3. Các bạn chứng thực rằng Đức Chúa Jêsus đã trở lại trong xác thịt. Vậy thì hiện nay Chúa đang ở đâu? Tại sao chúng tôi chưa nhìn thấy Ngài? Trăm nghe không bằng một thấy, nên việc chúng tôi chưa nhìn thấy Ngài chứng tỏ rằng Chúa vẫn chưa tái lâm. Tôi sẽ tin khi tôi nhìn thấy điều đó.
Những câu Kinh Thánh tham khảo:
“Vậy Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha. Ví bằng các ngươi biết ta, thì cũng biết Cha ta; và từ bây giờ các ngươi biết và đã thấy Ngài. Phi-líp thưa rằng: Lạy Chúa, xin chỉ Cha cho chúng tôi, thì đủ rồi. Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Hỡi Phi-líp, ta ở cùng các ngươi đã lâu thay, mà ngươi chưa biết ta! Ai đã thấy ta, tức là đã thấy Cha. Sao ngươi lại nói rằng: Xin chỉ Cha cho chúng tôi? Ngươi há không tin rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta, hay sao? Những lời ta nói với các ngươi, chẳng phải ta từ nói; ấy là Cha ở trong ta, chính Ngài làm trọn việc riêng của Ngài. Khi ta nói rằng ta ở trong Cha và Cha ở trong ta, thì hãy tin ta; bằng chẳng, hãy tin bởi công việc ta” (Giăng 14:6-11).
Cách tám ngày, các môn đồ lại nhóm nhau trong nhà, có Thô-ma ở với. Khi cửa đương đóng, Ðức Chúa Jêsus đến, đứng chính giữa môn đồ mà phán rằng: Bình an cho các ngươi! Ðoạn, Ngài phán cùng Thô-ma rằng: Hãy đặt ngón tay ngươi vào đây, và xem bàn tay ta; cũng hãy giơ bàn tay ngươi ra và đặt vào sườn ta, chớ cứng lòng, song hãy tin! Thô-ma thưa rằng: Lạy Chúa tôi và Ðức Chúa Trời tôi! Ðức Chúa Jêsus phán: Vì ngươi đã thấy ta, nên ngươi tin. Phước cho những kẻ chẳng từng thấy mà đã tin vậy!” (Giăng 20:26-29).
“Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen nó, và nó theo ta” (Giăng 10:27).
“Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Ðấng Christ được rao giảng” (Rô-ma 10:17).
Lời Đức Chúa Trời có liên quan:
Jêsus đã tuyên bố rằng Thần của lẽ thật sẽ được ban cho con người trong thời kỳ sau rốt. Bây giờ là thời kỳ sau rốt; ngươi có hiểu Thần của lẽ thật bày tỏ lời như thế nào không? Thần của lẽ thật xuất hiện và làm việc ở đâu? Trong sách tiên tri của nhà tiên tri Ê-sai chưa bao giờ đề cập tới việc một đứa trẻ tên Jêsus sẽ được sinh ra trong thời đại Tân Ước, mà chỉ viết rằng một bé trai sẽ được sinh ra với tên gọi Em-ma-nu-ên. Tại sao tên “Jêsus” không được đề cập? Chẳng có chỗ nào trong Cựu Ước xuất hiện cái tên này, vậy thì tại sao ngươi vẫn tin vào Jêsus? Chắc chắn ngươi chẳng phải chỉ bắt đầu tin vào Jêsus sau khi tận mắt nhìn thấy Ngài, đúng vậy không? Hay là ngươi đã bắt đầu tin sau khi nhận lãnh một sự mặc khải? Đức Chúa Trời sẽ thực sự cho ngươi thấy ân điển như vậy sao? Ngài sẽ ban những phúc lành to lớn như vậy cho ngươi sao? Cơ sở cho niềm tin của ngươi vào Jêsus là gì? Tại sao ngươi không tin rằng Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt ngày nay? Tại sao ngươi cho rằng không có một sự mặc khải nào đến ngươi từ Đức Chúa Trời chứng tỏ Ngài chưa nhập thể vào xác thịt? Đức Chúa Trời phải thông báo cho con người trước khi bắt đầu công tác của Ngài sao? Trước tiên, Ngài phải nhận được sự chấp thuận của con người sao? Ê-sai chỉ tuyên bố rằng một bé trai sẽ được sinh ra trong máng cỏ, chứ chưa bao giờ tiên tri rằng Ma-ri sẽ sinh ra Jêsus. Chính xác thì ngươi đặt niềm tin vào Jêsus được sinh ra bởi Ma-ri trên cơ sở nào? Chắc chắn niềm tin của ngươi không phải là mù mờ!
– Con người đã giới hạn Đức Chúa Trời theo quan niệm của mình sao có thể nhận lãnh sự mặc khải của Đức Chúa Trời được? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Từ đầu đến cuối, Đức Chúa Trời đã và đang thực hiện công tác quản lý con người và cứu rỗi con người của Ngài giữa nhân loại. Từ đầu đến cuối, chỉ có một Đức Chúa Trời làm việc, phán bảo, dạy dỗ và dẫn dắt nhân loại. Đức Chúa Trời này hiện hữu. Đức Chúa Trời đã phán bảo rất nhiều lời cho đến ngày nay, chúng ta đã thấy Ngài mặt đối mặt, nghe Ngài phán bảo, trải nghiệm công tác của Ngài, và ăn uống lời Ngài, chấp nhận lời Ngài đi vào chúng ta để trở thành sự sống của chúng ta. Và giờ đây những lời này đang thay đổi chúng ta. Đức Chúa Trời này thực sự hiện hữu. Do đó, chúng ta có lý do để tin – và chúng ta nên tin – rằng mọi điều Đức Chúa Trời nói đều đúng, và chúng ta nên tin vào sự thật rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người, và sự thật rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên A-đam và Ê-va từ buổi ban đầu, như Đức Chúa Trời đã phán. Vì ngươi tin rằng Đức Chúa Trời hiện hữu và giờ đây ngươi đã đến trước Ngài, vậy ngươi có còn cần xác nhận rằng công tác do Đức Giê-hô-va thực hiện là công tác của Đức Chúa Trời này không? Nếu không ai có thể xác nhận và không ai có thể chứng kiến, thì ngươi sẽ không tin sao? Hoặc liên quan đến công tác từ Thời đại Ân điển, ngươi không tin Jêsus là Đức Chúa Trời nhập thể vì ngươi chưa bao giờ nhìn thấy Ngài sao? Nếu ngươi không đích thân nhìn thấy Đức Chúa Trời hiện tại phán bảo, làm việc hoặc nhập thể trong xác thịt, thì ngươi sẽ không tin sao? Nếu ngươi không nhìn thấy những điều này hoặc không có nhân chứng xác nhận những điều này, thì ngươi cũng sẽ không tin sao? Điều này là do quan điểm sai lầm ngu ngốc mà mọi người có bên trong họ. Đó là một sai lầm mà rất nhiều người phạm phải. Họ phải đích thân nhìn thấy mọi thứ, và nếu họ không nhìn thấy, thì họ không tin; nhưng đến khi ngươi nhìn thấy nó thì đã quá muộn. Giờ đây chúng ta đã nhìn thấy những lời này của Đức Chúa Trời và nghe thấy tiếng của Ngài, điều đó đủ để khiến chúng ta tiếp tục tin và tiếp tục bước tiếp, và đủ để khiến chúng ta tin mọi lời và mọi công tác đến từ Đức Chúa Trời. Chúng ta không cần phải tiếp tục xem xét mọi thứ. Đó chẳng phải là loại ý thức mà mọi người nên có sao? Không có ai để chứng kiến khi Đức Chúa Trời dựng nên loài người, nhưng giờ đây Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt để phán bảo và cứu rỗi nhân loại, thực sự thực hiện công tác của Ngài, đi giữa các hội thánh và làm việc giữa nhân loại. Rất nhiều người đã không nhìn thấy điều này phải không? Không phải ai cũng có thể nhìn thấy điều đó, nhưng ngươi tin điều đó. Tại sao ngươi tin điều đó? Có phải ngươi không chỉ tin bởi vì ngươi cảm thấy đây là con đường thật và là công tác của Đức Chúa Trời? Có thể nào ngươi vẫn nói: “Trong giai đoạn công tác này của Đức Chúa Trời, chúng tôi đã nghe Ngài phán bảo, và cũng nhìn thấy những lời của Đức Chúa Trời. Đúng là những lời này đến từ Đức Chúa Trời. Nhưng về công tác chịu đóng đinh trên thập tự giá của Jêsus, chúng tôi chưa chạm vào những dấu đinh của Ngài, vì vậy tôi không tin rằng Ngài đã bị đóng đinh. Tôi đã không chứng kiến công tác mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm trong Thời đại Luật pháp, và tôi đã không nghe thấy Ngài công bố luật pháp. Chỉ có Môi-se nghe thấy chúng và viết Ngũ Kinh Môi-se, nhưng tôi không biết ông đã viết chúng như thế nào”? Những người như thế phạm phải sai lầm nào? Đó là sai lầm giống như dân Y-sơ-ra-ên ngày xưa đã phạm phải khi họ nói rằng: “Ðức Giê-hô-va chỉ dùng một mình Môi-se mà thôi sao? Ngài há không dùng chúng ta mà phán nữa sao?” (Số 12:2). Ý của họ là: “Chúng tôi sẽ không nghe theo Môi-se, chúng tôi phải đích thân nghe điều đó từ Giê-hô-va Đức Chúa Trời.” Hoặc cũng giống như khi mọi người nói trong Thời đại Ân điển rằng: bởi vì họ không tận mắt chứng kiến, họ không tin Jêsus đã chịu đóng đinh trên thập tự giá hay Ngài đã phục sinh. Có một sứ đồ tên là Thô-ma đã khăng khăng muốn chạm vào những dấu đinh của Jêsus. Và Đức Chúa Jêsus đã nói gì với ông? (“Vì ngươi đã thấy ta, nên ngươi tin. Phước cho những kẻ chẳng từng thấy mà đã tin vậy!” (Giăng 20:29).) “Phước cho những kẻ chẳng từng thấy mà đã tin vậy!” Ý nghĩa thực sự của điều này là gì? Họ thực sự đã không nhìn thấy gì sao? Thực ra, rất nhiều sự kiện đã chứng minh rằng Jêsus là Đức Chúa Trời, và vì thế mọi người nên tin điều đó. Jêsus không cần thực hiện thêm các dấu kỳ phép lạ hoặc nói thêm lời nào, và mọi người không cần phải chạm vào những dấu đinh của Ngài để xác nhận rằng Ngài đã bị đóng đinh vào thập tự giá trước khi họ tin Ngài là Đức Chúa Trời. Đừng giống như Thô-ma.
– Chỉ bằng cách nhận ra quan điểm sai lầm của mình thì mới có thể thật sự biến cải, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt
Đức Chúa Jêsus đã phán: “Thô-ma, vì ngươi đã thấy ta, nên ngươi tin. Phước cho những kẻ chẳng từng thấy mà đã tin vậy” (Giăng 20:29). Những lời này ám chỉ rằng ông đã bị Đức Chúa Jêsus kết án. Sau một thời gian dài là môn đệ như vậy, nếu ngươi vẫn chưa có đức tin, thì làm sao ngươi có thể coi mình là người tin Chúa? Điều này không liên quan đến việc được phước hay không được phước; nó liên quan đến thực tế rằng ngươi sẽ không nhận được bất cứ thứ gì nếu ngươi không tin. Chỉ bằng cách tin, thì ngươi mới nhận được. Ngươi chỉ có khả năng tin vào bất cứ điều gì nếu Đức Chúa Trời đích thân hiện ra với ngươi, cho phép ngươi thấy Ngài, và thuyết phục ngươi ư? Là con người, ngươi có tư cách gì để bảo Đức Chúa Trời đích thân hiện ra với ngươi? Ngươi có tư cách gì để bắt Ngài đích thân phán với một con người bại hoại như bản thân ngươi? Hơn nữa, điều gì khiến ngươi đủ tư cách để cần Ngài giải thích mọi thứ rõ ràng với ngươi trước khi ngươi tin? Nếu ngươi có óc xét đoán, thì chỉ cần đọc những lời Đức Chúa Trời đã phán này, ngươi sẽ tin. Nếu ngươi thật sự tin, thì Ngài làm gì hay nói gì cũng không quan trọng. Thay vào đó, ngay khi thấy những lời này là lẽ thật, ngươi sẽ một trăm phần trăm tin chắc rằng chúng được phán bởi Đức Chúa Trời và rằng Ngài đã làm những điều này, và ngươi sẽ sẵn sàng theo Ngài đến cùng. Ngươi không cần nghi ngại điều này. Những người đầy nghi ngờ thì đều giả dối. Đơn giản là họ không thể tin vào Đức Chúa Trời. Họ luôn cố gắng hiểu những lẽ mầu nhiệm đó, và sẽ chỉ tin sau khi hiểu chúng cặn kẽ. Điều kiện tiên quyết để họ tin vào Đức Chúa Trời là phải có câu trả lời rõ ràng cho những câu hỏi này: Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt như thế nào? Ngài đã đến khi nào? Ngài sẽ ở lại bao lâu trước khi Ngài phải rời đi? Ngài sẽ đi đâu sau khi Ngài rời đi? Quá trình rời đi của Ngài như thế nào? Thần của Đức Chúa Trời nhập thể làm việc như thế nào, và Thần rời đi như thế nào? … Họ muốn hiểu một số lẽ mầu nhiệm; họ ở đây để tìm hiểu chúng, không phải để tìm kiếm lẽ thật. Họ nghĩ rằng họ sẽ không thể tin vào Đức Chúa Trời trừ khi họ có thể hiểu thấu những lẽ mầu nhiệm này; cứ như thể niềm tin của họ đã bị cản trở. Quan điểm này của những người như thế có vấn đề. Một khi họ có mong muốn nghiên cứu những lẽ mầu nhiệm, họ không thèm để ý đến lẽ thật hay chú ý đến lời Đức Chúa Trời. Những người như thế có thể biết bản thân mình không? Không dễ để họ biết được bản thân mình.
– Chỉ bằng cách nhận ra quan điểm sai lầm của mình thì mới có thể thật sự biến cải, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt
Trước khi Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh vào cây thập tự, Thô-ma luôn hoài nghi rằng Ngài có phải là Đấng Christ, và không thể tin. Đức tin của ông nơi Đức Chúa Trời được thiết lập chỉ trên cơ sở những gì ông có thể thấy bằng chính mắt ông, những gì ông có thể chạm vào bằng chính tay ông. Đức Chúa Jêsus đã có sự hiểu biết rõ về đức tin của dạng người này. Họ chỉ tin vào Đức Chúa Trời trên trời, và không hề tin Đấng được Đức Chúa Trời sai đến, hay Đấng Christ trong xác thịt, và họ cũng không chấp nhận Ngài. Để Thô-ma thừa nhận và tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Jêsus và rằng Ngài thật sự là Đức Chúa Trời nhập thể, Ngài đã cho phép Thô-ma đưa tay ra mà chạm vào sườn Ngài. Sự hoài nghi của Thô-ma có gì khác biệt trước và sau sự phục sinh của Đức Chúa Jêsus không? Ông luôn hoài nghi, và ngoại trừ bằng cách thân thể thuộc linh của Đức Chúa Jêsus đích thân hiện ra với ông và cho phép ông chạm vào dấu đinh trên thân thể Ngài, thì không có cách nào để bất kỳ ai có thể giải quyết những hoài nghi của ông và làm cho ông buông bỏ chúng. Như vậy, từ lúc Đức Chúa Jêsus cho phép Thô-ma chạm vào sườn Ngài và để ông thật sự cảm nhận sự hiện hữu của dấu đinh, sự hoài nghi của Thô-ma đã tan biến, và ông thật sự biết rằng Đức Chúa Jêsus đã phục sinh, ông thừa nhận và tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ thật và Đức Chúa Trời nhập thể. Mặc dù ở lần này, Thô-ma không còn hoài nghi, nhưng ông đã mãi mãi mất cơ hội gặp Đấng Christ. Ông đã mãi mãi mất cơ hội được ở cùng Ngài, theo Ngài, và biết Ngài. Ông đã mất cơ hội được Đấng Christ hoàn thiện ông. Sự hiện ra của Đức Chúa Jêsus và những lời của Ngài đã cung cấp sự kết luận và lời phán quyết về đức tin của những kẻ đầy hoài nghi. Ngài đã dùng những lời nói và hành động thật của Ngài để nói với những kẻ hoài nghi, nói với những kẻ chỉ tin vào Đức Chúa Trời trên trời nhưng không tin vào Đấng Christ: Đức Chúa Trời đã không khen ngợi niềm tin của họ, Ngài cũng không khen ngợi họ vì theo Ngài mà đồng thời hoài nghi Ngài. Ngày mà họ hoàn toàn tin vào Đức Chúa Trời và Đấng Christ mới có thể là ngày Đức Chúa Trời hoàn thành công tác vĩ đại của Ngài. Dĩ nhiên, ngày đó cũng là ngày mà lời phán quyết được đưa ra về sự hoài nghi của họ. Thái độ của họ đối với Đấng Christ quyết định số phận của họ, và sự hoài nghi ngoan cố của họ có nghĩa là đức tin của họ không cho họ kết quả gì, và sự cứng lòng của họ có nghĩa rằng hy vọng của họ là hão huyền. Bởi niềm tin của họ nơi Đức Chúa Trời trên trời được nuôi dưỡng bằng những ảo tưởng, và sự hoài nghi của họ đối với Đấng Christ thật ra là thái độ thật của họ đối với Đức Chúa Trời, mặc dù họ đã chạm vào dấu đinh trên thân thể Đức Chúa Jêsus, đức tin của họ vẫn vô dụng và kết quả của họ chỉ có thể được miêu tả như tát nước bằng rổ tre – tất cả đều luống công vô ích. Điều Đức Chúa Jêsus đã nói với Thô-ma cũng rõ ràng là cách Ngài nói với mọi người: Đức Chúa Jêsus đã phục sinh là Đức Chúa Jêsus, Đấng đã trải qua ba mươi ba năm rưỡi hoạt động giữa nhân loại. Mặc dù Ngài đã bị đóng đinh vào cây thập tự và đã trải nghiệm trũng bóng chết, và dù Ngài đã trải qua sự phục sinh, nhưng Ngài đã không trải qua sự thay đổi ở bất kỳ phương diện nào. Mặc dù Ngài giờ đây đã có những dấu đinh trên thân thể Ngài, và mặc dù Ngài đã phục sinh và bước ra từ ngôi mộ, tâm tính của Ngài, sự hiểu biết của Ngài về nhân loại, và những ý định của Ngài đối với nhân loại đã không thay đổi chút nào. Ngài cũng đã nói với mọi người rằng Ngài đã xuống từ cây thập tự, đã chiến thắng tội lỗi, đã vượt qua những sự gian khổ, và đã chiến thắng sự chết. Những dấu đinh chỉ là bằng chứng cho sự chiến thắng của Ngài trước Sa-tan, bằng chứng của việc là một của lễ chuộc tội để cứu chuộc toàn thể nhân loại một cách thành công. Ngài nói với mọi người rằng Ngài đã nhận lấy tội lỗi của nhân loại và Ngài đã hoàn thành công tác cứu chuộc của Ngài. Khi Ngài trở về gặp các môn đồ của Ngài, Ngài nói với họ sứ điệp này thông qua sự xuất hiện của Ngài: “Ta vẫn còn sống, Ta vẫn hiện hữu; hôm nay Ta thật sự đang đứng trước các ngươi để các ngươi có thể nhìn thấy và chạm vào Ta. Ta sẽ luôn ở cùng các ngươi”. Đức Chúa Jêsus cũng muốn dùng trường hợp của Thô-ma như lời cảnh báo cho con người trong tương lai: Mặc dù ngươi không thể thấy hay chạm vào Đức Chúa Jêsus trong đức tin của ngươi nơi Ngài, nhưng ngươi được ban phúc bởi đức tin đích thực của ngươi, và ngươi có thể thấy Đức Chúa Jêsus bởi đức tin đích thực của ngươi, và dạng người này thì được ban phúc.
Những lời được ghi trong Kinh Thánh rằng Đức Chúa Jêsus phán khi Ngài hiện ra với Thô-ma rất hữu ích đối với tất cả mọi người trong Thời đại Ân điển. Sự hiện ra của Ngài với Thô-ma và những lời Ngài phán với ông đã có một tác động sâu sắc lên các thế hệ đến sau; chúng mang tầm trọng đại đời đời. Thô-ma đại diện cho một kiểu người tin vào Đức Chúa Trời nhưng lại hoài nghi Đức Chúa Trời. Họ có bản chất ngờ vực, có lòng dạ nham hiểm, xảo trá, và không tin vào những điều Đức Chúa Trời có thể hoàn thành. Họ không tin vào quyền vô hạn của Đức Chúa Trời và quyền tối thượng của Ngài, và họ cũng không tin vào Đức Chúa Trời nhập thể. Tuy nhiên, sự phục sinh của Đức Chúa Jêsus công khai phản lại những đặc chất mà họ có, và nó cũng cho họ một cơ hội khám phá sự hoài nghi của chính họ, nhận ra sự hoài nghi của chính họ, và công nhận sự xảo trá của chính họ, qua đó thật sự tin vào sự hiện hữu và phục sinh của Đức Chúa Jêsus. Những gì đã xảy ra với Thô-ma là một lời cảnh báo và răn đe cho các thế hệ sau, để nhiều người có thể tự cảnh báo mình không làm những kẻ hoài nghi như Thô-ma, và rằng nếu họ thật sự đầy hoài nghi, thì họ sẽ chìm vào sự tối tăm. Nếu ngươi theo Đức Chúa Trời, nhưng cũng như Thô-ma, lại luôn muốn chạm vào sườn của Chúa và cảm nhận dấu đinh của Ngài để xác nhận, xác minh, suy đoán về việc Đức Chúa Trời có hiện hữu hay không, thì Đức Chúa Trời sẽ từ bỏ ngươi. Như vậy, Đức Chúa Jêsus yêu cầu con người không như Thô-ma, chỉ tin vào những gì họ có thể tận mắt thấy, mà hãy là những người tinh sạch, trung thực, không nuôi lòng hoài nghi đối với Đức Chúa Trời, mà đơn thuần tin và theo Ngài. Những người như thế này thì được ban phúc lành. Đây là một yêu cầu rất nhỏ mà Đức Chúa Jêsus đưa ra với con người, và nó là một lời cảnh báo cho những người theo Ngài.
– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời III, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Các ngươi có ước được biết nguyên nhân gốc rễ vì sao người Pha-ri-si đã chống đối Jêsus không? Các ngươi có ước được biết bản chất của người Pha-ri-si không? Họ đầy ảo tưởng về Đấng Mê-si. Hơn thế nữa, họ chỉ tin rằng Đấng Mê-si sẽ đến, mà không mưu cầu lẽ thật sự sống. Và vì vậy, cho đến tận ngày nay họ vẫn chờ đợi Đấng Mê-si, bởi vì họ không có hiểu biết gì về con đường sự sống, và không biết con đường lẽ thật là gì. Các ngươi nói xem, làm sao những kẻ ngốc nghếch, cố chấp và dốt nát như vậy có thể có được phước lành của Đức Chúa Trời? Làm sao họ có thể thấy được Đấng Mê-si? Họ đã chống đối Jêsus bởi vì họ đã không biết đường hướng làm việc của Đức Thánh Linh, bởi vì họ đã không biết con đường lẽ thật mà Jêsus đã phán, và hơn thế nữa, bởi vì họ đã không hiểu về Đấng Mê-si. Và bởi vì họ đã chưa bao giờ nhìn thấy Đấng Mê-si và chưa bao giờ đồng hành cùng Đấng Mê-si, họ đã phạm sai lầm là bám víu thuần túy vào danh của Đấng Mê-si trong khi chống đối thực chất của Đấng Mê-si bằng bất kỳ giá nào có thể. Những người Pha-ri-si này về bản chất là cố chấp, kiêu ngạo, và đã không vâng phục lẽ thật. Nguyên tắc niềm tin vào Đức Chúa Trời của họ là: Bất kể sự thuyết giáo của Ngài có thâm thúy ra sao, thẩm quyền của Ngài cao đến đâu, thì Ngài vẫn không phải là Đấng Christ trừ khi Ngài được gọi là Đấng Mê-si. Niềm tin này không phải thật ngớ ngẩn và lố bịch hay sao? Ta hỏi thêm các ngươi: Chẳng phải cực kỳ dễ dàng để các ngươi mắc phải những sai lầm của những người Pha-ri-si nguyên thủy, khi các ngươi không có chút hiểu biết nào về Jêsus sao? Các ngươi có thể nhận thức được con đường lẽ thật không? Các ngươi có thể thật sự đảm bảo rằng ngươi sẽ không chống đối Đấng Christ không? Các ngươi có thể theo được công việc của Đức Thánh Linh không? Nếu các ngươi không biết liệu mình sẽ chống đối Đấng Christ hay không, thì Ta phán rằng các ngươi đang sống trên bờ vực của cái chết rồi. Những người đã không biết về Đấng Mê-si hết thảy đều có khả năng chống đối Jêsus, từ chối Jêsus, phỉ báng Ngài. Những người không hiểu về Jêsus hết thảy đều có thể từ chối Ngài và thóa mạ Ngài. Hơn thế nữa, họ còn có thể xem sự tái lâm của Jêsus là sự lừa dối của Sa-tan, và sẽ càng nhiều người chỉ trích việc Jêsus đã quay trở lại với xác thịt. Tất cả những điều này không khiến các ngươi sợ hãi sao? Những gì các ngươi đối mặt sẽ là sự báng bổ Đức Thánh Linh, sự hủy hoại những lời của Đức Thánh Linh phán cùng các hội thánh, và sự bác bỏ tất cả những gì Jêsus đã bày tỏ. Ngươi có thể nhận được gì từ Jêsus nếu ngươi quá mụ mị?
– Khi ngươi thấy được thân thể thuộc linh của Jêsus, Đức Chúa Trời đã làm mới lại trời đất, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Gióp nghe Đức Chúa Trời bằng tai
Gióp 9:11 Kìa, Ngài đã đi qua gần tôi, mà tôi không thấy Ngài, Ngài sang ngang trước mặt tôi, nhưng tôi chẳng nhìn thấy Ngài.
Gióp 23:8-9 Nầy, tôi đi tới trước, nhưng không có Ngài tại đó; Tôi đi lại sau, song tôi cũng chẳng nhìn thấy Ngài; Qua phía tả, khi Ngài đương làm công việc đó, song tôi không phân biệt Ngài được; Ngài ẩn tại phía hữu, nên tôi chẳng thấy Ngài.
Gióp 42:2-6 Tôi biết rằng Chúa có thể làm được mọi sự, Chẳng có ý chỉ nào Chúa lấy làm khó lắm. Kẻ nầy là ai, không hiểu biết gì, lại dám che ám ý chỉ của Chúa? Phải, tôi đã nói những điều tôi không hiểu đến, Tức các sự lạ lùng quá cho tôi, mà tôi chẳng thông biết. Hỡi Chúa, xin hãy nghe, tôi sẽ nói; Tôi sẽ hỏi Chúa, Chúa sẽ chỉ dạy cho tôi. Trước lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa, Nhưng bây giờ, mắt tôi đã thấy Ngài: Vì vậy, tôi lấy làm gớm ghê tôi, Và ăn năn trong tro bụi.
Mặc dù Đức Chúa Trời đã không tỏ lộ chính Ngài với Gióp nhưng Gióp tin vào quyền tối thượng của Đức Chúa Trời
Trọng điểm của những lời này là gì? Có bất kỳ ai trong các ngươi nhận ra rằng có một sự thật ở đây không? Trước hết, làm sao Gióp biết có một Đức Chúa Trời? Rồi thì, làm sao ông biết rằng trời đất và muôn vật được Đức Chúa Trời cai trị? Có một đoạn trả lời hai câu hỏi này: “Trước lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa, Nhưng bây giờ, mắt tôi đã thấy Ngài: Vì vậy, tôi lấy làm gớm ghê tôi, Và ăn năn trong tro bụi” (Gióp 42:5-6). Từ những lời này, chúng ta biết được rằng, thay vì đã tận mắt nhìn thấy Đức Chúa Trời, Gióp đã được biết về Đức Chúa Trời từ truyền thuyết. Chính trong những hoàn cảnh này mà ông bắt đầu bước đi con đường theo Đức Chúa Trời, sau đó ông đã xác nhận sự hiện hữu của Đức Chúa Trời trong cuộc sống của mình, và giữa muôn vật. Có một sự thật không thể phủ nhận ở đây – sự thật đó là gì? Cho dù có thể theo con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, nhưng Gióp cũng chưa bao giờ nhìn thấy Đức Chúa Trời. Trong việc này, chẳng phải ông cũng y như con người ngày nay sao? Gióp đã chưa bao giờ thấy Đức Chúa Trời, ẩn ý của điều đó là mặc dù ông đã nghe về Đức Chúa Trời, ông không biết Đức Chúa Trời ở đâu, hay Đức Chúa Trời như thế nào, hay Đức Chúa Trời đang làm gì. Đây là tất cả những yếu tố chủ quan; nói một cách khách quan, mặc dù ông đã theo Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời chưa bao giờ hiện ra với ông hay phán với ông. Chẳng phải đây là một thực tế sao? Mặc dù Đức Chúa Trời đã không phán với Gióp hay ban cho ông bất kỳ lệnh truyền nào, nhưng Gióp đã thấy sự hiện hữu của Đức Chúa Trời và thấy quyền tối thượng của Ngài giữa muôn vật, và trong những truyền thuyết mà Gióp đã nghe về Đức Chúa Trời bằng tai ông, mà sau đó ông đã bắt đầu đời sống kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Đó là nguồn gốc và quá trình mà Gióp theo Đức Chúa Trời…
Đức tin của Gióp nơi Đức Chúa Trời không bị lung lay bởi việc Đức Chúa Trời ẩn giấu với ông
Trong đoạn sau của Kinh Thánh, Gióp khi ấy nói: “Nầy, tôi đi tới trước, nhưng không có Ngài tại đó; Tôi đi lại sau, song tôi cũng chẳng nhìn thấy Ngài; Qua phía tả, khi Ngài đương làm công việc đó, song tôi không phân biệt Ngài được; Ngài ẩn tại phía hữu, nên tôi chẳng thấy Ngài” (Gióp 23:8-9). Trong lời thuật lại này, chúng ta biết rằng trong những trải nghiệm của Gióp, Đức Chúa Trời đã ẩn giấu với ông xuyên suốt; Đức Chúa Trời đã không công khai hiện ra với ông, Ngài cũng không công khai phán bất kỳ lời nào với ông, nhưng trong lòng mình, Gióp tin tưởng vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Ông đã luôn tin rằng Đức Chúa Trời có thể đang đi trước mặt ông, hoặc có thể đang hành động bên cạnh ông, và rằng mặc dù ông không thể nhìn thấy Đức Chúa Trời nhưng Đức Chúa Trời ở cạnh bên ông, chi phối mọi điều về ông. Gióp chưa bao giờ nhìn thấy Đức Chúa Trời, nhưng ông vẫn có thể chân thật với đức tin của mình, điều mà không người nào khác có thể làm được. Tại sao những người khác không thể làm điều đó? Đó là vì Đức Chúa Trời đã không phán với Gióp hay hiện ra với ông, và nếu ông không thật sự tin thì ông đã không thể tiếp tục, ông cũng không thể kiên vững với con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Điều này không đúng sao? Ngươi cảm thấy thế nào khi ngươi đọc được Gióp nói những lời này? Ngươi có cảm thấy rằng sự trọn vẹn và ngay thẳng của Gióp, và sự công chính của ông trước Đức Chúa Trời, là thật, và không phải là sự cường điệu về phía Đức Chúa Trời không? Mặc dù Đức Chúa Trời đã đối đãi với Gióp như với những người khác và đã không hiện ra hay phán với ông, nhưng Gióp vẫn kiên vững với sự chính trực của mình, vẫn tin vào quyền tối thượng của Đức Chúa Trời, và hơn nữa, ông thường dâng của lễ thiêu và cầu nguyện trước Đức Chúa Trời như một kết quả của việc ông sợ xúc phạm Đức Chúa Trời. Trong khả năng kính sợ Đức Chúa Trời mà không nhìn thấy Đức Chúa Trời của Gióp, chúng ta thấy được ông yêu những điều tích cực nhiều như thế nào, và đức tin của ông vững vàng, chân thật ra sao. Ông đã không phủ nhận sự hiện hữu của Đức Chúa Trời bởi vì Đức Chúa Trời ẩn giấu với ông, ông cũng không mất đi đức tin của mình và từ bỏ Đức Chúa Trời vì ông chưa bao giờ nhìn thấy Ngài. Thay vào đó, giữa công tác cai trị muôn vật ẩn giấu của Đức Chúa Trời, ông đã nhận ra sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, cảm nhận quyền tối thượng và quyền năng của Đức Chúa Trời. Ông đã không từ bỏ việc sống ngay thẳng bởi vì Đức Chúa Trời ẩn đi, ông cũng không từ bỏ con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác bởi vì Đức Chúa Trời đã chưa bao giờ hiện ra với ông. Gióp chưa bao giờ yêu cầu Đức Chúa Trời xuất hiện công khai với ông để chứng minh sự hiện hữu của Ngài, bởi ông đã thấy quyền tối thượng của Đức Chúa Trời giữa muôn vật, và ông tin rằng mình đã đạt được những phúc lành và ân điển mà những người khác không đạt được. Mặc dù Đức Chúa Trời vẫn ẩn giấu với ông, đức tin của Gióp nơi Đức Chúa Trời không bao giờ lung lay. Do đó, ông đã gặt hái điều mà không ai khác có được: sự chấp thuận của Đức Chúa Trời và phúc lành của Đức Chúa Trời.
– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Bởi chúng ta đang tìm kiếm dấu chân của Đức Chúa Trời, nên chúng ta cần tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời, lời Đức Chúa Trời, những lời phán của Ngài – bởi vì bất cứ nơi đâu có những lời mới của Đức Chúa Trời, thì giọng nói của Đức Chúa Trời ở đó, và bất cứ nơi đâu có bước chân của Đức Chúa Trời, thì việc làm của Đức Chúa Trời ở đó. Bất cứ nơi nào có sự bày tỏ của Đức Chúa Trời, ở đó Đức Chúa Trời xuất hiện, và bất cứ nơi nào Đức Chúa Trời xuất hiện, thì ở đó có lẽ thật, đường đi và sự sống. Khi tìm kiếm dấu chân của Đức Chúa Trời, các ngươi đã bỏ qua những lời: “Đức Chúa Trời là lẽ thật, đường đi và sự sống”. Và vì vậy, nhiều người, ngay cả khi họ nhận được lẽ thật, vẫn không tin rằng họ đã tìm thấy dấu chân của Đức Chúa Trời và lại càng không thừa nhận sự xuất hiện của Đức Chúa Trời. Thật là một sai lầm nghiêm trọng! Sự xuất hiện của Đức Chúa Trời không thể nào hòa hợp với những quan niệm của con người, Đức Chúa Trời lại càng không thể xuất hiện theo yêu cầu của con người. Đức Chúa Trời đưa ra lựa chọn của riêng Ngài và kế hoạch của riêng Ngài khi Ngài thực hiện công tác của mình; hơn thế nữa, Ngài có những mục tiêu và phương pháp riêng của mình. Dù thực hiện bất cứ công tác gì, Ngài không cần phải thảo luận với con người hay tìm kiếm lời khuyên của họ, Ngài lại càng không cần phải thông báo cho từng người một về công tác của Ngài. Đây là tâm tính của Đức Chúa Trời, mà ngoài ra, mọi người nên nhận biết. Nếu các ngươi mong muốn chứng kiến sự xuất hiện của Đức Chúa Trời, mong muốn đi theo dấu chân của Ngài, thì trước tiên các ngươi phải dẹp bỏ những quan niệm của riêng mình. Ngươi không được đòi hỏi Đức Chúa Trời phải làm điều này hay điều kia, ngươi càng không nên đặt Ngài trong những ranh giới của chính ngươi và giới hạn Ngài trong những quan niệm của riêng ngươi. Thay vào đó, các ngươi nên tự đòi hỏi mình phải làm thế nào để tìm kiếm dấu chân của Đức Chúa Trời, phải làm thế nào để các ngươi chấp nhận sự xuất hiện của Đức Chúa Trời, và phải làm thế nào để các ngươi quy phục công tác mới của Đức Chúa Trời: Đây là điều con người nên làm. Vì con người không phải là lẽ thật, và không được sở hữu lẽ thật, thế nên họ nên tìm kiếm, chấp nhận và vâng phục.
– Phụ lục 1: Sự xuất hiện của Đức Chúa Trời đã mở ra một thời đại mới, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Không khó để tìm hiểu một điều như vậy, nhưng nó đòi hỏi mỗi người chúng ta phải biết một lẽ thật này: Đấng là Đức Chúa Trời nhập thể sẽ sở hữu thực chất của Đức Chúa Trời, và Đấng là Đức Chúa Trời nhập thể sẽ sở hữu biểu hiện của Đức Chúa Trời. Bởi vì Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, Ngài sẽ đưa ra công tác mà Ngài định làm, và bởi vì Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, Ngài sẽ bày tỏ Ngài là gì, và sẽ đem đến lẽ thật cho con người, ban sự sống cho con người, và chỉ lối cho con người. Xác thịt không có thực chất của Đức Chúa Trời thì dứt khoát không phải là Đức Chúa Trời nhập thể; điều này không có gì phải nghi ngờ. Nếu con người định tìm hiểu xem đó có phải là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, thì họ phải chứng thực điều này từ tâm tính Ngài bày tỏ và những lời Ngài phán ra. Nghĩa là, để chứng thực đó có phải xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, và đó có phải là con đường thật hay không, thì người ta phải phân biệt dựa trên thực chất của Ngài. Và vì thế, để xác định đó có phải là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, điều cốt yếu nằm ở thực chất của Ngài (công tác của Ngài, những lời phán của Ngài, tâm tính của Ngài và nhiều khía cạnh khác), chứ không phải là hình dáng bên ngoài. Nếu con người chỉ soi hình dáng bên ngoài của Ngài, và vì thế mà bỏ qua thực chất của Ngài, thì điều này chứng tỏ con người thật tối tăm và dốt nát. Hình dáng bên ngoài không thể quyết định thực chất; hơn nữa, công tác của Đức Chúa Trời chẳng bao giờ có thể phù hợp với những quan niệm của con người. Chẳng phải bề ngoài của Jêsus trái ngược với những quan niệm của con người sao? Chẳng phải diện mạo và trang phục của Ngài chẳng thể cung cấp manh mối nào về thân phận thật sự của Ngài sao? Chẳng phải những người Pha-ri-si đầu tiên đã chống đối Jêsus chính vì họ chỉ nhìn vào hình dáng bên ngoài của Ngài và không tiếp nhận đến những lời từ miệng Ngài sao?
– Lời tựa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời