17. Có đúng không khi nói: “Không thể không có lòng phòng người”?
Khi tôi còn nhỏ, mẹ thường nói với tôi rằng: “Con phải cảnh giác khi giao thiệp với người khác. Đừng có ngu ngốc mà nói hết những gì mình nghĩ. Như thế rất dễ bị người khác lừa gạt và hãm hại”. Lúc đó, khi nghe những lời này, tôi chưa có kinh nghiệm trực tiếp, nên chỉ biết gật đầu. Sau này, khi ra ngoài xã hội, tôi thấy rằng mọi người xung quanh sẽ dùng mưu mô và hãm hại nhau vì lợi ích của bản thân. Nếu ai lỡ nói sai, thì họ sẽ bị người khác hãm hại. Tôi thầm nghĩ: “Lòng người thật khó đoán. Sau này mình phải cảnh giác khi tiếp xúc với người khác. Miễn mình không có lòng hại người là được. Nhưng cần phải có lòng phòng người, nếu không sẽ bị họ lợi dụng”. Vì vậy dù là giao thiệp với bạn bè hay hàng xóm thì tôi đều rất cảnh giác. Tôi không dám nói lên những gì mình nghĩ, vì sợ rằng nếu mình nói sai thì sẽ xúc phạm ai đó và khiến bản thân gặp rắc rối. Tôi đi làm xa nhà đã nhiều năm mà hầu như không có bạn thân. Sau khi tin Đức Chúa Trời, tôi bắt đầu tiếp xúc với các anh chị em, thấy rằng khi nhóm họp và thông công về trải nghiệm, hiểu biết của bản thân, họ có thể đơn thuần mở lòng và nói ra lời thật lòng. Họ không hề che giấu điều gì, rất phóng khoáng và tự do. Dần dần, tôi học cách mở lòng và thông công cùng với họ mà không còn bận tâm quá nhiều. Tôi cảm thấy tin vào Đức Chúa Trời thật sự rất tuyệt. Nhưng khi dính dáng đến lợi ích của bản thân, là tôi lại không kìm được mà cư xử theo quy tắc xử thế “Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người”.
Lúc đó là tháng Ba năm 2023. Vì công tác văn tự của hội thánh không đạt hiệu quả tốt, lãnh đạo đã nhiều lần gửi thư hỏi vì sao hiệu quả lại không tốt, tiếp theo cần làm gì để xoay chuyển tình hình. Người chị em mà tôi phối hợp cùng, Tâm Tịnh, phản đối quyết liệt. Chị ấy nói với nhóm trưởng Lâm Tiêu và tôi rằng: “Ngày nào chúng ta cũng bận đến mức không có chút thời gian rảnh nào. Lãnh đạo thì lại giám sát và kiểm tra công tác quá sát sao. Làm bổn phận này thật sự quá căng thẳng!”. Lúc ấy tôi tưởng chị ấy nói như thế là vì tình trạng không tốt. Ai mà không có những lúc tiêu cực và phơi bày sự bại hoại của mình chứ? Hơn nữa, tôi cũng có những tình trạng đó của chị, chỉ là tôi không nói ra. Vì vậy, tôi không quá để tâm đến những gì Tâm Tịnh nói. Nhóm trưởng đã thông công với Tâm Tịnh rằng, việc chị ấy phản đối sự giám sát của lãnh đạo, nguyên nhân sâu xa là do chị tham hưởng an nhàn xác thịt khi thực hiện bổn phận, không muốn chịu khổ hay trả giá. Nhóm trưởng cũng thông công về tầm quan trọng của việc lãnh đạo giám sát công tác. Sau khi nghe nhóm trưởng thông công, Tâm Tịnh cũng đã nhận ra bản thân khá lười biếng. Nếu như không có lãnh đạo giám sát, chị ấy sẽ chểnh mảng khi thực hiện bổn phận của mình và chắc chắn sẽ trì hoãn công tác. Tuy nhiên sau đó, khi tham gia nhóm họp và học tập, Tâm Tịnh vẫn chống đối việc lãnh đạo giám sát công tác. Tôi nghĩ thầm: “Có thể gần đây công tác của chị ấy không thu được hiệu quả, tình trạng bị ảnh hưởng nên mới nói như vậy. Nhờ các buổi nhóm họp và thông công, biết đâu sau này chị ấy có thể thay đổi”. Vì vậy tôi cũng không để tâm chuyện này.
Vào một ngày tháng Năm, lãnh đạo tổ chức nhóm họp với chúng tôi. Chị ấy nói có người phản ánh rằng Tâm Tịnh thích lan tỏa sự tiêu cực và rất phản đối việc các lãnh đạo giám sát công tác. Lãnh đạo cũng dùng lời Đức Chúa Trời để thông công, phân tích tính chất và hậu quả trong lời nói và hành động của Tâm Tịnh. Đột nhiên nghe được chuyện này, tôi khá sửng sốt. Tôi đoán rằng nhóm trưởng Lâm Tiêu chính là người đã phản ánh, bởi vì chỉ có hai chúng tôi biết những gì Tâm Tịnh đã nói. Không phải tôi phản ánh, vậy chắc chắn là Lâm Tiêu rồi. Nghĩ vậy, một ý nghĩ thoáng qua trong đầu tôi: “Sau này mình nên ăn nói cẩn thận một chút. Chỉ cần nói sai một câu thôi cũng dễ dàng dẫn đến tai họa”. Nhưng khi có suy nghĩ này, tôi không hề lưu ý mà cứ để nó trôi qua. Hơn mười ngày sau, lãnh đạo thấy Tâm Tịnh vẫn không thay đổi thái độ đối với bổn phận, nên đã cách chức chị ấy. Khi nghe được tin này, trong lòng tôi rất ngạc nhiên, liền nghĩ: “Chị ấy chỉ nói lên tình trạng của mình trong lúc nhóm họp mà đã bị nói là lan tỏa tiêu cực và bị cách chức. Sau này mình phải ăn nói cẩn thận hơn khi tham gia nhóm họp. Mình không muốn nói sai gì đó rồi bị cách chức”. Sau đó, Lâm Tiêu nói với tôi rằng chị ấy là người phản ánh vấn đề của Tâm Tịnh. Lòng tôi liền sôi sục, nghĩ: “Đúng là tri nhân tri diện bất tri tâm. Bề ngoài thì tốt bụng, nhưng sau lưng lại đi phản ánh vấn đề của người khác. Sau này mình phải cảnh giác khi tiếp xúc với chị ta. Không thể cứ ngu ngốc nghĩ gì nói nấy được”. Sau đó, Lâm Tiêu hỏi tôi vì sao hiệu quả công tác gần đây lại kém như vậy, và tôi có kế hoạch bồi dưỡng người nào không. Tôi biết mình đã không làm tốt công tác, Nhưng sợ nếu nói ra thì sau lưng chị ta sẽ phản ánh tôi với lãnh đạo, và lãnh đạo sẽ cách chức tôi. Như vậy thì quá mất mặt rồi! Tục ngữ có câu “Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người” và “Nói nhiều tất sai”. Tôi chỉ nên nói vài lời đơn giản về tình hình công tác, những cái khác thì không cần nói. Nghĩ vậy, tôi rất lạnh nhạt trước những câu hỏi của Lâm Tiêu. Chị ấy cảm thấy bị tôi kìm kẹp và không dám hỏi về công tác của tôi nữa. Tôi cũng đau lòng vì chuyện này, muốn mở lòng với chị và trò chuyện về tình trạng của mình. Nhưng rồi tôi nhớ lại lúc trước, khi Tâm Tịnh nói về tình trạng của mình và kể hết mọi thứ, Lâm Tiêu không nói một lời nào đã liền phản ánh với lãnh đạo, kết quả là Tâm Tịnh đã bị cách chức. Nếu tôi nói với Lâm Tiêu rằng tình trạng của tôi không tốt, đồng thời nói về rào cản tồn tại giữa chúng tôi, sau đó chị ta lại phản ánh tôi với lãnh đạo và tôi bị cách chức, thì tôi phải làm sao? Không, tôi không thể làm thế! Tôi không thể để chị ấy biết tình trạng thực sự của mình. Tôi phải ăn nói cẩn thận hơn, không thể cứ thế tuôn ra hết được. Trong thời gian đó, mọi thứ giữa chúng tôi khá ngượng ngùng, tựa như chúng tôi không quen biết nhau vậy. Chị ấy cảm thấy bị tôi kìm kẹp và không dám kiểm tra công tác của tôi.
Một ngày nọ, lãnh đạo đến tìm hiểu tình hình công tác và hỏi thăm trạng thái của tôi trong thời gian này. Tôi thầm nghĩ: “Sau khi Tâm Tịnh bị cách chức, mọi công tác văn tự đều đổ lên vai mình, và mình cảm thấy áp lực rất lớn. Mình cũng chưa thể giải quyết rào cản giữa Lâm Tiêu và mình. Mọi thứ dồn ép đến mức mình cảm giác như không thể thở được”. Tôi rất muốn mở lòng với lãnh đạo và thảo luận về chuyện này. Nhưng rồi lại nghĩ: “Người ta là lãnh đạo đó, mình mà nói hết mấy chuyện này, chị ấy mà biết được tình trạng thật của mình thì liệu có nói rằng mình không mưu cầu lẽ thật và không rút ra được bài học khi có chuyện xảy ra không? Sau đó có cách chức mình không?”. Nên tôi không nói với lãnh đạo về tình trạng của mình. Vì quá phòng bị người khác, không dám nói lời thật lòng, áp lực trong bổn phận lại quá lớn, tôi chỉ muốn thoát khỏi môi trường này và không muốn thực hiện bổn phận của mình. Đối mặt với những khó khăn trong công việc và rào cản giữa tôi và người khác, tôi bị dày vò đau đớn, sống trong tâm trạng chán nản.
Một ngày nọ, tôi đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời và cuối cùng đã hiểu được đôi chút về tình trạng của mình. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “‘Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người’, và ‘Họa long họa hổ nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm’ là những nguyên tắc xử thế cơ bản nhất mà cha mẹ tiêm nhiễm cho ngươi, cũng như là nguyên tắc căn bản nhất để nhìn nhận và đề phòng người ta. Mục đích chính của cha mẹ là để bảo vệ ngươi và giúp ngươi phòng thân. Tuy nhiên, từ một góc độ khác, những lời, những tư tưởng và quan điểm này có thể khiến ngươi càng cảm thấy thế gian này quá hiểm ác và con người không đáng tin cậy, dẫn đến sâu trong nội tâm ngươi không có thiện cảm với người khác. Nhưng rốt cuộc làm cách nào ngươi có thể phân biệt được con người và nhìn nhận người khác? Loại người nào ngươi có thể giao thiệp và mối quan hệ đúng đắn giữa người với người nên như thế nào? Nên làm thế nào để giao thiệp với người khác dựa trên nguyên tắc, và nên làm thế nào để giao thiệp công bằng và hòa thuận với người khác? Cha mẹ ngươi đều chẳng biết gì về những chuyện này. Họ chỉ biết dùng quỷ kế, thủ đoạn, những luật chơi và thủ đoạn xử thế khác nhau để đề phòng người khác, lợi dụng và khống chế người khác, để đạt được mục đích bảo vệ bản thân họ khỏi bị người khác hãm hại, cho dù người khác bị họ hãm hại khổ sở bao nhiêu cũng chẳng quan trọng. Khi dạy bảo những tư tưởng và quan điểm này cho con cái, những thứ mà cha mẹ tiêm nhiễm cho chúng đơn thuần là những thủ đoạn để xử thế. Chẳng có gì khác ngoài những thủ đoạn. Những thủ đoạn này bao gồm những gì? Đủ mọi kiểu quỷ kế, luật chơi, cách để lấy lòng người khác, cách bảo vệ lợi ích riêng, cách để tối đa hóa lợi ích cá nhân. Những nguyên tắc này có phải lẽ thật không? (Thưa, không phải.) Chúng có phải con đường đúng đắn mà con người nên đi không? (Thưa, không phải.) Chẳng có nguyên tắc nào là con đường đúng đắn cả. Vậy thì thực chất của những tư tưởng mà cha mẹ tiêm nhiễm cho ngươi là gì? Chúng không phù hợp với lẽ thật, không phải con đường đúng đắn, không phải những sự vật tích cực. Vậy thì chúng là gì? (Thưa, chúng hoàn toàn là triết lý Sa-tan làm bại hoại chúng con.) Nhìn vào kết quả thì thấy chúng làm con người bại hoại. Vậy thực chất của những tư tưởng này là gì? Như câu: ‘Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người’ – đây có phải là nguyên tắc đúng đắn để giao thiệp với người khác không? (Thưa, không phải, chúng hoàn toàn là những điều tiêu cực đến từ Sa-tan.) Chúng là những điều tiêu cực đến từ Sa-tan, vậy thực chất và tính chất của chúng là gì? Chúng có phải quỷ kế không? Có phải thủ đoạn không? Chúng có phải kỹ thuật đánh vào mặt tư tưởng của người khác không? (Thưa, phải.) Chúng không phải là những nguyên tắc thực hành để bước vào lẽ thật, hay những nguyên tắc và phương hướng làm người tích cực mà Đức Chúa Trời dạy cho con người; chúng là những thủ đoạn xử thế, là những quỷ kế” (Cách mưu cầu lẽ thật (14), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Suy ngẫm về tình trạng mà Đức Chúa Trời đã phơi bày, cuối cùng tôi đã hiểu rằng bản thân luôn sống theo những nguyên tắc của Sa-tan như “Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người” hay “Họa long họa hổ nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm”. Tôi đã nghĩ rằng để bảo vệ bản thân khỏi bị tổn hại và lừa dối, tôi phải cẩn thận và cảnh giác với mọi người. Vì vậy dù tiếp xúc với ai, tôi cũng đều vô cùng cảnh giác trong lời nói và hành động. Tôi thường không nói với mọi người suy nghĩ thực sự của mình, và hầu hết thời gian tôi chỉ im lặng. Bằng cách đó, tôi sẽ không phải chịu tổn thất, cũng không làm mất lòng mọi người. Nhất là lần này, khi Lâm Tiêu phản ánh vấn đề của Tâm Tịnh và Tâm Tịnh không hề hối cải, để rồi bị cách chức, tôi đã sống trong trạng thái cảnh giác, không dám mở lòng nói về tình trạng của bản thân với người khác, sợ rằng ngày nào đó mình cũng sẽ bị cách chức. Khi nói chuyện với nhóm trưởng và lãnh đạo hội thánh, tôi vô cùng cẩn trọng, không dám mở lòng. Hầu hết thời gian, tôi sẽ chỉ nói một vài câu đơn giản để cho qua chuyện. Tôi đã bị trói chặt bởi chất độc của Sa-tan, thậm chí còn nghi ngại khi tìm đến người khác để được thông công, không đủ can đảm mở lòng và bộc lộ bản thân. Tôi đã sống trong đau đớn và dằn vặt. Những quy tắc của Sa-tan này thoạt đầu trông như có thể bảo vệ lợi ích của mọi người, nhưng chúng dạy ta phải cảnh giác và không được nói ra suy nghĩ của mình khi giao tiếp với ai đó, và phải giữ khoảng cách với người khác. Như vậy, khi hai người giao tiếp, một người thì luôn cảnh giác còn người kia thì phỏng đoán, không ai tin tưởng ai cả. Họ tính toán và thù địch lẫn nhau, ngụy trang và giả dối trong cách cư xử. Điều này khiến mọi người ngày càng gian dối và ngày càng thiếu nhân tính. Lúc này đây tôi mới hiểu rõ rằng câu nói “Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người” vốn không phải là nguyên tắc nên có khi làm người. Nó hoàn toàn là Sa-tan đang hủy hoại con người và lừa gạt họ bằng những âm mưu xảo quyệt, thậm chí còn là phương tiện để Sa-tan làm bại hoại con người. Sống theo câu nói đó chỉ khiến con người mất đi nhân tính bình thường của họ.
Sau đó, tôi tiếp tục đọc lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Sự hun đúc của gia đình có thể có liên quan đến rất nhiều luật chơi dành cho cách đối nhân xử thế. Ví dụ, cha mẹ thường nói: ‘Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người; con quá hồ đồ và cả tin’. … Những tư tưởng họ tiêm nhiễm cho ngươi trở thành những nguyên tắc và cơ sở cho cách ngươi xử thế. Khi ngươi giao thiệp với bạn học, đồng nghiệp, đối tác, cấp trên và mọi kiểu người trong xã hội, những người từ mọi tầng lớp xã hội, thì những tư tưởng bảo vệ ngươi mà cha mẹ ngươi tiêm nhiễm vô hình trung trở thành bùa hộ thân và nguyên tắc cơ bản nhất khi ngươi xử lý quan hệ giữa người với người. Nguyên tắc này là gì? Đó là: Tôi không hại anh, nhưng lúc nào tôi cũng phải đề phòng anh để tránh việc anh lừa tôi, gạt tôi, để tránh vướng phải rắc rối, kiện tụng, khuynh gia bại sản, nhà tan cửa nát, sống cảnh ngục tù. Sống dưới sự chi phối của những tư tưởng và quan điểm như vậy, sống trong nhóm xã hội này với một thái độ xử thế như vậy, ngươi chỉ có thể trở nên ức chế, kiệt quệ, mệt mỏi hơn về cả tinh thần lẫn thể xác. Sau đó ngươi càng trở nên chống đối, có ác cảm với thế giới và nhân loại này, ngày càng căm ghét họ. Khi căm ghét họ thì ngươi bắt đầu xem thường bản thân, cảm giác như ngươi sống không giống một con người, sống mệt mỏi và ức chế. Để tránh bị người khác hãm hại, ngươi phải không ngừng đề phòng, làm những chuyện và nói những lời trái với lòng mình. Để bảo vệ lợi ích và an toàn bản thân, mọi nơi mọi lúc, ngươi đều mang một lớp mặt nạ ngụy trang, không bao giờ dám nói một lời chân thật. Trong tình hình này, trong hiện trạng sinh tồn này, nội tâm ngươi không được tự do, giải phóng. Ngươi thường cần ai đó không gây hại gì đến ngươi, không bao giờ làm tổn hại lợi ích của ngươi, người mà ngươi có thể thổ lộ hết lời trong lòng và trút hết những bất mãn trong nội tâm, mà không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào, không gây ra sự chế nhạo, mỉa mai, chê cười, hay chịu bất cứ hậu quả nào. Trong một tình huống mà tư tưởng và quan điểm ‘Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người’ là nguyên tắc xử thế của ngươi, thì nội tâm ngươi lo sợ và bất an. Tất nhiên ngươi sẽ cảm thấy ức chế, không thể giải phóng, và ngươi cần ai đó an ủi ngươi, cần đối tượng để giãi bày tâm sự. Vì vậy, xét từ những phương diện này, dù nguyên tắc xử thế ‘Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người’ mà cha mẹ ngươi dạy ngươi có thể bảo vệ ngươi, nhưng nó như một con dao hai lưỡi. Nó vừa bảo vệ lợi ích thể xác và an toàn cá nhân của ngươi ở một mức độ nào đó, cũng vừa khiến ngươi cảm thấy ức chế và khổ sở, không được giải phóng, và thậm chí khiến ngươi càng chán ghét thế giới và nhân loại này hơn. Đồng thời, sâu trong nội tâm, ngươi cũng mơ hồ chán ghét bản thân vì sao lại sinh ra trong một thời đại tà ác như thế, giữa một nhóm người tà ác như thế. Ngươi không hiểu tại sao con người phải sống, tại sao cuộc sống lại mệt mỏi như vậy, tại sao họ phải đeo mặt nạ và ngụy trang bản thân mọi nơi mọi lúc, hay tại sao ngươi luôn phải đề phòng người khác vì lợi ích của mình. Ngươi muốn nói thật mà không thể nói, vì nói rồi sẽ có hậu quả. Ngươi muốn làm người chân chính một lần, nói năng và hành xử một cách quang minh lỗi lạc, không muốn làm tiểu nhân bỉ ổi, không muốn lén lút làm những việc bỉ ổi và đáng xấu hổ, sống trong tăm tối, nhưng không thể làm được” (Cách mưu cầu lẽ thật (14), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Lời Đức Chúa Trời đã chạm đến đáy lòng tôi. Nghĩ lại hai mươi mấy năm nay, tôi luôn sống trong chất độc của Sa-tan như “Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người” và “Nói nhiều tất sai”. Tôi đã trở nên xảo quyệt và gian dối, luôn cảnh giác và đề phòng mọi người xung quanh, không bao giờ trò chuyện chân thành với mọi người. Điều này khiến tôi không có người bạn thân nào trong suốt nhiều năm làm việc xa nhà, và cảm giác rất cô đơn. Sau khi tin Đức Chúa Trời, tôi vẫn sống bằng những chất độc Sa-tan này. Khi Lâm Tiêu phản ánh vấn đề của Tâm Tịnh, chị ấy chỉ đang phản ánh sự thật, và đó là để bảo vệ công tác của hội thánh, vốn phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời. Nhưng tôi lại cho rằng như thế là nói xấu sau lưng người khác, và sợ rằng sau này chị ấy cũng sẽ phản ánh tôi với lãnh đạo, khiến tôi bị cách chức. Vì vậy tôi đã cảnh giác với chị ấy. Sau đó, mặc dù lương tâm tôi bất an, nhưng tôi không dám mở lời, rất sợ rằng nếu tôi nói sai một từ hoặc lỡ nói ra tình trạng thực sự của mình, thì sẽ gặp rắc rối, vì thế tôi sống trong đau đớn và dằn vặt. Tôi phản tỉnh về lý do vì sao mình sống khổ sở và mệt mỏi như vậy. Tôi đã bị ảnh hưởng bởi môi trường xã hội và sự dạy dỗ của cha mẹ từ khi còn nhỏ. Những chất độc của Sa-tan khiến tôi trở nên xảo quyệt và gian dối, không thể giao tiếp với mọi người một cách bình thường. Nếu tôi giải quyết vấn đề này của bản thân sớm hơn, thì tôi đã không gây tổn hại cho công tác của hội thánh hay kìm kẹp Lâm Tiêu. Sau khi nhận ra điều này, tôi cảm thấy rất hối hận. Tôi quyết tâm sau này sẽ hợp tác hòa thuận với các anh chị em trong bổn phận, làm một người đơn thuần và cởi mở.
Sau đó, tôi tiếp tục đọc lời Đức Chúa Trời. “Một số người không tin nhà Đức Chúa Trời có thể đối xử công bằng với mọi người. Họ không tin rằng trong nhà Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời nắm quyền và lẽ thật nắm quyền. Họ tin rằng bất kể một người thực hiện bổn phận nào, nếu có nảy sinh vấn đề, nhà Đức Chúa Trời sẽ lập tức xử lý người đó, tước bỏ tư cách thực hiện bổn phận đó của họ, đuổi họ đi, hoặc thậm chí thanh trừ họ khỏi hội thánh. Sự thật có thực sự như thế không? Chắc chắn là không. Nhà Đức Chúa Trời đối xử với mỗi một người theo các nguyên tắc lẽ thật. Đức Chúa Trời công chính trong cách Ngài đối xử với mọi người. Ngài không chỉ nhìn vào biểu hiện của người ta trong một sự việc riêng lẻ; Ngài nhìn vào bản tính và thực chất của người đó, vào ý định, thái độ của họ, và Ngài đặc biệt nhìn vào việc người đó có thể phản tỉnh khi mắc lỗi hay không, có hối hận hay không, có thể dựa vào lời Ngài mà nhìn thấu thực chất của vấn đề, đạt đến hiểu lẽ thật, ghê tởm bản thân và thực sự ăn năn hay không. … Nói cho Ta nghe, nếu một người mắc lỗi nhưng có thể thực sự nhận thức và sẵn lòng hối cải, lẽ nào nhà Đức Chúa Trời lại không cho họ cơ hội? Vì kế hoạch quản lý sáu nghìn năm của Đức Chúa Trời sắp kết thúc, có rất nhiều bổn phận cần được thực hiện, chỉ sợ ngươi không có lương tâm hay lý trí, không chuyên tâm vào việc chính đáng, nếu ngươi có được cơ hội thực hiện bổn phận nhưng không biết quý trọng, hoàn toàn không mưu cầu lẽ thật, để lỡ mất thời điểm tốt nhất thì ngươi sẽ bị tỏ lộ. Nếu ngươi liên tục qua loa chiếu lệ khi thực hiện bổn phận, và không hề thuận phục khi bị tỉa sửa, thì nhà Đức Chúa Trời còn dùng ngươi thực hiện bổn phận không? Trong nhà Đức Chúa Trời, lẽ thật nắm quyền, chứ không phải Sa-tan. Đức Chúa Trời có tiếng nói cuối cùng trong mọi sự. Chính Ngài đang làm công tác cứu rỗi nhân loại, chính Ngài đang tể trị mọi sự. Không cần ngươi phải phân tích đúng sai; ngươi chỉ cần nghe lời và thuận phục. Khi bị tỉa sửa, ngươi phải tiếp nhận lẽ thật và có thể chỉnh đốn sai lầm. Nếu ngươi làm vậy, nhà Đức Chúa Trời sẽ không tước mất tư cách thực hiện bổn phận của ngươi. Nếu ngươi luôn sợ bị đào thải, luôn nói lý lẽ, luôn ngụy biện cho bản thân, thì có vấn đề rồi. Nếu ngươi để người khác thấy mình hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật, không biết lý lẽ, thì phiền phức rồi. Hội thánh không xử lý ngươi thì không được. Nếu ngươi hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật khi thực hiện bổn phận, luôn sợ bị tỏ lộ và đào thải, thì nỗi sợ này của ngươi có lẫn tạp ý của con người và có tâm tính bại hoại của Sa-tan, có sự nghi ngờ, đề phòng và hiểu lầm. Đây đều không phải là thái độ mà con người nên có” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng tôi sợ bị cách chức vì là tôi không biết tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, cũng không hiểu các nguyên tắc của nhà Đức Chúa Trời trong việc cách chức. Thật ra, khi nhà Đức Chúa Trời cách chức và đào thải một người, thì không chỉ đơn thuần là căn cứ vào hành vi nhất thời của người đó, hay lỗi lầm họ phạm phải. Thay vào đó, người đó được trao cơ hội để ăn năn hết mức có thể. Chỉ khi người đó không chịu hối cải và gây hại cho công tác thì mới bị cách chức. Cũng có những người bộc lộ sự bại hoại, nhưng nhờ các anh chị em giúp đỡ thông công, họ có thể hối cải với Đức Chúa Trời và sửa đổi những sai lệch. Những người như vậy sẽ không bị cách chức hay đào thải. Tâm Tịnh tham hưởng sự thoải mái xác thịt và không biết gánh trọng trách trong bổn phận. Chị ấy phản đối việc lãnh đạo giám sát công tác, thậm chí còn lan tỏa sự tiêu cực trong các buổi nhóm họp. Lâm Tiêu đã nhiều lần chỉ ra vấn đề và giúp đỡ, nhưng Tâm Tịnh không hề có hành vi hối cải. Lúc này Lâm Tiêu mới phản ánh vấn đề của Tâm Tịnh. Việc cách chức Tâm Tịnh là phù hợp với nguyên tắc và cũng là sự công chính của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, tôi đã không phân định được chị ấy, cũng không biết tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, mà lại sống trong trạng thái cảnh giác và hiểu lầm. Bản thân tôi cũng có tình trạng phản đối sự giám sát của lãnh đạo, nên tôi lo rằng nếu nói ra tình trạng thực sự của mình thì tôi sẽ bị cách chức. Vì vậy tôi rất sợ Lâm Tiêu và lãnh đạo biết được tình trạng của mình. Thật ra lời Đức Chúa Trời đã nhiều lần chỉ ra rằng Ngài cứu rỗi nhân loại bại hoại. Con người bộc lộ sự bại hoại và có sai lệch trong công tác là chuyện bình thường. Điều quan trọng là liệu họ có thể phản tỉnh và ăn năn với Đức Chúa Trời hay không. Như lời Đức Chúa Trời phán: “Sự nhân từ và khoan dung của Đức Chúa Trời không hiếm hoi – Sự sám hối đích thực của con người mới hạn hữu” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Hơn nữa, khi phát hiện ra vấn đề của Tâm Tịnh, Lâm Tiêu đã nhiều lần thông công để giúp đỡ. Nhưng Tâm Tịnh vẫn không biết quay đầu, vì vậy vấn đề của chị ấy phải được phản ánh kịp thời theo đúng nguyên tắc. Đây là trách nhiệm mà mỗi người được Đức Chúa Trời chọn phải hoàn thành để bảo vệ công tác của hội thánh. Vậy mà tôi còn phàn nàn rằng Lâm Tiêu chẳng nói tiếng nào mà đã phản ánh vấn đề của Tâm Tịnh cho lãnh đạo, còn phòng bị và hiểu lầm chị ấy. Lúc bấy giờ tôi mới nhận ra rằng bản thân không chỉ có tâm tính giả dối mà cách lĩnh hội của tôi cũng rất lệch lạc.
Khi Tâm Tịnh bị cách chức, tôi lại có thêm một quan điểm sai lầm khác. Tôi nghĩ nếu mình thổ lộ tình trạng thật của bản thân trong lúc nhóm họp, thì sẽ bị xác định tính chất là lan tỏa sự tiêu cực, nên không dám nói những gì mình nghĩ. Sau đó, tôi đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời được trích dẫn trong một bài chứng ngôn trải nghiệm và hiểu ra rằng quan điểm này là không phù hợp với lẽ thật. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Đây cơ bản là đủ loại tình trạng và biểu hiện của người trút ra sự tiêu cực. Khi dục vọng mưu cầu địa vị và danh lợi của họ không được thỏa mãn, khi việc Đức Chúa Trời làm không phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của họ, động chạm đến lợi ích của họ, thì họ sẽ chìm trong trong cảm xúc không phục và bất mãn. Khi có một vài cảm xúc không phục và bất mãn này rồi, trong lòng họ sẽ nảy sinh ra một vài lý do và cái cớ, phân bua biện bạch, và những ý nghĩ oán trách khác. Lúc này, họ không chúc tụng hay thuận phục Đức Chúa Trời, càng không tìm kiếm lẽ thật và nhận thức bản thân, thay vào đó, họ dùng quan niệm, tưởng tượng, tư tưởng và quan điểm của mình, hoặc là huyết khí của con người mà đối đầu với Đức Chúa Trời. Và họ chiến đấu lại thế nào? Họ gieo rắc những cảm giác bất chấp và bất mãn, dùng điều này để làm sáng tỏ những suy nghĩ và quan điểm của họ với Đức Chúa Trời, cố gắng khiến Đức Chúa Trời hành động theo ý muốn và yêu cầu của họ để thỏa mãn những mong muốn của họ; chỉ khi đó họ mới cảm thấy được yên. Đặc biệt, Đức Chúa Trời đã bày tỏ nhiều lẽ thật để phán xét và hành phạt con người, để làm tinh sạch tâm tính bại hoại của họ, để cứu rỗi con người khỏi sự ảnh hưởng của Sa-tan, và ai biết được bao nhiêu ước mơ được ban phước lành của con người đã bị những lẽ thật này cắt ngang, làm tan tành hình ảnh tưởng tượng được nâng lên thiên đàng mà họ hy vọng ngày đêm. Họ muốn làm mọi cách có thể để chỉnh đốn điều này, để xoay chuyển nó – nhưng họ bất lực, họ chỉ có thể rơi vào thảm họa với sự tiêu cực và oán hận. Họ không chịu vâng phục tất cả những gì Đức Chúa Trời đã sắp xếp, vì những gì Đức Chúa Trời làm mâu thuẫn với quan niệm, lợi ích và suy nghĩ của họ. Đặc biệt, khi hội thánh thực hiện công tác làm tinh sạch và bỏ ra nhiều người, những người này nghĩ rằng Đức Chúa Trời không yêu thương họ, rằng Đức Chúa Trời đã làm điều sai trái, rằng họ bị đối xử bất công, và vì vậy họ muốn hợp lại để chống đối, họ cố phủ nhận rằng Đức Chúa Trời là lẽ thật, họ phủ nhận thân phận và bản chất của Đức Chúa Trời, và họ phủ nhận tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Tất nhiên, họ cũng phủ nhận sự thật về quyền tối thượng của Đức Chúa Trời đối với mọi sự. Và họ phủ nhận tất cả những điều này bằng cách nào? Thông qua sự phản kháng và chống đối. Hàm ý là: ‘Những gì Đức Chúa Trời làm trái ngược với quan niệm của tôi, và vì vậy tôi không vâng phục, tôi không tin rằng Ngài là lẽ thật. Tôi sẽ tranh luận với Ngài, và sẽ truyền bá những ý tưởng này cho những người trong hội thánh. Tôi sẽ nói bất cứ điều gì tôi muốn, và tôi không quan tâm hậu quả là gì. Tôi có quyền tự do ngôn luận, Ngài không thể bắt tôi im miệng, tôi sẽ nói những gì tôi muốn. Ngài có thể làm gì chứ?’. Khi những người này khăng khăng gieo rắc những ý kiến và ý tưởng ngụy biện cá nhân này, họ có đang nói về sự hiểu biết của chính bản thân mình không? Họ có đang thông công lẽ thật không? Tuyệt đối không. Họ đang lan truyền sự tiêu cực, họ đang tuyên truyền những lời ngụy biện tà ác. Họ không cố gắng để biết hoặc vạch trần sự bại hoại của chính mình hoặc những việc họ đã làm trái với lẽ thật, cũng không phơi bày những sai lầm mà họ đã mắc phải; thay vào đó, họ đang cố gắng hết sức để hợp lý hóa và bảo vệ những sai lầm của mình để chứng minh rằng họ đúng, đồng thời cũng đưa ra những phán xét lố bịch, gieo rắc những ý tưởng và hiểu biết bất lợi và ngụy biện, cũng như những lời lẽ đồi bại và xấu xa. Tác động đối với dân sự được Đức Chúa Trời chọn và hội thánh chính là sự phá vỡ và ảo tưởng; nó thậm chí có thể đẩy một số người vào trạng thái tiêu cực và bối rối – đó là tất cả những tác động bất lợi gây ra bởi những người toát ra sự tiêu cực” (Chức trách của lãnh đạo và người làm công (17), Lời, Quyển 5 – Chức trách của lãnh đạo và người làm công). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng với những người lan tỏa sự tiêu cực, khi gặp phải vấn đề không như ý muốn, hay ảnh hưởng đến danh tiếng, địa vị, lợi ích xác thịt của họ, thì họ không tìm kiếm lẽ thật hay cố gắng suy ngẫm tâm ý của Đức Chúa Trời, thay vào đó lại mang tâm trạng không phục, bất mãn và chống đối, truyền bá quan niệm, tưởng tượng hoặc quan điểm sai lầm của họ. Đây chính là lan tỏa sự tiêu cực. Khi một người thực sự tin Đức Chúa Trời phải đối mặt với điều gì đó không như ý, dù họ có bộc lộ sự bại hoại, có những quan niệm và hiểu lầm, nhưng họ vẫn có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, có thể tìm kiếm lẽ thật và sẽ không ăn nói bừa bãi trong những vấn đề họ không hiểu. Nếu họ mở lòng với các anh chị em về tình trạng của mình, thì mục đích của họ cũng là tìm kiếm lẽ thật, giải quyết sự bại hoại, và biết ăn năn, thay đổi thật sự. Trong khi đó, những người lan tỏa sự tiêu cực và truyền bá quan niệm thì bề ngoài cũng ra vẻ cởi mở thảo luận về tình trạng của mình, nhưng lại không phải vì tìm kiếm lẽ thật hay giải quyết vấn đề, mà là mượn cớ mở lòng để trút ra sự bất phục và bất mãn. Những người không hiểu bản chất thực của sự việc hoặc không hiểu lẽ thật sẽ dễ dàng bị mê hoặc, ngả về phe họ, rồi bắt đầu có những quan niệm và hiểu lầm về Đức Chúa Trời cũng như công tác của nhà Đức Chúa Trời. Tâm Tịnh thấy rằng lãnh đạo giám sát công tác chặt chẽ nghĩa là xác thịt của chị ấy phải chịu khổ và trả giá, nên đã không sẵn lòng, và rồi liên tục truyền bá quan niệm, lan tỏa sự bất mãn trong các buổi nhóm họp. Lâm Tiêu đã nhiều lần thông công và giúp đỡ, nhưng chị ấy không chịu thay đổi. Chị ấy không mở lòng về tình trạng của mình để tìm kiếm lẽ thật hay giải quyết vấn đề, mà chỉ đang trút ra sự bất mãn với lãnh đạo và chấp sự. Xét từ những hành vi này, Tâm Tịnh đang lan tỏa sự tiêu cực. Vậy mà tôi lại lầm tưởng rằng việc nói về trạng thái bại hoại của mình trong các buổi nhóm họp nghĩa là đang lan tỏa sự tiêu cực nên không dám nói ra những gì mình nghĩ. Hiểu biết của tôi thực sự quá méo mó. Nhận ra điều này, tôi ăn năn cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con đã tin Ngài bao năm nay, nhưng khi gặp vấn đề, con lại không tìm kiếm lẽ thật. Thay vào đó, con sống trong trạng thái giả dối, nghi ngờ và cảnh giác với người khác. Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy dẫn dắt con tìm ra con đường đúng đắn để thực hành và thoát khỏi những quan điểm sai lầm này”.
Sau đó, khi đang tìm kiếm cách giải quyết vấn đề, tôi đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời. “Gia đình thường bảo ngươi: ‘Không nên có lòng hại người, nhưng phải có lòng phòng người.’ Thật ra, thực hành buông bỏ tư tưởng này rất đơn giản: Cứ hành động theo những nguyên tắc mà Đức Chúa Trời nói cho con người. ‘Những nguyên tắc Đức Chúa Trời nói cho con người’ – câu này rất chung chung. Vậy thực hành cụ thể thế nào? Ngươi không cần mổ xẻ xem mình có tâm hại người không, ngươi cũng không cần có tâm phòng người. Vậy ngươi nên làm gì? Một mặt, ngươi có thể chung sống hòa thuận với người khác một cách chính đáng, mặt khác, khi đối đãi với những người khác nhau, ngươi nên lấy lời Đức Chúa Trời làm căn cứ và lấy lẽ thật làm tiêu chí để phân định họ là loại người nào, rồi đối xử với họ theo các nguyên tắc tương ứng. Đơn giản vậy thôi. Nếu họ là anh chị em, thì đối xử với họ như anh chị em, nếu họ thiết tha mưu cầu, hy sinh và dâng mình, thì hãy đối xử với họ như anh chị em thật lòng thực hiện bổn phận. Nếu họ là người không tin, không sẵn lòng thực hiện bổn phận, chỉ muốn sống cuộc đời mình, thì ngươi không nên đối xử với họ như anh chị em, mà hãy đối xử với họ như người ngoại đạo. Khi nhìn nhận con người, ngươi nên nhìn xem họ là loại người nào, tâm tính và nhân tính của họ như thế nào, thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật như thế nào. Nếu họ có thể tiếp nhận lẽ thật và sẵn lòng thực hành lẽ thật, thì hãy đối xử với họ như anh chị em thật sự, như người nhà. Nếu nhân tính của họ không tốt, chỉ nói miệng sẵn lòng thực hành lẽ thật, có khả năng giảng đạo lý nhưng không bao giờ thực hành lẽ thật, thì hãy đối xử với họ như những kẻ phục vụ đơn thuần, chứ không phải như người nhà. Những nguyên tắc này nói cho ngươi điều gì? Chúng nói cho ngươi nguyên tắc đối xử với những loại người khác nhau – nguyên tắc này là việc đối đãi với người khác phải có sự khôn ngoan mà chúng ta thường nói đến. Sự khôn ngoan là một từ chung chung, nhưng nói một cách cụ thể, nó nghĩa là đối xử với những loại người khác nhau sẽ có những phương thức và nguyên tắc khác nhau, và tất cả đều căn cứ trên lẽ thật, chứ không phải căn cứ trên tình cảm, sở thích, quan điểm cá nhân, cũng không phải căn cứ trên việc họ có lợi hay có hại với ngươi, hay tuổi tác của họ, mọi sự chỉ căn cứ trên lời Đức Chúa Trời mà thôi. Do đó, khi đối xử với mọi người, ngươi không cần phải kiểm điểm bản thân xem liệu ngươi có tâm hại người hay tâm phòng người không. Nếu ngươi đối xử với mọi người theo các nguyên tắc và phương thức mà Đức Chúa Trời nói cho ngươi, thì ngươi sẽ tránh được mọi cám dỗ, sẽ không rơi vào bất kỳ cám dỗ hay tranh chấp giữa người với người nào. Đơn giản vậy thôi” (Cách mưu cầu lẽ thật (14), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi đã tìm ra con đường thực hành. Trước tiên, cần phải phân định những loại người khác nhau dựa trên các nguyên tắc lẽ thật. Nếu một người chân thành tin vào Đức Chúa Trời và yêu mến lẽ thật, thì người đó nên được đối đãi như anh chị em, và ta có thể đơn thuần mở lòng chia sẻ với họ. Lãnh đạo và Lâm Tiêu đều là các chị em chân thành tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật. Họ phụ trách công tác của chúng tôi. Nếu có vấn đề hoặc nếu tôi gặp phải khó khăn trong công tác, hoặc nếu có rào cản giữa chúng tôi, thì tôi nên chân thành mở lòng, tìm kiếm thông công. Bằng cách này, họ có thể nắm bắt tình trạng của tôi và nhanh chóng giúp tôi giải quyết, như vậy rất có ích cho lối vào sự sống của tôi, cũng như công tác của hội thánh. Ngược lại, nếu tôi không chịu mở lòng, mà luôn sống trong trạng thái sai lầm, thì không chỉ sự sống của tôi chịu tổn thất, mà công tác cũng sẽ bị ảnh hưởng. Khi đã hiểu được tâm ý và yêu cầu của Đức Chúa Trời, sau này khi giao tiếp với các anh chị em, tôi phải chân thành, đơn thuần, và cởi mở.
Sau đó, một người chị em tên Tô Duệ được phân công phụ trách công tác của chúng tôi. Lúc đó, hiệu quả công tác của tôi không tốt, trạng thái cũng có chút tiêu cực. Khi Tô Duệ tham gia nhóm họp với chúng tôi, chị ấy hỏi trạng thái của tôi thế nào, công tác gần đây ra sao. Tôi thầm nghĩ: “Trạng thái của mình vẫn chưa hoàn toàn thay đổi, trong công tác cũng còn nhiều sai lệch. Nếu nói ra trạng thái thật của mình, liệu Tô Duệ có phản ánh vấn đề của mình lên lãnh đạo và khiến mình bị cách chức không?” Tôi không muốn nói thật về tình trạng của bản thân. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu không nói thì vấn đề sẽ không bao giờ được giải quyết, nên trong lòng rất mâu thuẫn. Sau đó, Tô Duệ hỏi người chị em phối hợp cùng tôi về tình trạng của chị ấy. Thấy chị ấy có thể đơn thuần nói ra hết trạng thái của mình, tôi đã rất ngưỡng mộ và nghĩ: “Sao mình lại không dám mở lòng nhỉ?”. Sau đó, tôi đọc được lời Đức Chúa Trời phán rằng: “Dù là tư tưởng nào, nếu nó sai lầm và làm trái lẽ thật, thì con đường đúng đắn duy nhất ngươi nên chọn chính là buông bỏ nó. Cách thực hành buông bỏ chính xác là: Tiêu chí hay cơ sở để ngươi nhìn nhận, hành động hay xử lý vấn đề này không còn là những tư tưởng sai lầm mà gia đình hun đúc cho ngươi nữa, mà phải dựa vào lời Đức Chúa Trời. Dù quá trình này có thể đòi hỏi ngươi phải trả một vài cái giá, khiến ngươi cảm thấy mình đang đi ngược lại ý muốn của bản thân, thấy ngươi đang bị mất hết thể diện và thậm chí còn bị tổn hại lợi ích xác thịt, nhưng bất kể gặp phải chuyện gì, ngươi cũng nên kiên trì thực hành theo lời Đức Chúa Trời và các nguyên tắc Ngài nói cho ngươi, không nên buông bỏ. Quá trình chuyển biến này chắc chắn sẽ khó khăn, sẽ không thuận buồm xuôi gió. Tại sao không thuận buồm xuôi gió? Nó là cuộc đọ sức giữa sự vật tích cực và sự vật tiêu cực, cuộc đọ sức giữa lẽ thật và những tư tưởng tà ác đến từ Sa-tan, cũng là cuộc đọ sức giữa ý chí và nguyện vọng tiếp nhận lẽ thật và những sự vật tích cực với những tư tưởng và quan điểm sai lầm trong lòng ngươi. Nếu đã có cuộc đọ sức, thì người ta sẽ chịu khổ và phải trả giá, đây là việc ngươi phải làm” (Cách mưu cầu lẽ thật (14), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Lời Đức Chúa Trời cho tôi can đảm để thực hành lẽ thật. Nếu muốn buông bỏ những suy nghĩ và quan điểm sai lầm này, tôi phải chống lại xác thịt của mình, từ bỏ lợi ích và thực hành theo nguyên tắc lẽ thật. Tô Duệ phụ trách công tác của tôi, tôi nên cởi mở chia sẻ với chị ấy về tình trạng thật của mình và những sai lệch trong công tác. Nếu vẫn cứ giả dối, lừa gạt và phòng bị chị ấy, vấn đề của tôi sẽ không thể được giải quyết nhanh chóng, và tôi sẽ không thể nào kịp thời sửa chữa những sai lệch trong công tác. Vì vậy, tôi đã nói chuyện với chị ấy về tình trạng của bản thân và những sai lệch này, chị ấy đã dùng lời Đức Chúa Trời để thông công với tôi, giúp tôi xoay chuyển tình trạng đôi chút. Trải qua chuyện này, tôi đã thể nghiệm được rằng khi một người sống theo những suy nghĩ và quan điểm sai lầm của Sa-tan, thì chẳng những không có lợi ích gì, mà còn khiến họ sống thiếu nhân tính bình thường. Chỉ có nhìn người nhìn việc, cư xử và hành động theo lời Đức Chúa Trời thì mới tìm được sự bình yên trong tâm trí và tự do trong tim.