Sau khi tôi bị giu-đa bán đứng

16/09/2025

Bởi Hướng Tầm, Trung Quốc

Tháng 4 năm 2023, tôi đang làm bổn phận người giảng đạo trong hội thánh. Lúc đó, mấy hội thánh mà tôi phụ trách lần lượt gặp phải sự bắt bớ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhiều lãnh đạo và người làm công bị bắt giữ, nên tôi cùng người anh em cộng sự Vương Huy đã tức tốc liên lạc với các anh chị em để di dời những quyển sách lời Đức Chúa Trời. Chúng tôi vừa mới xử lý xong công tác khắc phục hậu quả, thì đột nhiên nhận được tin lại có thêm hai người phụ trách nữa bị bắt. Chúng tôi cũng bắt đầu liên tục chuyển chỗ ở do có rủi ro về an toàn. Suốt thời gian đó, anh chị em từ khắp các hội thánh cứ liên tục bị bắt, khiến các hạng mục công tác trong hội thánh không sao tiến triển bình thường được. Những anh chị em bị bắt đều bị cảnh sát tra tấn dã man, có một chị em còn vì không chịu nổi sự tra tấn của cảnh sát mà buộc phải nhảy lầu tự vẫn. Nghe những tin tức dồn dập như vậy, tôi cảm thấy rất căng thẳng, và thường xuyên lo lắng cho tình cảnh của mình: “Mình vốn là đối tượng bị truy nã, một khi bắt được mình và biết mình là lãnh đạo, thì chắc chắn họ sẽ tra tấn mình còn tàn bạo hơn nữa. Lỡ mà bị tra tấn đến chết, thì chẳng phải mình sẽ mất luôn cơ hội được cứu rỗi sao?”. Khi nghĩ đến những điều này, ngày nào tôi cũng thấy tim mình như bị bóp nghẹt. Trong thời gian ấy, áp lực kép từ công tác và mối đe dọa về an toàn khiến tôi kiệt quệ cả thể xác lẫn tinh thần.

Đến tháng 9, tôi lại được biết rằng một chị em cộng sự khác là Văn Hy cũng đã bị bắt. Chúng tôi đã cùng nhau làm bổn phận nhiều năm, chị ấy không chỉ rất quen thuộc với tôi và anh Vương Huy, mà còn hiểu rất rõ về tình hình của hội thánh, biết rất nhiều anh chị em và các gia đình tiếp đãi. Ngay lúc đang đầu bù tóc rối với việc xử lý hậu quả, chúng tôi lại nhận được tin tức từ các anh chị em. Họ bảo rằng Văn Hy đã bán đứng tôi và anh Vương Huy, rằng cảnh sát đã phác họa ra được diện mạo của chúng tôi, và đang lùng sục chúng tôi để bắt giữ. Các anh chị em nhắc nhở chúng tôi phải chú ý và đề phòng. Nghe được tin này, tôi lập tức hoảng loạn. Con rồng lớn sắc đỏ hễ bắt được người tin Đức Chúa Trời là sẽ hành hạ cho đến chết, ngay cả người già bảy, tám mươi tuổi cũng không tha. Giờ chúng đã biết tôi và anh Vương Huy là lãnh đạo hội thánh, chắc chắn sẽ không dễ dàng buông tha cho chúng tôi. Camera giám sát của con rồng lớn sắc đỏ thì giăng đầy đường lớn ngõ nhỏ, liệu chúng có tìm ra tôi qua hệ thống giám sát không? Thể chất của tôi vốn đã khá yếu, nếu như bị bắt, liệu tôi có thể chịu đựng nổi sự tra tấn tàn bạo không? Lỡ bị tra tấn đến chết thì tôi sẽ chẳng thể thấy được cảnh đẹp ở vương quốc nữa. Tôi nghĩ đến vài đồng sự đã bị bắt trước đây, ai cũng bị kết án hơn mười năm tù, mà tôi làm lãnh đạo còn lâu hơn họ, nếu bị bắt thì chắc chắn sẽ chịu án tù còn nặng hơn. Tôi hiện tại đã ngoài sáu mươi rồi, nếu bị bắt mà lãnh án thêm mười mấy năm nữa, thì chẳng biết có còn sống mà ra khỏi tù không nữa! Có lúc, tôi lại nghĩ: “Giá mà mình không làm bổn phận lãnh đạo thì đỡ rồi, dù có bị bắt thì cũng chẳng bị kết án nặng đến như vậy”. Suốt thời gian đó, ngày nào tôi cũng thấp thỏm lo âu, làm bổn phận mà cũng không sao yên lòng được. Nhất là khi nghe ĐCSTQ thường hay dùng máy bay không người lái để theo dõi và lùng bắt những người tin Đức Chúa Trời, tôi lại càng phải đặc biệt chú ý đến động tĩnh ở bên ngoài. Thỉnh thoảng, nghe có tiếng động gì lạ ngoài cửa sổ, tôi lại cuống cuồng chạy đến xem có phải là máy bay không người lái không. Đôi khi, nghe có tiếng bước chân ngoài hành lang hoặc người quản lý tòa nhà đến gõ cửa, là tôi lại đánh trống ngực, sợ đó là cảnh sát đến bắt chúng tôi. Lúc đó, tôi đâu còn lòng dạ nào để lo bổn phận, cũng chẳng còn tỉ mỉ theo sát công tác như trước nữa. Hiệu quả của nhiều hạng mục công tác đều bị ảnh hưởng, công tác văn tự mà tôi phụ trách chính cũng có kết quả sa sút. Dù có chút sốt ruột, nhưng tôi cũng chỉ viết thư hỏi thăm, chứ không hề cố gắng suy ngẫm và tìm kiếm xem vấn đề nằm ở đâu hay nên giải quyết thế nào. Một hôm, tôi nhận được một lá thư, tố cáo rằng người lãnh đạo Hội Thánh Thành Nam không làm công tác thực tế, cũng chẳng giải quyết các vấn đề thực tế. Đọc những biểu hiện của người lãnh đạo đó trong thư, tôi thấy hơi bất ngờ. Tôi vẫn luôn theo sát công tác của Hội Thánh Thành Nam, nhưng lại không hề phát hiện chuyện người lãnh đạo hội thánh không làm công tác thực tế. Chỉ cho tới lúc này, tôi mới đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện và phản tỉnh. Tôi nhận ra rằng trong suốt nửa năm qua, vì nguy hiểm rình rập mà mình đã liên tục chuyển chỗ ở, lúc nào cũng lo lắng nhỡ mình bị cảnh sát bắt rồi đánh chết, thì sẽ không được cứu rỗi và không vào được thiên quốc. Tôi đã sống trong nỗi lo lắng và ưu lo, nên hiếm khi có thể tập trung vào các chi tiết trong bổn phận của mình. Bây giờ, Hội Thánh Thành Nam còn bao nhiêu vấn đề chưa được giải quyết, kết quả của công tác văn tự thì cứ tụt dốc không phanh. Tất cả đều là do tôi hèn nhát, sợ hãi và không chịu làm công tác thực tế mà ra. Nghĩ đến đây, tôi thấy lòng đau như cắt, nên đã đến trước Đức Chúa Trời mà cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, suốt thời gian qua con đã luôn sống trong sự hèn nhát và sợ hãi, bổn phận xuất hiện quá nhiều vấn đề như vậy mà con lại tê liệt và không nhận ra. Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt con tìm kiếm lẽ thật, thoát khỏi tình trạng không đúng đắn này và chú tâm vào bổn phận của mình”.

Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Bất kể Sa-tan ‘hùng mạnh’ đến đâu, bất kể nó trơ tráo và tham vọng như thế nào, bất kể khả năng gây hại của nó lớn cỡ nào, bất kể những chiêu trò nó dùng để làm hư hoại và dụ dỗ con người có đa dạng ra sao, bất kể những trò bịp bợm và mưu đồ nó dùng để dọa dẫm con người có tinh ranh cỡ nào, bất kể hình thức tồn tại của nó có thể thay đổi như thế nào, thì nó cũng chưa bao giờ có thể tạo ra một sinh vật sống nào, chưa bao giờ có thể đặt ra các luật lệ và quy tắc cho sự tồn tại của muôn vật, nó chưa bao giờ có thể cai trị và kiểm soát bất kỳ vật gì, có sự sống hay không có sự sống. Trong khắp vũ trụ bao la rộng lớn, không có một người nào hay vật gì được sinh ra từ nó, hoặc tồn tại vì nó; không có một người nào hay vật gì bị nó cai trị hoặc bị nó kiểm soát. Ngược lại, nó không những phải sống dưới sự thống trị của Đức Chúa Trời, mà hơn thế nữa, còn phải thuận phục tất cả những lệnh truyền và mệnh lệnh của Đức Chúa Trời. Không có sự cho phép của Đức Chúa Trời, thì Sa-tan khó mà đụng đến thậm chí một giọt nước hay một hạt cát trên đất; không có sự cho phép của Đức Chúa Trời, Sa-tan thậm chí không được tự ý di chuyển những con kiến trên đất, chứ đừng nói đến loài người, những người đã được Đức Chúa Trời tạo ra. Trong mắt Đức Chúa Trời, Sa-tan còn thấp kém hơn những bông hoa huệ trên núi, những con chim bay trên trời, những con cá dưới biển và những con giòi trên đất. Vai trò của nó giữa muôn vật là phục vụ muôn vật, phục vụ loài người, phục vụ công tác của Đức Chúa Trời và kế hoạch quản lý của Ngài. Bất kể bản tính của nó độc ác thế nào, thực chất của nó xấu xa ra sao, thì điều duy nhất nó có thể làm là nghiêm túc tuân thủ chức năng của nó: phục vụ cho Đức Chúa Trời và là vật làm nền cho Đức Chúa Trời. Đó là bản chất và vị trí của Sa-tan. Thực chất của nó không liên quan đến sự sống, không liên quan đến quyền năng, không liên quan đến thẩm quyền; nó đơn thuần là một món đồ chơi trong tay Đức Chúa Trời, chỉ là một cái máy phục vụ Đức Chúa Trời!(Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra rằng Đức Chúa Trời tể trị vạn sự vạn vật, và Sa-tan chỉ là một quân cờ trong tay Ngài. Dù có lộng hành và táo tợn đến mức nào, nếu không có sự cho phép của Đức Chúa Trời thì nó cũng chẳng dám chạm đến một giọt nước hay một hạt cát trên mặt đất. Khi nhận ra điều này, tôi có lòng tin rằng chuyện mình có bị bắt giữ hay không đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Không có sự cho phép của Ngài, dù có dùng thiết bị giám sát công nghệ cao đến đâu thì con rồng lớn sắc đỏ cũng chẳng thể nào bắt được tôi. Nhớ lại vào năm 2018, tôi đã vài lần bị Giu-đa bán đứng. Lúc đó, cảnh sát còn nhờ cả một họa sĩ có tiếng phác họa chân dung của tôi để phát lệnh truy nã. Nhưng cho đến tận hiện tại, chúng vẫn chưa bắt được tôi. Hơn nữa, cả tôi và anh Vương Huy đều đang cận kề nguy hiểm, suốt thời gian này chúng tôi cứ phải dời chỗ ở liên tục. Đã mấy lần, chúng tôi suýt nữa thì bị cảnh sát bắt được, nhưng nhờ Đức Chúa Trời bảo vệ mà chúng tôi mới may mắn thoát được. Rồi tôi lại nghĩ đến chuyện Đa-ni-ên vì kiên trì thờ phượng Đức Chúa Trời mà bị ném vào hang sư tử. Ông tin mạng sống của mình nằm trong tay Đức Chúa Trời, nếu Ngài không cho phép thì sư tử cũng sẽ không cắn xé ông. Đức tin nơi Đức Chúa Trời đã bảo vệ Đa-ni-ên, cho dù ở chung trong hang với lũ sư tử đói mồi, ông vẫn không hề bị động đến dù chỉ là một sợi tóc. Ngoài ra, ba người bạn của Đa-ni-ên cũng có được đức tin chân thật nơi Đức Chúa Trời. Họ thà chết cũng không thờ ngẫu tượng hoặc phản bội Đức Chúa Trời. Dù bị ném vào lò lửa hừng hực, cuối cùng thì họ vẫn bình an vô sự bước ra. Tôi nên noi theo họ và phải có đức tin nơi Đức Chúa Trời. Nghĩ đến đây, tôi không còn lo lắng hay sợ hãi nữa. Tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời để được bình tâm mà còn dâng hiến hết mình cho bổn phận.

Một hôm, một người chị em chia sẻ cho tôi một video chứng ngôn trải nghiệm, có hai đoạn lời Đức Chúa Trời được trích dẫn trong đó đã làm tôi thực sự cảm động. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Kẻ địch lại Đấng Christ tin Đức Chúa Trời vì muốn được phúc lành, còn những chuyện liên quan đến nhà Đức Chúa Trời, đến lợi ích của Đức Chúa Trời thì họ chẳng bao giờ quan tâm. Bất luận làm chuyện gì cũng phải xoay quanh lợi ích cá nhân của họ. Nếu công tác của nhà Đức Chúa Trời không liên quan đến lợi ích cá nhân của họ thì họ hoàn toàn mặc kệ, không hỏi tới, như thế thì thật quá ích kỷ!(Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ. Mục 9 (Phần 2)). “Ngoài việc suy xét cho sự an toàn của mình ra, có một số kẻ địch lại Đấng Christ còn suy xét điều gì? Họ nói: ‘Bây giờ hoàn cảnh không được tốt, chúng ta bớt lộ diện và rao truyền phúc âm đi, như vậy sẽ không dễ bị bắt và công tác của hội thánh sẽ không bị phá hoại. Chúng ta không bị bắt thì sẽ không làm Giu-đa, sau này chẳng phải vẫn có thể được sống sót sao?’. Có kẻ địch lại Đấng Christ nào tìm cái cớ như vậy để mê hoặc anh chị em không? … Khi làm lãnh đạo, họ chỉ lo tham hưởng thụ xác thịt, không làm công tác thực tế, ngoại trừ có chút thư từ qua lại với các hội thánh ra, thì chẳng làm việc gì khác, chỉ trốn ở một nơi không gặp ai, khép mình lại, anh chị em cũng không biết lãnh đạo là ai, họ sợ hãi đến mức độ như vậy đấy. Vậy họ làm lãnh đạo có phải hữu danh vô thực hay không? (Thưa, phải.) Họ làm lãnh đạo mà chẳng làm công tác thực tế nào, chỉ lo lẩn trốn. Người ta hỏi họ: ‘Làm lãnh đạo thế nào?’. Thì họ nói: ‘Làm lãnh đạo bận rộn lắm, phải luôn chuyển chỗ ở cho an toàn, hoàn cảnh quấy nhiễu đến mức không có tâm tư làm việc’. Họ luôn cảm thấy có rất nhiều ánh mắt đang nhìn chằm chằm vào họ, không biết trốn ở đâu mới an toàn. Mỗi ngày ngoại trừ cải trang, trốn góc này góc nọ, chuyển chỗ ở khắp nơi, thì họ chẳng làm công tác thực tế gì. Có dạng lãnh đạo như vậy hay không? (Thưa, có.) Họ tuân theo nguyên tắc gì? Họ nói: ‘Thỏ khôn thì có ba hang. Vì đề phòng thiên địch đến đánh úp nên con thỏ đã chuẩn bị ba cái hang để ẩn náu. Vậy khi con người gặp nguy hiểm, muốn chạy trốn mà không có chỗ ẩn náu thì có được không? Chúng ta phải học hỏi loài thỏ! Động vật mà đức chúa trời tạo ra đều có năng lực sinh tồn này, con người cũng nên học hỏi chúng’. Từ khi làm lãnh đạo thì họ ngộ ra đạo lý như vậy, lại còn cảm thấy mình hiểu lẽ thật, nhưng thực ra là họ bị dọa cho vỡ mật rồi. Một khi nghe nói có lãnh đạo nào đó bởi vì chỗ ở không quá an toàn nên bị trình báo, hoặc là vì lúc nào cũng đi ra ngoài thực hiện bổn phận và tiếp xúc với quá nhiều người nên bị con rồng lớn sắc đỏ theo dõi, cuối cùng bị bắt, bị tuyên án, thì họ sợ hãi ngay lập tức. Họ nghĩ: ‘Ôi thôi, người tiếp theo bị bắt có thể là mình hay không? Mình phải rút ra bài học, không được quá sôi nổi, công tác của hội thánh mà có thể không làm thì mình sẽ không làm, nếu có thể không lộ diện thì mình sẽ không lộ diện. Mình sẽ cố hết sức giảm bớt công tác đến mức tối thiểu, cố hết sức không ra ngoài, không tiếp xúc với bất kỳ ai, không để bất kỳ ai biết mình là lãnh đạo. Thời buổi này ai có thể lo được cho ai chứ? Có thể sống sót là tốt rồi!’. Từ sau khi làm lãnh đạo, ngoài việc xách túi đi trốn ra, thì họ chẳng làm công tác gì, suốt ngày nơm nớp lo sợ, sợ bị bắt, sợ bị tuyên án. Khi nghe có người nói: ‘Nếu bị bắt là mất mạng đấy! Nếu không làm lãnh đạo, chỉ là tín hữu bình thường thì khi bị bắt, nộp phạt chút tiền là có thể được thả ra. Còn nếu là lãnh đạo thì khó nói lắm, quá sức nguy hiểm! Có lãnh đạo hay người làm công nào đó, sau khi bị bắt thì thà chết cũng không khai, cho nên đã bị cảnh sát đánh chết!’. Vừa nghe nói có người bị đánh chết thì họ lại càng sợ hãi, lại càng không dám làm việc. Mỗi ngày họ chỉ nghĩ trong đầu làm sao để không bị bắt, làm sao để có thể không lộ diện, không bị theo dõi, không tiếp xúc với anh chị em. Họ vắt óc để suy nghĩ những chuyện này mà quên sạch bổn phận của mình. Đây có phải là người có lòng trung thành hay không? Người như vậy có thể đảm đương công tác hay không? (Thưa, không thể.)” (Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ. Mục 9 (Phần 2)). Đức Chúa Trời vạch rõ rằng kẻ địch lại Đấng Christ tin Ngài là để được ban phúc. Họ xem lợi ích và an nguy của bản thân quan trọng hơn bất cứ điều gì khác. Ngay khi gặp phải hoàn cảnh nguy hiểm, kẻ địch lại Đấng Christ sẽ trốn chui trốn nhủi để đảm bảo an toàn cho mình, thậm chí có thể vứt bổn phận sang một bên và chẳng ngó ngàng gì đến. Khi nhìn thấy Đức Chúa Trời vạch rõ những biểu hiện này của kẻ địch lại Đấng Christ, tôi liền nghĩ đến tình trạng của chính mình trong suốt khoảng thời gian đó. Lúc đầu, khi hoàn cảnh chưa đến nỗi nguy hiểm, tôi vẫn có thể tích cực dẫn dắt anh chị em rao truyền phúc âm, và công tác của tôi cũng đạt được một số kết quả. Nhưng khi hội thánh phải đối mặt với các cuộc bắt bớ trên diện rộng, và bản thân tôi còn bị Giu-đa bán đứng, tôi đã lo sợ lỡ như mình bị bắt rồi bị đánh đến chết thì sẽ chẳng có được một kết cục hay đích đến tốt đẹp nào cả. Thế nên để bảo toàn bản thân, cả ngày tôi chỉ suy nghĩ làm sao giữ an toàn cho bản thân mình, chứ cũng không chăm chỉ theo sát công tác nữa. Công tác văn tự mấy tháng liền chẳng có kết quả gì, vậy mà tôi cũng không suy ngẫm cho kỹ, xem vấn đề nằm ở đâu hay nên giải quyết thế nào. Ngoài ra, tôi cũng đâu có chăm chỉ theo sát công tác của Hội Thánh Thành Nam. Người lãnh đạo giả kia không làm công tác thực tế, vậy mà tôi đã không phát hiện được, cũng không kịp thời cách chức và thay thế, khiến các hạng mục công tác của hội thánh đều bị đình trệ. Thậm chí, vì sợ bị bắt và lãnh án nặng, tôi còn bắt đầu nảy sinh cảm giác hối hận khi làm lãnh đạo. Khi nghĩ đến tất cả những chuyện này, cuối cùng tôi cũng nhận ra rằng, mình đã lấy việc được ban phước và đạt lợi ích làm cơ sở để thực hiện bổn phận, chịu khổ, dâng mình bao nhiêu năm qua. Hiện tại, vì hội thánh các nơi đều bị bắt bớ, nên công tác của hội thánh rất cần người phối hợp. Đặc biệt là ở Hội Thánh Thành Nam mà tôi phụ trách, có rất nhiều người mới vẫn chưa có nền tảng vững chắc trên con đường thật. Họ hèn nhát, sợ hãi không dám nhóm họp vì thấy bị đe dọa bởi sự bức hại cũng như bắt bớ của con rồng lớn sắc đỏ, và đang rất cần được giúp đỡ và chăm tưới. Một số lãnh đạo và người làm công trong hội thánh đã bị bắt, không còn ai để phối hợp trong công tác, nên cũng rất cần tiến hành bầu chọn lại. Thân là người giảng đạo, lẽ ra vào lúc này tôi nên gánh vác trách nhiệm và quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời. Giống như lời Đức Chúa Trời phán: “Người thân cận của Đức Chúa Trời có thể trực tiếp phụng sự Đức Chúa Trời là vì họ được trao sự ủy thác vĩ đại và trọng trách của Đức Chúa Trời, họ có thể biến lòng của Đức Chúa Trời thành của mình, nhận lấy trọng trách của Đức Chúa Trời thành của mình và họ không bận tâm đến sự được mất của tiền đồ trong tương lai, kể cả khi tiền đồ của họ là không có gì và họ không đạt được gì, họ sẽ luôn tin vào Đức Chúa Trời với lòng yêu kính Đức Chúa Trời. Và như thế, kiểu người này là người thân cận của Đức Chúa Trời(Cách phụng sự hợp tâm ý của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi thấy những người thực sự trung thành với Ngài không hề nghĩ đến an nguy hay tiền đồ của bản thân. Thay vào đó, việc gì Đức Chúa Trời cho là cấp bách thì họ cũng cho là cấp bách, gặp phải hoàn cảnh càng nguy hiểm thì họ càng tìm cách để làm tốt bổn phận của mình, nâng đỡ những anh chị em yếu đuối, và bảo vệ chu toàn công tác của hội thánh. Thế nhưng, khi rơi vào hoàn cảnh nguy hiểm, có ảnh hưởng đến tính mạng, kết cục và đích đến của mình, tôi đã gạt bổn phận sang một bên, thậm chí còn hối hận vì làm bổn phận lãnh đạo. Mặc dù bề ngoài trông tôi vẫn chưa hề bỏ cuộc, nhưng tâm trí tôi đã chẳng còn đặt ở bổn phận nữa rồi. Trong công tác xuất hiện nhiều lỗ hổng đến vậy mà tôi lại không phát hiện. Tôi đã không làm công tác thực tế! Ngày hôm nay, Đức Chúa Trời cất nhắc tôi làm bổn phận lãnh đạo, là hy vọng tôi có thể gánh vác trách nhiệm này và làm tốt công tác của hội thánh, Ngài cũng mượn việc thực hiện bổn phận này để ban cho tôi thêm nhiều phương diện lẽ thật. Thế nhưng, để bảo toàn bản thân, tôi chẳng những không thể hiện được lòng trung thành trong bổn phận, mà còn làm trì hoãn công tác. Như vậy thì làm gì có chút lương tâm nào đâu? Trước đây, tôi từng cảm thấy vì mình đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm như vậy, lại có thể vứt bỏ gia đình, buông bỏ sự hưởng thụ xác thịt, cũng như chịu khổ và trả giá trong khi làm bổn phận, nên mình có thể được xem là một người thực sự tin Đức Chúa Trời và đang mưu cầu lẽ thật. Giờ đây, sự tỏ lộ thông qua hoàn cảnh này cuối cùng đã giúp tôi thấy rõ vóc giạc thực sự của mình. Tôi đến trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, khi biết mình bị Giu-đa bán đứng, con đã sống trong tình trạng chỉ lo bảo toàn bản thân. Con đã không chăm chỉ trong bổn phận và gây trở ngại cho công tác. Con cảm thấy rất tội lỗi và tự trách. Lạy Đức Chúa Trời, con đã nhận ra sự ích kỷ, đê tiện của mình, và không muốn tiếp tục sống trong tình trạng này nữa. Từ nay về sau, con muốn điều chỉnh tình trạng và làm tốt công tác của mình. Xin Ngài dẫn dắt con”. Sau khi cầu nguyện, lòng tôi cũng dịu lại phần nào. Tôi nhanh chóng tìm anh Vương Huy để bàn bạc cách giải quyết những vấn đề trong công tác. Trước tiên chúng tôi xác minh lá thư tố giác từ Hội Thánh Thành Nam, rồi cách chức và thay thế người lãnh đạo giả đó dựa theo nguyên tắc. Về phần công tác văn tự, tôi phát hiện, sở dĩ kết quả công tác không tốt là vì những người làm công tác văn tự này làm bổn phận rất tùy tiện, không gánh trọng trách, và cũng không phối hợp hài hòa với nhau. Sau đó, tôi tìm người phụ trách để thông công và đã giải quyết được vấn đề này. Sau một thời gian giám sát và theo dõi, kết quả của công tác văn cũng tự bắt đầu được cải thiện. Thấy vậy, tôi không thể không suy nghĩ, nếu ngày trước mình có thể chăm chỉ hơn trong bổn phận, thì công tác đã không bị trì hoãn lâu như vậy, nên tôi càng cảm thấy tội lỗi, tự trách, cũng thầm hạ quyết tâm từ giờ nhất định phải làm bổn phận của mình cho thật tốt.

Vào một ngày tháng 2 năm 2024, tôi nhận được tin nhắn từ các anh chị em, nói rằng chị Văn Hy lại bị bắt, lần này chị ấy đã bán đứng một số chi tiết về tôi, và con rồng lớn sắc đỏ đã một lần nữa phác họa được chân dung của tôi. Mấy hôm sau, tôi lại nghe tin Chị Dương Thạc, người lái xe cho chúng tôi dạo gần đây, cũng đã bị cảnh sát bắt. Liên tiếp nghe được những tin này, lòng tôi thấp thỏm không yên. Dựa theo thủ đoạn thường dùng của con rồng lớn sắc đỏ, trước khi bắt ai, chúng sẽ bám theo và điều tra người đó trong một thời gian, xác định được mục tiêu rồi thì mới tiến hành bắt giữ. Cách đó không lâu, chị Dương Thạc đã đưa đón chúng tôi hai lần. Nếu cảnh sát đã bám theo chị ấy từ trước khi bắt, vậy thì chẳng phải mấy lần chúng tôi chuyển chỗ vừa rồi đều diễn ra ngay dưới mắt cảnh sát sao? Hiện tại, chị Dương Thạc bị bắt, chị Văn Hy lại bán đứng thêm một số chi tiết về tôi, nếu bị bắt thì tôi chắc chắn sẽ bị cảnh sát dùng cực hình tra tấn. Còn lỡ như tôi bị đánh chết, thì chẳng phải sẽ mất hết hy vọng được cứu rỗi sao? Tôi càng nghĩ càng lo lắng, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt để mình có thể đứng vững làm chứng trong hoàn cảnh này. Sau khi cầu nguyện, tôi cũng bình tĩnh lại đôi chút. Tôi nhớ đến một đoạn lời của Đức Chúa Trời mình đã đọc được trong khoảng thời gian đó, nên đã tìm lại để đọc. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Các môn đồ đó của Đức Chúa Jêsus đã chết như thế nào? Trong số các môn đồ, có những người bị ném đá, bị kéo lê phía sau một con ngựa, bị đóng đinh lộn ngược xuống, bị ngũ mã phanh thây – mọi kiểu chết chóc đã xảy đến với họ. Lý do cho cái chết của họ là gì? Họ đã bị xử tử đúng luật vì tội lỗi của họ phải không? Không. Họ loan truyền phúc âm của Chúa, nhưng người đời không tiếp nhận, ngược lại còn lên án, đánh chửi, còn đẩy họ vào chỗ chết – đó là cách mà họ tử vì đạo. … Thật ra, đây là cách thể xác của họ đã chết và qua đời; đây là cách thức họ rời khỏi thế giới loài người, nhưng điều đó không có nghĩa kết cục của họ là như vậy. Bất kể những cách thức họ chết và ra đi như thế nào đi nữa, hay nó đã xảy ra làm sao, thì cũng không phải là cách Đức Chúa Trời quy định kết cục cuối cùng cho những sinh mệnh, cho những loài thọ tạo đó. Đây là một điều ngươi phải thấy rõ. Trái lại, họ đã sử dụng một cách chính xác những cách thức đó để lên án thế gian này và làm chứng cho những việc làm của Đức Chúa Trời. Những loài thọ tạo này đã sử dụng mạng sống quý giá nhất của họ – họ đã sử dụng khoảnh khắc cuối cùng của sự sống để làm chứng cho những việc làm của Đức Chúa Trời, để làm chứng cho quyền năng vĩ đại của Đức Chúa Trời và tuyên bố cho Sa-tan và thế gian rằng những việc làm của Đức Chúa Trời là đúng, rằng Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời, rằng Ngài là Chúa và là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời. Thậm chí đến giây phút cuối cùng của sự sống họ, họ không bao giờ chối bỏ danh của Đức Chúa Jêsus. Đây chẳng phải là một hình thức tuyên án thế gian này hay sao? Họ đã dùng mạng sống của mình để tuyên bố với thế gian, để xác nhận với loài người rằng Đức Chúa Jêsus là Chúa, rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, rằng Ngài là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời, rằng công tác cứu chuộc toàn nhân loại mà Ngài làm khiến cho nhân loại này được tiếp tục sống sót – sự thật này đời đời không bao giờ thay đổi. Những người đã tử vì đạo vì rao truyền phúc âm của Đức Chúa Jêsus, họ đã thực hiện bổn phận của mình đến mức độ nào? Đã đến mức tối đa chưa? Mức tối đa được biểu lộ như thế nào? (Họ đã dâng mạng sống của mình.) Đúng vậy, họ đã trả giá bằng mạng sống của mình. Gia đình, của cải và những thứ vật chất của cuộc đời này đều là những thứ bên ngoài; điều duy nhất liên quan đến bản thân là sự sống. Đối với mỗi người sống, thì sự sống là thứ đáng trân trọng nhất, là thứ quý giá nhất và, thật tình cờ, những người này đã có thể dâng tài sản quý giá nhất của họ – sự sống – như một sự xác nhận và lời chứng cho tình yêu của Đức Chúa Trời đối với nhân loại. Cho đến ngày họ chết, họ không chối bỏ danh của Đức Chúa Trời, họ cũng không chối bỏ công tác của Đức Chúa Trời, và họ đã sử dụng khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời mình để làm chứng cho sự hiện hữu của sự thật này – chẳng phải đây là dạng chứng ngôn cao cả nhất sao? Đây là cách thực hiện bổn phận tốt nhất; đây là ý nghĩa của việc làm tròn trách nhiệm của một người. Khi Sa-tan đe dọa và uy hiếp họ, và cuối cùng, ngay cả khi nó khiến họ phải trả giá bằng mạng sống của mình, thì họ vẫn không từ bỏ trách nhiệm của mình. Đây là ý nghĩa của việc thực hiện bổn phận đến mức tối đa. Ý của Ta qua điều này là gì? Có phải Ta có ý là muốn các ngươi sử dụng cùng một phương pháp để làm chứng về Đức Chúa Trời và để rao truyền phúc âm của Ngài không? Ngươi không nhất thiết phải làm như thế, nhưng ngươi phải hiểu rằng đây là trách nhiệm của ngươi, rằng nếu Đức Chúa Trời cần ngươi, thì ngươi nên chấp nhận như một điều chính nghĩa phải làm. Con người ngày nay có nỗi sợ hãi và lo lắng bên trong họ, nhưng những cảm xúc đó có ích lợi gì? Nếu Đức Chúa Trời không cần ngươi làm điều này, thì việc lo lắng về điều đó có ích lợi gì? Nếu Đức Chúa Trời cần ngươi làm điều này, thì ngươi không nên trốn tránh trách nhiệm này hay từ chối nó. Ngươi nên chủ động hợp tác và chấp nhận nó mà không phải lo lắng gì. Dù con người có chết như thế nào, họ cũng không nên chết trước Sa-tan và không nên chết trong tay Sa-tan. Nếu một người sắp chết, họ nên chết trong tay Đức Chúa Trời. Con người đến từ Đức Chúa Trời, và họ trở về với Đức Chúa Trời – đó là lý trí và thái độ mà một loài thọ tạo nên có(Rao truyền phúc âm là bổn phận không thể thoái thác của tất cả những người tin Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đọc xong lời Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy nhẹ lòng hơn một chút. Các môn đồ của Đức Chúa Jêsus đã bị bức hại vì loan truyền phúc âm của Đức Chúa Trời. Có người bị ngũ mã phanh thây, có người bị ném đá đến chết, có người bị chém đầu, còn có người thì bị đóng đinh ngược trên thập tự giá. Họ chưa bao giờ vì bị bức hại mà từ bỏ việc rao truyền phúc âm, cũng chưa bao giờ phủ nhận danh của Đức Chúa Trời, cho đến tận lúc chết: Họ đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng vang dội cho Đức Chúa Trời. Dù đối với con người, thân xác họ đã chết, nhưng linh hồn họ đã được trở về trước Đấng Tạo Hóa. Tôi nghĩ đến lời của Đức Chúa Jêsus: “Ai gìn giữ sự sống mình, thì sẽ mất; còn ai vì cớ ta mất sự sống mình, thì sẽ tìm lại được(Ma-thi-ơ 10:39). Lời của Đức Chúa Jêsus phán rất rõ ràng. Nếu người ta vứt bỏ mạng sống vì tin Đức Chúa Trời hoặc vì thực hiện bổn phận, thì dù thân xác có chết đi, ở nơi Đức Chúa Trời, linh hồn của họ vẫn sẽ được cứu rỗi, và họ sẽ đạt được sự sống thật sự. Là một loài thọ tạo, tôi nên thuận phục vô điều kiện hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt. Nếu Đức Chúa Trời cho phép tôi bị con rồng lớn sắc đỏ bắt giữ, tôi nên liều mạng sống của mình để đứng vững làm chứng cho Ngài, và hoàn thành trách nhiệm của một loài thọ tạo. Ngay cả khi tôi thực sự bị con rồng lớn sắc đỏ tra tấn đến chết, đó cũng là một lời chứng khiến Sa-tan phải nhục nhã, vẫn sẽ có giá trị và ý nghĩa. Nếu tôi cứ tiếp tục sống như trước đây, chỉ lo bảo toàn bản thân, tham sống sợ chết, thì dù có bảo vệ được thân xác, tôi cũng không hoàn thành được trách nhiệm của một loài thọ tạo, và sẽ không làm chứng được cho Đức Chúa Trời. Đó mới thực sự là mất đi cơ hội được cứu rỗi. Khi đã hiểu rõ những chuyện này, tôi không còn hèn nhát và sợ hãi nữa. Hiện tại, tôi chưa bị con rồng lớn sắc đỏ bắt giữ, và vẫn còn cơ hội để làm bổn phận, vì vậy tôi nên làm cho tốt những bổn phận mà mình phải làm. Nhất là do tình hình bắt bớ hiện tại, công tác của một số hội thánh vẫn chưa hoàn toàn phục hồi. Một số anh chị em vẫn đang sống trong tiêu cực và yếu đuối, con rồng lớn sắc đỏ thì vẫn truy cùng đuổi tận, bắt bớ các anh chị em. Tôi nên dốc hết sức lực của mình thông công tâm ý của Đức Chúa Trời với các anh chị em, để mọi người có thể cậy dựa Ngài, làm tốt bổn phận của mình và đứng vững làm chứng. Nghĩ đến đây, tôi thấy lòng mình thật sáng tỏ. Sau đó, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời và có ý thức dồn hết tâm huyết vào bổn phận của mình. Đối với những vấn đề trong công tác của hội thánh, tôi cùng anh Vương Huy bàn bạc và thông công để giải quyết, tôi cũng viết thư để thông công riêng với những hội thánh có kết quả công tác không tốt. Sau một thời gian, các hạng mục công tác đều có chút khởi sắc, còn tôi cũng cảm thấy rất mãn nguyện. Tạ ơn Đức Chúa Trời!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger