Thói phô trương là vô liêm sỉ
Tháng Ba năm 2020, tôi chuyển đến một hội thánh mới. Ở hội thánh cũ, tôi là một lãnh đạo, và các anh chị em vốn rất nể trọng tôi. Hễ cứ gặp vấn đề là họ lại tìm tôi để giải quyết. Nhưng tại hội thánh mới này, các anh chị em không quen biết tôi. Tôi cảm thấy mình như một kẻ vô danh tiểu tốt. Tôi rất thất vọng. Tôi nghĩ: “Mình từng khá thành thạo trong việc rao giảng Phúc Âm, nên lần này, nếu có thể dùng khả năng của mình để dẫn dắt được thêm nhiều người chấp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, thì điều đó sẽ cho mọi người thấy mình có tố chất và thực hiện bổn phận hiệu quả hơn người khác, và rồi mình sẽ có thể nổi trội”. Vì vậy, tôi bắt đầu rao giảng Phúc Âm khắp nơi, từ sáng đến tối, đôi khi bận quá chẳng có thời gian để ăn, và chẳng bao lâu sau, nhờ việc rao giảng của tôi, hơn chục người đã chấp nhận công tác của Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ: “Các anh chị em chắc chắn sẽ nhìn mình bằng con mắt khác vì mình đã thực hiện bổn phận rất tốt”. Khi thấy các anh chị em, tôi không khỏi phô trương. Họ nói với tôi bằng giọng ghen tỵ: “Chị rao giảng Phúc Âm dễ dàng quá, mà chúng tôi lại không làm được. Khi gặp các mục tiêu Phúc Âm có quan niệm tôn giáo, không chịu lắng nghe, tôi không biết phải nói gì với họ cả”. Sự thật là tôi cũng thường gặp phải tình huống này, và không thể rao giảng thành công cho những người như thế, nhưng tôi hiếm khi hoặc không hề nhắc đến những vấn đề và thất bại này, vì tôi sợ lỡ mọi người biết, họ sẽ không xem tôi là người có khả năng hay nể trọng tôi. Tôi thầm nghĩ: “Mình phải nói về những trải nghiệm rao giảng Phúc Âm thành công để mọi người có thể thấy mình làm bổn phận tốt như thế nào”. Vì vậy tôi đã bảo với họ: “Rao giảng Phúc Âm không khó. Khi gặp các mục tiêu Phúc Âm, đây là cách tôi thông công với họ…” Nghe vậy, các anh chị em vô cùng ngưỡng mộ tôi. Sau đó, khi ai đó có bạn bè hay người thân muốn tìm hiểu công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, mọi người sẽ nói: “Đ Chí Bình đi rao giảng cho họ. Ta cần Chí Bình”. Tôi đã rất hạnh phúc khi nhận thấy ai cũng nghĩ như vậy. Không lâu sau, tôi được tiến cử đảm nhận công tác chăm tưới của một số hội thánh. Điều này khiến tôi thậm chí còn tự hào hơn, nghĩ mình đã có một sân khấu lớn hơn để thể hiện tài năng. Khi các anh chị em gặp khó khăn trong việc chia sẻ Phúc Âm hay chăm tưới người mới và phải rút lui, hay không sẵn lòng chịu khổ và trả giá, tôi đã động viên và nói chuyện với họ về khổ sở tôi chịu khi rao giảng Phúc Âm. Tôi đã nói rằng khi tôi rao giảng Phúc Âm. đôi khi vào mùa đông, trời xuống hơn âm mười độ C, gió lạnh thấu xương, nhưng kể cả thời tiết có như thế, tôi cũng đi rao giảng. Gặp trời mưa lớn, nước cuồn cuồn dưới cầu, giày tôi thì ướt sũng, tôi đã vắt nước trong giày ra, nhét vào túi và tiếp tục đi rao giảng. Có lần, nhiệt độ hơn âm mười độ C, tôi đã đi gặp một người mới theo đạo, và chờ ngoài trời hơn một tiếng đồng hồ thì anh ấy mới đến… Khi các anh chị em nghe tôi nói vậy, họ đã nhìn tôi tán thưởng và khâm phục vì tôi có thể chịu khổ như vậy, và điều đó luôn khiến tôi hạnh phúc.
Sau đó, các lãnh đạo của tôi đã cho tôi đảm nhận công tác chăm tưới của nhiều hội thánh nữa. Tôi nghĩ: “Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, mình được đề bạt lần nữa, vậy là các anh chị em sẽ càng nể trọng mình hơn!” Khoảng thời gian đó, tôi thường cầu nguyện với Đức Chúa Trời và cố gắng trang bị các khía cạnh lẽ thật liên quan đến việc chăm tưới người mới. Dần dà, tôi đã tìm được một con đường tiến lên trong bổn phận của mình. Các anh chị em đều cảm thấy lắng nghe mối thông công của tôi giúp ích cho họ. Cái tôi của tôi lại trỗi dậy mà tôi không hay biết, và tôi lại bắt đầu phô trương trong các cuộc họp. Khi các anh chị em hỏi tôi cách giải quyết các quan niệm tôn giáo của những người mới theo đạo. Tôi nghĩ: “Mình sẽ nói rõ với họ về chuyện này để mọi người có thể thấy chuyên môn của mình trong lĩnh vực này”. Sau đó, tôi nói chi tiết với họ về những suy nghĩ và trải nghiệm của mình, rồi dần dần, mọi người đã nhìn tôi bằng con mắt khác. Họ chăm chú lắng nghe bất cứ điều gì tôi nói, tôi đi đâu cũng được các anh chị em chào đón, và thậm chí những anh chị em chưa từng nghe tôi thông công cũng xin được nghe tôi nói. Sau đó, tôi đưa ra những vấn đề chung gặp phải trong việc truyền giáo và công tác chăm tưới, viết ra 17 quy tắc, mang đến các cuộc họp và chia sẻ hùng hồn với các anh chị em. Lúc đó, có một chị có chồng là cán bộ thôn và ngăn cản chị ấy tin vào Đức Chúa Trời. Anh ấy đã hỏi rất nhiều câu sắc bén và cố tình làm khó chúng tôi, còn yêu cầu đích danh tôi thông công. Tôi đã rất lo lắng về chuyện đó, nhưng nhờ cầu nguyện với Đức Chúa Trời, tôi đã bác bỏ được từng câu hỏi của anh, và cuối cùng, anh không còn gì để nói nữa. Sau đó, tôi lấy những câu hỏi mà chồng của chị này đưa ra và đưa chúng vào những câu hỏi thường gặp của tôi về việc chia sẻ Phúc Âm. Mỗi lần hội họp, tôi lại cố tình đưa chúng ra và nói một cách sinh động, dùng các trải nghiệm thành công của mình để các anh chị em biết tôi có năng lực và khôn ngoan. Sau các cuộc họp, một số anh chị em đã nói: “Chị à, chị có thể ở lại đây với chúng tôi thêm một ngày và thông công thêm cho chúng tôi được không?” Thấy mọi người ngưỡng mộ mình như thế, tôi không khỏi tự hào. Để các anh chị em biết tôi là người quan trọng, có thể chịu khổ và trả giá trong bổn phận, tôi thậm chí còn giả vờ nói bâng quơ: “Tôi đang đảm trách nhiều hội thánh, và đã có một cuộc hẹn tại một hội thánh khác. Nhiều anh chị em đang chờ tôi. Tôi bận đến nỗi không có thời gian để nghỉ ngơi nữa…” Khi nói chuyện với các anh chị em, tôi cũng sẽ cố tình nói: “Mỗi lần tôi đi họp là mất cả ngày. Tôi từng bị gãy xương hông và thực sự khổng thể ngồi như thế này được”. Một chị khi nghe thấy vậy đã khâm phục nói: “Chị thực sự đang rất chăm chỉ, nên chị phải chú ý đến sức khỏe của mình đó”. Vì tôi thường phô trương giữa các anh chị em như vậy, khiến họ cảm thấy tôi có khả năng chịu khổ và mang gánh nặng trong việc thực hiện bổn phận.
Trong suốt thời gian đó, tôi rất bận rộn với việc họp và thông công, đôi khi lòng tôi trống rỗng và tôi không biết phải nói gì cả. Nhưng khi thấy ánh mắt mong đợi của các anh chị em, tôi nghĩ: “Bây giờ, các anh chị em cảm thấy mình thông công rõ ràng về lẽ thật, và mình đi đâu mọi người cũng nể trọng mình. Nếu nói với họ mình không biết phải thông công thế nào, thì chẳng phải hình ảnh đẹp mà mình đã xây dựng trong lòng họ sẽ sụp đổ sao?” Vì thế tôi giả vờ bình tĩnh và yêu cầu họ thông công trước. Tôi nghĩ bụng: “Trước hết, mình sẽ nghe mọi người nói gì đã, sau đó mình sẽ tóm tắt những điều họ nói và chia sẻ hiểu biết của riêng mình, điều đó sẽ trông như thể mình đã tiếp nhận lẽ thật một cách toàn diện và sâu sắc hơn”. Cuối cùng, các anh chị em cảm thấy tôi thông công thấu đáo. Và tôi đã giả vờ khiêm tốn nói: “Vì tôi có bổn phận này, nên cách Đức Chúa Trời đã soi sáng cho tôi cũng khác”. Khi tôi nói như vậy, các anh chị em càng phụ thuộc vào tôi hơn. Trong suốt thời gian đó, dù có gặp vấn đề gì trong việc rao giảng Phúc Âm, họ cũng không cầu nguyện hay tìm kiếm nữa, mà hy vọng tôi có thể thông công với họ và giải quyết chúng. Lúc đó, tôi cũng nghĩ về tác hại của việc ngưỡng mộ và được ngưỡng mộ, và cảm thấy có chút bất an, nhưng rồi tôi nghĩ: “Mối thông công của mình toàn là về hiểu biết của mình về lời Đức Chúa Trời và chỉ ra một số con đường thực hành cho các anh chị em. Tất cả đều là để công tác của chúng tôi có thể đạt kết quả tốt. Việc đó chẳng có gì là sai cả”. Vì thế, những lo lắng và bất an đó chỉ thoáng qua trong tâm trí tôi. Nhưng đúng lúc tôi đang tràn đầy đam mê và nhiệt huyết thực hiện bổn phận, thì bệnh vảy nến nhiều năm qua không động tĩnh gì của tôi đột nhiên tái phát. Trên chân, tay, thậm chí là mặt tôi, có những mảng vảy lớn. Nó rất ngứa ngáy, và khiến tôi cực kỳ khó chịu đến nỗi không thể đi họp. Tôi đã dùng nhiều loại thuốc, nhưng không ăn thua. Lần này bệnh còn tệ hơn trước. Tôi nhận ra căn bệnh này không phải là một tai nạn, và đó hẳn là bài học để rút kinh nghiệm. Tôi đã tìm kiếm và cầu nguyện với Đức Chúa Trời, nhưng lúc đó, tôi đã không nhận ra vấn đề của mình là gì.
Sau đó, các lãnh đạo đã sắp xếp để tôi thông công với một vài anh chị em rao giảng Phúc Âm và giải quyết vấn đề của họ. Và tôi nghĩ: “Mình sẽ làm tốt để cho họ thấy khả năng làm việc của mình”. Sau đó, tôi giống như một người điều hành công ty trong một cuộc họp thuyết trình báo cáo. Tôi đã thông công với họ về cách nắm bắt các điểm chính của việc thông công khi rao giảng Phúc Âm, cách giải quyết các vấn đề thông thường trong việc rao giảng Phúc Âm. Các anh chị em đã chăm chú lắng nghe. Một số thậm chí còn thường xuyên viết ghi chú vì sợ bỏ sót điều gì đó, và người chị em tiếp đãi chúng tôi cũng ngồi cạnh cửa, lắng nghe cẩn thận, và liên tục đưa nước cho tôi uống. Tôi rất sung sướng khi thấy mọi người rất thích mối thông công của mình. Nhưng đồng thời, tôi cũng thấy không thoải mái lắm. Toàn bộ chuyện này chỉ là hiểu biết của cá nhân tôi, vì vậy, sai lầm là điều không thể trách khỏi, thế thì việc mọi người viết ra những gì tôi nói có thích hợp không? Nhưng rồi tôi nghĩ: “Có lẽ các anh chị em chỉ muốn ghi lại một số thực hành tốt, giúp ích trong việc thực hiện bổn phận của họ. Thế thì đâu có gì sai”. Khi nghĩ như vậy, tôi quyết định để mọi người ghi chú trong các cuộc họp. Tại cuộc họp ngày hôm sau, một chị lại đến và nói: “Hôm qua tôi đã không ghi lại mối thông công của chị Chí Bình, nên hôm nay tôi sẽ nghe lại”. Khi buổi họp kết thúc, tôi nghe hai chị kia nói chuyện với nhau. Một người nói: “Chị có ghi lại không?” Chị kia phàn nàn: “Tại sao chị không ghi lại?” Khi nghe thấy vậy, tôi cảm thấy hơi sợ: “Nếu mọi người xem lời tôi quá quan trọng như thế, thì chẳng phải tôi đang mang họ đến trước mình sao?” Càng nghĩ, tôi càng thấy sợ, nên tôi đã về nhà cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài soi sáng để tôi có thể biết mình.
Tôi đã đọc được hai đoạn lời này của Ngài: “Tâng bốc và chứng thực cho chính mình, khoe khoang bản thân, cố khiến người khác đề cao mình – loài người bại hoại hoàn toàn có thể làm những việc đó. Đây là cách con người phản ứng theo bản năng khi họ bị thao túng bởi bản tính ma quỷ của mình, và điều này rất phổ biến trong toàn nhân loại bại hoại. Con người thường tâng bốc và chứng thực cho bản thân mình như thế nào? Làm thế nào để họ đạt được mục đích đó? Một cách là chứng thực cho việc họ đã chịu khổ đến mức nào, đã làm nhiều việc đến mức nào, và đã dâng mình đến mức nào. Họ nói về những điều này như một dạng vốn liếng cá nhân. Đó là, họ dùng những thứ đó như vốn liếng để tâng bốc bản thân, giúp họ có được vị trí cao hơn, vững chắc hơn, an toàn hơn trong tâm trí mọi người; để nhiều người quý mến họ, ngưỡng mộ họ, tôn trọng họ, thậm chí là sùng kính họ, thần tượng họ, và đi theo họ. Đó chính là kết quả sau cùng. Những thứ họ làm để đạt được mục đích này – tất cả những việc tâng bốc và chứng thực cho bản thân đó – liệu chúng có hợp lý hay không? Không hề. Chúng đã vượt quá phạm vi của sự hợp lý. Những người này chẳng biết hổ thẹn: Họ không hề nao núng làm chứng thực về công việc mình đã làm cho Đức Chúa Trời và về việc họ đã chịu đựng nhiều khổ sở vì Ngài đến mức nào. Họ thậm chí còn khoe khoang ân tứ, tài năng, kinh nghiệm và các kỹ năng đặc biệt của mình hay những kỹ xảo khéo léo trong xử thế, những thủ đoạn bỡn cợt mọi người. Phương pháp họ dùng để tâng bốc và chứng thực cho bản thân là khoe khoang mình và xem thường người khác. Họ cũng che đậy và ngụy trang bản thân, ẩn giấu các điểm yếu, thiếu sót và thất bại của mình trước mọi người để mọi người chỉ có thể nhìn thấy sự tài giỏi của họ. Họ thậm chí chẳng dám nói với mọi người khi họ cảm thấy tiêu cực; họ thiếu dũng khí để cởi mở và thông công với mọi người, và khi họ làm sai điều gì thì họ sẽ cố hết sức để giấu giếm và che đậy điều đó. Họ chẳng bao giờ nhắc đến những tổn hại họ đã gây ra cho nhà Đức Chúa Trời trong quá trình họ thực hiện bổn phận của mình. Thế nhưng khi thực hiện được vài đóng góp chẳng đáng kể hoặc đạt được một chút thành công nhỏ nhoi thì họ lại khoe khoang rất nhanh. Họ không thể chờ để cho cả thế giới biết mình tài giỏi thế nào, tố chất cao đến đâu, xuất chúng đến mấy, và họ vượt trội hơn người thường nhiều như thế nào nào. Đó chẳng phải là một cách tâng bốc và chứng thực cho bản thân ư?” (“Họ tán dương và chứng thực về chính mình” trong Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). “Tất cả những ai xuống dốc đều tự đề cao và làm chứng cho chính mình. Họ đi khắp nơi khoe khoang về bản thân và tự đề cao, và họ đã không hề coi trọng Đức Chúa Trời. Các ngươi có bất kỳ trải nghiệm nào về những điều Ta đang nói không? Nhiều người không ngừng làm chứng cho chính mình: ‘Tôi đã đau khổ như thế nào; Tôi đã làm việc như thế nào; Đức Chúa Trời đã đối xử với tôi như thế nào; Ngài đã yêu cầu tôi làm như thế như thế; Ngài đặc biệt đánh giá cao tôi; bây giờ tôi như thế nào’. Họ cố tình nói bằng một giọng điệu nhất định và theo những tư thế nhất định. Cuối cùng, một số người rốt cục nghĩ rằng những người này là Đức Chúa Trời. Một khi họ đạt đến mức đó, thì Đức Thánh Linh đã từ bỏ họ từ lâu rồi. Mặc dù, trong lúc này, họ bị phớt lờ, và không bị đuổi, nhưng số phận của họ đã được định sẵn, và tất cả những gì họ có thể làm là chờ đợi sự trừng phạt của mình” (“Mọi người đòi hỏi Đức Chúa Trời quá nhiều” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đã vạch trần chính xác tình trạng của tôi. Tôi thường đề cao bản thân và phô trương như vậy. Lúc đầu khi mới đến hội thánh mới đó, tôi cảm thấy mình là kẻ vô danh tiểu tốt, như là người có cũng như không vậy, nên tôi nghĩ việc rao giảng Phúc Âm là cơ hội để người khác ngưỡng mộ và đi theo tôi. Để cho mọi người thấy khả năng làm việc của tôi và khiến họ nhìn tôi bằng con mắt khác, Tôi đã không nói về những trải nghiệm thất bại của mình, mà chỉ nói về cách mình rao giảng Phúc Âm, hay đã cải đạo cho bao nhiêu người, và làm thế nào để giải quyết vấn đề để cho mọi người ảo tưởng và nghĩ tôi việc gì cũng làm được Khi được đề bạt, tôi muốn có thêm nhiều người nể trọng mình và có chỗ trong lòng họ, nên luôn nói với các anh chị em tôi bận như thế nào và phải chịu đựng những gì. Nhưng tôi chưa từng nói với họ về điểm yếu và sự bại hoại của mình để khiến họ nghĩ tôi có thể mưu cầu lẽ thật, trả giá, và mang gánh nặng trong bổn phận. Chẳng phải như vậy là lừa gạt các anh chị em sao? Con rồng lớn sắc đỏ liên tục rêu rao về hình ảnh “vĩ đại, vinh quang và chính trực” của nó để người ta ngưỡng mộ, đi theo nó, nhưng nó đã bí mật làm mọi cách để che đậy những việc làm tà ác của mình hòng lừa gạt mọi người trên thế giới. Việc tôi làm và con rồng lớn sắc đỏ có khác gì nhau đâu? Đức Chúa Trời đã ban cho tôi ân tứ và tài năng rao giảng Phúc Âm, để tôi có thể làm phần việc của mình trong việc mở rộng phạm vi tiếp cận của Phúc Âm và đưa thêm nhiều người đến trước Đức Chúa Trời để họ có thể được Ngài cứu rỗi. Nhưng tôi lại dùng những ân tứ và tài năng này làm vốn để phô trương và thể hiện bản thân ở khắp nơi, tận hưởng sự tôn trọng và tôn sùng của các anh chị em dành cho tôi. Tôi thật quá vô liêm sỉ. Vì tôi thường xuyên đề cao bản thân và phô trương để gạt các anh chị em, họ đã không tìm kiếm hay cầu nguyện với Đức Chúa Trời khi gặp rắc rối, mà lại thông công với tôi để giải quyết chúng. Chẳng phải tôi đang cố chiếm chỗ của Đức Chúa Trời sao? Lúc đó tôi đang chống đối Đức Chúa Trời! Khi nghĩ về chuyện này, tôi đã rất sợ. Tôi đã quay về trước Đức Chúa Trời, quỳ xuống và khóc lóc cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, con sai rồi. Con đã đề cao bản thân và phô trương để khiến người khác tôn sùng mình. Con đã đi trên con đường chống đối Ngài vô phương cứu chuộc. Con muốn ăn năn”.
Sau đó, tôi đã tự kiểm điểm. Tôi biết rõ rằng sự sáng trong mối thông công của tôi chính là sự soi sáng của Đức Thánh Linh, thế thì tại sao tôi vẫn vô tình phô trương và thể hiện bản thân chứ? Sau đó, tôi đã đọc được trong lời Đức Chúa Trời: “Một số người đặc biệt tôn sùng Phao-lô. Họ thích ra ngoài, diễn thuyết và làm việc, họ thích tham dự các buổi tụ họp và rao giảng, và họ thích mọi người lắng nghe họ, tôn thờ họ, và xoay quanh họ. Họ thích có địa vị trong tâm trí người khác, và họ đánh giá cao việc người khác coi trọng hình ảnh mà họ thể hiện. Hãy cùng phân tích bản tính của họ từ những hành vi này: Bản tính của họ là gì? Nếu họ thực sự cư xử như vậy, thì cũng đủ cho thấy họ kiêu ngạo và tự phụ. Họ không thờ phụng Đức Chúa Trời chút nào; họ tìm kiếm một địa vị cao hơn và mong muốn có quyền lực với người khác, chiếm hữu họ, và có địa vị trong tâm trí họ. Đây là hình ảnh điển hình của Sa-tan. Các khía cạnh nổi bật trong bản tính của họ là sự kiêu ngạo và tự phụ, không sẵn lòng thờ phụng Đức Chúa Trời, và tham muốn được người khác tôn thờ. Những hành vi như vậy có thể cho ngươi một cái nhìn rất rõ ràng về bản tính của họ” (“Làm thế nào để biết bản tính con người” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Một khi con người đã trở nên kiêu ngạo trong bản tính và bản chất, thì họ có thể thường xuyên bất tuân và chống đối Đức Chúa Trời, không chú ý đến lời Ngài, tạo ra quan niệm về Ngài, làm những việc phản bội Ngài, và những việc tôn họ lên và làm chứng cho chính họ. Ngươi nói ngươi không kiêu ngạo, nhưng giả sử ngươi được ban cho một hội thánh và được phép lãnh đạo nó; giả sử rằng Ta đã không xử lý ngươi, và không ai trong nhà Đức Chúa Trời tỉa sửa ngươi: Sau khi lãnh đạo nó một thời gian, ngươi sẽ đưa mọi người đến chân ngươi và bắt họ đầu phục trước ngươi. Và tại sao ngươi lại làm điều đó? Điều này sẽ được quyết định bởi bản tính của ngươi; điều này không gì khác chính là sự bộc lộ tự nhiên. Ngươi không cần phải học điều này từ những người khác, họ cũng không cần phải chỉ dạy cho ngươi. Ngươi không cần những người khác hướng dẫn ngươi hay ép buộc người làm điều này; loại tình huống này xảy ra một cách tự nhiên. Mọi điều ngươi làm đều liên quan đến việc làm cho mọi người đầu phục trước ngươi, thờ phụng ngươi, tôn sùng ngươi, làm chứng về ngươi, và lắng nghe ngươi trong mọi sự. Việc cho phép ngươi làm lãnh đạo ắt sẽ mang đến tình cảnh này, và không thể thay đổi. Và tình cảnh này xảy đến như thế nào? Nó được quyết định bởi bản tính kiêu ngạo của con người. Biểu hiện của sự kiêu ngạo là phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời. Khi con người kiêu ngạo, tự tôn, và tự nên công chính, họ có xu hướng thiết lập những vương quốc độc lập của riêng mình và làm việc tùy ý họ muốn. Họ cũng đưa những người khác vào tay mình và lôi kéo họ vào vòng vây của mình. Để con người có khả năng làm những điều như thế thì có nghĩa là bản chất bản tính kiêu ngạo của họ là bản chất bản tính kiêu ngạo của Sa-tan; là của thiên sứ trưởng. Khi sự kiêu ngạo và tự tôn của họ đạt đến một mức độ nhất định thì họ trở thành thiên sứ trưởng, và Đức Chúa Trời phải bị gạt sang một bên. Nếu ngươi sở hữu bản tính kiêu ngạo như thế, Đức Chúa Trời sẽ không có chỗ trong lòng ngươi” (“Bản tính kiêu ngạo là nguồn gốc sự chống đối Đức Chúa Trời của con người” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra bản tính của mình rất kiêu ngạo và tự nên công chính. Tôi cũng giống như Phao-lô, muốn được tôn sùng và ngưỡng mộ. Lúc đầu, tôi chỉ muốn thực hiện tốt bổn phận, nhưng tôi đã bị bản tính tự nên công chính và kiêu ngạo của mình kiểm soát, vì vậy, khi ở trong các nhóm, tôi vô tình phô trương và thể hiện mình. Mặc dù tôi biết lời nói của mình chứa mục đích và ý định cá nhân, nhưng tôi chưa từng kiểm soát được ham muốn và tham vọng của bản thân, Tôi luôn muốn được ngưỡng mộ và tán dương. Khi còn nhỏ, tôi được gia đình quan tâm nuông chiều, lớn lên, tôi kinh doanh và trở thành một nữ doanh nhân nổi tiếng. Ở nhà hay ở công sở, tôi luôn là người ra quyết định cuối cùng. Hễ đi đâu, tôi cũng nghe được lời tán dương và ngưỡng mộ của người khác, và tôi thích cảm giác là ngôi sao sáng nhất trên bầu trời, được mọi người ủng hộ. Sau khi tin vào Đức Chúa Trời, tôi chưa từng hài lòng với việc trở nên bình thường và vô danh trong hội thánh. Tôi luôn tìm cơ hội để khiến người khác ngưỡng mộ và nể trọng mình. Bản tính của Phao-lô là cực kỳ ngạo mạn, và ông luôn muốn người khác tôn sùng, nể trọng mình, vì vậy ông khoe khoang mình đã làm nhiều việc như thế nào, đi đâu cũng phải chịu khổ đau ra sao. Ông chưa từng làm chứng về Đấng Christ trong những lá thư của mình. Thay vào đó, ông đã tự để cao mình dưới danh nghĩa ủng hộ hội thánh, và sau đó, ông đã trơ trẽn làm chứng rằng mình đã sống như Đấng Christ. Các tín hữu đã tôn sùng ông, tôn cao ông, xem ông là tiêu chuẩn, và thậm chí còn coi lời ông là lời Đức Chúa Trời. Cho đến tận ngày nay, 2.000 năm sau, nhiều tín hữu trong tôn giáo vẫn bám vào lời của Phao-lô và không chấp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt. Phao-lô đã đưa mọi người đến trước ông. Việc này đã xúc phạm tâm tính Đức Chúa Trời, và ông đã bị Ngài trừng phạt. Giờ đây, tôi cũng đã kiêu ngạo và tự nên công chính, sống theo những điều như: “Người vươn đến tầm cao, nước chảy về chốn thấp”, “Nên người xuất chúng”, và sống theo những tư tưởng, quan điểm tương tự. Tôi luôn muốn ở trên người khác, phô trương và thể hiện tài năng của mình. Điều này khiến các anh chị em hễ cứ có chuyện là nghe lời tôi, chấp nhận bất kỳ điều gì tôi nói, nghĩ cách bù đắp phần còn thiếu khi không ghi chú đầy đủ mối thông công của tôi, thậm chí còn ghi âm lời tôi nói vì họ xem lời tôi còn quan trọng hơn lời Đức Chúa Trời. Ngay cả khi đó, tôi cũng không biết tự kiểm điểm, thay vào đó còn đắm chìm trong niềm vui được ngưỡng mộ. Tôi đã quá kiêu ngạo và vô liêm sỉ! Tôi đã không biết gì về thân phận của mình. Tôi không hiểu rằng mình là một loài thọ tạo, một con người bị Sa-tan làm cho bại hoại, Tôi tự đặt mình lên đài cao một cách vô liêm sỉ. Tôi muốn trong lòng người khác có chỗ cho tôi, lắng nghe và ủng hộ tôi. Và vì tôi cứ phô trương như thế, nên trong lòng các anh chị em đã có chỗ cho tôi. Càng ngưỡng mộ tôi, họ càng xa rời Đức Chúa Trời. Chẳng phải tôi đang tranh giành mọi người với Đức Chúa Trời sao? Tôi nhớ đến sắc lệnh quản trị đầu tiên của Thời đại Vương quốc: “Con người không nên phóng đại, hay đề cao chính mình. Họ nên thờ phượng và tôn vinh Đức Chúa Trời” (Mười sắc lệnh quản trị phải được vâng phục bởi dân sự được Đức Chúa Trời chọn trong Thời đại Vương quốc, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Con người được Đức Chúa Trời tạo dựng, nên chúng ta phải thờ phượng Ngài và xem Ngài là trên hết, nhưng tôi đã làm cho mọi người ngưỡng mộ tôi, nể trọng tôi và xem tôi là trên hết. Chẳng phải tôi đã vi phạm sắc lệnh quản trị này sao? Lúc đó, tôi cảm thấy rất sợ. Tôi nhận ra bản chất nghiêm trọng của việc phô trương để khiến người khác tôn thờ và nghĩ tốt về mình. Nếu cứ tiếp tục như thế, chắc chắn tôi sẽ xuống địa ngục và bị trừng phạt như Phao-lô! Bệnh tình của tôi là do Đức Chúa Trời đang sửa dạy tôi. Thông qua bệnh tật, Ngài cảnh báo rằng tôi đã đi lạc đường. Đây là sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho tôi!
Sau đó, tôi đã nhớ đến đoạn lời này của Đức Chúa Trời: “Mặc dù Đức Chúa Trời nói Ngài là Đấng Tạo Hóa và rằng con người là tạo vật của Ngài, điều nghe có vẻ hơi khác biệt về tầng lớp, nhưng hiện thực là mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho nhân loại đều vượt xa bản chất của mối quan hệ này. Đức Chúa Trời yêu nhân loại, chăm sóc cho nhân loại, và thể hiện sự quan tâm đối với nhân loại, cũng như liên tục và không ngừng chu cấp cho nhân loại. Ngài không bao giờ cảm thấy trong lòng rằng đây là một công việc phụ hay điều gì đó đáng được thật nhiều công trạng. Ngài cũng không cảm thấy rằng cứu rỗi nhân loại, chu cấp cho họ, và ban cho họ mọi thứ, là làm nên sự đóng góp khổng lồ cho nhân loại. Ngài đơn thuần chu cấp cho nhân loại một cách âm thầm và lặng lẽ, theo cách của riêng Ngài và thông qua thực chất của riêng Ngài, thông qua việc Ngài có gì và là gì. Cho dù nhân loại nhận được bao nhiêu sự chu cấp và giúp đỡ từ Ngài, Đức Chúa Trời cũng không bao giờ nghĩ đến hay cố gắng ghi vào công trạng. Điều này được quyết định bởi thực chất của Đức Chúa Trời, và cũng chính là sự bày tỏ thật về tâm tính Đức Chúa Trời” (Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời I, Lời, Quyển 3 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, và để cứu rỗi con người khỏi xiềng xích của Sa-tan, Ngài đã đích thân nhập thể để công tác giữa con người, chịu đựng sự vu khống và lên án của con người. Ngài đã hy sinh mọi thứ vì nhân loại, nhưng chưa từng phô trương. Kể cả khi tương tác với con người, Ngài cũng chưa từng tự nhận mình là Đức Chúa Trời. Ngài chỉ lặng lẽ cung cấp cho chúng ta lẽ thật và sự sống. Tôi nhận ra thực chất của Đức Chúa Trời là đẹp đẽ và tốt lành, rằng Ngài khiêm nhường và ẩn mình, không hề kiêu ngạo hay tự phụ. Trong khi đó, tôi là một con người bị Sa-tan làm cho bại hoại, kẻ ban đầu chẳng có gì cả, nhưng Đức Chúa Trời đã nâng đỡ tôi bằng bổn phận của tôi, dẫn dắt và soi sáng tôi trong quá trình thực hiện bổn phận của mình, thế mà tôi lại dùng nó làm vốn để đi đâu cũng phố trương để có thể thiết lập hình ảnh cao quý trong lòng mọi người, có được sự ngưỡng mộ và đánh giá cao của họ. Trong mắt Đức Chúa Trời, tôi quá vô liêm sỉ, quá kinh tởm và đê hèn. Tôi đã đến trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện: “Đức Chúa Trời ơi, con sai rồi. Con muốn thú tội với Ngài và ăn năn. Con không muốn phô trương nữa. Xin Ngài hãy dẫn dắt con và chỉ cho con một con đường để giải quyết tâm tính bại hoại của mình”.
Tôi đã đọc được hai đoạn lời này của Ngài: “Một người nên làm gì để không đề cao và chứng thực cho chính mình? Tương tự, nếu ngươi phô trương bản thân, ngươi sẽ đạt được mục đích là đề cao, chứng thực cho bản thân và tạo được sự kính trọng nơi người khác – nhưng nếu ngươi cởi mở và bộc lộ con người thật của mình thì thực chất sẽ khác. Điều này chung quy lại là về chi tiết, phải không? Ví dụ, khi bộc lộ những động cơ và sự suy xét của mình, ngươi phải có thể phân biệt giữa việc diễn đạt và những cách bày tỏ bản thân theo cách tự biết mình, và những cách phô trương bản thân để người khác tôn kính ngươi, là điều cấu thành việc đề cao và làm chứng cho chính mình. Nếu ngươi thuật lại việc mình đã cầu nguyện và tìm kiếm lẽ thật như thế nào, đứng ra làm chứng qua những sự thử luyện ra sao, thì đây là tôn cao và làm chứng cho Đức Chúa Trời. Sự thực hành như vậy hoàn toàn không phải là khoe khoang bản thân và làm chứng cho chính mình. Việc ngươi có đang phô trương bản thân và làm chứng cho chính mình hay không chủ yếu phụ thuộc vào việc ngươi đã thực sự trải nghiệm những gì mình nói chưa, và liệu hiệu quả của chứng ngôn cho Đức Chúa Trời đã đạt được chưa; vì vậy, cũng cần phải xem những ý định và mục tiêu của ngươi là gì khi ngươi nói về những trải nghiệm và chứng ngôn của mình. Tất cả những điều này giúp ngươi dễ dàng nhận ra sự khác biệt. Ý định của ngươi cũng có liên quan khi ngươi vạch trần và mổ xẻ bản thân mình. Nếu ý định của ngươi là cho mọi người thấy sự bại hoại của mình rõ rệt như thế nào, ngươi đã thay đổi ra sao, và cho phép những người khác hưởng lợi từ việc này, thì lời nói của ngươi là nghiêm túc và chân thật, phù hợp với sự thật. Những ý định như vậy là đúng, và ngươi không đang phô trương bản thân hay chứng thực cho bản thân mình. Nếu ý định của ngươi là cho mọi người thấy những gì ngươi đã thực sự trải qua, và rằng ngươi đã thay đổi và sở hữu thực tế của lẽ thật, và do đó khiến họ ngưỡng mộ và kính trọng, thì những ý định này là sai trái – và cũng nên được đưa ra ánh sáng. Nếu những trải nghiệm và chứng ngôn mà ngươi nói là sai trái, nếu chúng được ngụy tạo, và được trù tính để đánh lừa mọi người, để ngăn họ nhìn thấy bộ mặt thật của ngươi, để ngăn những ý định, sự bại hoại, yếu đuối hoặc tiêu cực của ngươi bị phơi bày với người khác, thì những lời như vậy là giả dối và dối trá; đây là chứng ngôn gian dối, đây là lừa dối Đức Chúa Trời, điều này làm nhục Đức Chúa Trời, và là điều mà Đức Chúa Trời khinh miệt hơn hết. Có những sự khác biệt rõ ràng giữa các trạng thái này, chúng được phân biệt dựa trên động cơ” (“Họ tán dương và chứng thực về chính mình” trong Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). “Khi làm chứng cho Đức Chúa Trời, các ngươi nên chủ yếu nói nhiều hơn về cách Đức Chúa Trời phán xét và hành phạt mọi người, những thử luyện nào Ngài sử dụng để tinh luyện mọi người và thay đổi tâm tính của họ. Các ngươi cũng nên nói về việc sự hư hoại đã được bộc lộ bao nhiêu trong trải nghiệm của các ngươi, các ngươi đã chịu đựng bao nhiêu và các ngươi cuối cùng đã được Đức Chúa Trời chinh phục như thế nào; nói về kiến thức thực sự về công việc của Đức Chúa Trời mà các ngươi có được là bao nhiêu, và các ngươi nên làm chứng cho Đức Chúa Trời và đền đáp tình yêu của Ngài như thế nào. Các ngươi nên đưa thực chất vào loại ngôn ngữ này, trong khi diễn đạt nó một cách đơn giản. Đừng nói về những lý thuyết trống rỗng. Hãy nói thực tế hơn; nói từ tấm lòng. Đây là cách ngươi nên trải nghiệm. Đừng trang bị cho mình những lý thuyết trống rỗng có vẻ sâu sắc cố để phô trương; làm như vậy khiến ngươi trông khá kiêu ngạo và phi lý. Ngươi nên nói nhiều hơn về những điều có thật từ trải nghiệm thực tế của ngươi mà chân thật và từ tấm lòng; điều này có lợi nhất cho người khác, và phù hợp nhất để họ thấy” (“Chỉ có theo đuổi lẽ thật mới đạt được sự thay đổi trong tâm tính” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu rằng nếu muốn thôi đề cao và làm chứng cho bản thân, tôi cần thường xuyên sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, có một tấm lòng ngoan đạo kính sợ Đức Chúa Trời, mở lòng trước mặt các anh chị em, có ý thức tiết lộ và phân tích sự bại hoại của bản thân tôi, nói về những trải nghiệm thực tế của mình. Khi muốn đề cao và làm chứng cho mình, tôi sẽ phải từ bỏ bản thân và sửa lại ý định cho đúng. Tôi sẽ phải vạch trần, phân tích sự bại hoại và dấy loạn trong con người mình thường xuyên hơn, thông công hiểu biết của mình về công tác của Đức Chúa Trời sau khi trải nghiệm sự phán xét, hình phạt, thử luyện và tinh luyện của Ngài. Tôi nên nói chân thành hơn để các anh chị em có thể được lợi từ đó và thấy được mặt thật của tôi. Khi đã có con đường thực hành, tôi nói hết ra trải nghiệm và hiểu biết của mình trong khoảng thời gian này tại các cuộc họp với các anh chị em, và bảo với họ rằng chút sự sáng trong mối thông công của tôi hoàn toàn là nhờ sự soi sáng của Đức Thánh Linh, chứ không phải vóc giạc thật của tôi. Không có sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, tôi chẳng làm được gì cả. Họ cũng nhận ra rằng mình đã sai khi tôn sùng và ngưỡng vọng tôi, và nói sau này họ sẽ không nể trọng ai nữa. Họ nói sẽ cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm sự dẫn dắt của Ngài khi gặp rắc rối để có được sự soi sáng của Đức Thánh Linh. Sau đó, tại các cuộc họp, đôi lúc gặp phải những vấn đề mà mình không hiểu rõ lắm, nhưng tôi có thể gạt đi cái tôi và cởi mở tìm kiếm với các anh chị em. Sau khi nghe tôi nói ra, họ có thể thông công về hiểu biết và kiến thức của họ, đôi khi là về những điều tôi không hiểu. Việc này rất hữu ích cho tôi. Họ không còn tôn sùng tôi như trước nữa, và khi phát hiện tôi có vấn đề, họ có thể trực tiếp chỉ ra cho tôi. Khi lại có khao khát đề cao bản thân và phô trương, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, chấp nhận sự giám sát của Ngài, đồng thời mở lòng với các anh chị em, để họ biết những thiếu sót và khuyết điểm của tôi, và chấp nhận sự giám sát của họ. Tôi cảm thấy an tâm và thoải mái khi thực hành theo cách này, và tôi cũng đã nếm được vị ngọt của việc thực hành lẽ thật. Khi nhận ra bản tính kiêu ngạo của mình và con đường sai lầm mình đã đi, tôi đã ăn năn với Đức Chúa Trời. Bệnh vảy nến của tôi dần biến mất, và tôi cũng dần khỏi bệnh.
Sau khi trải nghiệm sự sửa dạy và sửa phạt của Đức Chúa Trời, tôi thực sự cảm thấy tâm tính công chính của Đức Chúa Trời quá sống động và rất thật, và dù phải chịu chút khổ đau, nhưng ý định của Đức Chúa Trời là để cứu rỗi tôi khỏi các tâm tính bại hoại Sa-tan, điều đó cho tôi thấy được tình yêu rất thật của Đức Chúa Trời. Chính là sự phán xét, hình phạt, sửa dạy và sửa phạt của Đức Chúa Trời đã ngăn tôi làm ác và kéo tôi lại từ bờ vực nguy hiểm. Tạ ơn Đức Chúa Trời!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?