7. Những ngày bị ngược đãi và tra tấn
Một ngày mùa hè năm 2006 vào khoảng 11 giờ sáng, tôi đang ở nhà người tiếp đãi để nghe vài bài thánh ca lời Đức Chúa Trời thì cảnh sát bất ngờ ập vào phòng và đưa tôi, chị tiếp đãi Triệu Khuê Lan cùng đứa con gái 6 tuổi của chị ấy đến đồn cảnh sát.
Ngay khi chúng tôi bước vào đồn, một số nữ cảnh sát đã bắt chúng tôi cởi quần áo. Khi không còn mặc gì ngoài đồ lót, theo bản năng, tôi cố né họ để họ không thể cởi thêm bất cứ thứ gì nữa. Một nữ cảnh sát xông vào, xé toạc toàn bộ đồ lót của tôi, bóp nặn rất kỹ, và rồi xé toạc ra kiểm tra. Sau khi bị khám xét toàn thân xong, chúng tôi bị đưa vào một văn phòng. Ở đó, các sĩ quan cảnh sát đang lật xem sổ địa chỉ mà chúng đã tìm thấy từ tôi. Thấy trên đó ghi rất nhiều số điện thoại, chúng đoán rằng có thể tôi là lãnh đạo, thế nên chúng nói sẽ báo cáo vụ việc của tôi lên Công an tỉnh. Một tên đội trưởng tên Châu hỏi tôi: “Mày bắt đầu tin Đức Chúa Trời Toàn Năng từ khi nào? Vai trò của mày trong hội thánh là gì?”. Tôi không nói gì cả, vì vậy hắn ta tức giận túm mạnh hàm tôi và nhấc đầu tôi lên – hắn ta bóp chặt đến mức tôi không thể cử động được. Hắn ta cười dâm đãng và nói: “Em nhìn đâu có tệ, còn trẻ đẹp mà. Em làm gì chẳng được, vậy mà lại muốn tin Đức Chúa Trời!”. Những tên sĩ quan khác ở đó đứng một bên cười khẩy. Tôi thấy ghê tởm và phẫn nộ. Tôi đã nghĩ: “Đây là loại ‘Công an Nhân dân’ gì chứ? Chúng là một lũ côn đồ, lũ súc vật!”. Tên đội trưởng Châu hỏi đi hỏi lại tôi về thông tin cá nhân của tôi và ai là lãnh đạo hội thánh. Khi tôi không nói gì với chúng thì một trong những tên cảnh sát bắt đầu đánh tôi rất mạnh. Tôi chóng mặt và mắt mờ đi vì bị đánh; tôi cứ ngã xuống là hắn lại lôi tôi lên để tiếp tục đánh. Vừa đánh, hắn vừa quát: “Chính quyền Trung ương đã ra lệnh từ lâu rằng giết những đứa mày là không có tội, tụi tao có đánh chết bọn mày hay không cũng không thành vấn đề! Nếu mày chết, tụi tao có thể đưa mày ra đồi chôn. Không ai biết hết!”. Nhìn thấy hắn ta trông hung dữ và tà ác khủng khiếp như thế, tôi rơi vào trạng thái hoảng loạn và sợ hãi – tôi sợ chúng thực sự sẽ đánh tôi đến chết. Trong lòng tôi không ngừng kêu cầu Đức Chúa Trời, xin Ngài canh giữ lòng tôi. Lúc đó, tôi chợt nghĩ đến một đoạn từ lời Đức Chúa Trời: “Những kẻ nắm quyền lực bề ngoài có vẻ đáng sợ, nhưng đừng sợ, bởi điều này chỉ là vì các ngươi yếu lòng tin. Miễn là đức tin của các ngươi lớn lên, thì không có gì là quá khó” (Những lời của Đấng Christ buổi ban đầu – Chương 75, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đúng là vậy. Đức Chúa Trời có quyền năng đối với mọi sự, vì vậy dù cảnh sát có ác độc và tàn bạo đến đâu thì điều đó cũng nằm trong tay Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời không cho phép tôi chết thì ngay cả Sa-tan cũng không thể lấy được mạng tôi. Ngay cả khi cảnh sát có thực sự đánh tôi đến chết thì linh hồn tôi vẫn sẽ ở trong tay Đức Chúa Trời. Lời Đức Chúa Trời đã cho tôi đức tin và sức mạnh, và tôi có thể dần bình tĩnh lại.
Không nhận được câu trả lời mình muốn, tên đội trưởng Châu giận dữ quát: “Tao thấy mày thân lừa ưa nặng rồi. Hôm nay tao sẽ cạy miệng mày ra. Không ai qua được tao đâu – tao đã treo chết hai đứa chỉ trong hai hôm rồi thôi đó”. Sau đó, hai tên sĩ quan đến, còng tay tôi treo lên một cổng sắt, hai chân lủng lẳng không chạm đất, và toàn bộ trọng lượng cơ thể tôi dồn lên hai cổ tay. Sau đó, chúng lôi chị Khuê Lan đến. Toàn bộ khuôn mặt của chị ấy sưng vù vì bị đánh đập và đầu tóc thì bù xù cả lên. Cảnh sát cũng treo chị ấy lên cổng sắt. Tên đội trưởng Châu cười nham hiểm khi nhìn thấy vẻ đau đớn của chúng tôi và nói: “Hãy tận hưởng đi”, rồi quay lưng bước ra ngoài. Thời gian trôi qua, áp lực lên cổ tay do bị còng theo cách đó trở nên ngày càng đau đớn và tôi có cảm giác như cánh tay mình bị xé toạc ra khỏi hốc nách. Cảm giác đau xé thịt ấy khiến toàn thân tôi toát mồ hôi. Chẳng mấy chốc, quần áo của tôi đã ướt sũng. Để cố giảm bớt cơn đau, tôi nắm chặt tay và cố gắng hết sức để đặt gót chân vào chấn song của cổng sắt, nhưng cứ bị trượt xuống. Tim tôi đập thình thịch và tôi thấy khó thở. Tôi cảm thấy như mình sắp nghẹt thở. Nghĩ đến việc tên đội trưởng Châu nói hắn đã treo chết hai người trong mấy ngày qua, tôi thấy kinh hãi; tôi lo mình thực sự sẽ chết ở đó. Tôi liên tục cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con gần như không thể chịu được nữa. Con không thể cầm cự lâu hơn nữa – xin hãy cứu rỗi con…”. Sau khi cầu nguyện, tôi nhớ đến một bài thánh ca lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời phán: “Trong thời kỳ sau rốt này các ngươi phải mang chứng ngôn cho Đức Chúa Trời. Cho dù nỗi đau khổ của các ngươi lớn đến đâu, các ngươi vẫn nên đi đến tận cùng, và thậm chí đến hơi thở sau cùng, các ngươi vẫn phải trung thành với Đức Chúa Trời, và vâng theo sự sắp đặt của Đức Chúa Trời; chỉ có điều này mới là yêu kính Đức Chúa Trời thực sự, và chỉ có điều này mới là lời chứng mạnh mẽ và vang dội” (Chỉ bằng cách trải qua những sự thử luyện đau đớn, ngươi mới có thể biết được sự đáng mến của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời ngay lập tức cho tôi đức tin và sức mạnh. Sự sống chết của tôi nằm trong tay Đức Chúa Trời, và tôi sẽ không chết trừ khi Đức Chúa Trời cho phép điều đó. Và ngay cả khi tôi chỉ còn một hơi thở, tôi cũng phải tận hiến cho Đức Chúa Trời và đứng vững làm chứng cho Ngài. Và vì vậy, tôi tiếp tục cầu nguyện và nương cậy vào Đức Chúa Trời, và tự lúc nào không hay, tôi đã có thể từ từ bình tĩnh lại và bớt đau hơn rất nhiều. Quay đầu sang, tôi thấy biểu cảm rất kiên quyết trên mặt Khuê Lan, và tôi thầm tạ ơn Đức Chúa Trời. Tôi biết rằng chúng tôi chịu được lâu như vậy là hoàn toàn nhờ vào sức mạnh và đức tin mà Đức Chúa Trời đã ban cho chúng tôi.
Cảnh sát thả chúng tôi xuống lúc khoảng 4 giờ sáng. Tay chân tê cứng, không còn cảm giác, thế nên chúng tôi cứ thế mà gục xuống sàn, thoi thóp. Nhìn sự đau đớn của chúng tôi, tên đội trưởng Châu hỏi tôi với vẻ đắc chí: “Mày đã suy nghĩ chưa? Bị treo bằng còng tay không thoải mái lắm phải không?”. Tôi phớt lờ hắn ta. Hắn ta tỏ ra rất chắc chắn, cho rằng tôi không thể chịu đựng được sự tra tấn và chắc chắn sẽ bán đứng các anh chị em tôi. Nhưng hắn ta không biết rằng chúng càng bức hại chúng tôi, tôi càng có thể thấy rõ chúng tà ác và man rợ như thế nào, tôi càng thấy rõ Đảng Cộng sản là ma quỷ địch lại Đức Chúa Trời, và tôi càng trở nên quyết tâm hơn trong đức tin rằng tôi phải đứng vững trong chứng ngôn và hạ nhục Sa-tan. Tối hôm đó, hắn ta tức giận đến mức không cho tôi ngủ. Tôi thực sự rất buồn ngủ, nhưng ngay khi tôi nhắm mắt lại, một tên cảnh sát sẽ chụp lấy vai tôi và xô thật mạnh, đồng thời hét lên: “Mày muốn ngủ hả? Mày muốn ngủ một chút hả?”. Tôi sợ hãi đến mức tim đập thình thịch. Chúng cứ dọa nạt tôi hết lần này đến lần khác và liên tục hỏi tôi thông tin về hội thánh. Chúng cứ như vậy cho đến chiều hôm sau. Sau đó, tên đội trưởng Châu nhận một cuộc gọi, và tôi nghe hắn nói: “Không cách nào xử được con đàn bà này – ngọt nặng gì cũng không được. Tôi xử nhiều vụ trong mấy chục năm rồi nhưng chưa bao giờ gặp vụ nào khó như vậy!”. Sau khi gác máy, hắn ta bắt đầu chửi rủa tôi: “Lũ tín hữu Đức Chúa Trời Toàn Năng tụi mày lì hơn trâu! Tao không tin là tao không cạy được miệng mày. Bữa nay tụi tao sẽ đưa mày đến một nơi khác, ở đó không dễ đâu con. Tao có nhiều cách để khiến mày khai lắm!”. Sau đó, hắn ta và một tên sĩ quan khác đi vào phòng bên cạnh. Tôi nghe loáng thoáng hắn ta nói: “Đưa nó đến hố rắn rồi để nó trần truồng mà ném vào. Thế là nó khai thôi!”. Nghe đến từ “hố rắn”, tôi giật mình, kinh hãi. Nghĩ đến cảnh rắn bò khắp nơi, tôi nổi da gà khắp người, nên tôi vội cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài ban cho tôi lòng can đảm để tôi không bao giờ làm Giu-đa và phản bội Ngài, cho dù chúng có quăng tôi vào hố rắn. Sau khi cầu nguyện, tôi nhớ Đa-ni-ên đã bị ném vào hang sư tử; chúng đã không cắn ông, bởi vì Đức Chúa Trời không cho phép điều đó. Chẳng phải tôi cũng hoàn toàn nằm trong tay Đức Chúa Trời sao? Những suy nghĩ này giúp tôi dần bình tĩnh lại. Sau đó, tên đội trưởng Châu nhận điện thoại, nói rằng hắn có một vụ khẩn cấp cần xử lý, sau đó vội vã rời đi cùng một tên sĩ quan khác theo sau. Ngay khi hắn rời đi, tên cảnh sát ở lại trông chừng tôi nhận được điện thoại từ gia đình hắn, nói rằng có chuyện gì đó đã xảy ra với con trai hắn, và thằng bé đang trong tình trạng nguy kịch. Hắn ta còng tay tôi vào chiếc ghế sắt rồi vội vàng bỏ đi. Tôi biết chắc chắn rằng Đức Chúa Trời đã nghe thấy lời cầu nguyện của tôi và mở ra cho tôi một lối thoát. Tôi lại cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, con đã thấy những việc làm kỳ diệu của Ngài, và con xin tạ ơn Ngài!”.
Cảnh sát đã tra tấn tôi bốn ngày bốn đêm, và không cho tôi ăn uống hay ngủ nghỉ gì. Tôi yếu ớt cực kỳ vì bị tra tấn, tôi bị đau nhói ở bụng, khó thở và cơ thể vô cùng kiệt sức. Nhưng cho dù chúng có thẩm vấn tôi như thế nào, tôi cũng không nói gì với chúng. Khi tên đội trưởng Châu thấy rằng không chiêu thức nào của chúng có hiệu quả, hắn ta đóng sầm cửa lại và tức giận bỏ đi. Khi quay lại, hắn ta cầm theo ba bốn tờ giấy đầy chữ. Hắn ta đập giấy xuống bàn, ra lệnh cho tôi ký vào bản thú tội và lăn tay. Tôi nói: “Tôi không nói bất cứ điều gì trong số này, vì vậy tôi không ký”. Hắn ta ra hiệu cho những tên sĩ quan khác, và một vài trong số chúng lao đến, tên thì kéo cánh tay tôi, tên thì siết chặt cổ tay tôi, khiến tôi phải mở nắm tay ra, và rồi ép cả bàn tay tôi in dấu vào bản thú tội giả đó. Tên đội trưởng Châu cầm bản thú tội đó lên và đắc ý nói: “Hừm! Vẫn cố chống lại tao hả? Mày tưởng không nói gì là xong hả? Tao vẫn có thể khiến mày bị kết tội và bị kết án từ tám đến mười năm tù!”.
Tối hôm đó, cảnh sát đưa tôi đến một nhà máy bỏ hoang rồi lệnh cho tôi cởi giày và tất, nên tôi chỉ còn lại chân trần. Sau đó, hai tên đứng cạnh tôi, mỗi tên nắm một cánh tay, và đưa tôi qua một hành lang tối mà càng đi xa vào thì càng tối hơn. Tôi dựng tóc gáy. Chúng đưa tôi qua ba cánh cổng sắt rồi ném tôi vào một căn phòng. Tôi nhìn thấy một người đàn ông trong góc bị trói bằng xích dày, tay chân bẹt ra, dang rộng và anh ta đang rên rỉ yếu ớt. Có rất nhiều dây xích dày treo trên tường, và còn có cả dùi cui điện cùng thanh sắt. Tôi cảm thấy như mình rơi xuống địa ngục. Tôi khiếp sợ và có cảm giác như lần này mình chắc chắn chết ở đó. Tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời nhiều lần. Sau đó, một tên sĩ quan đe dọa rằng: “Nếu nhanh lên thì vẫn còn thời gian để mày thú nhận đấy. Mày có khai hay không?”. Tôi nói: “Tôi không vi phạm luật nào. Tôi không có gì để thú nhận cả”. Hắn lạnh lùng cười khẩy, phẩy tay, sau đó hai tên nam sĩ quan khác lao về phía tôi như những con sói, nhanh chóng đè tôi xuống sàn. Tôi vùng vẫy dữ dội, nhưng chúng đã quỳ mạnh lên hai bàn chân tôi rồi xé toạc áo quần tôi trong khi tôi cố gắng chống cự một cách tuyệt vọng. Chúng xé hết quần áo của tôi, cuối cùng để tôi nằm úp mặt và trần truồng trên sàn. Sau đó, chúng quỳ thật mạnh trên đùi tôi và vặn hai cánh tay của tôi ra sau lưng để tôi không thể nhúc nhích. Một tên sĩ quan khác lấy dùi cui điện và bắt đầu sốc điện điên cuồng khắp eo, lưng và mông tôi. Mỗi cú sốc điện khiến tôi sưng tấy và tê liệt, và cảm giác đau như khoan thẳng vào xương. Toàn thân tôi run rẩy không kiểm soát được và hai bàn chân đập mạnh xuống đất. Tôi càng vùng vẫy, chúng càng giữ tôi chặt hơn. Một tên sĩ quan đã lợi dụng tình hình để sờ mông tôi trong khi cười điên dại và nói những điều thô tục. Một tên sĩ quan khác thì hét lên trong khi sốc điện: “Mày có khai hay không hả? Tao cá là tao có thể bắt mày khai đó!”. Sau khi chích điện tôi năm sáu lần, chúng lật tôi lại, quỳ mạnh trên đùi tôi lần nữa và tiếp tục giật điện vào ngực, bụng và háng của tôi. Khi chúng sốc điện tôi ở giữa bụng, tôi có cảm giác như toàn bộ dạ dày và ruột đang bị trộn lẫn vào nhau – cảm giác đau đớn cùng cực. Khi bị sốc điện vào ngực, tôi cảm thấy tim thắt lại và khó thở. Tôi có cảm giác như bị một mớ đinh sắc nhọn đột ngột cắm sâu vào da thịt khi chúng giật điện vào háng tôi, và tôi mất thở. Không từ ngữ nào có thể mô tả sự đau đớn kiểu đó.
Tôi ngất đi sau đó. Tôi không biết đã bao lâu trôi qua trước khi chúng tạt nước lạnh vào người tôi để tôi tỉnh, sau đó tiếp tục sốc điện tôi. Một trong những tên sĩ quan thậm chí còn véo núm vú của tôi, kéo lên rồi ấn xuống thật mạnh, lặp đi lặp lại trong bốn hay năm phút. Tôi có cảm giác như núm vú của mình sắp bị xoắn đứt ra – thực sự đau buốt. Cùng lúc đó, một tên sĩ quan khác đang sốc điện vào ngực tôi. Cứ mỗi lần sốc điện, tôi cảm thấy như da thịt ở ngực bị lột ra, như thể tim tôi sắp ngừng đập. Tôi đổ mồ hôi khắp người và không thể ngừng run rẩy. Chúng tiếp tục sốc điện tôi, bỡn cợt tôi, trong khi nói những điều đáng ghê tởm. Tôi cảm thấy như chúng là những tà linh và ma quỷ trong địa ngục chuyên tra tấn con người để giải trí. Sau đó, tôi quá đau đớn đến mức mất kiểm soát bàng quang, rồi lại ngất đi. Một lúc sau, tôi không biết là bao lâu, chúng lại dùng nước lạnh làm tôi tỉnh dậy và tiếp tục sốc điện vào ngực, bụng và háng tôi. Tôi cảm thấy như da thịt mình đang bị đốt cháy bởi tất cả những lần sốc điện đó. Một trong những tên sĩ quan hét lên trong khi giật điện tôi: “Đức Chúa Trời của mày bây giờ ở đâu? Kêu lão ta đến cứu mày đi! Tao mới là Đức Chúa Trời của mày nè!”.
Tôi ngất đi vì những đợt sốc điện hết lần này đến lần khác, và chúng tạt nước để tôi tỉnh dậy hết lần này đến lần khác. Cuối cùng, tôi thậm chí không còn đủ sức để vùng vẫy hay cử động gì. Tôi nằm nửa sống nửa chết trên sàn nhà, cảm thấy đau buồn, tức giận và đau đớn cùng cực. Tôi không biết chúng sẽ hành hạ và ngược đãi mình bao lâu nữa. Tôi thực sự không thể chịu đựng được nữa và tôi muốn cắn lưỡi tự tử để sớm thoát khỏi cảnh khốn cùng này. Ngay khi bên bờ vực suy sụp, tôi đã nghĩ đến bài thánh ca này: “Sa-tan tàn phá tôi kinh khủng. Tôi đã thấy mặt của quỷ ma. Không thể quên mối hận truyền kiếp, thà chết không cúi đầu trước Sa-tan! Đức Chúa Trời trở nên xác thịt cứu rỗi con người, chịu đau khổ, nhục nhã. Tôi đã hưởng quá nhiều tình yêu của Ngài, sao có thể ngơi nghỉ mà không báo đáp? Là con người, tôi phải đứng lên, dâng đời mình làm chứng cho Đức Chúa Trời. Thân tan nát nhưng lòng thêm mạnh, tận trung với Ngài đến chết không hối hận. Tôi thuận phục cho tới chết nếu có thể thỏa mãn Ngài dù chỉ một lần”. Tôi nghĩ về việc Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt và chịu đựng sự sỉ nhục dữ dội như thế nào chỉ để cứu rỗi nhân loại, cách Ngài chia sẻ lời Ngài để chăm tưới và gìn giữ chúng ta. Đức Chúa Trời đã trả giá rất đắt vì chúng ta, và Ngài đã luôn ở đó hướng dẫn và bảo vệ tôi kể từ khi tôi bị bắt. Tôi đã được hưởng rất nhiều ân điển của Đức Chúa Trời, nhưng tôi đã làm được gì cho Ngài? Các thánh đồ qua các thời đại đã có thể hy sinh bản thân và đổ máu mình, tử đạo vì Đức Chúa Trời, thế mà sau khi trải qua chút đau khổ, tôi đã muốn thoát khỏi nó bằng cái chết. Tôi thật là một kẻ hèn nhát! Đây mà là lời chứng cho Đức Chúa Trời được sao? Chẳng phải tôi đã để Sa-tan cười nhạo tôi sao? Nghĩ vậy, tôi thầm cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, dù Sa-tan có hành hạ con thế nào đi chăng nữa, con cũng sẽ không bao giờ nhượng bộ nó. Con sẽ sống vì Ngài”.
Sau đó, chúng tiếp tục sốc điện tôi hết lần này đến lần khác, và tôi nghiến răng không kêu la gì. Sau khi tôi bất tỉnh vì bị điện giật lần cuối, tôi thấy mình đang đứng ở một nơi mà tôi có thể nhìn thấy xa xa có một ngọn núi có hình dạng giống như mỏ của một con đại bàng, xung quanh là cây cối khô héo, cùng tre trúc và hoa cỏ chết khô. Chỉ có ngọn núi là xanh tươi. Có rất nhiều người môi khô nứt nẻ đang leo lên núi và một số người chết khát dọc đường. Người tôi cũng khát khô kinh khủng, và vừa đến chân núi, tôi đã nghe tiếng nước chảy ra từ đó. Tôi vội bắt đầu trèo lên và sau khi cố gắng leo được nửa đường, tôi đã có thể ngẩng đầu lên và uống thứ nước đang nhỏ xuống từ mỏ đại bàng. Nước ấy có vị rất ngọt! Khi đang uống, tôi nghe thấy tiếng hát. Tôi quay đầu lại và thấy hai hàng người mặc đồ trắng đang hát thánh ca; họ trông giống như những thiên sứ. Lời bài hát ấy thế này: “Đức tin và tình yêu mạnh mẽ nhất là điều chúng ta cần phải có trong công tác của thời kỳ sau rốt. Chúng ta có thể vấp ngã từ sự sơ suất nhỏ nhất, bởi giai đoạn công tác này khác với tất cả các giai đoạn trước đây: Điều mà Đức Chúa Trời đang hoàn thiện là đức tin của nhân loại, điều vừa vô hình vừa không chạm được. Điều Đức Chúa Trời làm là chuyển đổi lời thành đức tin, thành tình yêu và thành sự sống. Con người phải trải qua hàng trăm sự tinh luyện, đến khi có đức tin mạnh hơn Gióp. Họ phải chịu đựng sự đau khổ và mọi kiểu hành hạ cực độ mà không bao giờ rời xa Đức Chúa Trời. Khi họ thuận phục cho đến chết và có đức tin mạnh mẽ nơi Đức Chúa Trời, thì khi ấy giai đoạn công tác này của Đức Chúa Trời hoàn thành” (Con đường… (8), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Âm thanh của bài hát vang vọng trong thung lũng – âm thanh ấy thật trong trẻo, du dương và đẹp đẽ. Tôi thấy rất thú vị và được truyền cảm hứng khi nghe. Sau đó, tôi chợt tỉnh dậy. Tôi vẫn còn rất đau, nhưng tôi cảm thấy bình yên trong lòng. Tôi thấy một tên sĩ quan đang ngồi nghỉ trên ghế, kiệt sức và thở hồng hộc. Một tên sĩ quan khác thì nói: “Tao ấn tượng thiệt đó. Con đàn bà này làm bằng sắt – không gì giết được nó”. Tôi đã dâng lời cảm tạ và ngợi khen Đức Chúa Trời khi nghe vậy. Chính Đức Chúa Trời đã khai sáng và dẫn dắt tôi, cho phép tôi nhìn thấy khải tượng này, cho tôi sức mạnh, và dẫn dắt tôi vượt qua thời điểm khó khăn này. Đức tin của tôi nơi Đức Chúa Trời lớn lên. Sau đó, một trong những tên sĩ quan ném áo quần của tôi lại cho tôi và bỏ đi, vẻ chán nản. Tôi đã yếu đi vì bị điện giật và đau đớn đến mức không thể ngồi dậy được. Phải cố gắng rất nhiều, tôi mới có thể mặc quần áo lại trong khi nằm trên sàn, nhưng quần lót của tôi thì không thấy đâu và chúng đã xé quần áo của tôi. Tôi hầu như không thể che thân. Tôi cảm thấy như mình bị đã lột mất một lớp da do điện giật, và quần áo dính chặt vào da thịt thật đau đớn. Những vết thương mà tôi có do bị sốc điện phải mất hơn một năm mới lành, và để lại cho tôi những di chứng sau đó. Kể từ lúc ấy, tôi thường gặp phải những cơn co thắt toàn thân không chủ ý – tôi nghiến răng và toàn thân cuộn lại như một quả bóng. Nếu điều này xảy ra vào ban đêm, tôi không thể ngủ ngon, và ngày hôm sau thì bị kiệt sức, không có năng lượng.
Vào ngày thứ năm tôi bị bắt, cảnh sát đưa tôi đến một nhà tạm giam. Sau năm ngày không ăn uống, cổ họng tôi khô khốc không thể nuốt nổi. Các tù nhân khác mang cho tôi một nắm cơm nguội khô, dùng đũa cạy miệng tôi và nhét vào miệng tôi, hét lên: “Mau nuốt đi, mày mà không nuốt thì biết tay!”. Cảm giác ấy giống như nuốt đinh vậy – cổ họng tôi đau đến nỗi nước mắt giàn giụa trên mặt. Kiểu sỉ nhục và bắt nạt ấy là chuyện thường ngày ở đó. Một ngày nọ, trưởng buồng giam lấy được một chiếc kéo từ đâu đó, đè tôi xuống đất, và hỏi một vài tù nhân khác là nên cắt cho tôi kiểu tóc nào. Một trong số chúng nói: “Nó có đạo mà, vậy thì cắt tóc phù thủy cho nó đi!”. Trưởng buồng giam ngay lập tức cắt bím tóc của tôi, và những người khác thì phá lên cười thích thú khi thấy tóc tôi rối bù xù như vậy. Một trong số chúng nói: “Cho nó kiểu tóc nữ tu đi!”. Trưởng buồng giam cắt một mảng lớn tóc của tôi để lộ da đầu, và những người khác lại phá lên cười. Sự sỉ nhục này thật khủng khiếp đối với tôi, và tôi không cầm được nước mắt. Tôi không thể nhấc cánh tay và chân sau khi bị treo bằng còng tay và bị điện giật, và việc cố gắng đi lại khiến chân rất đau. Nhưng tôi vẫn phải tập thể dục hàng ngày với tất cả những người khác, nhấc chân lên cao rồi đặt xuống thật mạnh, và tạo ra những âm thanh lớn. Những động tác này khiến tôi lần nào cũng thực sự đau đớn. Toàn thân tôi yếu ớt, không còn sức lực và không thể theo kịp nhịp, vì vậy trưởng buồng giam đã túm lấy người tôi, để lại những vết bầm tím. Cảm giác đặc biệt khó chịu khi hành kinh. Không có giấy vệ sinh, tôi lại không hề có đồ lót, và trưởng buồng giam chỉ đưa cho tôi một bộ đồng phục tù nhân, vì vậy quần của tôi dính đầy máu và tôi không thể thay. Vải của bộ đồng phục cũng rất thô, vì vậy quần trở nên cứng đơ sau khi máu khô lại trên đó. Những vết thương nơi háng do bị giật điện vẫn chưa lành nên đi lại rất đau và mỗi khi chúng tôi tập thể dục, bộ đồng phục lại cọ vào những vết thương đó và tôi cảm thấy như bị dao cứa vào. Điều tồi tệ nhất là không có giấy xúc, tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc dùng nước lạnh để vệ sinh. Tôi đã mắc chứng xuất huyết trước khi trở thành tín hữu, và tôi lo chứng này sẽ tái phát vì nước lạnh. Trong những ngày đó, tôi thường không kìm được nước mắt và cảm thấy mình thực sự sẽ không vượt qua được. Tôi không biết khi nào thì mọi chuyện mới kết thúc, và tôi không muốn ở lại trong nhà tù của lũ quỷ đó thêm một giây phút nào nữa. Khi sự đau khổ của tôi đạt đến một điểm nhất định, tôi lại nghĩ đến cái chết. Nhận ra rằng lòng mình đang lạc khỏi Đức Chúa Trời, tôi đã cầu nguyện, xin Đức Chúa Trời dẫn dắt tôi vượt qua tình cảnh của mình. Rồi một ngày nọ, tôi nhớ đến đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Khi ngươi đối mặt với đau khổ, ngươi phải có thể không màng đến xác thịt và không phàn nàn về Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời ẩn mình Ngài khỏi ngươi, ngươi phải có thể có đức tin để theo Ngài, để duy trì tình yêu trước đó của ngươi mà không để nó dao động hay tan biến. Bất kể Đức Chúa Trời làm gì, ngươi phải thuận phục kế hoạch của Ngài và sẵn sàng rủa sả xác thịt của chính mình thay vì phàn nàn về Ngài. Khi ngươi phải đối mặt với những sự thử luyện, ngươi phải làm thỏa lòng Đức Chúa Trời, cho dù ngươi có thể khóc trong cay đắng hay cảm thấy miễn cưỡng phải chia tay đối tượng yêu quý nào đó. Chỉ đây mới là tình yêu và đức tin đích thực” (Những người được làm cho hoàn thiện phải trải qua sự tinh luyện, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Qua lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu rằng Ngài đang để tôi trải nghiệm sự bức hại của con rồng lớn sắc đỏ để thử thách tôi, để xem tôi có đức tin thật nơi Ngài hay không. Điều này khiến tôi nghĩ đến Gióp và Phi-e-rơ. Gióp đã bị Sa-tan tấn công và hành hạ – khắp người ông nổi ung độc, khiến ông vô cùng khốn khổ, và ông ngồi trần truồng trong đống tro, lấy mảnh sành cạo khắp người. Tuy nhiên, ông đã không oán trách Đức Chúa Trời mà ca ngợi danh Ngài. Phi-e-rơ đã bị đóng đinh ngược đầu vì Đức Chúa Trời và có thể quy phục cho đến chết, đưa ra một lời chứng vang dội. Cả hai đều đã làm chứng cho Đức Chúa Trời giữa đau khổ của họ. So với họ, tôi thực sự có quá ít đức tin. Càng nghĩ tôi càng cảm thấy xấu hổ, nên đã thầm cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, cho dù có đau khổ thế nào, con cũng muốn đi theo Ngài! Con rồng lớn sắc đỏ càng hành hạ con bao nhiêu thì con càng muốn nương tựa Ngài, đứng vững trong chứng ngôn của mình và làm nhục Sa-tan bấy nhiêu!”.
Rồi một ngày, cảnh sát gọi chồng tôi vào. Thấy tôi bị tra tấn đến mức trông không giống con người, anh ấy bật khóc ngay tại chỗ và nói: “Làm sao em có thể chịu đựng được loại tra tấn này chứ? Đội trưởng Châu đã nói rằng nếu em nói với họ những gì em biết thì chúng ta có thể về nhà”. Thấy tôi vẫn không chịu nói, tên đội trưởng Châu liền gọi cho con gái tôi. Con bé nói trong nước mắt: “Mẹ ơi, mẹ đang ở đâu? Thầy cô và các bạn ở trường đều nói con là con gái của một lãnh đạo giáo phái. Tất cả họ đều bắt nạt con và làm lơ con. Ngày nào con cũng trốn vào góc lớp khóc.…”. Tôi kéo điện thoại ra khỏi tai, thực sự không thể nghe thêm được nữa. Cảm giác đó như một nhát dao cứa vào tim tôi và tôi không thể ngừng khóc. Tên đội trưởng Châu tận dụng cơ hội này để nói: “Cứ khai với chúng tôi. Nói cho chúng tôi biết ngôi nhà đang cất giữ tiền của hội thánh, chỉ một nhà thôi, thế là cô có thể đoàn tụ với gia đình rồi”. Tôi đã cảm thấy có chút yếu đuối vào khoảnh khắc ấy. Tôi nghĩ rằng nếu tôi không nói bất cứ điều gì, chồng và con gái tôi cũng sẽ bị liên lụy, vì vậy có lẽ tôi có thể chia sẻ một số thông tin không quá quan trọng. Sau đó, tôi nhận ra rằng điều này không phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời, nên tôi nhanh chóng cầu nguyện, xin Đức Chúa Trời trông giữ lòng tôi để tôi có thể chiến thắng sự cám dỗ này của Sa-tan. Sau đó, tôi nghĩ đến điều Đức Chúa Trời đã phán: “Dân sự của Ta phải luôn luôn cảnh giác trước quỷ kế của Sa-tan, bảo vệ cổng nhà Ta cho Ta… để tránh rơi vào bẫy của Sa-tan, khi đó hối hận cũng không kịp” (Những lời của Đức Chúa Trời với toàn vũ trụ – Chương 3, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sự khai sáng của lời Đức Chúa Trời đến thật đúng lúc. Tôi chợt nhận ra rằng Sa-tan đang cố lợi dụng tình cảm tôi dành cho gia đình để tấn công tôi, khiến tôi phản bội Đức Chúa Trời. Tôi không thể mắc bẫy của nó – tôi không thể bán đứng các anh chị em vì gia đình mình. Và rồi tôi nhớ đến một điều khác từ lời Đức Chúa Trời: “Các ngươi phải chịu đựng gian khổ vì lẽ thật, các ngươi phải dâng hiến bản thân cho lẽ thật, các ngươi phải nhịn nhục vì lẽ thật, và để có thêm càng nhiều lẽ thật, các ngươi càng phải chịu khổ nhiều hơn. Đây chính là những gì các ngươi nên làm. Các ngươi đừng vứt bỏ lẽ thật chỉ để có cuộc sống gia đình bình yên, và các ngươi không được mất đi tôn nghiêm và nhân cách đời này của mình vì sự hưởng thụ chốc lát. Các ngươi nên theo đuổi tất cả những gì đẹp đẽ và tốt lành, và nên theo đuổi con đường sống có ý nghĩa hơn” (Các kinh nghiệm của Phi-e-rơ: Hiểu biết của ông về hình phạt và sự phán xét, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Khi suy ngẫm về lời Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy vô cùng tội lỗi và ân hận. Tôi nghĩ đến việc Gióp bị Sa-tan cám dỗ, mất con cái và tất cả tài sản, và ông vẫn không oán trách Đức Chúa Trời như thế nào. Ông đã giữ vững đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời, làm chứng tuyệt vời và vang dội cho Ngài. Nhưng đối mặt với những cám dỗ của cảnh sát, tôi đã sẵn lòng bán đứng các anh chị em và quay lưng lại với Đức Chúa Trời để bảo vệ lợi ích của gia đình mình. Tôi thực sự không có lương tâm; tôi thật ích kỷ và đáng khinh miệt, và làm Đức Chúa Trời đau lòng. Mỗi khi tôi lâm nguy, Đức Chúa Trời đều ở đó dẫn dắt và bảo vệ tôi, ban cho tôi đức tin và sức mạnh bằng lời Ngài. Tình yêu của Ngài dành cho tôi là rất thật, và bây giờ đã đến lúc tôi phải lựa chọn, tôi không thể bán đứng các thành viên khác trong hội thánh vì chồng và con gái mình. Số phận của mỗi người trong cuộc đời là do Đức Chúa Trời định trước, và số phận của chồng cùng con gái tôi đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, Sa-tan không thể quyết định được. Tôi biết mình nên phó thác mọi sự cho Đức Chúa Trời. Khi nghĩ về sự việc theo cách đó, những gì gia đình tôi đang phải đối mặt không còn làm tôi đau khổ nữa, và tôi quyết tâm phản bội xác thịt, đứng vững làm chứng cho Đức Chúa Trời.
Vào ngày thứ 28 tôi bị bắt, cảnh sát đưa tôi và Khuê Lan vào một trại tạm giam, nhốt chúng tôi cùng với những gái mại dâm bị nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục. Đó là phòng giam mà ngay cả cảnh sát cũng không muốn đến gần. Một số tù nhân bị lở loét khắp người và da của họ bị thối rữa, một số thì bị lở loét mưng mủ ở bộ phận sinh dục khiến họ đau đớn không chịu nổi; họ quấn mình trong những tấm ga trải giường bẩn thỉu, và nhảy chồm chồm trên những chiếc giường bê tông. Không có bất kỳ loại thuốc nào, vì vậy tất cả những gì họ có thể làm là dùng muối và kem đánh răng để giảm đau. Một số đồ lót họ giặt và phơi ngoài trời thậm chí còn có rận bò tới lui ở đường may. Tôi thầm nghĩ: “Đây không phải là nơi dành cho con người; đây là một ổ bệnh! Làm sao mình có thể tiếp tục sống nếu mắc phải một loại bệnh tình dục nào đó, hoặc bệnh AIDS trong khi mình ở đây?”. Cảm thấy hơi sợ hãi, tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài bảo vệ và dẫn dắt tôi. Sau đó tôi nghĩ về một điều mà Ngài đã phán: “Trong mọi sự xảy ra trong vũ trụ, chẳng có sự gì mà Ta không có phán quyết cuối cùng. Có sự gì mà không nằm trong tay Ta?” (Những lời của Đức Chúa Trời với toàn vũ trụ – Chương 1, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Phải, mọi sự đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, và nếu Ngài không cho phép, tôi sẽ không bị nhiễm bệnh khi sống với những người phụ nữ này; nếu tôi thực sự bị nhiễm bệnh, đó sẽ là điều tôi cần trải nghiệm. Những suy nghĩ này đã dập tắt nỗi sợ hãi của tôi và tôi có thể bình tĩnh đối mặt với tình cảnh ấy. Trong sáu tháng tiếp theo, mặc dù ngủ và ăn cùng với những tù nhân khác nhưng tôi không bị nhiễm bệnh nhờ sự bảo vệ của Đức Chúa Trời.
Khi ở trong trại tạm giam, cảnh sát đã chỉ định một vài tên nội gián để làm thân với tôi và thu thập thông tin về hội thánh. Không lâu sau khi bị đưa vào trại tạm giam, một tù nhân khác bắt đầu cố lấy lòng tôi, nói rằng chị ta cũng muốn trở thành một tín hữu, và rằng chị ta thực sự ngưỡng mộ những người lãnh đạo hoặc người làm công trong hội thánh rồi hỏi tôi có phải là lãnh đạo hay không. Lúc đó, tôi lập tức cảnh giác và vội đổi chủ đề. Sau đó, mỗi khi chị ta đề cập đến điều gì đó về đức tin nơi Đức Chúa Trời, tôi sẽ chuyển hướng cuộc trò chuyện, để chị ta không moi được gì từ tôi. Không lâu sau, chị ta rời trại tạm giam. Sau đó ít lâu, một ngày nọ, khi tôi đi ngang qua phòng giam nam, một trong số các tù nhân nam đã ném cho tôi một mảnh giấy. Mảnh giấy ghi rằng anh ta đã bị bắt vì rao truyền Phúc Âm và bị kết án một năm rưỡi. Anh ta cũng nói rằng hy vọng chúng tôi có thể giúp đỡ lẫn nhau, và muốn tôi trả lời thư của anh ta. Tôi đã tự hỏi liệu anh ta có thực sự là tín hữu không. Khi tôi đang do dự về việc có nên trả lời thư của anh ta hay không thì đột nhiên tôi nghĩ đến một điều từ lời Đức Chúa Trời: “Các ngươi hãy luôn thức canh trông đợi, cầu nguyện trước Ta nhiều hơn, phải biết được đủ loại âm mưu quỷ kế của Sa-tan, phải biết các thần, biết con người, biết phân biệt mọi loại người, sự việc và sự vật” (Những lời của Đấng Christ buổi ban đầu – Chương 17, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời là một hồi chuông cảnh tỉnh tức thì cho tôi. Đây có thể là một trong những mưu đồ của Sa-tan? Vào thời điểm đó, tôi thực sự không thể nhìn thấu, vì vậy tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời nhiều lần, xin Ngài mặc khải điều đó. Khoảng một tuần sau, khi tất cả các tù nhân tập trung ở sân trong, tôi tình cờ nhìn thấy người đàn ông đó. Tôi thấy khó hiểu khi nhìn thấy đầu hắn không cạo – tất cả các tù nhân nam đều phải cạo đầu khi bị kết án, vậy tại sao hắn vẫn còn tóc? Ngay khi tôi đang đang suy nghĩ như vậy, một nữ tù nhân bên cạnh khều tôi và chỉ vào hắn ta rồi nói với giọng điệu đắc chí: “Gã đó là sĩ quan cảnh sát, một thời gian trước hắn còn trả tiền cho tôi phục vụ đó”. Tôi nhận ra ngay rằng hắn ta là một cảnh sát, và hắn ta đang cố gắng tiếp cận tôi để khiến tôi thú nhận. Tôi thấy con rồng lớn sắc đỏ thực sự có đủ loại mưu đồ – nó thật đê hèn và đáng khinh ghét! Tôi thầm cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự bảo vệ của Ngài, đã cho phép tôi hết lần này đến lần khác nhìn thấu những mánh khóe của Sa-tan, và ngăn tôi không sa vào bẫy.
Vào tháng 1 năm 2007, cảnh sát đưa tôi đến một trại lao động cùng với Khuê Lan và ba người khác đã bị kết án về tội buôn ma túy. Tôi sẽ không bao giờ quên nỗi nhục mà mình đã trải qua ngày hôm đó. Khi chúng tôi đến thì đã giữa trưa và tuyết rơi nhẹ; hàng trăm tù nhân khác đang xếp hàng trong sân của trại lao động để dùng bữa. Các sĩ quan cảnh sát đi về phía chúng tôi với vẻ mặt hằm hằm và bảo những tên tội phạm ma túy đi lấy thức ăn, chỉ chừa lại tôi và Khuê Lan ở đó. Sau đó chúng ra lệnh cho chúng tôi cởi hết quần áo. Tôi tự hỏi liệu chúng có định khám xét chúng tôi trước sự quan sát của tất cả những tù nhân khác hay không. Khi tôi không chịu cởi quần áo, vài tên cảnh sát xông vào chúng tôi và ép cởi hết quần áo của cả tôi lẫn Khuê Lan. Đối với tôi, bị lột trần truồng hoàn toàn trước mặt tất cả những người đó còn tệ hơn cả việc chúng giết tôi. Bao nhiêu con mắt đều dán chặt vào chúng tôi, còn tôi thì cúi đầu, ôm ngực ngồi xổm xuống. Một tên sĩ quan lôi tôi đứng lên trở lại và quát tôi để hai tay ra sau đầu, đứng dạng chân ra, đối mặt với tất cả các tù nhân và làm động tác đứng lên ngồi xuống. Khuê Lan cũng phải làm như vậy, và tôi có thể thấy toàn bộ thân người chị ấy đang run rẩy. Chị ấy đã gầy đến mức chỉ còn da bọc xương, trên người còn có một số vết sẹo – chắc hẳn chị ấy cũng đã bị tra tấn rất nhiều. Cảnh sát chỉ vào chúng tôi và hét lên với những người khác: “Hai con này tin Đức Chúa Trời Toàn Năng. Nếu bất kỳ ai trong số tụi mày trở thành tín hữu thì rốt cuộc sẽ như tụi nó!”. Điều này khiến các tù nhân xầm xì bàn tán, và vài người trong số họ nói giọng chế giễu: “Sao Đức Chúa Trời của tụi mày không đến cứu tụi mày?”. Chúng tôi phải thực hiện động tác đứng lên ngồi xuống trước hàng trăm người như thế này trong khoảng 10 phút. Tôi chưa bao giờ phải chịu đựng sự sỉ nhục như vậy trước đây và tôi không thể ngừng khóc. Nếu ở đó có một bức tường, tôi hẳn muốn đập đầu vào đó để kết liễu đời mình. Sau đó, tôi nhớ đến một trong những bài thánh ca của hội thánh: “Thủ đoạn của ma quỷ thật man rợ, độc ác và thực sự đáng khinh. Khi đã thấy rõ được bộ mặt của Sa-tan, tôi càng yêu kính Đấng Christ hơn. Tôi sẽ không bao giờ khuất phục trước Sa-tan hay kiếm tìm một sự tồn tại vô giá trị. Tôi sẽ chịu mọi dằn vặt, khó khăn cũng như đau đớn, và chịu đựng qua những đêm đen tối nhất. Để mang lại sự an ủi cho Đức Chúa Trời, tôi sẽ làm chứng vang dội và làm ô danh Sa-tan” (Trỗi dậy giữa bóng tối và áp bức, Theo Chiên Con và hát những bài ca mới).
Nghĩ về ca từ của bài thánh ca này, tôi nghĩ đến việc Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh trên cây thập tự – lính La Mã đánh đập, sỉ nhục Ngài và nhổ vào mặt Ngài. Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết, vì vậy lẽ ra Ngài không phải chịu kiểu đau khổ như vậy, nhưng Ngài đã chịu nỗi đau đớn và tủi nhục tột cùng để cứu rỗi nhân loại, và cuối cùng chịu đóng đinh trên cây thập tự vì chúng ta. Ngài đã chịu đựng sự sỉ nhục và đau khổ cùng cực. Vậy mà là một con người bại hoại, tôi lại muốn chết khi bị làm nhục và tôi không có bất kỳ chứng ngôn nào. Tôi đã bị ma quỷ và Sa-tan làm nhục vì đi theo Đức Chúa Trời – đây là sự bức hại vì lẽ công chính, và là một điều vinh quang! Đảng Cộng sản càng làm nhục và bức hại tôi, tôi càng thấy nó đáng khinh miệt và hèn hạ như thế nào, và tôi càng có thể loại bỏ và từ bỏ nó, đồng thời giữ vững quyết tâm đứng vững làm chứng cho Đức Chúa Trời.
Sau đó, một vài tên cai tù đưa chúng tôi đến đứng cạnh một cầu thang, và vào lúc đó, hai tù nhân khác lao xuống và bắt đầu đấm đá chúng tôi, túm tóc và đập đầu tôi vào tường, khiến tai tôi ù đi. Chẳng mấy chốc, tôi không thể nghe thấy gì nữa và cảm thấy như đầu mình bị chẻ ra. Khuê Lan bị chảy máu mắt, mũi, miệng và tai. Sau khi đánh đập, những tên tù nhân lôi chúng tôi ra ban công để bắt chúng tôi đứng yên ở đó như một hình phạt. Lúc đó tuyết rơi dày, gió lạnh thổi lồng lộng và nhiệt độ ban đêm giảm xuống âm bảy hoặc tám độ. Chúng tôi chỉ mặc mỗi chiếc quần trong dài nên run cầm cập vì lạnh. Đến lúc tôi thực sự không thể chịu đựng được nữa và muốn thay đổi tư thế, tôi hơi nhích hai bàn chân, và trưởng buồng giam lao đến như thể sắp đánh tôi. Ngày hôm sau, toàn thân tôi đau nhức vì lạnh và tim tôi như muốn ngừng đập. Ngoài ra còn có những cơn đau nhói ở hai bàn chân. Cảm giác đó còn tồi tệ hơn cả cái chết, và mỗi phút giây đều khó mà chịu đựng được. Khi cơn đau lên đến cực độ nhất định, tôi thực sự muốn nhảy khỏi ban công và tự kết liễu đời mình. Nhưng rồi tôi lập tức nhận ra rằng suy nghĩ như vậy là không phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời, nên tôi vội kêu cầu Ngài: “Lạy Đức Chúa Trời, con gần như không thể cầm cự được nữa. Con thực sự không thể chịu đựng được nữa – xin hãy cho con đức tin để có thể chịu đựng được sự đau khổ này”. Tôi nghĩ đến một bài thánh ca lời Đức Chúa Trời sau khi cầu nguyện: “Trong thời kỳ sau rốt này các ngươi phải mang chứng ngôn cho Đức Chúa Trời. Cho dù nỗi đau khổ của các ngươi lớn đến đâu, các ngươi vẫn nên đi đến tận cùng, và thậm chí đến hơi thở sau cùng, các ngươi vẫn phải trung thành với Đức Chúa Trời, và vâng theo sự sắp đặt của Đức Chúa Trời; chỉ có điều này mới là yêu kính Đức Chúa Trời thực sự, và chỉ có điều này mới là lời chứng mạnh mẽ và vang dội” (Chỉ bằng cách trải qua những sự thử luyện đau đớn, ngươi mới có thể biết được sự đáng mến của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi nhận ra rằng Đức Chúa Trời luôn dẫn dắt tôi, chăm sóc tôi và trông giữ tôi. Khi nghĩ về sự đau khổ và sỉ nhục mà mình đã trải qua, tôi nhận ra rằng nếu không nhờ sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời hoặc đức tin và sức mạnh mà lời Ngài ban cho tôi thì tôi đã không thể vượt qua sự ngược đãi của những ma quỷ ấy. Đức Chúa Trời đã chỉ cho tôi cách sống cho đến ngày đó, và Ngài đã hy vọng rằng tôi có thể làm chứng cho Ngài trước Sa-tan. Vậy mà bây giờ, để khỏi phải chịu chút gian khổ thể xác, tôi đã muốn kết liễu đời mình. Tôi quá yếu đuối. Làm sao đây mà là chứng ngôn cho Đức Chúa Trời được chứ? Chẳng phải chết có nghĩa là tôi đã trở thành con mồi cho những mưu đồ của Sa-tan sao? Tôi không thể chết, tôi phải đứng vững trong lời chứng của mình và khiến Sa-tan phải xấu hổ. Khi nghĩ theo cách đó thì tự lúc nào không hay, tôi không còn cảm thấy lạnh nữa mà toàn thân ấm áp.
Trưởng buồng giam bắt chúng tôi đứng cho đến chiều ngày thứ ba. Cả chân của Khuê Lan và tôi đều sưng tấy khủng khiếp và có cảm giác như máu đã đông đặc lại trong đó. Mạch máu nổi khắp chân và bàn chân chúng tôi rất đau, nhưng tôi vẫn tạ ơn Đức Chúa Trời. Trong tiết trời tuyết rơi lạnh giá, Khuê Lan và tôi đã đứng ở ban công suốt hai ngày hai đêm mà không ăn uống gì, nhưng chúng tôi không chết cóng hay thậm chí bị cảm lạnh. Đây chính là sự bảo vệ của Đức Chúa Trời.
Trong thời gian ở trại lao động, mỗi ngày tôi phải chịu đựng hơn chục tiếng, thậm chí đến 22 tiếng lao động khổ sai, và tôi thường xuyên bị trưởng buồng giam đánh đập và trừng phạt vì không hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục khai sáng và dẫn dắt tôi, cho phép tôi vượt qua một năm rưỡi cuộc sống địa ngục trong tù. Đức Chúa Trời đã luôn ở bên cạnh tôi, trông giữ và bảo vệ tôi. Tôi đã nhiều lần bị tra tấn và làm nhục, đến mức muốn kết liễu đời mình, và chính lời Đức Chúa Trời đã cho tôi đức tin và sức mạnh, dẫn dắt tôi vượt qua mọi giông tố. Đức Chúa Trời đã ban cho tôi sự sống này! Bằng cách trải qua sự áp bức của con rồng lớn sắc đỏ, tôi đã biết được rằng điều duy nhất chúng ta có thể thực sự trông cậy vào chính là Đức Chúa Trời; chỉ có Ngài mới thực sự yêu thương nhân loại, và chỉ có Ngài mới có thể cứu rỗi chúng ta khỏi sự bại hoại và tàn phá của Sa-tan, và đưa chúng ta đến sống trong sự sáng. Tôi tạ ơn Đức Chúa Trời!