Mục 8. Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời (Phần 3)

Phần bổ sung: Mổ xẻ văn hóa truyền thống phương Đông và phương Tây

Các ngươi nói xem, lẽ thật là gì? Có phải trước đây đã thông công về chủ đề này không? (Thưa, phải.) Vậy các ngươi dùng ngôn ngữ của mình mà nói xem, lẽ thật là gì? (Thưa, lẽ thật là chuẩn tắc và nguyên tắc để đánh giá hết thảy con người, sự việc và sự vật.) Tốt. Ai nói tiếp xem? Không còn cách nói nào khác à? Các ngươi đừng nghĩ đến chuyện dùng những lời đạo lý nào hoặc lựa chọn những câu nào của Đức Chúa Trời để giải đáp, mà hãy dùng ngôn ngữ trải nghiệm thực tế và nhận thức thực tế của bản thân để giải đáp. Nói nông cạn một chút cũng được. Có người nói: “Lời Đức Chúa Trời chính là lẽ thật”, mặc dù lời này đúng lắm, nhưng nếu như ngươi chỉ nói như vậy mà không nhận thức được ý nghĩa thực tế mà lời này nói đến, thì lời này đối với ngươi chỉ là đạo lý mà thôi. Tiến thêm một bước nữa, lẽ thật là gì? Lời Đức Chúa Trời là gì? Thực chất của lời Đức Chúa Trời là gì? Chuẩn tắc mà con người suy nghĩ và suy xét ra thì có phải là lẽ thật hay không? (Thưa, không phải.) Kinh nghiệm mà con người tổng kết, tri thức mà con người học được, hoặc một loại văn hóa xã hội, một truyền thống văn hóa nảy sinh từ bối cảnh xã hội, những điều này có phải là lẽ thật hay không? (Thưa, không phải.) Vậy những nguyên tắc hành xử và hành động mà tự thân con người tổng kết ra có phải là lẽ thật hay không? (Thưa, không phải.) Vậy rốt cuộc, lẽ thật là gì? Xác định chuẩn mực cho các nguyên tắc được nói trong chuyện này như thế nào, để cho chúng có ý nghĩa cụ thể và người ta nghe là biết ngay đây chính là lẽ thật? Nói như thế nào để khiến người ta có cảm giác súc tích và chuẩn xác? (Thưa, yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người đều là lẽ thật.) Yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người đều là lẽ thật, lời này đúng, nhưng làm sao để nói cho chính xác hơn nữa? (Thưa, lẽ thật là thực tế của hết thảy những điều tích cực.) Đây là câu trước đây thường được nói đến. Trước đây, chúng ta thường nói rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người là lẽ thật, thực tế của hết thảy những điều tích cực là lẽ thật, còn gì nữa không? (Thưa, lẽ thật là chuẩn tắc và con đường để con người hành động và hành xử.) Chuẩn tắc và con đường để con người hành động và hành xử, cũng đúng là vậy. Giờ quy hết những phương diện này lại, dùng một câu súc tích nhất mà định nghĩa xem lẽ thật là gì. (Thưa, Đức Chúa Trời chính là lẽ thật.) Đức Chúa Trời chính là lẽ thật, câu này có phạm vi quá lớn, quá chung chung, cần cụ thể hơn một chút, để người ta nghe xong thì cảm giác định nghĩa này thật chuẩn xác, không sáo rỗng, tương đối cụ thể và thực tế, nghe xong thì cảm thấy rất thỏa đáng. Các ngươi tổng kết lại đi, có thể nói chuẩn xác cụ thể đến mức nào? (Thưa, Bề trên đã thông công với chúng con rằng lẽ thật là chuẩn tắc cho cách hành xử, hành động và việc thờ phượng Đức Chúa Trời.) Lời này có súc tích không? (Thưa, súc tích.) Lẽ thật là chuẩn tắc cho cách hành xử, hành động và việc thờ phượng Đức Chúa Trời. Tại sao lại định nghĩa lẽ thật là chuẩn tắc? Xét theo nghĩa đen, nên hiểu từ “chuẩn tắc” này như thế nào? (Thưa, là nguyên tắc chuẩn xác.) Nguyên tắc và phép tắc chuẩn xác, cũng có thể gọi là quy tắc. Từ “chuẩn” này nói đến điều gì? (Thưa, là tiêu chuẩn.) Chính là phép tắc và nguyên tắc tiêu chuẩn và chuẩn xác, đây gọi là chuẩn tắc. Chuẩn tắc cho cách hành xử, hành động và việc thờ phượng Đức Chúa Trời, nếu những định nghĩa này chuẩn xác, vậy chuẩn tắc này liên quan đến điều gì? Chuẩn tắc trong chuyện này nói đến điều gì? Chính là như điều đã được định nghĩa trước đó: chuẩn tắc cho cách hành xử, hành động và việc thờ phượng Đức Chúa Trời, đây chính là lẽ thật. Vậy người ta xem xong câu này liệu có thể nghĩ rằng: “Truyền thống văn hóa của chúng ta cũng là lẽ thật” hay không? Điều này có thể được quy vào phạm trù lẽ thật hay không? (Thưa, không thể.) Không thể được. Có thể nói “Loại kết luận nghiên cứu học thuật của chúng ta là lẽ thật”, hoặc “Loại văn hóa, loại kinh nghiệm, loại tiêu chuẩn đạo đức tốt đẹp chúng ta cũng là lẽ thật” hay không? Có thể định nghĩa như vậy không? (Thưa, không thể.) Vậy tại sao không thể dùng những thứ này để định nghĩa lẽ thật? Tại sao lại nói những thứ này không liên quan đến lẽ thật? (Thưa, vì chúng không liên quan đến việc thờ phượng Đức Chúa Trời.) Đúng vậy, có lẽ chúng cũng liên quan đến cách hành xử của con người, nhưng lại không liên quan đến việc thờ phượng Đức Chúa Trời. Cách hành xử mà chúng nói đến là gì? Tiêu chuẩn và phép tắc của chúng là gì? Là hành vi tốt phát xuất từ Sa-tan, không phải về việc thờ phượng Đức Chúa Trời, mà là thờ phượng và bảo vệ Sa-tan, là một bộ câu nói hoặc văn hóa về cách hành xử được tổng kết từ quan niệm và tưởng tượng của con người, từ những gì con người cho là đạo đức hoặc hành vi tốt. Chúng không liên quan đến lẽ thật hay việc thờ phượng Đức Chúa Trời – chúng chẳng có quan hệ gì với việc thờ phượng Đức Chúa Trời.

Người Trung Quốc đã tổng kết ra một loại văn hóa truyền thống, loại văn hóa truyền thống này chỉ hợp với người Trung Quốc, chứ người phương Tây thì không tiếp nhận. Người phương Tây có anh hùng dân tộc, khí tiết dân tộc và văn hóa dân tộc của họ, vậy văn hóa của họ đưa vào phương Đông thì người phương Đông có tiếp nhận không? (Thưa, không tiếp nhận.) Cũng không tiếp nhận như vậy. Cho nên, bất kể trong mắt con người, những văn hóa này tốt thế nào, những truyền thống này cao thượng đến đâu, thì chúng có liên quan gì đến lẽ thật không? (Thưa, không.) Không liên quan gì. Chẳng hạn như phương Đông có một loại truyền thống văn hóa cho rằng cú mèo không phải là vật may mắn. Dân gian nói gì nào? “Không sợ cú mèo kêu, chỉ sợ cú mèo cười. Nghe cú mèo kêu thì chắc chắn có chuyện chẳng lành”. Văn hóa truyền thống phương Đông cho rằng cú mèo là thứ không may mắn, là thứ xui xẻo. Thứ “xui xẻo” này, người phương Đông có thích không? (Thưa, không thích.) Căn cứ vào đâu mà không thích? Căn cứ vào văn hóa truyền thống phương Đông, vào những gì tổ tiên truyền lại, rằng “Chỉ cần nghe tiếng cú mèo kêu là chắc chắn trong nhà sẽ có người chết”. Đây có lẽ là quy luật mà người ta tổng kết ra, cũng có lẽ là do con người tưởng tượng hoặc là chuyện trùng hợp, sau đó trong lòng mọi người cho rằng cú mèo là thứ không tốt, ai cũng không được cung phụng cú mèo, không được đối xử với nó như vật may mắn, chỉ cần thấy cú mèo là gấp rút đuổi đi, không hoan nghênh nó. Đây có phải là một loại văn hóa không? (Thưa, phải.) Loại văn hóa này, bất kể là tích cực hay tiêu cực, thì cũng là một dạng được truyền lại trong dân gian. Tạm thời không nói đến chuyện nó đúng hay say, chỉ nói là ở phương Đông, nhất là ở Trung Quốc, ai ai cũng đặc biệt công nhận nó. Trong lòng mỗi một người đều cho rằng cú mèo không phải là thứ tốt đẹp gì, không phải là vật may mắn, cho nên thấy nó thì phải gấp rút tránh đi. Nhưng mà ở phương Tây thì có những người lại cho rằng cú mèo là vật may mắn, còn tạc tượng và vẽ tranh cú mèo làm vật trang trí, còn có đủ mọi loại tranh thêu và vật tổ hình cú mèo, họ xem cú mèo là vật may mắn. Vật may mắn nghĩa là gì? Nghĩa là loài động vật này có thể cho ngươi vận tốt, ngươi nghe nó kêu hoặc thấy nó thì sẽ không gặp vận hạn. Đây là một loại văn hóa truyền thống dân gian của phương Tây. Chúng ta không phán xét về việc văn hóa phương Tây và phương Đông rốt cuộc cái nào đúng, cái nào sai. Chúng ta không phán xét chuyện đó, nhưng thông qua những chuyện này mà thấy rằng đối với cùng một loại động vật do Đức Chúa Trời tạo ra, phương Đông và phương Tây lại có cách nhìn và quan niệm khác nhau, hoàn toàn không có gì tương đồng. Người phương Đông cho rằng nó là thứ không tốt, đối với họ, nó cười hay khóc đều là chuyện không tốt; trong khi đó người phương Tây thì cho rằng nó cười hay khóc thì đều là điềm may, chỉ cần thấy nó là có thể gặp được vận tốt, vì vậy mà người phương Tây xem cú mèo là một động vật may mắn. Hai cách nhìn và tiếp cận này đều phát xuất từ văn hóa truyền thống, một kiểu thì cho rằng cú mèo là thứ xui xẻo, một kiểu thì cho rằng nó là thứ may mắn. Vậy bây giờ nhìn vào, rốt cuộc kiểu nào hợp lẽ thật, kiểu nào không hợp lẽ thật? (Thưa, cả hai đều không hợp lẽ thật.) Cả hai đều không hợp lẽ thật, các ngươi căn cứ vào đâu mà nói như vậy? (Thưa, hai dạng quan điểm này đều không phải đến từ Đức Chúa Trời.) Đúng vậy. Người ta căn cứ vào đâu mà nói cú mèo không phải là vật may mắn? Họ căn cứ vào văn hóa truyền thống phương Đông. Để cho rằng thứ nào may mắn, thứ nào không may mắn, thứ nào đem lại tai họa, thứ nào đem lại xui xẻo, thứ nào đem lại chuyện vui, họ căn cứ vào văn hóa truyền thống mà đánh giá. Họ căn cứ vào tưởng tượng và quan niệm mà tổng kết ra cách nhìn này, từ đó nảy sinh dạng văn hóa này. Người phương Tây cho rằng dạng động vật này có thể đem lại vận tốt cho con người, đương nhiên thế này cũng tốt hơn và tiến bộ hơn một chút so với cách nhìn nhận và tiếp cận rằng nó là thứ xui xẻo. Nó khiến người ta cảm thấy loại động vật này không tệ, ít ra khi thấy nó, trong lòng người ta sẽ yên ổn, vậy thì tốt hơn một chút so với khi thấy nó thì cảm thấy xui xẻo. Nhưng dạng nhận thức này có thể khiến ngươi đạt được điều gì? Cú mèo thực sự có thể đem lại vận tốt cho ngươi sao? (Thưa, không thể.) Nếu ngươi sinh ra ở Trung Quốc, cú mèo thực sự có thể quyết định chuyện may rủi của ngươi sao? Nó cũng không thể làm vậy. Từ đây nhìn ra được điều gì? Là bất kể ngươi cho rằng loại sinh vật này có thể đem lại xui xẻo hay vận tốt, thì đó chỉ là một dạng niềm tin và quan niệm của con người, chứ không phải sự thật. Chuyện này chứng tỏ điều gì? (Thưa, chứng tỏ văn hóa truyền thống không phải lẽ thật.) Đúng vậy, chính là chứng tỏ dạng văn hóa này không phải lẽ thật. Vậy tiếp cận cú mèo theo cách nào mới hợp lẽ thật? Chuyện này có liên quan đến chuẩn tắc cho cách hành xử, hành động và việc thờ phượng Đức Chúa Trời. Chuẩn tắc trong chuyện này là gì? Chính là ngươi nên có dạng quan điểm nào để nhìn nhận loại sinh vật này, khi loại sinh vật này xuất hiện cạnh ngươi, cho dù ngươi thấy nó khóc hay cười, thì ngươi nên có cách tiếp cận thế nào với nó – những chuyện này có liên quan đến chuẩn tắc. Vậy chuẩn tắc này là gì? (Thưa, là lẽ thật.) Chuẩn tắc này chính là lẽ thật. Ngươi nên tiếp cận con cú thế nào, chuyện này căn cứ vào điều gì? (Thưa, căn cứ vào lời Đức Chúa Trời.) Vậy lời Đức Chúa Trời nói gì về việc tiếp cận loại sinh vật này? Lời Đức Chúa Trời không nói cụ thể: “Ngươi nhất định phải có cách tiếp cận đúng đắn với cú mèo, không được có thiên kiến trong chuyện này. Không được nói nó là thứ xui xẻo, cũng không được cho rằng nó đem lại vận tốt cho ngươi. Ngươi phải tiếp cận cú mèo một cách khách quan và công bằng”. Đức Chúa Trời không phán như thế. Vậy căn cứ vào điều gì thì quan điểm của ngươi về cú mèo sẽ đạt đến hợp chuẩn tắc và hợp lẽ thật? (Thưa, căn cứ vào việc Đức Chúa Trời tạo dựng vạn vật.) Căn cứ vào sự thật rằng Đức Chúa Trời tạo dựng vạn vật, đây chính là lẽ thật. Vạn vật trong tay Đức Chúa Trời đều có công dụng, sứ mạng và giá trị tồn tại của mình. Còn gì nữa? (Thưa, trong mắt Đức Chúa Trời, điều gì cũng tốt đẹp.) Đúng vậy, vạn vật mà Đức Chúa Trời tạo dựng đều tốt đẹp, đều có giá trị tồn tại, và tất yếu phải tồn tại. Chỉ cần phát xuất từ Đức Chúa Trời, do Đức Chúa Trời tạo dựng, thì chắc chắn nó không phải thứ dư thừa. “Không phải thứ dư thừa” nghĩa là gì? Nghĩa là nó sẽ không tùy tiện đem lại vận rủi cho con người. Một con cú mèo nhỏ nhoi có thể tùy tiện đem lại vận rủi cho ngươi sao? Nó vĩ đại đến vậy sao? Ngươi nói xem, con người và cú mèo, ai cao hơn? Nhân loại là người quản lý vạn vật, nói nhân loại kiểm soát vận mệnh của cú mèo thì cũng chẳng có gì là sai, nhân loại muốn diệt sạch loài cú mèo thì sẽ diệt sạch. Chuyện cú mèo có thể thay đổi số phận của con người là chuyện không thể xảy ra. Vậy rốt cuộc, tiếp cận loại sinh vật này như thế nào thì hợp lẽ thật? Hãy căn cứ vào lời Đức Chúa Trời mà tiếp cận chúng. Vạn vật đều do Đức Chúa Trời tạo dựng, đủ mọi loài sinh vật và loài người đều do Đức Chúa Trời tạo dựng, cú mèo là một sinh vật, chúng ta nên dựa vào quan điểm của mình đối với mọi loài thọ tạo mà tiếp cận nó. Trước tiên, chúng ta không được tùy tiện phá hoại quy luật sinh tồn của nó. Chẳng hạn như, cú mèo có tập tính và đặc trưng là ban ngày thì ngủ, tối đến thì ra ngoài đi săn và hoạt động. Nếu ngươi gặp phải một con cú mèo bị thương, có lòng tốt đem nó về nuôi, thì ngươi nên đối xử với nó thế nào? (Thưa, dựa vào tập tính của nó.) Đúng vậy, ngươi phải tuân thủ quy luật sống của nó. Ngươi đừng nghĩ đến chuyện khiến nó ngủ ban đêm, nó không ngủ thì ngươi cho nó chút thuốc ngủ, như vậy là không đúng. Nếu ban đêm nó luôn làm ầm ĩ, ảnh hưởng đến việc nghỉ ngơi của ngươi, thì hãy thả nó ra nơi nào không ảnh hưởng đến ngươi nghỉ ngơi là được, chứ ngươi không thể phá vỡ quy luật sống của nó, không được đi ngược lại phương thức sinh tồn của nó. Cách đối xử như vậy có đúng đắn không? (Thưa, đúng đắn.) Khi đối xử với vạn vật mà Đức Chúa Trời tạo dựng, ngươi nên có quan điểm này. Trước tiên, hãy có quan điểm đúng đắn này, đây là bước đầu tiên nên có khi làm bất kỳ việc gì. Thứ hai, ngươi phải vận dụng quan điểm đúng đắn này khi hành động và xử lý mọi chuyện, như vậy thì việc ngươi làm sẽ hợp lẽ thật, đây gọi là chuẩn tắc. Nói thẳng ra, chuẩn tắc chính là phép tắc và quy luật chuẩn xác. Chẳng hạn như, mèo thấy chuột thì muốn bắt, ngươi cho rằng con chuột là do Đức Chúa Trời tạo dựng, thế là hạn chế con mèo, không cho nó bắt chuột, vậy có phải là sai không? (Thưa, phải.) Cách xử lý này như thế nào? (Thưa, là đi ngược lại quy luật.) Là đi ngược lại quy luật tự nhiên. Lại có người thấy con cá trong nước thì ngẫm nghĩ: “Ai cũng nói cá không thể sống thiếu nước, nhưng mình sẽ nghĩ đủ mọi cách, khiến nó ra khỏi nước và sống trên mặt đất”. Kết quả là chưa được bao lâu thì con cá đã chết. Đây gọi là gì? (Thưa, là vô lý.) Đây gọi là vô lý. Thông qua nói về chuyện cú mèo, các ngươi đã hiểu đại khái rốt cuộc chuẩn tắc là gì, và căn cứ của chuẩn tắc là gì chưa? (Thưa, là căn cứ vào lời Đức Chúa Trời.) Đúng vậy, căn cứ của nó chính là lời Đức Chúa Trời. Vậy sau này các ngươi nên tiếp cận cú mèo thế nào? Nếu một hôm trời tối mà có cú mèo kêu ở bên cửa sổ nhà ngươi, thì ngươi nên tiếp cận thế nào? Ít nhất chúng ta biết nó có quyền kêu, nên cho nó quyền lợi được kêu, nếu nó ầm ĩ quá thì ngươi có thể đuổi nó đi, nhưng không cần thiết phải lo lắng xem ngày mai mình sẽ gặp vận rủi nào. Nghĩ như vậy là dư thừa, bởi vì số phận và chuyện sống chết của con người đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, do Đức Chúa Trời tể trị. Con người không hiểu lẽ thật thì khi tiếp cận sự vật sẽ dễ có thiên kiến, thậm chí còn có những tưởng tượng, quan niệm, hoặc mê tín, từ đó dẫn đến việc trong rất nhiều chuyện, người ta không có quan điểm đúng đắn, không đạt đến làm việc dựa theo nguyên tắc lẽ thật, cũng không đạt đến chuẩn tắc cho cách hành xử, hành động và việc thờ phượng Đức Chúa Trời trong mọi chuyện. Tại sao lại như vậy? (Thưa, vì không hiểu lẽ thật.) Chuyện này chính là do không hiểu lẽ thật mà ra.

Có một số người phương Đông khi tiếp xúc với người phương Tây, thấy người phương Tây có nét mặt rất đặc sắc, mũi thì cao, mắt thì to, tóc có đủ loại màu sắc, trông đặc biệt có khí chất, từ đó vô hình trung nảy sinh một loại cảm giác hâm mộ và ngưỡng mộ đối với người phương Tây. Sau đó, trong quá trình tiếp xúc, họ cũng không ngừng tiếp thu văn hóa phương Tây. Tại sao họ có thể tiếp thu? Bởi vì trong lòng họ hâm mộ, chỉ mong sao mình được giống người phương Tây. Họ cho rằng diện mạo là do Đức Chúa Trời tiền định, không thể thay đổi được, nhưng nếu như mình có thể ăn khớp được với cách sống, cách ăn, cách mặc, cách sử dụng đồ vật, cả cách nói năng và tư duy, cùng văn hóa của người phương Tây, thì như vậy mình sẽ cao quý. Tư tưởng này thế nào? Có phải ai cũng nghĩ vậy hay không? (Thưa, phải.) Có những người phương Đông thích bắt chước người phương Tây. Một chuyện đầu tiên mà họ bắt chước chính là uống cà phê, họ cảm thấy người phương Đông uống trà thì thấp kém quá, nên họ học theo người phương Tây uống cà phê. Nhất là có những người phương Đông thấy rất nhiều người phương Tây mỗi sáng sớm cầm theo cốc cà phê tất tả đi làm, lâu dần họ cũng học theo kiểu đó, có lúc không bận rộn mà cũng làm như vậy, đây gọi là bắt chước. Thực ra, người phương Đông không có thói quen đó, nhưng họ cảm thấy thói quen của người phương Tây thật tốt, thật tôn quý và tao nhã, họ không có thói quen đó thì phải học tập và mô phỏng. Nếu như học được rồi, dựa vào thói quen này mà sống, thì chẳng phải chắc chắn sẽ gia nhập vào hàng ngũ người phương Tây, và trở thành một người phương Tây sao? Đây là một dạng tâm lý sùng bái đối với người phương Tây. Nếu như trong lòng thấy thích, thì học hỏi cũng được, còn nếu ngươi học một thói quen nào đó chỉ để khoe mẽ cho người khác xem, thì đó là bắt chước. Nếu người ta không hiểu lẽ thật, làm việc gì cũng không có chuẩn tắc, thì sẽ như con ruồi không đầu, chẳng có mục tiêu hay phương hướng, thấy người phương Tây thì học người phương Tây, thấy thứ gì đang thịnh hành trên thế giới thì học thứ đó. Người ngoại đạo là vậy, nếu người tin Đức Chúa Trời mà cũng như vậy, thì đây là loại người gì? (Thưa, là kẻ chẳng tin.) Đúng vậy. Họ làm việc có tiêu chuẩn và nguyên tắc không? (Thưa, không có.) Họ không có nguyên tắc. Tại sao lại không có? Bởi vì họ tôn sùng trào lưu của thế gian, tôn sùng sự tà ác, không ngưỡng mộ Đức Chúa Trời, trong lòng họ không yêu thích lẽ thật, cũng không tiếp nhận hay tìm kiếm lẽ thật, loại người này là kẻ chẳng tin. Bởi vì loại người này có thực chất này, nên kể cả họ có ở trong hội thánh, đọc lời Đức Chúa Trời và nghe giảng đạo như những người khác, thì họ cũng vĩnh viễn không đạt đến chuẩn tắc cho cách hành xử, hành động và việc thờ phượng Đức Chúa Trời. Ngụ ý là những người này vĩnh viễn không đạt được lẽ thật. Có phải là vậy không? (Thưa, phải.) Chuyện bắt chước người ta uống cà phê có thể tỏ lộ điều mà người ta thích, đường mà người ta đi, và nguyên tắc hành động của người ta. Các ngươi nói xem, rốt cuộc uống trà là lẽ thật hay uống cà phê là lẽ thật? (Thưa, chúng đều không liên quan đến lẽ thật.) Nói như vậy là đúng lắm. Vậy lẽ thật là gì? Có vài người nói: “Điều gì đến từ Đức Chúa Trời thì đều là lẽ thật. Lời Đức Chúa Trời phán rằng ăn những thức theo mùa thì tốt cho sức khỏe, đây là lẽ thật”. Nói như vậy là đúng. Lẽ thật là chuẩn tắc cho cách hành xử, hành động và việc thờ phượng Đức Chúa Trời, vậy chuẩn tắc cho cách hành xử bao quát những gì? Nó liên quan đến đủ mọi phương diện của lẽ thật về cách hành xử. Chuẩn tắc cho hành động là gì? Chính là phương thức và phương pháp xử lý sự việc của ngươi. Chuẩn tắc cho việc thờ phượng Đức Chúa Trời thì khỏi cần phải nói, ai cũng biết cả rồi. Phạm vi của chuẩn tắc này chính là những điều này, hết thảy đều liên quan đến lẽ thật. Nếu có người nói: “Sao anh không thích uống trà?”, thì ngươi bảo: “Tôi không thích uống trà thì không hợp lẽ thật sao?”. Có người hỏi: “Anh sang phương Tây, sao lại không học uống cà phê? Không uống cà phê là chẳng có gu thưởng thức gì cả!” thì ngươi bảo: “Anh muốn lên án tôi sao? Tôi không uống cà phê thì có tội à? ‘Gu thưởng thức’ là lẽ thật sao? Gu thưởng thức thì đáng giá bao nhiêu chứ?”. Chẳng đáng một xu, phải vậy không? Không hiểu lẽ thật mới là vô giá trị! Thông qua ví dụ này, người ta hiểu được điều gì? Nó khiến người ta hiểu được rằng, đối với những con người, sự việc và sự vật này, thì nên có quan điểm như thế nào, nến tiếp cận ra sao thì mới đúng với yêu cầu của Đức Chúa Trời và có thể đạt đến tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu. Trong những chuyện này, con người nên hiểu và tìm kiếm điều gì? Chính là chuẩn tắc để tiếp cận với đủ loại sự vật mà con người nên thực hành.

Các ngươi nói xem, một dạng văn hóa truyền thống hay một dạng tâm tình dân tộc, liệu có thể gánh nổi từ “chuẩn tắc” hay không? (Thưa, không thể.) Chẳng hạn như, “Làm người thì phải yêu nước”, câu này có phải là chuẩn tắc không? (Thưa, không phải.) “Làm người thì phải hiếu thuận với cha mẹ”, câu này có phải là chuẩn tắc không? (Thưa, không phải.) Còn có người nói: “Phụ nữ thì phải hiền thục”, “Phụ nữ thì phải giữ tam tòng tứ đức”, những câu này có phải là chuẩn tắc không? (Thưa, không phải.) Vậy “đàn ông chỉ có thể cưới một vợ, không được trăng hoa”, câu này có phải là chuẩn tắc không? Có thể vươn tới tầm lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Đây là một loại hành vi và đạo đức đúng đắn, là thứ nền tảng và cơ bản nhất của nhân tính, nhưng nó không với tới tầm của lẽ thật. Nó chỉ phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức và hành vi của nhân tính bình thường, thì có thể được xem là chuẩn tắc hay sao? Chuẩn tắc là gì? (Thưa, là lẽ thật.) Chuẩn tắc là nói đến lẽ thật, chỉ cần không với tới tầm của lẽ thật thì không phải là chuẩn tắc, các ngươi hiểu chưa? Những yêu cầu của văn hóa truyền thống đối với phụ nữ và đàn ông mà Ta vừa nói đến, Đức Chúa Trời có những yêu cầu như thế không? (Thưa, không có.) Vậy Đức Chúa Trời có yêu cầu gì đối với đàn ông? Trong Kinh Thánh nói thế nào? (Thưa, là ra sức và đổ mồ hôi mà nuôi sống gia đình.) Đây là yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với đàn ông, là điều cơ bản nhất mà đàn ông nên làm được. Vậy Đức Chúa Trời quy định thế nào đối với phụ nữ? (Thưa, dục vọng của người phụ nữ sẽ hướng về chồng.) Những lời này do Đức Chúa Trời phán, nên chúng chính là lẽ thật, là điều mà con người nên tuân thủ. Những thứ ở trong văn hóa truyền thống của con người, trong đạo đức kinh của con người, dù có đúng đến đâu, cũng không phải lẽ thật. Tại sao lại nói chúng không phải lẽ thật? (Thưa, vì Đức Chúa Trời không phán như vậy.) Những gì Đức Chúa Trời không phán thì chắc chắn không phải lẽ thật, những gì không liên quan đến yêu cầu của lời Đức Chúa Trời thì chắc chắn không phải là lẽ thật. Người phương Đông định nghĩa phụ nữ theo tiêu chuẩn gì? Người phương Đông cho rằng phụ nữ tốt thì trước hết phải thùy mị và hiền thục, ôn tồn và lễ độ, dễ thương và yếu đuối, kết hôn rồi thì phải hầu hạ tốt già trẻ lớn bé trong nhà, còn không được oán trách, hoàn toàn như bao cát chịu đòn. Đây là hình tượng phụ nữ mà người phương Đông tạo ra, cũng là tiêu chuẩn yêu cầu đối với phụ nữ. Giờ nhìn lại xem tiêu chuẩn yêu cầu của người phương Tây đối với phụ nữ là gì, nghĩa là những điều họ dạy dỗ và chủ trương trong tư tưởng, quan điểm của họ là gì? Người phương Tây cho rằng phụ nữ nên độc lập, tự do, bình đẳng – những điều này cơ bản là nữ quyền mà người phương Tây chủ trương. Nữ quyền này có một định nghĩa và yêu cầu cơ bản đối với phụ nữ, đó là chúng đưa ra một khái niệm cơ bản về lối sống và bề ngoài của phụ nữ. Khái niệm này là gì vậy? Chính là phụ nữ không cần phải vâng vâng dạ dạ, tội nghiệp đáng thương, cả ngày sống trong quy củ, như một bao cát chịu đòn. Họ cho rằng như vậy là không tốt, rằng phụ nữ thì phải dũng mãnh, phóng khoáng. Đây là tiêu chuẩn yêu cầu trong lòng người phương Tây đối với phụ nữ. Họ cho rằng phụ nữ không cần như tượng gỗ, ngày ngày nhẫn nhục chịu đựng, chờ người khác quát mắng, ra lệnh. Họ cho rằng không cần như vậy, họ chủ trương phụ nữ hành động thì phải chủ động, độc lập, còn phải quyết đoán nữa. Đương nhiên, cái chúng ta hiểu không hẳn là hoàn toàn ăn khớp với cái họ nghĩ, nhưng về cơ bản thì khác biệt giữa phụ nữ phương Đông và phương Tây đại khái là vậy. Trong hai dạng quan điểm này, dạng nào đúng đắn? (Thưa, không có dạng quan điểm nào đúng đắn cả.) Thực ra, chuyện này không liên quan đến chuyện đúng sai. Trong bối cảnh xã hội phương Đông, trong một cộng đồng như thế, thì ngươi phải sống như vậy, ngươi muốn phản kháng thì có được không? Trong một gia tộc, ngươi mà muốn phản kháng thì có khả năng bị trừng trị đến chết. Còn ở phương Tây, ngươi có thể sống như phụ nữ phương Tây. Nhưng dù ngươi sống thế nào, sống dưới bối cảnh xã hội nào hay trong cộng đồng nào, thì dạng quan điểm nào là hợp lẽ thật? (Thưa, chẳng có quan điểm nào hợp lẽ thật cả.) Dạng quan điểm nào cũng không hợp lẽ thật, đều là đi ngược lại với lẽ thật. Tại sao lại nói như vậy? Người phương Đông bắt phụ nữ luôn phải có quy củ, phải đạt đến tam tòng tứ đức, thùy mị hiền thục, mục đích là gì? Chính là để dễ quản chế họ. Đây là một loại tư tưởng ác tính nảy sinh từ văn hóa truyền thống phương Đông, thực ra nó tàn hại con người, cuối cùng dẫn đến việc phụ nữ sống không có phương hướng và chủ kiến, không biết bản thân nên làm gì, nên làm thế nào, không biết làm thế nào là đúng và làm thế nào là sai, thậm chí đem số phận mình giao cho gia tộc mà còn cảm thấy như vậy là chưa đủ. Đây chẳng phải là một dạng tàn hại con người sao? (Thưa, phải.) Bị tước đoạt quyền lợi mà bản thân nên có và hưởng thụ, nhưng không có phản kháng gì, tại sao họ lại không phản kháng? Họ nói: “Phản kháng là không đúng, phản kháng là không hiền đức. Xem chị này chị kia đi, người ta làm tốt hơn tôi biết bao nhiêu, chịu khổ nhiều hơn tôi biết bao nhiêu, mà có oán trách gì đâu”. Tại sao họ lại nghĩ vậy? (Thưa, vì họ bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của văn hóa truyền thống.) Chính là văn hóa truyền thống đã ăn sâu bén rễ nơi sâu thẳm nội tâm họ, làm khổ họ. Tại sao họ lại có thể tiếp nhận dạng tàn hại này? Họ biết rõ dạng tàn hại này rất thống khổ, khiến họ rất bất lực, nội tâm cũng bị tổn thương nặng nề, tại sao họ vẫn có thể tiếp nhận chúng? Nguyên nhân khách quan là gì? Bối cảnh chung của xã hội là vậy, họ không có cách nào thoát khỏi, chỉ có thể nhẫn nhục chịu đựng. Về mặt chủ quan, bản thân họ cũng cho là vậy, họ không hiểu lẽ thật, không hiểu làm một người phụ nữ thì nên sống như thế nào mới có tôn nghiêm, sống ra sao mới đúng, chẳng có ai nói những điều này cho họ. Với họ, chuẩn tắc cho hết thảy cách hành xử, hành động là gì? Chính là văn hóa truyền thống. Họ cho rằng cái gì tổ tiên truyền lại thì đều đúng đắn, con người đi ngược lại thì sẽ bị cắn rứt lương tâm, đây là “chuẩn tắc” của họ. Trên thực tế, chuẩn tắc này có đúng hay không? Có nên đặt một dấu chấm hỏi cho nó hay không? (Thưa, có.) Chuẩn tắc này không hợp lẽ thật. Bất kể hành vi của con người dưới sự chi phối của dạng tư tưởng và quan điểm này khiến cho bao nhiêu người tán thành và có hảo cảm, thì trên thực tế, nó có phải là chuẩn tắc hay không? Không phải, nó đi ngược lại lẽ thật, đi ngược lại nhân tính. Suốt một thời gian dài, phụ nữ phương Đông phải hầu hạ già trẻ lớn bé trong nhà, mọi việc nhà đều một mình làm hết, như vậy có công bằng không? (Thưa, không công bằng.) Vậy làm sao họ vẫn có thể chịu đựng? Chính là vì họ bị dạng tư tưởng và quan điểm này trói buộc. Họ có thể chịu đựng, ít nhất nơi sâu thẳm nội tâm của họ có 80% cho rằng làm vậy là đúng, cứ chịu đựng thì sẽ có thể đạt đến được tiêu chuẩn của văn hóa truyền thống. Đây là tiêu chuẩn và phương hướng mà họ vươn đến. Nếu sâu thẳm nội tâm họ cho rằng làm vậy là không đúng, không nên làm, không hợp nhân tính, đi ngược lại nhân tính và lẽ thật, thì họ còn có thể làm vậy hay không? (Thưa, không thể.) Họ sẽ nghĩ cách để rời xa những người này, không làm nô lệ cho những người này nữa. Nhưng người bình thường đều không dám làm như vậy, họ nghĩ thế nào? Họ cho rằng rời khỏi cộng đồng này thì không sống nổi, rời khỏi cộng đồng này thì sẽ mang tiếng nhơ vô cùng lớn, làm vậy thì kết quả sẽ như thế đấy. Họ cân nhắc rồi, thì cảm thấy nếu họ làm vậy, đồng nghiệp sẽ bàn tán rằng họ không hiền lương, xã hội sẽ khiển trách họ thế nào, có ý kiến gì về họ, và hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Cuối cùng, họ ngẫm nghĩ: “Vẫn phải chịu đựng thôi, không thì sự thóa mạ sẽ trút lên đầu mình!”. Phụ nữ phương Đông cứ như vậy qua từng thế hệ. Đằng sau đủ mọi hành vi tốt này, họ phải chịu đựng những gì? Đó là tôn nghiêm và nhân quyền của họ đều bị tước đoạt. Dạng tư tưởng và quan điểm này có hợp lẽ thật không? (Thưa, không hợp.) Chúng không hợp lẽ thật. Tôn nghiêm và nhân quyền đều bị tước đoạt, nhân cách cũng không còn gì, không có không gian sống và suy nghĩ độc lập, không có quyền lên tiếng hay biểu đạt ý nguyện của bản thân, mọi việc họ làm đều vì người trong nhà. Họ làm vậy vì mục đích gì? Chính là để đạt đến tiêu chuẩn yêu cầu của văn hóa truyền thống đối với phụ nữ, khiến người ta khen ngợi họ, nói họ là vợ tốt, là người tốt. Đây có phải là một dạng tàn hại không? (Thưa, phải.) Dạng tư tưởng này là chính đáng hay là méo mó? (Thưa, méo mó.) Nó có hợp lẽ thật không? (Thưa, không hợp.) Đức Chúa Trời tạo ra ý chí tự do cho con người, từ ý chí tự do này, con người nảy sinh tư tưởng gì? Nó có hợp nhân tính không? Ít nhất nó phải hợp nhân tính. Ngoài ra, Đức Chúa Trời còn khiến con người có cách nhìn và nhận biết chuẩn xác về những con người, sự việc và sự vật trong quá trình sống, rồi sau đó lựa chọn con đường đúng để sống và thờ phượng Đức Chúa Trời. Cách sống như vậy là cuộc đời mà Đức Chúa Trời ban cho và con người nên tận hưởng. Tuy nhiên, con người suốt đời lại bị những thứ gọi là văn hóa truyền thống và đạo đức kinh ràng buộc, trói buộc và bóp méo, cuối cùng họ trở thành cái gì? Trở thành con rối của văn hóa truyền thống. Chuyện này có phải do con người không hiểu lẽ thật mà ra không? (Thưa, phải.) Sau này, các ngươi có thể chọn đi con đường này không? (Thưa, không chọn.) Vậy các ngươi nên làm gì? Giả sử ngươi nói “Tôi sẽ đấu với họ”, hoặc “Tôi không hầu hạ các người đâu, tôi có nhân quyền, có nhân cách độc lập”, vậy có ổn không? (Thưa, không ổn.) Làm vậy cũng không ổn, đó là đi từ cực đoan này sang cực đoan khác, đây không phải là làm chứng cho Đức Chúa Trời, không phải là tôn vinh Đức Chúa Trời. Vậy thì nên làm thế nào? (Thưa, nên dựa theo nguyên tắc.) Dựa theo nguyên tắc đương nhiên là đúng, nên dựa theo nguyên tắc mà đối đãi với mỗi một người. Với người tin Đức Chúa Trời thì đối đãi như anh chị em, với người không tin thì đối đãi như người ngoại đạo. Ngươi không cần ép mình, bóp méo nhân cách mình, cũng không cần vứt bỏ tôn nghiêm và quyền lợi của mình mà hy sinh cả đời vì họ, họ không xứng. Trên đời, chỉ có một vị xứng để ngươi hiến dâng cả đời, đó là ai? (Thưa, là Đức Chúa Trời.) Tại sao? Bởi vì Đức Chúa Trời là lẽ thật, lời Đức Chúa Trời là chuẩn tắc để nhân loại sinh tồn, hành xử và hành động. Chỉ cần có Đức Chúa Trời và lời Ngài, thì khi hành xử và hành động, ngươi sẽ không bị lệch bên này bên kia, mà sẽ làm thật chuẩn xác. Đây là hiệu quả mà Đức Chúa Trời muốn đạt đến trên người đã được cứu rỗi.

“Lẽ thật là gì?” là một chủ đề quá rộng lớn. Chúng ta chỉ mới nêu ra vài ví dụ, một trong số đó là về cách tiếp cận với cú mèo. Còn ví dụ nào nữa? (Thưa, người phương Đông bắt chước người phương Tây uống cà phê.) (Thưa, tiêu chuẩn yêu cầu của người phương Đông và phương Tây đối với phụ nữ.) Đây là những ví dụ rõ ràng nhất. Vậy giữa cách nhìn của người phương Đông và phương Tây đối với đủ loại sự vật, cái nào là chuẩn tắc? (Thưa, đều không phải.) Chúng đều không liên quan đến lẽ thật, đều là cách nhìn và quan điểm của con người, nói cho chuẩn xác thì chúng đều là quan điểm sai lầm và lý luận sai lầm, đều không phải chuẩn tắc, mà đều là thủ đoạn, cách nói và triết lý tàn hại người của Sa-tan. Thông công về chuyện này như vậy rồi, các ngươi có hiểu được đôi chút chưa? (Thưa, đã hiểu.) Nếu như Ta không nói về chuyện này, ai biết sẽ có ngày các ngươi tính chuyện học người phương Tây mà uống cà phê, ăn bánh mì kẹp, và bắt chước người phương Tây, như vậy thì có phù hợp với nguyên tắc không? Cho dù ngày ngày ngươi ăn món Tây, nhưng lại không mưu cầu lẽ thật, thì cũng vô ích. Ngươi vẫn không có chuẩn tắc cho cách hành xử. Mấu chốt là liệu ngươi có thể tìm kiếm lẽ thật và hành động theo nguyên tắc, như vậy mới có ích cho ngươi. Ta thông công như vậy rồi, trong lòng các ngươi đã hiểu được một chút về lẽ thật và chuẩn tắc chưa? (Thưa, đã hiểu.) Trong văn hóa truyền thống và chuẩn tắc đạo đức của con người có lẽ thật không? (Thưa, không có.) Trong đạo đức kinh có lẽ thật không? (Thưa, không có.) Vậy hiện tại có thể xác định lời Đức Chúa Trời là lẽ thật không? (Thưa, có thể.) Xác định lời Đức Chúa Trời là lẽ thật rồi thì phải ngẫm nghĩ xem: lời Đức Chúa Trời là gì? Nguyên tắc được yêu cầu trong lời Đức Chúa Trời là gì? Chuẩn tắc Ngài phán cho con người là gì? Rốt cuộc làm thế nào mới hợp với lời Đức Chúa Trời, và nguyên tắc chuẩn xác để làm như vậy là gì? Các ngươi phải tìm kiếm những điều này. Chủ đề này nói đến đây thôi.

Phần bổ sung:

Một ngày của Tiểu Giả

Giờ chúng ta chuyển sang chủ đề tiếp theo. Chủ đề này nên nói chuyện gì nhỉ? Nên kể chuyện đi. Trong các câu chuyện cũng có những điều liên quan đến lẽ thật, liên quan đến mọi chuẩn tắc cho cách hành xử, hành động và việc thờ phượng Đức Chúa Trời. Các ngươi hãy nghe xem câu chuyện hôm nay có liên quan gì đến lẽ thật và chuẩn tắc cho hành vi của con người. Nội dung câu chuyện này nói về một ngày của Tiểu Giả. Nhân vật chính là Tiểu Giả, và câu chuyện này ước chừng diễn ra trong bao lâu nào? (Thưa, một ngày.) Một ngày. Có những người nói: “Chuyện trong một ngày mà đáng để kể à?”. Còn tùy ngươi kể cái gì. Nếu là chuyện phiếm, chuyện thị phi, thì không đáng để kể. Còn nếu là chuyện liên quan đến lẽ thật, thì đừng nói là chuyện của một ngày, cho dù là chuyện của một phút cũng đáng để kể, phải vậy không? (Thưa, phải.)

Tiểu Giả là một người có nhiệt tâm mưu cầu và làm bổn phận, câu chuyện của Tiểu Giả bắt đầu lúc cậu thức dậy từ sáng sớm. Thức dậy rồi, cậu đọc lời Đức Chúa Trời, tĩnh nguyện, sau đó thì đi ăn sáng. Cậu ăn một bát cháo và một chút rau, thấy có trứng gà thì cậu nghĩ bụng: “Mình nên lấy hai cái, một ngày ăn hai quả trứng là đủ dinh dưỡng rồi”. Nhưng khi đưa tay ra thì cậu lại do dự: “Nên lấy một quả hay hai quả đây? Nếu lấy hai quả thì người ta nhìn vào chẳng thuận mắt, thì tham lam quá, sẽ khiến người ta thấy mình có chút tham ăn. Thôi thì lấy một quả vậy”. Cậu rút tay về, rồi lại đưa tay ra lấy một quả trứng. Vừa lúc đó, cũng có người đến lấy trứng, thế là Tiểu giả giật thót mình, ngẫm nghĩ: “Hay là đừng ăn trứng nữa, có cháo có rau rồi, còn có lương khô nữa, bữa sáng vậy là đủ, không cần phải tham quá. Mà ăn trứng làm gì chứ, để người khác nhìn thấy thì chẳng tốt đẹp gì. Làm vậy chẳng phải là tham hưởng an nhàn sao? Một cái cũng không được ăn”. Cậu nghĩ như vậy rồi đặt quả trứng lại chỗ cũ. Một lát sau, Tiểu giả ăn sáng xong thì bắt đầu làm bổn phận. Cậu bận rộn với công tác trong tay, làm hết việc này đến việc khác. Thời gian trôi vùn vụt, chớp mắt đã đến trưa. Lúc mọi người khác đi ăn trưa rồi, Tiểu Giả lại nhìn đồng hồ, vừa chỉ 12:40: “Chờ thêm chút đã. Giờ mọi người đều đang ăn thì mình không nên nôn nóng đi ăn. Mình mà nôn nóng đi ăn cùng với mọi người, thì cũng giống mọi người và có vẻ tham ăn. Cứ chờ thêm chút đi”. Rồi cậu lại tiếp tục với việc đang làm, nhưng bụng thì bắt đầu kêu. Cậu bóp bụng, mắt lơ đãng nhìn màn hình, trong lòng nghĩ: “Mình đói quá! Trưa nay ăn gì nhỉ? Có thể được ăn chút thịt không? Nếu được ăn thịt thì tốt quá!”. Đầu cậu thì nghĩ, bụng cậu thì kêu. Thật không dễ gì cậu mới chờ được đến lúc mọi người đi ăn về. Có người nói: “Tiểu Giả, sao còn chưa đi ăn? Nhanh đi ăn đi, đồ ăn nguội lạnh giờ”. Tiểu Giả nói: “Gấp làm gì, việc trong tay tôi còn chưa xong, khi nào xong rồi đi ăn”. “Đi ăn xong rồi làm tiếp chẳng phải tốt hơn à?”. “Không sao đâu, sẽ xong sớm thôi mà”. Tiểu Giả gồng mình chịu đựng cơn đói, tiếp tục làm việc đang làm. Thực ra, hiện tại cậu đã đói lắm rồi, không còn tâm trạng để làm việc tiếp nữa, nhưng cậu vẫn chịu đựng cơn đói và tiếp tục giữ vẻ giả tạo của mình. Sau đó, cậu nhìn đồng hồ, thấy chỉ 1:30 chiều, bèn nghĩ bụng: “Vậy là ổn, đến lúc đi ăn rồi”. Vừa lúc cậu đứng dậy đi ăn, thì có một người chị em cầm khay đến chỗ cậu mà bảo: “Đã muộn thế này, sao cậu còn chưa đi ăn? Bận đến thế nào cũng phải ăn chứ, không ăn đúng giờ thì sẽ mắc bệnh dạ dày đấy”. Tiểu Giả mới nói: “Không cần phải vội, xong việc thì tôi sẽ đi ăn mà”. “Cậu khỏi cần đi nữa, tôi đem đồ ăn đến cho cậu luôn rồi, nhanh ăn đi”. “Chị cứ gấp gáp vậy làm gì, tôi còn chưa đói mà”. Miệng thì nói không đói, mà bụng thì réo ầm ầm như sấm dội. Tiểu Giả tay bóp bụng, miệng cười gượng gạo, bảo với người chị em đó rằng: “Sau này chị không cần đem cơm đến cho tôi đâu”. “Tôi mà không đem tới thì đồ ăn sẽ nguội lạnh, rồi phải hâm lại. Đồ này đã hâm một lượt rồi đấy”. “Vậy thì cảm ơn chị!”. Tiểu Giả chảy nước miếng, nhận lấy đồ ăn từ người chị em. Liếc nhìn vào khay, cậu thấy đồ ăn không tệ, có hai bánh bao, có rau, có thịt, còn có cả canh, lòng cậu thấy rất vui. Lúc Tiểu Giả thấy bánh bao thì lại nảy ra một ý nghĩ khác, thế là bảo người chị em: “Tôi không ăn hết hai cái bánh bao đâu. Mấy hôm nay bận việc quá, ngủ không ngon, nên không muốn ăn lắm. Chị cho tôi hai cái bánh bao thì chẳng phải là lãng phí à? Chị lấy lại một cái đi”. “Không cần đâu, cậu ăn không hết thì cứ trả về”. Chị ấy nói xong thì đi. Tiểu Giả nghĩ bụng: “Chị đi nhanh đi, tôi đói lắm rồi”. Tiểu Giả bắt đầu cầm bát canh, nhìn quanh thấy không có ai, những vẫn cứ ngại, len lén húp một miếng canh. Rồi cậu nhìn vào thịt: “Ái chà, từ xa đã ngửi thấy mùi thịt kho, nhưng giờ không thể ăn luôn được, trước hết phải ăn rau, ăn rau no rồi mới ăn chút thịt, không thì sẽ ăn hết nửa bát thịt mất, vậy thì xấu hổ quá!”. Trong lòng cậu nghĩ một hồi rồi mới làm. Cậu ăn bánh bao, ăn rau, húp canh, vừa ăn vừa cảm thấy vẫn muốn ăn một miếng thịt, thế là thuận tay gắp một miếng thịt kho cho vào miệng. Cậu nhắm mắt lại chăm chú thưởng thức: “Thơm ngon quá! Thịt vẫn cứ ngon, nhưng không được ăn nhiều, ăn một miếng là được rồi, phải ăn rau, húp canh nhiều mới được”. Rồi cậu tiếp tục ăn bánh bao, nhưng vừa ăn vừa nhìn vào phần thịt. “Có nên ăn thịt này không? Thơm ngon vậy mà không ăn thì tiếc lắm”. Miệng cậu bắt đầu chảy nước miếng, nghĩ miên man: “Có cách rồi, mình sẽ xé bánh bao chấm vào nước thịt, thế thì có khác gì ăn thịt đâu? Như vậy lại có thể khiến mọi người thấy mình không ăn thịt, mà mình vẫn được ăn vị của thịt, vậy thì tốt quá rồi!”. Nghĩ vậy, Tiểu Giả lấy chút bánh bao chấm thịt mà ăn, thấy hương vị rất ngon, không kém gì ăn thịt. Thế là Tiểu Giả liền xé bánh bao cho vào nước thịt… Chưa đầy mười phút, cậu đã ăn hết chỗ đó, canh cũng đã húp hết. Nhưng cậu chỉ ăn một cái bánh bao, cái bánh còn lại cậu cũng muốn ăn nhưng cố chịu đựng và khắc chế bản thân mà không ăn. Sau khi ăn hết mọi món đúng như dự định, Tiểu Giả cũng đã no được bảy, tám phần, cảm thấy vậy là được. Rồi cậu nghĩ: “Ái chà, mình ăn nhanh vậy thì không thích hợp lắm, sẽ trông như mình đói lắm vậy. Đúng là mình đói, nhưng để người khác thấy được thì mất mặt quá, phải ăn chậm lại. Nhưng giờ mình ăn sạch rồi, biết làm sao đây? Mình có chiêu này, chờ mười phút rồi hẵng đem trả khay đồ ăn”. Thế là Tiểu Giả đưa đồng hồ lên xem giờ: “Năm phút… mười phút… mười lăm phút… Được, hai giờ rồi. Tốt quá, đem trả khay thôi!”. Cậu vui vẻ đem phần thịt kho và một cái bánh bao đi trả lại.

Đến 2:00 chiều thì Tiểu Giả quay về chỗ công tác, lúc đó các anh chị em đã đi nghỉ trưa rồi, Tiểu Giả chẳng có việc gì làm, thấy chán vô cùng. Cậu nghĩ bụng: “Hay mình cũng ngủ một chút nhỉ? Ăn no rồi ngủ một chút cũng tốt mà. Nhưng không được, mọi người ngủ mà mình cũng ngủ thì mình thành cái gì chứ? Mình không được ngủ, phải cố gắng gượng. Nhưng làm sao để không buồn ngủ nhỉ? Đứng thì mình sẽ không thể ngủ được, nhưng nếu mình đứng suốt thì khi có người bất ngờ bước vào, họ sẽ giật mình. Thôi, mình không được đứng. Vậy mình cứ ngồi trước màn hình máy tính, có ai thấy thì sẽ nghĩ mình đang làm việc, nhưng thật ra mình đang nghỉ trưa. Chiêu này hay đấy”. Thế là Tiểu Giả ngồi tự nhiên trước màn hình máy tính, mắt nhìn mông lung vào màn hình, chưa đầy năm phút, cậu đã ngủ gục trên bàn phím, lại còn ngáy khò khò. Bốn mươi phút sau, Tiểu Giả đột nhiên tỉnh giấc, bật dậy: “Không phải mình đang đứng à? Sao lại ngủ gục được chứ?”. Nhìn đồng hồ, Tiểu Giả thấy không còn sớm nữa, vội đi rửa mặt khi chưa có ai đến. Nhìn mặt mình trong gương, Tiểu Giả giật mình: “Ôi trời, nguyên cái bàn phím in trên mặt mình, thế này thì sao dám gặp ai?”. Cậu vội lấy tay chà tới chà lui, ở trong phòng vệ sinh một hồi lâu. Sau đó, cậu nhìn vào gương, thấy dấu vết bàn phím trên mặt hầu như không còn, trong lòng rất phấn khởi: “Nếu không để ý thì chẳng ai phát hiện ra đâu”. Rồi cậu vội chải sơ đầu tóc, chỉnh lại cổ áo. Vừa lúc đó cậu phát hiện ra cổ áo màu sáng của cậu có chút màng mỡ, nhìn gần thì thấy cổ tay áo cũng bị bẩn. Cậu nghĩ bụng: “Mấy ngày rồi mình chưa tắm rửa, cũng chưa thay đồ, nhưng chưa tắm rửa cũng có cái lợi. Hơi bẩn một chút đâu có hại gì, mình cũng chẳng ngại chút bẩn. Chẳng phải bẩn một chút thì càng thể hiện mình có vẻ thuộc linh hơn à?”. Thế là Tiểu Giả lật ngược cổ áo và cổ tay áo, xắn tay áo khoác lên, để lộ những chỗ bẩn. Cậu rất hài lòng, tinh thần vui vẻ, thong dong bước ra khỏi phòng vệ sinh. Một lát sau, mọi người đều đã vào vị trí, bắt đầu bận rộn với công việc. Tiểu Giả thấy mọi người đã đến cả rồi thì bảo: “Các anh chị nghỉ trưa ngắn ghê, đúng là có thể chịu khổ và trả giá mà! Tôi còn không nghỉ trưa đây này, chỉ chợp mắt một cái là đã lấy nước rửa mặt, không rửa thì không tỉnh táo nổi”. Chẳng có ai trả lời cậu, thế là cậu thấy chán, bắt đầu làm việc. Bởi vì bữa trưa cậu húp quá nhiều canh, nên cứ muốn đi vệ sinh, nhưng cậu cố nhịn, nghĩ bụng: “Mình mà đi, mọi người chẳng nghĩ mình lười biếng à? Vậy thì không tốt cho thanh danh. Mình không được đi!”. Thế là cậu cứ kìm nén, cố nhịn. Cậu chật vật nhịn đến khi mọi người đi vệ sinh thì liền đi theo, nghĩ bụng: “Cứ đi theo mọi người thì tốt quá rồi, người khác sẽ chẳng nói gì về mình”.

Chiều đó rất bận rộn, Tiểu Giả đã làm được rất nhiều việc, thông công với người này, hỏi chuyện người kia, tra tìm tư liệu, làm đủ loại công tác liên quan đến bổn phận của mình. Cậu cứ bận rộn như vậy, cuối cùng đã đến giờ ăn tối, lần này Tiểu Giả chỉ đi ăn muộn hơn người khác một chút, nhưng cơ bản vẫn ăn xong đúng giờ. Sau giờ ăn tối là quãng thời gian sung sướng nhất của Tiểu Giả, bởi vì chỉ có lúc này cậu mới có thể thản nhiên uống một tách cà phê mình thích, mà chẳng thấy tự trách hay bị người khác chỉ trích gì, trong lòng cũng thấy bình an. Tại sao như vậy? Bởi vì cậu có đủ lý do để giải thích tại sao mình phải uống ly cà phê này, những lý do rất chính đáng trong mắt mọi người, cho nên đây là quãng thời gian sung sướng nhất của cậu. Lúc pha cà phê, cậu lẩm bẩm một mình: “Trời ạ, hôm nay lại phải làm thêm giờ rồi, chẳng biết phải thức đến mấy giờ. Để xem ly cà phê này có thể giúp mình trụ được bao lâu”. Cậu đặt ly cà phê mới pha lên bàn cái “cạch”, như thể muốn nói rằng: “Tôi uống cà phê đây, các anh chị có thể làm gì được tôi chứ!”. Cậu nhìn mọi người xung quanh một cái, chẳng có ai nhìn cậu, nhưng cậu vẫn thờ ơ như không, cầm cốc lên mà nhấp một ngụm cà phê, nghĩ bụng: “Ai cũng nói cà phê ngon, đúng là không sai. Mỗi ngày uống lại thấy vị mỗi khác, đem lại thể nghiệm khác nhau, thật quá tuyệt!”. Tiểu Giả trong lòng vui sướng, đắc ý uống cà phê, rồi lơ đãng nhìn vào những việc cần làm trước khi đi ngủ. Trong lòng cậu cơ bản không có mục tiêu gì, người cũng đã kiệt quệ sau một ngày làm việc bận rộn, nhưng cậu cứ ép mình phải làm tiếp, không được gà gật, không được để người khác thấy cậu mệt mỏi, cũng không được để người khác thấy cậu có bất kỳ thái độ qua loa, vô trách nhiệm hoặc khinh mạn nào đối với công tác và bổn phận. Cậu ép mình lấy lại tinh thần và ngồi trước máy tính mà tiếp tục làm việc, đồng thời cũng tự nhiên uống hết ngụm cà phê này đến ngụm cà phê khác, càng cuống càng có tinh thần, càng uống càng không buồn ngủ. Thỉnh thoảng Tiểu Giả nhìn vào đồng hồ: “Đã quá1:00 sáng rồi, nhưng chưa đạt mục tiêu 3:00 sáng thì chưa thể đi ngủ. Thậm chí là2:50 sáng cũng không được đi ngủ, làm vậy là đi ngược lời cam kết của mình, sẽ không có cách nào giải trình với Đức Chúa Trời. Đây là lời cam kết mà một loài thọ tạo nên tuân thủ, mình phải làm cho bằng được, đã nói 3:00 ngủ thì 3:00 mới đi ngủ, có phải uống thêm cả đống cà phê cũng được”. Vậy là cậu uống cà phê, chống lại sự mệt mỏi của mình, trong lòng không ngừng ràng buộc và khống chế bản thân. Đến 3:00 sáng, Tiểu Giả có một nhiệm vụ quan trọng cần làm, cậu lấy điện thoại ra, gửi đi một tin nhắn với nội dung: Chị A à, tôi là Tiểu Giả, tôi có chuyện quan trọng muốn nhắc chị, chị đừng quên ngày mai có buổi nhóm họp lúc 10:00 nhé, chị phải đến đấy, đừng đến muộn. Ký tên: Tiểu Giả. Gửi tin rồi, Tiểu Giả thấy an tâm, đồng thời nghĩ bụng: “Gửi đi là một chuyện, nhưng lỡ như chị ấy không nhận được thì sao? Chị ấy có biết là mình gửi tin này không? Không được ngủ, phải chờ đã, xem chị ấy có trả lời hay không”. Chờ nửa tiếng rồi mà chưa thấy bên kia trả lời, Tiểu Giả nghĩ bụng: “Chị ấy ngủ chưa nhỉ? Sao mà đi ngủ sớm vậy? Thật chẳng ra trò trống gì, mới 3:00 mà đã đi ngủ”. Chờ đến 3:50, thì chị kia nhắn lại: Chuyện lúc 10:00 sáng mai, tôi không quên đâu, mong cậu cũng không quên và đến đúng giờ. Tiểu Giả đọc tin thì nghĩ: “Ái chà, cái chị này là người kiểu gì vậy? Sao lại có thể đi ngủ sau cả mình?”. Nhưng Tiểu Giả chịu không nổi nữa: “Đừng uống cà phê nữa, còn uống thì tối nay mình không thể ngủ được mất. Phải nhanh đi ngủ thôi, mình phải dậy lúc 5:30, muộn nhất là 6:00. Không thể dậy muộn hơn anh chị em. Phải để các anh chị em thức dậy là thấy mình đang cầu nguyện, đọc lời Đức Chúa Trời, nghe giảng đạo. Mình không được dậy muộn. Đều do cái tin nhắn này gây phiền phức, muốn ngủ sớm cũng không được. Nhưng dù sao thì mọi người đều biết mình thức khuya, mục đích của mình đã đạt được rồi. Ngày mai mình sẽ cố gắng chờ đến 4:00 sáng mới đi ngủ”. Trong lúc Tiểu Giả cố ngẫm nghĩ, cậu cứ vô thức thấy mơ mơ hồ hồ, về đến phòng cũng không cởi áo quần nổi, vừa nằm vật xuống giường là đã gần như rơi vào giấc ngủ, nhưng vẫn tự nhắc nhở mình: Buổi sáng không được ăn trứng gà, bữa trưa chỉ ăn một bánh bao, không được ăn thịt kho, ba giờ sáng mới đi ngủ, còn phải gửi tin nhắn… Tiểu Giả cứ nghĩ mãi nghĩ mãi đến lúc nằm yên bất động, ngủ thiếp đi vì mệt mỏi và kiệt sức, chìm trong mơ mộng và ảo tưởng. Đây chính là một ngày của Tiểu Giả.

Các ngươi nói xem, chuyện Ta kể là chuyện gì? Tiểu Giả cứ giả vờ như vậy thì có mệt mỏi không? (Thưa, mệt mỏi.) Người máy làm một việc liên tục cả ngày cũng không thấy mệt, bởi vì nó không có thần kinh, không có tri giác. Chứ con người mà làm như vậy thì sẽ mệt. Tiểu Giả mệt mỏi như vậy, tại sao vẫn cứ sống kiểu đó? Tại sao vẫn cứ làm kiểu đó? Bên trong Tiểu Giả có tính toán gì không? (Thưa, có.) Tâm điểm tính toán của Tiểu Giả là gì? (Thưa, là làm cho người khác xem.) Làm cho người khác xem thì có lợi gì? (Thưa, có thể khiến người khác đánh giá cao mình.) Khiến người khác đánh giá cao mình. Các ngươi có quen thuộc với cách làm của Tiểu Giả không? Loại người nào làm như vậy? (Thưa, những người Pha-ri-si.) Đúng vậy, những người Pha-ri-si sẽ lấy những hành vi tốt, hành vi và cách làm hợp với quan niệm của con người mà đem ra làm trước mặt người ta, khiến người ta sùng bái họ, dùng phương thức này mà đạt đến mục đích mê hoặc người ta. Họ giả vờ như vậy, làm đủ loại hành vi tốt cho người ta xem, thì tính chất bên trong chuyện này là gì? Là giả vờ, là lừa dối, mê hoặc người ta, còn gì nữa? (Thưa, là giả mạo thuộc linh.) Vậy một ngày của Tiểu Giả có bao nhiêu chuyện liên quan đến tâm tính và là điểm chung của những người có thể giả mạo? Ăn trứng, bánh bao, thịt kho, uống cà phê, đây đều là những chuyện bề ngoài, các ngươi nhìn vào những chuyện này thì thấy được thực chất gì của Tiểu Giả? Là giả vờ và khắc chế bản thân. Giả vờ cái gì? (Thưa giả vờ mình chịu khổ.) Trong lòng mọi người, chịu khổ là chuyện tốt hay chuyện xấu? (Thưa, là chuyện tốt.) Đây là hành vi mà mọi người đều cực kỳ tôn sùng. Mọi người xem dạng hành vi tốt này là gì? Họ xem đó là thực hành lẽ thật, vì vậy mà Tiểu Giả mới không ngại trả giá và chịu khổ. Chịu khổ ở đây bao gồm những gì? Bao gồm không ăn đồ ngon, và còn thức khuya, dậy sớm, kể cả khắc chế bản thân. Tính chất của những việc chịu khổ này là gì? Đều là giả vờ, không phải là chịu khổ vì lẽ thật và chính nghĩa, mà đều là chịu khổ để được người khác đánh giá cao và sùng bái, để có thanh danh tốt và uy thế cao. Tiểu Giả chịu khổ vì lẽ thật sao? (Thưa, không phải.) Mấy chuyện mà Tiểu Giả làm có hợp với nguyên tắc lẽ thật không, có phải là vì lẽ thật mà chống lại bản thân và buông bỏ lợi ích cá nhân không? Có điều gì như vậy không? (Thưa, không có.) Tính chất việc chịu khổ của Tiểu Giả là gì? Có phải là thực hành lẽ thật không? Có phải là biểu hiện yêu thích lẽ thật không? (Thưa, không phải.) Vậy thì là gì? (Thưa, là giả hình.) Là giả hình, chán ghét lẽ thật, là lừa dối, giả vờ, mạo nhận và mê hoặc, đây đều là hành vi và chọn lựa hoàn toàn dựa theo tưởng tượng và quan niệm cá nhân, xoay quanh lợi ích của bản thân, chúng không có liên quan chút gì đến lẽ thật. Tiểu Giả không tìm kiếm lẽ thật, cho nên mọi việc cậu làm ra đều không phải là lẽ thật. Một mặt, chúng không hề có liên quan gì đến lẽ thật, mặt khác chúng cũng hoàn toàn không nhất quán với nhu cầu bình thường của nhân tính trong sâu thẳm nội tâm cậu. Ăn trứng gà thì có tội không? (Thưa, không.) Vậy mà Tiểu Giả xem ăn trứng gà là tham. Trứng gà là một thực phẩm mà Đức Chúa Trời tạo ra cho con người, nếu ngươi có điều kiện để ăn, thì ngươi ăn đâu có tính là tham, nếu ngươi không có điều kiện mà lại giành của người khác để ăn, đấy mới là tham. Vậy Tiểu Giả định nghĩa chuyện này như thế nào? Cậu cho rằng ăn trứng gà là tham, nếu như bị mọi người nhìn thấy thì càng tham hơn nữa, còn nếu ăn sau lưng, không để mọi người thấy thì không phải là tham. Tiểu Giả dùng tiêu chuẩn nào để đánh giá xem có phải là tham hay không? Là căn cứ vào việc mọi người có thấy hay không. Cậu có căn cứ vào lời Đức Chúa Trời không? Không, cậu căn cứ vào một quan điểm của bản thân. Thực ra, những người khác có ý nghĩ gì hay nói lời nào về chuyện ăn trứng gà này không? (Thưa, không.) Đây hoàn toàn là một loại lý luận do cá nhân Tiểu Giả nghĩ ra. Cậu cho rằng buổi sáng mà ăn trứng gà là tham, là tham hưởng an nhàn, nuông chiều xác thịt. Chiếu theo niềm tin của cậu, chẳng phải hễ ăn trứng gà thì là tham hưởng an nhàn và nuông chiều xác thịt sao? Ngụ ý của cậu chính là: “Các anh chị em ăn trứng gà là đang nuông chiều xác thịt. Tôi có thể không nuông chiều xác thịt, có thể khắc chế, không ăn. Trứng gà ở ngay trước mắt, tôi cầm lên rồi mà vẫn có thể đặt xuống. Tôi có ý chí như vậy, có quyết tâm như vậy, tôi yêu thích lẽ thật như vậy, anh chị em có làm được không? Anh chị em không làm được thì chính là không yêu thích lẽ thật”. Tiểu Giả biến cách nghĩ của mình thành điều gì rồi? Biến thành tiêu chuẩn để đánh giá đúng sai. Như vậy có phải là giả mạo không? (Thưa, phải.) Đây chính là giả mạo.

Một biểu hiện nữa của Tiểu Giả là đến giờ ăn thì không đi ăn, vậy cậu làm gì? (Thưa, trì hoãn.) Cậu kìm nén cơn đói và trì hoãn giờ ăn. Nhưng tại sao? (Thưa, để làm cho người khác xem.) Chính là làm ra vẻ, làm cho người khác xem. Vậy cậu muốn người ta từ chuyện này mà nhìn ra được gì? Lĩnh hội được gì? Là để khiến người ta thấy cậu rất giỏi chịu khổ, khi làm công tác thì rất để tâm, rất có lòng trung thành, rất nghiêm túc và có trách nhiệm! Người như vậy thật sự là siêu nhân rồi! Như vậy là cậu đạt được mục đích rồi, cậu muốn được đánh giá như thế. Đối với cậu, sự đánh giá này là gì? Chính là sinh mệnh, là nguồn sống của cậu. Như vậy có phải là yêu thích lẽ thật không? (Thưa, không phải.) Loại người này thích nhất điều gì? Họ không ngại biểu diễn, dùng âm mưu quỷ kế, khoác lên hình tượng giả để lừa gạt người khác và khiến người khác thấy họ có thể chịu khổ đến đâu, rồi từ đó mà nhận được lời đánh giá từ miệng người khác rằng: “Anh đúng là có thể chịu khổ, anh đúng là người yêu kính Đức Chúa Trời, anh đúng là người trung thành làm bổn phận”. Họ không ngại dùng hình tượng giả, dùng thủ đoạn mà che đậy chân tướng, lừa dối Đức Chúa Trời và bịt mắt mọi người, tất cả là để kiếm một lời dễ nghe, một đánh giá tốt từ người ta. Đây là tâm tính gì? (Thưa, là tà ác.) Đây là tâm tính tà ác. Họ quá giỏi giả vờ, quá giỏi biểu diễn và dùng thủ đoạn rồi! Chỉ là chuyện ăn, cứ điềm tĩnh mà ăn thì có vấn đề gì sao? Có con người nào sống mà không ăn cơm chứ? Ăn đúng giờ là tội ác sao? Bụng đói mà đi tìm đồ để ăn thì là tội ác à? (Thưa, không phải.) Đây là nhu cầu của xác thịt, là điều chính đáng. Những người này đem một nhu cầu hoàn toàn chính đáng như vậy biến thành một thứ không chính đáng và lên án nó. Họ đề xướng chuyện gì? Họ đề xướng việc khắc chế bản thân không ngừng nghỉ, sau đó che đậy chân tướng, tạo hình tượng giả cho người khác xem, khiến người khác thấy họ có thể chịu khổ, không tham hưởng an nhàn, vì công tác mà có thể không tiếc bất kỳ giá nào, có thể dâng hiến thời gian, sinh lực và hết thảy mọi thứ mình có. Họ khiến người khác nhìn thấy như vậy. Trên thực tế, họ có thực sự làm vậy không? Họ đâu có làm vậy, họ dùng hình tượng giả mà mê hoặc người khác, đây chính là một dạng biểu hiện của tâm tính tà ác. Một chuyện nhỏ như chuyện ăn mà họ có thể làm quá lên như vậy, thì đây là loại người gì? Đây có phải là điều mà nhân tính bình thường nên có không? (Thưa, không phải.) Không phải, làm vậy là quá thâm hiểm rồi! Chút chuyện như thế mà có thể làm màu mè đến vậy, người bình thường mà nghe thấy thì sẽ tán thành hay ác cảm đây? (Thưa, ác cảm.) Vậy các ngươi có thể làm ra chuyện như vậy không? (Thưa, có lúc cũng có.) Có nghiêm trọng như vậy không? (Thưa, không.) Cảm giác đói bụng rất khó chịu, thế mà có những người có thể chịu được cái khổ đó. Ngươi bảo họ thuận phục lời Đức Chúa Trời, dốc công sức vào lời Đức Chúa Trời, dựa theo nguyên tắc trong lời Đức Chúa Trời mà làm việc, và nói lời trung thực, thì họ cảm thấy rất vất vả, rất khó khăn. Ngươi bảo họ từ bỏ lợi ích và thể diện của bản thân thì với họ chuyện đó khó như lên trời. Nhưng nếu ngươi bảo họ gạt lời Đức Chúa Trời vào một góc, dựa theo tưởng tượng của bản thân mà hành động, bảo vệ lợi ích xác thịt của mình, thì cho dù có phải trả giá nào, họ cũng làm, cũng sẵn lòng. Đây có phải là một biểu hiện của việc không yêu thích lẽ thật hay không? (Thưa, phải.) Đây là một phương diện.

Tiểu Giả còn có biểu hiện gì nữa? Cậu buồn ngủ đến mức không chịu nổi mà vẫn không đi ngủ. Các ngươi nói xem, người ta buồn ngủ thì đi ngủ một giấc, hoặc chợp mắt một chút, vậy thì càng có thêm sức để làm việc, như vậy có chính đáng không? (Thưa, có.) Như vậy là chính đáng. Cậu ngủ một giấc thì có ai lên án không? (Thưa, không.) Không có ai lên án cả, vậy thì tại sao Tiểu Giả sợ đến mức đó? Rốt cuộc cậu sợ cái gì? (Thưa, sợ bị lộ tẩy.) Đúng vậy, chính là cậu sợ bị lộ tẩy. Trong tưởng tượng của mình, cậu cho rằng mỗi một người đều đánh giá cao cậu, đều cảm thấy cậu cực kỳ giỏi chịu khổ, cực kỳ ngoan đạo. Ngay khi cậu để bại lộ chân tướng, mọi người phát hiện ra cậu không phải là người như vậy, thì toàn bộ hình tượng tốt đẹp của cậu sẽ sụp đổ. Trong lòng cậu không chịu nổi chuyện này, vì vậy mà cậu khắc chế bản thân ngay cả trong chuyện chợp mắt, cậu yêu cầu nghiêm ngặt với bản thân như vậy đấy. Đây là loại người gì? Có phải loại người này thần kinh có vấn đề không? Loại người này nghe giảng đạo, đọc lời Đức Chúa Trời, nhóm họp và thông công không ít, tại sao vẫn không chú trọng vươn tới lẽ thật? Ngươi suy ngẫm nguyên tắc lẽ thật thì rất tốt, ngươi nhìn xem lời Đức Chúa Trời nói gì đi, lời Đức Chúa Trời có định nghĩa gì về chuyện chợp mắt của con người không? (Thưa, không có.) Đức Chúa Trời không định nghĩa chuyện đó, chẳng hề nhắc đến chuyện đó. Ngươi có tư duy của nhân tính bình thường thì nên biết chuyện này nên xử lý thế nào. Buồn ngủ thì chợp mắt, vậy là chính đáng. Trời mùa hè quá nóng, giữa trưa thì nên nghỉ một chút, vậy là chính đáng. Nhất là có những người tuổi tác đã cao, mọi mặt sức khỏe và sức lực đều không đủ, đến giữa trưa, ăn cơm xong thì phải ngủ một giấc. Chuyện này không phải là căn cứ vào thói quen sinh hoạt, mà là căn cứ vào nhu cầu của cơ thể. Đức Chúa Trời ban cho ngươi tri giác, ý thức và phản ứng của nhân tính bình thường, để ngươi căn cứ vào công tác và hoàn cảnh mà tự xử lý những chuyện ăn uống, làm việc và ngủ nghỉ thường ngày, ngươi không được tàn hại bản thân. Chẳng hạn như, ngươi không ăn thịt cá ê hề, ngươi nói: “Đức Chúa Trời không cho người ta ăn ngon, lúc nào cũng ăn ngon thì là tham”. Đức Chúa Trời đâu có nói lời này, Ngài cũng không có yêu cầu như vậy đối với con người. Thế mà Tiểu Giả lại cho là vậy, cậu cho rằng có lẽ Đức Chúa Trời cũng nghĩ như vậy. Cậu nghĩ con người mà ngủ sớm thì là tham hưởng an nhàn, Đức Chúa Trời sẽ không thích. Như vậy có phải là hiểu lẽ thật không? (Thưa, không.) Không hiểu lẽ thật thì có thể tìm kiếm lẽ thật, nhưng mà Tiểu Giả cũng không tìm kiếm, cứ dựa theo ý nguyện chủ quan của mình mà làm. Cậu làm đến mức độ nào? Vì để thức khuya mà mỗi ngày cậu uống ba, bốn cốc cà phê. Có người nói: “Vì để làm công tác của nhà Đức Chúa Trời, mà mấy năm qua khi làm bổn phận, tôi không thể thiếu cà phê”. Người khác bảo: “Ai bắt anh uống cà phê? Không phải là tự anh sẵn lòng uống à?”. Thế là họ nghĩ bụng: “Anh biết tại sao tôi uống cà phê à? Tôi uống không phải để thức khuya, mà là để giảm cân, anh không biết sao? Nhưng tôi không thể nói vậy với anh, nói ra thì anh biết mất. Anh mà gầy hơn tôi thì tôi làm sao thể hiện độ gầy được?”. Đây là toan tính nhỏ nhen, phải không? Trong đó có quan điểm và tư tưởng gì? Có sự lĩnh hội và lý tính của nhân tính bình thường không? (Thưa, không có.) Không có, toàn là đấu trí, toàn là dùng thủ đoạn, âm mưu, giả vờ, giả mạo, mê hoặc, toàn là mấy thứ đó. Khi gặp chuyện thì đều toan tính nhỏ nhen, tuyệt đối chẳng bộc lộ quan điểm và cách nghĩ chân thật của mình cho người khác biết, càng không để cho mọi người đều biết và cho Đức Chúa Trời thấy. Tâm thái của họ không phải là: “Mình phải mở lòng bộc bạch, trong lòng nghĩ gì thì làm như vậy, con người mình là như vậy thôi”. Họ tuyệt đối không có tâm thái đó, vậy họ có tâm thái gì? Chính là cực lực che đậy, giả vờ, chỉ sợ hình tượng của mình trong lòng người khác không đủ cao đẹp, không đủ ngoan đạo, không đủ thuộc linh.

Tại sao Tiểu Giả muốn thức khuya? Có rất nhiều công tác không cần phải thức khuya, đến sau 10:00 tối thì cơ bản ai cũng buồn ngủ, cho dù có làm việc thì hiệu quả cũng không cao, vì sinh lực của con người có hạn. Nhưng mà Tiểu Giả cứ luôn khắc chế bản thân, thực ra cậu cũng biết làm như vậy không hiệu quả, nhưng cậu không quan tâm. Tại sao trước khi ngủ, cậu phải gửi tin nhắn đi? (Thưa, để cho người khác thấy.) Để khiến người khác làm chứng là cậu đã thức đến 3:00 sáng mới ngủ. Ngươi tính chuyện cả đêm không ngủ, cuối cùng chẳng phải người buồn ngủ vẫn là ngươi sao? Chẳng phải vậy là đáng đời ngươi sao? Có những người thức đến tận 3:00 sáng để gửi tin nhắn cho người khác, bên kia đến 4:00 sáng mới trả lời, thì họ chờ đến 5:00 sáng mới gửi tin nhắn hồi đáp nhằm chứng thực bản thân còn ngủ muộn hơn người kia. Hai người cứ hành hạ và làm hại nhau, kết quả là cả đêm chẳng ai được ngủ. Như vậy chẳng phải là một cặp ngu ngốc sao? Đây là hành vi gì? Là hành vi ngu xuẩn. Hành vi này phát xuất từ đâu ra? Đều từ tâm tính bại hoại mà ra. Tạm thời không nhìn xem hành vi này đến từ tâm tính bại hoại nào, mà hãy nói xem chuyện này có hoang đường hay không. Ngươi cứ tùy tiện tìm một câu trong lời Đức Chúa Trời để thực hành là đã có thể thay đổi hành vi và cách làm hoang đường này rồi. Một câu trong lời Đức Chúa Trời mà đã có thể khiến ngươi sống bình an và vững vàng, một câu trong lời Đức Chúa Trời mà đã khiến ngươi sống hiện thực và thực tế hơn, vậy tại sao ngươi không thể chọn sống theo lời Đức Chúa Trời? Tại sao lại hành hạ bản thân như vậy? Đây chẳng phải là tự làm tự chịu sao? (Thưa, phải.) Dạng người này có chịu bao nhiêu khổ cũng chỉ là công cốc, chịu khổ đến mức nào thì cũng là tự gánh hậu quả. Có vài người nói: “Con tin Đức Chúa Trời bao năm qua, đã có hai mươi năm làm lãnh đạo, lúc nào cũng thức khuya không ngủ, cuối cùng thần kinh bị suy nhược”. Ta mới bảo: “Thần kinh ngươi bị suy nhược là còn đỡ. Ngươi cứ mù quáng hành hạ bản thân và làm kiểu đó, thì bệnh thần kinh cũng cận kề lắm rồi”. Người ta đến đêm không ngủ, thì thần kinh luôn căng thẳng, cơ thể không vận hành bình thường, như vậy sức khỏe có thể tốt nổi không? Đây là tự làm tự chịu! Ngươi mà bảo họ: “Anh làm vậy không được đâu. Anh hãy sắp xếp để làm mọi công tác vào ban ngày và nâng cao hiệu suất làm việc đi. Khi mọi người cùng thảo luận công tác, hãy bớt nói chuyện vớ vẩn và chuyện phiếm, vậy thì sẽ nắm được trọng điểm, tâm điểm và chủ đề chính. Bàn xong rồi thì nhanh chóng mỗi người làm việc của mình, đừng mè nheo, lề mề”, thì họ sẽ không nghe. Họ không giỏi nói năng, cũng chẳng đúc kết được kinh nghiệm, cứ nói linh tinh mãi và lãng phí thời gian, nói đến tận một hai giờ sáng, họ không ngủ mà cũng không cho người khác ngủ. Như vậy chẳng phải là hành hạ và làm hại người khác sao? Cuối cùng họ còn cảm thấy: “Thưa Đức Chúa Trời, Ngài nhìn thấy rồi nhỉ? Con thức đến tận 3:00 sáng chưa ngủ đấy!”. Đức Chúa Trời nhìn thấy chứ, Ngài không chỉ nhìn thấy bề ngoài của ngươi, mà còn nhìn thấy nội tâm ngươi. Đức Chúa Trời phán: “Nội tâm ngươi bẩn thỉu, ngươi thức khuya, mù quáng hành hạ bản thân, Đức Chúa Trời sẽ không ghi nhớ. Lúc nên ngủ thì ngươi không ngủ, mà cố gồng lên, ngươi chịu khổ là đáng đời!”. Con người mà buồn ngủ thì hai mắt tự nhiên díu lại, đây là bản năng. Cứ luôn đi ngược lại bản năng và quy luật tự nhiên thì ngươi chịu khổ là đáng đời! Đức Chúa Trời không bắt ngươi chịu cái khổ vô ích và đi ngược lại quy luật tự nhiên, không bắt ngươi chịu cái khổ đi ngược nguyên tắc và lẽ thật. Nếu như ngươi cứ đòi chịu những cái khổ này thì ngươi cứ chịu đi. Có những người vừa nghe nói có người thức đến 3:00 sáng mới ngủ thì cảm thấy: “Vậy chẳng phải là giống mình rồi sao? Sau này mình phải thức đến 3:30 mới ngủ”. Rồi sau đó nghe nói có người thức đến 3:30, thì họ phải thức đến 4:00, vậy chẳng phải là thần kinh có vấn đề sao? Ngươi hơn thua cái gì chẳng được, lại đi hơn thua ai thức khuya hơn, vậy thì đúng là thần kinh bất thường. Người có thần kinh bất thường thì sự lĩnh hội của họ có phải là có vấn đề không? (Thưa, phải.) Như thế thì họ không lĩnh hội được lẽ thật. Ngươi có chút thời gian, thì đừng dốc công sức, động não, hao phí tâm tư vào mấy chuyện như hành vi bề ngoài, giả vờ và giả mạo này. Vậy nên dốc công sức vào chuyện gì? Ngươi hãy xem lời Đức Chúa Trời vạch trần bản tính bại hoại và tâm tính tà ác của con người thế nào, vạch trần sự qua loa chiếu lệ của con người ra sao, rồi dựa trên những lời vạch trần con người này của Đức Chúa Trời mà dốc công sức đối chiếu với bản thân, phản tỉnh xem mình có bao nhiêu biểu hiện mà Đức Chúa Trời đã vạch rõ, xem mình thường làm và bộc lộ bao nhiêu điều, tổng kết những điều này thì rất tốt! Chứ lúc nào cũng dốc công sức vào chuyện ăn mấy quả trứng, mấy cái bánh bao, vào chuyện chấm bánh vào nước thịt, thì đúng là quá ti tiện! Đây là gì vậy? Là tính toán nhỏ nhen, là không khôn ngoan. Người như thế là thứ gì? (Thưa, là đồ ngu.) Nói vậy rất đúng, thấy trứng gà thì cứ nghiên cứu xem nên ăn mấy quả, đến tối thì cứ uống cà phê mà thức cho khuya, gọi loại người này thứ chỉ biết ăn, là đồ ngu thì cũng không quá chút nào. Họ ngu ở chỗ nào? Tại sao lại nói loại người này là ngu? (Thưa, vì họ chịu khổ mà chẳng có chút giá trị nào.) Chắc chắn chuyện họ làm chẳng có giá trị gì. Làm vậy là ấu trĩ, tại sao ngươi cứ làm? Cả đời ngươi không ăn trứng gà thì có thể hiểu được lẽ thật sao? Làm vậy có phải là ngu xuẩn không? (Thưa, phải.) Đừng làm chuyện ngu xuẩn. Loại người nào dễ làm chuyện ngu xuẩn? (Thưa, người không có hiểu biết thuộc linh.) Loại người này có năng lực lĩnh hội lẽ thật không? (Thưa, không có.) Có những người nói: “Tố chất của họ khá tốt, giảng đạo cũng thành thạo”. Giảng đạo cũng thành thạo, vậy tại sao đến lúc hành động thì cứ làm mấy trò con nít này vậy? Tại sao hành động lại ấu trĩ và nực cười đến thế? Đây là chuyện gì? Họ nói một đằng làm một nẻo, cái họ nói là thứ hiểu biết về đạo lý, còn cái họ làm mới là thứ họ thực sự nhận thức được và có thể tiếp nhận. Trong sâu thẳm nội tâm họ có công nhận và thừa nhận những đạo lý mà mình giảng không? (Thưa, không thừa nhận.) Họ không thừa nhận những điều đó là lẽ thật, không thừa nhận chúng là chuẩn tắc mà họ nên tuân thủ và thực hành. Thay vào đó, những quỷ kế và quan niệm trong lòng họ, những cách nghĩ, cách làm giả mạo của họ, cùng những hành vi mà người ta xem là tốt, đấy mới là cái họ cho là chuẩn tắc và con đường thực hành. Dạng người như thế mà mãi không xoay chuyển thì có phải là phế rồi không? Họ còn có cơ hội được cứu rỗi nữa không? Không có nhiều hy vọng lắm.

Các ngươi nói xem, dưới trời nắng gay gắt mà che dù, đội mũ cói thì có chính đáng không? (Thưa, chính đáng.) Con người làm việc dưới trời nắng gay gắt mà không đội mũ cói thì sẽ bị cháy da, đội mũ cói mà làm việc là điều rất chính đáng. Có những người lại không có sự lĩnh hội như vậy, họ nói: “Đội mũ cói sao? Vậy chẳng phải là làm nhục tôi à? Tôi mà có thể đội mũ cói sao? Tôi không sợ chịu khổ, da có đen một chút tôi cũng không sợ, đen một chút thì khỏe mạnh mà”. Nếu họ thực sự nghĩ vậy thì cũng chẳng sao, quan trọng là có người trong lòng không nghĩ như vậy. Họ cho rằng: “Nhìn mấy người kìa, ai cũng đội mũ cói vì sợ da đen hoặc bị cháy nắng giữa trời nắng to, tôi thì không đội đâu. Đen da, cháy nắng, tôi sợ gì chứ? Đức Chúa Trời thích như vậy, tôi chẳng quan tâm người khác thấy thế nào!”. Người nói ra lời này thì như thế nào? Có phải ngươi cảm thấy người này có chút giả dối và giả mạo không? Thực ra, họ không đội mũ cói là vì họ có ý định, muốn khiến người khác thấy họ có thể chịu khổ và thực sự thuộc linh. Dạng hành vi giả hình và giả mạo này thật quá đáng kinh tởm! Người giỏi giả vờ đến vậy thì có thể làm tốt bổn phận sao? Có thể chịu khổ và trả giá khi làm bổn phận sao? Ngay khi da bị đen, bị cháy nắng, họ có mở miệng oán trách Đức Chúa Trời không? Những người Pha-ri-si giả hình chẳng bao giờ thực hành lẽ thật, lại còn giả mạo thuộc linh. Họ thực sự có thể chịu khổ và trả giá sao? Xét từ thực chất của người giả hình, họ tuyệt đối không yêu thích lẽ thật, lại càng không chịu khổ và trả giá vì lẽ thật. Ngoài ra, bất kể đã nghe bao nhiêu lời về lẽ thật, họ đều không xem chúng là lẽ thật mà lắng nghe và lĩnh hội, thay vào đó, họ xem chúng là một dạng lý luận thuộc linh để tiếp cận và rao giảng. Loại người giả hình này không hiểu tại sao phải tin Đức Chúa Trời, tại sao Ngài phải cung ứng lẽ thật cho mọi người, cũng không hiểu quá trình con người tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời rốt cuộc là như thế nào, ý nghĩa nằm ở đâu, sự cứu rỗi mà Đức Chúa Trời nói đến rốt cuộc là có ý gì. Họ đều không hiểu những lẽ thật này. Nếu trong hội thánh ở nơi nào đó có một người giả hình, không yêu thích lẽ thật mà yêu thích việc giả mạo, thì đó chính là người Pha-ri-si chính cống. Họ chú trọng hành vi, bề ngoài và sự đánh giá trong lòng người khác, họ nghe bao nhiêu lẽ thật cũng không đem ra thực hành, họ nói gì cũng đúng, đạo lý nào cũng nói được, nhưng đến khi thực hành thì lại không khớp với cái mà họ giảng. Nếu có người rất ăn ý với họ, thì hai người họ có phải là cùng một loại hay không? (Thưa, phải.) Người có tư duy bình thường thì sẽ nhìn nhận những biểu hiện này thế nào? Họ sẽ cảm thấy: “Cách thực hành của người này không đúng, phải không? Sao mà lại kỳ quái như vậy? Đến giờ nên ăn thì cứ ăn đi, sao phải lòng vòng như vậy?”. Họ sẽ nói những người này kỳ quái, lĩnh hội khác với người khác, lệch lạc. Họ sẽ không để bị những người này ảnh hưởng. Còn ai cùng một loại với những người giả hình này, đều đặc biệt chú trọng hành vi bề ngoài và cách nhìn nhận của người khác, thì họ sẽ hơn thua với nhau. Cũng giống như Tiểu Giả gửi tin nhắn lúc 3:00 sáng, bên kia chờ đến 4:00 sáng mới hồi đáp, “Anh nhắn đi lúc 3:00, thì tôi nhắn lại lúc 4:00”, “Anh nhắn đi lúc 4:00, thì tôi nhắn lại lúc 5:00”, hai bên cứ hơn thua với nhau như vậy, dần dà ai cũng thành người giả hình. Nếu lãnh đạo hội thánh là người như thế này, mà các anh chị em lại không biết phân định, thì họ gặp nguy hiểm rồi, có thể bị mê hoặc bất kỳ lúc nào. Tại sao lại nói như vậy? Ai mà không hiểu lẽ thật thì sẽ dễ bị mê hoặc và chi phối bởi những hành vi tốt bề ngoài của con người. Bởi vì họ không biết cái gì là đúng, trong quan niệm của họ cho rằng dạng hành vi như vậy là tốt, nếu ai có hành vi như vậy thì sẽ trở thành đối tượng để họ sùng bái, họ cho rằng người như vậy nên làm lãnh đạo, nên được hoàn thiện và nên là người được Đức Chúa Trời yêu thích. Trong lòng họ công nhận loại hành vi này, trong sâu thẳm nội tâm của họ phê duyệt loại hành vi này. Họ phê duyệt rồi thì sẽ thế nào? Họ sẽ đi theo người đó. Nếu cả hai đều là lãnh đạo, thì họ sẽ hơn thua với nhau. Có một lần, lãnh đạo và người làm công ở nhiều quốc gia nhóm họp trên mạng, Ta lên mạng lắng nghe một hồi, cảm thấy có gì đó không ổn. Ta nghĩ: “Mấy người này đang làm gì ở đây vậy? Có phải là đang giảng đạo không?”. Sau khi hiểu ra tình hình, Ta mới biết là họ đang cầu nguyện. Ta nghĩ, sao họ lại cầu nguyện như vậy? Ta nghe thấy có vẻ dọa người, nhe nanh múa vuốt. Họ nhe nanh múa vuốt còn chưa là gì đâu, biết vấn đề chủ yếu là gì không? Trông có vẻ như họ đang trừng mắt mà cầu nguyện, không phải cầu nguyện trước mặt Đức Chúa Trời hay là nói lời trong lòng mình, mà thay vào đó họ hơn thua với nhau xem ai có tài ăn nói, ai giảng được nhiều đạo lý, ai giảng nội dung bao quát và sâu sắc. Ta nghe giống như họ đang ở trên võ đài mà phân cao thấp, nghe kiểu gì cũng không giống đang cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Chẳng phải những người này tiêu tùng rồi sao? Chẳng phải họ phế cả rồi sao? Dạng người này mà làm lãnh đạo, thì người bên dưới đi theo họ sẽ rất khổ! Chẳng phải sẽ bị họ hại sao? Những người này cầu nguyện rất hăng say, mỗi một người cầu nguyện tối thiểu phải mất 20 phút. Bất chấp Bề trên quy định rằng khi thông công thì không được một người nói hết, mỗi một người chỉ được thông công từ năm đến mười phút, họ cứ thản nhiên trắng trợn mà chiếm nhiều thời gian như vậy để cầu nguyện. Sau đó, Ta cuối cùng đã hiểu ra, tại sao quá nhiều buổi nhóm họp kéo dài từ sáng đến tối: Chính là vì những người được gọi là lãnh đạo này chiếm dụng nhiều thời gian khi cầu nguyện, hết người này đến người kia, để rồi người bên dưới thì phải chịu khổ. Những lãnh đạo giả này ở đây mà đấu mồm mép, nói dông dài, có những người nói năng lộn xộn, quên mất trước đó mình đã nói đến những chuyện này hay chưa, họ chỉ cần biết mình nói dài hơn người khác là được. Ta mới tự hỏi: Khi cầu nguyện thì nên nhắm mắt mà cầu nguyện với Đức Chúa Trời, tại sao họ lại mở to mắt như vậy? Mở to mắt nhìn người khác cầu nguyện như thế này, thì tâm tư chẳng bị quấy nhiễu sao? Nhất là trong lòng còn ngẫm nghĩ xem người khác cầu nguyện thế nào, dùng từ ra sao, bản thân còn nghĩ làm sao vượt hơn người khác, nghĩ toàn những chuyện đó thì làm sao mà nói lời trong lòng khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời đây? Như vậy chẳng phải là lý trí không bình thường à? Đây chẳng phải là biểu hiện giả thuộc linh, biểu hiện của lãnh đạo và người làm công giả sao? Mọi người cùng nhau nhóm họp, đọc lời Đức Chúa Trời, thông công về lẽ thật, đây là chuyện tốt, thế mà có người phản ánh: “Ôi chao, chị chẳng biết gì rồi, những lãnh đạo đó nhóm họp và cầu nguyện chẳng khác gì tụng kinh cả, họ cứ nói mãi về một chuyện, mỗi lần nhóm họp đều cùng một kiểu, ai nghe cũng thấy ngao ngán”. Nhóm họp như vậy thì có gây dựng cho người ta không? Những lãnh đạo và người làm công giả chỉ toàn làm như thế, vậy thì có thể đạt đến hợp tâm ý của Đức Chúa Trời không? Họ không chú trọng thông công về lẽ thật và khiến mọi người hiểu lẽ thật, cũng không chú trọng dựa vào việc thông công lẽ thật mà giải quyết vấn đề, thay vào đó lại làm cái kiểu giả thuộc linh của tôn giáo, như vậy chẳng phải là dẫn người ta đi chệch đường sao? Vấn đề này phát xuất từ đâu? Họ chẳng hề hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời và yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người, mà chỉ toàn làm nghi thức tôn giáo và thể hiện bản thân! Tệ hơn nữa, họ mượn việc cầu nguyện mà vạch trần người khác, đả kích người khác, định tội người khác, lại còn mượn việc cầu nguyện mà biện bạch cho bản thân. Họ cầu nguyện trông có vẻ như đang nói cho Đức Chúa Trời nghe, nhưng thực ra là họ đang nói cho người ta nghe. Vì vậy, những người này không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời chút nào, họ đều là kẻ chẳng tin đang gây nhiễu loạn công tác của nhà Đức Chúa Trời. Khi cầu nguyện, những lãnh đạo giả này để lộ quá nhiều sự xấu xí. Có người cầu nguyện thì nói: “Thưa đức chúa trời, có người hiểu lầm con. Khi làm việc đó, con đâu có ý như vậy. Con cầu nguyện với ngài, con không tiêu cực, người khác nhìn nhận thế nào thì tùy họ”. Có người thì giảng đạo lý, có người thì đọ nhau xem ai nghe nhiều bài giảng hơn, ai ghi nhớ nhiều lời thánh ca hơn, ai ghi nhớ nhiều lời Đức Chúa Trời hơn. Lại có người đọ nhau xem ai cầu nguyện lâu hơn, ai giỏi ăn nói hơn, ai cầu nguyện nhiều kiểu hơn, có nhiều dạng cầu nguyện hơn. Đây có phải là cầu nguyện không? (Thưa, không phải.) Đây là thứ gì? Đây gọi là trắng trợn làm xằng làm bậy! Đây là đang đùa giỡn và chà đạp lẽ thật, đang làm ô danh và báng bổ Đức Chúa Trời! Những thứ ma quỷ và kẻ chẳng tin này lấy cớ là đang cầu nguyện mà lời gì cũng dám nói, các ngươi nói xem, họ có tin thật không? Có chút gì là ngoan đạo không? (Thưa, không có.) Dạng người này mà bị tước địa vị lãnh đạo thì sẽ tiêu cực, chẳng hề phản tỉnh bản thân, lại còn buông lời oán trách khắp nơi: “Tôi vì làm công tác cho đức chúa trời mà đã chịu biết bao nhiêu khổ, thế mà lại nói tôi không làm công tác thực tế, là lãnh đạo giả, rồi cách chức tôi. Hơn nữa, bao nhiêu người có thể giảng đạo lý toàn diện như tôi? Bao nhiêu người có thể có lòng yêu thương như tôi? Tôi đã từ bỏ gia đình và sự nghiệp, cả ngày ở hội thánh mà giúp anh chị em nhóm họp, giảng một bài là kéo dài ba đến năm ngày. Sao mà nói cách chức là cách chức tôi ngay vậy?”. Họ không phục, lại còn oán trách. Còn có người lan truyền một dạng luận điệu rằng: “Ở trong nhà đức chúa trời thì đừng làm lãnh đạo. Nếu bị chọn làm lãnh đạo thì đúng là gặp vận rủi rồi. Ngay khi bị cách chức thì còn không có cơ hội làm tín đồ bình thường nữa”. Đây là lời gì vậy? Đây là lời vô lý nhất, hoang đường nhất, cũng có thể nói là những lời không phục, bất mãn và báng bổ Đức Chúa Trời. Có phải những lời này có ý đó không? (Thưa, phải.) Lời này hàm chứa điều gì? Hàm chứa sự công kích, mà đây chẳng phải là sự xét đoán bình thường đâu! Họ sẽ không nói rằng họ bị cách chức vì đã làm ẩu làm càn, không làm công tác thực tế. Thay vào đó, họ oán trách Đức Chúa Trời không công chính với họ, hành động không suy xét đến thể diện của họ, không hiểu cho tâm trạng của họ và tình cảm mà họ đã dốc ra. Tâm thái của họ là tâm thái của người ngoại đạo, chẳng có chút thực tế lẽ thật nào!

Các ngươi nhóm họp thì cầu nguyện hết bao lâu? Có chiếm dụng nhiều thời gian của mọi người không? Có khiến mọi người cảm thấy ngao ngán không? Có những người cầu nguyện rất lâu, mọi người nghe đều thấy ngán ngẩm, nhưng họ lại cảm thấy mình cực kỳ thuộc linh, thấy đây là thu hoạch và thành tựu sau khi tin Đức Chúa Trời nhiều năm. Họ cầu nguyện vài tiếng cũng không thấy mệt, khi cầu nguyện thì toàn nói những chuyện xưa tích cũ, đem những câu chữ, đạo lý và khẩu hiệu mình biết hoặc những điều nghe được từ người khác, cùng những tưởng tượng của mình mà nói mãi. Bất kể mọi người có phiền hay không, có thích hay không, họ vẫn cứ nói mãi như vậy. Các ngươi có cầu nguyện kiểu này không? Các ngươi nói xem, cầu nguyện lâu là đúng hay cầu nguyện mau là đúng? (Thưa, không có đúng sai ở đây.) Đúng vậy, không thể quy định xem nói thế nào là đúng và thế nào là sai, mà phải căn cứ vào nhu cầu trong lòng mình để cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Có lúc cầu nguyện thì không cần nghi thức, có lúc lại cần vài nghi thức, tùy vào hoàn cảnh và chuyện gặp phải. Nếu ngươi cảm thấy lần cầu nguyện này có lẽ sẽ lâu, thì hãy cầu nguyện riêng với Đức Chúa Trời về chuyện riêng của mình, chứ đừng cầu nguyện về những chuyện đó lúc nhóm họp, đừng chiếm dụng thời gian của mọi người, như vậy gọi là có lý trí. Có những người vì thể diện và thanh danh của bản thân mà bất chấp những chuyện này, như vậy là vô tri, không có lý trí. Người không có lý trí thì có liêm sỉ không? Họ chẳng ý thức được rằng ai cũng đều ngao ngán khi thấy họ cầu nguyện. Người mà một chút cảm giác hay ý thức như thế cũng không có, thì có thể lĩnh hội lẽ thật không? Không lĩnh hội được đâu. Nguyên tắc lẽ thật mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người thực hành đều nằm trong lời Đức Chúa Trời, hễ là lời Đức Chúa Trời thông công về cách thực hành lẽ thật thì đều có nguyên tắc trong đó và đều là nguyên tắc, con người chỉ cần để tâm mà suy ngẫm. Trong lời Đức Chúa Trời về việc thực hành lẽ thật có rất nhiều nguyên tắc, có nguyên tắc và con đường thực hành cho đủ mọi loại sự việc, tình huống và bối cảnh, vấn đề là ngươi có hiểu biết thuộc linh và năng lực lĩnh hội hay không. Nếu con người có năng lực lĩnh hội như vậy thì sẽ có thể hiểu lẽ thật, còn nếu không có năng lực lĩnh hội thì dù Đức Chúa Trời có nói chi tiết đến đâu, cái ngươi lĩnh hội được cũng chỉ là quy định, chứ không phải là hiểu lẽ thật. Vì vậy Đức Chúa Trời cho ngươi một nguyên tắc để ngươi có thể tùy biến theo hoàn cảnh. Thông qua nghe lời Đức Chúa Trời, nhận thức Đức Chúa Trời, thông qua trải nghiệm về nhiều phương diện, thông qua việc thông công, cũng như có Đức Thánh Linh khai sáng, ngươi sẽ hiểu được một phương diện của các nguyên tắc mà Đức Chúa Trời phán, hiểu được tiêu chuẩn yêu cầu của Đức Chúa Trời về chuyện này. Như vậy thì ngươi sẽ hiểu được phương diện lẽ thật này. Nếu chuyện gì cũng cần Đức Chúa Trời nói chi tiết, nói cho con người biết cái này nên làm thế nào, cái kia nên làm thế nào, vậy thì những nguyên tắc mà Đức Chúa Trời phán này sẽ vô dụng. Nếu Đức Chúa Trời dùng cách dạy dỗ và truyền đạt quy định cho con người trong từng chuyện một, thì cuối cùng họ sẽ đạt được gì? Chính là đạt được những cách làm và hành vi này, chứ vĩnh viễn không hiểu được tâm ý và lời của Đức Chúa Trời. Con người không hiểu được lời Đức Chúa Trời thì sẽ không đạt đến hiểu lẽ thật, có phải vậy không? (Thưa, phải.) Các ngươi có thể đạt đến hiểu lẽ thật không? Đa số mọi người đều không đạt đến, chỉ có một thiểu số người có hiểu biết thuộc linh và yêu thích lẽ thật mới có thể đạt đến. Vậy những người có thể đạt đến thì có những điều kiện gì? Chính là họ có hiểu biết thuộc linh, có năng lực lĩnh hội, cũng thật lòng mưu cầu, yêu thích lẽ thật và những điều tích cực, như vậy thì có thể đạt đến được. Những người còn lại không đạt đến được điều này, một mặt là vì tố chất và sự lĩnh hội của họ có vấn đề, mặt khác là vì vấn đề thời gian. Cũng giống như có những người hai mươi mấy tuổi, ngươi bảo họ đạt đến những điều mà người năm mươi tuổi nên và có thể đạt đến, thì đây có phải là làm khó người ta không? (Thưa, phải.) Vậy giờ các ngươi xem, khả năng lĩnh hội lẽ thật có liên quan đến chuyện gì? (Thưa, đến tố chất.) Liên quan đến tố chất, còn gì nữa? (Thưa, đến việc có mưu cầu lẽ thật hay không.) Nó có liên quan nhất định đến việc mưu cầu của người ta. Có những người, nếu xét về ngộ tính, phản ứng của trí óc và chỉ số thông minh, thì thực ra họ có đủ đùng, có thể hiểu lẽ thật, nhưng họ lại không yêu thích lẽ thật, không mưu cầu lẽ thật, trong lòng không có cảm giác với lẽ thật, cũng không dốc sức vươn tới lẽ thật, nên lẽ thật đối với họ là điều mông lung và không thể nhận biết. Dạng người này có tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm cũng vô ích.

Ta kể chuyện đã xong. Tình tiết và nội dung của những câu chuyện này có thể giúp đỡ các ngươi hiểu được một vài lẽ thật không? (Thưa, có thể.) Tại sao Ta lại kể những câu chuyện này? Nếu những câu chuyện này chẳng dính dáng gì đến trạng thái sinh hoạt của con người, những tâm tính mà con người bộc lộ và một vài ý nghĩ của con người trong đời sống hiện thực, thì có cần thiết kể chúng không? (Thưa, không.) Sẽ không cần thiết. Những gì chúng ta nói đến toàn là những hiện tượng thường thấy và tình hình mà con người thường xuyên bộc lộ trong đời sống, chúng có liên quan đến tâm tính, quan điểm và tư tưởng của con người. Nếu nghe xong những câu chuyện này rồi mà các ngươi nghĩ chúng chỉ là câu chuyện, có chút tức cười, cũng có chút thú vị, chỉ vậy thôi, chứ chẳng thể từ trong câu chuyện mà hiểu lẽ thật, thì đối với các ngươi, những câu chuyện này chẳng có tác dụng gì cả. Các ngươi phải từ trong những câu chuyện này mà hiểu được chút lẽ thật, như vậy ít nhất chúng sẽ có tác dụng sửa đổi đối với hành vi của các ngươi, nhất là đối với quan điểm của các ngươi về một loại sự vật nhất định, nó sẽ có thể khiến ngươi xoay chuyển khỏi những cách lĩnh hội lệch lạc và có được sự lĩnh hội thuần túy về những loại chuyện này. Đây không phải đơn giản là để thay đổi hành vi, mà là để giải quyết từ căn nguyên những tình trạng do tâm tính bại hoại gây ra. Các ngươi nghe có hiểu không? Bây giờ chúng ta hãy thông công về chủ đề chính.

Mổ xẻ về cách kẻ địch lại Đấng Christ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời

IV. Mổ xẻ về việc kẻ địch lại Đấng Christ mạo nhận là hóa thân của lẽ thật khi có được chút ít kinh nghiệm và tri thức

Lần trước, chúng ta đã thông công về mục thứ tám trong những biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ – khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời. Mục thứ tám này chia thành bốn tiểu mục, chúng ta đã thông công ba tiểu mục rồi, vậy tiểu mục thứ tư là gì? (Thưa, là kẻ địch lại Đấng Christ mạo nhận là hóa thân của lẽ thật khi có được chút ít kinh nghiệm, tri thức và giáo huấn.) Đây là tiểu mục thứ tư trong mục thứ tám. Đương nhiên, tiểu mục này cũng dính dáng đến một mặt biểu hiện của mục thứ tám này, chúng có sự liên quan. Mục này là gì? Là kẻ địch lại Đấng Christ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời. Giờ chúng ta hãy chia tiểu mục này ra mà nói từng chút một. Kinh nghiệm, tri thức và giáo huấn, từng thứ này là gì? Những người nào có những thứ này? Những người nào thích trang bị những thứ này? Những người nào không chú trọng vào lẽ thật, mà lại chú trọng trang bị những thứ này? Những người nào có thể xem những thứ này là lẽ thật? Trước hết, có một điểm chắc chắn: bất kể những người này có tố chất thế nào, ngộ tính ra sao, thì họ đều rất thích tri thức, họ thích tri thức hơn là thực tế lẽ thật. Mục tiêu và phương hướng của họ khi tin Đức Chúa Trời chính là làm sao có thể đạt được một vài cái gọi là kinh nghiệm và tri thức, họ muốn dùng những tri thức và kinh nghiệm này mà vũ trang cho mình, bao bọc cho mình, để mình càng có thêm phẩm vị, phong cách và sự tu dưỡng, càng có thể khiến mọi người xem trọng và sùng bái. Có những tri thức và kinh nghiệm này rồi, họ cảm thấy mình sống càng có giá trị, càng phong phú, càng tự tin. Trong mắt họ, tin Đức Chúa Trời là để họ trang bị những tri thức này, trang bị những câu nói liên quan đến thần học, đến đủ mọi phương diện thường thức, tri thức và giáo huấn. Họ cho rằng trang bị được những thứ này rồi thì sẽ có thể có được chỗ đứng trong nhà Đức Chúa Trời và giữa tập thể này. Vì vậy, điều mà ngày ngày họ nghĩ đến, sùng bái và chạy theo trong lòng chính là những thứ có liên quan đến tri thức, kinh nghiệm, v.v..

Trước tiên, chúng ta hãy xem có những dạng tri thức, kinh nghiệm và giáo huấn nào, cũng như xem dạng nào có thể được gọi là mạo nhận hóa thân của lẽ thật. Trước hết, có thể nói rằng những thứ này chắc chắn không liên quan gì đến lẽ thật, không hợp lẽ thật, mà là đi ngược lại với lẽ thật. Những thứ này cũng có thể là những thứ đúng đắn, tích cực và tốt đẹp trong quan niệm của con người, nhưng trên thực tế, trong mắt Đức Chúa Trời, những thứ này chẳng liên quan gì đến lẽ thật, thậm chí chúng căn bản là căn nguyên khiến con người lên án lẽ thật, là căn nguyên và nguồn gốc khiến con người chống đối Đức Chúa Trời và nảy sinh quan niệm về Đức Chúa Trời. Những người đã nắm vững những thứ kinh nghiệm, tri thức và giáo huấn này có khác biệt gì về tuổi tác hay giới tính không? (Thưa, không.) Gần như là không có. Có người có ân tứ, mà cái gì gọi là ân tứ? Chẳng hạn như, có người nghe người khác nói một dạng lý luận hoặc câu nói, lĩnh hội được cốt lõi hoặc khái niệm cơ bản của dạng lý luận này rồi, thì trí óc của họ phản ứng rất nhanh. Họ ngay lập tức biết được nên giải thích dạng lý luận hoặc câu nói này như thế nào, làm sao để biến nó thành ngôn ngữ của bản thân mà đem ra giảng cho người khác. Họ nghe xong là ghi nhớ được liền, điều này chưa đủ để gọi là ngộ tính cao, nhưng mà họ đặc biệt giỏi ghi nhớ, đây chính là một dạng ân tứ đặc thù. Có người nào có dạng ân tứ này không? (Thưa, có.) Có dạng người như vậy, ngươi vừa nói xong một chuyện là họ liền có thể lấy đó suy ra chuyện khác, có thể suy một ra ba, rất biết cách mượn đề tài của người khác để nói về ý tưởng của mình. Họ rất giỏi những thứ lô-gic và chữ nghĩa như những lý luận và sự việc, sự vật bên ngoài. Họ rất giỏi chơi chữ, rất giỏi dùng lý luận mà lung lạc và thuyết phục người khác. Một số người có dạng ân tứ này, họ đặc biệt giỏi ăn nói, tư duy và phản ứng đặc biệt nhạy bén. Họ nghe một phương diện lẽ thật rồi, thì dùng sự khôn lanh và ân tứ của mình mà biến phương diện lẽ thật đã lĩnh hội được thành một dạng học vấn và tri thức, rồi sau đó dùng dạng học vấn này mà thông công với người khác, làm cái việc gọi là công tác chăm tưới và chăn dắt. Điều này có ảnh hưởng gì đến người khác? Có đem lại kết quả tốt nào không? (Thưa, không.) Tại sao? (Thưa, vì nó không thực tế, người ta nghe xong thì chẳng có con đường thực hành.) Chính là người ta nghe họ nói xong thì cảm thấy họ nói đúng hết, chẳng có câu nào sai, chẳng có câu nào đi ngược lại nguyên tắc, đều là những lời đúng đắn, nhưng đến lúc thực hành thì lại cảm thấy những lời này sao mà cứ trống rỗng, đến lúc thực hành thì không có mục tiêu và phương hướng, không thể vận dụng chúng làm nguyên tắc thực hành. Vậy những lời này là thứ gì? (Thưa, là đạo lý.) Nó là một dạng đạo lý, là một dạng tri thức. Biểu hiện của loại người địch lại Đấng Christ này rất rõ ràng, rất nổi bật. Họ đem lẽ thật biến thành tri thức, thành học thuật, thành lý luận. Họ chỉ hiểu nửa vời, mà lúc nào cũng yêu cầu người khác làm thế này thế kia. Người khác không hiểu, nhờ họ nói chi tiết, thì họ không nói rõ được, mà còn phản bác rằng: “Chị không yêu thích lẽ thật, chị mà yêu thích lẽ thật thì nghe lời tôi là đã hiểu, đã có con đường thực hành rồi”. Có những người hồ đồ không biết phân định, vừa nghe họ nói vậy thì nghĩ: “Có khi là vậy, nếu mình thực sự yêu thích lẽ thật thì nghe phải hiểu chứ”. Người không biết phân định sẽ cảm thấy người ta nói đúng, thấy bản thân mình không hiểu lẽ thật, rồi đem trách nhiệm đổ lên đầu mình, thế là họ bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc đến nỗi đầu óc quay cuồng.

Tiếp theo hãy nói về kinh nghiệm. Kinh nghiệm là một cách làm được đúc kết từ sự trải nghiệm qua một thời gian dài. Người công tác hai ngày thì có kinh nghiệm không? (Thưa, không có.) Vậy người công tác mười năm, hai mươi năm thì chắc chắn là có kinh nghiệm rồi. Có những người cảm thấy mình công tác nhiều năm, có kinh nghiệm rồi, họ biết khi gặp loại chuyện nào thì nên làm thế nào, khi gặp loại người nào thì nên xử lý thế nào, đối với những người nào thì nên giảng đạo lý nào, kết quả là đến một ngày phát sinh một chuyện mới mà họ không biết, thế là họ lục tìm trong sổ ghi chép công tác hai mươi năm của mình, ngẫm ngẫm nghĩ nghĩ, áp dụng khuôn sáo theo những cách nói, cách làm trước đây của mình. Khi áp dụng khuôn sáo như vậy, những người không hiểu lẽ thật lại còn cho rằng họ làm vậy là hợp lẽ thật. Người hiểu lẽ thật vừa nhìn vào thì nghĩ: “Người này làm việc mù quáng, làm công tác không có nguyên tắc, toàn dựa vào kinh nghiệm, chẳng hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, cũng không hiểu rốt cuộc làm như thế nào là bảo vệ lợi ích nhà Đức Chúa Trời và hợp nguyên tắc của nhà Đức Chúa Trời về việc đối đãi với mọi người. Đây chính là mù quáng, khuôn sáo làm theo quy định”. Làm như vậy thì sẽ xuất hiện vấn đề. Người bình thường làm công tác chưa được lâu, có lẽ chưa có vốn liếng để nói: “Tôi có kinh nghiệm, tôi không sợ, tôi làm công tác nhiều năm rồi, có loại người nào mà tôi chưa thấy qua, có loại chuyện nào mà tôi chưa xử lý chứ?”. Nhưng người có kinh nghiệm thì sẽ dám nói như vậy. Ngay cả khi ngươi từng xử lý rất nhiều chuyện và nhiều loại người khác nhau, nhưng ngươi có thể bảo đảm ngươi xử lý mỗi một chuyện, đối đãi mỗi một người đều hợp với nguyên tắc lẽ thật không? Trên thực tế, ngươi đâu dám bảo đảm như vậy. Nhưng đối với những người xem kinh nghiệm và đường lối khuôn sáo là lẽ thật, nếu có ai đưa ra đề xuất bất đồng với họ, thì họ sẽ nói: “Tôi làm công tác này nhiều năm rồi, cầu tôi đi qua còn nhiều hơn đường anh đi, vậy mà anh dám nêu ý kiến bất đồng với tôi, anh lo mà về nhà cầu nguyện cho nhiều vào đi!”. Trước mặt họ, chẳng ai dám nói một chữ “không”, cũng chẳng ai dám nói ra câu nào bất đồng với họ. Đây gọi là gì? Đây chính là xem kinh nghiệm là lẽ thật, cho rằng bản thân là hóa thân của lẽ thật. Có vài người nói: “Tôi không xem bản thân là hóa thân của lẽ thật, ai mà dám gánh danh xưng hóa thân của lẽ thật chứ? Chỉ đức chúa trời mới là lẽ thật, tôi đâu có làm vậy, cũng đâu có nghĩ vậy”. Về chủ quan thì ngươi không nghĩ vậy, cũng không dự tính làm vậy, nhưng về khách quan, thì cách làm, hành vi và thực chất những việc ngươi làm, sau cùng có thể bị xác định tính chất là ngươi xem bản thân như hóa thân của lẽ thật. Tại sao ngươi có thể bắt người đưa ra ý kiến với ngươi phải thuận phục ngươi tuyệt đối? Nếu ngươi không xem mình là Đức Chúa Trời, mà chỉ là một người bình thường, thì ngươi có tư cách khiến người khác thuận phục ngươi không? (Thưa, không có tư cách.) Có một dạng trường hợp mà người khác có khả năng thuận phục ngươi, chính là khi ngươi hiểu lẽ thật rồi, khi ngươi là người hiểu lẽ thật. Nhưng một lần nữa, ngay cả khi ngươi là người hiểu lẽ thật, ngươi cũng chỉ là một con người bình thường, một con người bình thường thì có thể là hóa thân của lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Nếu như con người hiểu hết mọi lời Đức Chúa Trời phán và mọi lẽ thật mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người hiểu, thì con người có thể biến thành hóa thân của lẽ thật sao? (Thưa, không thể.) Có vài người nói: “Vậy có thể là vì người ta chưa được hoàn thiện. Phi-e-rơ là người đã được hoàn thiện, vậy Phi-e-rơ có thể được xưng là hóa thân của lẽ thật không?”. Được hoàn thiện cũng không khiến người ta trở thành hóa thân của lẽ thật, các ngươi biết tại sao không? (Thưa, vì khác biệt về thực chất.) Khác biệt về thực chất, một mặt là vậy. Con người có thể trở thành hóa thân của lẽ thật hay không, chuyện này chúng ta phải nói thêm. Tại sao lại nói con người không thể trở thành hóa thân của lẽ thật? Hóa thân của lẽ thật đơn giản chỉ là vấn đề về thực chất sao? Có người nói: “Con người bẩm tại là loài thọ tạo, Đấng trên trời bẩm tại là Đấng Tạo Hóa. Chúng ta không cần biện giải chuyện này, Đức Chúa Trời vĩnh viễn là hóa thân của lẽ thật. Vậy Đấng Christ có phải nhờ hiểu lẽ thật và có lẽ thật mà trở thành hóa thân của lẽ thật không? Nếu chúng ta đạt được hết mọi lẽ thật từ Đức Chúa Trời rồi, vậy có thể nào chúng ta cũng được xưng là hóa thân của lẽ thật không?”. Có những người nói: “Không thể. Trước đây, tôi từng cho rằng con người mà hiểu thêm nhiều lẽ thật rồi thì sẽ có thể biến thành đấng christ, thành đức chúa trời. Bây giờ thì tôi đã biết rằng không thể thay thế hay thay đổi thực chất”. Họ hiểu được đến mức này rồi. Vậy còn có thể hiểu chuyện này xa hơn nữa không? Chuyện này Ta thông công với các ngươi một lần là các ngươi sẽ hiểu. Nói về hóa thân của lẽ thật, vậy hóa thân là gì? Từ này có chút trừu tượng, chúng ta hãy nói về nó một cách đơn giản nhất. Bản thân Đức Chúa Trời chính là lẽ thật, và Ngài có sẵn mọi lẽ thật. Đức Chúa Trời là nguồn của lẽ thật. Mọi điều tích cực và mọi lẽ thật đều đến từ Đức Chúa Trời. Ngài có thể phán xét sự đúng sai của mọi sự và vạn vật; bất kể là chuyện đã xảy ra, chuyện hiện nay đang xảy ra hay chuyện trong tương lai mà con người chưa biết đến, Ngài đều có thể phán xét. Đức Chúa Trời là Quan tòa duy nhất có thể phán xét hết thảy chuyện đúng sai của vạn vật, điều này có nghĩa hết thảy chuyện đúng sai của vạn vật chỉ có thể do Đức Chúa Trời phán xét. Ngài biết chuẩn tắc cho hết thảy vạn vật. Ngài có thể bày tỏ lẽ thật mọi lúc mọi nơi. Đức Chúa Trời chính là hóa thân của lẽ thật, nghĩa là bản thân Ngài có sẵn bản chất của lẽ thật. Nếu con người hiểu nhiều lẽ thật và được Đức Chúa Trời hoàn thiện, liệu họ có liên quan gì đến hóa thân của lẽ thật không? Không. Điều này là chắc chắn. Khi con người được làm cho hoàn thiện rồi, thì đối với công tác hiện tại của Đức Chúa Trời đang làm và các tiêu chuẩn khác nhau mà Đức Chúa Trời yêu cầu đối với con người, họ có thể có sự phán đoán và cách thực hành chuẩn xác, họ sẽ hiểu trọn vẹn ý muốn của Đức Chúa Trời. Họ sẽ biết phân biệt điều gì đến từ Đức Chúa Trời và điều gì đến từ con người, biết điều gì là đúng và điều gì là sai. Tuy nhiên, có một số điều mà con người không thể đạt đến và không thể nhìn thấu, những điều mà Đức Chúa Trời nói cho họ rồi thì họ mới biết. Còn những điều mà con chưa biết, và Đức Chúa Trời chưa nói cho, thì con người có thể biết hay không? Tuyệt đối không thể. Hơn nữa, ngay cả khi con người đã đạt được lẽ thật từ Đức Chúa Trời, có thực tế của lẽ thật, hiểu được thực chất của nhiều lẽ thật và có năng lực phân định phải trái đúng sai rồi, thì họ có năng lực khống chế và cai quản hết thảy mọi sự vật không? Con người không có năng lực này. Đó là sự khác biệt giữa Đức Chúa Trời và con người. Loài thọ tạo vĩnh viễn chỉ có thể đạt được lẽ thật từ nguồn của lẽ thật mà thôi. Họ có thể đạt được lẽ thật từ con người không? Con người có phải là lẽ thật không? Con người có thể cung ứng lẽ thật không? Họ không thể, và sự khác biệt nằm ở đây. Ngươi chỉ có thể tiếp nhận lẽ thật, chứ không thể cung ứng nó. Ngươi có thể được gọi là người có sẵn lẽ thật không? Ngươi có thể được gọi là hóa thân của lẽ thật không? Tuyệt đối không thể. Thực chất hóa thân của lẽ thật rốt cuộc là gì? Là nguồn cung ứng lẽ thật, nguồn cai quản và tể trị hết thảy mọi sự vật, và đây cũng là chuẩn tắc và tiêu chuẩn duy nhất để phán xét mọi sự và vạn vật. Đây chính là hóa thân của lẽ thật. Loại người địch lại Đấng Christ thường không chịu phục điểm này. Họ cho rằng tri thức chính là sức mạnh, kinh nghiệm chính là một thứ vũ khí để con người vũ trang cho bản thân trở nên hùng mạnh. Con người có kinh nghiệm, có tri thức, có những giáo huấn này rồi, thì có thể khống chế tất cả, có thể khống chế số phận của người khác, có thể khống chế và chi phối tư tưởng của người khác, thậm chí chi phối hành vi của người khác. Hoặc là có những người còn cho rằng những thứ này có thể dạy dỗ người khác, thay đổi tâm tư và tâm tính của người khác. Đây là cách nghĩ gì? (Thưa, là cách nghĩ của kẻ địch lại Đấng Christ.) Đây là cách nghĩ của kẻ địch lại Đấng Christ. Tại sao Đức Chúa Trời có thể tể trị số phận của nhân loại? Đức Chúa Trời là thực tế của hết thảy mọi điều tích cực, lời Đức Chúa Trời là thực tế của hết thảy mọi điều tích cực, vậy thực chất của Đức Chúa Trời là gì? Thực chất của Đức Chúa Trời là lẽ thật, cho nên Đức Chúa Trời có thể tể trị số phận của nhân loại. Nhưng kẻ địch lại Đấng Christ không thấy hay nhận thức được điểm này, càng không thể tiếp nhận điểm này. Họ lấy những thứ mà nhân loại tà ác tôn sùng từ con người, từ tri thức, từ xã hội, rồi xem chúng là lẽ thật, cố dùng chúng để mê hoặc và khống chế người khác, chiếm một chỗ đứng trong hội thánh và giữa dân được Đức Chúa Trời chọn. Họ mê hoặc người khác vì mục đích gì? Họ học tập và trang bị những thứ này vì mục đích gì? Chính là để khiến người ta thuận phục họ, nghe lời họ. Họ khiến người ta nghe lời họ vì mục đích gì? (Thưa, để người ta bị họ khống chế.) Đúng vậy, là để người ta bị họ khống chế. Nghĩa là họ nói ra một câu thì người ta đều nghe theo và thuận theo sự sắp đặt của họ, người ta chính là công cụ và nô lệ của họ. Bởi vì người ta tiếp nhận quan điểm của họ, tiếp nhận những thứ gọi là kinh nghiệm, tri thức và giáo huấn của họ, nên sau đó người ta sùng bái họ. Sùng bái họ có phải là nghe lời họ không? (Thưa, phải.) Người ta nghe lời họ thì có phải tiện cho họ đùa bỡn không? Có phải họ đạt được ý đồ rồi không? (Thưa, phải.) Ngay khi người ta nghe họ, có phải người ta đã bị họ cướp đi khỏi Đức Chúa Trời không? (Thưa, phải.) Được như vậy thì kẻ địch lại Đấng Christ sẽ vui vẻ. Đây chính là mục đích của kẻ địch lại Đấng Christ. Thực ra, sâu thẳm nội tâm họ cũng không hẳn rõ ràng cho rằng bản thân chính là hóa thân của lẽ thật và là lẽ thật, nhưng họ có nghĩ như vậy và làm như vậy. Tại sao họ lại nghĩ như vậy và làm như vậy? Họ cho rằng tri thức và kinh nghiệm của mình, cùng những thứ đến từ ân tứ của mình, đều là đúng đắn, họ muốn dùng những thứ này mà khống chế người khác, khiến người khác nằm gọn trong tay họ. Những kinh nghiệm, tri thức và giáo huấn này, có một số cái là lời của quỷ để lừa người, có một số cái thì không rõ ràng, nhưng bên trong có những mưu kế ẩn tàng, những quỷ kế, huyền cơ, người ta mà nhìn không thấu chúng thì sẽ bị mê hoặc. Bị mê hoặc thì hậu quả sẽ là gì? Hậu quả là con người sẽ rời xa Đức Chúa Trời, không hiểu lẽ thật, mà xem tri thức, kinh nghiệm và giáo huấn của con người là lẽ thật, gạt lời Đức Chúa Trời sang một bên, rất mơ hồ về lời Đức Chúa Trời, nhưng lại đặc biệt ưng ý và tôn sùng những tri thức và kinh nghiệm này, thậm chí dốc công sức mà thực hành và thực hiện. Đây chính là mục đích mà kẻ địch lại Đấng Christ muốn đạt được khi hành động. Nếu như họ không có dã tâm muốn đùa bỡn người khác, khống chế người khác và khiến người khác thuận phục, thì họ trang bị những thứ này làm gì? Nếu vậy thì họ sẽ không dốc công sức mà trang bị những thứ này đâu. Họ có mục tiêu và mục đích rất rõ ràng. Mục đích rõ ràng của họ là gì? (Thưa, là khống chế người khác.) Chính là để khống chế người khác. Bất kể họ khống chế cả một tập thể hay một bộ phận trong đó, nếu như không có nền tảng lý luận thì có thể khống chế được người khác không? Trước hết, họ phải tìm ra một bộ lý luận và tư tưởng hợp với tưởng tượng, quan niệm và thị hiếu của con người nhất, rồi cố hết sức mà lan truyền giữa mọi người, tẩy não mọi người, làm công tác tư tưởng cho mọi người, không ngừng tiêm nhiễm, không ngừng khiến người ta nghe, quen thuộc và tiếp thu những tư tưởng, quan điểm này. Thực ra, người ta bị tiêm nhiễm và tẩy não một cách thụ động, bất tri bất giác mà tiếp nhận những quan điểm này. Bởi vì trong người ta không có năng lực phân biệt phải trái đúng sai, trước khi hiểu lẽ thật thì người ta không có năng lực chế ngự những thứ này, không có kháng thể đối với chúng. Sau khi con người tiếp nhận những quan điểm sai lầm này rồi, thì nhanh chóng bị những thứ này bắt giữ? Bị “bắt giữ” là gì? Chính là sau khi tiếp nhận những quan điểm này rồi thì người ta ngày càng một lòng một dạ cho rằng những thứ này là đúng, không ngừng dùng những quan điểm này mà thuyết phục bản thân, đồng thời còn thuyết phục người khác. Họ bị mê hoặc và khống chế rồi. Đây chính là cách Sa-tan đạt được mục đích khi mê hoặc con người.

Có những người ở thế gian học được một kỹ thuật nghiệp vụ đặc thù, hoặc là có được địa vị nhất định trong xã hội, khi đến nhà Đức Chúa Trời rồi thì họ có một cách nghĩ chung, cách nghĩ này khiến họ nảy sinh một dạng biểu hiện chung. Cách nghĩ này là gì? Họ cho rằng bản thân là tinh anh trong xã hội. Tinh anh là gì? Nghĩa là khi ở giữa mọi người, họ là người nổi bật hơn, họ đã tiếp nhận một chút giáo dục bậc cao đặc thù, trong xã hội thì tài cán, tố chất và ân tứ của họ là nổi bật hơn người. Nổi bật hơn người là gì? Chính là ở giữa mọi người, thì tư duy, trí thông minh, tài ăn nói của họ thật xuất chúng, có năng lực lĩnh hội đặc biệt đối với một vài sự vật và kỹ thuật, đây gọi là nổi bật hơn người, những người này được gọi là tinh anh trong xã hội. Mỗi một quốc gia đều bồi dưỡng những người này, mục đích bồi dưỡng họ là gì? Là để khiến quốc gia phát triển nhanh hơn, khi những người này dấn thân vào các cương vị khác nhau, thì đủ mọi ngành nghề sẽ phát triển nhanh hơn. Địa vị của loại người này trong xã hội là cao hay thấp? (Thưa, cao.) Chắc chắn không phải là địa vị bình thường. Họ có sẵn một vài tài cán đặc thù, học được một vài tri thức đặc thù, đã tiếp nhận một vài sự giáo dục đặc thù, tố chất, tài cán và tri thức họ học được đều cao hơn người bình thường. Những người này mà đến hội thánh, thì trong lòng họ nghĩ gì? Ý nghĩ đầu tiên của họ là gì? Trước hết, họ sẽ nghĩ: “Yếu trâu còn hơn khỏe bò, mặc dù nói rằng tin Đức Chúa Trời rồi thì không mưu cầu thế gian nữa, không có tiếng ở thế giới nữa, nhưng dựa vào mọi sự giáo dục đặc thù tôi đã tiếp nhận, mọi tri thức tôi đã học được, mọi tài cán tôi có, thì tôi nên là nhân vật lãnh tụ ở giữa mọi người, nên là trụ cột, rường cột trong nhà Đức Chúa Trời, nên làm lãnh đạo, người đứng đầu”. Có phải họ nghĩ như vậy không? Họ dựa vào cái gì mà nghĩ như vậy? Nếu như chỉ là một nông dân, thì họ có dám nghĩ như vậy không? (Thưa, không dám.) Tại sao lại không dám? (Thưa, vì không có vốn liếng.) Họ không có vốn liếng để nghĩ như vậy. Thế thì loại người nào có thể nghĩ vậy? Đều là những người có sẵn tri thức, tài cán, ân tứ, và cái gọi là tố chất nhất định. Họ đến nhà Đức Chúa Trời thì nghĩ rằng: “Bây giờ mình không mưu cầu thế gian nữa, thế gian quá tà ác, nên mình đến nhà Đức Chúa Trời để mưu cầu. Đến nhà Đức Chúa Trời rồi thì ít nhất mình phải làm lãnh đạo hay người làm công trong hội thánh”. Họ có ý định tốt không? (Thưa, không.) Tại sao họ lại không có ý định tốt? Những thứ mà họ học được, những địa vị xã hội mà họ có, chúng đã làm khổ họ. Nếu như không mưu cầu lẽ thật, thì cả đời họ cũng không bước xuống khỏi địa vị như vậy. Họ luôn cảm thấy bản thân cao tận trên mây, nhưng thực ra trong mắt Đức Chúa Trời, họ cũng giống hệt một loài thọ tạo bình thường. Họ luôn đặt bản thân cao tận trên mây, như vậy chẳng phải là nguy hiểm sao? Một khi ngã thì sẽ ngã rất đau, tính mạng khó mà bảo toàn! Tại sao loại người này cảm thấy bản thân nên có địa vị cao, nên được người khác sùng bái, nên có thật nhiều người xoay quanh họ, làm gì cũng nên hỏi họ trước và nghe theo ý kiến của họ, làm gì cũng nên nghĩ đến họ trước, đặt họ lên đầu? Tại sao họ lại nghĩ đến nhiều cái “nên” như vậy? Chính là vì họ rất đặt nặng địa vị xã hội và tri thức họ có, cùng những thứ đặc thù mà họ học được. Họ cho rằng: “Cho dù lẽ thật được giảng nhiều đến đâu, cao đến đâu, thì những thứ của tôi vẫn đáng giá, còn đáng giá hơn lẽ thật, là điều mà lẽ thật không thay thế nổi. Ở trong xã hội, tôi là chủ công ty, quản lý vài ngàn người, tôi mà vung tay hô một tiếng là tất cả đều nghe theo tôi. Tôi có quyền lực lớn như vậy thì thân phận và địa vị của tôi là gì nào? Trong những nhân vật nhỏ ở nhà Đức Chúa Trời, có mấy người cao hơn tôi chứ? Nhìn quanh một lượt, tôi chẳng thấy có mấy nhân vật đặc biệt, nếu để tôi quản lý họ, thì nhằm nhò gì, chuyện vặt thôi!”. Ngươi bảo họ: “Được, anh có chí lớn như vậy cũng không tệ. Thế thì tôi sẽ thỏa mãn dục vọng của anh, tôi sẽ tiến cử anh làm lãnh đạo hội thánh, anh hãy đưa những người này đến trước mặt Đức Chúa Trời, khiến họ đều biết đọc lời Đức Chúa Trời, thực hành lẽ thật, giúp vực dậy những người tiêu cực, yếu đuối và những người không làm bổn phận”. Họ nói: “Chuyện dễ mà. Hồi ở công ty, tôi toàn làm công tác tư tưởng, đây là nghề của tôi rồi”. Giao cho họ một hội thánh có ba mươi người, sau đó thì thế nào? Chưa đầy hai tháng, những người yếu đuối càng thêm yếu đuối, những người tiêu cực càng thêm tiêu cực, người rao truyền phúc âm cũng không đưa được ai về, những người không biết cách đọc lời Đức Chúa Trời thì ngủ gật trong lúc nhóm họp, ngay cả Bề trên giảng đạo mà cũng không muốn nghe. Có người hỏi: “Chẳng phải anh có bản lĩnh à?”. Họ nói: “Có chứ, tôi từng là sếp lớn, bản lĩnh của tôi quá rõ ràng rồi!”. Bất kể có làm sếp lớn thế nào ở thế gian thì cũng vô dụng. Không hiểu lẽ thật mà đi làm công tác của hội thánh thì chỉ là kẻ ngoài ngành. Bảo họ lo công tác phúc âm, thì bề ngoài họ toàn làm những thứ hình thức vô ích, chẳng có chút hiệu quả gì, hội thánh có mấy chục người mà chăm tưới cũng không tốt. Đây là chuyện gì vậy? Những người có tri thức này, lúc ở trong xã hội đã từng là sếp lớn hay giám đốc cấp cao của công ty, tại sao khi đến nhà Đức Chúa Trời thì lại không thi triển được tài nghệ của mình? (Thưa, vì Đức Thánh Linh không gìn giữ họ.) Đức Thánh Linh không gìn giữ họ là một mặt thôi, nguyên nhân chủ yếu là gì? Vì họ không hiểu lẽ thật, không hiểu tình trạng của con người và tâm tính bại hoại của con người, không hiểu yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người, những lời Đức Chúa Trời vạch trần con người và cách thức phán lời của Đức Chúa Trời. Họ không có hiểu biết thuộc linh, không nhìn thấu được chuyện là thế nào, chỉ toàn mù quáng làm việc bề ngoài. Vì họ xem công tác ở hội thánh cũng giống như làm việc công ty ở thế gian, chỉ cần thúc đẩy tư tưởng của người ta, khiến người ta thêm nhiệt huyết, thì người ta sẽ làm việc tốt. Một mặt, họ làm công tác tư tưởng cho người khác, mặt khác, họ vận dụng những khuôn sáo xử sự ở thế gian, lấy lòng cấp trên, thu phục cấp dưới, người ta mà kiếm được tiền thì đều sẽ nghe họ, đi theo họ, đơn giản vậy thôi. Chuyện bên ngoài đâu có liên quan đến lẽ thật. Khi tin Đức Chúa Trời thì làm gì cũng đều liên quan đến lẽ thật, đến sự biến đổi tâm tính, vậy mà ngươi còn dùng đường lối của thế gian thì có ổn không? (Thưa, không ổn.) Không ổn. Về chuyện làm sao để giải quyết tình trạng và sự yếu đuối của người ta, làm sao hỗ trợ tốt cho người ta, làm sao giải quyết quan niệm mà người ta có về Đức Chúa Trời, làm sao để người ta nhận thức bản thân sau khi bộc lộ tâm tính bại hoại, làm sao để khiến người ta trung thực, những chuyện này họ chẳng biết gì, lại còn nói nhảm, mù quáng áp dụng quy định. Chẳng hạn như, có người nói ra một câu của người ngoài ngành, một câu không có hiểu biết thuộc linh, thì họ sẽ nói người ta có tố chất kém, không mưu cầu lẽ thật. Họ sẽ mù quáng áp dụng khuôn sáo, họ áp dụng khuôn sáo đó mãi thì người ta chẳng còn đường đi, bị quấy nhiễu đến mức lòng người hỗn loạn. Vì họ mà người làm bổn phận cũng không còn hăng hái, người tiêu cực thì càng thêm tiêu cực, có người nói để họ dẫn dắt hội thánh thì thà để mọi người tự đọc lời Đức Chúa Trời ở nhà còn hơn. Tại sao lại thành ra như vậy? Họ lãnh đạo hội thánh thì sẽ có thể khiến lòng người suy sụp, khiến người ta không muốn tin Đức Chúa Trời nữa. Tại sao người ta không muốn tin Đức Chúa Trời? Chính là vì ban đầu người ta có một chút khải tượng rõ ràng, thế mà việc họ làm lại khiến người ta bị quấy nhiễu đến hỗn loạn. Ban đầu trong lòng người ta không có lẽ thật, chỉ hiểu đạo lý, sau khi bị họ quấy nhiễu một đợt thì càng thêm mơ hồ, không nắm bắt được công tác của Đức Thánh Linh, lại còn mơ hồ về chuyện rốt cuộc có Đức Chúa Trời không? Họ dùng những cách làm nào mà khiến người ta rơi xuống tận mức này? Chẳng hạn như, câu “nhân loại là do Đức Chúa Trời tạo dựng” có phải là lẽ thật không? (Thưa, phải.) Ngươi phải dùng sự thấu tỏ, nhận thức và lĩnh hội thực sự của mình mà chứng minh câu này, khiến anh chị em càng thêm nhận định chắc chắn rằng lời này là lẽ thật, là đúng đắn, và tin chắc rằng nhân loại từ Đức Chúa Trời mà có, từ đó càng gia tăng đức tin vào Đức Chúa Trời. Con người có đức tin vào Đức Chúa Trời rồi mà sau này lại một lần nữa tiếp nhận sự sửa dạy, hoặc chịu chút gian khổ, chịu bách hại, thì trong lòng họ sẽ có sức mạnh, sự thật là vậy. Nhưng họ lại nói gì nào? “Có một chương trình TV nói rằng người ta phát hiện cách đây trăm triệu năm, con người đã sống thành các bộ lạc rồi”. Họ thể hiện tri thức và giảng lịch sử như thế, mọi người nghe xong thì mơ hồ: “Chẳng phải nhân loại do Đức Chúa Trời tạo dựng sao? Anh nói vậy thì có vẻ không giống lắm. Con người là do loài khỉ biến thành sao?”. Ngươi xem, họ đã đưa người ta đến đâu rồi? Đây chẳng phải là hãm hại người ta sao? (Thưa, phải.) Họ không có việc gì làm thì bèn đi phô trương những tri thức của bản thân, nói về lịch sử, triết học, lại còn kể chuyện lúc họ còn làm quan thì giao du thế nào, cấu kết ra sao, họ cứ khoe khoang những thứ đó. Họ khoe khoang như thế, thì các anh chị em vốn có vóc giạc non nớt, yếu đuối và đức tin bé nhỏ mà nghe những lời này thì lòng sẽ trôi dạt về đâu? (Thưa, về hướng thế gian.) Đúng vậy. Điều này nghĩa là gì? Những người này mà giao cho họ thì sẽ bị họ khiến cho tiêu tùng. Họ rõ ràng là người ngoài ngành, chẳng những không hiểu chuyện lối vào sự sống, lại còn không hiểu công tác mình đảm nhận là gì, càng không hiểu chuyện thuộc linh trong sự sống hay chuyện biến đổi tâm tính. Họ chẳng biết gì về những chuyện này, lại còn giả mạo là người hiểu lẽ thật, muốn làm người chăn dắt để lãnh đạo dân được Đức Chúa Trời chọn, như vậy chẳng phải hoang đường sao? Nếu như ngươi không hiểu chuyện thuộc linh trong sự sống, mà lại được bầu làm lãnh đạo, thì ngươi nên làm gì? Ngươi nên nói: “Tôi là người ngoài ngành, tôi cũng chưa từng lãnh đạo hội thánh, tôi phải tìm kiếm, xem sự sắp xếp công tác quy định thế nào, phải tìm người hiểu chuyện mà thông công xem nên làm công tác thế nào, hoặc tìm các anh chị em hiểu lẽ thật để cộng tác cùng tôi”. Đây có phải là thái độ đúng đắn không? (Thưa, phải.) Nhưng có những người không làm như vậy, họ ra vẻ và nói rằng: “Để tôi cộng tác với người khác sao? Ai có tư cách thâm niên như tôi chứ? Ai có địa vị xã hội cao như tôi chứ? Ở xã hội, tôi khá có uy danh đấy. Ai gặp tôi cũng phải kính nể vài phần”. Họ cứ khoác lác như vậy, khoe khoang năng lực của mình. Ngươi nói xem, họ lãnh đạo hội thánh như thế, thì anh chị em còn có hy vọng bước vào thực tế lẽ thật không? (Thưa, không có.) Không có hy vọng rồi. Cho dù như vậy, họ vẫn bắt mọi người có chuyện gì cũng phải báo cáo với họ. Thứ ma quỷ này học đại học mấy năm, có chút tri thức, ở xã hội thì dám lừa lọc đảo điên, chuyện xấu gì cũng dám làm, có chút thủ đoạn sinh tồn, thế là muốn vào nhà Đức Chúa Trời mà kiếm bừa chút gì đó. Để đạt được địa vị và làm quang tông diệu tổ, họ còn muốn mạo nhận là hóa thân của lẽ thật để khiến cho dân được Đức Chúa Trời chọn nghe lời họ và đi theo họ. Đối với họ, cái “hóa thân của lẽ thật này” nghĩa là gì? Nghĩa là: “Mỗi một cách nghĩ, cách làm và quan điểm của tôi, các người đều phải xem đó là lẽ thật mà giữ vững. Tôi cho anh một quy củ: Mọi chi tiêu, kể cả dưới năm đồng, đều phải báo cáo lên tôi”. Người khác nói: “Có năm đồng thì không cần báo, chúng tôi cũng có phạm vi quyền hạn, chẳng phải chúng tôi cũng có thể dựa vào nguyên tắc mà làm à?”. Họ thấy thế nào? “Làm vậy mà được sao? Đây là chuyện lớn. Tôi là lãnh đạo, một mình tôi có tiếng nói quyết định thôi!”. Ngoài miệng họ không nói vậy, nhưng trong lòng nghĩ vậy, họ sẽ có thể khống chế người khác như vậy đấy. Việc xấu gì họ cũng dám làm, việc lừa người gì họ cũng dám làm, họ lừa người, hại người mà không hề chớp mắt, lòng không dao động, nội tâm không hề có cảm giác bất an nào. Đến nhà Đức Chúa Trời và được cho địa vị thì họ cũng dám nhận, nắm địa vị rồi thì không muốn bước xuống, lại muốn giả mạo bản thân là hóa thân của lẽ thật để khiến người khác thuận phục. Có dạng người như vậy không? (Thưa, có.)

Có những người mặc dù tin Đức Chúa Trời nhưng lại không cam tâm tình nguyện dâng mình cho Đức Chúa Trời, thay vào đó làm bổn phận một cách miễn cưỡng, chỉ muốn đem sức lực phục vụ để được phúc, chứ không sẵn lòng vươn tới lẽ thật, làm bổn phận thì thường qua loa chiếu lệ, không nghiêm túc, chỉ cần đạt chút hiệu quả để khỏi bị thanh trừ là được. Nhưng bất kể người ta có thật lòng tin Đức Chúa Trời, thật lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời hay không, thì Đức Chúa Trời đều ban cho người ta cơ hội hối cải. Đức Chúa Trời không vì ngươi không hiểu lẽ thật hoặc làm bổn phận qua loa chiếu lệ mà định tội ngươi. Đức Chúa Trời liên tục dò xét ngươi, xem ngươi rốt cuộc có thể tiếp nhận lẽ thật hay không, có thể thực sự hối cải và đi con đường nhân sinh đúng đắn hay không, xem ngươi chọn lựa thế nào. Có những người khi mới làm bổn phận thì chẳng hiểu được lẽ thật nào, nhưng nhờ thường hay nghe giảng đạo, thường hay nhóm họp và thông công mà dần dà hiểu được lẽ thật, trong lòng dần có sự sáng, thấy được bản thân thiếu sót rất nhiều, chẳng có lẽ thật nào, làm bổn phận cũng không có nguyên tắc, chỉ dựa vào ý riêng của mình mà làm một chút công tác. Họ sẽ cảm thấy làm bổn phận kiểu đó là không hợp tâm ý của Đức Chúa Trời, trong lòng sẽ thấy hối hận, sẽ bắt đầu vươn tới lẽ thật, làm bổn phận cũng ngày càng có hiệu quả. Như vậy thì một mặt họ có được lối vào sự sống, mặt khác họ cũng dần đạt đến làm bổn phận đạt tiêu chuẩn, đây chính là người có thể tiếp nhận lẽ thật trong lúc làm bổn phận. Khi ngày càng sáng tỏ trong việc hiểu lẽ thật, thì họ cũng có thể thấy rõ những bộc lộ bại hoại của mình, trong lòng sẽ có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời, cậy dựa Đức Chúa Trời, sẵn lòng thoát khỏi sự bại hoại, đưa lẽ thật vào thực hành, đi con đường mưu cầu lẽ thật. Đây chính là sự sống dần trưởng thành trong khi làm bổn phận. Người đi theo Đức Chúa Trời đều hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật khi làm bổn phận. Người không yêu thích lẽ thật thì có thể có dạng biến đổi này không? Chắc chắn là không thể. Có những người đặc biệt kiêu ngạo và tự đại, khi họ đến nhà Đức Chúa Trời, nhất là khi làm bổn phận rồi, thì sự ngông cuồng đó lộ ra, họ khoanh tay, chống nạnh, bảy phần không phục, tám phần bất mãn. Tại sao họ lại kiêu ngạo đến vậy? Họ nghĩ bụng: “Vì tin đức chúa trời và làm bổn phận mà mình đã vứt bỏ thế gian, gia đình và công việc, trả giá như vậy mà không lớn hay sao? Mình vì đức chúa trời mà vứt bỏ nhiều đến vậy, chẳng phải đức chúa trời phải ban cho mình gì đó để bù đắp sao? Hơn nữa, xét địa vị và thu nhập của mình ở ngoài xã hội, chẳng phải nhà đức chúa trời ít nhất cũng nên cho mình đãi ngộ tương tự sao? Bây giờ mình đang làm bổn phận, chẳng lẽ đức chúa trời không thể đặc biệt ân đãi mình sao? Mình là nhân tài đặc biệt, giỏi hơn người thường nhiều, mình nên có địa vị trong nhà đức chúa trời. Người khác có thể làm lãnh đạo thì mình cũng có thể làm lãnh đạo. Địa vị của mình không nên thấp hơn người khác, đãi ngộ mình hưởng nên cao hơn người thường. Quan trọng nhất là đức chúa trời có thể cho mình sự bảo đảm rằng sau này mình sẽ được phúc và có đích đến tốt đẹp hay không?”. Từ cách nghĩ trong lòng của họ, có thể thấy họ đi theo Đức Chúa Trời là để giao dịch, chứ không phải thật lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời. Cách nghĩ của họ giống hệt cách nghĩ của Phao-lô, đều là muốn mượn bổn phận mà đổi lấy sự chúc phúc của Đức Chúa Trời. Nhưng lý trí của họ thì thấp hơn lý trí của Phao-lô nhiều, còn xa lắm mới sánh được với Phao-lô. Tại sao lại nói như vậy? Bởi vì Phao-lô quả thực đã chịu khổ rất nhiều trong biết bao năm rao truyền phúc âm, hiệu quả rao truyền của ông lại cao hơn nhiều so với người thường, ít nhất ông đã chu du khắp hầu hết châu Âu, cũng đã lập rất nhiều hội thánh ở châu Âu. Chỉ xét điểm này thôi thì kẻ địch lại Đấng Christ bình thường đã không sánh nổi với lý trí của Phao-lô và việc đem sức lực phục vụ của ông. Nhưng người mà Ta vừa mới nói đến, sau khi làm bổn phận thì vênh váo làm tàng, đây có phải là quá thiếu lý trí rồi không? Họ hoàn toàn không có lý trí, giống hệt thứ thổ phỉ, nắm lấy cơ hội được phúc rồi thì không thể nào buông ra. Dạng người này liên tục tùy ý tìm kiếm cơ hội xuất đầu lộ diện ở nhà Đức Chúa Trời, ngay cả làm một trưởng nhóm, một người phụ trách cũng được. Tóm lại, khi đến nhà Đức Chúa Trời, những người này không cam tâm làm một người đi theo bình thường. Cho dù ai có thể thừa nhận rằng bản thân mình là loài thọ tạo, cũng giống như hết thảy chúng sinh, là một loài thọ tạo bình thường, thì họ cũng vĩnh viễn không tiếp nhận quan điểm này, tuyệt đối không để mình bị ấm ức. Họ cho rằng bản thân nên được đãi ngộ đặc biệt, Đức Chúa Trời nên ban cho họ ân điển và sự chúc phúc đặc biệt, họ còn phải được hưởng thụ lợi ích đặc biệt của địa vị trong nhà Đức Chúa Trời. Họ không cho phép nhà Đức Chúa Trời hoài nghi tài cán của họ, càng không cho phép người ta hỏi han về công tác của họ – người ta phải tuyệt đối tin tưởng họ, bởi vì họ đã vứt bỏ tất cả vì Đức Chúa Trời và tuyệt đối trung thành với Ngài mà. Đây có phải là yêu cầu vô lý không? Người như vậy thì có lý trí không? Có bao nhiêu người như thế này? Ở trong hội thánh, dạng người này chiếm tỷ lệ bao nhiêu? Dạng người này luôn cho rằng bản thân có bản lĩnh, có chút tài cán, thế là tự tâng bốc bản thân cao minh. Những thứ “tài cán” này là gì? Chính là họ có thể ba hoa múa mép, nói xằng nói bậy, gặp mỗi người lại nói mỗi kiểu, kỹ thuật lừa người cao hơn người thường. Họ cho rằng những thứ này là tài cán, là bản lĩnh, họ muốn dùng thứ bản lĩnh này mà lừa lọc đảo điên. Tài cán đích thực là gì? Chính là có kỹ năng đặc biệt. Khi tạo dựng con người, Đức Chúa Trời đã ban cho đủ mọi loại người những sở trường khác nhau, có người giỏi văn học, có người giỏi y học, có người giỏi nghiên cứu kỹ thuật, có người giỏi nghiên cứu khoa học, v.v.. Con người có những sở trường này là nhờ Đức Chúa Trời ban cho, chẳng có gì để huênh hoang cả. Bất kể người ta có sở trường gì thì cũng không có nghĩa là họ có thực tế lẽ thật. Con người có sở trường này nọ, khi tin Đức Chúa Trời rồi thì nên dùng nó mà làm bổn phận, như vậy Đức Chúa Trời sẽ chấp thuận. Còn nếu ngươi đem sở trường của mình ra mà huênh hoang, hoặc muốn giao dịch với Đức Chúa Trời, thì như vậy là quá thiếu lý trí, Đức Chúa Trời không vui thích gì loại người này. Có những người biết một ngành kỹ thuật, khi đến nhà Đức Chúa Trời thì cảm thấy mình hơn người một bậc, muốn hưởng thụ đãi ngộ đặc biệt, cảm thấy đời này đã có cần câu cơm bền vững. Họ xem những ngành kỹ thuật này là một thứ vốn liếng, như vậy là quá kiêu ngạo rồi! Vậy nên nhìn nhận những ân tứ và sở trường này như thế nào? Những thứ này mà hữu dụng trong nhà Đức Chúa Trời thì cũng chỉ là công cụ để ngươi làm tốt bổn phận, chứ chẳng liên quan gì đến lẽ thật. Có nhiều ân tứ và tài cán thì chỉ có nghĩa là người ta có sở trường, chứ nó chẳng liên quan gì đến lẽ thật. Ngươi có ân tứ và sở trường không có nghĩa là ngươi hiểu lẽ thật, càng không có nghĩa là ngươi có thực tế lẽ thật. Nếu ngươi dùng ân tứ và sở trường vào việc thực hiện bổn phận và làm tốt bổn phận, thì đó là dùng chúng đúng chỗ, là việc được Đức Chúa Trời khen ngợi. Còn nếu ngươi dùng ân tứ và sở trường để thể hiện bản thân, làm chứng cho bản thân và tạo vương quốc độc lập, thì tội của ngươi lớn rồi, ngươi đã trở thành đầu sỏ chống đối Đức Chúa Trời. Ân tứ là do Đức Chúa Trời ban, nếu ngươi không thể dùng nó vào việc thực hiện bổn phận, không thể dùng nó vào việc làm chứng cho Đức Chúa Trời, thì ngươi quá thiếu lương tâm và lý trí, mắc nợ Đức Chúa Trời quá nhiều rồi, đây chính là chuyện đại nghịch bất đạo! Cho dù ngươi phát huy ân tứ và sở trường tốt thế nào, thì cũng không có nghĩa là ngươi có thực tế lẽ thật. Thực hành lẽ thật và làm việc có nguyên tắc mới chính là có thực tế lẽ thật, còn ân tứ và tài cán thì vĩnh viễn chỉ là ân tứ và tài cán, chúng chẳng liên quan gì đến lẽ thật cả. Bất kể ngươi có bao nhiêu ân tứ và tài cán, bất kể danh vọng và địa vị của ngươi cao đến đâu, những điều đó mãi mãi không có nghĩa là ngươi có thực tế lẽ thật. Ân tứ và tài cán sẽ không đời nào biến thành lẽ thật, chúng chẳng liên quan gì đến lẽ thật. Nhưng mà loại người địch lại Đấng Christ không cho là vậy, chính xác thì họ xem trọng những thứ này vô cùng. Chẳng hạn như, người này có tài diễn xuất, sau khi đóng vai chính trong một cảnh phim của nhà Đức Chúa Trời thì anh ta bắt đầu vênh mặt. Lúc hóa trang, ba người xúm vào lo cho một mình anh ta, mà anh ta còn không hài lòng. Trước đây, anh ta là một người thường, bây giờ tin Đức Chúa Trời và làm bổn phận diễn viên rồi, thì anh ta lại vênh mặt, đây chẳng phải là tự tìm đường chết sao? Ta thấy anh ta đúng là tự tìm đường chết! Dung mạo anh ta không đặc biệt, kỹ năng diễn xuất cũng xoàng, chỉ thích hợp diễn vai đó mà thôi, giờ lại được giao thêm vai khác, vậy chẳng phải là đã tôn cao anh ta rồi à? Cho anh ta cơ hội làm bổn phận mà anh ta còn vênh mặt, lúc diễn còn sai khiến người khác pha trà rót nước hầu hạ mình, anh chị em nhìn thấy thì đều tức giận. Ta bảo: “Thanh lọc anh ta đi!”. Thế là hội thánh thanh lọc anh ta. Dạng người này có nên bị thanh trừ không? Anh ta cho rằng hội thánh làm phim thì không thể thiếu anh ta, nên anh ta mới dám vênh mặt, cũng không nghĩ đến hậu quả này, chuyện này do bản tính sai khiến mà ra. Loại người này yêu chuộng tri thức, tài cán, học vấn và kinh nghiệm, họ quá xem trọng những thứ này mà lại xem nhẹ điều quý báu nhất – lẽ thật. Họ không ý thức được rằng lẽ thật nắm quyền trong nhà Đức Chúa Trời, nếu không mưu cầu lẽ thật, thì dù học vấn và tri thức có cao đến đâu, ăn nói giỏi cỡ nào, họ cũng sẽ không đứng vững được, sớm muộn gì cũng sẽ bị tỏ lộ và đào thải. Các ngươi nói xem, để con người hiểu được chút đạo lý này thì có dễ không? Tin Đức Chúa Trời nhiều năm như vậy mà chút chuyện này cũng nhìn không thấu, thì họ chính là thứ hồ đồ, chẳng đáng một xu. Nếu họ hiểu chuyện một chút thì đã không kiêu ngạo đến vậy. Dạng người này chính là ma quỷ và Sa-tan hiện hình. Bây giờ Ta trực tiếp chỉ ra chuyện này để các ngươi cũng có thể hiểu rõ, có thể có chút phân định và nhìn thấu chuyện này. Nếu như Ta không làm rõ một chút, thì các ngươi có biết phân định như vậy không? Các ngươi có thể thanh trừ họ không? Con người đều không nhìn ra được vấn đề, nên Ta phải nói thẳng ra, không nói thẳng thì không giải quyết được vấn đề. Nếu dựa vào chút đạo lý mà các ngươi hiểu được thì chẳng giải quyết được vấn đề gì cả.

Loại người địch lại Đấng Christ luôn cảm thấy bản thân có tài cán đặc biệt, đã tốt nghiệp đại học, học thức uyên bác, bụng một bồ chữ. Họ đặc biệt trân quý, xem trọng tri thức của mình và những lý luận thuộc linh mình học được, thậm chí xem chúng như lẽ thật. Tệ hơn nữa, họ còn thường dùng những thứ mà họ cho là tri thức và kinh nghiệm đúng đắn này để dạy dỗ, mê hoặc và hun đúc những người xung quanh mình. Nhất là họ thường hay nói về lịch sử “quang vinh” của mình, dùng những thứ này mà thuyết phục và làm khuất phục người khác, khiến người khác xem trọng và sùng bái họ. Những lịch sử “quang vinh” này đều có những thứ gì? Có người nói: “Tôi từng là giảng viên ở đại học. Sinh viên của tôi toàn là thạc sĩ, tiến sĩ. Mỗi lần tôi giảng bài là cả giảng đường không còn chỗ trống, không một tiếng động. Ai cũng nhìn tôi với ánh mắt sùng bái và ngưỡng mộ. Tôi cũng chẳng thấy hồi hộp! Tôi có khí thế đến vậy đấy! Bẩm sinh tôi đã có tài cán này, có dũng khí này!”. Lại có người nói: “Từ năm 14 tuổi, tôi đã học lái xe, đến hiện tại đã lái được 40 năm rồi, kỹ năng lái xe của tôi không chê vào đâu được!”. Họ nói vậy là có ý gì? Ý họ là: “Các anh chỉ mới lái xe có mấy ngày thì biết được gì chứ? Tài xế lão luyện như tôi đã lái xe cả đời rồi, kinh nghiệm gì cũng có, sau này các anh không hiểu cái gì thì nên tìm tôi mà hỏi, tôi mở miệng nói thì các anh liệu mà nghe”. Loại người địch lại Đấng Christ mà có chút kỹ năng thì cảm thấy mình tài giỏi lắm, thần bí hóa bản thân, thể hiện bản thân, làm chứng cho bản thân, khiến người khác xem trọng và sùng bái họ. Loại người này có được chút sở trường và ân tứ thì cảm thấy mình giỏi hơn người khác, muốn lãnh đạo người khác. Khi người khác tìm họ mà hỏi vài vấn đề thì họ sẽ lên mặt giáo huấn người ta, giáo huấn rồi mà người ta còn chưa hiểu thì họ sẽ nói người ta có tố chất kém, trong khi thực ra là do bản thân họ nói không rõ. Chẳng hạn như thấy người khác không biết sửa máy móc bị hư, thì kẻ địch lại Đấng Christ bảo: “Sao mà vẫn không biết biết sửa vậy? Chẳng phải tôi đã chỉ anh rồi sao? Tôi nói rõ lắm rồi, vậy mà anh cũng không hiểu, đúng là tố chất kém, mỗi lần tôi dạy anh đều không học được”. Nhưng khi người ta bảo họ sửa đi, thì họ đứng nhìn cả buổi cũng không biết nên sửa thế nào, lại còn che đậy không để người ta biết là họ không biết sửa. Sau khi đuổi người ta đi rồi, họ lén ngẫm nghĩ, nghiên cứu sau lưng người ta, nhưng vẫn không biết cách sửa, cuối cùng họ tháo tung và biến cái máy thành một mớ rối tinh rối mù, không thể nào lắp lại được nữa, rồi vì sợ người khác thấy mà họ đem nó giấu đi. Không biết cách làm việc gì đó thì có phải là chuyện mất mặt không? Có ai cái gì cũng biết không? Không biết làm gì đó thì đâu phải là chuyện gì mất mặt, ngươi đừng quên ngươi là một người bình thường, chẳng có ai xem trọng ngươi, sùng bái ngươi đâu. Người bình thường thì chính là người bình thường, không biết thì nói không biết, ngươi giả vờ làm gì? Ngươi luôn giả vờ thì sẽ khiến người ta kinh tởm, sớm muộn gì cũng có ngày bị lộ tẩy, đến lúc đó thì tôn nghiêm và nhân cách của ngươi sẽ không còn. Đây chính là tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, họ luôn xem mình là người toàn diện, việc gì cũng biết, chẳng có việc gì là không biết và không thể. Như vậy có phải là phiền phức rồi không? Nếu có thái độ trung thực, thì họ nên làm gì? Họ sẽ nói: “Phương diện kỹ thuật này, tôi chưa học thành thạo, chỉ có chút kinh nghiệm nhỏ mà thôi, tôi biết được một chút thì cũng áp dụng cả rồi, đến khi gặp vấn đề mới thì tôi không biết. Chúng ta muốn làm tốt bổn phận thì phải học chút tri thức nghiệp vụ, nắm vững tri thức nghiệp vụ thì khi làm bổn phận sẽ có thể đạt được hiệu quả. Đức Chúa Trời giao những bổn phận này cho chúng ta, chúng ta phải có trách nhiệm làm cho tốt, nên dùng thái độ có trách nhiệm với bổn phận mà học tập tri thức nghiệp vụ”. Như vậy là thực hành lẽ thật. Người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ thì không biết làm như vậy. Người ta mà có chút lý trí thì sẽ nói như thế này: “Tôi biết được một chút thôi, anh không cần xem trọng tôi, tôi cũng không cần vênh mặt, như vậy chẳng phải sẽ thoải mái hơn sao? Lúc nào cũng giả mạo và giả vờ thì đúng là quá khó chịu. Không biết thì chúng ta cùng nhau học tập, rồi phối hợp hài hòa mà làm tốt bổn phận. Chúng ta phải có thái độ trách nhiệm”. Có người nhìn thấy thì bảo: “Người này hơn chúng ta, khi gặp chuyện thì không mù quáng cưỡng ép vượt quá sức mình, cũng không đùn đẩy cho người khác, không thoái thác trách nhiệm. Thay vào đó, người này tự mình gánh vác, dùng thái độ nghiêm túc và có trách nhiệm mà làm. Đây là người tốt, nghiêm túc, có trách nhiệm với công tác và bổn phận, là người đáng tin cậy. Nhà Đức Chúa Trời giao công tác trọng yếu như vậy cho người này là đúng rồi. Đúng thật là Đức Chúa Trời dò xét tận đáy lòng của con người!”. Họ làm bổn phận như thế thì cũng nâng cao tay nghề, khiến mọi người đều tán thành. Sự tán thành này do đâu mà có? Thứ nhất, họ có thái độ nghiêm túc và có trách nhiệm với bổn phận; thứ hai, họ có thể làm người trung thực, có tinh thần cầu thực, có thái độ học hỏi; thứ ba, không loại trừ việc họ có sự dẫn dắt và khai sáng của Đức Thánh Linh. Dạng người này sẽ được Đức Chúa Trời chúc phúc, đây là điều mà người có lương tâm và lý trí có thể đạt đến. Mặt dù họ có tâm tính bại hoại, có khiếm khuyết và thiếu sót, cũng có nhiều thứ không biết, nhưng con đường thực hành của họ đúng, họ không giả vờ, không lừa phỉnh, có thái độ nghiêm túc và có trách nhiệm với bổn phận, có dạng thái độ khao khát, sùng kính với lẽ thật. Loại người địch lại Đấng Christ vĩnh viễn không làm được những việc này, bởi vì cách nghĩ của họ vĩnh viễn không giống với cách nghĩ của người yêu thích lẽ thật và mưu cầu lẽ thật. Tại sao lại không giống? Bởi vì họ có bản tính Sa-tan trong mình, họ sống bằng tâm tính Sa-tan, nghĩa là để đạt được mục đích nắm quyền, họ luôn muốn dùng đủ loại phương thức, âm mưu, quỷ kế, và không từ thủ đoạn, để mê hoặc người khác, khiến người khác sùng bái họ, đi theo họ. Vì vậy, để che mắt người khác mà họ nghĩ đủ mọi cách để giả vờ, lừa phỉnh, nói dối và bịt mắt người khác, khiến người khác cho rằng họ cái gì cũng đúng, cái gì cũng biết, cái gì cũng ổn, lại còn thông minh, khôn ngoan và hiểu chuyện hơn người, cái gì cũng giỏi hơn người, cái gì cũng cao hơn người, thậm chí trong bất kỳ nhóm người nào, họ đều là người giỏi nhất. Họ có dạng nhu cầu như vậy thì đây chính là tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ. Do đó, họ sẽ học cách mạo nhận, sẽ nảy sinh đủ kiểu đủ dạng cách làm và biểu hiện.

Các ngươi nghĩ mà xem, người thích mạo nhận thì có tâm tính gì? Họ mạo nhận điều gì? Họ đâu có mạo nhận là ma quỷ hay nhân vật phản diện, họ mạo nhận mình cao, mình tốt, mình đẹp, mình thiện, mình được người ta tôn sùng và ngưỡng mộ, họ làm vậy để được người ta xưng tụng và tán thành. Họ mạo nhận những thứ này. Họ mạo nhận rằng cái gì mình cũng biết, cái gì mình cũng hiểu, mạo nhận mình có lẽ thật, là nhân vật chính diện, là thực thế lẽ thật, làm vậy chẳng phải là tự tìm cái chết sao? Họ có những thực tế và thực chất này không? Không có. Chính vì không có nên họ mới mạo nhận. Vậy có ai nói rằng vì họ có thực tế lẽ thật nên họ là hóa thân của lẽ thật không? Câu nói này có đứng vững được không? (Thưa, không.) Cho dù ngươi có một chút thực tế lẽ thật, thì ngươi cũng tuyệt đối không phải là hóa thân của lẽ thật. Do đó, hễ ai mạo nhận là hóa thân của lẽ thật thì đều là thứ kiêu ngạo, vớ vẩn! Con người có một chút xíu thực tế lẽ thật mà đã dám mạo nhận là hóa thân của lẽ thật, chuyện này cũng giống như một giọt nước dám mạo nhận mình là biển cả mênh mông, như vậy chẳng phải là kiêu ngạo đến cùng cực hay sao? Như vậy chẳng phải là mặt dày vô sỉ hay sao? Con người mà mạo nhận là hóa thân của lẽ thật, thì phải có vốn liếng để mạo nhận. Vậy kẻ địch lại Đấng Christ lấy thứ gì để mạo nhận mình là hóa thân của lẽ thật? Chính là những điều mà chúng ta vừa mới nói đến – tri thức, kinh nghiệm, giáo huấn, trong này bao quát cả những kỹ thuật và tài cán đặc biệt mà người ta học được, cũng như những ân tứ bẩm sinh có sẵn. Một số người có ân tứ nói giọng địa phương, một số thì có ân tứ giảng đạo, giỏi ăn nói, số khác học tập và nắm vững một vài kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt. Chẳng hạn như có người đặc biệt xuất chúng về vũ đạo, có người đặc biệt xuất chúng về âm nhạc, có người đặc biệt xuất chúng về mỹ thuật, có người đặc biệt xuất chúng về ngôn ngữ và văn học. Lại có người giỏi làm chính trị, nghĩa là đặc biệt giỏi thao túng người khác, giỏi ngoại giao, v.v.. Tóm lại, những người có tài cán đặc biệt trong đủ mọi ngành nghề đều được tính vào đây. Những người có tài cán và ân tứ đặc biệt này không hẳn có địa vị nhất định và sự nghiệp cố định trong xã hội. Có những người sống ở địa phương nhỏ, nhưng chuyện kim cổ gì cũng nói rõ ràng mạch lạc, đặc biệt hùng hồn. Những người có tài cán đặc biệt này mà có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, thì khi đến nhà Đức Chúa Trời, họ sẽ không hài lòng với hiện trạng, đều có một vài dã tâm và dục vọng, dần dà sẽ tỏ lộ ra.

Về tiểu mục kẻ địch lại Đấng Christ mạo nhận là hóa thân của lẽ thật khi có được chút ít kinh nghiệm, tri thức và giáo huấn, chúng ta vừa mới nói một lượt về phạm vi của những thứ tri thức, kinh nghiệm và giáo huấn này. Tâm điểm của điều vừa nói đến là gì? (Thưa, là mạo nhận.) Đúng vậy, điểm mấu chốt là mạo nhận là hóa thân của lẽ thật. Những thứ tri thức, kinh nghiệm và giáo huấn này đều không phải là lẽ thật, căn bản không có liên quan gì đến lẽ thật, thậm chí những thứ này trái với lẽ thật và bị Đức Chúa Trời định tội. Chẳng hạn như, nói về tri thức, thì lịch sử có được xem là một hạng mục tri thức không? (Thưa, có.) Lịch sử của nhân loại, lịch sử của quốc gia này, dân tộc kia, cũng như lịch sử hiện đại, lịch sử cổ đại, thậm chí cả dã sử, những thứ sách vở lịch sử và tri thức đó từ đâu mà ra? (Thưa, do con người viết ra.) Vậy những thứ mà con người viết ra có phù hợp với lịch sử thực sự không? Tư tưởng và quan điểm của con người có trái với nguyên tắc, phương thức và phương pháp làm việc của Đức Chúa Trời không? Vậy những lời con người nói này có liên quan gì đến lịch sử thực sự không? (Thưa, không.) Không có liên quan. Do đó, bất kể sách lịch sử ghi chép lại thật đến mấy, thì nó cũng chỉ là tri thức. Bất kể các sử gia ấy có tài ăn nói đến đâu, giảng những sự kiện lịch sử này với lô-gic vững thế nào, nói rõ ràng ra sao, thì nghe xong, cuối cùng ngươi đạt được kết luận gì? (Thưa, sẽ biết những sự kiện đó.) Ngươi sẽ biết những sự kiện đó, nhưng họ giảng lịch sử chỉ để cho ngươi biết những sự kiện đó thôi sao? Họ có một tư tưởng nhất định muốn tiêm nhiễm vào ngươi. Tâm điểm họ muốn tiêm nhiễm là gì, đây là điều mà chúng ta cần phân tích và mổ xẻ. Ta đưa ra một ví dụ thì các ngươi sẽ có thể hiểu được họ muốn tiêm nhiễm cho người khác điều gì. Sau khi xem xét lịch sử tự cổ chí kim, cuối cùng người ta tổng kết ra một câu này, đây cũng là sự thật mà người ta thấy được từ lịch sử của nhân loại: “Thắng làm vua, thua làm giặc”. Đây có phải là tri thức không? (Thưa, phải.) Tri thức này phát xuất từ sự thật lịch sử. Câu này có liên quan gì đến phương thức và phương pháp tể trị vạn vật của Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Trên thực tế, nó tương phản, trái ngược và đối chọi với phương thức và phương pháp tể trị vạn vật của Đức Chúa Trời. Vậy họ tiêm nhiễm vào ngươi câu nói này, nếu ngươi không hiểu lẽ thật, hoặc là một người ngoại đạo, thì nghe xong ngươi sẽ nghĩ gì? Ngươi sẽ nhìn nhận câu này như thế nào? Trước hết, những sử gia hoặc sách lịch sử này liệt kê hết mọi sự kiện kiểu này, dùng chứng cứ và sự kiện lịch sử đầy đủ để chứng thực tính đúng đắn của câu này. Ban đầu, có lẽ ngươi chỉ học qua câu này từ một quyển sách, chỉ đơn giản là biết về câu này mà thôi. Khi chưa biết đến những sự kiện này, thì nhận biết của ngươi về câu này chỉ ở một tầng mức và mức độ nào đó, nhưng khi nghe xong những sự thật lịch sử này rồi, thì mức độ công nhận và thừa nhận của ngươi đối với câu này sẽ tăng lên. Ngươi tuyệt đối sẽ không nói: “Có những chuyện đâu giống như vậy”. Thay vào đó, ngươi sẽ nói: “Chuyện là như vậy. Trong lịch sử tự cổ chí kim, nhân loại đã phát triển như vậy, chính là ‘Thắng làm vua, thua làm giặc’!”. Khi nhận biết chuyện đó như vậy rồi, trong lòng ngươi sẽ có quan điểm và thái độ nào đối với việc làm người, sự nghiệp, cuộc sống và những con người, sự việc, sự vật quanh mình? Dạng nhận biết này có thay đổi thái độ của ngươi không? (Thưa, có.) Trước hết là có. Vậy nó thay đổi thế nào? Nó có dẫn dắt, thay đổi phương hướng nhân sinh và phương thức xử thế của ngươi không? Có lẽ trước đây, ngươi cho rằng: “Hòa là quý, nhẫn là cao”, “Người tốt thì sống một đời bình an”, bây giờ thì lại cho rằng: “‘Thắng làm vua, thua làm giặc’. Mình muốn bước vào quan lộ, thì phải suy tính về người này, họ không về phe mình, nên họ có xứng đáng được đề bạt thì mình cũng không để bạt”. Khi ngươi ngẫm nghĩ như vậy, thái độ của ngươi cũng nhanh chóng thay đổi. Sự thay đổi này từ đâu mà có? Chính là do ngươi tiếp nhận tư tưởng và quan điểm “Thắng làm vua, thua làm giặc” này. Ngươi nghe rất nhiều sự thật rồi thì càng chứng thực tính đúng đắn của dạng quan điểm này trong cuộc sống hiện thực của nhân loại. Ngươi cảm nhận một cách sâu sắc rằng nên đem quan điểm này mà áp dụng vào cách hành động và ứng xử của mình, để mưu cầu cuộc sống và tiền đồ sau này của mình. Có phải dạng tư tưởng và quan điểm này đã thay đổi ngươi rồi không? (Thưa, phải.) Nó thay đổi ngươi, đồng thời cũng làm bại hoại ngươi, chuyện chính là như vậy. Dạng tri thức này thay đổi ngươi, làm bại hoại ngươi rồi, vậy nhìn từ căn nguyên, bất kể những sự kiện lịch sử này nói đúng sự thật đến đâu, thì cuối cùng nó cũng tổng kết ra thành câu này, và tiêm nhiễm vào ngươi tư tưởng này. Tri thức này là hóa thân của lẽ thật hay là lô-gic của Sa-tan? (Thưa, là lô-gic của Sa-tan.) Nói vậy là đúng. Ta nói vậy đã đủ chi tiết chưa? (Thưa, đã đủ chi tiết.) Như vậy là hiểu được rồi. Ngươi mà không tin Đức Chúa Trời thì sống qua hai kiếp cũng không hiểu nổi, ngươi chỉ có thể càng sống càng cảm thấy mình ngốc và không đủ tàn nhẫn, thấy mình nên tàn nhẫn hơn một chút, ma đạo hơn một chút, nham hiểm hơn một chút, xấu xa hơn một chút, ác hơn một chút. Ngươi sẽ nghĩ: “Họ có thể giết người, thì mình phải phóng hỏa. Họ có thể giết một người, thì mình phải giết mười người. Họ giết người không dấu vết, thì mình hại người mà người không biết, còn khiến con cháu ba đời của người ta cảm tạ mình!”. Đây chính là ảnh hưởng mà triết lý, tri thức, kinh nghiệm và giáo huấn của Sa-tan gây ra cho nhân loại. Trên thực tế, nó chỉ tàn hại và làm bại hoại. Vì vậy, bất kể thế giới này rao giảng và tuyên dương loại tri thức nào, thì đồng thời nó cũng tiêm nhiễm vào ngươi một dạng tư tưởng và quan điểm, nếu ngươi không biết phân định thì sẽ bị đầu độc. Nói tóm lại, hiện tại có một điểm chắc chắn là, bất kể những tri thức này đến từ dân gian hay từ chính quyền, bất kể chúng được thiểu số hay tuyệt đại đa số tôn sùng, thì chúng đều không liên quan đến lẽ thật. Lẽ thật là thực tế của hết thảy mọi điều tích cực, sự đúng đắn của lẽ thật không được quyết định dựa trên việc nó được bao nhiêu người thừa nhận. Thực tế của những điều tích cực này tự bản thân chính là lẽ thật. Chuyện này, ai cũng không thay đổi được, ai cũng không phủ nhận được. Lẽ thật vĩnh viễn là lẽ thật.

Giờ hãy nói về sự thật rằng Đức Chúa Trời tể trị hết thảy. Từ khi Đức Chúa Trời bắt đầu dẫn dắt nhân loại này, Ngài cũng có một bộ lịch sử và một bản ghi nợ. Đức Chúa Trời nhìn nhận lịch sử nhân loại như thế nào? Điều Đức Chúa Trời muốn khiến con người nhìn thấy chính là lẽ thật, còn sự đánh giá và kết luận của nhân loại về mọi sự thì đều không phải lẽ thật. Nhưng tại sao nhân loại không căn cứ vào lời Đức Chúa Trời và lẽ thật mà nhìn nhận lịch sử? Chính là vì nhân loại chán ghét lẽ thật, thù hận lẽ thật, không hề tiếp nhận lẽ thật, cho nên nhân loại mới có thể tổng kết ra một bộ lý luận hoang đường, vô lý, sai mà trông như đúng. Chẳng hạn như, Đức Chúa Jêsus được thụ thai bởi Đức Thánh Linh, đây là chuyện tích cực, vậy mà Sa-tan lại nói thế nào? Sa-tan không thừa nhận sự thật chuyện thụ thai bởi Đức Thánh Linh, lại còn báng bổ rằng Đức Chúa Jêsus là con hoang, là do con người sinh ra. Sa-tan lấy từ ngữ bẩn thỉu nhất của nhân loại, lấy cách nói bị con người phỉ nhổ và miệt thị nhất, để nhắc đến sự ra đời của Đức Chúa Jêsus, như vậy chẳng phải là bóp méo sự thật sao? (Thưa, phải.) Thụ thai bởi Đức Thánh Linh chính là việc Đức Chúa Trời làm. Việc mà Đức Chúa Trời làm, bất kể là dưới hình thức nào, thì đều có một điểm chắc chắn rằng, đây chính là lẽ thật, là lẽ thật vĩnh viễn bất biến. Sự thật rõ ràng đến vậy, là sự thật mà Đức Chúa Trời dự định và làm chứng cho, vậy tại sao Sa-tan lại không chịu tiếp nhận? Tại sao Sa-tan không thèm đếm xỉa đến, lại còn nói rằng Đức Chúa Jêsus là con hoang do con người sinh ra? (Thưa, vì nó thù hằn lẽ thật và những điều tích cực.) Là nó cố ý bôi nhọ đấy! Sa-tan vốn thấy rõ chuyện này nhất, nó ở cõi thuộc linh đã thấy quá rõ rồi, vậy tại sao nó còn muốn làm như vậy? Động cơ và ý định của nó khi làm vậy là gì? Tại sao nó lại rêu rao dạng câu nói này? Là vì nó cố ý bôi xấu và bôi nhọ Đức Chúa Trời. Nó bôi xấu Đức Chúa Trời với mục đích gì? Là để khiến người ta vừa nghe rằng Jêsus là con hoang, thì sẽ thấy ô nhục, mà không tin Jêsus nữa. Sa-tan sẽ nghĩ rằng: “Nếu con người đều không tin ngài nữa, thì chẳng phải công tác của ngài sẽ không thành hay sao?”. Trên thực tế, lẽ thật vĩnh viễn là lẽ thật, cho dù lúc đó toàn thể nhân loại không tiếp nhận, thì cuối cùng, hai ngàn năm sau, họ điều biến thành người đi theo và xưng tụng Đức Chúa Jêsus, thập giá vươn cao khắp mọi nơi, và thế là Sa-tan thất bại rồi. Câu nói đó của Sa-tan có tác dụng không? (Thưa, không.) Cho nên, câu nói này không phải lẽ thật, không đứng vững được, việc bôi nhọ cũng chỉ là vô ích. Bất kể Đức Chúa Trời làm việc này có hợp với quan niệm và tưởng tượng của con người hay không, có tương phản với truyền thống văn hóa, cách nói hoặc luân lý đạo đức của nhân loại hay không, thì Đức Chúa Trời đều không quan tâm. Tại sao Đức Chúa Trời không quan tâm? Chuyện này liên quan đến điều gì? Đức Chúa Trời tể trị hết thảy, một câu lời của quỷ do Sa-tan nói ra thì có thể phá hủy công tác của Đức Chúa Trời hay không? Chuyện này các ngươi không nhìn thấu được, phải không? (Thưa, phải.) Các ngươi nói xem, hết thảy vạn vật có nằm trong tay Đức Chúa Trời không? (Thưa, có.) Sa-tan nói ra một câu lời của quỷ, thì mấy chữ đó có thể phá hủy kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời sao? Có thể nào như vậy không? (Thưa, không thể nào.) Sa-tan muốn đạt được ý đồ, nhưng mà có đạt được không? Lẽ thật vĩnh viễn là lẽ thật, đây chính là sức mạnh của lẽ thật. Sức mạnh của lẽ thật thì không một con người nào thay đổi được, kể cả Sa-tan cũng không thay đổi được. Đến hiện tại Sa-tan vẫn còn rêu rao câu nói này, có tác dụng gì không? Không. Bước công tác của Thời đại Ân điển đã kết thúc rồi, phúc âm của Đức Chúa Jêsus đã được truyền đến tận cùng mặt đất, công tác mới là sự phán xét trong thời kỳ sau rốt đã bắt đầu được nhiều năm. Sa-tan từ sớm đã bị thất bại và hạ nhục rồi, bây giờ nó nổi giận đùng đùng thì có tác dụng gì không? Không có tác dụng gì. Vì vậy, bất kể là luận điệu gì, bất kể là tri thức cao đến đâu, bất kể luận điệu này được quán triệt và rêu rao giữa bao nhiêu người, thì đều vô dụng, đều không đứng vững. Công tác của Đức Chúa Trời là không thể ngăn cản, Sa-tan cản không được, mấy nhân vật nhỏ chẳng ra gì này còn muốn cản trở công tác của Đức Chúa Trời, đúng là mộng tưởng hão huyền! Giữa các ngươi có nhiều người đã trưởng thành cùng những tin đồn này và tiếp thu luận điệu mê hoặc con người của Sa-tan, trong đầu toàn là những thứ lô-gic, triết lý, tri thức và hoa học của Sa-tan, kết quả thế nào? Khi lời Đức Chúa Trời đến, các ngươi vẫn nghe thấy tiếng Ngài và trở về trước mặt Ngài. Những tin đồn và lời của quỷ này từ Sa-tan đều chẳng có tác dụng gì, chẳng cản trở được công tác của Đức Chúa Trời từng bước phát triển tiến lên. Dân được Đức Chúa Trời chọn ở đủ mọi quốc gia đều bắt đầu tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời, ngày ngày ăn uống lời Đức Chúa Trời, ngày ngày nghe giảng đạo và thông công, đều làm bổn phận và làm chứng cho Đức Chúa Trời. Sa-tan mới ngẫm nghĩ, bảo rằng: “Ta nói nhiều lời mê hoặc người ta như vậy, tại sao lại chẳng có tác dụng gì? Ta đã trấn áp, truy bắt và tàn hại dân được Đức Chúa Trời chọn nhiều như vậy, tại sao vẫn chẳng có tác dụng gì? Tại sao số người tin Đức Chúa Trời ngược lại còn ngày càng tăng lên?”. Trong lòng nó biết Đức Chúa Trời thực sự toàn năng, nó hoàn toàn bị hạ nhục rồi. Vì thế nên mới có câu: “Sa-tan vĩnh viễn là bại tướng dưới tay Đức Chúa Trời!”. Câu này có phải là sự thật không? (Thưa, phải.) Quả thật lời Đức Chúa Trời có thể hoàn thành hết thảy! Sa-tan và hết thảy các ma vương đều đang phục vụ Đức Chúa Trời, đều là vật phục vụ và vật làm nền trong tay Đức Chúa Trời. Những vật phục vụ và vật làm nền này có liên quan gì đến chúng ta không? (Thưa, không.) Không liên quan gì. Chúng ta chỉ cần lo việc tin Đức Chúa Trời, chẳng có liên quan gì đến chúng cả. Cho dù là vua chúa hay là kẻ cướp, thì chúng đều thuộc về Sa-tan, đều là đối tượng bị hủy diệt. Chúng ta chỉ cần một lòng đi theo Đức Chúa Trời, vĩnh viễn chống lại Sa-tan, và chỉ đi theo Đức Chúa Trời mà thôi. Làm như vậy thì sẽ đúng.

Về phương diện tri thức và kinh nghiệm, Ta đã nêu ra một ví dụ, cho nên các ngươi hẳn đã hiểu những điều này chuẩn xác hơn rồi. Thông công những điều này để làm gì? Một mặt là dùng những sự thật và ví dụ thực tế đã nói đến này mà phân định kẻ địch lại Đấng Christ, và nhận thức phương diện tâm tính này của kẻ địch lại Đấng Christ trên bản thân mình. Ngoài ra, bàn về những điều này thì có thể ràng buộc một vài người khỏi làm xằng làm bậy không? (Thưa, có thể.) Trước đây, luôn có một vài người dựa vào kinh nghiệm mà làm bổn phận, họ rất thủ cựu, bám giữ một bộ cách làm riêng của mình, gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác của nhà Đức Chúa Trời, rồi bị xử lý. Họ xem bộ cách làm lỗi thời và kinh nghiệm lỗi thời của mình cao hơn tất cả, chẳng bao giờ suy xét về những điều quan trọng nhất, như xem Đức Chúa Trời phán gì, yêu cầu con người điều gì, hay con người nên tuân thủ nguyên tắc lẽ thật như thế nào. Họ còn ngoan cố bám giữ bộ cách làm lỗi thời, lại còn lấy một bộ lô-gic hoang đường làm căn cứ, như “Ban đầu chúng ta làm như vậy mà”, “Ở quê nhà tôi, tổ tiên đều làm theo cách này”. Tại sao họ luôn nhấn mạnh những lời này? Nó chứng tỏ họ không tiếp nhận những điều mới, không tiếp nhận lẽ thật. Họ nhìn không thấu những chỗ chậm chạp, lạc hậu, hoang đường trong những cách làm lỗi thời này, họ không biết là còn có những cách làm mới, tiên tiến hơn, chuẩn xác hơn và thích hợp hơn. Họ lúc nào cũng thủ cựu, dựa vào kinh nghiệm cũ, lại còn tưởng rằng mình rất tiên tiến và đang thực hành lẽ thật. Đây chẳng phải là một dạng vô lý sao? “Ở quê nhà tôi toàn làm như vậy”, “Trước đây tôi làm theo cách này”, “Bao lâu nay, chúng ta đều làm như vậy”. Những cách làm cũ, những thứ cổ hủ này có thể thay thế nguyên tắc lẽ thật sao? Cách làm cũ có thể đồng nghĩa với việc thực hành lẽ thật sao? Họ chẳng hiểu gì, chẳng nhìn thấu gì, đây chẳng phải là thủ cựu và ngoan cố bám vào cái cũ sao? Dạng người này rất khó tiếp nhận lẽ thật! Ngươi nói xem, bất kể là điều mới hay cũ, ngươi tiếp cận chúng như thế nào? Ngươi xử lý chúng ra sao? Căn cứ để xử lý loại chuyện này là gì? Trong trường hợp mọi người đều mới chỉ biết lơ mơ, thì tiếp cận loại chuyện này như thế nào mới là đúng đắn và hợp nguyên tắc? Ngươi phải hỏi ý kiến những người tương đối lành nghề một lượt trước đã, chỉ cần tìm được người hiểu chuyện thì sẽ có con đường, còn không tìm được người hiểu chuyện thì có thể lên mạng hỏi ý kiến hoặc tra khảo tư liệu, như vậy là hoàn toàn có thể giải quyết được vấn đề. Trong quá trình tìm kiếm, còn phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời, ngưỡng vọng Đức Chúa Trời, để Đức Chúa Trời mở đường cho. Đây gọi là gì? Đây gọi là nguyên tắc thực hành. Có những người tự cho rằng: “Tôi là người chuyên nghiệp trong ngành này, có kinh nghiệm phong phú, còn được giải thưởng trong ngành này, nên tôi có vốn liếng như vậy. Vì công tác này được giao cho tôi, nên tôi chính là người phụ trách, có quyền lực ra quyết định, mọi chuyện đều phải do tôi định đoạt, ai cũng phải nghe tôi chỉ huy và nghe lời tôi. Ai khác nói gì cũng đều vô giá trị, ai lên tiếng bất đồng với tôi thì đều phải im lặng hết!”. Ý nghĩ này có đúng không? Chắc chắn là không đúng, thái độ và tâm tính mà ngươi bộc lộ ra có vấn đề. Trong lòng ngươi cho rằng khi tiếp nhận sự ủy thác này thì ngươi nên nắm quyền. Ngươi sẽ muốn có tiếng nói quyết định, người khác nói gì cũng không được. Dường như ngươi không cần người phối hợp, không cần mọi người phát biểu ý kiến, chuyện gì cũng nghe theo một mình ngươi, cũng do một mình ngươi định đoạt. Đây là tâm tính gì? Đây chẳng phải là quá kiêu ngạo, quá thiếu lý trí sao? Đây chính là tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ. Cũng có khả năng ngươi có tố chất tốt hơn người khác một chút, có chút ngộ tính, còn có chút kinh nghiệm làm việc này. Nhưng có một điểm ngươi phải rõ, đó là những thứ ngươi có này đều không phải là lẽ thật. Nếu ngươi cho rằng mình có tố chất tốt hơn một chút, có chút ngộ tính, chút tài cán, lại còn nắm vững được một chút tri thức, rồi ngươi xem những thứ này là lẽ thật, cảm thấy chính ngươi là lẽ thật, người khác đều phải nghe theo sự chỉ huy của ngươi, thuận phục sự sắp xếp của ngươi, thì đây chẳng phải là tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ sao? Nếu ngươi thực sự có thể hành động như vậy, thì ngươi chính là kẻ địch lại Đấng Christ rồi, tuyệt đối là vậy. Ngươi xem ân tứ của mình là lẽ thật, cái sai nằm ở đâu? Tố chất, ngộ tính, tài cán và tri thức mà ngươi có, những thứ này đâu có sai, vậy trong chuyện này, cái mà chúng ta đang mổ xẻ là gì? Cái mà chúng ta mổ xẻ là tâm tính, chính là một dạng tâm tính bại hoại mà ngươi mang theo đằng sau những thứ này, là tâm tính kiêu ngạo, tâm tính tự cho mình là đúng. Ngươi xem những thứ ân tứ này như là lẽ thật, rồi tưởng rằng mình có những ân tứ này thì chính là có lẽ thật rồi. Ngươi dùng ân tứ mà thay thế lẽ thật, đây là tâm tính gì? Đây có phải là tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ không? Kẻ địch lại Đấng Christ đều xem tư tưởng, học vấn, ân tứ và tài cán của bản thân như lẽ thật, tưởng rằng bản thân có những ân tứ này thì chính là có lẽ thật. Cho nên họ yêu cầu người ta đều phải thuận phục họ, nghe theo sự chỉ huy của họ, chịu phục dưới quyền họ, cái sai của kẻ địch lại Đấng Christ nằm ở đây. Ngươi thực sự có lẽ thật sao? Ngươi không có nhận thức thực sự về Đức Chúa Trời, cũng chẳng có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, càng không phải là người thuận phục Ngài. Ngươi chẳng có chút lẽ thật nào, lại còn có thể kiêu ngạo và tự đại, tự cho mình là đúng, cho rằng bản thân có lẽ thật, rằng người khác đều nên thuận phục ngươi, nghe theo sự chỉ huy của ngươi. Đây chính là kẻ địch lại Đấng Christ chính cống.

Công tác mở rộng phúc âm có đủ loại hạng mục, cần mọi người nghiên cứu, học tập đủ mọi loại kỹ thuật và nghiệp vụ, nhưng có một số người không hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, dễ đi chệch đường, chỉ nghiên cứu nghiệp vụ và kỹ thuật, mà chẳng tiếp nhận lẽ thật chút nào, đây là loại người gì? (Thưa, là người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ và chú trọng vào ân tứ.) Đúng vậy, đây là loại người mà chúng ta đang vạch trần. Loại người này có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, và trong những trường hợp nghiêm trọng thì chính là kẻ địch lại Đấng Christ. Họ muốn lợi dụng cơ hội này mà học những thứ này, rồi sau đó trở thành người giỏi nhất, người học được nhiều nhất và thành thạo nhất trong số hết thảy những người biết loại nghiệp vụ hay kỹ thuật này. Người khác có chuyện gì cũng phải cậy nhờ họ, họ trở thành bậc lãnh đạo giữa nhóm người này, đồng thời còn khiến người khác nghe lời họ, thay vì thực hành lẽ thật. Vấn đề nằm ở đây. Những người này là dạng người gì? Họ là những người chỉ mưu cầu việc học tập và trang bị những loại tri thức, học vấn và kinh nghiệm, làm việc gì cũng dựa vào tố chất, tài cán và ân tứ. Sớm muộn gì họ cũng đi con đường như vậy, đây là chuyện không thể tránh khỏi, đây chính là con đường của Phao-lô. Bất kể trong phương diện hay lĩnh vực nào, thì tri thức và kinh nghiệm mà ngươi nắm vững, cùng với giáo huấn mà ngươi đạt được, đều hơn người khác một chút, nhưng điều này không đủ để cho thấy rằng ngươi đã hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật, càng không thể cho thấy ngươi đã đạt được lẽ thật. Vậy điều gì đủ để chứng tỏ chuyện đó? Chính là trong quá trình học tập những kỹ thuật nghiệp vụ này, ngươi càng hiểu thêm nguyên tắc để làm dạng bổn phận này, và càng hiểu thêm tiêu chuẩn mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu đối với việc làm dạng bổn phận này. Có một vài người, ngươi càng bảo họ học tập tri thức nghiệp vụ thì họ càng chống đối, cảm thấy không có cách nào làm nổi bổn phận này, thậm chí còn nói: “Tin Đức Chúa Trời thì nên thoát ly thế giới ngoại đạo, sao lại còn học những kỹ thuật và tri thức của người ngoại đạo chứ?”. Họ không muốn học chúng. Đây chính là lười biếng, họ làm việc mà không có thái độ gánh vác trách nhiệm, không có lòng trung thành, chút chuyện này mà cũng không muốn bỏ sức làm. Xuất phát điểm của việc học tập nghiệp vụ và kỹ thuật chính là để làm tốt bổn phận. Có rất nhiều tri thức và thường thức ngươi chưa tiếp cận nhưng cần phải học. Đây là yêu cầu và sự ủy thác của Đức Chúa Trời đối với con người, cho nên ngươi học những thứ này không vô ích, học chúng đều là để làm tốt bổn phận. Có một vài người cảm thấy học những kỹ thuật này rồi thì có thể thiết lập chỗ đứng ở trong nhà Đức Chúa Trời, nghĩ như vậy có phải là phiền phức rồi không? Quan điểm như vậy là sai. Có ai có thể đi con đường này không? Ngươi càng cho họ quyền lực lớn hơn, phạm vi công tác rộng hơn và trách nhiệm lớn hơn, thì họ càng gặp nguy hiểm. Nguy hiểm này do đâu mà ra? Đương nhiên là do con người có tâm tính bại hoại, có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, làm việc thì chỉ tập trung vào cách làm, chỉ muốn làm lấy lệ, không tìm kiếm nguyên tắc. Họ không thông qua quá trình làm bổn phận mà hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời hoặc là hiểu và nắm vững nguyên tắc lẽ thật hơn. Họ không tìm kiếm nguyên tắc, cũng không kiểm điểm điểm và xét lại bản thân xem trong quá trình làm bổn phận mình đã bộc lộ những sự bại hoại nào, đã nảy sinh những quan điểm sai trái nào, đã rơi vào tình trạng sai trái nào. Họ chỉ chú trọng cách làm bề ngoài, chỉ chú trọng nắm vững và trang bị các loại tri thức cần đến trong bổn phận. Họ cho rằng: bất kể trong ngành nghề nào, tri thức đều lãnh đạo hết thảy, có tri thức rồi thì sẽ hùng mạnh, có thể tạo chỗ đứng giữa tập thể, bất kể ở trong tập thể nào, chỉ cần có tri thức cao, bằng cấp cao, thì địa vị sẽ cao. Chẳng hạn như trong một bệnh viện, viện trưởng thường sẽ là người giỏi nhất trong mọi mặt nghiệp vụ, kỹ thuật nghiệp vụ cũng giỏi nhất, và họ cho rằng ở nhà Đức Chúa Trời cũng vậy. Cách hiểu này có đúng hay không? Không đúng, như vậy là đi ngược lại câu “trong nhà Đức Chúa Trời thì lẽ thật nắm quyền”. Họ cho rằng trong nhà Đức Chúa Trời thì tri thức nắm quyền, ai có tri thức và kinh nghiệm, ai có tư cách thâm niên, ai có đủ vốn liếng, thì sẽ có chỗ đứng trong nhà Đức Chúa Trời và mọi người phải nghe lời người đó. Quan điểm này có sai hay không? Có một vài người vô thức mà nghĩ như vậy và làm như vậy, họ cứ mưu cầu như vậy, có thể một ngày nào đó sẽ đâm đầu vào tường. Tại sao lại đâm đầu vào tường? Một người không yêu thích lẽ thật, không mưu cầu lẽ thật, và không quan tâm gì đến lẽ thật, thì có thể nhận thức bản thân không? (Thưa, không thể.) Trong trường hợp không nhận thức được bản thân, mà họ trang bị rất nhiều tri thức, trả giá nhất định cho nhà Đức Chúa Trời và có chút công lao, thì họ sẽ biến những thứ này thành cái gì? Họ sẽ biến chúng thành vốn liếng. Trong mắt họ, vốn liếng này là gì? Chính là báo cáo trực tiếp hiện trường về việc thực hành lẽ thật, là chứng cứ cho việc bước vào thực tế lẽ thật và hiểu lẽ thật, họ biến chúng thành những thứ này. Trong lòng mỗi người, việc hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật chính là chuyện tốt, là điều tích cực, đương nhiên trong mắt những người này cũng vậy. Chỉ đáng tiếc là, họ đã nhầm tri thức thành lẽ thật, sai lầm như vậy mà họ còn cảm thấy là tốt, đây chính là điềm báo cho sự nguy hiểm. Loại người nào sẽ làm ra việc như vậy? Người không có hiểu biết thuộc linh đều sẽ làm như vậy, chẳng biết từ lúc nào họ đã bước lên con đường sai lầm rồi, ngươi muốn kéo lại cũng không được. Ngươi thông công lẽ thật với họ, chỉ ra tình trạng của họ, vạch trần họ, thì họ đều không hiểu, không đối chiếu được, đây chính là thiếu hiểu biết thuộc linh nghiêm trọng. Họ xem những tri thức, kinh nghiệm và giáo huấn này là lẽ thật một cách rất tự nhiên. Khi họ xem chúng là lẽ thật rồi, thế nào cũng sẽ xuất hiện một tình huống nào đó, đây là chuyện tất nhiên. Giả dụ Đức Chúa Trời phán một câu, họ cũng nói một câu, quan điểm của hai câu này chắc chắn là khác nhau rồi, vậy trong mắt họ ai mới nói đúng? Họ cho rằng họ đúng, vậy thì họ có thể thuận phục Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Họ sẽ làm gì? Họ sẽ bám chặt vào quan điểm của bản thân, phủ nhận quan điểm mà Đức Chúa Trời phán. Đây có phải là xem bản thân như hóa thân của lẽ thật không? (Thưa, phải.) Cũng giống như người trong Phật giáo, khi cuối cùng đã tu luyện thành công, thì họ vừa phủ nhận Đức Chúa Trời, vừa bắt mọi người đối đãi với họ như Đức Chúa Trời, và xem họ là hóa thân của lẽ thật, thật là quá đỗi hoang đường! Chẳng hạn như, có một vài người đặc biệt thành thạo một phương diện tri thức hoặc nghiệp vụ nào đó, còn Ta là tay ngang trong phương diện này, có một số chuyện liên quan đến nghiệp vụ, Ta sẽ hỏi họ. Ta vừa hỏi, là họ bắt đầu khoe mẽ, đây là loại người gì? Các ngươi nói xem, Ta hỏi họ thì có gì sai sao? (Thưa, không sai.) Vậy tại sao Ta lại phải hỏi họ? Bởi vì có một vài chuyện liên quan đến công tác và nghiệp vụ, Ta không hiểu thì nên đi hỏi. Ngoài ra, Ta biết họ có kinh nghiệm, họ hiểu chuyện này, Ta hỏi họ là hoàn toàn chính đáng. Ý định và cách làm của Ta như vậy có đúng hay không? (Thưa, đúng.) Chuyện này hẳn không có sai lầm gì, phải không? Vậy nên đối đãi chuyện này như thế nào thì đúng đắn? Họ nên nói ra hết những gì họ hiểu, sau đó nên nghĩ như thế nào? Nghĩ như thế nào là đúng, nghĩ như thế nào là sai? Người bình thường và có lý tính sẽ nghĩ như thế nào? Người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ sẽ nghĩ như thế nào? Có những người vừa nghe rằng Ta không hiểu thì liền nói: “Ồ, ngài không hiểu! Có chuyện này ngài không biết, lúc chúng con làm việc này vất vả lắm! Chuyện này ngài đâu biết, ngài đâu có hiểu!”. Họ vừa nói vừa bắt đầu khoe mẽ. Khoe mẽ là thể hiện điều gì? Là trong chuyện này có vấn đề rồi. Nhìn họ bình thường thì rất nhã nhặn, rất sùng đạo, tại sao đột nhiên lại khoe mẽ vậy? (Thưa, vì họ hiểu chút tri thức, có chút kinh nghiệm, nên họ xem bản thân là lẽ thật.) Đúng vậy. Trước đây, người khác hỏi họ thì họ chẳng để tâm. Ta vừa hỏi thì họ đã cảm thấy: “Ngài chẳng phải là lẽ thật sao? Chẳng phải cái gì ngài cũng biết sao? Sao mà một chút chuyện này mà ngài cũng không biết? Ngài mà không biết thì tôi cao hơn ngài rồi”. Họ muốn khoe khoang một chút. Có phải họ nghĩ như vậy không? (Thưa, phải.) Họ không cảm thấy vinh hạnh, mà lại bộc phát một dạng tâm tính Sa-tan, trong chốc lát, họ cảm thấy giữa trời đất, họ thật vĩ đại biết bao! Đây có phải là ảo tưởng không? Có phải là ẩu tả không? (Thưa, phải.) Ta cũng thấy vậy, chỉ có kẻ ẩu tả mới nghĩ như vậy. Chẳng phải ngươi chỉ hiểu được chút nghiệp vụ sao? Chuyện người ta không biết thì nhiều lắm, ngươi nên tự mình biết mình một chút đi. Có những người biết một chút về vải vóc, sờ một cái là cơ bản biết đây là chất liệu gì. Nếu ngươi khen họ một câu: “Xem ra anh rành vải vóc quá”, thì họ sẽ nói: “Phải rồi, các anh chưa học qua nên không biết. Tôi học qua rồi, tôi rành nghề hơn các anh. Không phải tôi xem thường anh đâu, nhưng anh còn phải học nhiều”. Lời như vậy có cực kỳ đáng ghê tởm không? Lại có người từng làm qua việc nấu ăn, liền bắt đầu thể hiện bản thân, nói mình có thể nấu ra bao nhiêu món, xào ra bao nhiêu món. Còn có người lúc ở nông thôn từng làm thầy lang vườn, anh chị em có chút đau đầu choáng váng thì nhờ họ xoa bóp, hoặc châm cứu, giác hơi. Khi anh chị em hỏi xem họ có trị được không, thì họ bảo: “Tùy tiện trị mà được sao? Các anh đều không biết gì, dân học y chúng tôi thì ai cũng biết thân thể con người phức tạp lắm. Việc Đức Chúa Trời tạo thành con người có nhiều bí ẩn lắm. Châm cứu hay giác hơi thì đều phải xem tình huống thế nào”. Thực ra họ cũng chỉ biết nửa vời, cũng không thể phán rõ là bệnh gì, và chỉ trị được vài loại bệnh mà thôi, nhưng để vớt vát thể diện mà họ muốn nâng cao mình lên, cố làm ra vẻ, mạo nhận là dân lành nghề. Biểu hiện của những dạng người này cho thấy nhân loại bại hoại đều có tâm tính Sa-tan, đều có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ. Còn có những trường hợp nghiêm trọng hơn, đó là họ giả vờ đến cùng, mạo nhận đến cùng, bất kể người khác có khen họ hay không, trong sâu thẳm nội tâm họ luôn có một ý nghĩ tối tăm, là ý nghĩ gì? “Tôi vĩnh viễn không cho bất kỳ ai biết thân phận thực sự và tài cán thực sự của tôi”. Chẳng hạn như, họ là một thầy lang vườn, nhưng lại luôn muốn người khác cho rằng họ là danh y. Họ vĩnh viễn không muốn để người khác biết họ là thầy lang vườn, vĩnh viễn không muốn để người khác biết rốt cuộc họ có thể khám bệnh hay không. Họ sợ người ta biết được chân tướng của họ. Họ bao bọc bản thân đến mức độ nào? Đến mức khiến hết thảy những ai tiếp xúc với họ đều cho rằng họ chẳng bao giờ làm sai việc gì, chẳng bao giờ có khuyết điểm, hễ học cái gì là rành cái đó, hễ người khác cần gì thì họ đều làm được. Người khác hỏi họ biết nấu ăn không, thì họ nói biết, hỏi họ biết nấu bàn tiệc Mãn-Hán không, thì họ nghĩ bụng: “Cái này mình không biết”, nhưng người khác hỏi thêm thì họ sẽ bảo là “Biết!”, đến lúc người ta bảo họ nấu, thì họ tìm cớ chối từ. Đây chẳng phải là lừa người sao? Giả vờ bản thân cái gì cũng biết, cái gì cũng làm được, cái gì cũng cừ, đây chẳng phải là kẻ ẩu tả sao? Bất kể là kẻ ẩu tả, hay là có chút tố chất, chút tài cán hoặc ân tứ, thì loại người địch lại Đấng Christ đều có một điểm chung là gì? Chính là họ muốn mạo nhận rằng cái gì họ cũng biết, rằng họ là lẽ thật. Mặc dù họ không nói thẳng ra họ là lẽ thật, nhưng họ muốn mạo nhận bản thân là thực tế của hết thảy những điều tích cực, mạo nhận họ việc gì cũng làm được, như vậy chẳng phải ngụ ý rằng họ là hóa thân của lẽ thật sao? Họ cho rằng bản thân là hóa thân của lẽ thật rồi, cho rằng bản thân họ nói gì cũng đúng, cũng là lẽ thật.

Có những người được Bề trên sắp xếp cho làm một việc đặc biệt, họ nghe xong thì nghĩ bụng: “Bề trên giao phó việc này cho mình, vậy quyền lực của mình sẽ càng lớn, sẽ có cơ hội thi triển tài cán và quyền lực. Phải khiến những người bên dưới biết sự lợi hại của mình mới được”. Khi tiếp xúc với anh chị em, thì họ ra lệnh: “Đi đi, làm cho xong việc này”. Người ta hỏi họ việc này nên làm thế nào, thì họ nói: “Anh có làm hay không? Anh không làm thì tôi loại anh ra! Đây là mệnh lệnh từ bề trên, anh mà làm chậm trễ việc này thì có gánh tội nổi không? Bề trên mà truy cứu, thì ai gánh nổi trách nhiệm này đây?”. Các anh chị em mới bảo: “Chúng tôi chỉ muốn làm cho rõ việc này, tìm kiếm nguyên tắc trong việc này, chứ đâu muốn hồ đồ làm bừa một cái cho xong, hay là làm kiểu gì cũng được. Chuyện gì cũng phải dựa vào nguyên tắc mà làm. Bất kể là chuyện gì, gấp rút thế nào, quan trọng thế nào, do ai giao phó, thì giữ vững nguyên tắc vĩnh viễn là lẽ thật bất biến. Đây là bổn phận của chúng ta, chúng ta phải gánh vác trách nhiệm và tìm kiếm nguyên tắc, đây chính là yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với chúng ta. Chúng ta phải mang thái độ có trách nhiệm mà tìm kiếm, hỏi cho thật rõ ràng. Làm vậy đâu có gì sai. Anh cần phải nói rõ chuyện này cho chúng tôi”. Họ mới nói: “Chuyện này thì có gì để nói chứ? Bề trên nói mà sai sao? Làm gấp cho tôi!”. Anh chị em bảo họ: “Vì Bề trên bảo vậy, chắc chắn chúng tôi sẽ gấp rút làm. Nhưng anh nói cho chúng tôi nên làm thế nào được không? Có quy định cụ thể, chỉ dẫn cụ thể nào không?”. Họ nói: “Các anh thấy sao thì cứ làm vậy. Bề trên cũng không nói với tôi chi tiết đến vậy. Tự các anh ngẫm nghĩ đi!”. Đây là loại người gì? Chúng ta khoan nói đến động cơ và nguồn gốc của họ khi làm vậy, mà trước hết hãy nhìn xem tâm tính của họ như thế nào. Cách làm của họ có tốt hay không? (Thưa, không tốt.) Làm sao mà họ nảy sinh ra cách làm như vậy? Cách làm như vậy có bình thường không? (Thưa, không bình thường.) Là không bình thường. Đây là thần kinh bất thường hay là tâm tính có vấn đề? (Thưa, là tâm tính có vấn đề.) Đúng vậy, là tâm tính có vấn đề. Có một cách diễn đạt là “chờ đợi cơ hội”, nghĩa là trước đây họ không có cơ hội thích hợp để “phát huy rạng rỡ” quyền lực của mình, bây giờ có dạng cơ hội như vậy rồi, thì họ sẽ nắm lấy và phát huy nó. Đây là tâm tính gì? Bất kể ngươi tiếp nhận bổn phận gì từ Bề trên, nguyên tắc hành động đều không được thay đổi. Bề trên giao cho ngươi công tác hay nhiệm vụ nào, thì đó chỉ là một dạng ủy thác cho ngươi, cũng là bổn phận mà ngươi nên làm. Tuy nhiên, sau khi tiếp nhận sự ủy thác này từ Bề trên và gánh vác công tác đó rồi, thì ngươi có thể nói rằng mình đã trở thành đại sứ toàn quyền và chuyên gia lẽ thật sao? Ngươi có quyền lực rồi thì có thể chỉ huy người khác, tùy ý làm càn sao? Ngươi được phép dựa vào tính khí, sở thích và phương thức riêng của bản thân để tùy ý hành động sao? Bề trên trực tiếp giao phó cho ngươi làm một việc, so với chuyện thông thường ngươi làm bổn phận bình thường của mình, thì có gì khác nhau không? Không có gì khác nhau cả, đều là bổn phận của ngươi. Bởi vì cả hai đều là bổn phận của ngươi, vậy nguyên tắc hành động có thay đổi không? Không thay đổi. Cho nên, bất kể ngươi tiếp nhận bổn phận của mình từ lúc nào, thì thực chất và tính chất bổn phận của ngươi vẫn như vậy. Lời này của Ta là có ý gì? Nghĩa là làm bất cứ bổn phận nào thì đều phải dựa vào nguyên tắc mà làm, chứ đừng nói là Bề trên trực tiếp giao cho ngươi việc này thì ngươi được tùy ý làm càn, muốn làm thế nào cũng có lý. Cho dù ngươi có chút kỹ năng đi nữa, chẳng lẽ ngươi được vượt ra khỏi con đường tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật sao? Ngươi vẫn là một người trong nhân loại bại hoại, ngươi cũng chưa biến thành đức chúa trời, ngươi đâu thuộc một nhóm người đặc biệt, ngươi vẫn là ngươi, vĩnh viễn là con người mà thôi. Trong Kinh Thánh có ghi lại không ít chuyện về người được Đức Chúa Trời đích thân kêu gọi, có Môi-sê, có Nô-ê, còn có Áp-ra-ham, Gióp, v.v., cũng có rất nhiều người đã thưa chuyện với Đức Chúa Trời, nhưng trong số những người này, không có ai tự nhận mình là một nhân vật đặc biệt hay là thuộc về một nhóm người đặc biệt. Trong số những người này, có người tận mắt thấy Đức Chúa Trời hiện ra trong ngọn lửa, có người tận tai nghe thấy tiếng Đức Chúa Trời, có người nghe sứ giả truyền đạt lời Đức Chúa Trời, còn có người đích thân tiếp nhận sự thử luyện của Đức Chúa Trời. Vậy Đức Chúa Trời có xem ai trong số này là người khác với nhân loại bình thường không? (Thưa, không.) Không có. Đức Chúa Trời không nhìn nhận như vậy. Nếu ngươi muốn lĩnh hội lời này như vậy, luôn xem mình là nhân vật đặc biệt, thì đây là tâm tính gì? (Thưa, là tâm tính địch lại Đấng Christ.) Đây chính là tâm tính địch lại Đấng Christ, là chuyện quá đáng sợ! Ngay cả khi Đức Chúa Trời đặt tay lên đầu ngươi và ban cho ngươi thẩm quyền, cho ngươi thi triển được một vài dị năng nhờ thẩm quyền hoặc là làm một công tác nào đó, thì ngươi vẫn vĩnh viễn là con người, chứ không biến thành hóa thân của lẽ thật. Lời này có ý gì? Lời này nghĩa là ngươi vĩnh viễn không có tư cách để lấy danh nghĩa Đức Chúa Trời mà làm trái lẽ thật và dựa vào tính khí của mình mà hành động, làm như vậy là hành vi của thiên sứ trưởng. Đức Chúa Trời có lúc dùng một vài phương thức đặc biệt hoặc kênh đặc biệt để giao phó cho một vài người làm một vài chuyện đặc biệt, một vài công tác đặc biệt, hoặc là truyền đạt một vài sự kiện hay nhiệm vụ đặc biệt. Đây là vì Đức Chúa Trời cho rằng những người này đảm đương được công tác này, có thể hoàn thành công tác mà Đức Chúa Trời giao phó này, và họ đáng tin cậy, chỉ vậy mà thôi. Đâu phải vì họ được Đức Chúa Trời đích thân giao phó, đã nghe tiếng phát ra từ chính miệng Đức Chúa Trời và thưa chuyện với Đức Chúa Trời, mà họ trở nên khác với người bình thường; họ cũng sẽ không thăng cấp từ một loài thọ tạo thông thường lên thành loài thọ tạo khác biệt hoặc cao cấp, vĩnh viễn không có chuyện đó. Vì vậy, giữa nhân loại và trong nhà Đức Chúa Trời, bất kể ai đó có những thứ tài cán, thân phận, địa vị, kinh nghiệm, giáo huấn, v.v. đặc biệt thế nào đi nữa, thì đều không thể có chuyện họ chuyển biến thành hóa thân của lẽ thật. Nếu như có người tùy ý mạo nhận như vậy, thì không còn nghi ngờ gì nữa, dạng người này chính là kẻ địch lại Đấng Christ. Có những người thỉnh thoảng bộc lộ dạng tâm tính như vậy, nhưng vẫn có thể tiếp nhận lẽ thật, có thể hối cải. Những người này có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng họ vẫn có hy vọng được cứu rỗi. Còn nếu họ mạo nhận là hóa thân của lẽ thật một cách nhất quán như thế, lại còn cho rằng như vậy là đúng đắn, có chết cũng không hối cải, thì họ chính là kẻ địch lại Đấng Christ chính cống. Hễ là kẻ địch lại Đấng Christ thì không tiếp nhận lẽ thật chút nào, dù có bị tỏ lộ và đào thải thì cũng không thể nhận thức bản thân, không thực sự hối hận. Có những lãnh đạo và người làm công chỉ là có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, nguyên tắc hành động và con đường họ chọn giống hệt với kẻ địch lại Đấng Christ, đều không có lý tính, không hiểu lẽ thật, cũng không hiểu mọi việc mình làm rốt cuộc có tính chất gì, gây ra hậu quả gì, đều làm xằng làm bậy. Tuy nhiên, điểm khác biệt là khi Ta nói những lời này thì một vài người còn có thể tiếp nhận đôi chút, lời của Ta đối với họ còn có tác dụng thúc dục và cảnh cáo. Mặc dù những người này có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng họ vẫn có thể tiếp nhận một chút lẽ thật, một chút sự tỉa sửa, có thể có chút hối cải và ăn năn thực sự, như vậy là khác với kẻ địch lại Đấng Christ rồi, những người này thuộc loại người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ. Có thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ và có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, hai điều này có điểm chung, căn bản giống nhau. Điểm chung của kẻ địch lại Đấng Christ và người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ chính là cả hai đều có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ. Tuy nhiên, trong đó có những người có thể tiếp nhận lẽ thật, có sự hối hận chân thật, dạng người này chưa phải là kẻ địch lại Đấng Christ, họ thuộc số người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ thôi. Đây chính là điểm khác biệt giữa kẻ địch lại Đấng Christ và người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ. Hễ ai không thể tiếp nhận lẽ thật chút nào và không có sự hối hận chân thật, thì đều nằm trong số những kẻ địch lại Đấng Christ chính cống. Còn hễ có thể tiếp nhận lẽ thật và có sự hối hận chân thật thì là nằm trong số những người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, vẫn còn cứu vãn được. Các ngươi nên thấy rõ sự khác biệt giữa hai loại người này, đừng có mù quáng mà xác định tính chất của họ. Rốt cuộc, các ngươi thuộc về loại người nào? Nếu có một vài người nói: “Sao mà tôi cảm thấy mình giống hệt kẻ địch lại Đấng Christ vậy? Dường như chẳng có gì khác biệt”. Cảm giác đó chuẩn xác đấy, nghĩa là không có sự khác biệt rõ ràng. Ngươi mà có thể tiếp nhận lẽ thật, có sự hối hận chân thật, thì đây chính là điểm khác biệt duy nhất, cũng là điểm khác biệt về nhân tính. Kẻ địch lại Đấng Christ là kẻ ác, còn người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ thì không bị xem là kẻ ác, chỉ là họ có tâm tính bại hoại thôi, điểm khác biệt là đây. Về tâm tính bại hoại thì cả hai không có khác biệt gì, đều giống nhau cả, đây là điểm chung của cả hai. Lời Đức Chúa Trời vạch rõ đủ loại tình hình của nhân loại bại hoại thì hoàn toàn phù hợp với sự thật, không sai lệch chút nào. Dân được Đức Chúa Trời chọn đọc lời Đức Chúa Trời rồi thì đều đồng cảm, đều có một nhận thức giống nhau, chỉ là trình độ trải nghiệm nông sâu khác nhau. Họ đều có thể nhận thức được sự kiêu ngạo và thiếu lý trí của mình, đều nhận thức được rằng tâm tính bại hoại của mình quá nhiều, rằng nhân loại đã bị Sa-tan làm bại hoại quá sâu sắc, không dễ dàng gì để Đức Chúa Trời cứu rỗi con người. Nói nhiều đến vậy rồi mà vẫn chưa nói xong đâu. Họ đều có thể nhận thức được sự bần cùng đáng thương, mù quáng vô tri của con người, đều có thể nhận thức được rằng Sa-tan đã làm bại hoại nhân loại quá sâu sắc, căn nguyên sự tà ác của nhân loại bại hoại chính là do Sa-tan làm bại hoại và khống chế nhân loại. Sa-tan làm bại hoại nhân loại rồi, thì bên trong con người đã có độc tố của Sa-tan, nảy sinh tâm tính Sa-tan, đánh mất lý tính, lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường, không có năng lực phân biệt phải trái đúng sai. Đức Chúa Trời mà không ấn định luật pháp cho con người, thì con người sẽ không biết đánh người là đúng hay sai, giết người là đúng hay ai, trộm cắp và dâm loạn là đúng hay sai, lại còn cho rằng làm vậy là có lý và nên làm như vậy. Tuy nhiên, từ sau khi Đức Chúa Trời ban bố luật pháp và giới răn, con người biết rằng làm những việc đó là phạm tội, nhờ đó lý tính của con người được bình thường đôi chút. Đương nhiên lý tính này là mức độ nông cạn nhất, sau khi hiểu lẽ thật rồi thì sẽ tự nhiên trở nên sâu sắc. Hiện tại, nếu con người có thể hiểu thêm các hạng mục lẽ thật, nhận thức bản thân, tìm được vị trí chuẩn của mình, đánh giá chuẩn xác xem tố chất, ngộ tính, năng lực lĩnh hội lẽ thật của mình rốt cuộc cao đến đâu, và nếu họ có thể dùng lẽ thật mà đánh giá và căn cứ vào lời Đức Chúa Trời để hiểu cho rõ xem trong đủ loại thái độ của nhân loại đối với Đức Chúa Trời thì rốt cuộc cái nào là tích cực, cái nào là tiêu cực, cái nào là quan niệm và tưởng tượng, cái nào hợp lẽ thật, vậy thì lý tính của con người sẽ càng thêm bình thường. Cho nên, chỉ lẽ thật mới có thể khiến cho con người có được sự sống mới. Tuy nhiên, nếu ngươi muốn trang bị những tri thức này, chú trọng những cách làm này, luôn phô trương bản thân, luôn thể hiện bản thân, luôn khoe khoang chút tri thức và học vấn về căn bản chẳng là gì của mình, lại còn không mưu cầu lẽ thật, thì ngươi có thể đạt được sự sống mới này không? Không đạt được đâu, đó chỉ là mơ tưởng hão huyền. Không những ngươi đạt không được sự sống mới, mà còn đánh mất cơ hội được cứu rỗi, đây là chuyện quá nguy hiểm!

Mỗi một người các ngươi đều đã nghe nhiều bài giảng về lẽ thật rồi, ít nhiều đã có chút phân định về đủ loại người, nhưng lại không biết phân định kẻ ác và kẻ xấu, cũng không biết phân định lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ. Hiện tại những người không tiếp nhận lẽ thật chút nào, lại còn làm xằng làm bậy, gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác của Đức Chúa Trời, đều dần dà bị nhà Đức Chúa Trời thanh lọc đi. Điều này cho thấy công tác của Đức Chúa Trời đã đạt đến bước đó rồi và dân được Đức Chúa Trời chọn đã bắt đầu tỉnh thức. Trước đây, khi Ta tiếp xúc với một số người, thì cảm thấy trên người họ có một dạng “mùi”, là mùi gì? Nó giống như mùi của những loài dã thú và động vật hung tợn, những con thú không chờ người ta đến trước mặt nó thì đã dựng lông lên, rồi gầm rú. Con người cũng có những hành vi nhất định giống với động vật. Những hành vi này nảy sinh như thế nào? Chính là nảy sinh từ trong tâm tính Sa-tan bại hoại của con người. “Mùi” mà Ta nói là gì? Chính là ngươi nhìn vào mắt họ thì không thấy được sự chân thành, thay vào đó là ánh mắt họ cứ trơ ra, vật vờ vô định. Họ cảm thấy không dò thấu được ngươi, nên ánh mắt họ nhìn ngươi rất vật vờ vô định. Từ trong lời nói của họ, ngươi cũng không nghe ra được thái độ thẳng thắn, bởi vì sâu thẳm nội tâm của họ đâu có thẳng thắn. Không thẳng thắn nghĩa là gì? Nghĩa là bất kể tiếp xúc với ai, sâu thẳm nội tâm họ đều có một phòng tuyến, và ngươi có thể nhìn ra phòng tuyến này từ ánh mắt hay giọng điệu và cách nói của họ, nghĩa là họ có dạng mùi này, khiến người ta có cảm giác rằng dù họ đã nghe giảng đạo nhiều như thế, nhưng vẫn chẳng hiểu lẽ thật, chẳng đi con đường được cứu rỗi. Bất kể ngươi thông công lẽ thật với họ thế nào, vạch trần tâm tính bại hoại của con người ra sao, chân thành đối đãi với họ thế nào, cung ứng, chăn dắt và giúp đỡ họ ra sao, thì họ đều không đổi sang thái độ chân thành. Vậy trong họ có những thứ gì? Có sự đề phòng, hoài nghi, đây là những thứ thường thấy nhất, còn có một dạng tự vệ và luôn muốn người khác xem trọng mình. Vì vậy mà những gì bộc lộ ra nơi lời nói, ánh mắt, biểu cảm của họ rất không tự nhiên, nghĩa là những gì ngươi nhìn ra được từ nơi ánh mắt và biểu cảm của họ có khác biệt so với những gì họ nghĩ trong sâu thẳm nội tâm. Bất kể là người ta nhút nhát, hay e dè cẩn thận, hay là trong lòng có khó khăn, thì tóm lại, nếu không nhìn thấy được sự thẳng thắn nơi họ thì đó có phải là vấn đề không? (Thưa, phải.) Đây chính là vấn đề. Vậy làm sao nhìn ra được những thứ này? Nhìn ra từ biểu hiện và cách nói chuyện của người ta. Họ không nghĩ gì nói nấy, thay vào đó lại chọn một vài cách nói mà họ cho là thích hợp, từ sớm họ đã ngẫm nghĩ những thứ để thông công với ngươi, đây chính là một dạng thuật phòng thân của người ngoại đạo. Chính là mỗi khi gặp chuyện gì, trước hết họ xù lông lên như con nhím mà bảo vệ bản thân cho tốt. Tình hình thực tế của họ, gồm bản lĩnh, năng lực, những việc sai từng làm, sự hoang mang, thậm chí là việc lừa dối và giả hình của họ, tất cả đều được bao bọc tận trong xương tủy họ, không cho người ngoài nhìn thấy, kể cả Ta họ cũng không cho thấy. Họ cực lực che đậy và bao bọc bản thân, lại còn tự vệ. Những thứ này từ đâu mà ra? Sau khi bị Sa-tan làm bại hoại thì con người có những thứ này. Ban đầu Đức Chúa Trời tạo dựng A-đam và Ê-va, rồi dẫn dắt họ sống ở Vườn Ê-đen, cho họ biết quả của cây nào thì được ăn, quả của cây nào thì không được ăn, họ trần truồng đứng trước mặt Đức Chúa Trời mà chẳng có cảm giác xấu hổ. Họ nghĩ sao về điều này? Đức Chúa Trời tạo dựng họ như thế, Ngài ban cho họ cái gì thì họ có cái đó, không cần phải trốn tránh Đức Chúa Trời, họ không có ý nghĩ trốn tránh đó. Cho nên, bất kể là khi ở trước mặt Đức Chúa Trời họ như thế nào, thì họ đều thản nhiên, có thể nhìn thấy sự chân thành trong mắt họ, sâu thẳm nội tâm của họ không có sự đề phòng, cũng không có bức tường ngăn cách với Đức Chúa Trời. Nghĩa là họ ở trước mặt Đức Chúa Trời thì không cần bảo vệ bản thân, bởi vì trong sâu thẳm nội tâm của họ biết rằng Đức Chúa Trời không có gì đe dọa đối với họ, họ tuyệt đối an toàn. Đức Chúa Trời chỉ bảo vệ họ, yêu quý họ và yêu chiều họ, Ngài tuyệt đối sẽ không làm hại gì họ, đây là cách nghĩ cơ bản nhất và vững chắc nhất trong sâu thẳm nội tâm của họ. Tuy nhiên, tình hình này bắt đầu thay đổi từ lúc nào? (Thưa, từ khi họ ăn trái của cây biết thiện ác.) Ăn trái của cây biết thiện ác, thực ra đây là một điều mang tính tượng trưng. Nó có nghĩa là từ khi Sa-tan bắt đầu cám dỗ Ê-va, họ đã bị Sa-tan cám dỗ từng chút một, họ phạm tội, làm việc sai trái, đi con đường sai lầm, sau đó độc tố của Sa-tan tiến vào trong họ. Ngay sau đó, lúc Đức Chúa Trời còn chưa đến, thì họ thường xuyên trốn tránh Ngài, không muốn để Ngài tìm thấy họ. Tại sao họ lại có thể làm vậy? Họ cảm thấy mình có khoảng cách với Đức Chúa Trời. Khoảng cách này nảy sinh như thế nào? Chính là trong họ có một thứ khác đi rồi, Sa-tan đã cho họ một dạng tư tưởng và quan điểm, chọ họ một dạng sự sống, khiến họ hoài nghi Đức Chúa Trời, đề phòng Đức Chúa Trời, sau đó họ liền ý thức được, tự nhủ không biết Đức Chúa Trời thấy mình trần truồng thì có cười nhạo không. Cách nghĩ này từ đâu mà có? (Thưa, từ Sa-tan.) Lúc Sa-tan chưa cám dỗ thì họ có nghĩ như vậy không? Lúc đó trong họ có sự sống nguyên thủy nhất mà Đức Chúa Trời ban, họ không sợ bị Đức Chúa Trời cười nhạo, cũng không có ý nghĩ này. Nhưng sau khi bị Sa-tan cám dỗ, họ bắt đầu nảy sinh sự thay đổi. Trước tiên họ nghĩ: “Mình chẳng mặc gì, Đức Chúa Trời mà thấy thì có cười nhạo không? Mình như vậy có phải là không biết xấu hổ không?”. Một loạt câu hỏi nảy sinh trong đầu óc họ. Sau khi nảy sinh những cách nghĩ này rồi, thì họ vô thức trốn tránh Đức Chúa Trời. Chắc chắn họ nghĩ: “Khi nào Đức Chúa Trời đến? Lỡ như Đức Chúa Trời đến thì mình nên làm gì? Mình phải nhanh trốn đi thôi!”. Họ cảm thấy lúc nào cũng phải trốn. Đây có phải là tâm tính bại hoại không? (Thưa, phải.) Căn nguyên sản sinh tâm tính bại hoại này chính là sự cám dỗ của Sa-tan. Khi đề phòng và trốn tránh Đức Chúa Trời, lòng họ còn có thể tín nhiệm Đức Chúa Trời nữa sao? Còn có thể cậy dựa Đức Chúa Trời sao? (Thưa, không còn nữa.) Vậy còn lại điều gì? (Thưa, sự đề phòng.) Chỉ còn lại sự đề phòng, nghi hoặc, còn có sự xa cách, sợ hãi, chất vấn, chúng đều đến cả. Thậm chí họ còn nghĩ: “Đức Chúa Trời có làm hại chúng ta không? Chúng ta trần truồng, không có thứ gì phòng thân, Đức Chúa Trời có thể đánh chúng ta không? Có thể giết chúng ta không?”. Họ chẳng bao giờ nghĩ rằng tính mạng của họ là do Đức Chúa Trời ban, Đức Chúa Trời có thể tùy tiện giết họ sao? Trong lòng họ mơ hồ và hỗn loạn rồi. Nhân loại bị Sa-tan làm bại hoại cho đến tận ngày nay, có thể thấy được thái độ của con người đối với Đức Chúa Trời từ trong ánh mắt họ, nó chẳng hề thay đổi. Sự chân thành đã không còn, sự tin tưởng, tín nhiệm và cậy dựa chân thực đối với Đức Chúa Trời cũng không còn nữa. Căn nguyên chuyện này nằm ở đâu? (Thưa, là do Sa-tan làm bại hoại.) Đúng vậy, chính là do Sa-tan làm bại hoại, Sa-tan đã lừa hại con người rồi! Con người cảm thấy khoảng thời gian lúc chưa bị Sa-tan làm bại hoại thật là tốt đẹp, thực ra, nếu so với lúc sau khi con người hiểu lẽ thật và nhận thức Đức Chúa Trời, thì tình hình trước kia vẫn không tốt bằng lúc được cứu rỗi. Nếu được chọn, ngươi sẽ chọn tình huống nào? (Thưa, lúc sau khi được cứu rỗi.) Thực ra, chọn cái nào đều không thích hợp, con người không có cách nào để chọn, đây là chuyện do Đức Chúa Trời tiền định, số mệnh của nhân loại là vậy. Lúc chưa bị Sa-tan làm bại hoại, cho dù trong con người có sự tín nhiệm, cậy dựa đối với Đức Chúa Trời, nhưng nhân loại mới được tạo dựng không hiểu lẽ thật, không biết Đức Chúa Trời là ai. Còn con người hiện tại ít nhất cũng có một khái niệm, họ biết con người là do Đức Chúa Trời tạo dựng, biết con người là loài thọ tạo còn Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, Đức Chúa Trời cai quản tất cả. Còn lúc trước thì con người không biết những điều này, họ rất đơn giản, không sợ Đức Chúa Trời thấy mình hay chê cười mình, có chuyện gì cũng tìm đến Đức Chúa Trời, họ có niềm tin đơn giản như vậy đấy. Nhưng họ có biết Đức Chúa Trời là ai không? Không biết. Cho nên, đối với nhân loại mà nói, hết thảy công tác Đức Chúa Trời làm có giá trị thâm sâu, ý nghĩa trọng đại, và đều là tốt đẹp. Nói về lịch sử con người phản nghịch Đức Chúa Trời, các ngươi có thấy thương cảm lắm không? Quan hệ thân mật một thời giữa Đức Chúa Trời với con người lại trở thành xa lạ, Đức Chúa Trời thật lòng bảo vệ và yêu chiều con người, thế mà con người lại hoài nghi, trốn tránh, xa cách Đức Chúa Trời, thậm chí còn thù địch với Đức Chúa Trời. Nói ra chuyện này thật sự quá đỗi thương tâm. Nhưng chúng ta có hận thì chỉ hận Sa-tan mà thôi, chính Sa-tan làm bại hoại nhân hoại khủng khiếp đến vậy. Mặc dù Sa-tan làm bại hoại nhân loại đến vậy, Đức Chúa Trời vẫn có biện pháp để cứu rỗi con người. Bất kể Sa-tan có quấy nhiễu thế nào cũng không ảnh hưởng được công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời, đây chính là sự toàn năng và thẩm quyền của Đức Chúa Trời.

Kẻ địch lại Đấng Christ mạo nhận là hóa thân của lẽ thật khi có được chút ít kinh nghiệm, tri thức và giáo huấn. Tiểu mục này chúng ta đã thông công khá đủ rồi, từ trong đó, các ngươi thu được thông tin gì? Hiểu được những lẽ thật nào? (Thưa, không được chú trọng tri thức văn hóa.) Đây là một phương diện. Còn gì nữa? (Thưa, con người vĩnh viễn không phải là lẽ thật, không được mạo nhận Đức Chúa Trời.) Mạo nhận lẽ thật, tự nó không phải là điều tích cực gì, lẽ thật không phải thứ để mạo nhận, lẽ thật là thực chất của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời cung ứng cho ngươi, ngươi đạt được một chút lẽ thật là đã không tệ rồi. Chứ con người còn muốn biến thành hóa thân của lẽ thật thì là chuyện bất khả thi, câu nói đó căn bản không đứng vững được. Ngoài ra, người ta tin Đức Chúa Trời và muốn được cứu rỗi thì phải học cách làm người cho tới nơi tới chốn, đừng mưu cầu thứ gì hoàn hảo. Cái từ “hoàn hảo” này có lẽ có tồn tại, nhưng giữa nhân loại thì chuyện “hoàn hảo” này vĩnh viễn không đứng vững được. Chỉ có nơi Đức Chúa Trời mới có sự hoàn hảo. Nhân loại đầy rẫy sự bại hoại mà còn có sự hoàn hảo sao? Hết thảy mọi sự Đức Chúa Trời tạo dựng đều thập toàn thập mỹ, đấy gọi là hoàn hảo. Cá bơi trong biển, chim bay trên trời, cầm thú chạy nhảy trên mặt đất, những thứ này đều hoàn hảo, ngươi có thấy điều gì không tốt không? Còn có hết thảy mọi sinh vật hình thành nên chuỗi sinh vật, thật quá hoàn hảo! Nhân loại bại hoại chỉ có thể phá hoại, phá hoại cho nó không hoàn hảo, có khiếm khuyết, có thiếu sót. Thật đúng là quá ích kỷ và đê tiện rồi! Hết thảy những sự mà Đức Chúa Trời tạo dựng đều tốt, lá cây có thiên hình vạn trạng, động vật lớn nhỏ có đủ mọi dạng hình thể, đủ mọi dạng công năng. Đức Chúa Trời nghĩ quá chu đáo cho nhân loại, chỉ là nhân loại bị Sa-tan làm bại hoại rồi thì không biết quản lý vạn vật, lại đi chà đạp vạn vật, uổng phí sự hao tâm tổn trí của Đức Chúa Trời. Nhân loại không trân quý hết thảy những sự này, phung phí cực độ, phá hoại hết mọi tài nguyên, kết quả thế nào? Kết cục cuối cùng là gì? Gieo gió thì gặt bão! Môi trường bị phá hoại, chuỗi thức ăn cũng bị phá hoại, không khí thì ô nhiễm, nước cũng ô nhiễm, không còn thực phẩm tự nhiên nữa, muốn uống nước sạch cũng không có mà uống. Vì vậy, từ “hoàn hảo” này không tồn tại nơi nhân loại bị Sa-tan làm bại hoại. Bất kỳ con người nào mượn danh nghĩa mưu cầu lẽ thật mà nói rằng mình hoàn hảo, nói mình mưu cầu sự hoàn hảo, thì câu nói đó không đứng vững được, là lời nói dối lừa người, mê hoặc người. Thế mà nhân loại bại hoại còn muốn mạo nhận là hóa thân của lẽ thật! Làm biết bao việc xấu như vậy mà còn muốn mạo nhận là hóa thân của lẽ thật, chẳng phải bản tính Sa-tan của họ chẳng thay đổi gì sao? (Thưa, phải.) Không có chút lẽ thật nào mà còn muốn mạo nhận là hóa thân của lẽ thật, chủng loài Sa-tan đúng là quá đỗi mặt dày vô sỉ!

Ngày 20 tháng 11 năm 2019

Trước: Mục 8. Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời (Phần 2)

Tiếp theo: Bài bàn thêm 1: Lẽ thật là gì

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con và hát những bài ca mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Tôi đã quay về với Đức Chúa Trời Toàn Năng như thế nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger