: “Ôi trời, anh ấy bị cách chức rồi. Anh ấy mà không bị cách chức thì chúng ta còn có thể hưởng thụ lâu hơn. Có anh ấy bảo bọc, chẳng ai có thể xử lý mình”. Trong lòng những người này còn lưu luyến kẻ địch lại Đấng Christ đến vậy! Có thể thấy mọi việc mà kẻ địch lại Đấng Christ làm đều là việc gây nhiễu loạn và gián đoạn, đều là việc mê hoặc người khác và là việc ác chống đối Đức Chúa Trời. Hễ là người không yêu thích lẽ thật thì đều không căm ghét những việc ác này, lại còn có thể bao che cho chúng. Chẳng hạn như có một lãnh đạo nọ có thể bao che cho kẻ địch lại Đấng Christ, Bề trên hỏi xem trong hội thánh của anh ta có ai gây gián đoạn và nhiễu loạn không, có ai làm xằng làm bậy không, có kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc người ta không, thì lãnh đạo đó nói: “Con sẽ dò hỏi xem sao. Để con kiểm tra tình hình giúp ngài”. Đây chẳng phải là công tác trong phạm vi chức trách của anh ta sao? Anh ta dùng giọng điệu “Để con kiểm tra tình hình giúp ngài” là đang ứng phó với Bề trên thôi, sau đó thì chẳng nghe thêm tin gì từ anh ta. Anh ta đâu có kiểm tra – đâu muốn đắc tội với những người này! Đến khi Bề trên hỏi anh ta “Đã kiểm tra chưa?” thì anh ta nói: “Kiểm tra rồi, không có những chuyện đó”. Thật sự không có sao? Anh ta chính là kẻ địch lại Đấng Christ lớn nhất, là đầu sỏ trong việc gây nhiễu loạn công tác của hội thánh và gây nguy hại cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Bản thân anh ta chính là kẻ địch lại Đấng Christ, vậy mà còn kiểm tra gì nữa? Có anh ta ở đó, những người bề dưới làm chuyện xấu gì, gây nhiễu loạn và gián đoạn gì, cũng không có ai kiểm tra, vì bị anh ta chặn đứng rồi. Ngụ ý chẳng phải là trong những tình hình đó, anh ta đã ngăn cách những người này với Đức Chúa Trời sao? Đúng là vậy. Và những người bị ngăn cách khỏi Đức Chúa Trời này nghe lời ai? Chẳng phải họ sẽ nghe lời anh ta sao? Anh ta trở thành trùm trong vùng, thành vua một núi, thành hoàng đế địa phương rồi, anh ta đã khống chế những người này rồi. Phương thức anh ta dùng là gì? Là dối trên gạt dưới. Với bề dưới thì anh ta mua chuộc và nói lời dễ nghe, với Bề trên thì anh ta lừa dối – anh ta không để Bề trên biết tình hình của bề dưới, không nói gì với Bề trên, rồi còn ngụy tạo hình tượng giả. Ngụy tạo hình tượng giả gì? Anh ta nói với Bề trên rằng: “Hội thánh chúng con có một người, anh chị em ai cũng phản ánh người này có nhân tính không tốt, đặc biệt độc ác, cũng không làm được bổn phận gì. Ngài xem có thể xử lý hay không?”. Nghe anh ta nói, thì rõ ràng biểu hiện của người này là kẻ ác, nên bị xử lý. Thế là Bề trên nói: “Nếu thế thì có thể xử lý, các ngươi đã xử lý hay chưa?”. Anh ta mới nói: “Chúng con đã xử lý và thanh trừ cô ta từ tháng trước rồi”. Sự thật có như anh ta nói không? Sau khi nghe ngóng kỹ hơn, hóa ra chuyện là thế nào? Là người này không hợp với anh ta. Không hợp là có nguyên nhân cả, chính là vì anh ta không làm công tác thực tế, lại còn luôn kéo bè kết phái giữa anh chị em – có biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ, và người này đã phân định được anh ta, phản ánh và vạch trần vấn đề của anh ta. Người này vừa phản ánh thì đã bị bè lũ tay sai của anh ta phát hiện, thế là bị anh ta trừng trị và thanh trừ. Kẻ địch lại Đấng Christ này làm rất tốt việc khiến mọi người dưới mình đều đứng lên phản đối và từ bỏ người này, cuối cùng giải quyết và thanh trừ người này, sau đó còn báo cáo với Bề trên “tin tốt” này. Thực ra, sự thật đâu phải vậy. Trong hội thánh có chuyện thế này không? Có chứ. Những kẻ địch lại Đấng Christ đó đàn áp anh chị em, đàn áp những ai có thể phân định họ, phản ánh vấn đề của họ và có thể nhìn thấu thực chất bản tính của họ. Thế là họ ra tay trước, tố cáo người này là kẻ ác, phản ánh lên Bề trên rằng người này gây nhiễu loạn. Nhưng thực ra, ai mới gây nhiễu loạn? Chính là những kẻ địch lại Đấng Christ đang gây nhiễu loạn và khống chế hội thánh.

Kẻ địch lại Đấng Christ dùng thủ đoạn gì để khiến người ta thuận phục họ? Một trong các thủ đoạn này chính là dùng đủ mọi cách khống chế ngươi, khống chế cách nghĩ và cách làm của ngươi, khống chế con đường ngươi đi, thậm chí dùng quyền lực trong tay để khống chế bổn phận ngươi làm. Ngươi mà thân cận với họ thì họ sẽ cho ngươi một bổn phận nhẹ nhàng và được nở mày nở mặt. Nếu ngươi không bao giờ thuận theo họ, luôn chỉ ra khuyết điểm của họ, luôn vạch trần vấn đề bại hoại của họ, thì họ sẽ sắp xếp cho ngươi làm một việc mà người ta không thích, chẳng hạn như bắt một người chị em trẻ tuổi làm những việc vất vả, bẩn thỉu. Ngươi mà thân cận họ, nịnh bợ họ, luôn nghe lời họ, thì họ sẽ sắp xếp cho ngươi làm một vài công việc nhẹ nhàng, sạch sẽ. Kẻ địch lại Đấng Christ đối đãi và khống chế người khác như vậy đấy. Về quyền hành đối với nhân sự và quyền điều động, ai làm gì cũng đều do họ quản, một mình họ nắm hết quyền hành. Đây chỉ đơn thuần là một loại dã tâm và dục vọng thôi sao? Không phải đâu. Điều này có tương ứng với biểu hiện thứ tám của kẻ địch lại Đấng Christ “Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời” hay không? “Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời” nghĩa là gì? Biểu hiện này có gì sai? Sai ở đâu? Chính là những gì mà họ khiến người ta thuận phục hoàn toàn đi ngược lại với lẽ thật, không hợp với nguyên tắc lẽ thật, hoàn toàn đi ngược lại lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, đi ngược lại tâm ý của Đức Chúa Trời. Chúng không có chút gì là bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, không có chút gì là hợp lẽ thật. Những gì mà họ khiến người ta thuận phục hoàn toàn là dã tâm, dục vọng, sở thích, hứng thú và quan niệm của họ. Thực chất có phải như vậy không? Đây chính là một biểu hiện thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ. Nói như vậy đã đúng điểm mấu chốt chưa? Cách làm này của kẻ địch lại Đấng Christ thì dễ phân định thôi. Có những lãnh đạo và người làm công đề xuất những quan điểm đúng và chính xác, tuy có vài người không phục và không tiếp nhận, nhưng những lãnh đạo này vẫn có thể kiên trì quán triệt quan điểm đúng đắn này và đưa vào thực hành. Biểu hiện này so với cách làm của kẻ địch lại Đấng Christ thì có gì khác biệt? Hai cách làm này bề ngoài thì tương tự nhau, nhưng về thực chất thì có khác biệt. Kẻ địch lại Đấng Christ cố ý đi ngược lại lẽ thật và nguyên tắc công tác của nhà Đức Chúa Trời, giương ngọn cờ làm bổn phận cho nhà Đức Chúa Trời và thuận phục lẽ thật mà khiến người ta nghe lời họ. Làm như vậy là sai, sai đến mức vô lý, sai đến mức hoang đường. Có những lãnh đạo và người làm công giữ vững quan điểm đúng đắn, cái gì phù hợp với nguyên tắc lẽ thật thì nên giữ vững, đây không phải là kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, cũng không phải là kìm kẹp người khác. Đây gọi là giữ vững lẽ thật. Hai cách làm này bề ngoài thì tương tự, nhưng thực chất thì không giống nhau. Một bên là giữ vững nguyên tắc lẽ thật, một bên là giữ vững quan điểm sai lầm. Mọi việc kẻ địch lại Đấng Christ làm đều đi ngược lại lẽ thật, đều đối địch với lẽ thật, hoàn toàn là dã tâm và dục vọng cá nhân của họ. Cho nên kẻ địch lại Đấng Christ chỉ khiến người ta thuận phục họ, chứ không khiến người ta thuận phục lẽ thật và Đức Chúa Trời, điểm mấu chốt là đây. Những điều chúng ta vừa nói là một sự thật đã được xác lập. Dã tâm và dục vọng trong chuyện này là nói đến cái gì? Chính là có một số người mặc dù không làm ra những việc của kẻ địch lại Đấng Christ một cách rõ ràng, nhưng lại có những khuynh hướng này. Họ có những khuynh hướng và biểu hiện này nghĩa là họ có loại dục vọng và dã tâm này. Bất kể ở trong tập thể nào, họ đều muốn chỉ huy người ta như thể mình là quan: “Anh, nấu ăn đi!”, “Chị, đi thông báo cho người này người kia!”, “Làm bổn phận cho tốt vào, có chút lòng trung thành đi, đức chúa trời đang nhìn đấy!”. Những câu này để cho ngươi nói sao? Đây là giọng điệu gì? Ngươi là ai mà luôn muốn làm chủ? Bản thân chẳng ra gì mà còn dám nói những lời này, như vậy chẳng phải là không có lý trí sao? Có vài người nói rằng: “Họ là đám đầu đất!”. Nhưng đây không phải là đầu đất bình thường, mà là đầu đất đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ nào? Họ tranh luận hay thương thảo chuyện gì với ai, cuối cùng bất kể đúng sai, họ đều phải chiếm thế thượng phong, đều phải có tiếng nói quyết định, đều phải chủ trì, đều phải ra quyết sách. Bất kể địa vị bản thân như thế nào, họ đều muốn được ra quyết sách. Nếu người khác phát biểu ý kiến đúng đắn và chiếm thế thượng phong, thì họ sẽ nổi giận, sẽ buông trôi thả nổi công việc, không làm nữa, nói rằng: “Các anh muốn nói thế nào thì cứ nói, đằng nào thì các anh cũng đâu có nghe tôi!”. Không phải họ có dã tâm và dục vọng này sao? Dạng người này mà muốn làm chủ, làm người phụ trách, làm lãnh đạo thì hậu quả sẽ như thế nào? Đây chính là kẻ địch lại Đấng Christ tiêu chuẩn. Các ngươi có biểu hiện này không? Có thì không phải là chuyện tốt đâu! Tin Đức Chúa Trời nhưng không đạt được lẽ thật, mà lại thành kẻ địch lại Đấng Christ, như vậy chẳng phải là đại họa giáng xuống đầu rồi hay sao?

Người ngoại đạo nhìn nhận người khác như thế nào? Khi tiếp xúc với người khác, trước hết họ nhìn vào diện mạo và trang phục của người ta, khi nghe người khác nói chuyện thì họ luôn nhìn xem người này có tri thức không. Nếu họ thấy diện mạo và trang phục bề ngoài của ngươi chẳng ra gì, cũng không có tri thức văn hóa cao, thì họ sẽ xem thường ngươi. Ngươi nói chuyện với họ thì họ sẽ muốn chiếm thế thượng phong. Ta nói: “Ngươi muốn tranh thì Ta nhường ngươi nói hết”. Ta sẽ không nói, Ta nhường nhịn thôi. Ở nhà Đức Chúa Trời, hầu hết mọi người đều nghe Ta nói, ở đâu cũng nghe Ta nói. Cho nên Ta tìm cơ hội để nghe người khác nói chuyện, để người khác nói cho nhiều vào – nghĩa là Ta để mọi người nói ra tiếng lòng, nói ra khó khăn trong mình, nói ra nhận thức của mình. Ta nghe thì có thể nhận ra một vài điểm sai lệch, một vài vấn đề và khiếm khuyết của người ta, nhận ra con đường người ta đi xuất hiện vấn đề gì, nhận ra những mặt công tác nào của hội thánh chưa được làm tốt, có tồn tại vấn đề gì không, có cần giải quyết không – Ta chú trọng nghe những chuyện đó. Nếu bàn luận một chuyện gì đó, chẳng hạn như Ta nói cái cốc này làm bằng giấy, còn ngươi khăng khăng bảo nó làm bằng nhựa, thì Ta sẽ nói: “Được thôi, ngươi nói đúng rồi”. Ta không tranh cãi với ngươi. Có người nghĩ trong lòng rằng: “Ngài đúng thì sao lại không tranh cãi?”. Cái này còn tùy đó là chuyện gì. Nếu là chuyện liên quan đến lẽ thật thì ngươi nên nghe Ta, còn nếu là chuyện bên ngoài, ngươi nói thế nào Ta cũng không can dự, chúng không liên quan đến Ta, tranh cãi mấy chuyện đó cũng vô ích. Lại có những người bàn luận vài chuyện quốc gia, Ta nói: “Theo Ta hiểu, chuyện là như vậy”. Cách Ta mào đầu “theo Ta hiểu” là có chút tự biết mình. Ta đưa ra một sự thật mà Ta biết để làm rõ chuyện đó, nói rằng: “Hiện tại tình hình là như vậy, còn nếu có vài tình hình đặc biệt nào đó thì Ta không biết”. Ta chỉ có thể đánh giá chuyện đó theo sự thật đó, chứ Ta không thể hiện mình biết nhiều. Chẳng qua là Ta cho các ngươi một vài thông tin để tham khảo, chứ Ta không đứng ở vị trí cao hơn ngươi mà áp chế ngươi, mà khiến ngươi biết Ta cao minh thế nào hay Ta cái gì cũng biết, còn ngươi thì cái gì cũng không biết. Quan điểm của Ta không phải là vậy. Có những người tán gẫu với Ta, Ta nói cho họ vài chuyện mà họ không biết, thế là họ nói: “Cả ngày ngài không ra khỏi cửa, ngài biết gì chứ?”. Họ đã không biết mà còn muốn tranh, muốn cãi với Ta về chuyện đó. Ta nói: “Phải, Ta không ra khỏi cửa, nhưng Ta biết một chút chuyện này. Ta chỉ nói cho ngươi vậy thôi, ngươi tin hay không thì tùy”. Có gì để tranh cãi chứ? Đây là chuyện về tâm tính. Có những người còn muốn phân cao thấp về những chuyện bên ngoài, nói rằng: “Sao anh biết được chuyện này? Sao tôi lại không biết chuyện này? Sao anh có thể nói ra cái này cái kia, còn tôi chẳng nói ra được gì?”. Chẳng hạn như, Ta nói: “Ta ở đây mấy năm qua đã phát hiện ra khí hậu ở đây có đặc điểm là khá ẩm”. Đây là chuyện quan sát được qua thời gian dài, là một sự thật. Nhưng có người vừa nghe thì nói: “Chuyện thật sự như ngài nói à? Sao con chẳng cảm thấy ẩm nhỉ?”. Ngươi không cảm thấy ẩm không có nghĩa là không ẩm, ngươi không thể căn cứ vào cảm giác của mình, mà phải dựa vào dữ liệu. Hằng ngày dự báo thời tiết cực kỳ chi tiết, xem nhiều thì sẽ biết thôi, thực sự ở đây ẩm mà, đây không phải là nói theo tưởng tượng và cảm giác. Tại sao lại vậy? Ở đáy tường luôn có rêu mốc quanh năm, vào mùa xuân, có những nơi Ta chẳng dám bước đến vì chúng quá trơn. Đây là do thể nghiệm và trải nghiệm mà có, là chuyện thấy tận mắt và đích thân cảm nhận. Nói như vậy thì đâu phải là đi ngược lại sự thật, phải không nào? Thế mà có những người khi nói chuyện với Ta thì tranh cãi với Ta về chuyện này – Ta nói là ẩm, họ nói không ẩm. Đây chẳng phải là người hồ đồ sao? (Thưa, phải.) Có những lời nói ra dựa trên căn cứ thực tế và do thể nghiệm mà có, chứ không phải là tưởng tượng vô căn cứ. Tại sao lại nói đây không phải là tưởng tượng? Bởi vì chúng được nói ra dựa trên những chi tiết đầy đủ ngọn ngành, người ta nhìn vào một cái, thể nghiệm một cái, là thấy phù hợp với lời ngươi nói liền. Chẳng phải những lời như vậy là chính xác hay sao? (Thưa, phải.) Thế mà với những lời chính xác này, vẫn có người luôn muốn tranh cãi, họ tranh cãi với lời của Ta như vậy đấy. Họ muốn tranh cãi cái gì? Tranh để một mất một còn, đồng quy vu tận à? Họ không tranh cãi vì thế, họ chỉ muốn tranh cãi xem ai hiểu biết hơn ai. Họ chỉ thích tranh cãi – đây là một loại tâm tính. Các ngươi nói xem, nên đối đãi với loại người này như thế nào? Có nên vạch trần họ, tranh cãi với họ đến khi đỏ mặt tía tai không? (Thưa, không cần.) Đối với dạng người vô tri này, ngươi tranh cãi với họ cũng vô ích, làm vậy là tự hạ thấp mình. Ngươi cứ nhường họ đi. Làm vậy có được không? Chứ tranh với kẻ nóng tính thì có ích gì? Nếu là vì người ta chưa hiểu chuyện gì đó về lẽ thật thì tranh luận, biện luận còn khả dĩ. Chứ những chuyện bề ngoài đó mà cũng tranh cãi thì chẳng phải là vô tri sao? Tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ chủ yếu là không tiếp nhận lẽ thật, kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, chán ghét lẽ thật. Đừng nói đến lẽ thật, ngay cả những phát biểu, câu nói đúng đắn và hợp sự thật, họ cũng không thể tiếp nhận, lúc nào cũng muốn nghiên cứu, muốn bắt bẻ và tranh luận với ngươi. Đây có phải là tâm tính không? (Thưa, phải.) Đây là tâm tính gì? Là tâm tính kiêu ngạo. Ý của họ là: “Chẳng phải ngài chỉ hiểu được chút lẽ thật sao? Những chuyện bên ngoài ngài đâu biết, nên nghe tôi mới đúng! Ngài đừng nói bậy nữa, thực sự làm tôi cáu lắm rồi đấy. Những chuyện bên ngoài này, ngài đâu quản được. Những chuyện trong chức trách của ngài, những chuyện về lẽ thật, thì tôi nghe ngài. Còn những chuyện bên ngoài thì ngài đừng nói, bịt miệng lại đi! Ngài cũng chưa tiếp xúc những chuyện đó, ngài biết gì chứ? Ngài phải nghe tôi đi!”. Chuyện gì họ cũng khiến người ta nghe họ, gặp ai cũng muốn chinh phục, không cần biết người đó là ai. Đây là tâm tính gì? Làm vậy có chút lý trí nào không? (Thưa, không có.)

Các ngươi nói xem, chung sống với người như Ta thì dễ hay khó? (Thưa, dễ.) Từ đâu mà nói là dễ? Tại sao lại nói là dễ? Ta sẽ nói với các ngươi, các ngươi hãy nhìn xem Ta “biện bạch” có đúng hay không, có chuẩn hay không. Thứ nhất, lý tính của Ta bình thường. Giải thích sự bình thường này như thế nào? Chính là tiêu chuẩn và góc độ nhìn nhận bất kỳ chuyện gì cũng chuẩn xác, như vậy thì quan điểm và cách nói của Ta đối với đủ mọi chuyện, hoặc thái độ đối với đủ mọi chuyện, có phải đều bình thường hay không? (Thưa, phải.) Đều bình thường, ít nhất là phù hợp với tiêu chuẩn của nhân tính bình thường. Thứ hai, có lẽ thật canh giữ Ta. Đây là hai phương diện tối thiểu phải có của lý tính bình thường. Còn có một phương diện nữa, các ngươi thấy Ta dễ chung sống là vì Ta có thước đo và biết tiêu chuẩn để đối xử với đủ mọi loại người. Đối với lãnh đạo hay các anh chị em bình thường, đối với người trẻ hay già, đối với những người kiêu ngạo dễ khoe khoang, hay đối với những người có hiểu biết thuộc linh hoặc không, v.v., Ta đều có thước đo, có phương thức và phương pháp cả. Thước đo, phương thức và phương pháp này chủ yếu là gì? Chính là hợp với nguyên tắc lẽ thật, không phải làm bừa. Chẳng hạn như, biết ngươi là sinh viên đại học thì đánh giá cao ngươi, biết ngươi là nông dân thì xem thường ngươi – đây không phải là nguyên tắc. Vậy làm sao để nắm vững những nguyên tắc này? Ngươi phải nhìn vào tố chất và nhân tính của người ta, nhìn vào việc làm bổn phận, đức tin vào Đức Chúa Trời, thái độ đối với lẽ thật của người ta, tổng hợp đủ mọi phương diện mà nhìn nhận người ta. Còn có một nguyên nhân nữa khiến các ngươi thấy Ta dễ chung sống, đây có lẽ là điều mà rất nhiều người có quan niệm và không thể tiếp nhận. Họ cho rằng: “Ngài có địa vị, vậy tại sao Ngài không có vẻ gì là có địa vị? Ngài không đứng ở địa vị của mình, không ăn trên ngồi trốc. Trong tâm trí, mọi người cho rằng nên ngước lên nhìn Ngài, vậy mà tại sao khi người ta nhìn vào Ngài thì lại cảm thấy nhìn ngang hàng là phù hợp nhất, thậm chí nhìn xuống cũng được?”. Họ cảm thấy dễ chung sống với Ta, thế là họ thả lỏng. Có phải vậy không? Chuyện là như vậy. Cho nên, họ cảm thấy Ta không có gì đáng sợ, thật dễ chung sống. Các ngươi nói xem, nếu lúc nào Ta cũng áp chế các ngươi, không có chuyện cũng lôi các ngươi ra tỉa sửa, cả ngày mặt mày tối sầm mà quở mắng các ngươi, giáo huấn các ngươi, như vậy thì tình hình sẽ khác đi phải không? Các ngươi sẽ cảm thấy: “Ngài quá là khó chung sống, tính cách kỳ quái, vui giận thất thường!”. Như vậy thì khó chung sống rồi. Chính vì các ngươi thấy mọi mặt của Ta, thấy tính cách và hỷ nộ ai lạc của Ta đều rất bình thường, vì trong tâm trí các ngươi cho rằng người có thân phận và địa vị tôn quý thì nên cao cấp và sang trọng, nhưng hiện tại các ngươi thấy Ta là một người quá bình thường, nên các ngươi buông lỏng cảnh giác và cảm thấy dễ chung sống. Ngoài ra, các ngươi thấy Ta nói chuyện có giở giọng trịch thượng không? (Thưa, không có.) Ta không dùng giọng trịch thượng, các ngươi không hiểu mà Ta có thể giúp thì Ta sẽ giúp hết sức, rất ít khi cười nhạo các ngươi. Tại sao lại nói là rất ít khi? Có lúc Ta giận quá, cũng không kìm nổi mà nói vài câu, nhưng Ta cũng suy xét đến chuyện người ta sẽ yếu đuối, nên Ta cố hết sức không nói kiểu đó, cố hết sức mà bao dung, độ lượng và nhẫn nại. Chuyện gì có thể giúp đỡ các ngươi thì Ta sẽ cố hết sức giúp đỡ, chuyện gì có thể dạy các ngươi thì Ta sẽ cố hết sức dạy, trong hầu hết mọi tình huống Ta đều làm như vậy. Tại sao? Chính là vì hầu hết mọi người đều thiếu sót nhất trong chuyện làm chứng cho Đức Chúa Trời và hiểu lẽ thật. Nhưng khi nói đến chuyện ăn uống giải trí, trang điểm và ăn diện, chơi bời hay những chuyện khác trong thế gian, thì người ta đặc biệt thông tỏ. Còn nói đến chuyện tin Đức Chúa Trời, chuyện liên quan đến lẽ thật, là họ lại ngu ngơ, hễ nói đến chuyện làm chứng cho Đức Chúa Trời, dùng chuyên môn, điểm mạnh và ân tứ của mình mà thực hiện chút công tác làm chứng cho Đức Chúa Trời, tạo ra chút tác phẩm làm chứng cho Đức Chúa Trời, thì họ lại chẳng có lời nào để nói. Nhìn thấy tình huống như vậy thì Ta nên làm thế nào? Ta phải dạy cho ngươi, kèm cặp ngươi từng chút một, dốc hết sức mà dạy. Ta chọn lọc những điều mà Ta đã hiểu, đã biết và có thể làm mà dạy cho ngươi, dạy dần dần đến khi hoàn thành được một tác phẩm. Điều gì Ta có thể dạy thì Ta sẽ cố hết sức mà dạy, điều gì Ta không thể dạy, hay có dạy ngươi cũng không học được, thì ngươi hiểu đến đâu hay đến đó, cứ thuận theo tự nhiên, Ta cũng không cưỡng ép ngươi. Cuối cùng, có vài người nói: “Chúng ta hiểu chuyên môn mà phải chịu phục những người tay ngang. Chúng ta biết làm mà lại không làm được chuyện gì cả, còn người này không biết gì mà cứ luôn dạy chúng ta, thật mất mặt!”. Đây đâu phải chuyện mất mặt. Đối với toàn thể nhân loại, tin Đức Chúa Trời và làm chứng cho Đức Chúa Trời là chuyện họ làm không nổi – nếu con người bẩm sinh đã biết làm chứng cho Đức Chúa Trời, thì người ta đâu còn chống đối Đức Chúa Trời nữa! Chính vì con người cùng chủng loại với Sa-tan, có thực chất bản tính đối địch với Đức Chúa Trời, nên mới không làm được những chuyện liên quan đến lẽ thật và làm chứng cho Đức Chúa Trời. Vậy thì nên làm thế nào? Chỉ cần con người cố gắng hết sức làm những gì có thể, vậy là được. Nếu Ta có sức để giúp đỡ, kèm cặp, thì Ta sẽ giúp đỡ. Nếu Ta không có sức để giúp đỡ và kèm cặp, hoặc bận rộn chuyện khác đến nỗi không có thời gian, thì các ngươi làm được gì cứ làm nấy. Như vậy thì cũng coi như phù hợp với nguyên tắc, đúng không? Chỉ có thể như vậy thôi. Đừng làm quá sức mình, làm vậy cũng vô ích, các ngươi không đạt đến được đâu. Cuối cùng, người ta cảm thấy: “Ngài thật dễ chung sống. Thật dễ đạt đến yêu cầu của Ngài. Ngài bảo chúng con làm gì thì chúng con cứ thế làm theo là được”. Thỉnh thoảng có những người bị tỉa sửa. Hầu hết mọi người sau khi được tỉa sửa rồi thì trở nên tốt và có thể đón nhận một cách đúng đắn. Nhưng có một số người lại bỏ ngang công việc, một số người lại lén lút gây nhiễu loạn, không cố làm tốt bổn phận và không làm công tác thực tế, những người này sẽ bị cách chức. Ngươi không sẵn lòng làm thì ngươi nên bước xuống, tại sao phải dùng ngươi chứ? Đổi người khác làm là xong. Như vậy chẳng đơn giản sao? Sau đó, những người này mà hối cải, thay đổi và có thể làm tốt, thì sẽ được cho thêm cơ hội, còn nếu họ vẫn cứ gây nhiễu loạn và gián đoạn như cũ thì vĩnh viễn không dùng họ nữa. Ta dùng người nào nghe lời thì hơn, chứ vướng mắc với dạng người này mãi để làm gì? Phải vậy không? Làm vậy thì khó cho họ và mệt cho Ta. Ta xử lý những chuyện này đều có nguyên tắc, Ta chung sống với người khác cũng có nguyên tắc. Một mặt khác, khi chung sống với người khác, Ta không có yêu cầu quá hà khắc, ngươi có thể làm được thì làm, ngươi làm không được thì Ta sẽ nói cho ngươi từng cái một. Ngươi có thể tận tâm thì làm, còn ngươi không tận tâm thì Ta cũng không cưỡng cầu ngươi. Những chuyện còn lại, cụ thể là ngươi tin như thế nào, thì đó là chuyện của ngươi, cuối cùng dù ngươi chẳng đạt được gì thì cũng không oán trách được ai. Các ngươi thấy nguyên tắc Ta đối đãi với người ta như thế nào? Có phải có chút nuông chiều cảm giác của người ta không? Tuyệt đối không phải như vậy, Ta xử lý như thế là tuyệt đối hợp nguyên tắc. Hợp nguyên tắc nào? Các ngươi nghe Ta nói rồi sẽ hiểu.

Ta, Đức Chúa Trời nhập thể, công tác trong nhân tính, thì có thể hoàn toàn thay thế công tác của Đức Thánh Linh, thay thế công tác của Thần của Đức Chúa Trời không? Không thể. Cho nên Ta không cố trổ tài, làm tàng, nói rằng Ta muốn thay thế Đức Chúa Trời trên trời mà làm mọi công tác của Ngài. Làm như vậy là tự cao tự đại – Ta đâu có năng lực đó. Ta là một người bình thường, có thể làm gì thì làm nấy, chuyện gì làm được thì làm cho tốt, làm cho hoàn chỉnh, đến nơi đến chốn. Ta dốc hết lòng, dốc hết sức mà làm, vậy là đủ. Đó là công tác được giao cho Ta. Nhưng nếu Ta không nhận thức được điều này, không phục sự thật này, không thừa nhận sự thật này, mà luôn muốn giả vờ mình cao lớn, luôn muốn tỏa sáng, luôn muốn thể hiện kỹ năng, vậy thì có hợp nguyên tắc không? Không hợp nguyên tắc. Các ngươi nói xem, Ta có hiểu chuyện này không? Ta quá hiểu chuyện này rồi! Phạm vi những lời mà xác thịt của Đức Chúa Trời nói được và công tác mà xác thịt của Đức Chúa Trời làm được, chính là phạm vi công tác mà Ngài làm trong xác thịt. Ngoài phạm vi này, con người kín đáo trải nghiệm sự tỉa sửa và sửa dạy của Đức Chúa Trời, sự khai sáng và chỉ dẫn của Đức Thánh Linh, thậm chí là được Đức Chúa Trời ban khải tượng, những ai Ngài sẽ hoàn thiện, những ai Ngài sẽ đào thải, quan điểm và thái độ của Đức Chúa Trời đối với tất cả mọi người là gì – những điều này đều là chuyện của Đức Chúa Trời. Nếu các ngươi tiếp xúc gần gũi với Ta, Ta cũng có thể thấy được những điều này, nhưng dù nhìn thế nào, Ta có thể nhìn được bao nhiêu? Số người mà Ta có thể nhìn thấy thì có hạn, số người Ta tiếp xúc cũng có hạn, vậy làm sao có thể bao gồm hết thảy mọi người được? Đây là chuyện không đạt đến được. Chẳng phải các ngươi nên rõ về chuyện này sao? Các ngươi nói xem, Ta có thấy rõ chuyện này không? Ta thấy rõ chứ. Đây là việc mà người bình thường nên làm, việc gì Ta không nên làm thì Ta không nghĩ đến. Con người có thể làm được việc này không? Con người thì không đạt đến được, vì con người không có lý tính như vậy. Có người sẽ hỏi Ta rằng: “Không phải Ngài luôn âm thầm điều tra mọi chuyện sao? Không phải Ngài luôn hỏi xem ai âm thầm làm gì, nói xấu gì về Ngài, hoặc xét đoán gì sau lưng Ngài, nghiên cứu gì về Ngài sao?”. Ta nói thật với ngươi, Ta chẳng bao giờ nghe ngóng những chuyện đó. Những chuyện này do ai phụ trách? Do Thần của Đức Chúa Trời phụ trách. Đức Chúa Trời dò xét hết thảy, dò xét toàn mặt đất và dò xét lòng người. Nếu ngươi không tin việc Đức Chúa Trời dò xét những điều này, vậy thì chẳng phải lý trí của ngươi không bình thường sao? (Thưa, phải.) Vậy thì ngươi không phải là người thật lòng tin Đức Chúa Trời, ngươi đứng sai vị trí rồi, như vậy thì sẽ có vấn đề lớn. Ta yêu cầu các ngươi tin Đức Chúa Trời, và trong lòng Ta tuyệt đối tin chuyện này. Cho nên, Ta phán lời và làm việc đều dựa trên cơ sở này. Ta không làm những chuyện vượt quá giới hạn của mình, Ta không làm những chuyện vượt quá phạm vi năng lực của mình. Đây chẳng phải là một tâm tính sao? (Thưa, phải.) Có những người không thấy như vậy. Họ cảm thấy Ta có thân phận này, địa vị này và quyền lực này, tại sao Ta không làm như vậy? Họ cho rằng Ta phải tìm hiểu thêm nữa, phải nắm vững thêm nữa, để càng thể hiện Ta có thân phận, có địa vị, có quyền năng và thẩm quyền. Đức Chúa Trời ban cho Ta bao nhiêu thẩm quyền và quyền năng thì Ta có bấy nhiêu, không phải Ta tranh, Ta giành mà có. Thẩm quyền, quyền năng và sự toàn năng của Đức Chúa Trời không phải là điều mà một xác thịt nhỏ bé có thể đại diện được. Chuyện này mà ngươi không thấy rõ thì lý trí của ngươi có vấn đề rồi. Đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm mà không nhìn thấu vấn đề này, thì ngươi quá ngu muội và vô tri rồi. Rất nhiều chuyện mặc dù Ta không hỏi đến, nhưng trong lòng Ta có biết hay không? (Thưa, biết.) Biết điều gì? Biết tên tuổi của mỗi một người? Biết mỗi một người đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm? Mấy chuyện đó đâu cần biết làm gì, biết tình trạng của hết thảy mọi người là được rồi. Biết hết thảy mọi người thiếu sót gì, lối vào sự sống đến trình độ nào rồi, biết lẽ thật nào hết thảy mọi người nên nghe, nên được chăm tưới và cung ứng, biết vậy là đủ rồi. Đây có phải là chuyện trong phận sự của Ta không? Biết chuyện trong phận sự của mình, biết nên nói gì và làm công tác gì, vậy có phải là lý tính không? (Thưa, phải.) Lý tính này từ đâu mà có? Đức Chúa Trời nhập thể mà không có lý tính như vậy, không có tiêu chuẩn để đánh giá mọi sự và mọi vật, thì còn giảng lẽ thật gì chứ? Nếu Đức Chúa Trời nhập thể mà có thể đánh nhau và tranh địa vị với Thần của Đức Chúa Trời, thì chẳng phải sẽ có chuyện sao? Chẳng phải như vậy là sai sao? Có thể nào như vậy không? Không thể, tuyệt đối không thể có chuyện như vậy được.

Có những người luôn lo lắng, nói rằng: “Chẳng phải ở sau lưng, Ngài luôn hỏi han về chúng con, luôn nghiên cứu chúng con sao? Chẳng phải Đức Chúa Trời luôn suy đoán xem trong lòng chúng con đang nghĩ gì về Ngài và nhìn nhận Ngài thế nào sao?”. Ta chẳng nghĩ về những chuyện này, làm vậy chỉ thừa thãi! Nghĩ về những chuyện này thì có ích gì chứ? Mọi chuyện đều nằm trong sự dò xét của Đức Chúa Trời. Thần của Đức Chúa Trời làm việc thì có phạm vi, Đức Chúa Trời nhập thể làm việc thì càng có phạm vi. Đức Chúa Trời nhập thể là Đức Chúa Trời, là cửa miệng của lẽ thật và là sự bày tỏ lẽ thật, công tác Ngài làm trong giai đoạn này đại diện cho giai đoạn này, chứ không đại diện cho giai đoạn trước. Đức Chúa Trời nhập thể chỉ có thể làm công tác trong thời kỳ này và phạm vi này. Công tác này có thể đại diện cho giai đoạn tiếp theo không? Chúng ta đâu biết tương lai sẽ thế nào, đây là chuyện của Đức Chúa Trời. Ta không trèo cao, Ta cứ làm việc trong phận sự của Ta, làm việc Ta nên làm và có thể làm, Ta không bao giờ cố trổ tài, làm tàng mà nói: “Ta toàn năng! Ta vĩ đại!”. Thần của Đức Chúa Trời mới như thế. Đức Chúa Trời nhập thể chỉ đại diện sự bày tỏ và cửa miệng cho công tác mà Đức Chúa Trời làm trong giai đoạn này. Phạm vi công tác và những công tác phải làm của Ngài đã được Đức Chúa Trời quy định cả rồi. Nếu ngươi nói: “Đấng Christ nhập thể là toàn năng”, thì đúng hay sai? Đúng một nửa, sai một nửa. Thần của Đức Chúa Trời là toàn năng, không thể nói Đấng Christ toàn năng được. Nên nói Đức Chúa Trời là toàn năng, lời này nói thế nào cũng đúng mực và chính xác, cũng hợp sự thật. Ta phải có lý tính gì? Ai cũng nói Ta là Đức Chúa Trời, là chính Đức Chúa Trời, nói Ta là Đức Chúa Trời nhập thể, nên Ta cho rằng Ta có thể đại diện cho chính Đức Chúa Trời và Thần của Đức Chúa Trời sao? Không thể. Cho dù Đức Chúa Trời cho Ta quyền lực và quyền năng đó, thì Ta cũng không thể đại diện như thế. Nếu Ta có thể đại diện như thế, thì chẳng phải vô hình trung là một sự báng bổ đối với thực chất và tâm tính của Đức Chúa Trời sao? Xác thịt thì vô cùng có hạn! Không được nhận thức như thế, không thể nói về chủ đề này từ góc độ như thế, có phải vậy không? (Thưa, phải.) Cho nên, bởi vì Ta có những ý nghĩ đó, có những nguyên tắc làm việc đó, còn có sự cân nhắc khi làm mỗi một việc, cho nên rất nhiều người thấy Đức Chúa Trời nhập thể không giống Đức Chúa Trời. Thậm chí có những người chưa tiếp xúc với Ta thì có một vài ảo tưởng, tưởng tượng và quan niệm, khi hành động thì rất e dè, cẩn thận, đến lúc tiếp xúc rồi thì lại: “Chẳng phải ngài chỉ là một con người sao? Chẳng có gì đáng sợ cả”. Thế là họ buông lỏng bản thân, ngày càng táo tợn, dám làm xằng làm bậy. Những người này gọi là gì? Là kẻ chẳng tin. Nếu ngươi chỉ tin Đức Chúa Trời nhập thể, chứ không tin Thần của Đức Chúa Trời, thì ngươi là kẻ chẳng tin. Nếu ngươi chỉ tin Thần của Đức Chúa Trời mà không tin Đức Chúa Trời nhập thể, thì ngươi vẫn là kẻ chẳng tin. Đức Chúa Trời nhập thể và Thần của Đức Chúa Trời tuy hai mà một, là hợp nhất, chứ không đấu đá lẫn nhau, càng không xa cách nhau, càng không phải mỗi Đấng là một thực thể riêng biệt. Các Ngài là một, chỉ là Đức Chúa Trời nhập thể phải đứng ở góc độ của xác thịt mà tiếp cận công tác của Ngài và đối đãi với Đức Chúa Trời. Đấy là chuyện của xác thịt, không liên quan gì đến các ngươi, đấy là chuyện của Đấng Christ, không liên quan gì đến nhân loại cả. Ngươi không được nói: “Vậy ngài cũng nghĩ ngài là người thường. Được thôi, vậy thì chúng ta là cùng một loại người – chúng ta đều giống nhau”. Nói vậy có được không? Nói vậy là có chuyện rồi. Có người nói: “Trông ngài có vẻ dễ chung sống đấy, vậy thì cứ thoải mái đi. Chúng ta cứ đối xử với nhau như bạn bè thân thiết, như bằng hữu, chúng ta là bạn tâm giao của nhau, kết bằng hữu với nhau nhé”. Như vậy có được không? Như vậy gọi là không có hiểu biết thuộc linh, là kẻ chẳng tin. Ngươi càng tâm giao với họ, càng nói về lẽ thật, về sự thật, về thực tế lẽ thật, thì họ càng xem thường ngươi, đấy gọi là kẻ chẳng tin. Ngươi càng giảng những lẽ mầu nhiệm cao thâm, giảng những khẩu hiệu, đạo lý và những thứ trừu tượng, càng khẳng định địa vị, càng khoe khoang, thể hiện, thì họ càng đánh giá cao ngươi, đấy gọi là kẻ chẳng tin. Họ thấy ai hành động có nguyên tắc, có chừng mực, thấy ai hành động hợp lẽ thật, thấy ai có giới hạn rõ ràng và biết phân định về những điều tích cực và tiêu cực – họ thấy ai càng như thế thì càng không xem người ta ra gì, càng không để vào mắt, đây chính là kẻ chẳng tin.

Khi Ta tiếp xúc với con người và qua lại với họ, bất kể là qua lại với ai hay là trong bao lâu, liệu có ai cảm thấy: “Ngài luôn cố khống chế mình, luôn cố quản mọi chuyện trong nhà mình, luôn cố chinh phục mình” hay không? Ta đâu có chinh phục ngươi! Chinh phục ngươi thì được gì chứ? Ngươi cứ tự đọc lời Đức Chúa Trời, rồi từ từ suy ngẫm, từ từ bước vào chúng đi. Nếu ngươi là người mưu cầu lẽ thật thì Đức Thánh Linh sẽ công tác trên ngươi, Đức Chúa Trời sẽ ban phúc và chỉ dẫn cho ngươi. Nếu ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật, Ta nói gì ngươi cũng không phục, không muốn nghe và không tiếp nhận, thì cuối cùng ngươi sẽ luôn bị tỏ lộ, hành động thì luôn sai lầm, chẳng có sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Sao chuyện lại như vậy? (Thưa, Đức Chúa Trời dò xét hết thảy.) Không phải chỉ là Đức Chúa Trời dò xét hết thảy. Chuyện này các ngươi hãy tự trải nghiệm và thể nghiệm. Khi Ta nói một chuyện, bất kể người ta có thể đồng ý hay không, có tiếp nhận hay không, thì Đức Thánh Linh sẽ bảo vệ điều Ta nói hay là không quan tâm? (Thưa, bảo vệ.) Đức Thánh Linh chắc chắn sẽ bảo vệ, chắc chắn sẽ không phá đám. Các ngươi ghi nhớ chuyện này là đúng. Bất kể người ta có thể tiếp nhận lời Ta nói hay không, rồi sẽ có một ngày chân tướng được phơi bày hết, tất cả mọi người vừa thấy thì sẽ nói: “Những gì Ngài nói từ đầu đều đúng cả. Ngài đã nói điều này từ sớm rồi, tại sao con lại không biết?”. Bất kể lúc nghe những lời này, ngươi cho rằng đây là thứ phát xuất từ tưởng tượng, từ trí óc, hay từ tri thức của Ta, thì đến một ngày, ngươi trải nghiệm nhiều thì sẽ cảm thấy rằng: “Từ đầu, lời này đã là lẽ thật!”. Vậy làm thế nào mà ngươi hiểu ra? Là từ trải nghiệm. Ngươi có thể đạt được nhận thức như vậy là nhờ trí óc ngươi phân tích sao? Tuyệt đối không phải, mà là ngươi được Đức Thánh Linh dẫn dắt, đây là việc Đức Chúa Trời làm. Người ngoại đạo sống một đời cũng có được chút nhận thức về quy luật của trời đất muôn vật, nhưng họ có thể đạt được lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Vậy họ thiếu điều gì? (Thưa, họ không có công tác của Đức Thánh Linh.) Đúng vậy, họ không có công tác của Đức Thánh Linh, họ thiếu ở chỗ này. Cho nên, bất kể ngươi nhìn nhận và đánh giá cá nhân Ta thế nào, bất kể ngươi tiếp cận lời Ta phán và việc Ta làm thế nào, thì cuối cùng đều có kết quả. Đức Chúa Trời sẽ hành động, tỏ lộ xem chọn lựa của ngươi là đúng hay sai, thái độ của ngươi là đúng hay sai, và quan điểm của ngươi có vấn đề gì. Đây là Đức Chúa Trời bảo vệ công tác của xác thịt Ngài. Vậy tại sao Đức Chúa Trời không bảo vệ những người khác? Tại sao Đức Chúa Trời không bảo vệ kẻ địch lại Đấng Christ? Chính là vì Thần và xác thịt là một, đều có cùng một nguồn gốc. Trên thực tế, đây không phải là bảo vệ, mà nghĩa là một khi ngươi trải nghiệm đến cuối cùng, bất kể lời này là do Đức Chúa Trời nhập thể phán hay là do Đức Thánh Linh khai sáng cho ngươi, thì chúng đều nhất quán với nhau, không bao giờ mâu thuẫn với nhau, mà sẽ tương hợp với nhau. Các ngươi có xác thực về chuyện này chưa? Một số người đã có xác thực rồi, một số người thì chưa trải nghiệm đến trình độ này, chưa xác thực được vậy. Điều này nghĩa là đức tin của họ vẫn chưa đạt đến trình độ đó, vẫn còn rất nhỏ bé. Nói cách khác, khi ngươi tin đến một trình độ nhất định, thì bỗng nhiên đến một ngày, ngươi cảm thấy một câu bình thường do xác thịt bình thường này nói, một câu mà lúc nghe ngươi không thấy có gì ấn tượng, giờ lại trở thành sự sống của ngươi rồi. Làm sao nó trở thành sự sống của ngươi? Chính là khi hành động thì ngươi vô thức dựa vào câu này, nó trở thành kim chỉ nam cho cuộc sống của ngươi. Khi ngươi cùng đường, thì câu này sẽ trở thành thực tế của ngươi, thành mục tiêu chỉ đường cho ngươi. Khi ngươi cảm thấy thống khổ thì câu này có thể khiến ngươi thoát khỏi sự tiêu cực và hiểu được vấn đề của mình là gì. Sau khi trải nghiệm như vậy, ngươi sẽ thấy rằng câu này tuy bình thường, nhưng bên trong lại có sức nặng, có sự sống, và là lẽ thật! Nếu không chú trọng mưu cầu lẽ thật, không yêu thích lẽ thật, thì ngươi sẽ có thể lên án Đức Chúa Trời, lên án Đức Chúa Trời nhập thể và lên án những lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ. Nếu ngươi là người mưu cầu lẽ thật, khi trải nghiệm được ngày này rồi, ngươi sẽ nói: “Thật dễ chung sống với Đức Chúa Trời, thật dễ chung sống với Đức Chúa Trời nhập thể” – nhưng sẽ không có ai nói: “Tôi đã xem Ngài như một con người mà chung sống với Ngài”. Tại sao vậy? Bởi vì trải nghiệm của ngươi về lời Ngài phán, và công tác mà Đức Thánh Linh làm trên ngươi khi ngươi không thấy Ngài trong cuộc sống thường nhật, là giống nhau. Cái “giống nhau” này gợi lên điều gì nơi ngươi? Ngươi sẽ nói: “Đức Chúa Trời đã mang lấy một vẻ ngoài bình thường và thông thường, mang lấy hình tượng của xác thịt, khiến con người xem nhẹ thực chất của Ngài. Chính vì con người có tâm tính bại hoại nên không nhìn thấy được mặt thực chất này của Đức Chúa Trời. Họ chỉ thấy được mặt mà con người có thể thấy. Con người thực sự không có lẽ thật!”. Chuyện có phải vậy không? (Thưa, phải.) Chuyện chính là như vậy. Chẳng hạn như có một vài công tác mà trong đó có rất nhiều phương diện Ta không làm được, thì chắc chắn sẽ có nhiều người nảy sinh quan niệm. Nhưng khi Ta có thể làm được một chút trong mỗi phương diện công tác này, thì mọi người sẽ bình tâm một chút, trong lòng cũng cảm thấy có chút an ủi: “Ổn rồi, giống Đức Chúa Trời rồi, chỉ có thể nói là giống thôi. Ngài giống Đức Chúa Trời nhập thể, giống Đấng Christ. Có lẽ Ngài là Đấng Christ”. Con người chỉ có dạng định nghĩa này thôi. Nhưng nếu như Ta chỉ thông công về lẽ thật, bày tỏ một chút lời Đức Chúa Trời rồi thôi, chẳng hề kèm cặp một cách thực tế gì về bất kỳ công tác nào, cũng không thể kèm cặp một cách thực tế, thì ánh mắt người ta nhìn nhận xác thịt này, cũng như sức nặng của Ngài trong mắt họ sẽ bị giảm đi. Người ta cho rằng xác thịt này nên có một vài năng lực và tài cán nhất định. Trên thực tế, đây là tài cán sao? Không phải. Đức Chúa Trời có thể đem đủ loại tài cán, ân tứ và năng lực mà ban cho con người, các ngươi nói xem, bản thân Đức Chúa Trời có những thứ này không? Quá có đi chứ! Cho nên, có những người không giải được câu đố này và nói: “Ngài không biết hát thì làm sao chỉ đạo chúng tôi hát? Như vậy chẳng phải kẻ nghiệp dư chỉ đạo người chuyên nghiệp sao? Như vậy chẳng phải là đi ngược với nguyên tắc sao?”. Ta nói cho nghe, Ta là ngoại lệ. Tại sao vậy? Các ngươi làm gì không tốt, thì Ta phải đích thân ra tay. Các ngươi mà làm được thì Ta sẵn lòng thu tay lại, Ta chẳng muốn quản, làm vậy mệt cho Ta thôi. Nếu các ngươi có thể làm tốt, thì Ta còn phải ra tay làm gì? Ta không khoe khoang, cũng không nói lời hoa mỹ, Ta chỉ muốn dạy cho các ngươi, bất kể là về phương diện nghiệp vụ hay phương diện nguyên tắc lẽ thật. Khi các ngươi đều học được rồi, đều nắm nguyên tắc rồi, thì Ta sẽ nhẹ lòng hẳn, bởi vì những chuyện này không nằm trong phận sự công tác của Ta. Có người nói: “Không phải phận sự công tác của Ngài, thì tại sao Ngài lại làm?”. Đây là việc phải làm, mà con người lại quá kém. Nếu Ta không kèm cặp, thì tác phẩm sản xuất ra sẽ chẳng có gì đặc biệt và việc làm chứng cho Đức Chúa Trời chỉ có được hiệu quả tầm thường. Nếu Ta không đưa ra được tác phẩm nào có sức nặng, thì Ta có chút thất trách, cũng có chút bất an trong lòng, nên Ta tùy theo sức lực và tình hình sức khỏe của mình mà làm một chút việc. Tại sao Ta lại làm một chút việc? Trong chuyện này có vài điều để suy xét. Khi toàn thể nhân loại xem và hấp thụ những thứ con người làm, thì cách nhìn, quan điểm và năng lực lĩnh hội của mọi người chỉ khác nhau ở chỗ họ tin Đức Chúa Trời bao lâu, trải nghiệm và tố chất của họ thế nào, nhưng khởi điểm của họ cơ bản là giống nhau. Khởi điểm của họ đều là thể nghiệm họ có về thực tế lẽ thật dựa trên cơ sở là hiểu lẽ thật. Đây là việc mà loài người có thể làm được. Có một số việc, một số tác phẩm, Ta không thể đứng ở góc độ của một con người bình thường mà làm. Vậy Ta phải đứng ở góc độ nào? Đứng ở góc độ của xác thịt chăng? Vậy cũng không được, không thích hợp, phải không nào? Đương nhiên là Ta sẽ đứng ở góc độ của Đức Chúa Trời và công tác của Ngài từ trong xác thịt mà nói những lời này, làm những việc này và bày tỏ những quan điểm này. Ở giữa nhân loại, có thể lấy tiền bạc mà đánh giá về giá trị của những thứ này không? (Thưa, không thể.) Không thể được. Bởi vì những thứ này một khi đã là thành phẩm rồi, thì sẽ tồn tại vĩnh viễn cho nhân loại. Đương nhiên, những tác phẩm bình thường cũng sẽ tồn tại vĩnh viễn. Nhưng vì những tác phẩm này sẽ tồn tại vĩnh viễn, sẽ tồn tại trong tương lai, và sẽ có đóng góp cho toàn thể nhân loại, dù là giúp kèm cặp về phương diện tin Đức Chúa Trời hoặc là cung ứng và giúp đỡ, thì Ta nên làm một vài tác phẩm có sức nặng hơn, phải vậy không? Do đó, Ta phải đứng ở góc độ mà nhân loại không thể đứng, để nói vài lời, làm vài tác phẩm. Làm như vậy để làm gì? Để tăng cường danh tiếng cho hội thánh. Xuất phát điểm này có đúng hay không? (Thưa, đúng.) Các ngươi nói xem, danh tiếng của hội thánh tăng lên thì có lợi cho việc làm chứng cho Đức Chúa Trời không? (Thưa, có.) Nó có tác dụng thúc đẩy hay kéo lùi? (Thưa, thúc đẩy.) Chắc chắn là vậy, chắc chắn nó có tác dụng thúc đẩy. Có một số đoàn thể ngoại đạo và đoàn thể tôn giáo khi xem những thứ này thì cảm thấy kinh ngạc vì những thước phim này được làm quá tốt, và luôn mong muốn được gặp mặt người làm phim sau hậu trường. Ta sẽ không gặp họ, Ta không có thời gian gặp những người này, cũng không biết họ muốn gặp Ta với mục đích gì. Ta gặp họ thì có ích gì chứ? Họ xem những phim này mà có thể tiếp nhận lẽ thật là được rồi, họ mà sẵn lòng tìm hiểu con đường thật thì càng tốt, chứ gặp mặt thì không cần thiết. Tóm lại là Ta làm một vài tác phẩm có sức nặng, để khi nhân loại thấy những thứ này thì sẽ có được lợi ích lớn hơn cho họ. Để lại những thứ này cho nhân loại thì là chuyện tốt hay chuyện xấu? (Thưa, là chuyện tốt.) Đây là việc đáng giá, đáng làm.

Đây là cách Ta chung sống với các ngươi. Mối quan hệ giữa Ta và các ngươi chính là dạng quan hệ mà các ngươi thấy được và cảm nhận được. Vậy mối quan hệ giữa các ngươi với Đức Chúa Trời thì là dạng quan hệ như thế nào, có thể cảm nhận được không? Cũng như vậy thôi. Ngươi đừng nghĩ rằng: “Đức Chúa Trời nhập thể chính là một con người, rất dễ chung sống. Nhưng Đức Chúa Trời trên trời thì không dễ chung sống, Ngài có oai nghi, có thịnh nộ, khiến người ta rất kinh sợ!”. Đức Chúa Trời cũng như Ta vậy, Ngài không dùng một lời nói, cách thức hoặc sự cưỡng ép để chinh phục và khống chế ngươi. Ngài không như vậy. Ngài chung sống với các ngươi giống như cách Ta chung sống với các ngươi mà các ngươi cảm nhận được: là có thể dạy cho các ngươi thì sẽ cố hết sức mà dạy, có thể khiến các ngươi hiểu thì sẽ cố hết sức làm cho các ngươi hiểu, các ngươi không hiểu thì Ta cũng không cưỡng ép nhồi nhét cho các ngươi. Có vài người nói: “Không cưỡng ép nhồi nhét à? Vậy Ngài giảng lẽ thật suốt để làm gì?”. Đấy mà gọi là nhồi nhét sao? Đấy gọi là cung ứng. Không phải đốt cháy giai đoạn, mà là chăm tưới. Chăm tưới thì chính đáng và là điều tích cực. Có người sẽ nói: “Kẻ địch lại Đấng Christ chinh phục người khác so với Đức Chúa Trời chinh phục người khác, chẳng phải cũng giống nhau sao?”. (Thưa, không giống nhau.) Không giống nhau thế nào? Kẻ địch lại Đấng Christ chinh phục người khác so với Đức Chúa Trời chinh phục người khác, thì cùng dùng một từ “chinh phục”, nhưng về thực chất thì có khác biệt gì? Các ngươi có thể nói rõ được không? Nếu như các ngươi còn không nói rõ được chuyện này, thì các ngươi hiểu lẽ thật quá kém rồi. (Thưa, Sa-tan chinh phục con người thì dùng cách cưỡng ép mà khống chế, còn Đức Chúa Trời chinh phục con người thì dùng cách cung ứng lẽ thật cho con người, nói cho con người biết nguyên tắc lẽ thật, con người thực hành rồi thì sẽ đạt được sự sống.) Vậy Ta hỏi các ngươi, Sa-tan khống chế và chinh phục con người, nhưng nó có lẽ thật không? (Thưa, không có.) Vậy nó là thứ gì? Nó dùng cái gì mà chinh phục con người? Nói cách khác, Sa-tan có tư cách gì mà chinh phục và thu phục con người? Nó chẳng có gì cả. Vậy nó dùng thứ gì mà chinh phục con người? Nó chinh phục con người rồi thì có thể cung ứng được gì cho con người? Nó chỉ có thể làm bại hoại ngươi, chỉ có thể đùa giỡn và chà đạp ngươi, cuối cùng khi ngươi bị chà đạp rồi, nó còn đẩy ngươi xuống địa ngục. Sự chinh phục và khống chế của nó hoàn toàn là thứ gì? Chính là sự tàn hại. Sa-tan khống chế và chinh phục ngươi, mục đích chính là không để ngươi thuận phục Đức Chúa Trời và lẽ thật, mà khiến ngươi thuận phục nó. Trong mắt nó, ngươi thuận phục Đức Chúa Trời là sai, chỉ có thuận phục nó mới đúng. Ngươi mà thuận phục nó, bị nó khống chế và chinh phục rồi, thì ngươi sẽ hoàn toàn rời xa Đức Chúa Trời, hoàn toàn từ bỏ Đức Chúa Trời. Vậy Đức Chúa Trời chinh phục con người như thế nào? Bản thân Đức Chúa Trời chính là lẽ thật, Đức Chúa Trời là thực tế của hết thảy mọi điều tích cực, là nguồn gốc của hết thảy mọi điều tích cực, là nguồn gốc của lẽ thật. Còn con người là gì? Con người là chủng loài bị Sa-tan làm cho bại hoại, con người không có lẽ thật. Cho nên Đức Chúa Trời phải bày tỏ lẽ thật và vạch trần tâm tính bại hoại của con người để phán xét và hành phạt, để thử luyện và tinh luyện con người, khiến con người có thể nghe và hiểu lời Đức Chúa Trời phán, thừa nhận Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, thừa nhận bản thân là loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, đến trước mặt Đức Chúa Trời mà phủ phục và tiếp nhận sự tể trị, an bài của Ngài. Như vậy thì có hợp với lẽ thật không? (Thưa, có.) Vậy sự chinh phục này là gì? Sự chinh phục này là thu phục, là cứu rỗi, là điều tích cực, chứ không phải là hại ngươi. Sự chinh phục này so với sự chinh phục của Sa-tan, có phải là có khác biệt không? Đức Chúa Trời chinh phục con người như vậy là chính đáng, Đức Chúa Trời là lẽ thật, là nguồn gốc của hết thảy những điều tích cực, nên “sự chinh phục nhân loại” của Đức Chúa Trời là cách dùng từ quá khớp! Bởi vì nhân loại không có lẽ thật và đã bị Sa-tan làm bại hoại sâu sắc đến nỗi trở thành chủng loài của Sa-tan, cho nên con người mà không thuận phục Đức Chúa Trời, không công nhận Đức Chúa Trời, lại còn từ bỏ Đức Chúa Trời, thì phải làm sao đây? Đức Chúa Trời phải bày tỏ lẽ thật và dùng các phương thức hành phạt, phán xét, để khiến con người hiểu ai là Đức Chúa Trời, ai là Đấng Tạo Hóa và ai là loài thọ tạo, ai là Sa-tan, để khiến con người nhận Ngài là Chúa của mình mà quay về với Ngài, thừa nhận Đấng Tạo Hóa, có thể ở trước mặt Đấng Tạo Hóa mà thừa nhận bản thân mình là loài thọ tạo. Đây là ý nghĩa của sự chinh phục. Người được Đức Chúa Trời chinh phục thì có hiểu lẽ thật hay không? (Thưa, hiểu lẽ thật.) Còn người bị Sa-tan chinh phục thì đạt được những gì? Họ chẳng hiểu được lẽ thật nào, lại còn xa rời Đức Chúa Trời, phản bội và từ bỏ Đức Chúa Trời, có quan niệm về Đức Chúa Trời. Thậm chí họ còn đi theo Sa-tan và kẻ địch lại Đấng Christ, còn có thể xét đoán và phản nghịch Đức Chúa Trời, chửi Đức Chúa Trời, không thừa nhận và càng không thuận phục sự tể trị của Ngài. Đây có phải là loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn không? (Thưa, không phải.) Như thế này là trái ngược với người được Đức Chúa Trời chinh phục, trái ngược với hiệu quả của việc Đức Chúa Trời chinh phục nhân loại.

Loại người như kẻ địch lại Đấng Christ mà có địa vị, rồi đến một nơi nào đó mà người ta không biết họ là lãnh đạo, thì trong lòng họ có vui không? Không vui. Họ đến nơi nào đó thì sẽ nghĩ đủ mọi cách mà báo cho mọi người biết: “Tôi là lãnh đạo đây, làm cho tôi chút gì để ăn đi, tôi phải được ăn ngon một chút!”. Các ngươi nói xem, Ta có quan điểm gì về địa vị? (Thưa, là không thấy hứng thú.) Biểu hiện của việc không thấy hứng thú đó là gì? Ta đến nơi nào đó thì cố hết sức mà bảo người ta đừng truyền tin bừa bãi, đừng để người ta biết. Tại sao Ta lại làm như thế? Bởi vì người ta mà biết thì phiền lắm. Ta muốn họ không biết, để khi nói chuyện với Ta, họ có thể tâm sự đôi lời, hễ họ mà biết là phiền rồi, chẳng hé miệng nói với Ta lời nào. Ngươi nói xem, không ai có thể tâm sự với Ta thì Ta có cô đơn không? Ta cố hết sức để người ta không biết, để họ xem Ta như người bình thường mà đối đãi, muốn nói gì thì nói nấy, tự do giải phóng thật tốt biết bao. Ta không có kiểu lúc nào cũng ràng buộc người ta, khiến người ta khi đến trước mặt Ta thì luôn phải cung kính, đâu cần thiết như vậy, Ta chẳng thích gì kiểu đó. Người không hiểu lẽ thật thì sẽ nghĩ: “Chắc chắn Ngài thích kiểu đó, nên con sẽ đối đãi với Ngài kiểu đó”. Ta mà thấy người nào như vậy thì sẽ trốn đi. Ta mà thấy ai lúc nào cũng cúi đầu khom lưng là Ta trốn đi gấp. Ta tuyệt đối không muốn tiếp xúc với loại người này, vì như thế thì quá nhiều chuyện, quá phiền phức! Nhưng kẻ địch lại Đấng Christ thì không như vậy, họ hy vọng được người ta tôn kính và đi đến đâu cũng được đãi ngộ đặc biệt. Họ lại càng hy vọng điều gì nữa? Hy vọng rằng chỉ cần họ hiện diện, thì người trong phạm vi lãnh đạo của họ đều có thể tuân theo mọi mệnh lệnh của họ, thuận phục đủ mọi mặt, thuận phục đến mức tuyệt đối. Họ sẽ cảm thấy: “Xem đi, lính do tôi chỉ huy, nhóm do tôi lãnh đạo đấy, thấy họ thế nào? Ai cũng nghe lời tôi, phục tùng tôi”, thế là họ có cảm giác thành tựu cực kỳ. Họ huấn luyện cho ai cũng trở thành con rối, ai cũng giống như nô lệ, chẳng có suy nghĩ độc lập, chẳng có chủ kiến, chẳng có quan điểm, thành kẻ tê dại, ngớ ngẩn. Được như vậy thì sâu thẳm nội tâm họ sẽ vui vẻ, hài lòng, cảm thấy việc họ làm đã đạt hiệu quả, dục vọng và dã tâm của họ cũng được thỏa mãn. Nếu chuyện không được như vậy thì trong lòng họ sẽ khó chịu: “Tại sao người ta không nghe lời mình? Phải dùng biện pháp gì để khiến họ phục mình đây? Được thôi, anh không biết tôi lợi hại thì tôi sẽ thể hiện cho anh xem! Tôi đây tốt nghiệp cao học, ngày nào tôi cũng cầm theo bằng cấp để cho anh thấy. Bằng tiếng Anh cấp 8, còn từng làm hội trưởng hội sinh viên. Vì các anh chẳng biết gì về tôi, nên tôi sẽ thể hiện cho các anh xem một chút!”. Mỗi lần bàn bạc công tác thì họ sẽ nói: “Mọi người có ý kiến gì thì nói ra đi, ai cũng được tự do phát biểu quan điểm của mình, đừng để bị tôi kìm kẹp”. Mọi người nghe xong thì bắt đầu lần lượt bày tỏ ý kiến. Mọi người nói xong rồi, thì “cao nhân” tốt nghiệp cao học này đứng lên nói: “Quan điểm của các anh chị không ổn, đều tầm thường quá, đều là quan điểm của người tầm thường. Tôi mà không ra tay thì thực sự không ổn. Xem đi, các anh chị đâu làm được công tác này! Thực ra, tôi cũng không muốn gánh vác công tác này, nhưng nếu không có tôi thì các anh chị thật sự không kham nổi gánh nặng này, nên tôi phải ra tay thôi. Chuyện này tôi đã nghĩ rồi, chúng ta phải xử lý như thế này, các anh chị nói cái gì cũng không ổn, tôi cho các anh chị một cách hay hơn đây. Trước đây, sắp xếp công tác yêu cầu chúng ta làm như vậy, từ giờ về sau, chúng ta sẽ không tuân thủ những quy định đó nữa, không làm như vậy nữa”. Có một vài người nói: “Không làm theo sắp xếp công tác thì sẽ gây tổn thất rất lớn cho nhà Đức Chúa Trời đấy”. Thế là họ bảo: “Không cần phải suy xét quá nhiều, nhà đức chúa trời để tâm gì đến chút tiền đó chứ? Chúng ta tập trung vào kết quả, cái đó mới quan trọng. Từ giờ cứ theo lời tôi mà làm, có chuyện thì tôi sẽ gánh!”. Ai khuyên họ cũng không được. Đây có phải là lên giọng phách lối không? Họ lên giọng phách lối với mục đích gì? Chính là để thể hiện, để liên tục nhắc mọi người về sự tồn tại và sự cao minh của họ. Họ cao minh trong chuyện gì? Trong chuyện mà người thường đều không nhìn thấu. Kể cả khi kẻ địch lại Đấng Christ có quan điểm giống với người khác, thì họ vẫn muốn phủ nhận quan điểm của người khác, sau đó bắt đầu lại và mở đầu bằng cách nói lại quan điểm đó. Mọi người nghe xong thì nói: “Chẳng phải cũng giống nhau à?”. Họ mới nói: “Giống nhau hay không thì cũng là do tôi nói. Cũng không phải do các anh chị nói, do tôi mở đầu mà”. Cho dù họ nói tới nói lui kiểu gì, thì mục tiêu của họ là khiến mọi người chịu phục, khiến người khác biết rằng: “Không phải vô cớ mà tôi làm lãnh đạo, không phải vô cớ mà tôi làm trưởng nhóm hay người phụ trách. Tôi không chỉ nói miệng đâu, tôi có tài cán, có ân tứ, có bản lĩnh nên mới làm chức vụ này”. Khi gặp chuyện, chỉ cần không có mặt họ là mọi người không thể chốt quyết định, phải có mặt họ mới có thể chốt quyết định. Mọi người đều phải nhìn sắc mặt họ, chỉ cần họ chốt quyết định thì mọi người sẽ nhẹ nhõm, còn họ mà không chốt, thì mọi người đều thấy lo lắng. Nếu không để họ chốt quyết định thì việc sẽ không được thông qua. Họ làm vậy có phải là có mục đích không? Có lúc trong lòng họ cũng nghĩ: “Mình làm vậy có đúng không nhỉ? Đừng làm vậy nữa, mất mặt lắm. Đây chẳng phải là cách làm của kẻ địch lại Đấng Christ sao? Nhưng mà không được, thể diện của mình mới quan trọng. ‘Kẻ địch lại Đấng Christ’ gì chứ? Bề trên chưa định tội thì mình không phải là kẻ địch lại Đấng Christ!”. Rồi họ cứ tiếp tục làm như cũ. Có lúc họ biết rõ làm vậy là đi ngược lại sự sắp xếp công tác, đi ngược lại nguyên tắc lẽ thật, họ biết đây rõ ràng là suy xét cho thể diện và địa vị của bản thân và trong đó có ý định riêng, nhưng họ vẫn cứ làm như cũ, chẳng suy xét hậu quả, lại càng không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Đây có phải là vấn đề về tâm tính không? Dạng tâm tính này khiến họ làm những việc gì? Khiến họ duy ngã độc tôn, làm xằng làm bậy. Trong lòng họ thật sự không hiểu nên làm gì mới thích hợp sao? Họ thật sự không hiểu làm như vậy là đi ngược lại nguyên tắc sao? Họ thật sự không biết làm vậy là mê hoặc và khống chế người khác, là hành ác sao? Họ biết chứ, họ hiểu chứ. Nhưng họ vẫn có thể làm như vậy, đây chính là không yêu thích lẽ thật, là chán ghét lẽ thật. Bất kể là quan điểm, phương thức, phương pháp hay câu nói gì, chỉ cần không phải từ miệng họ mà ra, thì họ sẽ gạt nó đi, đây chẳng phải là dã tâm sao? (Thưa, phải.) Trong chuyện này có dã tâm, có rắp tâm. Rắp tâm này là gì? Ẩn sau nó là thứ gì? (Thưa, là khiến người ta nghe lời họ.) Khiến mọi người đều nghe lời họ – chuyện tốt thế này, cơ hội ra mặt thế này thì họ tuyệt đối không thể để lỡ, không thể để nó rơi vào tay bất kỳ ai. Lần nào cũng phải do họ quyết, lần nào cũng phải để họ chốt quyết định, lần nào cũng phải quy thành quả công tác và công trạng về một mình họ. Đến cuối cùng, họ khiến mọi người có một quán tính, là quán tính gì? Là nhóm này chỉ cần có họ thì công tác sẽ có thể vận hành, còn không có họ thì có vẻ như chẳng ai gánh vác nổi. Như vậy chẳng phải họ đạt được mục đích rồi sao? Những người này đã bị họ khống chế. Những điềm báo trước cho việc bị khống chế là gì? Là bị chinh phục và đánh bại hoàn toàn, nghĩa là họ hành hạ cho ngươi phải khuất phục, không còn biết đúng sai, cũng không cố phân định họ, không lấy bất kỳ phương diện lẽ thật nào mà đối chiếu với họ, nhận định rằng mọi việc kẻ địch lại Đấng Christ làm đều đúng, và không còn dám phân tích họ đúng hay sai nữa. Đây chính là hậu quả gây ra từ việc kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và khống chế người khác, ngay sau đó, những người này sẽ đi theo kẻ địch lại Đấng Christ. Có phải vậy không? (Thưa, phải.) Đây có phải rõ ràng là biểu hiện của việc chỉ khiến người ta thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật và Đức Chúa Trời không? (Thưa, phải.) Xuất phát điểm và rắp tâm của họ khi làm bất kỳ việc gì, cũng như nguồn gốc của hành động, phương thức, phương pháp và thậm chí câu nói của họ là gì? Chính là họ muốn đánh bại ngươi, khiến ngươi khuất phục, khiến ngươi hàng phục, khiến ngươi biết ai là người đứng đầu, ai có tư cách mở đầu, ai có tiếng nói quyết định trong chuyện này, và không phải lẽ thật có tiếng nói quyết định – trừ họ ra thì không một ai có thể làm chủ những người này, không một ai có thể quyết định, không một ai có thể ra quyết sách. Ngươi muốn nói đến lẽ thật thì không có cửa, ngươi muốn nêu ý kiến bất đồng thì đừng có mơ. Đây là tâm tính gì của kẻ địch lại Đấng Christ? Đây là tâm tính hung ác, họ muốn chinh phục và khống chế người khác. Bất kể nhìn vào dục vọng và dã tâm hay nhìn vào hành động thực tế của kẻ địch lại Đấng Christ, thì chúng đều cho thấy kẻ địch lại Đấng Christ có tâm tính hung ác và chán ghét lẽ thật. Những cách làm, sự bộc lộ và biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ trong việc chinh phục và khống chế người khác, cũng như thực chất của những thứ này trong họ, tất cả đều ăn khớp với chủ đề chính mà chúng ta thông công. Kẻ địch lại Đấng Christ chỉ khiến người ta thuận phục họ, ngụ ý là người ta phải nghe lời họ và nghe lời họ là thuận phục Đức Chúa Trời. Nếu có người đưa ra ý kiến bất đồng, nói rằng họ làm như vậy là không hợp lẽ thật, thì họ sẽ phản bác: “Cái gì mà không hợp lẽ thật chứ? Anh nói xem, lẽ thật là gì? Anh nói cho rõ thì tôi sẽ phục anh, anh mà nói không rõ thì tôi sẽ cho anh phải xấu mặt!”. Họ nói như thế, thì có một vài người thực sự sợ hãi, nói rằng: “Tôi thật sự không thể nói cho rõ, nên tôi sẽ nghe anh vậy”. Thế là họ đạt được mục đích rồi. Có người nào làm như thế không? (Thưa, có.) Các ngươi có làm như thế không? (Thưa, không.) Kẻ địch lại Đấng Christ thì có kỹ năng này. Người bình thường thấy mình không thể thuyết phục được người ta thì sẽ bỏ cuộc, họ không có thủ đoạn đó. Một mặt, họ không biết nói chuyện, diễn đạt kiểu như vậy, không biết hùng biện cho giỏi, mặt khác là vì lòng họ không đủ tàn nhẫn. Người có thể làm những việc này thì bên trong phải có tâm tính tà ác, phải hung ác, phải đủ tàn nhẫn, không nể mặt bất kỳ ai, ai mà không phục họ thì họ sẽ trừng trị cho đến chết, dù ra tay tàn bạo đến thế nào thì lương tâm họ cũng không cắn rứt, không có cảm giác gì. Có người nói: “Người ta đáng thương lắm rồi, sao phải khiến họ nghe lời chúng ta làm gì? Tha cho họ đi, họ tin Đức Chúa Trời, đâu có tin chúng ta. Ai nói hợp lẽ thật thì họ cứ việc nghe người đó, nghe ai cũng được. Bỏ qua lần này đi!”. Kẻ địch lại Đấng Christ có lối nghĩ như vậy không? Không, kẻ địch lại Đấng Christ tuyệt đối không có lý tính như vậy. Đối với dã tâm và dục vọng của mình, họ không mơ hồ chút nào, họ bám chặt không buông, giống như con sói cắn chặt con cừu vậy. Ngươi mà cố thương lượng để nó không ăn con cừu thì có thương lượng được không? Không được. Tại sao? Vì tâm tính của nó là vậy. Nó cho là thế nào? “Mình đói mà, mình thích ăn thịt cừu, như vậy là đúng. Mình muốn ăn hay không cũng đều đúng”. Đây chính là triết lý của nó, là chuẩn mực và nguồn gốc hành sự của nó. Cũng như vậy, lúc chinh phục và khống chế người ta, kẻ địch lại Đấng Christ đâu có nghĩ: “Mình không phải là Đức Chúa Trời. Mình mà khống chế người khác thì thật quá vô liêm sỉ. Nếu người ta mà phân định được mình thì mình còn mặt mũi gì nữa?”. Họ có ý thức liêm sỉ đó không? (Thưa, không có.) Họ không có ý thức liêm sỉ. Bên trong nhân tính của họ thiếu cái gì? Thiếu liêm sỉ, thiếu lý tính, thiếu lương tâm. Trong nhân tính của họ không có những thứ này. Không có những thứ này thì có còn là con người nữa không? Như vậy thì không phải là con người. Không phải hễ ai mang lớp da người thì là con người, có một số là quỷ, một số là xác sống, một số là động vật. Vậy kẻ địch lại Đấng Christ là thứ gì? Là ma quỷ, có kẻ là ác quỷ, có kẻ là tà linh, tóm lại đều không phải là con người. Bởi vì kẻ địch lại Đấng Christ không có lý trí, lương tâm và liêm sỉ của nhân tính bình thường, nên họ có thể tranh đoạt con người và tranh đoạt lòng người với Đức Chúa Trời. Điều này cho thấy rằng thực chất bản tính của họ là tà ác. Họ tranh địa vị với người khác là đã vô lý hết nói nổi rồi, huống gì họ tranh đoạt địa vị và con người với Đức Chúa Trời! Điều này càng chứng tỏ họ đích thị là kẻ địch lại Đấng Christ, là ma quỷ và Sa-tan.

Chúng ta đã thông công về các biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ đến mục thứ tám rồi. Các ngươi có thể đối chiếu bản thân với loại người địch lại Đấng Christ này, với loại người đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ và có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, để từ đó xác định mình thuộc loại người nào chưa? (Thưa, đã có thể.) Các ngươi có thể đối chiếu được đôi điều rồi. Đối chiếu được thì có thể giải quyết được vấn đề gì của con người? (Thưa, tránh đi con đường sai lầm.) Tránh đi con đường sai lầm. Còn gì nữa? (Thưa, có thể phân định con người, sự việc và sự vật quanh mình.) Có thể phân định một vài người quanh mình. Phân định người khác là một phương diện, chủ yếu là phải biết phân định bản thân, phân định được tâm tính địch lại Đấng Christ bên trong mình và con đường mình đi. Như thế sẽ giúp ngươi không đi chệch đường trong khi làm bổn phận, không đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ. Con người đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ rồi thì có dễ quay đầu không? Không dễ đâu, đã đi lên con đường này rồi thì không dễ quay đầu. Ngươi biết nguyên nhân vì sao không? (Thưa, vì Đức Thánh Linh không công tác trên họ nữa.) Đây là nguyên nhân chính yếu. Đi lên con đường sai lầm là rất nguy hiểm, chính là ngươi đã chọn đối chọi với Đức Chúa Trời, muốn tranh đoạt dân được chọn với Đức Chúa Trời, muốn đối kháng với Đức Chúa Trời đến cùng, không tìm kiếm lẽ thật, không tìm kiếm để tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Ngươi đi lên con đường đó thì phiền phức rồi, ngươi đã ở phía đối lập với Đức Chúa Trời, nghĩa là ngươi đã theo ý nguyện chủ quan mà đứng về phía đối lập với Ngài, tức là tư tưởng, quan điểm, chủ kiến và chọn lựa của ngươi đều đối địch với Đức Chúa Trời. Trước khi bước lên con đường đó, nếu ngươi đã có một vài biểu hiện, tâm tính và thực chất khách quan đối lập và đối địch với Đức Chúa Trời rồi, nhưng trong lòng ngươi luôn cẩn thận không để mình đi con đường đối địch với Đức Chúa Trời, không để mình đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, như vậy thì ngươi còn cơ hội được cứu rỗi. Nếu ngươi đi lên con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, đi lên con đường đối địch với Đức Chúa Trời, thì sẽ rất nguy hiểm. Nguy hiểm đến mức độ nào? Đến mức không dễ quay đầu. Mới đây, có một vài người nói rằng Đức Thánh Linh không công tác trên ngươi nữa, chuyện này quá rõ ràng rồi! Làm sao Đức Thánh Linh có thể công tác trên dạng người như vậy chứ? Ngay khi ngươi bước lên con đường này, có lựa chọn này, thì ngươi đã gặp nguy hiểm rồi. Nếu trong lòng ngươi hiểu rõ mà vẫn cứ làm như vậy, vẫn cứ đi như vậy, vẫn cứ lựa chọn như vậy, lúc hành động thì đều dựa theo nguyên tắc của bản thân, theo phương thức trước đây của mình, mà chẳng quay đầu, chẳng hối cải hay xoay chuyển, thì điều này đại diện cho lựa chọn của ngươi, chính là ngươi đã xác định mình muốn đi con đường này và đối địch với Đức Chúa Trời. Đâu phải ngươi không hiểu mình đang làm gì, mà là ngươi biết nhưng vẫn cố ý vi phạm. Như thế cũng giống như Phao-lô vậy, ông ta nói: “Lạy chúa, ngài là ai? Tại sao lại giáng đòn lên tôi?”. Ông ta biết rõ Đức Chúa Jêsus là Chúa, là Đấng Christ, thế mà vẫn muốn đối kháng với Ngài đến cùng, đây chính là biết rõ mà vẫn cố ý vi phạm. Phao-lô đâu có làm chứng và tôn cao Chúa, ông cho rằng: “Không phải ngài là con người bình thường sao? Không phải ngài giáng đòn lên tôi vì ngài có quyền lực đó sao? Cho dù ngài có quyền lực đó, tôi vẫn cứ tin đức chúa trời trên trời. Sự nhập thể đâu phải là đức chúa trời, đâu có quan hệ gì với đức chúa trời. Ngài là con của đức chúa trời thôi, ngài với tôi bình đẳng!”. Quan điểm của ông không phải là vậy sao? Dựa trên cơ sở nào mà Phao-lô có dạng quan điểm này? Sau khi biết Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ nhập thể, ông vẫn bám chặt vào quan điểm này. Đây là vấn đề nghiêm trọng rồi. Như vậy thì kết cục của ông đã được quyết định. Ông liên tục bám giữ dạng quan điểm này, vậy con đường ông đi có thể thay đổi không? Con đường con người đi thì dựa theo quan điểm của con người. Ngươi có quan điểm như thế nào thì sẽ đi con đường như thế đó. Ngược lại, ngươi đi con đường như thế nào thì sẽ nảy sinh dạng quan điểm như thế đó. Ngươi sẽ có dạng quan điểm này, sẽ bị nó chi phối và sai khiến. Ngay khi ngươi bước lên con đường đối địch với Đức Chúa Trời, thì dạng quan điểm này cũng hình thành trong ngươi, ăn sâu bén rễ trong ngươi, và có một chuyện chắc chắn: đó là ngươi nhất định phải đối kháng với Đức Chúa Trời đến cùng, nhất định phải liên tục bám giữ quan điểm, nhận thức và thái độ sai lầm, kêu gào với Đức Chúa Trời đến cùng. Ngươi sẽ không hề có chút xoay chuyển nào, ai nói cũng không được, Đức Thánh Linh khai sáng cũng không được, anh chị em khuyên can cũng không được, Đức Chúa Trời soi sáng cũng không được, chẳng còn chút đường lùi nào nữa. Đây là lựa chọn của ngươi thôi. Ngươi sẽ được cho cơ hội lần một, lần hai, lần ba, qua ba lần mà ngươi vẫn không hề hối cải thì sau này cũng không còn cơ hội nữa. Ngươi có công tác thế nào, trả giá ra sao thì Đức Chúa Trời cũng không cảm động, ý Ngài đã xác định rồi. Đức Chúa Trời đã xác định điều gì? Là cho ngươi phục vụ, lợi dụng ngươi, lợi dụng rồi thì đẩy ngươi đến một nơi để chịu hình phạt, chịu trừng phạt như ý Ngài đã xác định. Ý đã xác định này của Đức Chúa Trời từ đâu mà có? Vì một ý niệm nhất thời của con người sao? Dựa vào ý nghĩ nhất thời của con người sao? Dựa vào việc nhất thời đi lầm đường của con người sao? Không phải, Đức Chúa Trời dựa vào quan điểm tồn tại trong sâu thẳm nội tâm ngươi, vào thái độ lâu dài của ngươi đối với lẽ thật, vào dạng con đường mà ngươi quyết định đi. Ngươi xác định làm như vậy, ai nói cũng vô ích, ngươi xác định sẽ lấy những lý luận này làm cơ sở để đi con đường sau này của mình. Ngươi đã xác định rồi, Đức Chúa Trời còn không thể quy định kết cục của ngươi sao? Chuyện này đã được ấn định từ sớm, Đức Chúa Trời không cần phải chờ đến cùng làm gì. Đối với một vài người, Đức Chúa Trời liên tục dựa vào biểu hiện của họ, sau cùng, khi những người này đi đến cuối con đường của mình thì kết cục của họ sẽ được quyết định dựa vào đủ mọi biểu hiện của họ. Có những người làm nhiều việc lành hơn việc ác, thái độ đối với Đức Chúa Trời cũng tốt, có nhiều điều tích cực hơn điều tiêu cực và việc ác, rồi dựa vào đánh giá tổng hợp các hành vi và biểu hiện khác nhau của họ, cuối cùng sẽ quyết định kết cục của họ. Nhưng có những người vừa thấy con đường họ đi là đã quyết định được kết cục của họ rồi. Trước khi quy định kết cục của con người, Đức Chúa Trời có cho họ cơ hội không? Có cho cơ hội chứ. Bao nhiêu cơ hội? Khả năng cao là không có con số cụ thể. Chuyện này còn tùy vào thực chất bản tính của người đó, cũng tùy vào sự mưu cầu của người đó. Có những người có thể được ban cho ba cơ hội. Có những người thì vô phương cứu vãn, họ ngu muội và ngoan cố, cương ngạnh ghê gớm, không tiếp nhận lẽ thật chút nào, thế thì không chờ qua ba cơ hội mới quyết định kết cục của họ. Nhưng có những người mà Đức Chúa Trời dựa vào tình trạng, tuổi tác và những chuyện họ đã trải nghiệm mà có thể cho họ năm cơ hội. Chuyện này dựa vào bản tính và thực chất, cũng như thái độ đối với việc tiếp nhận lẽ thật của con người. Đức Chúa Trời sẽ dựa vào những điều này mà quy định kết cục và đích đến của con người.

Các ngươi nói xem, khi gặp phải đủ mọi loại chuyện, con người thường không biết nên đối diện thế nào, họ không vươn tới việc hiểu ra lẽ thật thì có ổn không? Con người mà không hiểu lẽ thật thì dễ đi sai đường. Tại sao lại nói như vậy? Con người sống bằng tâm tính bại hoại của Sa-tan, thứ phát ra từ bên trong họ là những thứ bộc lộ một cách tự nhiên, không có thứ nào hợp lẽ thật, không có thứ nào là không phản bội Đức Chúa Trời. Vậy thì luôn nghe giảng đạo để làm gì? Luôn nghe, luôn suy ngẫm, luôn ghi vào lòng, luôn cầu nguyện và tìm kiếm trong lòng, mang theo lòng kính sợ Đức Chúa Trời, mang theo một tấm lòng cung kính, một tấm lòng khao khát lẽ thật mà đến trước mặt Đức Chúa Trời, hàng ngày vào giờ cố định thì tĩnh nguyện, cầu nguyện và ăn uống lời Đức Chúa Trời, lại còn thông công với người khác, trong công tác có thể hợp tác hài hòa với người khác, hàng ngày dựa theo những nguyên tắc này mà làm và tuân giữ những nguyên tắc này – Đức Chúa Trời nhìn xem liệu những việc thực hành chi tiết này của con người có thể đạt được kết quả hay không. Có những người nói: “Đây không phải chỉ là quá trình sao?”. Quá trình là gì? Đây không phải là những thứ bề ngoài, ngươi có lòng thì mới có thể tuân thủ những điều này. Còn ngươi không có lòng mà bảo ngươi tuân thủ, thì ngươi có thể tuân thủ được mấy ngày? Ngươi sẽ không tuân thủ được. Có những lãnh đạo chẳng bao giờ ăn uống lời Đức Chúa Trời hay tĩnh nguyện, như thế nghĩa là gì? Là họ không phải người thực sự tin. Không phải người thực sự tin thì sao lại còn làm lãnh đạo? Có những nơi không có người thích hợp, nên phải dùng tạm họ. Họ lầm tưởng rằng: “Mình được bầu làm lãnh đạo rồi, mình không ăn uống lời Đức Chúa Trời mà vẫn công tác như thường – chỉ cần có chân, có miệng là có thể làm được công tác này rồi”. Nghĩ như vậy là ngu ngốc. Đức Chúa Trời không xem ngươi có làm được không, mà Ngài xem ngươi làm cái gì. Việc ngươi có thể làm thì người khác cũng có thể làm, tìm một người có chỉ số thông minh bình thường là có thể làm được rồi. Ngươi đừng cho rằng vì ngươi được bầu làm lãnh đạo, có thể làm công tác, thì ngươi gần như chắc chắn sẽ thành công, sẽ được hoàn thiện, sẽ có cơ hội được sống sót. Chuyện đâu phải vậy. Đức Chúa Trời chẳng bao giờ xem ngươi làm bao nhiêu, mà Ngài xem ngươi làm gì, xem ngươi đi con đường như thế nào, những chuyện này ngươi không được tự lừa dối mình. Nếu ngươi cảm thấy: “Nhiều người như vậy mà không chọn ai, lại đi chọn mình, có vẻ mình vẫn nổi bật, vẫn có tố chất hơn người khác, giỏi hơn người khác”. Giỏi chỗ nào chứ? Ngươi giỏi thì có tư cách để không thực hành lẽ thật, thì làm việc đi ngược lại lẽ thật sao? Ngươi giỏi thì có tư cách để chẳng bao giờ tĩnh nguyện hay cầu nguyện, hành động thì không tìm kiếm lẽ thật sao? Ngươi đâu có tư cách đó. Bất kỳ địa vị, chức hàm gì cũng không phải là vốn liếng của ngươi, chúng là những thứ nhất thời và bề ngoài. Cái Đức Chúa Trời nhìn vào là sự trung thành của ngươi, là việc thực hành và mưu cầu lẽ thật của ngươi, là thái độ của ngươi đối với lẽ thật, là sự thuận phục của ngươi, là thái độ của ngươi đối với bổn phận và sứ mạng. Có những người làm bổn phận thì cũng ra sức rất nhiều, nhưng lại không phù hợp với nguyên tắc lẽ thật. Ngươi mà bảo họ nên dựa vào nguyên tắc lẽ thật để làm việc, thì họ sẽ chống đối, nổi giận và không tiếp nhận. Như vậy là họ bị tỏ lộ rồi. Tỏ lộ điều gì? Tỏ lộ rằng họ không tiếp nhận lẽ thật. Người không tiếp nhận lẽ thật là loại người gì? Là kẻ chẳng tin. Kẻ chẳng tin thì bận rộn một cách mù quáng với những chuyện gì? Tại sao họ lại hăng hái với việc bận rộn đến vậy? Vì họ có mục đích, họ thấy rằng: “Ở nơi này, mình có cơ hội làm quan. Làm quan rồi thì có cơ hội trục lợi từ tôn giáo, có thể được mọi người sùng bái. Ở đây thật tốt! Kế sinh nhai này thật dễ kiếm, danh lợi và địa vị này thật dễ đạt được! Làm quan ở đây thật dễ!”. Họ vốn chẳng ngờ đời này có ngày họ được làm “quan”. Nhưng khi bị mất “chức quan” rồi, thì họ sẽ hiện nguyên hình. Họ còn ra sức cho nhà Đức Chúa Trời, còn có thể chịu khổ và trả giá nữa không? Không thể. Như vậy chẳng phải là họ đã bị tỏ lộ rồi sao? Có những người khi có địa vị rồi thì hăng hái vô cùng, ra sức, đổ mồ hôi, chịu khổ bao nhiêu cũng không hề oán trách. Nhưng ngay khi không còn địa vị nữa, thì họ lập tức trở nên tiêu cực, đến mức bị nhấn chìm trong tiêu cực. Đây chẳng phải là họ bị tỏ lộ rồi sao? Địa vị đã tỏ lộ họ, còn cần phải thử luyện nữa không? Không cần. Được rồi, hôm nay, chúng ta thông công đến đây thôi.

Ngày 1 tháng 10 năm 2019

Trước: Mục 7. Họ tà ác, nham hiểm và giả dối (Phần 3)

Tiếp theo: Mục 8. Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời (Phần 2)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con và hát những bài ca mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Tôi đã quay về với Đức Chúa Trời Toàn Năng như thế nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger