Hiểu lẽ thật đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện bổn phận của một người cho đúng
Để thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn, điều quan trọng nhất là phải dốc hết công sức vào lẽ thật. Chỉ khi nắm được các nguyên tắc lẽ thật, con người mới có thể dựa theo các nguyên tắc này mà làm việc. Ngoài ra, con người cần phải học tập về nhiều nghiệp vụ và sở trường khác nhau liên quan đến bổn phận của mình, việc học một số kỹ thuật đơn giản và thực dụng là điều thiết yếu. Một số người hiểu một chút kỹ thuật nghiệp vụ, nhưng lại không biết làm sao để vận dụng vào bổn phận của mình, khi làm việc thì trong lòng cứ mơ mơ hồ hồ. Họ không biết cách làm nào là đúng, phù hợp nguyên tắc lẽ thật và có thể đem lại ích lợi cho người khác, cũng không biết cách làm nào là sai và vi phạm nguyên tắc. Trong lòng họ là trạng thái hỗn độn, có vẻ làm cách này ổn, mà làm cách kia cũng ổn. Họ không bao giờ chắc chắn làm thế nào cho thích hợp và không biết thực hành thế nào là đi theo con đường đúng đắn. Nó chứng tỏ điều gì? (Thưa, họ không hiểu lẽ thật.) Những người này không hiểu lẽ thật. Họ ở trong tình trạng mơ hồ về trạng thái bên trong của mình, về nhận thức và tiêu chuẩn đánh giá sự việc. Khi không làm gì thì họ cảm thấy cái gì họ cũng hiểu, cái gì cũng dễ. Nhưng khi thực sự gặp phải tình huống đời thực, họ lại không biết nên xử lý thế nào, đối đãi ra sao hay làm như thế nào mới tốt. Chỉ khi đó, họ mới cảm thấy bản thân họ chẳng có gì cả và không hiểu được một chút lẽ thật nào. Những đạo lý họ nói trước kia đều vô dụng. Họ chỉ có thể tìm kiếm từ người khác và thảo luận về tình hình với người khác. Đây là tình trạng khi người không hiểu lẽ thật gặp chuyện – họ bước chân lạc lõng, âu lo trùng trùng, cảm thấy làm thế này không đúng, làm thế kia cũng không đúng và không có con đường chính xác. Lúc này, họ mới biết rằng không có lẽ thật thì thật sự là nửa bước cũng khó đi! Những người như thế cần nhất điều gì lúc này? Triết lý và tri thức của Sa-tan, hay là hiểu lẽ thật? Điều cốt yếu nhất là phải hiểu lẽ thật. Nếu ngươi không hiểu lẽ thật, thì dù có hoàn thành một công việc, ngươi cũng sẽ cảm thấy không chắc chắn. Ngươi sẽ không biết liệu mình làm như thế có làm đúng hay không, hoặc về sau sẽ có hiệu quả thế nào. Ngươi không thể đánh giá được những điều này. Tại sao ngươi không thể đánh giá được? Tại sao lòng ngươi lại luôn cảm thấy không chắc chắn? Đó là bởi vì khi làm, ngươi không chắc chắn liệu cách làm của mình có thực sự dựa theo nguyên tắc hay không, liệu những điều mình đang thực hành có phải là nguyên tắc hay không, có hợp lẽ thật hay không. Ngươi không thể kiểm chứng được những điều này. Nếu thực hiện bổn phận mà đạt chút hiệu quả, ngươi sẽ cảm thấy mình thật tài giỏi và đã có được chút vốn liếng, vì thế liền trở nên tự mãn. Nhưng nếu nó không có hiệu quả rõ ràng hoặc không đáp ứng được các tiêu chuẩn của nguyên tắc, ngươi liền trở nên tiêu cực và nghĩ ngợi: “Khi nào Đức Chúa Trời mới khai sáng cho mình đây? Tại sao Đức Chúa Trời luôn khai sáng cho người khác, trong khi mình không nhận được sự cảm thúc, khai sáng hay soi sáng nào nhỉ?”. Đôi khi, ngươi có thể cảm thấy mình đã làm với ý định đúng đắn và đã bỏ nhiều công sức, vì thế ngươi hy vọng Đức Chúa Trời sẽ vui vẻ chấp thuận, công nhận và ghi nhận nỗ lực của ngươi. Nhưng đồng thời, ngươi cũng sợ Đức Chúa Trời sẽ phán ngươi làm không đúng và không khen ngợi. Chẳng phải điều này cho thấy ngươi lo chuyện được mất sao? Khi ngươi thấy rằng mình nhỏ bé về vóc giạc, quá phản nghịch và kiêu ngạo, rằng hễ đạt được chút gì đó thì liền trở nên tự mãn, cảm thấy mình quá bại hoại, mình là ma quỷ và Sa-tan, không xứng đáng được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Rồi sau khi có thêm chút thành tích nho nhỏ, ngươi lại cho rằng mình cũng không quá tệ, mình cũng có chút khả năng và có thể đạt được chút thành quả, vậy thì cũng nên được thưởng. Đó có phải là lo chuyện được mất không? Do đâu mà nảy sinh trạng thái lo chuyện được mất này? Nó liên quan trực tiếp đến việc không hiểu lẽ thật. Khi con người không hiểu lẽ thật, thì sẽ nảy sinh nhiều tình trạng và nhiều biểu hiện. Chủ yếu nhất là con người thường sống trong tình trạng lo chuyện được mất. Đây là tình trạng thông thường của họ. Bởi vì không hiểu lẽ thật, nên ngươi không biết sức mình đến đâu, có thể và không thể làm được gì. Bởi vì không hiểu lẽ thật, nên ngươi không biết khi thực hiện bổn phận thì phải tuân theo những nguyên tắc và tiêu chuẩn nào, phải đạt đến hiệu quả nào. Ngươi cũng không biết mục tiêu và phương hướng cuộc đời là gì. Ngươi không biết tại sao Đức Chúa Trời lại nổi giận với mình, tại sao Đức Chúa Trời khen ngợi mình, hay tại sao Đức Chúa Trời lại khoan dung với mình – những chuyện này ngươi đều không biết. Ngươi không biết mình nên đứng ở vị trí nào, ngươi không thể đánh giá được liệu những việc mình hoàn thành là đã làm tròn bổn phận loài thọ tạo hay chưa, và liệu mình đã thực hiện đạt tiêu chuẩn hay chưa. Lúc thì ngươi làm việc rụt rè, lúc thì ngươi cả gan, tùy tiện. Tình trạng ngươi luôn không ổn định. Điều gì khiến tình trạng của con người không ổn định? Suy cho cùng thì nó liên quan đến việc con người không hiểu lẽ thật. Khi không hiểu lẽ thật, con người làm việc vô nguyên tắc. Khi làm, họ rất thất thường, và luôn đi chệch hướng theo cách này hay cách khác. Khi không làm gì, thì có vẻ như cái gì họ cũng hiểu, nói đạo lý rất hay – nhưng khi có chuyện xảy đến và họ được yêu cầu xử lý, vận dụng tất cả những lẽ thật họ hiểu vào đời sống thực tế, thì họ lại không có con đường, không biết nên dùng nguyên tắc nào, và họ tự nhủ: “Mình hiểu là mình phải trung thành thực hiện bổn phận, phải làm người trung thực, không được có quan niệm hay hiểu lầm về Đức Chúa Trời và phải thuận phục Đức Chúa Trời – nhưng những chuyện này, nên làm thế nào đây?”. Họ ngẫm nghĩ mãi và cố áp dụng quy định, cuối cùng chẳng biết áp dụng quy định nào. Các ngươi nói xem, người mà khi có chuyện xảy đến phải tìm kiếm trong sách lời Đức Chúa Trời thì có phải là người thực sự hiểu lẽ thật không? Đây không phải là thực sự hiểu lẽ thật. Những người như thế chỉ hiểu được chút đạo lý, nhưng chưa nắm được thực tế của những lẽ thật này. Điều này cho thấy những lời họ thường nói và những điều họ tin rằng mình đã hiểu được, hết thảy chỉ là đạo lý. Nếu cái ngươi hiểu được đích thị là lẽ thật, nếu ngươi có thực tế lẽ thật, thì khi có chuyện xảy đến, ngươi sẽ biết làm thế nào là hợp tâm ý Đức Chúa Trời và làm thế nào là trong phạm vi nguyên tắc. Nếu những gì ngươi hiểu được chỉ là đạo lý, chứ không phải là lẽ thật, thì khi thực sự gặp chuyện, mà ngươi dựa vào đạo lý và làm theo quy định thì sẽ không có cách nào vượt qua được. Ngươi sẽ không thể tìm được nguyên tắc và con đường thực hành. Nghĩa là có thể dường như ngươi đã hiểu được một khía cạnh lẽ thật, biết được những lời này có ý gì, dường như cũng hiểu được một chút tâm ý Đức Chúa Trời và những điều Đức Chúa Trời yêu cầu – những điều này ngươi đều biết – nhưng khi gặp chuyện, ngươi lại không thể đưa lẽ thật vào thực hành, mù quáng áp dụng quy định và làm rối tung mọi chuyện. Đây chẳng phải là làm xấu mặt mình sao? Người thực sự hiểu lẽ thật mà gặp chuyện thì có thể tìm được nguyên tắc để thực hành, có con đường thực hành và có thể đưa lẽ thật vào thực hành. Còn những người chỉ biết nói câu chữ và đạo lý, thì có vẻ như họ hiểu lẽ thật, nhưng đến lúc làm lại rối tung cả lên. Điều này đủ chứng tỏ rằng những người biết nói câu chữ và đạo lý hoàn toàn không hiểu lẽ thật. Người biết nói câu chữ và đạo lý chỉ đang cố mê hoặc người khác, họ là kẻ lừa gạt. Họ đang lừa gạt chính mình lẫn người khác – nghĩa là họ đang hại người và hại cả mình!
Những điều các ngươi hiểu hiện giờ, phần nhiều là lẽ thật hay đạo lý? (Thưa, phần nhiều là đạo lý.) Do đâu mà thành ra như vậy? (Thưa, do không mưu cầu lẽ thật mà ra.) (Thưa, do không để tâm mà suy ngẫm về lẽ thật.) Những cái này đều có chút liên quan, nhưng những gì các ngươi đưa ra đều là nguyên nhân chủ quan. Còn có một nguyên nhân khách quan liên quan đến tố chất của con người. Có những người đã nghe giảng đạo hơn mười năm, nhưng lại không biết phân biệt lẽ thật và đạo lý, cũng chẳng biết phân định sự khác biệt giữa việc làm theo quy định và thực hành lẽ thật. Họ nghiêm túc nghe giảng đạo và cẩn thận phân định, nhưng lại không thể nhận ra sự khác biệt. Họ luôn cảm thấy những mối thông công của mọi người đều không khác gì nhau, nghĩa là đều khá hay và khá thực tế. Sau khi nghe xong, họ không thể phân biệt được đâu là đạo lý, đâu là lẽ thật. Đây có phải là vấn đề tố chất không? (Thưa, phải.) Tố chất của các ngươi có thể đạt đến tầm thực tế lẽ thật không? Mỗi khi các lãnh đạo và người làm công thông công trong những buổi nhóm họp hoặc giao thiệp và tiếp xúc bình thường với các ngươi, các ngươi có thể nghe ra trong những điều họ nói, bao nhiêu là thực tế lẽ thật, bao nhiêu là đạo lý không? (Thưa, có thể nghe ra.) Nếu có thể nghe ra thì chứng tỏ các ngươi có chút phân định và không phải là không hề biết phân định. Nếu các ngươi có thể nghe ra, thì chứng tỏ tố chất của các ngươi không tệ. Tố chất của con người được chia thành một số bậc: kém, trung bình, tốt và đặc biệt tốt. Về cơ bản, có bốn bậc này. Những người có tố chất còn dưới cả mức kém thì không thể hiểu được lẽ thật; họ hoàn toàn không có tố chất. Nghe gì họ cũng không hiểu và làm gì cũng không có tư duy, lô-gic hay nguyên tắc. Trong đầu họ chỉ toàn một mớ hỗn độn rối rắm. Họ là những người hồ đồ mà thông tục có thể gọi là súc sinh. Nếu tố chất của họ cực kém, thì họ bị thiểu năng trí tuệ. Họ không có lý trí của con người bình thường. Đó là những người mà chúng ta có thể gọi là đần độn, hâm hâm hoặc dở dở ương ương.
Người có tố chất cực kém là loại người bị thiểu năng trí tuệ – chúng ta không cần nói thêm về họ nữa. Hãy cùng nói về những biểu hiện của tố chất kém. Có những người đã tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm mà vẫn không hiểu lẽ thật. Thậm chí họ còn không thể thực hiện được bổn phận cơ bản là rao truyền phúc âm, họ không thể thông công về lẽ thật và không thể đưa ra chứng ngôn. Đây là những biểu hiện của tố chất kém. Tố chất kém còn có những biểu hiện nào khác? Đó là, sau nhiều năm nghe giảng đạo, những người có tố chất kém cảm thấy rằng tất cả đều như nhau – tất cả đều nói về những điều giống nhau. Họ không thể phân biệt rõ ràng giữa các chi tiết của các lẽ thật khác nhau, càng không phân biệt được lẽ thật và đạo lý. Thậm chí họ còn không thể nói được những câu chữ và đạo lý đơn giản nhất, chưa nói đến hiểu lẽ thật. Những người như thế có phải là có tố chất kém nhất không? Đối với những người như thế, dù có nghe giảng đạo thế nào hay nghe giảng đạo trong bao nhiêu năm, thì cũng không thể hiểu được, và họ không hiểu lẽ thật là gì hay biết mình là gì. Dù có tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm hay nghe bao nhiêu bài giảng, thì cuối cùng, họ vẫn không biết thực hành lẽ thật. Họ chỉ biết làm theo một vài quy định và ghi nhớ một vài điều mà họ xem là quan trọng – còn những điều cao hơn thế thì họ không ghi nhớ nổi. Tại sao lại như vậy? Bởi vì tố chất của họ kém, họ không thể với tới lẽ thật và không thể hiểu được quá nhiều điều. Cùng lắm họ chỉ có thể hiểu được một số đạo lý nông cạn. Đó là hết cỡ rồi. Những người như thế thường rất kiêu ngạo và nói những lời khoác lác. Có những người nói: “Tôi tin Chúa từ trong bụng mẹ. Tôi nên thánh khiết từ lâu rồi, được làm phép báp-tem và làm tinh sạch từ lâu rồi”. Trong số họ, có những người tiếp nhận công tác mới của Đức Chúa Trời được ba, năm, hoặc thậm chí mười năm, nhưng họ vẫn nói lui nói tới những câu như nhau. Chẳng phải đây là tố chất kém sao? Lại có những người nói: “Anh nói tôi không biết mình – các anh chị mới không biết mình thì có. Tôi nên thánh khiết từ lâu rồi”. Những người nói vậy là những người thiếu hiểu biết thuộc linh nhất, những người có tố chất kém nhất. Ngươi còn có thể thông công về lẽ thật với những người như thế được không? Không thể. Cho dù ngươi có nói bao nhiêu đi nữa, họ cũng sẽ không hiểu được lẽ thật là gì, thực hành lẽ thật là gì, thuận phục Đức Chúa Trời là gì, lối vào sự sống là gì và sự biến đổi tâm tính là gì. Những điều này, họ nghe mà không hiểu, cũng không với tới được. Khi tin Đức Chúa Trời, họ chỉ chăm chăm làm theo một số quy định, chẳng hạn như thoát ly thế tục, từ bỏ thế gian, không giao du với ma quỷ, không hành ác, ít phạm tội, giữ vững danh Đức Chúa Trời, không phản bội Đức Chúa Trời, và cầu nguyện, nương cậy Đức Chúa Trời trong mọi sự – chỉ những việc này. Về cơ bản, họ cứ ở mãi trong các hình thức tín ngưỡng tôn giáo. Sau khi nghe bao nhiêu lời Đức Chúa Trời và bài giảng về lẽ thật, họ vẫn nghe không hiểu. Càng nghe, họ càng cảm thấy rối, nên họ không tiếp thu được gì cả. Nếu ngươi hỏi họ Đức Chúa Trời yêu cầu con người những điều gì trong giai đoạn công tác này, họ không thể nói được. Họ chỉ có thể nói được chút đạo lý đơn giản. Điều đó có nghĩa là tố chất họ quá kém và họ nghe mà không hiểu được lời Đức Chúa Trời.
Biểu hiện của những người có tố chất trung bình là gì? Biểu hiện chủ yếu là họ không có năng lực lĩnh hội lời Đức Chúa Trời. Sau khi nghe giảng đạo, họ chỉ hiểu được chút câu chữ và đạo lý, nhưng không thể phát hiện được bất kỳ sự sáng mới nào. Khi có chuyện xảy đến, họ vẫn không biết xử lý, cũng không biết thực hành lẽ thật. Họ chỉ có thể nói được chút đạo lý suông và làm theo quy định. Khi nghe giảng đạo, trông như họ hiểu được, nhưng khi có chuyện xảy đến, họ vẫn tuân thủ quy định và làm theo ý mình. Họ luôn giảng câu chữ và đạo lý để lên lớp người khác. Sau nhiều năm tin Đức Chúa Trời, họ hiểu được nhiều đạo lý, và khi thông công với người khác thì có thể nói thêm một chút về nhận thức của mình. Họ có thể diễn đạt ý mình một cách hoàn chỉnh, cụ thể, và có thể nói chuyện bình thường với mọi người. Tuy nhiên, họ vẫn không hiểu lẽ thật là gì hay thực tế là gì. Họ cho rằng những đạo lý họ nói chính là thực tế lẽ thật, và khi người khác nói về trải nghiệm cá nhân liên quan đến thực tế lẽ thật, sự nhận thức hay con đường thực hành của bản thân người ta, thì họ không hiểu được. Những người có tố chất trung bình này cảm thấy lẽ thật và đạo lý không có gì khác biệt. Dù có nghe bao nhiêu bài giảng, họ cũng không thể từ những đạo lý đó mà ngộ ra được những lẽ thật mình nên thực hành và những lẽ thật mình phải có để được cứu rỗi. Họ cũng không biết nhận thức bản thân, và không biết nên thực hành những lẽ thật nào để thoát khỏi tâm tính bại hoại của mình. Trong đời sống thực tế, họ chỉ có thể làm theo quy định, làm theo nghi thức tôn giáo, kiên trì tham dự nhóm họp, kiên trì giảng đạo lý cho người khác và kiên trì ra sức một chút để thực hiện bổn phận. Còn đối với những lẽ thật liên quan đến sự biến đổi tâm tính, nhận thức về tâm tính bại hoại của chính mình hay lối vào sự sống, thì họ lại không bước vào hay đi sâu hơn. Đây chính là có tố chất trung bình. Người có tố chất trung bình chỉ có thể đạt đến mức này. Có những người đã tin Đức Chúa Trời được 20 hay 30 năm mà vẫn chỉ nói đạo lý. Các ngươi đã bao giờ tiếp xúc với những người đã tin Đức Chúa Trời hơn mười năm rồi mà vẫn chỉ có toàn là đạo lý chưa? (Thưa, rồi.) Những người kiểu này chính là có tố chất trung bình.
Biểu hiện của người có tố chất tốt là gì? Bất kể đã tin Đức Chúa Trời được bao lâu, thì sau khi nghe giảng đạo, họ đều có thể phân biệt được rằng nó khác với những điều Kinh Thánh nói và hoàn toàn khác với những điều người ta giảng trong tôn giáo. Họ có thể phân biệt được rằng nó đi sâu hơn, chi tiết hơn và quá đỗi thực tế. Vì thế, sau khi tiếp nhận công tác mới của Đức Chúa Trời, họ bắt đầu chú trọng thực hành lẽ thật và bước vào thực tế. Trong đời sống thực tế, họ tập luyện làm sao để thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời. Chẳng hạn như Đức Chúa Trời phán: “Các ngươi phải làm người trung thực”. Ban đầu, những người này chỉ tuân theo điều này như một quy định, và trong lòng nghĩ sao, nói nấy. Dần dần, trong quá trình nghe giảng đạo và trong trải nghiệm thực tế của mình, họ liên tục đúc rút những gì học được, và cuối cùng họ trải nghiệm và thể nghiệm được lẽ thật về việc làm người trung thực rốt cuộc là gì và sự sống rốt cuộc là gì. Họ có thể vận dụng những lời Đức Chúa Trời phán và những lẽ thật mà họ hiểu được khi nghe giảng đạo vào đời sống thực tế của mình và biến chúng thành thực tế của chính mình. Có thể nghiệm thực tế, thì trải nghiệm sự sống của họ dần sâu sắc hơn. Khi những người này nghe giảng đạo hoặc đọc lời Đức Chúa Trời, họ có thể ngộ ra được lẽ thật chứa đựng trong đó. Lẽ thật ở đây nghĩa là gì? Nó không phải là đạo lý suông, không phải là một loại thuyết pháp, cũng không phải là lý luận về một phương diện nào đó. Mà nó liên quan đến những khó khăn gặp phải trong đời sống thực tế và những tình trạng bại hoại khác nhau mà con người bộc lộ. Người có tố chất tốt thì có thể xác định được những tình trạng này và đối chiếu bản thân với những điều Đức Chúa Trời phán và vạch trần. Sau đó, họ sẽ biết cách thực hành theo lời Đức Chúa Trời. Đó chính là tố chất tốt. Tố chất tốt chủ yếu thể hiện ở đâu? Ở việc nghe giảng đạo thì hiểu những điều được nói đến trong đó, có thể ngộ ra được mối quan hệ giữa những lời này và tình trạng thực tế của mình, ngộ ra được tác dụng của những lời này đối với bản thân mình và đối chiếu những lời này với bản thân – đây là tố chất tốt. Ngoài việc có thể nghe hiểu được những lời này và có thể đối chiếu với bản thân, người có tố chất tốt còn có thể nắm được các nguyên tắc thực hành trong đời sống thực tế và vận dụng những nguyên tắc này vào mọi khó khăn hoặc tình huống mình gặp phải trong đời sống thực tế. Đó chính là có ngộ tính. Chỉ những người có ngộ tính như vậy mới thực sự có tố chất tốt.
Khi người có tố chất trung bình bộc lộ chút tâm tính bại hoại, thì họ không thể phân định rõ ràng tình trạng của chính mình hay thực chất của vấn đề. Họ chỉ dùng những đạo lý họ hiểu được để đối chiếu. Họ không thể nhìn thấu được thực chất của vấn đề hay nhận ra căn nguyên của thực chất này và khía cạnh liên quan đến lẽ thật. Khi gặp chuyện nào đó, sau khi bị tỉa sửa, sau khi mổ xẻ và phân tích nó, họ sẽ có ấn tượng sâu sắc và chút nhận thức về bản thân trong tình huống này. Nhưng khi gặp phải một tình trạng hoặc hoàn cảnh khác, họ lại không nhận thức được, không biết phải làm gì và không tìm được nguyên tắc để làm theo. Đó chính là có tố chất trung bình. Còn về những người có tố chất tốt, thì tại sao chúng ta lại nói họ có tố chất tốt? Khi gặp một chuyện, có lẽ người có tố chất tốt sẽ không có ngay con đường thực hành, nhưng họ có thể tìm thấy con đường bằng cách nghe giảng đạo hoặc tìm kiếm lời Đức Chúa Trời. Sau đó, họ sẽ biết nên làm gì với chuyện này. Lần sau gặp phải chuyện tương tự, họ có biết phải làm gì không? (Thưa, có.) Tại sao? (Thưa, bởi vì họ không chỉ làm theo quy định. Họ còn có thể suy ngẫm để tìm ra con đường, sau đó vận dụng những gì mình học được vào tình huống tương tự.) Đúng vậy, họ đã tìm thấy nguyên tắc và họ hiểu được khía cạnh lẽ thật này. Một khi hiểu được lẽ thật thì họ sẽ biết khía cạnh lẽ thật này nói đến những tình trạng, sự bộc lộ và tâm tính bại hoại của những người nào, cũng như những sự việc, sự vật, và hoàn cảnh liên quan nào mà họ gặp phải trong đời sống thực tế, v.v.. Họ sẽ rõ về nguyên tắc làm những việc như vậy, và sau này gặp những chuyện tương tự thì họ biết cách thực hành theo các nguyên tắc lẽ thật. Đây chính là thực sự hiểu được lẽ thật. Cho nên, bởi vì một số người có thể hiểu lẽ thật và có tố chất hiểu lẽ thật, nên họ có thể trở thành trưởng nhóm hoặc lãnh đạo hội thánh. Tuy nhiên, một số người chỉ có thể hiểu được ở tầng đạo lý, nên không thể làm trưởng nhóm, bởi vì họ không thể nắm được nguyên tắc hay phụ trách giám sát. Yêu cầu ngươi làm trưởng nhóm là yêu cầu ngươi đảm nhận vai trò đứng đầu và phụ trách giám sát. Để phụ trách giám sát, ngươi phải sử dụng điều gì? Không phải là đạo lý, khẩu hiệu, tri thức hay quan niệm, mà là yêu cầu ngươi phải sử dụng các nguyên tắc lẽ thật để phụ trách giám sát. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất và tối cao nhất để thực hiện bất kỳ việc gì trong nhà Đức Chúa Trời. Nếu tố chất của ngươi là trung bình hoặc kém và ngươi không đạt đến hiểu lẽ thật, thì làm sao ngươi có thể phụ trách giám sát được? Làm sao ngươi có thể gánh vác trách nhiệm này được? Ngươi không đảm đương được công việc này, bổn phận này. Một số người được chọn làm trưởng nhóm, nhưng lại không hiểu được lẽ thật, công tác gì cũng không làm được. Họ không xứng danh trưởng nhóm và nên được thay thế. Một số người được chọn làm trưởng nhóm, và bởi vì họ có thể hiểu được chút nguyên tắc lẽ thật, nên có thể gánh vác công tác và giải quyết một số vấn đề thực tế. Như thế mới là người đảm đương được công tác và thích hợp để làm trưởng nhóm. Một số người không đảm đương nổi công tác, không thực hiện tốt bổn phận của mình. Nguyên nhân chính là gì? Trong đó, số ít là do nhân tính kém, nhưng đa số là do tố chất kém. Đó là nguyên nhân khiến họ không đảm đương nổi công tác được giao, không thực hiện tốt bổn phận của mình. Dù là về việc lĩnh hội lẽ thật hay là học một phương diện nghiệp vụ hoặc kỹ năng chuyên ngành, thì người có tố chất tốt đều có thể nắm được các nguyên tắc trong đó, đi đến tận căn nguyên mọi việc, và xác định được thực tế cũng như thực chất của chúng. Như thế, họ làm việc gì hay tham gia vào công tác gì cũng đều có phán đoán chuẩn xác và xác định được các tiêu chuẩn và nguyên tắc một cách chuẩn xác. Đây chính là tố chất tốt. Người có tố chất tốt thì có thể phụ trách giám sát các công tác khác nhau của nhà Đức Chúa Trời. Người có tố chất trung bình hoặc kém thì đều không đảm đương nổi những công tác như vậy. Đây không hề là chuyện nhà Đức Chúa Trời ưu ái hay xem thường ai, hay đối xử phân biệt với mọi người – mà chỉ là nhiều người do tố chất của họ nên không thể phụ trách giám sát. Tại sao họ không thể phụ trách giám sát? Căn nguyên là gì? Chính là vì họ không hiểu được lẽ thật. Và tại sao họ không hiểu được lẽ thật? Chính là vì tố chất của họ trung bình hoặc thậm chí rất kém. Đây là lý do tại sao lẽ thật nằm ngoài tầm với của họ và khi nghe lẽ thật thì không hiểu được. Có thể một số người nghe mà không hiểu được lẽ thật bởi vì họ không nghiêm túc lắng nghe, hoặc có thể là do họ còn trẻ, chưa có khái niệm về chuyện tin Đức Chúa Trời, cũng không hứng thú lắm. Tuy nhiên, những điều đó không phải là nguyên nhân chính. Nguyên nhân chính là tố chất của họ không đủ. Đối với những người có tố chất không đủ, thì dù họ làm bổn phận gì, đã làm công tác được bao lâu, nghe bao nhiêu bài giảng, hay được thông công về lẽ thật thế nào đi nữa, đầu óc họ vẫn quay cuồng. Họ thực hiện bổn phận lề mà lề mề, làm rối tinh rối mù, và không có thành quả gì. Một số người làm trưởng nhóm hoặc phụ trách giám sát một vài công tác, khi mới phụ trách công tác, họ không nắm được nguyên tắc. Sau vài lần thất bại, họ bắt đầu hiểu được lẽ thật và nắm được nguyên tắc bằng cách tìm kiếm và đặt câu hỏi. Sau đó, dựa trên những nguyên tắc này, họ có thể phụ trách giám sát và một mình gánh vác công tác. Đây chính là có tố chất. Lại có những người, ngươi nói cho họ biết hết mọi nguyên tắc, thậm chí mô tả chi tiết cách thức thực hiện cho họ; nghe xong, họ có vẻ hiểu, nhưng đến khi làm vẫn không thể nắm được nguyên tắc. Thay vào đó, họ dựa vào ý riêng và tưởng tượng riêng mà làm việc, thậm chí còn tưởng đó là đúng. Nhưng họ không thể nói rõ và thực ra không biết liệu mình có làm những việc phù hợp với nguyên tắc hay không. Nếu Bề trên đặt câu hỏi, họ sẽ hoảng loạn, không biết nói sao cho thích hợp. Họ chỉ cảm thấy chắc chắn khi có sự giám sát hoặc chỉ đạo của Bề trên. Điều này cho thấy tố chất của họ rất kém. Với tố chất kém như thế, họ không thể đáp ứng được yêu cầu của Đức Chúa Trời, không đáp ứng được các nguyên tắc lẽ thật, chưa nói đến chuyện thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn.
Vừa nãy, Ta đề cập rằng có một cấp độ trên tố chất tốt, đó là tố chất rất tốt. Người có tố chất rất tốt, sau khi tin Đức Chúa Trời thì sẽ thông qua đọc lời Đức Chúa Trời và sự trải nghiệm dần dà mà có thể thể nghiệm, cảm nhận và nhận thức được những tình trạng khác nhau được nói đến trong lời Đức Chúa Trời là đề cập đến điều gì. Ngay cả khi nhận được rất ít sự chu cấp hoặc trợ giúp, họ vẫn có thể tìm được con đường thực hành trong lời Đức Chúa Trời, đặt ra yêu cầu cho chính mình theo các nguyên tắc, phương hướng và tiêu chuẩn được phán trong lời Đức Chúa Trời mà không có sai lầm, lệch lạc gì. Họ có thể ngộ ra lẽ thật, bắt đầu biết mình và biết Đức Chúa Trời bằng cách tự ăn uống lời Đức Chúa Trời. Đây chính là tố chất cao nhất, và những người như thế có ngộ tính tốt nhất. Nói Ta nghe, trong nhân loại có những người như thế không? Có lẽ các ngươi không thể tìm được những người như thế trong nhân loại ngày nay, nhưng các ngươi có thể liên tưởng đến bất kỳ ai như thế trong Kinh Thánh không? (Thưa, có, đó là Gióp và Phi-e-rơ.) Gióp và Phi-e-rơ là hai người dạng này. Họ là hai trong những con người có tố chất cao nhất. Chưa nói đến nhân tính, nhân phẩm và đức tin nơi Đức Chúa Trời của họ, về mặt tố chất, họ là hai người có tố chất cao nhất. Căn cứ vào đâu để nói vậy? (Thưa, Gióp chưa từng đọc lời Đức Chúa Trời, nhưng ông đã có thể nhận thức Đức Chúa Trời, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác.) Đức Chúa Trời chưa bao giờ phán với Gióp, vậy thì trải nghiệm, thể nghiệm và nhận thức của ông do đâu mà có? Trong cuộc sống, Gióp đã có những quan sát và phát hiện, sau đó cẩn thận nếm trải chúng, từ đó tâm linh bên trong có sự cảm ứng và mang lại cho ông chút khai sáng, soi sáng. Ông đã ngộ ra các lẽ thật từng chút một, và sau khi ngộ ra, ông thực hành theo lẽ thật mà ông lý giải và hiểu được, dần dần đạt đến kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. “Kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác” là điều con người nên tuân thủ và thực hành. Đây là con đường cao nhất mà con người nên đi theo. Trong mắt các thế hệ sau, có vẻ như Gióp đã thực hành câu này rất dễ dàng. Ngươi cho rằng nó đơn giản và dễ dàng bởi vì ngươi không nhận thức hoặc chưa trải nghiệm khía cạnh thực tế của câu này. Gióp đã có được câu này bằng cách nào? Ông có được thông qua trải nghiệm thực tế của chính mình. Trong mắt con người, những chữ “kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác” nên đóng vai trò như một phương châm sống; họ nên tuân thủ và thực hành như một nguyên tắc lẽ thật – đây là điều đúng đắn. Nhưng Gióp không chú trọng nói như thế nào, mà chú trọng làm như thế nào. Vậy làm sao ông có được nguyên tắc mà ông đưa vào thực hiện này? (Thưa, thông qua trải nghiệm trong cuộc sống thường ngày của ông.) Làm sao ông có thể tuân thủ nguyên tắc này trong hành động của mình? (Thưa, thông qua trải nghiệm và thể nghiệm trong cuộc sống, ông bắt đầu có nhận thức về Đức Chúa Trời.) Trong cuộc sống bình thường của mình, ông đã thấy được những việc làm của Đức Chúa Trời và công tác Đức Chúa Trời trên con người. Thông qua những thể nghiệm này, ông hình thành lòng kính sợ Đức Chúa Trời, hình thành đức tin thực sự, sự ngưỡng vọng thực sự, và sự thuận phục cũng như tin cậy thực sự nơi Đức Chúa Trời. Lòng kính sợ Đức Chúa Trời của ông nảy sinh như vậy. Không phải là ông sinh ra đã biết kính sợ Đức Chúa Trời. Kính sợ Đức Chúa Trời là sự tổng kết những thực hành và biểu hiện của ông sau khi ông tin và đi theo Đức Chúa Trời trong nhiều năm. Có thể nói rằng đó là thực chất hành vi, nhận thức và nguyên tắc làm việc của ông. Biểu hiện, sự bộc lộ và hành vi của ông trước Đức Chúa Trời, cũng như những ý định nơi sâu thẳm nội tâm và nguyên tắc làm việc của ông – thực chất của tất cả những biểu hiện này đều là kính sợ Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời định nghĩa ông như vậy. Gióp đã có thể làm được những điều này, nhưng không phải bởi vì Đức Chúa Trời đã phán nhiều lời với ông hay chu cấp cho ông nhiều lẽ thật, rồi ông mới thông qua sự lĩnh hội của mình mà dần dần đạt tới sự kính sợ Đức Chúa Trời. Trong thời đại đó, Đức Chúa Trời không phán bất kỳ lời nào rõ ràng với ông cả. Những gì Gióp có thể thấy được cùng lắm là các sứ giả của Đức Chúa Trời; và những gì ông có thể nghe được cùng lắm là những truyền thuyết hoặc câu chuyện về Đức Chúa Trời từ tổ tiên truyền lại. Ông chỉ có thể biết được vẻn vẹn những điều đó. Tuy nhiên, dựa trên thông tin này, từ cuộc sống của mình, Gióp đã dần dần nhận thức được ngày càng nhiều điều, ngày càng là những điều thực tế hơn. Dần dần, đức tin nơi Đức Chúa Trời của Gióp ngày càng lớn, và lòng kính sợ Đức Chúa Trời thực sự đã nảy sinh trong ông. Sau khi hai điều này nảy sinh trong ông, vóc giạc thực sự và tố chất thực sự của Gióp trở nên rõ ràng. Chúng ta có thể thấy được gì từ Gióp? Chúng ta có thể thấy rằng có nhiều lẽ thật – những lẽ thật liên quan đến tâm ý Đức Chúa Trời, việc nhận thức Đức Chúa Trời, những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với nhân loại và sự cứu rỗi nhân loại – những điều mà thực ra trong cuộc sống thường ngày, chỉ cần người ta có tư duy của nhân tính bình thường và có tố chất, thì đều có thể từng chút ngộ ra. Gióp là một ví dụ. Ông đã có thể ngộ ra một số điều thực tế. Ông đã ngộ ra điều gì? Là phương châm sống cao nhất của ông vốn đã được chứng thực khi ông trải qua những thử luyện, cũng là sự nhận thức cao nhất của ông. Phương châm sống này, nhận thức cao nhất này là gì? (Thưa, “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va!” (Gióp 1:21).) Về chuyện này, trong nhân loại ngày nay có bất kỳ ai có nhận thức thực sự như Gióp không? Có bất kỳ ai có thể đạt tới sự nhận thức của Gióp không? (Thưa, không.) Những gì con người hiểu ngày nay chỉ là đạo lý. Những lời này xuất phát từ trải nghiệm của Gióp; các thế hệ sau có thể nói, nhưng trong lòng không có được nhận thức như vậy. Ban đầu Gióp cũng không có nhận thức này, nhưng những lời này sinh ra từ ông, từ trải nghiệm và thể nghiệm của ông. Gióp có thực tế này. Dù các thế hệ sau có học vẹt và noi theo lời của Gióp thế nào đi nữa, thì họ cũng chỉ hiểu đạo lý. Tại sao Ta nói đó chỉ là đạo lý? Thứ nhất là bởi vì con người không thể đưa nó vào thực hành. Thứ hai, con người căn bản không có những thể nghiệm như của Gióp và không có được nhận thức từ những thể nghiệm này, vì thế hiểu biết của họ sáo rỗng. Dù ngươi có nói nhiều hay hô to đến đâu câu – “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va. Tôi sẵn lòng thuận phục mọi sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời” – thì khi đến lúc thực sự gặp chuyện, liệu ngươi có thể thừa nhận trong lòng rằng đây là việc Đức Chúa Trời làm hay không? Nếu Đức Chúa Trời tước đoạt và hủy diệt, liệu ngươi còn có thể ngợi khen danh Đức Chúa Trời trong lòng được không? Ngươi sẽ rất khó làm được. Tại sao ngươi rất khó làm được? Đó là bởi vì ngươi không nhận thức được ý ban đầu của Đức Chúa Trời khi làm vậy, và ngươi cũng không nhận thức được sự tể trị của Ngài. Ngươi không thể nhận thức được hai điều này. Ngươi không lĩnh hội được ý của Đức Chúa Trời, cũng không lĩnh hội được vị trí mà loài thọ tạo nên đứng, sự thuận phục mà loài thọ tạo nên có, hoặc những hành động mà loài thọ tạo nên làm. Ngươi không thể làm được những điều này. Vì thế, khi ngươi đọc lại câu đó của Gióp, chúng vô hình trung trở thành nói suông, chỉ là những lời trang trí, thời thượng mà thôi. Cho nên, dù ngươi và Gióp cùng nói những lời này, nhưng nhận thức và lĩnh hội trong lòng của Gióp về những lời này khác với của ngươi, và ông nói những lời này với tâm tình cũng khác với của ngươi. Đây là hai tâm cảnh hoàn toàn khác nhau. Bình thường, Gióp không nói những lời này. Mà khi bị Đức Chúa Trời tước đoạt tất cả, ông đã phủ phục trên đất và ngợi khen những việc làm của Đức Chúa Trời. Còn ngươi thường rao giảng những lời này, nhưng nếu gặp sự tước đoạt của Đức Chúa Trời, ngươi sẽ có biểu hiện thế nào? Ngươi có thể quỳ xuống cầu nguyện không? Ngươi sẽ không thể thuận phục. Dù ngoài mặt ngươi nói: “Tôi nên thuận phục. Đây là việc làm của Đức Chúa Trời, con người chúng ta không có khả năng và không phản kháng được, vì thế tôi sẽ để mọi sự thuận theo tự nhiên”, thì đây có phải là sự thuận phục thực sự không? Chưa nói đến tính chất của những cảm xúc tiêu cực, phản kháng và chống đối của ngươi, thì có sự khác biệt giữa thái độ của ngươi và của Gióp không? (Thưa, có.) Có sự khác biệt rất lớn. Đây chính là sự khác biệt giữa việc có và không có thực tế lẽ thật. Đây chính là sự khác biệt rõ ràng giữa việc những điều mà con người trải nghiệm, ngộ ra trở thành sự bộc lộ tự nhiên của sự sống của họ, và việc chỉ đơn thuần hiểu đạo lý mà không có thực tế. Khi không gặp phải chuyện gì, con người sẽ rao giảng những lời của Gióp, nhưng khi có chuyện xảy đến, nhiều người không thể nói được câu này của Gióp. Nó cho thấy họ chỉ hiểu đạo lý. Câu này chưa trở thành sự sống của họ và không chủ đạo được tư tưởng, thái độ của họ khi gặp chuyện. Tuy nhiên, với những người có những lời này như sự sống của mình, thì khi gặp chuyện, sẽ thấy rõ rằng những lời này không chỉ là phương châm sống họ rao giảng trong cuộc sống thường ngày, mà còn là thái độ thực sự của họ đối với con người, sự việc và sự vật. Hơn nữa, đó còn là thái độ thực sự của họ đối với Đức Chúa Trời. Những lời này thể hiện sự sống của họ, chứ không chỉ là một khẩu hiệu nào đó mà họ hô hào. Điều này cho thấy rõ sự khác biệt giữa việc hiểu được lẽ thật và không hiểu được lẽ thật.
Bây giờ, hãy cùng xem xét trường hợp Phi-e-rơ. Tại sao chúng ta nói rằng Phi-e-rơ có tố chất tốt? Đó là bởi vì Phi-e-rơ có thể lĩnh hội lẽ thật mà Đức Chúa Jêsus bày tỏ và hiểu được lời Đức Chúa Jêsus. Thời đại Phi-e-rơ sống là Thời đại Ân điển. Con đường cứu chuộc mà Đức Chúa Jêsus phán trong Thời đại Ân điển cao hơn con đường trong Thời đại Luật pháp. Nó liên quan đến một số lẽ thật cơ bản về lối vào sự sống của con người, cũng như một số lẽ thật ban đầu về việc biến đổi tâm tính con người. Chẳng hạn như nó liên quan đến việc thuận phục Đức Chúa Trời, thuận phục sự tể trị và sắp đặt của Đức Chúa Trời, cũng như con người nên đối đãi thế nào khi bộc lộ một số tâm tính bại hoại. Mặc dù những vấn đề này không được nói một cách sâu rộng và có hệ thống, nhưng chúng được đề cập đến. Đương nhiên, chúng được thảo luận nhiều hơn nhiều so với thời đại của Gióp, nhưng lại ít hơn nhiều so với ngày nay. Mặc dù trong Kinh Thánh không có lời nào được ghi chép về những khía cạnh lẽ thật như biến đổi tâm tính con người, thái độ của con người đối với Đức Chúa Trời, thực chất của sự bại hoại sâu thẳm nội tâm con người, hoặc sự bộc lộ tâm tính bại hoại của con người, nhưng Đức Chúa Jêsus chắc chắn là ít nhiều có phán về những điều này. Chỉ là con người với không tới, nên những lời này không được ghi chép. Chẳng hạn như Đức Chúa Jêsus phán với Phi-e-rơ thế này: “Ta nói cùng ngươi, chính đêm nay, trước khi gà gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần” (Ma-thi-ơ 26:34). Phi-e-rơ đáp lại: “Dầu tôi phải chết với thầy đi nữa, tôi chẳng chối thầy đâu” (Ma-thi-ơ 26:35). Đây là những lời gì? (Thưa, đó là những lời kiêu ngạo, cho thấy sự không biết mình.) Đó là những lời kiêu ngạo do người không biết mình nói ra. Vì vậy, điều này chắc chắn liên quan đến việc biết mình. Phi-e-rơ đã nhận ra điều gì sau khi gà gáy? (Thưa, ông đã nói khoác về mình.) Khi nhận ra điều đó, ông có cảm thấy gì trong lòng không? (Thưa, có.) Sau khi chuyện đó xảy ra, phản ứng đầu tiên của ông là gì? (Thưa, ăn năn, lòng ông rất áy náy.) Phản ứng đầu tiên của ông là áy náy và ăn năn. Ông nói: “Chúa phán vậy là đúng. Những gì mình nói về việc yêu kính Chúa chỉ là mong muốn, lý tưởng và một dạng khẩu hiệu. Mình không có vóc giạc như thế”. Đứng trước tình cảnh Đức Chúa Jêsus bị bắt, Phi-e-rơ đã hèn nhát và sợ hãi. Có người hỏi ông: “Đó có phải là Chúa của các anh không? Chẳng phải anh biết Ngài sao?”. Và lúc đó, Phi-e-rơ thầm nghĩ gì? “Phải, mình biết Ngài, nhưng nếu mình thừa nhận, họ cũng sẽ bắt mình”. Do hèn nhát và sợ chịu khổ, do sợ bị bắt cùng với Đức Chúa Jêsus, ông đã không thừa nhận mình biết Ngài. Sự hèn nhát của ông đã chiến thắng đức tin. Vậy thì đức tin của ông là thật hay giả? (Thưa, là giả.) Lúc này, ông nhận ra rằng trước đây ông nói: “Lạy Chúa, con cam lòng đi cùng Ngài, cùng Ngài vào tù, chết cùng Ngài”, thì những lời này chỉ là mơ tưởng hão huyền. Chúng không phải là đức tin thực sự của ông, mà chỉ là những lời nói suông, khẩu hiệu và đạo lý. Ông không có vóc giạc thực sự. Khi nào ông nhận ra mình không có vóc giạc thực sự? (Thưa, khi đối mặt với sự thật và bị tỏ lộ.) Chỉ khi đối mặt với sự thật và khi cảm thấy áy náy, ăn năn, ông mới nhận ra: “Hóa ra đức tin và vóc giạc của mình quá nhỏ bé, đúng như Chúa phán. Chúa phán vậy là đúng. Mình nói vậy với Chúa chỉ là khoác lác. Đó không phải là đức tin thực sự, mà chỉ là bốc đồng nhất thời. Khi gặp chuyện, mình đã hèn nhát, không sẵn lòng chịu khổ, có những tư tưởng ích kỷ riêng, có những lựa chọn riêng, không thuận phục và không có lòng thực sự yêu kính Chúa. Đức tin của mình chỉ có ngần ấy, vóc giạc của mình chỉ có tầm ấy”. Sự ăn năn đã khiến những ý nghĩ này nảy sinh trong ông, chẳng phải sao? Sự ăn năn cho thấy ông đã có sự biết mình và đánh giá được chuẩn xác vóc giạc, tình trạng và đức tin của mình. Tân Ước chỉ ghi chép rằng Phi-e-rơ đã chối Chúa ba lần, nhưng không ghi chép chứng ngôn trải nghiệm của Phi-e-rơ về việc ông đã ăn năn, quay đầu và biến đổi ra sao. Trên thực tế, Phi-e-rơ đã viết những bức thư về việc này, nhưng những người biên tập Kinh Thánh không chọn đưa vào. Đó là một vấn đề nổi cộm, cho thấy các lãnh đạo hội thánh khi đó chỉ chú ý đến cách truyền đạo và làm chứng, chứ không có ai hiểu chuyện trải nghiệm sự sống. Hết thảy họ chỉ chú trọng việc các sứ đồ truyền đạo, công tác như thế nào, và chịu khổ ra sao, chứ không biết rằng điều cốt yếu nhất là lối vào sự sống của con người, cũng như nhận thức về lẽ thật và về Đức Chúa Trời của con người. Những người biên tập Kinh Thánh đã ghi chép câu chuyện xảy ra với Phi-e-rơ quá đơn giản, quá sơ lược, nhưng lại ghi chép những sự kiện trong cuộc đời Phao-lô đặc biệt chi tiết và đặc biệt nhiều. Điều này cho thấy những người này có thiên kiến. Họ không hiểu lẽ thật là gì, cũng không hiểu làm chứng cho Đức Chúa Trời là gì. Họ sùng bái Phao-lô, nên đã chọn nhiều bức thư của Phao-lô hơn, trong khi chỉ chọn vài bức thư của Phi-e-rơ. Khi biên tập Kinh Thánh như vậy, họ đã phạm phải một sai lầm về nguyên tắc, khiến những người tin Chúa sùng bái và noi gương Phao-lô trong hai ngàn năm. Nó khiến cả giới tôn giáo đi con đường chống đối Đức Chúa Trời, trở thành một vương quốc tôn giáo dưới sự khống chế của những kẻ địch lại Đấng Christ. Họ làm ngơ chứng ngôn tuyệt vời của Phi-e-rơ, mà chỉ ghi chép hai bức thư của ông – thư thứ nhất và thư thứ hai. Nhưng còn về việc Phi-e-rơ rốt cuộc đã trải nghiệm những chuyện xảy đến với ông như thế nào, Đức Chúa Trời khai sáng cho ông ra sao, Đức Chúa Jêsus phán điều gì khi Ngài xuất hiện với ông, Phi-e-rơ tiếp nhận sự phán xét, hành phạt, tỉa sửa, thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời như thế nào, cuối cùng ông cam tâm tình nguyện chịu đóng đinh ngược trên thập tự giá ra sao, Phi-e-rơ đạt tới mức độ này như thế nào, ông đạt được sự biến đổi tâm tính sự sống như vậy theo cách nào, và ông có được đức tin cũng như sự thuận phục như vậy ra sao – thì không có ghi chép nào về quá trình trải nghiệm này. Như thế quá là không được. Những điều giá trị nhất này lại không được ghi chép thì thật sự quá đáng tiếc!
Từ việc Phi-e-rơ chối Chúa ba lần cho đến việc cuối cùng ông bị đóng đinh ngược trên thập tự giá vì Đức Chúa Trời, như được ghi chép trong bốn sách phúc âm, ghép nối hai sự kiện này lại, con người thấy được điều gì? Phi-e-rơ đã đi từ chỗ chối Chúa ba lần cho đến chỗ cuối cùng bị đóng đinh ngược trên thập tự giá vì Đức Chúa Trời. Chẳng phải ở đây có một quá trình gian nan, một quá trình đáng để tìm hiểu sao? Quá trình này là gì? (Thưa, đó là quá trình con người bước vào sự sống và biến đổi tâm tính.) Đúng vậy, việc biến đổi tâm tính của con người là hành trình một đời có thể từ bỏ và dâng mình cho Đức Chúa Trời, cũng như cam lòng thuận phục mọi sự sắp đặt của Đức Chúa Trời. Trải nghiệm sự sống chính là quá trình này. Nó tuyệt đối không phải là kịch hóa. Từ lúc mới đầu khi Phi-e-rơ căn bản không dám thừa nhận ông là người đi theo Đức Chúa Jêsus, cho đến cuối cùng khi ông có can đảm và đức tin, có thể cam lòng chịu đóng đinh ngược trên thập tự giá vì Đức Chúa Trời, và lên đến tầm này; đó quả là cả một quá trình chuyển biến trong đức tin, tâm tính và sự thuận phục của ông! Chắc chắn có một quá trình tiến bộ. Con người hiện đại không cần biết chính xác kiểu quá trình tiến bộ này là gì bởi vì những lời được phán ngày nay là những lẽ thật mà người trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời phải hiểu được. Ngày nay, Đức Chúa Trời đã nói rõ ràng và chu cấp cho họ những lẽ thật này rồi. Vậy thì trải nghiệm của Phi-e-rơ như thế nào? Sau khi Đức Chúa Jêsus ra đi, không ai nói rõ ràng cho ông biết nên trải nghiệm những gì để đạt đến thuận phục Đức Chúa Trời. Trong thời đại không được cung ứng những lời rõ ràng từ Đức Chúa Trời, cuối cùng ông vẫn có thể đạt đến vóc giạc và đức tin chứa đựng sự cam lòng thuận phục mà không có bất kỳ oán trách hay lựa chọn cá nhân nào. Các ngươi nói xem, rốt cuộc ông đã đạt được những lẽ thật nào? Và ông đạt được bằng cách nào? Chính là thông qua việc cầu nguyện, tìm kiếm, rồi dần dần trải nghiệm và tìm tòi. Tất nhiên, trong thời gian này, Phi-e-rơ cũng đã nhận được sự khai sáng và soi sáng của Đức Chúa Trời, sự ân đãi và chỉ dẫn đặc biệt của Đức Chúa Trời. Ngoài những điều như thế, ông chỉ có thể dựa vào chính sức mình để ngộ ra. Trong quá trình này, nhận thức của Phi-e-rơ về bản thân mình, về tâm ý Đức Chúa Trời và tất cả các khía cạnh lẽ thật mà con người nên bước vào, dần dần chuyển từ mờ sang tỏ, rồi đến chuẩn xác, rồi đến một con đường thực hành chắc chắn và thực tế. Quá trình này kéo dài cho đến cuối cùng, khi ông có thể thuận phục tuyệt đối không chút lệch lạc. Chỉ sau khi có được sự xác nhận trong lòng, ông mới dám thực hành như vậy. Sự xác nhận này đến từ đâu? Một mặt là thông qua tìm tòi, mặt khác là thông qua cầu nguyện và tìm kiếm. Ông đã để Đức Thánh Linh hành động và để Đức Chúa Trời hành động. Không có sự cản trở hay sửa dạy nào. Ông đã có được sự khai sáng của Đức Thánh Linh, sự bình an và niềm vui, đồng thời có được sự hỗ trợ, chúc phúc và chỉ dẫn của Đức Chúa Trời. Đó chính là cách ông đạt được sự xác nhận. Sau khi đạt được sự xác nhận, ông tiếp tục mạnh dạn dấn bước tìm kiếm, tìm tòi và thực hành. Sau khi trải qua một quá trình phức tạp như vậy, Phi-e-rơ đã dần dần nắm bắt chính xác về các khía cạnh của nhân tính, sự biết mình và tâm tính, cũng như những tình trạng khác nhau do tâm tính bại hoại của con người nảy sinh trong những hoàn cảnh khác nhau. Sau khi nắm bắt chính xác, ông đã bắt đầu bỏ công sức trên những điều này để tìm kiếm con đường thực hành tương ứng. Cuối cùng, ông đã giải quyết được từng tình trạng nảy sinh từ các tâm tính bại hoại khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau. Ông giải quyết như thế nào? Ông giải quyết từng chút một bằng cách vận dụng các lẽ thật và nguyên tắc được Đức Chúa Trời khai sáng. Tất nhiên, trong thời gian này, ông đã trải nghiệm nhiều sự thử luyện và tinh luyện. Đức Chúa Trời đã thử luyện và tinh luyện ông đến mức nào? Cuối cùng, ông đã nắm bắt được tâm ý Đức Chúa Trời và hiểu rằng Đức Chúa Trời muốn con người học được bài học thuận phục. Vậy thì Đức Chúa Trời đã làm việc trên Phi-e-rơ đến mức nào để khiến ông ý thức được rằng việc con người nên làm chính là thuận phục? Trước đây, chúng ta đã đề cập một lời Phi-e-rơ nói. Các ngươi có nhớ đó là lời nào không? (Thưa, “Nếu Đức Chúa Trời coi tôi như một món đồ chơi, làm sao tôi có thể không sẵn sàng và sẵn lòng chứ?”.) Đúng vậy, chính là câu này. Trong quá trình thể nghiệm và trải nghiệm công tác hoặc sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời, Phi-e-rơ đã vô thức hình thành cảm giác này: “Chẳng phải Đức Chúa Trời xem con người như những món đồ chơi sao?”. Nhưng đó chắc chắn không phải là xuất phát điểm hành động của Đức Chúa Trời. Con người dựa vào cái nhìn, đầu óc và tri thức của con người để đánh giá chuyện này và cảm thấy Đức Chúa Trời tùy ý đùa giỡn với con người như món đồ chơi. Hôm nay Ngài phán làm thế này là đúng, ngày mai Ngài lại bảo họ làm thế khác. Bất tri bất giác, ngươi bắt đầu cảm thấy: “Ôi, Đức Chúa Trời phán nhiều điều như vậy. Rốt cuộc Ngài đang cố gắng làm gì chứ?”. Con người cảm thấy có chút mơ hồ và hơi choáng ngợp. Họ không biết nên lựa chọn thế nào. Đức Chúa Trời đã sử dụng phương thức này để thử luyện Phi-e-rơ. Kết quả cuối cùng của sự thử luyện này là gì? (Thưa, Phi-e-rơ đã đạt đến thuận phục cho đến chết.) Ông đã đạt đến thuận phục. Đây chính là kết quả Đức Chúa Trời muốn và Đức Chúa Trời đã thấy được. Những lời nào Phi-e-rơ nói cho chúng ta thấy ông đã thuận phục và trưởng thành về vóc giạc? Phi-e-rơ đã nói gì? Đối với mọi việc Đức Chúa Trời làm và thái độ của Đức Chúa Trời khi đối xử với con người như món đồ chơi, Phi-e-rơ đã tiếp nhận và đối đãi như thế nào? Thái độ của Phi-e-rơ là gì? (Thưa, ông nói: “Làm sao tôi có thể không sẵn sàng và sẵn lòng chứ?”.) Đúng vậy, đó là thái độ của Phi-e-rơ. Đó là nguyên văn lời ông. Người chưa thể nghiệm sự thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời thì sẽ không bao giờ nói được những lời này bởi vì họ không hiểu diễn biến câu chuyện ở đây và chưa hề thể nghiệm qua. Vì chưa thể nghiệm qua, nên chắc chắn họ không rõ về chuyện này. Nếu không rõ về chuyện này, làm sao họ có thể tùy tiện nói ra câu này được? Những lời này không phải là điều con người có thể nghĩ ra. Phi-e-rơ có thể nói được điều này bởi vì ông đã trải nghiệm quá nhiều sự thử luyện và tinh luyện. Đức Chúa Trời đã tước đi của ông nhiều thứ, nhưng cũng đồng thời ban cho ông rất nhiều. Sau khi ban cho, Ngài lại tước đi. Sau khi tước đi của ông, Đức Chúa Trời đã khiến Phi-e-rơ học cách thuận phục, rồi sau đó lại ban cho ông. Trong mắt con người, nhiều việc Đức Chúa Trời làm có vẻ thất thường, cho con người cảm giác sai lầm rằng Đức Chúa Trời xem con người như món đồ chơi, không tôn trọng con người và không đối xử với con người như là con người. Con người cảm thấy họ sống không có tôn nghiêm, như món đồ chơi; họ cho rằng Đức Chúa Trời không cho họ quyền tự do lựa chọn và Đức Chúa Trời muốn phán thế nào cũng được. Khi ban cho ngươi điều gì đó, Ngài phán: “Ngươi làm vậy xứng đáng nhận được phần thưởng này. Đây là phúc lành của Đức Chúa Trời”. Khi lấy đi, Ngài lại có cái khác để nói. Trong quá trình này, con người nên làm gì? Đó không phải là để ngươi phán xét Đức Chúa Trời là đúng hay sai, không phải là để ngươi xác định tính chất hành động của Đức Chúa Trời, càng không phải là để ngươi sống có tôn nghiêm hơn trong quá trình này. Không phải là để ngươi lựa chọn những điều này. Vai trò này không phải là của ngươi. Vậy thì vai trò của ngươi là gì? Thông qua trải nghiệm, ngươi nên học cách hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi không thể hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời và không thể đáp ứng yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì lựa chọn duy nhất của ngươi là thuận phục. Trong tình huống như thế, ngươi có dễ dàng thuận phục không? (Thưa, không dễ dàng.) Không dễ dàng thuận phục. Đây là bài học ngươi nên học. Nếu dễ dàng thuận phục, thì ngươi sẽ không cần học các bài học, không cần bị tỉa sửa và trải qua sự thử luyện, tinh luyện. Chính vì ngươi khó thuận phục nên Đức Chúa Trời mới không ngừng thử luyện ngươi, tùy ý đùa giỡn với ngươi như món đồ chơi. Đến một ngày ngươi dễ dàng thuận phục Đức Chúa Trời, thuận phục Ngài mà không có chút khó khăn hay cản trở gì, khi ngươi có thể cam lòng và vui vẻ thuận phục mà không có những lựa chọn, ý đồ hoặc ý thích riêng, thì Đức Chúa Trời sẽ không đối xử với ngươi như món đồ chơi và ngươi nên làm cái gì thì sẽ làm cái đó. Nếu một ngày nào đó ngươi nói: “Đức Chúa Trời đối xử với tôi như món đồ chơi và tôi sống không có tôn nghiêm. Tôi không đồng ý như vậy và tôi sẽ không thuận phục”, thì có thể đó chính là ngày Đức Chúa Trời vứt bỏ ngươi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu vóc giạc của ngươi đạt đến mức mà ngươi nói “Mặc dù tâm ý Đức Chúa Trời không dễ nắm bắt và Đức Chúa Trời luôn ẩn đi với tôi, nhưng mọi việc Đức Chúa Trời làm đều đúng. Bất kể Đức Chúa Trời làm gì, tôi cũng sẽ cam lòng thuận phục. Ngay cả khi không thể thuận phục, tôi vẫn phải có thái độ này và không oán trách hay có lựa chọn riêng nào. Đó là bởi vì tôi là loài thọ tạo. Bổn phận của tôi là thuận phục, không thể đùn đẩy cho ai khác. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa và Đức Chúa Trời làm gì cũng đúng. Tôi không nên có bất kỳ quan niệm hay tưởng tượng nào về những việc Đức Chúa Trời làm. Một loài thọ tạo thì không nên có những thứ như vậy. Đức Chúa Trời ban cho tôi thì tôi tạ ơn Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không ban cho tôi hoặc ban cho tôi rồi lại tước đi, thì tôi cũng tạ ơn Đức Chúa Trời. Những hành động của Đức Chúa Trời đều ích lợi cho tôi; ngay cả khi tôi không thể thấy được ích lợi, thì điều tôi nên làm vẫn là thuận phục”? Chẳng phải những lời này cũng có hiệu quả như những lời của Phi-e-rơ khi ông nói “Làm sao tôi có thể không sẵn sàng và sẵn lòng chứ” sao? Chỉ những người có vóc giạc như thế mới thực sự hiểu được lẽ thật.
Tiếp theo, hãy cùng thông công về tố chất của con người. Khi đánh giá người ta có tố chất hay không, hãy nhìn xem khi có chuyện xảy đến trong cuộc sống thường ngày, họ có khả năng lĩnh hội được tâm ý và thái độ của Đức Chúa Trời, cũng như vị trí họ nên đứng, các nguyên tắc họ nên tuân thủ và thái độ họ nên có hay không. Nếu có thể ngộ ra được tất cả những điều này, thì ngươi có tố chất. Nếu những gì ngươi ngộ ra không liên quan gì đến mọi sự Đức Chúa Trời sắp đặt cho ngươi trong đời sống thực tế, thì ngươi hoặc không có tố chất, hoặc có tố chất kém. Vóc giạc thực sự của Phi-e-rơ và Gióp hình thành như thế nào, và cuối cùng, mọi thứ họ đạt được, thu hoạch được từ việc tin Đức Chúa Trời đến như thế nào? Họ không hề được hưởng những gì các ngươi được hưởng ngày nay. Các ngươi luôn có người để thông công về lẽ thật, chu cấp, hỗ trợ và giúp đỡ cho mình. Luôn có người giúp các ngươi kiểm tra mọi thứ. Họ thì chẳng hề có. Hầu hết lẽ thật họ hiểu đều là tự họ nhận thức ra, tự họ trải nghiệm, đều là những gì họ dần ngộ ra và thể nghiệm trong cuộc sống thường ngày. Đó chính là có tố chất cao. Khi không có tố chất như thế, và không có dạng thái độ này đối với lẽ thật và sự cứu rỗi, con người sẽ không biết tìm kiếm lẽ thật và chú trọng thực hành lẽ thật trong mọi sự. Kết quả là họ không đạt được lẽ thật. Sau khi nghe câu chuyện về Gióp và Phi-e-rơ, hầu hết mọi người đều ngưỡng mộ họ. Nhưng sau một thời gian ngưỡng mộ, họ lại không xem trọng việc này. Họ cảm thấy khi có chuyện xảy đến, họ cũng có thể nói những lời kinh điển của Gióp và Phi-e-rơ, nên họ nghĩ những điều này đơn giản thôi. Như chúng ta xem xét bây giờ thì những điều này không đơn giản.
Trong Tân Ước, ngoài bốn sách phúc âm, thì thư tín của Phao-lô chiếm phần nhiều nhất. Trong cùng giai đoạn đó, có lẽ Phao-lô và Phi-e-rơ đã thực hiện công tác gần như giống nhau, nhưng danh tiếng của Phao-lô lớn hơn hẳn của Phi-e-rơ. Từ hai chuyện này, chúng ta có thể thấy điều gì? Chúng ta có thể thấy con đường mà hai vị này đi. Nhiều dòng từ thư tín của Phao-lô đã được các thế hệ sau xem như phương châm sống, và mọi người đều dùng những câu nói nổi tiếng của Phao-lô để khích lệ bản thân. Kết quả là hết thảy họ cuối cùng đều đi sai đường, và nhiều người thậm chí còn đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ. Ngược lại, Phi-e-rơ hiếm khi xuất đầu lộ diện. Về cơ bản, ông không viết cuốn sách nào, không đưa ra những đạo lý cao thâm nào, không đưa ra những khẩu hiệu hay lý luận đao to búa lớn để dạy bảo và trợ giúp các anh chị em thời đó, cũng không đưa ra những lý luận cao thâm để ảnh hưởng đến hậu thế. Ông chỉ đơn giản mưu cầu yêu kính và làm hài lòng Đức Chúa Trời một cách đến nơi đến chốn. Đây là sự khác biệt giữa con đường mà hai vị này đi. Cuối cùng, Phao-lô đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ và bị diệt vong, trong khi Phi-e-rơ đi con đường mưu cầu lẽ thật, yêu kính Đức Chúa Trời, và được hoàn thiện. Bằng cách xem xét con đường họ đi, ngươi có thể thấy Đức Chúa Trời muốn loại người nào, Đức Chúa Trời không thích loại người nào, những bộc lộ và biểu hiện của những người Đức Chúa Trời không thích là gì, những người này đi kiểu con đường nào, họ có dạng quan hệ nào với Đức Chúa Trời và họ chú trọng đến những điều gì. Các ngươi nói xem, Phao-lô có tố chất không? Tố chất của Phao-lô thuộc loại nào? (Thưa, rất tốt.) Các ngươi đã nghe nhiều bài giảng thế rồi mà vẫn không hiểu được. Có thể coi tố chất của Phao-lô là rất tốt được không? (Thưa, không được, Phao-lô có tố chất kém.) Tại sao tố chất của Phao-lô lại kém? (Thưa, vì ông không biết mình và không thể lĩnh hội được lời Đức Chúa Trời.) Đó là bởi vì ông không lĩnh hội được lẽ thật. Ông cũng đã nghe những bài giảng của Đức Chúa Jêsus, và trong giai đoạn ông công tác, đương nhiên cũng có công tác của Đức Thánh Linh. Vậy ông đã thực hiện bao nhiêu công tác đó, viết bao nhiêu thư tín đó và đi bao nhiêu hội thánh đó, làm sao mà ông vẫn không ngộ ra được chút lẽ thật nào mà chỉ toàn giảng đạo lý? Đó là loại tố chất gì? Chính là tố chất kém. Hơn nữa, Phao-lô còn bức hại Đức Chúa Jêsus và truy bắt các môn đồ của Ngài, sau đó bị Đức Chúa Jêsus đánh gục bằng ánh sáng lớn từ trời. Phao-lô đã tiếp cận và nhận thức sự kiện lớn này xảy đến với ông như thế nào? Nhận thức của ông khác với của Phi-e-rơ. Ông cho rằng: “Đức Chúa Jêsus đánh gục mình, mình đã phạm tội, vì vậy mình phải công tác siêng năng hơn để đền bù, và một khi đã lấy công chuộc tội, mình sẽ được ban thưởng”. Ông có biết mình không? Không. Ông không nói: “Tôi đã chống đối Đức Chúa Jêsus do bản tính ác độc, bản tính kẻ địch lại Đấng Christ của mình. Tôi đã chống đối Đức Chúa Jêsus – tôi chẳng có gì tốt đẹp cả!”. Ông có sự biết mình như thế không? (Thưa, không.) Và ông đã ghi chép chuyện này trong thư tín của mình như thế nào? Quan điểm của ông về chuyện này là gì? (Thưa, ông cảm thấy mình đã được Đức Chúa Trời triệu tập làm công tác.) Ông tin rằng Đức Chúa Trời đã triệu tập ông bằng cách chiếu ánh sáng lớn vào ông và Đức Chúa Trời sẽ bắt đầu trọng dụng ông. Trong tình huống không hề có một chút biết mình nào, ông tin rằng đó là bằng chứng mạnh mẽ nhất và vốn liếng lớn lao nhất cho việc ông sẽ được ban thưởng và trao mão triều thiên. Thêm vào đó, sâu thẳm trong lòng, ông cảm thấy như bị gai đâm. Cái gai này là gì? Đó là một loại bệnh mà Đức Chúa Trời cho ông như một sự trừng phạt vì ông đã điên cuồng chống đối Đức Chúa Jêsus. Ông đối đãi chuyện này như thế nào? Ông luôn có một tâm bệnh và suy nghĩ: “Đây là sai lầm lớn nhất cuộc đời mình. Không biết Đức Chúa Trời có tha thứ không. May là Đức Chúa Jêsus đã để lại cái mạng này và giao phó việc rao truyền phúc âm cho mình. Đây là cơ hội tốt để chuộc tội. Mình phải dốc hết sức rao truyền phúc âm, và có lẽ không những được tha tội, mà còn nhận được mão triều thiên và phần thưởng nữa. Như vậy thì quá tốt!”. Tuy nhiên, ông không bao giờ có thể loại bỏ được cái gai khiến ông cứ thấy rối bời, luôn canh cánh trong lòng về chuyện này: “Làm sao để có thể bù đắp cho sai lầm nghiêm trọng này đây? Làm sao để có thể triệt tiêu nó, để nó không ảnh hưởng đến tiền đồ hay mão triều thiên mình mong nhận được đây? Mình phải làm nhiều công tác hơn cho Chúa, trả giá nhiều hơn, viết nhiều thư hơn, bôn ba nhiều hơn, chiến đấu với Sa-tan nhiều hơn và có nhiều lời chứng tốt đẹp hơn”. Ông đã tiếp cận chuyện đó như vậy. Ông có chút ăn năn nào không? (Thưa, không.) Ông không hề có một chút ăn năn nào, càng không có chút biết mình nào. Ông không có cả hai điều đó. Nó cho thấy tố chất của Phao-lô có vấn đề và ông không có năng lực lĩnh hội lẽ thật. Đó một mặt là do nhân tính của ông và điều ông mưu cầu; mặt khác là do tố chất của ông, ông không thể ngộ ra được những điều này, cũng không thể ý thức được rằng “Con người đã bị Sa-tan làm bại hoại quá sâu sắc. Bản tính của con người quá hủ hoại, quá tà ác. Bản tính của con người là bản tính của Sa-tan và kẻ địch lại Đấng Christ. Đây là căn nguyên việc Đức Chúa Trời cứu chuộc nhân loại. Con người cần sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời. Vậy con người nên đến trước Đức Chúa Trời để tiếp nhận sự cứu chuộc của Ngài như thế nào?”. Ông không bao giờ nói những điều như thế. Ông hoàn toàn không hiểu tại sao ông lại chống đối và lên án Jêsus. Mặc dù ông đã thừa nhận mình là đầu sỏ, nhưng ông không hề phản tỉnh về việc này. Ông chỉ ngẫm nghĩ làm sao để có thể triệt tiêu những tội lỗi nghiêm trọng như thế, làm thế nào để có thể bù đắp tội lỗi, lấy công chuộc tội, và cuối cùng vẫn có thể đạt được mão triều thiên và phần thưởng như ông mong đợi. Bất kể chuyện gì xảy đến, ông cũng không thể hiểu được lẽ thật hay tâm ý Đức Chúa Trời từ những chuyện xảy đến với mình. Ông hoàn toàn không hiểu được tâm ý Đức Chúa Trời. Trong việc lĩnh hội lẽ thật, Phao-lô là người kém nhất, nên chúng ta có thể nói rằng tố chất của Phao-lô là kém nhất.
Người có tố chất quá kém thì có thể hiểu được lẽ thật không? (Thưa, không.) Người không thể hiểu được lẽ thật thì có thể được cứu rỗi không? (Thưa, không.) Người muốn được cứu rỗi phải có tố chất đạt tiêu chuẩn. Ít nhất họ cũng phải có tố chất trung bình, quá kém thì không được. Nghĩa là họ phải đạt đến hiểu lẽ thật. Bất kể họ có thể lĩnh hội lẽ thật đến đâu, thì ít nhất họ cũng phải dựa trên cơ sở hiểu lẽ thật mà đi đến chỗ biết mình và biết cách thực hành lẽ thật. Như vậy họ mới có thể được cứu rỗi. Tại sao Ta nói rằng như vậy họ mới có thể được cứu rỗi? Khi ngươi có thể liên hệ những chuyện xảy đến trong cuộc sống thường ngày của mình với lẽ thật và có thể kết hợp lời Đức Chúa Trời mà nhìn nhận và đối đãi mọi chuyện, thì ngươi sẽ có thể đưa lời Đức Chúa Trời vào đời sống thực tế của mình, và trên nền tảng này, ngươi sẽ có thể tiếp nhận sự phán xét, tỉa sửa của lời Ngài, cũng như sự thử luyện và tinh luyện trong lời Ngài. Mặt khác, nếu ngươi không hiểu được lẽ thật, thì ngươi thậm chí còn không đủ tư cách tiếp nhận sự phán xét, thử luyện và tinh luyện của lời Ngài. Trước khi tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, ít nhất ngươi cũng phải hiểu được chút lẽ thật, có thái độ thuận phục Đức Chúa Trời và có được một chút biến đổi. Ngươi cũng phải biết mình nên đối đãi với những việc làm của Đức Chúa Trời bằng thái độ, tâm thái và quan điểm nào. Hết thảy những điều này đều liên quan đến lẽ thật. Không phải là con người sử dụng những khẩu hiệu tôn giáo đơn giản, nghi thức tôn giáo và quy định để tùy tiện đối đãi với nó là có thể liên quan đến lẽ thật. Cũng không phải là chỉ đơn giản có vài hành vi tốt thì sẽ liên quan đến thực hành lẽ thật. Nó không đơn giản như vậy. Đối với những gì ngươi nhận thức được, những gì ngươi trải nghiệm được và những gì xảy ra xung quanh ngươi, ngươi phải biết trong lòng các nguyên tắc mình nên tuân thủ là gì. Chỉ như vậy, ngươi mới có liên quan đến lẽ thật. Ngoài ra, cách ngươi đối đãi với những việc Đức Chúa Trời cho ngươi làm, cách ngươi đối đãi với cách thức và thái độ Đức Chúa Trời đối xử với ngươi, cũng như thái độ và góc nhìn của ngươi, phải liên quan đến lẽ thật. Chỉ như vậy ngươi mới có thể có lối vào sự sống. Nếu không, Đức Chúa Trời sẽ không có cách nào làm gì trên ngươi. Các ngươi có hiểu không? (Thưa, chúng con hiểu.) Hãy xem những người trong tôn giáo tuân thủ quy định, nói đạo lý và đạo đức giả. Những hành động của họ bên ngoài trông có vẻ rất tốt, nhưng tại sao Đức Chúa Trời lại không bao giờ làm công tác trên họ? Đó là bởi vì những việc họ làm và hết thảy hành vi tốt của họ đều không liên quan đến lẽ thật. Họ chỉ biến đổi hành vi, nhưng điều đó không liên quan đến sự biến đổi trong tâm tính họ. Đó là bởi vì họ không đáp ứng được các yêu cầu và tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời. Như thể một đứa trẻ vừa tốt nghiệp tiểu học lại muốn lên thẳng đại học. Có thể nào không? Hoàn toàn không thể bởi vì họ không đủ tư cách. Vì thế, bất kể là nói về con đường con người đi hay nhân tính và tố chất của họ, thì ít nhất con người cũng nên có các điều kiện tất yếu để được cứu rỗi. Chính là họ phải hiểu được lẽ thật, phải thoát khỏi tâm tính bại hoại của mình và phải đạt đến thực sự thuận phục Đức Chúa Trời.
Làm cách nào để chúng ta đánh giá tố chất của con người? Cách làm phù hợp là nhìn vào thái độ của họ đối với lẽ thật và liệu họ có thể lĩnh hội lẽ thật hay không. Có những người có thể học một số chuyên ngành rất nhanh, nhưng khi nghe lẽ thật lại mơ hồ và ngủ gật. Trong lòng, họ trở nên hồ đồ, nghe không vào, nghe không hiểu – đây chính là tố chất kém. Có những người, khi ngươi bảo họ có tố chất kém, thì họ không đồng ý. Họ cho rằng mình có trình độ văn hóa và tri thức cao thì nghĩa là có tố chất tốt. Văn hóa cao có đại diện cho tố chất cao không? Không. Nên đánh giá tố chất của con người như thế nào? Nên đánh giá dựa trên trình độ lĩnh hội lời Đức Chúa Trời và lẽ thật của họ. Đây là cách chuẩn xác nhất. Có những người giỏi ăn nói, nhanh trí và đặc biệt giỏi giao tiếp – nhưng khi nghe giảng đạo, thì có nghe thế nào cũng không hiểu, và khi đọc lời Đức Chúa Trời, thì có đọc thế nào cũng không hiểu. Khi nói về chứng ngôn trải nghiệm của mình, họ luôn nói câu chữ và đạo lý, lộ ra mình chỉ là dạng nghiệp dư và cho người khác cảm giác họ không có hiểu biết thuộc linh. Đó là người có tố chất kém. Vậy những người như thế có đủ năng lực để làm việc cho nhà Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Tại sao? (Thưa, bởi vì họ không có các nguyên tắc lẽ thật.) Đúng vậy, đó là điều đến đây các ngươi nên hiểu được. Làm việc cho nhà Đức Chúa Trời nói cách khác chính là thực hiện bổn phận. Nói đến thực hiện bổn phận là liên quan đến lẽ thật và công tác của Đức Chúa Trời, cũng liên quan đến nguyên tắc làm người, và các phương thức cũng như phương pháp đối đãi với mọi loại người. Những vấn đề này đều liên quan đến việc liệu con người có thể thực hiện bổn phận hiệu quả và đạt tiêu chuẩn hay không. Những vấn đề liên quan đến thực hiện bổn phận này có liên quan đến lẽ thật không? Nếu chúng liên quan đến lẽ thật, mà ngươi lại không hiểu được lẽ thật, chỉ dựa vào khôn lỏi, thì liệu ngươi có thể giải quyết vấn đề và thực hiện tốt bổn phận được không? (Thưa, không.) Không thể. Ngay cả khi không có gì sai trật trong một số việc, thì có thể là những việc đó không liên quan đến lẽ thật, mà chỉ là việc bên ngoài. Tuy nhiên, khi làm những việc bên ngoài, ngươi vẫn phải có nguyên tắc và làm sao cho mọi người đều thấy thích hợp mới được. Giả sử ngươi được yêu cầu dựa theo nguyên tắc mà làm việc gì đó một mình, trong khi làm thì có tình huống bất ngờ nảy sinh, và ngươi không biết xử lý thế nào. Ngươi nghĩ rằng mình nên xử lý theo kinh nghiệm của mình, nhưng làm đúng như kinh nghiệm chỉ dạy lại chỉ gây nhiễu loạn và gián đoạn việc ngươi đang làm, khiến mọi thứ rối tung rối mù. Chẳng phải đó là sai lầm sao? Nguyên nhân là gì? Đó là bởi vì ngươi không có sự lĩnh hội thuần khiết, không hiểu được lẽ thật và không nắm được nguyên tắc. Hễ gặp chuyện liên quan đến lẽ thật và nguyên tắc, ngươi lại không biết xử lý, và ý riêng của ngươi sẽ bộc phát. Kết quả là ngươi gây hại cho công tác của hội thánh và lợi ích nhà Đức Chúa Trời, đồng thời tự bêu xấu mình. Xử lý vấn đề dựa trên kinh nghiệm và cách thức của con người có hiệu quả không? (Thưa, không.) Tại sao không hiệu quả? Đó là bởi vì kinh nghiệm và cách thức của con người không phải là lẽ thật, và dân được Đức Chúa Trời chọn sẽ không tiếp nhận những điều đó. Nếu ngươi luôn xử lý vấn đề bằng kinh nghiệm và cách thức của con người, thì chẳng phải nó chỉ đồng nghĩa ngươi tự cho rằng mình thông minh hơn thực tế sao? Đó chẳng phải là kiêu ngạo và tự nên công chính sao? Có những người thậm chí còn ngụy biện rằng: “Về việc này, không phải là tôi không hiểu được lẽ thật – trong lòng tôi hiểu mà. Chỉ là tôi chưa suy ngẫm đủ nhiều thôi. Nếu dốc sức hơn và suy xét kỹ hơn, thì tôi cũng có thể làm tốt. Trước đây, khi giao tiếp và làm việc với những người ngoại đạo, tôi đã phải sử dụng một số phương pháp và cách thức nhất định. Tuy nhiên, nhà Đức Chúa Trời không cho phép dùng những cách đó, nên tôi không biết phải làm sao. Tôi chỉ xử lý theo cách riêng của mình, nên mắc chút sai lầm cũng là chuyện bình thường”. Những người này có biết mình không? (Thưa, không.) Tại sao họ không biết mình? Có phải chuyện này có liên quan đến lẽ thật không? Họ không tìm kiếm lẽ thật trong đó, mà lại nghĩ cách che đậy sai lầm. Họ nghĩ mình chỉ mắc sai lầm và cẩu thả về mặt hành vi. Họ không nghĩ sai sót của họ liên quan đến lẽ thật, hoặc nảy sinh do họ không hiểu được lẽ thật và làm việc dựa trên những tâm tính bại hoại của mình. Đó chính là có tố chất kém. Khi có chuyện xảy đến, những người này luôn tìm lý do và viện cớ. Họ cho rằng họ chỉ đơn giản là mắc sai lầm. Trong phản ứng đầu tiên, họ không biết mình phải tìm kiếm lẽ thật. Trong phản ứng thứ hai, họ vẫn không biết mình phải tìm kiếm lẽ thật. Và trong phản ứng thứ ba, họ vẫn không biết mình cần phải tìm kiếm lẽ thật và biết mình. Đây chính là có tố chất quá kém. Dù ngươi có chỉ ra, vạch trần và thông công với họ thế nào đi nữa, họ vẫn không nhận ra mình đã vi phạm các nguyên tắc lẽ thật nào và nên đưa vào thực hành những lẽ thật nào. Dù ngươi có chỉ ra cho họ thế nào đi nữa, họ cũng không bao giờ ý thức được những điều này. Thậm chí họ còn không có chút năng lực lĩnh hội lẽ thật nào. Đó chính là có tố chất kém. Dù ngươi có thông công về lẽ thật rõ ràng thế nào đi nữa, họ đều không ý thức được đó là lẽ thật. Họ lại còn viện lý do và cái cớ riêng, hoặc nói rằng đó chỉ là một sai lầm hoặc sai sót để che đậy sự thật. Họ sẽ không thừa nhận một chút nào rằng mình đã đi ngược lại lẽ thật hay bộc lộ tâm tính bại hoại. Bất kể đã mắc sai lầm nào, bộc lộ tâm tính bại hoại nào, hay nảy sinh bao nhiêu tình trạng bại hoại, họ vẫn không bao giờ ý thức được những tâm tính bại hoại mình đã bộc lộ thực sự là gì, càng không ý thức được thực chất bại hoại của họ là gì. Họ cũng chẳng biết cách tìm kiếm lẽ thật hay cách biết mình trong chuyện này. Họ không biết gì về những điều này. Linh của họ đã tê liệt và không hề có một chút cảm giác nào về những việc này. Đây là biểu hiện của tố chất kém.
Hãy cùng đưa vào một số ví dụ để thông công một chút về cách đánh giá tố chất của con người. Chẳng hạn như Ta phán một số người lề mề và qua loa chiếu lệ khi làm việc. Người có tố chất tốt mà nghe thấy thế thì sẽ lập tức nhận ra rằng tình trạng này là điều họ cũng có, họ thường có tình trạng và thái độ như thế khi cảm thấy không khỏe trong người hoặc khi tiêu cực, lười biếng. Ngoài ra, một số hình ảnh sẽ thoáng qua trong tâm trí họ về những lúc họ lề mề hoặc qua loa chiếu lệ trong một số chuyện. Họ sẽ đối chiếu và thừa nhận rằng những gì Đức Chúa Trời vạch trần là tình hình thực tế về sự bại hoại của con người và liên quan đến tâm tính bại hoại của con người. Họ cũng sẽ thừa nhận rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và có thể lĩnh hội lời Ngài một cách thuần khiết mà không có những hiểu lầm hay quan niệm riêng. Đây chính là có tố chất tốt. Sau khi nghe những lời này, phản ứng đầu tiên của họ sẽ là đối chiếu với bản thân. Họ có thể ý thức rằng đây là tình trạng họ cũng có, và họ sẽ liên hệ những lời này của Đức Chúa Trời với tình trạng và cuộc sống thường ngày của chính mình. Sau đó, họ sẽ phản tỉnh, nhìn rõ tình trạng này của mình và có thể tiếp nhận rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật. Đây là cách người có tố chất tốt phản ứng khi nghe lời Đức Chúa Trời. Đối với người có tố chất trung bình, ngươi không thể chỉ nói “lề mề” và “qua loa chiếu lệ” được. Ngươi phải trực tiếp chỉ ra cho họ bằng cách vạch trần những biểu hiện của họ và kết hợp với những việc họ làm, ngươi nói: “Anh thường xuyên hồ đồ và không nghiêm túc. Khi thực hiện bổn phận như thế này, anh chỉ đang qua loa chiếu lệ. Làm sao anh lại không cảm nhận được điều này chứ? Tôi đã nói với anh bao nhiêu lần rồi? Đây gọi là qua loa chiếu lệ và lề mề”. Hãy chỉ ra cho họ như vậy. Họ nghe xong thì nên phản tỉnh mình làm lề mề và qua loa chiếu lệ như thế nào. Sau khi thực sự phản tỉnh và nhận thức được điều đó, họ sẽ thừa nhận sai lầm và có thể sửa đổi. Tuy nhiên, điều họ có thể nhận thức được là một chuyện cố định, một tình trạng cố định. Họ chỉ có thể tiếp nhận và thừa nhận những gì ngươi nói nếu nó phù hợp với tưởng tượng của chính họ. Đây gọi là tố chất trung bình. Làm công tác với người có tố chất trung bình thì phải bỏ công sức, và chỉ khi nói chuyện dựa trên sự thật, ngươi mới có thể khiến họ tâm phục khẩu phục. Tình trạng của người có tố chất kém là gì? Nên đối đãi với họ như thế nào? Người có tố chất kém thì đầu óc khiếm khuyết, tư tưởng đơn giản. Gặp chuyện gì, họ cũng không thể nhìn thấu được, cũng không tìm kiếm lẽ thật. Nếu không nói với họ mọi thứ một cách rõ ràng, thẳng thắn, họ sẽ không thể tự mình nghĩ ra những chuyện đó. Vì thế, khi nói chuyện với người có tố chất kém, ngươi phải nói rõ ràng, thẳng thắn hơn, còn phải cho ví dụ. Ngươi phải nói dựa trên sự thật, và lặp đi lặp lại nhiều lần. Đó là cách duy nhất để lời ngươi có thể có chút hiệu quả. Ngươi phải nói như thế này: “Khi thực hiện bổn phận như thế này là anh chỉ đang làm lề mề và qua loa chiếu lệ!”. Phản ứng đầu tiên của họ sẽ là gì? “Tôi ư? Tôi mà lề mề ư? Buổi sáng vừa thức dậy là tôi bắt đầu suy nghĩ về những việc liên quan đến bổn phận của mình, và tôi làm tốt những việc đó trước tiên. Khi ra ngoài, tôi cũng nghĩ cách làm tốt những việc đó. Tôi đâu có làm lề mề hay qua loa chiếu lệ. Tôi đổ biết bao công sức cho những việc này mà!”. Phản ứng đầu tiên của họ sẽ là phủ nhận những gì ngươi nói. Họ không ý thức được, và về cơ bản, họ không ý thức được rằng mình đang thực hiện bổn phận qua loa chiếu lệ và lề mề. Sau đó, ngươi sẽ phải giải thích với họ những biểu hiện của lề mề và qua loa chiếu lệ là gì, phải nói sao cho họ thực sự tâm phục khẩu phục thì họ mới tiếp nhận lời ngươi. Họ không dễ thừa nhận mình làm chưa tốt hoặc mắc sai lầm trong những việc bên ngoài. Nếu chuyện gì đó liên quan đến lẽ thật, các nguyên tắc thực hành hoặc tâm tính Đức Chúa Trời, thì người có tố chất kém càng khó với tới. Ngươi nói cái gì họ cũng không hiểu, và ngươi càng nói, họ càng cảm thấy rối bời, tối tăm, và không sẵn lòng nghe nữa. Đây là người có tố chất quá kém; đây là biểu hiện của việc họ không thể với tới lẽ thật. Đối với người có tố chất kém, dù ngươi có thông công về lẽ thật thế nào đi nữa cũng vô ích. Ngươi có nói thế nào, họ cũng không thể hiểu được. Cùng lắm, họ chỉ có thể hiểu được chút đạo lý và quy định. Vì vậy, với những người có tố chất quá kém thì không cần thông công quá chi tiết về lẽ thật. Chỉ cần đơn giản bảo họ phải làm gì, và nếu họ có thể tuân thủ như vậy là đã tốt lắm rồi. Người có tố chất quá kém thì không có bất kỳ năng lực lĩnh hội nào, thậm chí họ sẽ không bao giờ có thể hiểu được lẽ thật, càng không thể yêu cầu họ đạt đến làm theo nguyên tắc. Nếu có chuyện xảy ra ngay trước mắt những người này và ngươi nói cặn kẽ từ A đến Z cho họ, thì họ vẫn không sao đối chiếu với bản thân được. Đây gọi là tố chất kém. Chẳng hạn như về việc nói dối, hãy xem người có tố chất tốt phản ứng thế nào. Khi nghe người khác nói về cách họ đối phó và giải quyết tình trạng nói dối và lừa dối của mình, nói về những tình trạng nói dối của họ và cho ví dụ, thì người có tố chất tốt sẽ phản tỉnh và đối chiếu những gì mình nghe được với tình trạng của chính mình. Sau đó, họ sẽ có thể nhận ra mình nói dối trong những chuyện gì, và trong khi hành động như vậy, họ có những ý định nào. Dựa trên những bộc lộ trong cuộc sống thường ngày của mình, thông qua việc kiểm điểm những ý định, động cơ và tâm tư của mình, người có tố chất tốt sẽ có thể phát hiện được những lời nào của họ là nói dối, những lời nào chứa đựng sự giả dối. Khi nghe chứng ngôn trải nghiệm của người khác, họ có thể được lợi ích và thu hoạch. Ngay cả khi ngươi chỉ nói về một vài nguyên tắc, họ đều có thể hiểu được và học cách vận dụng. Sau đó, họ sẽ xem những lời này là nguyên tắc lẽ thật, biến chúng thành thực tế của chính mình, và từng chút thay đổi bản thân. Người có tố chất trung bình mà nghe chứng ngôn trải nghiệm của người khác thì sẽ có thể đối chiếu những chuyện dễ thấy với bản thân mình, nhưng với những chuyện không rõ ràng và chưa biểu đạt nơi sâu thẳm nội tâm thì họ không đối chiếu được. Ngoài ra, sự lĩnh hội các nguyên tắc lẽ thật của họ cũng hơi nông cạn hơn, giống như đạo lý. Trình độ lĩnh hội của họ kém hơn nhiều so với người có tố chất tốt. Đối với người có tố chất kém, khi nghe chứng ngôn của người khác, dù người khác có mổ xẻ kỹ càng đâu là nói dối và nói suông, đâu là tình trạng giả dối, thì họ cũng sẽ không thể đối chiếu được với bản thân mình, cũng không biết phản tỉnh hay biết mình. Những người này không những không nhận ra được tình trạng nói dối và giả dối của chính mình, mà thậm chí còn nghĩ rằng mình là người rất trung thực, không biết nói dối. Ngay cả khi bị người khác nói dối và lừa dối, họ cũng không thể phân định được và dễ dàng bị lừa. Họ càng không thể với tới các nguyên tắc lẽ thật mà người khác thông công. Họ không hề có chút năng lực lĩnh hội nào. Đây chính là biểu hiện của tố chất kém.
Trong ba loại người với ba loại tố chất mà chúng ta vừa đề cập, loại người nào có thể đạt đến biến đổi tâm tính? Loại người nào có thể bước vào thực tế lẽ thật? (Thưa, người có tố chất tốt.) Người có tố chất tốt có thể bước vào thực tế lẽ thật nhanh hơn và sâu hơn một chút. Người có tố chất trung bình bước vào chậm hơn và nông hơn. Người có tố chất kém thì căn bản không thể bước vào. Đây là sự khác biệt. Ngươi có thể thấy được sự khác biệt giữa các loại người này chưa? (Thưa, rồi.) Sự khác biệt nằm ở đâu? Sự khác biệt nằm ở tố chất và thái độ của họ đối với lẽ thật. Người yêu thích lẽ thật và có tố chất tốt thì có thể nhanh chóng bước vào thực tế lẽ thật và có thể đạt được sự sống. Người có tố chất trung bình thì ngoan cố và tê liệt. Họ bước vào lẽ thật chậm và cũng chậm tiến bộ trong sự sống. Người có tố chất kém thì không chỉ ngu muội ngoan cố và kiêu ngạo, mà còn ngu độn, vẻ mặt vô hồn, đờ đẫn; trong linh thì tê liệt, phản ứng chậm chạp và lĩnh hội lẽ thật cũng chậm chạp. Những người như thế không có sự sống, vì họ không hiểu lẽ thật, lúc nào cũng nói đạo lý, hô khẩu hiệu và tuân thủ quy định. Vì không hiểu lẽ thật nên họ không thể bước vào thực tế lẽ thật. Có sự sống trong những người không thể bước vào thực tế lẽ thật không? Họ không có sự sống. Người không có sự sống mà gặp chuyện thì mù quáng làm theo ý mình, nghiêng bên này ngả bên kia, không có con đường thực hành chính xác và luôn cảm thấy hoang mang, bất lực. Trông họ rõ ràng rất đáng thương. Trong những năm qua, Ta thường xuyên nghe một số người nói khi gặp chuyện thì cứ hoang mang. Họ nghe giảng đạo nhiều như vậy rồi mà sao vẫn cứ hoang mang? Biểu cảm của họ cho thấy họ thực sự hoang mang. Gương mặt họ tê dại, đờ đẫn. Một số người nói: “Làm sao có thể gọi tôi là tê liệt được? Tôi rất nhạy cảm với những gì thịnh hành trên thế giới. Tôi biết cách sử dụng đủ loại máy tính, điện thoại di động và máy chơi game. Các anh chị mới ngốc, không biết dùng. Sao tố chất của các anh chị lại kém vậy chứ?”. Nhưng chút khôn lỏi của họ chỉ là một sở trường, một chút tinh ranh – không được tính là tố chất. Nếu ngươi bảo những người này nghe giảng đạo hoặc thông công về lẽ thật, thì họ sẽ lộ ra: trong linh của họ vô cùng tê liệt. Họ tê liệt đến mức nào? Đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm mà về chuyện mình có được cứu rỗi hay không, họ vẫn không chắc chắn và không thể đánh giá được, cũng chẳng rõ mình là loại người nào. Nếu ngươi hỏi họ nghĩ gì về tố chất của mình, họ sẽ nói: “Tố chất của tôi, so với tố chất tốt thì hơi kém, nhưng hơn xa tố chất trung bình”. Điều đó cho thấy tố chất của họ kém đến mức nào. Chẳng phải như thế là hơi ngu ngốc sao? Người có tố chất quá kém thì bộc lộ kiểu ngu ngốc này. Dù là chuyện gì, hễ liên quan đến lẽ thật hay các nguyên tắc lẽ thật, là họ sẽ không hiểu gì và không với tới được chút gì. Đó chính là có tố chất kém.
Bây giờ thông công xong về những điều này, các ngươi đã có thể đánh giá được tố chất tốt là gì, tố chất kém là gì chưa? Hiểu được tố chất tốt là gì, tố chất kém là gì, cũng như thấy rõ tố chất và thực chất bản tính của mình thì sẽ có ích cho việc biết mình. Một khi nắm bắt rõ về vị trí của bản thân thì sẽ có chút lý trí và biết giới hạn của mình, sẽ không dễ trở nên kiêu ngạo, và khi thực hiện bổn phận, ngươi sẽ vững vàng, an tâm hơn. Ngươi sẽ không cố với những chuyện quá cao xa và ngươi sẽ có thể chuyên tâm vào việc chính của mình. Khi con người không biết mình sẽ sinh ra rất nhiều phiền toái. Phiền toái kiểu gì? Mặc dù tố chất của họ rõ ràng là trung bình, nhưng họ luôn nghĩ rằng mình có tố chất tốt, giỏi hơn người khác. Trong lòng họ luôn có thôi thúc và luôn muốn làm lãnh đạo, dẫn dắt người khác. Lòng họ luôn có những thứ đó thì có ảnh hưởng đến việc thực hiện bổn phận của họ không? Họ luôn bị những điều này quấy nhiễu, trong lòng không yên, và họ không thể an tĩnh được. Họ không những không thể thực hiện tốt bổn phận của mình, mà còn làm một số chuyện ngu muội, đáng xấu hổ và một số chuyện thiếu lý trí bị Đức Chúa Trời ghê tởm. Họ có những vấn đề nghiêm trọng như vậy – nếu cứ để đó không giải quyết thì có được không? Chắc chắn là không được, những người này phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng. Trước hết, họ phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời và phản tỉnh tại sao mình lại có những tư tưởng như vậy, tại sao mình lại có dã tâm lớn như vậy và những điều này xuất phát từ đâu. Nếu chỉ suy ngẫm đơn giản về chúng, liệu họ có thể nhìn thấu thực chất của vấn đề được không? Tuyệt đối không thể. Họ phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời và đọc lời Đức Chúa Trời để tìm ra căn nguyên của vấn đề – chỉ khi đó họ mới dễ dàng giải quyết. Chỉ khi họ giải quyết được những tâm tính bại hoại của mình, thì mới có thể loại bỏ được dã tâm và dục vọng. Như vậy, họ mới có thể thực hiện bổn phận một cách thực tế, và có trách nhiệm hơn nhiều; họ sẽ không còn dương nanh múa vuốt, nghĩ không ai bằng mình, hoặc cư xử trịch thượng, và họ sẽ không cảm thấy mình khác người thường. Những tâm tính bại hoại này sẽ không còn quấy nhiễu được họ nữa, và họ sẽ trở nên trưởng thành hơn nhiều. Ít nhất họ cũng sẽ có thể thống của thánh đồ, đoan trang đứng đắn. Chỉ như vậy, họ mới có thể bảo đảm mình sống trước Đức Chúa Trời. Khi con người tin Đức Chúa Trời và đến nhà Đức Chúa Trời, ít nhất họ phải có lương tâm và lý trí thì mới có thể tiếp nhận lẽ thật. Nếu giống như người ngoại đạo, như con thú hoang chưa thuần hóa, thì sẽ không có cách nào đến trước Đức Chúa Trời. Có những người nói: “Đến trước Đức Chúa Trời có gì mà khó thế? Tôi thường xuyên đến trước Đức Chúa Trời đây này”. Đến trước Đức Chúa Trời không phải là chuyện đơn giản. Phải có tâm thái đúng đắn và lòng thuận phục Đức Chúa Trời thì mới có thể được Đức Chúa Trời chấp thuận. Nếu người giống như súc sinh đến trước Đức Chúa Trời, thì chắc chắn sẽ bị Đức Chúa Trời khinh bỉ và ghê tởm. Cho nên, đến trước Đức Chúa Trời không phải là điều có thể đạt được bằng mong muốn đơn phương của con người, không phải chỉ vì ngươi muốn đến trước Đức Chúa Trời thì Ngài sẽ thừa nhận ngươi đã đến trước Ngài. Quyền quyết định trong việc này nằm trong tay Đức Chúa Trời. Ngươi chỉ đến trước Đức Chúa Trời khi Đức Chúa Trời thừa nhận ngươi. Chỉ khi có ý định đúng đắn, có thể tìm kiếm lẽ thật và thường xuyên cầu nguyện với Đức Chúa Trời, ngươi mới có thể nhận được sự khai sáng của Đức Thánh Linh. Chỉ khi đó, ngươi mới thực sự đến trước Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời phán ngươi là tiểu dân vô tri, thú hoang chưa thuần hóa, liệu Ngài có để ý gì đến ngươi không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời sẽ không để ý gì đến ngươi, Ngài sẽ chỉ ban cho ngươi những thứ bề nổi như là chút ân điển và vài phúc lành. Nói theo nghĩa thực tế, ngươi căn bản không thể thực sự đến gần Đức Chúa Trời hoặc đến trước Ngài được. Vì vậy, trước khi được Đức Chúa Trời công nhận là người đi theo Ngài, ngươi phải có một số biến đổi để đạt đến tầm được Đức Chúa Trời công nhận là người nhà Ngài. Chỉ khi đó, Đức Chúa Trời mới bắt đầu kiểm nghiệm bổn phận của ngươi, kiểm nghiệm từng lời nói việc làm, từng suy nghĩ tư tưởng của ngươi, khi đó Đức Chúa Trời mới bắt đầu làm công tác trên ngươi. Trước khi bước qua cửa nhà Đức Chúa Trời, một số hành vi và biểu hiện, sự bộc lộ nhân tính, cách làm, tâm tư ý niệm, cũng như thái độ với Đức Chúa Trời của con người, đều bị Đức Chúa Trời ác cảm và ghê tởm. Với những người mà Đức Chúa Trời ác cảm và ghê tởm, liệu Ngài có nắm tay dẫn họ qua cửa nhà Ngài không? (Thưa, không.) Vậy thì tại sao một số người như thế này lại cảm thấy vui thích đến vậy, hạnh phúc đến vậy? Cảm xúc này đến từ đâu? Từ sự giả vờ. Chẳng phải như thế là hơi thiếu lý trí sao? (Thưa, phải.) Đức Chúa Trời – Đấng Tạo Hóa – hoàn toàn có những tiêu chuẩn để chọn người đi theo Ngài. Con người chỉ tin thôi thì chưa đủ. Đức Chúa Trời thích những người trung thực, và Đức Chúa Trời chúc phúc cho những người thật lòng dâng mình cho Ngài. Đức Chúa Trời sử dụng những người có thể tôn cao và làm chứng cho Ngài. Tiêu chuẩn nhìn người của Đức Chúa Trời thì khác với tiêu chuẩn nhìn người của con người. Khi chọn bạn để giao du, ngươi phải xem xét nhân phẩm của họ, liệu họ có phù hợp với tâm tư của ngươi không, tính cách họ thế nào, liệu họ có chung sở thích với ngươi không, tướng mạo của họ như thế nào. Đến ngươi còn có tiêu chuẩn khi chọn người, nói gì Đức Chúa Trời? Có những người nói: “Đức Chúa Trời sử dụng tiêu chuẩn nào để chọn người? Tiếp cận Đức Chúa Trời khó như vậy sao? Con người đến trước Đức Chúa Trời và bước vào nhà Đức Chúa Trời khó như vậy sao?”. Thực ra cũng không khó, ngưỡng cửa không cao, nhưng có những tiêu chuẩn. Đầu tiên, ít nhất con người cũng phải có thái độ mộ đạo và tâm thái biết thân biết phận. Ngoài ra, họ phải đối đãi Đức Chúa Trời với tấm lòng trung thực và đơn thuần. Ngoài ra, họ phải nói năng và làm việc, phải có lời nói cử chỉ hợp với thể thống của thánh đồ, và ít nhất cũng phải có chút lời nói và việc làm tốt, có quy củ và giáo dưỡng. Nếu ngươi thậm chí còn không đáp ứng được những điều kiện cơ bản này, thì nói thật với ngươi, Đức Chúa Trời sẽ không hề để ý gì đến ngươi. Ngươi có biết chuyện này là sao không? Có những người tin Đức Chúa Trời, nhìn vào những gì họ làm, những gì họ biểu hiện và bộc lộ, tại sao Đức Chúa Trời lại ác cảm và ghê tởm họ như vậy? Đó là bởi vì những người này không có nhân tính, không có lương tâm và lý trí, thậm chí còn không có thể thống của thánh đồ tối thiểu nhất, cơ bản nhất. Những người như thế này muốn được Đức Chúa Trời dắt tay qua cửa nhà Ngài, nhưng đó là chuyện không thể có. Chỉ có người ngu ngốc mới rao truyền phúc âm cho những kẻ vô nhân tính như thế này. Có những người trang điểm đậm và ăn mặc hở hang trong cuộc sống thường ngày. Họ thậm chí còn ăn mặc quyến rũ hơn cả vũ nữ trong dân ngoại đạo. Trong đời tư và cách hành xử của họ, ngươi không thể thấy họ có gì khác với người ngoại đạo. Khi họ ở giữa các anh chị em, trông họ rõ ràng như người ngoại đạo và người không tin. Những người như thế bên ngoài có thể trông như người thực sự tin Đức Chúa Trời, cũng đã từ bỏ mọi thứ, cũng có khả năng thực hiện bổn phận, cũng không lùi bước trước sự bức hại và hoạn nạn, nhưng liệu những người như thế có thể tiếp nhận lẽ thật không? Họ có thể tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời được không? Dựa trên những gì họ sống thể hiện ra, thì họ có phải là người đoan trang, đứng đắn không? Họ có phải là người trung thực không? Họ có phải là người yêu thích lẽ thật không? Họ có phải là người thật lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời không? Đức Chúa Trời có muốn những người như thế này không? Tuyệt đối không. Đây là những người ngoại đạo đã lẻn vào nhà Đức Chúa Trời. Họ ở ngoài cửa nhà Đức Chúa Trời và chưa vào được. Những điều họ làm cho nhà Đức Chúa Trời là trợ giúp và ra sức – những người này là bạn của hội thánh, nhưng không phải là người trong nhà Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không muốn người ngoại đạo hoặc thú hoang. Lại có những người, dựa trên nền tảng nhiều năm tin Đức Chúa Trời, chút vốn liếng họ sở hữu và những bổn phận quan trọng họ từng thực hiện trước đây trong nhà Đức Chúa Trời, lại khoa tay múa chân, muốn kiểm soát hội thánh và nắm mọi quyền hành. Thái độ của những người này đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật khiến Đức Chúa Trời ghê tởm. Dựa trên thực chất của họ và những gì tồn tại trong sâu thẳm nội tâm họ, Đức Chúa Trời không thừa nhận những người như thế là người nhà Ngài. Vì Đức Chúa Trời không thừa nhận những người như thế là người nhà Ngài, vậy tại sao Đức Chúa Trời lại cho phép họ làm việc trong nhà Ngài? Đức Chúa Trời cho phép họ phụ giúp hoặc làm cộng tác viên. Trong quá trình phụ giúp và làm cộng tác viên, nếu họ thực sự có lương tâm và lý trí, nếu họ có thể nghe lời, thuận phục và tiếp nhận lẽ thật, nếu họ có thể thống của thánh đồ và chút lòng kính sợ Đức Chúa Trời, cũng như làm việc với lòng thành, nếu họ vượt qua những khảo nghiệm này, thì Đức Chúa Trời sẽ dẫn họ vào nhà Ngài, và họ sẽ trở thành người nhà Đức Chúa Trời. Lúc này, việc họ làm và những gì Đức Chúa Trời giao phó cho họ mới là bổn phận của họ. Những gì con người làm bên ngoài cửa nhà Đức Chúa Trời không phải là thực hiện bổn phận, mà là làm việc và trợ giúp cho nhà Đức Chúa Trời, và những người này chỉ là người đem sức lực phục vụ.
Bây giờ, các ngươi đã có thể đánh giá được liệu mình có phải là người nhà Đức Chúa Trời hay không chưa? Nếu chiếu theo thời gian tin Đức Chúa Trời ngắn hay dài thì ngươi thấy mình nên là người nhà Ngài, nhưng đây có phải là cách đánh giá chuẩn xác không? (Thưa, không.) Ngươi nên căn cứ vào điều gì để đánh giá? Là căn cứ vào việc khi nghe lẽ thật, liệu trong ngươi có bất kỳ phản ứng nào không, và khi đi ngược lại lẽ thật hoặc chống đối và phản nghịch Đức Chúa Trời, liệu ngươi có cảm thấy tội lỗi, bị khiển trách và sửa dạy trong sâu thẳm nội tâm hay không. Có những người nói lời xét đoán và bị sửa dạy bằng cách cho họ bị đau nhức miệng; lại có những người làm việc qua loa chiếu lệ, không xem trọng mọi việc, nên bị Đức Chúa Trời cho mắc bệnh. Khi nói đến những điều này, nếu trong sâu thẳm nội tâm họ biết ăn năn, có thể hối cải – nếu họ có những biểu hiện này – thì họ là người nhà Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời xem những người này là người nhà Đức Chúa Trời, đối đãi với họ như người nhà. Ngài sửa phạt, sửa dạy, khiển trách và tỉa sửa họ – là người nhà Đức Chúa Trời có nghĩa là vậy. Khi thái độ của ngươi đối với Đức Chúa Trời thay đổi và ngươi có thể hối cải, thì Đức Chúa Trời cũng sẽ thay đổi thái độ của Ngài đối với ngươi. Khi ngươi có lối vào sự sống, và quan điểm nhìn nhận mọi sự cũng như phương hướng cuộc đời của ngươi đã có chút chuyển biến, đồng thời đức tin và lòng kính sợ Đức Chúa Trời nơi sâu thẳm nội tâm ngươi đã dần dần phát triển và biến đổi, thì ngươi đã trở thành người nhà Đức Chúa Trời. Có những người, đã tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm, nhưng chưa làm được nhiều điều ích lợi cho nhà Đức Chúa Trời. Trên thực tế, họ còn làm không ít việc xấu. Họ đã nói dối, lừa gạt, làm qua loa chiếu lệ, chuyên quyền, độc đoán, ăn cắp của lễ, gieo rắc bất hòa, gây nhiễu loạn và gián đoạn, cũng như phá hoại công tác của hội thánh. Họ đã làm nhiều điều sai trái, nhưng không bao giờ cảm thấy dằn vặt. Lòng họ không cảm thấy ăn năn, và họ không có chút cảm giác tội lỗi nào. Đó chính là những người đứng ngoài cửa nhà Đức Chúa Trời. Những người kiểu này luôn sống ngoài cửa nhà Đức Chúa Trời. Họ làm gì cũng không có nguyên tắc và không hứng thú với lời Đức Chúa Trời hay lẽ thật. Họ chỉ chăm chăm làm việc, bôn ba, ra sức, phô bày bản thân và tích lũy vốn liếng cá nhân. Đối với công tác của hội thánh và bổn phận của mình, họ làm qua loa chiếu lệ; đối với Đức Chúa Trời, họ nói dối, lừa gạt, thậm chí còn mê hoặc và khống chế anh chị em. Họ không hề cảm thấy chút dằn vặt hay ăn năn nào, và họ cũng chẳng cảm nhận được sự sửa dạy của Đức Chúa Trời. Những người này không phải là người nhà Đức Chúa Trời. Bề ngoài, loại người này tỏ ra rất hăng hái trong việc bôn ba và dâng mình; họ giàu đức tin và sẵn lòng dâng mình. Có vẻ như họ rất yêu thích lẽ thật, rất yêu kính Đức Chúa Trời và sẵn lòng thực hành lẽ thật. Tuy nhiên, hễ nghe giảng, họ lại ngủ gật, không thể ngồi yên và cảm thấy ác cảm. Trong lòng, họ nghĩ: “Chẳng phải thông công về những điều này chỉ là chỉ ra những tình trạng của mọi người, bảo mọi người phải biết mình, rồi giúp họ hiểu được chút lẽ thật và cuối cùng đạt đến thuận phục sao? Mọi thứ này mình hiểu cả rồi, vậy sao cứ phải thông công lại làm gì?”. Những người này không hề yêu thích lẽ thật, ngay cả khi như thế này mà họ cũng không cảm thấy dằn vặt và không nhận được sự sửa dạy nào, như thể họ không có trái tim vậy. Những người này đều ở bên ngoài nhà Đức Chúa Trời, đều là người ngoại đạo. Từ lúc mới tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời cho đến ngày hôm nay, họ chưa bao giờ thực sự thừa nhận mình là loài thọ tạo và Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa của họ. Họ không tiếp nhận lẽ thật một chút nào, cũng không sẵn lòng thực hiện bổn phận. Tuy nhiên, do có chút khôn lỏi và chút nhiệt tình, kết hợp với dã tâm, nên họ chú trọng bôn ba khắp nơi và làm công tác để được mọi người xem trọng, tất cả là để tạo dựng vị trí cho chính mình trong nhà Đức Chúa Trời. Họ cho rằng: “Bằng cách làm những việc này và bôn ba như thế này, mình đã thiết lập được uy thế và có uy tín ở nhiều nơi. Mình đã đảm bảo được vị trí trong hội thánh, và đi đâu cũng được các anh chị em xem trọng. Có danh vọng như vậy giữa các anh chị em là đủ rồi; như thế nghĩa là mình có sự sống. Còn về việc Đức Chúa Trời định nghĩa như thế nào thì không cần phải nghiêm túc làm gì”. Đây là loại người gì? Nói nghiêm khắc thì họ là người không tin. Căn cứ vào đâu mà nói như vậy? Căn cứ vào thái độ của họ đối với lẽ thật và đối với Đức Chúa Trời. Họ chưa bao giờ hối cải, chưa bao giờ biết mình và chưa bao giờ biết thuận phục Đức Chúa Trời là gì. Thay vào đó, họ muốn gì làm nấy, lấy danh nghĩa thực hiện bổn phận mà làm việc kinh doanh của cá nhân, và thỏa mãn những dục vọng, sở thích của bản thân. Họ đã tin Đức Chúa Trời trong bao nhiêu năm như thế, đã nghe bao nhiêu bài giảng như thế, nhưng vẫn không có khái niệm gì về lẽ thật, và không có khái niệm gì về chuyện tin Đức Chúa Trời thì phải thực hành lẽ thật. Họ nghe bao nhiêu bài giảng đạo như thế mà vẫn không hiểu thực sự đạo này là gì. Trong sâu thẳm nội tâm, họ không cảm thấy con người quá sức bại hoại và cần được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Trong sâu thẳm nội tâm, họ cũng không có lòng khao khát và mong cầu thực sự đối với lẽ thật và Đức Chúa Trời. Như vậy chẳng phải là phiền phức rồi sao? (Thưa, phải.) Như vậy là quá phiền phức rồi. Đối với họ, thì Đức Chúa Trời, lẽ thật và sự cứu rỗi chỉ là những lời nói, chỉ là một dạng luận điệu hoặc khẩu hiệu. Như vậy là rất phiền phức rồi.
Các ngươi thấy đâu là sự khác biệt rõ ràng nhất giữa Phao-lô và Phi-e-rơ? Phao-lô đã công tác trong nhiều năm, bôn ba, dâng mình, cống hiến và chịu nhiều khổ cực, nhưng con đường ông đi không liên quan đến lẽ thật, không liên quan đến việc thuận phục Đức Chúa Trời, không liên quan đến việc biến đổi tâm tính, càng không liên quan đến việc được cứu rỗi. Vì thế, bất kể danh tiếng của Phao-lô cao đến đâu, bất kể các bài viết của ông đã ảnh hưởng đến hậu thế như thế nào, thì ông cũng không phải là người thực sự yêu kính Đức Chúa Jêsus. Ông không có nhận thức thực sự về Đức Chúa Jêsus, ông không thừa nhận Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời thật duy nhất, mà chỉ công nhận Đức Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời, là một người bình thường. Vì thế mà ông không có sự thuận phục thực sự đối với Đức Chúa Jêsus; ông chỉ dốc hết sức mình để rao truyền phúc âm và đưa được người ta về, thiết lập các hội thánh và đích thân chăn dắt họ, với hy vọng được Đức Chúa Trời khen ngợi. Nhưng Đức Chúa Trời đã dò xét nội tâm Phao-lô và không khen ngợi ông. Ngược lại, Phi-e-rơ làm mọi việc trong thầm lặng, và lòng ông luôn tràn ngập những điều Đức Chúa Jêsus phán với ông. Ông mưu cầu việc yêu kính và hiểu Đức Chúa Trời theo yêu cầu của Đức Chúa Jêsus. Trong thời gian này, ông đã tiếp nhận sự khiển trách, tỉa sửa và thậm chí trách mắng của Đức Chúa Trời. Những lời Đức Chúa Trời dùng để trách mắng Phi-e-rơ là gì? (Thưa, “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau Ta!” (Ma-thi-ơ 16:23).) Đúng vậy, “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau Ta!”. Đức Chúa Trời đã phán những lời như thế, nhưng những lời này không phải để quyết định kết cục của Phi-e-rơ, mà chỉ là sự trách mắng. Đức Chúa Trời có trách mắng Phao-lô trong quá trình công tác của ông không? (Thưa, không.) Một mặt, từ góc độ nhân tố chủ quan, Đức Chúa Trời không trách mắng ông. Mặt khác, từ góc độ nhân tố khách quan, Phao-lô hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật, không tìm kiếm lẽ thật và không tìm kiếm con đường được cứu rỗi, nên ông không thể tiếp nhận hoặc lĩnh hội những điều này. Công tác mà Đức Chúa Trời làm trên ông là dùng sự phục vụ của ông – nếu ông có thể đem sức lực phục vụ cho đến cùng mà không phạm bất kỳ việc đại ác nào, thì ông có thể ở lại như một người đem sức lực phục vụ, nhưng nếu ông phạm bất kỳ việc đại ác nào, thì kết cục sẽ khác. Đó chính là sự khác biệt. Mặt khác, Phi-e-rơ nhận được nhiều sự sửa dạy, sửa phạt và trách mắng từ Đức Chúa Trời. Nhìn bên ngoài, có vẻ như Phi-e-rơ không hợp tâm ý của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời không thích ông, nhưng nhìn từ góc độ tâm ý Đức Chúa Trời, thì một người như vậy đích thị là người mà Ngài muốn và hài lòng. Đó là lý do tại sao Đức Chúa Trời không ngừng sửa phạt và tỉa sửa ông, để ông từng chút trưởng thành, bước vào lẽ thật và hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời, cuối cùng có thể đạt đến thuận phục thực sự và biến đổi thực sự. Đây chính là tình yêu thương của Đức Chúa Trời và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Bây giờ, trong lòng các ngươi đã rõ liệu mình có phải là người nhà Đức Chúa Trời hay không chưa? Các ngươi đã thực sự bước vào nhà Đức Chúa Trời chưa? Dựa trên những gì Ta vừa thông công, các ngươi có thể đánh giá được điều này không? Các ngươi có thể biết chắc mình đã bước vào cửa nhà Đức Chúa Trời và là một thành viên trong nhà Đức Chúa Trời không? (Thưa, chúng con có thể biết chắc.) Các ngươi có thể biết chắc thì tốt. Nó chứng tỏ đức tin nơi Đức Chúa Trời của các ngươi đã có nền tảng rồi và các ngươi đã bén rễ trong nhà Đức Chúa Trời. Những người không có nền tảng thì ở bên ngoài nhà Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời không thừa nhận họ. Nếu ngươi làm chứng cho Đức Chúa Trời và nói với người khác rằng mình là người đi theo Đức Chúa Trời, là thành viên của Hội thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng, nhưng Đức Chúa Trời lại phán Ngài không biết ngươi, thì sao? Vậy thì phiền phức rồi, phải không? Đối với con người, đó sẽ là phúc hay họa? Nó không phải là một điềm lành. Vì thế, nếu ngươi muốn được Đức Chúa Trời khen ngợi và phán rằng ngươi là người thật lòng tin Đức Chúa Trời, thì ngươi phải làm chút việc có lợi cho công tác của nhà Đức Chúa Trời, chuẩn bị chút việc lành, hướng lòng tới Đức Chúa Trời và có lòng tôn Đức Chúa Trời là vĩ đại. Chỉ khi đó, Đức Chúa Trời mới thừa nhận ngươi. Đầu tiên, ngươi phải thay đổi những sai lầm trong quan điểm, thái độ và cách làm của mình đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật, cũng như con đường sai lầm mình đã đi. Phải thay đổi những điều này. Đây là nền tảng. Sau đó, ngươi phải tiếp nhận mọi lẽ thật do Đức Chúa Trời bày tỏ và thực hiện bổn phận của mình như Đức Chúa Trời yêu cầu. Khi những điều này đạt được, Đức Chúa Trời sẽ hài lòng và Ngài sẽ thừa nhận ngươi là người đi theo Ngài. Thứ hai, ngươi phải dần dần để Đức Chúa Trời thừa nhận ngươi là loài thọ tạo chân chính, là loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn. Nếu ngươi vẫn ở bên ngoài nhà Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời chưa thừa nhận ngươi là người nhà Ngài, nhưng ngươi lại nói ngươi muốn đạt đến được cứu rỗi, thì đó chẳng phải chỉ là mơ mộng của kẻ ngu sao? Hiện nay các ngươi đã trải qua chút sửa phạt và sửa dạy, có ân điển và phúc lành của Đức Chúa Trời, đức tin nơi Đức Chúa Trời có nền tảng. Đó là chuyện tốt. Bước tiếp theo là có thể dựa trên việc hiểu lẽ thật mà đạt đến có lối vào sự sống, biến những lẽ thật này thành sự sống của chính mình và sống thể hiện ra chúng, vận dụng chúng khi thực hiện bổn phận và trong mọi việc Đức Chúa Trời giao phó. Như thế mới có hy vọng được cứu rỗi. Hầu hết các ngươi có tố chất không phải là kém, đều có thể được coi là ở mức trung bình về tố chất. Các ngươi có hy vọng được cứu rỗi, nhưng các ngươi đều có chút khuyết điểm và khiếm khuyết trong nhân tính. Có người thì lười biếng, có người thì khoác lác, có người thì cao ngạo, lại có người thì hơi trì độn, tê liệt và cương ngạnh. Đó là những vấn đề về tâm tính. Đối với một số vấn đề về nhân tính và tâm tính, ngươi phải tìm kiếm lẽ thật thông qua trải nghiệm, phản tỉnh và tiếp nhận sự tỉa sửa, như thế mới có thể từng bước thay đổi và có được trải nghiệm cũng như đi sâu trong việc lĩnh hội và hiểu lẽ thật. Như vậy, ngươi sẽ từng chút trưởng thành trong sự sống. Có sự sống là có hy vọng. Không có sự sống là không có hy vọng. Các ngươi hiện tại có sự sống không? Trong lòng có nhận thức, trải nghiệm và thể nghiệm lẽ thật không? Các ngươi thuận phục Đức Chúa Trời đến đâu và ở mức độ nào? Trong lòng, các ngươi phải rõ về những điều này. Nếu các ngươi không rõ, mà lại mơ hồ, thì sẽ khó có được sự tiến bộ trong sự sống.
Trong hội thánh, có những người nghĩ rằng ra sức cho nhiều hoặc làm vài việc mạo hiểm có nghĩa là họ có được công lao. Trên thực tế, dựa trên hành động của họ, thì họ quả thực đáng khen, nhưng tâm tính và thái độ của họ đối với lẽ thật lại khiến người ta ghê tởm và buồn nôn. Họ không yêu thích lẽ thật chút nào, mà lại chán ghét lẽ thật. Riêng điều này thôi đã khiến họ đáng buồn nôn rồi. Những người như thế vô giá trị. Khi Đức Chúa Trời thấy con người có tố chất kém, họ có một số thiếu sót nhất định, và có những tâm tính bại hoại hoặc thực chất chống đối Ngài, Ngài không ghê tởm họ, và không khiến họ tránh xa Ngài. Đó không phải là tâm ý của Đức Chúa Trời, và đó không phải là thái độ của Ngài đối với con người. Đức Chúa Trời không ghê tởm tố chất kém của con người, Ngài không ghê tởm sự ngu dốt của họ, và Ngài không ghê tởm việc họ có những tâm tính bại hoại. Đức Chúa Trời ghê tởm điều gì nhất ở con người? Đó là khi họ chán ghét lẽ thật. Nếu ngươi chán ghét lẽ thật, thì chỉ vì riêng điều đó thôi, Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ vui thích nơi ngươi. Điều này không gì có thể thay đổi được. Nếu ngươi chán ghét lẽ thật, nếu ngươi không yêu thích lẽ thật, nếu thái độ của ngươi đối với lẽ thật là lãnh đạm, khinh mạn và kiêu căng, hay thậm chí ác cảm, chống đối, và cự tuyệt – nếu ngươi có những hành vi này, thì Đức Chúa Trời hoàn toàn chán ghét ngươi, và ngươi chết chắc, không thể cứu được. Nếu ngươi thực sự yêu thích lẽ thật trong lòng mình, nhưng tố chất có phần kém cỏi, thiếu hiểu biết, và hơi ngu dốt; nếu ngươi thường phạm sai lầm nhưng không cố ý hành ác, và chỉ đơn thuần là làm vài việc ngu dại; nếu ngươi thực lòng muốn nghe sự thông công của Đức Chúa Trời về lẽ thật, và thực lòng khao khát lẽ thật; nếu thái độ của ngươi đối với lẽ thật và lời Đức Chúa Trời là chân thành và khao khát, và ngươi có thể coi trọng và trân quý lời Đức Chúa Trời – thế là đủ. Đức Chúa Trời thích những người như vậy. Mặc dù đôi lúc ngươi có thể hơi ngu dốt nhưng Đức Chúa Trời vẫn thích ngươi. Đức Chúa Trời quý tấm lòng của ngươi, tấm lòng khao khát lẽ thật, và Ngài yêu thái độ chân thành của ngươi đối với lẽ thật. Vì vậy, Đức Chúa Trời thương xót ngươi và ban ơn cho ngươi. Ngài không xét đến tố chất thấp kém hay sự ngu ngốc của ngươi, và Ngài cũng không xét đến những sự vi phạm của ngươi. Vì thái độ của ngươi đối với lẽ thật là thành khẩn và thiết tha, và tấm lòng ngươi là thật, thế thì vì nhìn vào tấm lòng thành và thái độ của ngươi, Ngài sẽ mãi luôn thương xót đối với ngươi, và Đức Thánh Linh sẽ công tác nơi ngươi, và ngươi sẽ có hy vọng được cứu rỗi. Mặt khác, nếu ngươi là người có lòng dạ chai đá và bê tha, nếu ngươi chán ghét lẽ thật, và không bao giờ chú ý đến lời Đức Chúa Trời và mọi thứ liên quan đến lẽ thật, và chống đối cũng như khinh bỉ từ tận đáy lòng, thì thái độ của Đức Chúa Trời đối với ngươi là gì? Ghê tởm, ác cảm, và thịnh nộ không ngừng. Hai đặc điểm nào được thể hiện rõ trong tâm tính công chính của Đức Chúa Trời? Lòng thương xót chan chứa và cơn thịnh nộ sâu sắc. Từ “chan chứa” trong “lòng thương xót chan chứa” có nghĩa là lòng thương xót của Đức Chúa Trời là lòng khoan dung, kiên nhẫn, nhẫn nại, và đó là tình yêu vĩ đại nhất – đó là nghĩa của từ “chan chứa”. Bởi vì con người ngu dốt và có tố chất kém nên đây là cách Đức Chúa Trời phải làm. Nếu ngươi yêu thích lẽ thật nhưng lại ngu muội và có tố chất kém, thì thái độ của Đức Chúa Trời sẽ là đầy lòng thương xót đối với ngươi. Lòng thương xót bao gồm những gì? Nhẫn nại và bao dung. Đức Chúa Trời bao dung và nhẫn nại đối với sự ngu muội của ngươi, Ngài cho ngươi đủ lòng tin và bao dung để hỗ trợ ngươi, để chu cấp cho ngươi và trợ giúp ngươi, hầu cho ngươi có thể từng chút hiểu được lẽ thật và dần trưởng thành. Điều này được xây dựng dựa trên nền tảng nào? Nó được xây dựng dựa trên nền tảng tình yêu và lòng khao khát lẽ thật của con người, cũng như thái độ chân thành của họ đối với Đức Chúa Trời, lời Ngài và lẽ thật. Đó là những biểu hiện căn bản nhất mà con người nên có. Nhưng nếu ai đó trong lòng chán ghét lẽ thật, ác cảm với lẽ thật, thậm chí thù hận lẽ thật, nếu họ không bao giờ xem trọng lẽ thật, và luôn nói về công lao của mình, họ đã công tác như thế nào, có bao nhiêu kinh nghiệm, đã trải nghiệm những gì, Đức Chúa Trời xem trọng họ và giao phó cho họ những việc lớn ra sao – nếu họ chỉ nói về những điều này, về vốn liếng, công lao và tài năng của mình, luôn khoe khoang, và không bao giờ thông công về lẽ thật, làm chứng cho Đức Chúa Trời, hay thông công về nhận thức có được từ việc trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời hay nhận thức của họ về Đức Chúa Trời, thì chẳng phải là họ chán ghét lẽ thật sao? Đây là biểu hiện của việc chán ghét lẽ thật và không yêu thích lẽ thật. Có người nói: “Nếu không yêu thích lẽ thật, làm sao họ có thể nghe giảng đạo được?”. Có phải ai nghe giảng đạo cũng yêu thích lẽ thật không? Có những người chỉ làm lấy lệ. Họ bất đắc dĩ phải giả bộ trước mặt người khác, sợ rằng nếu họ không tham gia đời sống hội thánh, thì nhà Đức Chúa Trời sẽ không thừa nhận đức tin của họ. Đức Chúa Trời xác định tính chất thái độ đối với lẽ thật này như thế nào? Đức Chúa Trời phán rằng họ không yêu thích lẽ thật, chán ghét lẽ thật. Trong tâm tính, họ có một thứ trí mạng nhất, thậm chí còn trí mạng hơn cả kiêu ngạo và giả dối, đó là chán ghét lẽ thật. Đức Chúa Trời thấy điều này. Với tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, Ngài đối đãi với dạng người này thế nào? Ngài đầy thịnh nộ đối với họ. Nếu Đức Chúa Trời đầy thịnh nộ đối với ai đó, thì có lúc Ngài sẽ trách mắng, hoặc sửa dạy và trừng phạt họ. Nếu họ không cố ý chống đối Đức Chúa Trời, Ngài sẽ bao dung, chờ đợi và quan sát. Do hoàn cảnh hoặc nguyên nhân khách quan khác, Đức Chúa Trời có thể tạm thời dùng những người không tin này để đem sức lực phục vụ cho Ngài. Nhưng ngay khi hoàn cảnh thích hợp và đến thời điểm thích hợp, dạng người này liền bị tống ra khỏi nhà Đức Chúa Trời, bởi họ thậm chí còn không xứng để đem sức lực phục vụ. Đó là sự thịnh nộ của Đức Chúa Trời. Tại sao Đức Chúa Trời lại đầy sự thịnh nộ sâu sắc như vậy? Điều này thể hiện sự thù hận tột độ của Đức Chúa Trời đối với những kẻ chán ghét lẽ thật. Sự thịnh nộ sâu sắc của Đức Chúa Trời cho thấy Ngài đã quy định kết cục và đích đến của loại người chán ghét lẽ thật này. Đức Chúa Trời xếp những người này vào đâu? Đức Chúa Trời xếp họ vào doanh trại của Sa-tan. Bởi vì Ngài đầy thịnh nộ đối với họ và chán ghét họ, nên Ngài đóng cửa với họ, Ngài không cho phép họ đặt chân qua ngưỡng cửa nhà Ngài và không cho họ cơ hội được cứu rỗi. Đây là một biểu hiện của sự thịnh nộ của Đức Chúa Trời. Ngoài ra, Đức Chúa Trời cũng đặt họ ngang hàng với Sa-tan, với ô quỷ và tà linh, cũng như người không tin, và khi đến thời điểm thích hợp, Ngài sẽ đào thải họ. Đây chẳng phải là một cách xử lý họ sao? (Thưa, phải.) Đó là sự thịnh nộ của Đức Chúa Trời. Và một khi bị đào thải, điều gì chờ đợi họ? Họ có bao giờ được hưởng lại ân điển và phúc lành của Đức Chúa Trời, cũng như sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời nữa không? (Thưa, không.) Người trong thời đại Ân Điển thường nói một câu như thế này: “Đức Chúa Trời muốn mọi người đều được cứu rỗi và không muốn bất kỳ ai phải chịu sự hư mất”. Hầu hết mọi người có thể hiểu ý nghĩa những lời này. Đó là tâm trạng và thái độ của Đức Chúa Trời trong việc cứu rỗi nhân loại bại hoại. Nhưng Đức Chúa Trời cứu rỗi nhân loại như thế nào? Ngài cứu rỗi hết thảy hay chỉ một bộ phận nhân loại? Đức Chúa Trời cứu rỗi bộ phận nào và vứt bỏ những người nào? Hầu hết mọi người không thể nhìn thấu chuyện này. Họ chỉ có thể nói đạo lý với mọi người. “Đức Chúa Trời muốn mọi người đều được cứu rỗi và không muốn bất kỳ ai phải chịu sự hư mất”. Những người nói lời này thì rất nhiều, nhưng họ không hề hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời. Thực ra, tâm ý của Đức Chúa Trời là chỉ cứu rỗi những người yêu thích lẽ thật và có thể tiếp nhận ơn cứu rỗi của Ngài. Những người chán ghét lẽ thật và không tiếp nhận ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời là người phủ nhận và chống đối Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không những không cứu rỗi, mà cuối cùng còn hủy diệt những người này. Mặc dù những người tin Đức Chúa Trời biết rằng tình yêu thương của Ngài là vô hạn, mênh mông khôn sánh và vĩ đại, nhưng Đức Chúa Trời không sẵn lòng ban ân điển và tình yêu thương này cho những kẻ chán ghét lẽ thật. Đức Chúa Trời sẽ không phí công ban tình yêu thương và sự cứu rỗi của Ngài cho những kẻ này. Đây là thái độ của Đức Chúa Trời. Những kẻ chán ghét lẽ thật và không tiếp nhận ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời thì giống như kẻ ăn mày tìm đồ ăn – dù xin đồ ăn của ai, thì trong lòng họ cũng không có sự tôn trọng ân nhân của mình, mà còn chế giễu và thù hận người ta. Thậm chí họ còn giật đồ của ân nhân. Liệu ân nhân có sẵn lòng bố thí đồ ăn cho dạng ăn mày này không? Chắc chắn là không, bởi vì họ không thực sự đáng thương, mà là quá đáng ghét. Thái độ của ân nhân đối với dạng người này là gì? Họ thà cho chó đồ ăn còn hơn cho kẻ ăn mày như thế này. Họ thực sự cảm thấy như vậy. Các ngươi nghĩ dạng người nào là người chán ghét lẽ thật? Họ có phải là những người chống lại và chống đối Đức Chúa Trời không? Họ có thể không công khai chống đối Đức Chúa Trời, nhưng thực chất bản tính của họ là phủ nhận và chống đối Đức Chúa Trời, là điều tương đương với việc công khai nói với Đức Chúa Trời rằng: “Tôi không thích nghe những gì Ngài nói, tôi không chấp nhận, và bởi vì tôi không thừa nhận rằng lời của Ngài là lẽ thật, tôi không tin Ngài. Tôi tin vào bất cứ ai có ích và có lợi cho tôi”. Đây có phải là thái độ của những người ngoại đạo không? Nếu đây là thái độ của ngươi đối với lẽ thật, thì chẳng phải ngươi đang công khai thù địch với Đức Chúa Trời sao? Và nếu ngươi công khai thù địch với Đức Chúa Trời, liệu Đức Chúa Trời có cứu rỗi ngươi không? Ngài sẽ không cứu. Đó là lý do khiến Đức Chúa Trời thịnh nộ đối với tất cả những ai phủ nhận và chống đối Đức Chúa Trời. Thực chất của những người như thế này, những người chán ghét lẽ thật, là thực chất thù địch với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không coi những người có thực chất như vậy là con người. Trong mắt Ngài, họ là kẻ thù và ma quỷ. Ngài sẽ không bao giờ cứu rỗi họ; cuối cùng, họ sẽ bị rơi vào thảm họa và bị hủy diệt. Theo các ngươi, nếu kẻ ăn mày ăn đồ ăn của ân nhân mà lại chửi mắng, chế giễu, mỉa mai và thậm chí tấn công ân nhân của mình, thì ân nhân có thù hận họ không? Chắc chắn là có. Nguyên nhân của sự thù hận này là gì? (Thưa, kẻ ăn mày không những không biết ơn ân nhân đã cho họ đồ ăn, mà còn chế giễu, mỉa mai và tấn công ân nhân. Dạng người này không có chút lương tâm hay lý trí nào, và cũng không có nhân tính.) Ân nhân nên có thái độ nào đối với kẻ ăn mày này? Ân nhân nên lấy lại những thứ ban đầu đã cho kẻ ăn mày, rồi đuổi đi. Họ thà cho chó hay thú hoang ăn những đồ này, còn hơn cho kẻ ăn mày. Đó chính là hậu quả mà kẻ ăn mày tự chuốc lấy. Đức Chúa Trời đầy sự thịnh nộ sâu sắc đến vậy đối với một người hoặc một loại người là có nguyên nhân. Nguyên nhân này không được quyết định bởi ý thích của Đức Chúa Trời, mà bởi thái độ của người đó đối với lẽ thật. Khi người ta chán ghét lẽ thật, đó chắc chắn là tử huyệt của họ đối với việc được cứu rỗi. Đây không phải là chuyện có thể hoặc không thể được tha thứ, không phải là một dạng hành vi hay điều gì đó bộc lộ thoáng qua ở họ. Mà đây là thực chất bản tính của người ta, và Đức Chúa Trời chán ghét nhất dạng người này. Nếu ngươi thỉnh thoảng bộc lộ sự bại hoại của việc chán ghét lẽ thật, thì ngươi phải kiểm điểm bản thân dựa trên lời Đức Chúa Trời xem liệu những bộc lộ bại hoại này là do ngươi ác cảm với lẽ thật hay do không hiểu được lẽ thật. Điều này đòi hỏi phải tìm kiếm, và cần có sự khai sáng cũng như trợ giúp của Đức Chúa Trời. Nếu thực chất bản tính của ngươi là chán ghét lẽ thật, và ngươi không bao giờ tiếp nhận lẽ thật, lại đặc biệt ác cảm và thù hằn lẽ thật, thì phiền toái rồi. Ngươi chắc chắn là kẻ ác, và Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi ngươi.
Sự khác biệt giữa người ngoại đạo và người tin Đức Chúa Trời là gì? Có phải chỉ khác biệt ở tín ngưỡng không? Không. Người ngoại đạo không thừa nhận Đức Chúa Trời, nhất là không thể tiếp nhận lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ. Điều này chứng tỏ hết thảy người ngoại đạo đều chán ghét lẽ thật và thù hận lẽ thật. Chẳng hạn như câu “Con người là do Đức Chúa Trời tạo dựng” có phải là sự thật không? Đó có phải là lẽ thật không? (Thưa, phải.) Vậy khi nghe điều này, thái độ của người tin Đức Chúa Trời là gì? Họ thừa nhận và tin tuyệt đối. Họ tiếp nhận sự thật này, lẽ thật này như nền tảng của đức tin nơi Đức Chúa Trời – đây chính là tiếp nhận lẽ thật. Nó có nghĩa là tiếp nhận từ sâu thẳm nội tâm sự thật rằng con người là do Đức Chúa Trời tạo dựng, cam lòng làm loài thọ tạo, cam lòng tiếp nhận sự dẫn dắt và tể trị của Đức Chúa Trời, cũng như thừa nhận rằng Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của chúng ta. Còn người không tin Đức Chúa Trời mà nghe câu “Con người là do Đức Chúa Trời tạo dựng” thì có thái độ gì? (Thưa, họ không tiếp nhận hoặc thừa nhận điều đó.) Ngoài việc không thừa nhận thì họ còn có phản ứng gì? Họ thậm chí còn chế nhạo ngươi, làm mọi thứ có thể để cố gắng dùng điều này chống lại ngươi, chế giễu và mỉa mai ngươi, miệt thị ngươi, cũng như khinh miệt những lời này và sự thật này. Thậm chí họ còn có thể có thái độ chế giễu, mỉa mai, miệt thị và thù địch đối với hết thảy những ai thừa nhận những lời này. Đây chẳng phải là chán ghét lẽ thật sao? (Thưa, phải.) Khi thấy dạng người này, ngươi có thù hận họ không? Trong lòng ngươi sẽ nghĩ gì? Ngươi sẽ suy ngẫm: “Con người là do Đức Chúa Trời tạo dựng. Đây là sự thật. Đúng tuyệt đối. Anh không tiếp nhận điều này, anh không nhận tổ quy tông, anh thật vong ân bội nghĩa, anh vô lương tâm và đại nghịch bất đạo. Anh thực sự cùng một loại với Sa-tan!”. Có phải đó là những gì ngươi nghĩ không? (Thưa, phải.) Và tại sao ngươi lại nghĩ như vậy? Ngươi có nghĩ như vậy chỉ vì họ không thích câu này không? (Thưa, không.) Và điều gì khiến tâm lý ác cảm như thế nảy sinh trong ngươi? (Thưa, đó là do thái độ của họ đối với lẽ thật.) Sự tức giận của ngươi sẽ không lớn đến thế nếu họ tôn trọng câu này như câu nói bình thường, như một lý luận hoặc tín ngưỡng. Nhưng khi ngươi thấy họ nảy sinh sự ác cảm, chống đối và khinh miệt, lại còn có những lời lẽ, thái độ và tâm tính bôi nhọ câu nói về lẽ thật này, thì lửa giận trong ngươi bùng lên. Có phải như vậy không? Có những người mặc dù không tin Đức Chúa Trời, nhưng họ tôn trọng đức tin của người khác, và không cố gắng bôi nhọ những chuyện về đức tin mà người khác nói. Trong lòng ngươi không thấy ác cảm hay ghê tởm gì họ, ngươi vẫn có thể kết bạn và chung sống hòa bình với họ. Các ngươi sẽ không trở thành kẻ thù. Trên thực tế, có một bộ phận nhỏ người ngoại đạo mà ngươi có thể chung sống. Mặc dù họ không thể tiếp nhận con đường thật và trở thành người nhà Đức Chúa Trời, nhưng ngươi vẫn có thể chung sống và giao thiệp với họ. Ít nhất, họ cũng có lương tâm và lý trí. Họ không âm mưu hại ngươi hay đâm sau lưng ngươi, nên ngươi có thể kết giao với họ. Đối với những người cố bôi nhọ lẽ thật – cũng chính là những người chán ghét lẽ thật – thì trong lòng bừng bừng lửa giận. Ngươi còn có thể làm bạn với họ được không? (Thưa, không thể.) Ngoài việc không thể làm bạn với họ, ngươi còn nghĩ gì về họ? Nếu để ngươi chọn cách đối xử với họ, ngươi sẽ đối xử với họ thế nào? Ngươi sẽ nói: “Con người là do Đức Chúa Trời tạo dựng. Đó là sự thật, đó là lẽ thật, một điều thật vĩ đại và thiêng liêng! Anh không những không tiếp nhận, mà còn cố bôi nhọ điều này – anh thật không có lương tâm! Nếu Đức Chúa Trời cho tôi quyền năng, thì tôi sẽ nguyền rủa anh, tôi sẽ tiêu diệt anh, sẽ biến anh thành tro bụi!”. Đây có phải là tâm trạng của ngươi không? (Thưa, phải.) Đây là tinh thần chính nghĩa. Nhưng theo lý tính bình thường, khi ngươi thấy họ là ma quỷ, thì cứ phớt lờ họ, tránh xa họ, họ nói chuyện với ngươi thì cứ ứng phó là được. Như vậy là khôn ngoan. Tuy nhiên, trong thâm tâm, ngươi biết mình đi con đường khác với dạng người này. Họ tuyệt đối sẽ không tin Đức Chúa Trời, họ tuyệt đối sẽ không tiếp nhận lẽ thật. Dù họ có tin Đức Chúa Trời đi nữa, Ngài cũng không muốn họ. Họ phủ nhận và chống đối Đức Chúa Trời, họ chính là súc sinh, chính là ma quỷ, họ không đi theo cùng con đường như chúng ta. Những người thật lòng tin Đức Chúa Trời đều không sẵn lòng tiếp xúc với ma quỷ, không gặp thì càng tốt, gặp rồi liền chống đối, chỉ có không bao giờ gặp, lòng mới cảm thấy bình an. Có những người luôn nói chuyện nhà Đức Chúa Trời cho ma quỷ ngoại đạo. Đây là những kẻ ngu xuẩn nhất. Họ không phân biệt được người trong và người ngoài, họ là đầu đất, chẳng hiểu được gì. Đức Chúa Trời có thể cứu rỗi dạng người có thể làm những việc vô lý như thế không? Tuyệt đối không. Những người luôn giao du với ma quỷ là người không tin. Họ chắc chắn không phải người nhà Đức Chúa Trời, và sớm muộn gì cũng phải trở lại với Sa-tan. Có những người không biết phân định ai là anh chị em, ai là người ngoại đạo. Họ là những người hồ đồ nhất. Họ kể chuyện nhà Đức Chúa Trời cho những người không tin và ma quỷ. Nó giống như ném trân châu cho heo và đem của thánh cho chó vậy. Những người không tin và ma quỷ đó giống như heo, chó, là súc sinh. Nếu ngươi nói chuyện nhà Đức Chúa Trời với họ, thì ngươi rõ ràng là ngu muội. Nghe xong, họ sẽ tùy tiện bôi nhọ nhà Đức Chúa Trời và lẽ thật. Làm vậy, ngươi sẽ phụ lòng Đức Chúa Trời và mắc nợ Đức Chúa Trời. Những chuyện nhà Đức Chúa Trời không bao giờ được đem ra nói với người không tin và ma quỷ. Con người còn chán ghét, chống đối và không muốn tiếp xúc với những kẻ không thích lẽ thật, chán ghét lẽ thật hoặc bôi nhọ lẽ thật, huống gì là Đức Chúa Trời? Tâm tính Đức Chúa Trời, thực chất của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời có gì và là gì, sự sống của Đức Chúa Trời và thực chất của Đức Chúa Trời như Ngài tỏ lộ, tất cả đều là lẽ thật. Kẻ chán ghét lẽ thật chắc chắn là kẻ đối địch với Đức Chúa Trời, là thù địch của Đức Chúa Trời. Đây không chỉ là vấn đề không tương hợp với Đức Chúa Trời. Đối với những người như thế này, sự thịnh nộ của Đức Chúa Trời cực lớn.
Các ngươi hiện nay đều có chút căn cơ, và có thể được xem là người nhà Đức Chúa Trời. Các ngươi phải siêng năng mưu cầu lẽ thật, và trong quá trình thực hiện bổn phận, phải không ngừng kiểm điểm từng lời nói, việc làm của mình, kiểm điểm những tình trạng khác nhau của mình, và nỗ lực có được một số biến đổi trong tâm tính. Đó là điều giá trị. Khi đó, ngươi sẽ có thể thực sự đến trước Đức Chúa Trời. Ít nhất ngươi cũng phải khiến cho Đức Chúa Trời chấp thuận ngươi. Nếu ngươi không thể đạt đến tầm của Gióp và không đủ tư cách khiến Đức Chúa Trời đích thân đánh cược với Sa-tan để thử luyện ngươi, thì ít nhất ngươi cũng có thể sống trong sự sáng của Đức Chúa Trời bằng những hành động và hành xử của mình, và Đức Chúa Trời sẽ quan tâm, bảo vệ ngươi, cũng như thừa nhận ngươi là một người đi theo Ngài và người nhà Ngài. Tại sao? Bởi vì kể từ khi thừa nhận và tin Đức Chúa Trời, ngươi đã không ngừng tìm kiếm cách tuân theo con đường của Đức Chúa Trời. Bởi vì Đức Chúa Trời hài lòng với hành vi và lòng thành của ngươi, nên Ngài đã dẫn ngươi vào nhà Ngài để tiếp nhận sự huấn luyện, tỉa sửa, và tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài. Đây đúng là một phúc lành lớn lao! Xuất phát điểm là một người bên ngoài nhà Đức Chúa Trời, không biết gì về Đức Chúa Trời hay lẽ thật, ngươi đã tiếp nhận khảo nghiệm đầu tiên của Đức Chúa Trời, và sau khi vượt qua, ngươi được Đức Chúa Trời đích thân dẫn vào nhà Ngài, đưa ngươi đến trước Ngài, giao cho ngươi sự ủy thác, sắp xếp các bổn phận cho ngươi thực hiện, và để ngươi thực hiện một số bổn phận của con người trong kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời. Mặc dù đó là chút công việc không đáng chú ý, nhưng xét cho cùng, ngươi có được sự quan tâm, bảo vệ của Đức Chúa Trời, và ngươi đã nhận được lời hứa từ Đức Chúa Trời. Phúc lành này đủ lớn rồi. Chưa nói đến việc nhận mão triều thiên và phần thưởng trong đời sau, mà chỉ nói về những gì con người có thể được tận hưởng trong đời này – những lẽ thật ngươi được nghe, ân điển, lòng thương xót, sự quan tâm và bảo vệ của Đức Chúa Trời mà ngươi được tận hưởng, còn có đủ kiểu sửa dạy và sửa phạt khác nhau mà Đức Chúa Trời cho ngươi, cũng như sự chu cấp tất cả những lẽ thật này mà Đức Chúa Trời ban cho con người – nói xem, ngươi đang nhận được bao nhiêu? Cuối cùng, ngoài việc hiểu những lẽ thật này, Đức Chúa Trời cũng sẽ hoàn toàn cứu rỗi ngươi khỏi doanh trại của Sa-tan, để ngươi có thể biến thành người nhận thức Đức Chúa Trời, có lẽ thật làm sự sống của mình và hữu dụng trong nhà Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là một phúc lành to lớn sao? (Thưa, đó là một phúc lành to lớn.) Đây là lời hứa của Đức Chúa Trời. Sau khi Đức Chúa Trời đưa ngươi vào nhà Ngài, Ngài sẽ phán với ngươi rằng: “Ngươi thật có phúc. Khi bước vào hội thánh, ngươi có hy vọng được cứu rỗi”. Có thể ngươi còn không biết chuyện gì xảy ra, nhưng thực ra lời hứa của Đức Chúa Trời đã được ban cho ngươi rồi. Đồng thời, Đức Chúa Trời cũng vì thực hiện lời hứa này mà làm hết thảy những việc này – chu cấp lẽ thật, tỉa sửa ngươi, cho ngươi những bổn phận và sự ủy thác – để sự sống của ngươi sẽ từng chút trưởng thành, và ngươi sẽ trở thành người thuận phục, thờ phượng Đức Chúa Trời. Con người ngày nay đã nhận được lời hứa này chưa? Vẫn còn xa mới đến ngày thành tựu và thành hiện thực. Thực ra, một số người các ngươi đã đạt được rồi, một số người chỉ có ý chí nhưng chưa đạt được. Phải xem các ngươi có ý chí nắm bắt lời hứa này và có thể thực hiện nó hay không. Mọi việc Đức Chúa Trời làm đều được ban cho con người từng bước một, vào thời điểm thích hợp, và ở mức độ thích hợp, một chút cũng không sai lệch. Cho nên ngươi không phải lo rằng mình còn ngu muội, có tố chất kém, non trẻ hay chỉ mới tin Đức Chúa Trời được một thời gian ngắn. Đừng để những nguyên nhân khách quan này ảnh hưởng đến lối vào sự sống của ngươi. Bất kể Đức Chúa Trời phán gì, một mặt, nó sẽ cho con người nhận thức và đánh giá chuẩn xác được vóc giạc và tố chất thực tế của họ, đồng thời đi đến chỗ biết giới hạn của chính mình. Mặt khác, về mặt tích cực, nó sẽ cho con người nhận thức lẽ thật sâu sắc hơn và có thể đạt đến bước vào thực tế lẽ thật cũng như thực hiện tốt bổn phận của mình để thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời. Đó là những mục đích của lời Đức Chúa Trời. Để đạt được những điều này thực ra rất đơn giản. Chỉ cần ngươi có tấm lòng yêu lẽ thật thì không có gì là khó khăn cả. Khó khăn lớn nhất đối với con người là gì? Chính là ngươi chán ghét lẽ thật và không hề yêu lẽ thật. Đây là khó khăn lớn nhất. Nó liên quan đến vấn đề bản tính. Nếu ngươi không thực sự hối cải thì e rằng sẽ phiền phức. Nếu ngươi chán ghét lẽ thật, luôn bôi nhọ và miệt thị lẽ thật, nếu ngươi có dạng bản tính này, thì ngươi không dễ biến đổi. Cho dù ngươi có biến đổi, thì còn phải xem thái độ của Đức Chúa Trời có chuyển biến hay không. Nếu những gì ngươi làm có thể đạt đến khiến thái độ của Đức Chúa Trời chuyển biến, thì ngươi vẫn còn hy vọng được cứu rỗi. Nếu ngươi không thể đạt đến khiến thái độ của Đức Chúa Trời chuyển biến, và sâu trong lòng Đức Chúa Trời, từ lâu Ngài đã chán ghét thực chất của ngươi, thì ngươi không còn hy vọng được cứu rỗi. Vì thế, các ngươi phải kiểm điểm bản thân. Nếu ngươi đang ở trong tình trạng chán ghét lẽ thật và chống đối lẽ thật, thì rất nguy hiểm. Nếu ngươi thường xuyên nảy sinh tình trạng như vậy, thường xuyên rơi vào tình trạng như vậy, hoặc nếu về cơ bản ngươi là dạng người này, thì càng phiền phức hơn nữa. Nếu thỉnh thoảng ngươi mới ở trong tình trạng chán ghét lẽ thật, thì một mặt, có thể do vóc giạc của ngươi nhỏ bé; mặt khác, bản thân tâm tính bại hoại của con người có dạng thực chất này, mà khó tránh khỏi nảy sinh tình trạng này. Tuy nhiên, tình trạng này không đại diện cho thực chất của ngươi. Đôi khi, một tâm trạng nhất thời có thể nảy sinh một loại tình trạng khiến ngươi chán ghét lẽ thật. Đó chỉ là nhất thời. Nó không phải là do thực chất tâm tính chán ghét lẽ thật của ngươi gây ra. Nếu đó là tình trạng nhất thời thì có thể xoay chuyển, nhưng xoay chuyển thế nào? Ngươi phải lập tức đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm lẽ thật về phương diện này và đạt đến khiến ngươi có thể thừa nhận lẽ thật, cũng như thuận phục lẽ thật và Đức Chúa Trời. Như vậy sẽ giải quyết được tình trạng này. Nếu ngươi không giải quyết mà cứ để nó tiếp diễn, thì ngươi gặp nguy hiểm rồi. Chẳng hạn có người nói: “Dù sao thì tôi cũng có tố chất kém và không hiểu được lẽ thật, nên tôi sẽ không mưu cầu lẽ thật nữa, tôi cũng không cần phải thuận phục Đức Chúa Trời. Làm sao Đức Chúa Trời có thể cho tôi tố chất này được chứ? Đức Chúa Trời không công chính!”. Ngươi phủ nhận sự công chính của Đức Chúa Trời. Đó chẳng phải là chán ghét lẽ thật sao? Đó chính là thái độ chán ghét lẽ thật và biểu hiện của chán ghét lẽ thật. Biểu hiện này nảy sinh là có bối cảnh, nên cần phải giải quyết bối cảnh và căn nguyên nảy sinh tình trạng này. Một khi giải quyết được căn nguyên, thì tình trạng của ngươi cũng sẽ biến mất theo. Một số tình trạng giống như triệu chứng, chẳng hạn như ho, có thể là do cảm lạnh hoặc viêm phổi. Nếu ngươi chữa cảm lạnh hoặc viêm phổi, thì cơn ho cũng sẽ thuyên giảm. Khi giải quyết được gốc bệnh, triệu chứng cũng biến mất. Nhưng một số tình trạng chán ghét lẽ thật không phải là triệu chứng, mà là khối u. Gốc bệnh nằm bên trong. Có thể nhìn từ bên ngoài, ngươi không thể tìm thấy bất kỳ triệu chứng nào, nhưng một khi phát bệnh thì sẽ gây tử vong. Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng. Dạng người này không bao giờ tiếp nhận hay thừa nhận lẽ thật, thậm chí còn thường xuyên bôi nhọ lẽ thật như người ngoại đạo. Dù ngoài miệng không nói, nhưng trong lòng họ không ngừng bôi nhọ, cự tuyệt và bác bỏ lẽ thật. Bất kể lẽ thật nào – dù là biết mình, thừa nhận tâm tính bại hoại của mình, tiếp nhận lẽ thật, thuận phục Đức Chúa Trời, không làm việc qua loa chiếu lệ, hay là có thể làm người trung thực – phương diện nào họ cũng không tiếp nhận, thừa nhận, không thèm để ý, thậm chí còn bác bỏ và bôi nhọ mọi khía cạnh lẽ thật. Đây chính là tâm tính chán ghét lẽ thật, nó là một loại thực chất. Loại thực chất này dẫn đến kết cục như thế nào? Bị Đức Chúa Trời ghét bỏ và đào thải, sau đó diệt vong. Hậu quả rất nghiêm trọng.
Mối thông công hôm nay về những điều này có giúp ích cho các ngươi không? (Thưa, có. Con biết tố chất tốt là gì, tố chất kém là gì, con có chút hiểu biết thực sự về tố chất của chính mình, và khi gặp chuyện, con có thể đánh giá bản thân một cách chuẩn xác. Con sẽ không kiêu ngạo và tự nên công chính, mà thực hiện bổn phận đến nơi đến chốn.) Bất kể chúng ta thông công về khía cạnh lẽ thật nào cũng đều giúp ích cho lối vào sự sống của các ngươi. Nếu các ngươi có thể lấy những lời này kết hợp vào cuộc sống thường ngày của mình, thì những gì Ta phán không vô ích. Mỗi khi hiểu được chút lẽ thật, các ngươi sẽ chuẩn xác hơn khi làm việc, và con đường sẽ rộng mở hơn một chút. Nếu biết quá ít lẽ thật và không hiểu rõ vóc giạc cũng như tố chất thực tế của mình, thì khi làm việc sẽ luôn không chuẩn xác, luôn đoán chừng và đánh giá bản thân quá cao, làm việc dựa trên quan niệm và tưởng tượng mà không hay biết, lại còn nghĩ rằng mình đang làm dựa trên lẽ thật. Ngươi sẽ xem những quan niệm và tưởng tượng này là các nguyên tắc lẽ thật. Làm việc kiểu đó thì sự lệch lạc sẽ rất lớn. Nếu những quan niệm, tưởng tượng, tri thức và học thức này của con người đóng vai trò chủ đạo trong lòng người, thì họ sẽ không tìm kiếm lẽ thật. Nếu lẽ thật trở thành cái thứ hai, thứ ba hay thậm chí cuối cùng trong lòng ngươi, thì điều gì sẽ nắm quyền trên ngươi? Đó chính là tâm tính Sa-tan và những quan niệm, triết lý, tri thức và học thức của con người. Những thứ này nắm quyền trên ngươi, do đó công tác Đức Chúa Trời làm trên ngươi sẽ không đạt được hiệu quả. Nếu lời Đức Chúa Trời và lẽ thật không trở thành sự sống của ngươi, thì ngươi còn cách rất xa sự cứu rỗi. Ngươi chưa bước lên con đường được cứu rỗi. Ngươi nói xem, lòng Đức Chúa Trời có lo lắng không? Đức Chúa Trời phải tỏ bao nhiêu lòng thương xót với ngươi để khiến ngươi đi lên con đường được cứu rỗi đây? Nếu các ngươi có thể thoát khỏi tri thức của văn hóa truyền thống và triết lý của Sa-tan, học cách dùng lẽ thật mà đánh giá hết thảy những điều này dựa trên lời Đức Chúa Trời, dùng các nguyên tắc lẽ thật làm tiêu chuẩn để giám sát mọi sự và thực hiện tốt bổn phận của mình, thì các ngươi sẽ thực sự trở thành người có thực tế lẽ thật, người có khả năng sống độc lập. Hiện tại các ngươi chưa ở tầm này, vẫn còn kém xa. Các ngươi chỉ có chút sự sống, và vẫn phải sống dựa vào lòng thương xót, từ ái và khoan dung của Đức Chúa Trời. Điều này nghĩa là vóc giạc của các ngươi quá nhỏ bé. Nếu giao một công tác cho ngươi, liệu ngươi có thể độc lập hoàn thành nó được không? Liệu ngươi có thể làm tốt công tác được không? Nếu ngươi làm rối tinh rối mù, thì chính là chống đối Đức Chúa Trời, làm ô danh Đức Chúa Trời. Nếu ngươi thực hiện công tác được nửa chừng liền bỏ đi chơi, thì chẳng phải điều đó cho thấy ngươi hơi bất ổn sao? Nó cho thấy ngươi làm việc không đáng tin cậy và không chuyên tâm vào việc chính đáng. Ngươi sẽ luôn cần người trông chừng, giám sát mới có thể thực hiện chút bổn phận. Có những người tầm 30, 40 tuổi rồi mà vẫn còn tính này. Họ hoàn toàn tiêu tùng rồi, đời này chẳng làm nên trò trống gì. Nếu ngươi tầm 20 tuổi và mới chỉ tin Đức Chúa Trời được hai, ba năm, thì còn có thể thông cảm được vì là người có vóc giạc nhỏ bé. Sự bất ổn, không đáng tin cậy, luôn phải được Đức Chúa Trời trông nom, bảo vệ, nhắc nhở, khích lệ và chỉ dẫn, luôn cần tận hưởng những ân điển này của Đức Chúa Trời, sống dựa vào những ân điển này, và không có những điều này thì không làm gì được, đây chính là quá nhỏ bé về vóc giạc. Hiện các ngươi ở trong tình trạng này. Nếu không nói tường tận mọi thứ cho các ngươi, thì đôi khi các ngươi sẽ phạm sai lầm hoặc làm hỏng việc. Bất kỳ điều nhỏ nhặt nào mà không giải thích cho các ngươi thì các ngươi liền lệch lạc, đây là mối lo thường trực cho người khác. Bề ngoài, các ngươi đều là người trưởng thành, nhưng thực ra sự sống trong linh của các ngươi không lớn. Dù các ngươi có ý chí và lòng thành thực hiện bổn phận, cũng có chút đức tin thực sự, nhưng lại hiểu lẽ thật quá ít. Làm một chút bổn phận cũng toàn dựa vào ân điển, phúc lành, sự chỉ dẫn và nhắc nhở của Đức Chúa Trời để đi. Thiếu đi một chút cũng không được. Vậy thì khía cạnh nào trong tâm tính công chính của Đức Chúa Trời biểu hiện với các ngươi? Chính là lòng thương xót vô bờ, và tất nhiên đây là nguyên tắc làm việc của Đức Chúa Trời. Tại sao các ngươi vẫn chưa được hưởng sự thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời? Đó là bởi vì các ngươi không có dạng vóc giạc đó. Các ngươi quá nhỏ bé về vóc giạc, hiểu lẽ thật quá ít, chuyện gì cũng nhìn không thấu, gặp khó khăn liền bối rối, không biết bắt đầu từ đâu, luôn khiến mọi người lo lắng, và dù thực hiện bổn phận nào cũng phải được người khác cầm tay chỉ việc, khiến người khác phải hao tâm tổn trí. Thứ gì cũng phải nói tường tận cho các ngươi và lặp lại hơn một lần, nếu không là không được. Những thứ bình thường phải nói hai, ba lần, nhưng một thời gian sau là lại quên và phải nói đi nói lại thêm vài lần nữa. Đây là loại người gì? Đây là người hồ đồ, không có lòng có dạ, đem sức lực phục vụ cũng không đạt tiêu chuẩn. Dạng người này có thể hiểu lẽ thật được không? Chắc chắn họ không dễ hiểu lẽ thật bởi vì tố chất của họ quá kém và họ không thể vươn tới lẽ thật được. Có người nhỏ bé về vóc giạc, nhưng trải qua điều gì đó một, hai hoặc ba lần thì có thể học được. Nếu được thông công về lẽ thật mà họ có thể lĩnh hội, hiểu và nắm được lẽ thật, thì họ là người có tố chất. Nhưng có vóc giạc nhỏ bé không phải là vấn đề lớn. Nó chỉ liên quan đến chiều sâu trải nghiệm này và liên quan trực tiếp đến chiều sâu hiểu lẽ thật của họ. Sau khi trải nghiệm nhiều hơn và hiểu lẽ thật sâu hơn, vóc giạc của họ sẽ tự nhiên trưởng thành.
Ngày 2 tháng 3 năm 2019