Mục 10. Họ xem thường lẽ thật, ngang nhiên vi phạm các nguyên tắc và phớt lờ những sự an bài của nhà Đức Chúa Trời (Phần 3)

II. Xem thường xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể

Lần trước chúng ta đã thông công điều thứ mười trong các loại biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ – xem thường lẽ thật, ngang nhiên vi phạm các nguyên tắc và phớt lờ những sự an bài của nhà Đức Chúa Trời. Chúng ta chia điều này thành ba phần để thông công chi tiết. Phần thứ nhất là xem thường thân phận và thực chất của Đức Chúa Trời, thứ hai là xem thường xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể, và thứ ba là xem thường lời Đức Chúa Trời. Dựa theo ba phần này, chúng ta mổ xẻ điều thứ mười trong các loại biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ. Phần thứ nhất đã được thông công xong, phần thứ hai, xem thường xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể, được chia thành bốn điều để thông công. Bốn điều này là gì? (Thưa, điều thứ nhất, xu nịnh, tâng bốc và nói những lời êm tai; điều thứ hai, nghiên cứu và phân tích với sự hiếu kỳ; điều thứ ba, cách họ tiếp cận Đấng Christ tùy theo tâm trạng; và điều thứ tư, chỉ lắng nghe những lời Đấng Christ phán, chứ không vâng phục hay thuận phục.) Hai điều đầu đã được thông công lần trước; lần này, chúng ta sẽ thông công về điều thứ ba.

C. Cách họ tiếp cận Đấng Christ tùy theo tâm trạng

Điều thứ ba là “cách họ tiếp cận Đấng Christ tùy theo tâm trạng”; cụm từ đơn giản này cho thấy đủ loại biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ. Từ ấn tượng trong lòng của các ngươi, hoặc từ những gì các ngươi nhìn thấy và trải nghiệm, chẳng phải sẽ có một số ví dụ liên quan đến phương diện này sao? Có vài người nói: “Tôi chưa bao giờ tiếp xúc với Đấng Christ; tôi chỉ nghe Ngài giảng đạo. Tôi không có trải nghiệm thực tế, cũng chưa từng thấy người khác biểu hiện phương diện này trong thực tế”. Vậy đối với người có trải nghiệm thực tế về điều này, các ngươi có cảm nhận hay nhận thức gì tương ứng không? Không có? Vậy thì chúng ta thực sự cần thông công một cách cặn kẽ, phải không? (Thưa, phải.) Nhìn bề ngoài, điều này bao gồm nhiều loại thái độ và biểu hiện khác nhau của con người khi tiếp xúc với Đấng Christ. Trên thực tế, từ điều này, người ta không chỉ có thể thấy những biểu hiện và thái độ khác nhau của con người đối với xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể, hơn nữa, từ cách mọi người tiếp cận với xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể, có thể nhìn thấy thái độ và biểu hiện thực sự của họ đối với Đức Chúa Trời. Nghĩa là, từ đó có thể nhìn thấy con người rốt cuộc có thái độ gì khi tiếp cận chính Đức Chúa Trời, Đấng có thân phận và thực chất của Đức Chúa Trời, và liệu con người có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, có thực sự tin và thuận phục Ngài hay không. Khi gặp phải những loại sự việc khác nhau, những thái độ khác nhau của con người đối với Đấng Christ sẽ cho thấy thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời mà họ tin. Khi tiếp cận con người bình thường này, là Đấng Christ, việc ngươi có quan niệm hay không, có thực sự tin và thuận phục hay không cho thấy ngươi có thực sự tin và thuận phục Đức Chúa Trời mà ngươi tin, là chính Đức Chúa Trời hay không. Trong cách con người tiếp cận Đức Chúa Trời trên trời – thái độ, quan điểm và điều họ thực sự nghĩ – những điều này rất mơ hồ, không cho thấy thái độ thực sự của họ đối với Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, khi con người thực sự tiếp xúc với Đức Chúa Trời, nhìn thấy xác thịt hữu hình, bằng xương bằng thịt của Đức Chúa Trời nhập thể, thái độ thực sự của họ đối với Đức Chúa Trời mới hoàn toàn được tỏ lộ. Trên thực tế, những lời con người nói, những suy nghĩ trong đầu họ, những quan điểm mà họ quy định và giữ trong lòng, cả những ý nghĩ và thái độ trong lòng họ đối với Đấng Christ, tất cả chính là những biểu hiện khác nhau của họ khi tiếp cận Đức Chúa Trời. Bởi vì Đức Chúa Trời trên trời là vô hình và không thể rờ được, nên đối với cách con người nghĩ về Ngài, cách họ tiếp cận Ngài, cách họ quy định về Ngài và liệu họ có thuận phục Ngài hay không, thực ra không có tiêu chuẩn nào ở con người để đánh giá xem những biểu hiện của họ có đúng đắn hay phù hợp với lẽ thật hay không. Nhưng khi Đức Chúa Trời nhập thể trở thành Đấng Christ, hết thảy mọi sự sẽ thay đổi: Sẽ có tiêu chuẩn để đánh giá hết thảy những biểu hiện và thái độ này của con người đối với Đức Chúa Trời, từ đó sẽ có thể nhìn thấy thái độ thực sự của con người đối với Đức Chúa Trời. Thông thường, mọi người nghĩ rằng họ vô cùng tin và thực sự tin Đức Chúa Trời, họ cảm thấy rằng Đức Chúa Trời thật vĩ đại, tối cao và đáng mến. Nhưng đây rốt cuộc là vóc giạc thực sự của họ hay chỉ đơn thuần là một loại tâm trạng? Thật khó để quy định. Khi con người nhìn mà không thể thấy Đức Chúa Trời, cho dù họ có ý tốt như thế nào khi tiếp cận Ngài, thì bên trong đó vẫn luôn pha lẫn một chút mơ hồ, rỗng tuếch, thiếu thực tế, và luôn đầy rẫy những tưởng tượng rỗng tuếch. Khi mọi người thực sự nhìn thấy và tiếp xúc với Đức Chúa Trời, rốt cuộc là họ tin và thuận phục Đức Chúa Trời đến nhường nào, và liệu họ có tình yêu thực sự dành cho Đức Chúa Trời hay không đều được tỏ lộ. Cho nên, khi Đức Chúa Trời nhập thể, nhất là khi Ngài trở thành một con người bình thường nhất có thể, đối với tất cả mọi người mà nói, xác thịt này, con người bình thường này trở thành sự thử luyện cho mỗi người, cũng tỏ lộ đức tin cũng như vóc giạc thực sự của mỗi người. Ngươi có thể đã đi theo Đức Chúa Trời khi bắt đầu thừa nhận sự tồn tại của Ngài, nhưng khi ngươi tiếp nhận Đức Chúa Trời nhập thể, nhìn thấy Đức Chúa Trời trở thành một người bình thường, trong lòng ngươi sẽ đầy quan niệm. Vào lúc này, Đấng Christ mà ngươi tin – con người bình thường này – trở thành thách thức lớn nhất đối với đức tin của ngươi. Vậy thì hôm nay, chúng ta hãy thông công về ảnh hưởng của con người bình thường này, xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể – Đấng Christ lên con người, và những biểu hiện thực sự của con người đối với con người bình thường này, đối với Đấng Christ, những biểu hiện này tỏ lộ đủ loại thái độ và quan điểm thực sự của họ đối với Đức Chúa Trời.

Nội dung chính yếu của điều thứ ba là con người tiếp cận Đấng Christ tùy theo tâm trạng. Rốt cuộc thì tâm trạng này có nghĩa là gì, đây là trọng tâm và nội dung chính của buổi thông công hôm nay. Đương nhiên, “tâm trạng” này chỉ là từ hoán dụ, là một sự khái quát, không hề là một loại tâm trạng mà đằng sau nó ẩn chứa đủ loại quan niệm, tưởng tượng, cũng như tâm tính bại hoại của con người, thậm chí là cả thực chất bản tính Sa-tan của họ. Khi mọi người không gặp bất kỳ trở ngại nào khi thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời, cũng không có chuyện gì ảnh hưởng đến tâm trạng của họ và hết thảy mọi việc đều vô cùng thuận lợi, thì mọi người có thể thường xuyên cầu nguyện trước Đức Chúa Trời, cuộc sống vô cùng có quy luật, vui vẻ và bình an. Hoàn cảnh xung quanh họ cũng vô cùng suôn sẻ, hầu hết anh chị em đều có thể chung sống hòa thuận với nhau, khi họ thực hiện bổn phận và học tập nghiệp vụ, Đức Chúa Trời cũng thường hướng dẫn, khai sáng, soi sáng cho họ, những nguyên tắc thực hành cũng tương đối rõ ràng – hết thảy mọi sự đều bình thường và suôn sẻ như vậy. Lúc này, con người cảm thấy mình vô cùng tin Đức Chúa Trời, cảm thấy vô cùng thân thiết với Đức Chúa Trời trong lòng, thường xuyên có thể đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện và thổ lộ tấm lòng, cảm thấy không có khoảng cách với Đức Chúa Trời và thấy Ngài vô cùng đáng mến. Tâm trạng của họ vô cùng tốt; họ thường sống trong sự bình an và vui vẻ, tích cực phát biểu trong các buổi nhóm họp, có thể cầu nguyện-đọc lời Đức Chúa Trời và học tập thánh ca đều đặn mỗi ngày. Khi mọi sự đều đang vô cùng tốt đẹp và suôn sẻ, con người không ngừng tạ ơn Đức Chúa Trời ở trong lòng, âm thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời, đặt quyết tâm muốn dâng mình cho Đức Chúa Trời suốt cả cuộc đời, dâng hiến mọi thứ mình có, chịu khổ và trả giá để làm tốt bổn phận. Họ cảm thấy Đức Chúa Trời thật vĩ đại, thật đáng mến, họ cũng có ý chí, nguyện ý dâng mình cho Đức Chúa Trời và dâng hiến cả cuộc đời mình cho Ngài. Đây chẳng phải là tình cảnh vô cùng chủ động và tích cực sao? Từ chuyện này, dường như chúng ta có thể thấy được lòng trung thành, tình yêu của con người dành cho Đức Chúa Trời và những cái giá mà họ đã trả. Thoạt nhìn, hết thảy mọi sự đều thật tốt đẹp, bình yên và suôn sẻ. Từ hết thảy những biểu hiện này, có vẻ như con người chỉ đang đơn phương tích cực nỗ lực, phối hợp với công tác của Đức Chúa Trời và những yêu cầu của Ngài mà không có gì xấu cả. Cho nên, trong lòng họ không ngừng tạ ơn Đức Chúa Trời, tạ ơn Đức Chúa Trời trên trời và tạ ơn Đấng Christ dưới đất, tràn đầy tình yêu và sự tôn kính vô hạn dành cho Đấng Christ. Mỗi khi họ hát thánh ca đến cụm từ “con người nhỏ bé này”, trong lòng họ cảm thấy vô cùng xúc động: “Thật sự là con người nhỏ bé này đã cứu rỗi mình, cho mình cơ hội và cho phép mình hôm nay được làm tròn bổn phận của loài thọ tạo trong nhà Đức Chúa Trời!” Thậm chí có người còn trực tiếp cầu nguyện: “Thưa Đức Chúa Trời thực tế, Đức Chúa Trời nhập thể và Đấng Christ, con tạ ơn Ngài, con ca ngợi Ngài, vì Ngài đã ban cho con hết thảy những phúc lành này, Ngài đã ban ân điển cho con, Ngài chính là Đức Chúa Trời trong lòng con, chính là Đấng Tạo Hóa, chính là Đấng mà con muốn đi theo. Con nguyện ý dâng mình cho Ngài suốt cả cuộc đời”. Hết thảy những cảnh tượng này thật bình yên, tốt đẹp và cũng thật hài hòa, như thể việc con người được cứu rỗi là rất dễ và nhẹ nhàng. Nhưng liệu sự hài hòa và bình yên này thực sự có thể được duy trì mãi mãi không? Thực sự có thể mãi mãi không thay đổi không? Chuyện không đơn giản như vậy.

1. Biểu hiện của họ khi bị tỉa sửa

Trong quá trình thực hiện bổn phận của mình, con người khó tránh khỏi việc bộc lộ tâm tính bại hoại, buông lời oán trách trong hoàn cảnh mà mình gặp phải, có quan điểm riêng, càng khó tránh khỏi việc hành sự tùy hứng và làm theo ý mình. Trong những tình huống như vậy, mọi người cũng khó tránh khỏi việc bị tỉa sửa. Khi đối mặt với việc bị tỉa sửa, một người đầy nhiệt huyết, đầy tưởng tượng và quan niệm về Đức Chúa Trời liệu có thực sự có vóc giạc để đối mặt với hết thảy mọi việc, thực sự trải nghiệm hết thảy mọi việc và có thể thuận lợi vượt qua những hoàn cảnh như vậy không? Một dấu chấm hỏi được đặt ra, và vấn đề nằm ở đây. Khi con người cảm thấy rằng mọi thứ thật tốt đẹp, rằng Đức Chúa Trời thật đáng mến, rằng Đức Chúa Trời yêu thương con người, rằng tình yêu của Ngài thật vĩ đại và chân thực, và rồi khi họ phải đối mặt với việc bị tỉa sửa và tỏ lộ, những người không hiểu lẽ thật thường cảm thấy hoang mang và bối rối, hoảng hốt và sợ hãi, chớp mắt đã thấy như mình đã rơi vào bóng tối, nhìn không thấy được con đường phía trước, không biết phải đối mặt với hoàn cảnh mà họ gặp phải trước mắt như thế nào. Khi đến trước Đức Chúa Trời, họ muốn tìm đến những cảm giác giống như trước đây, cầu nguyện với cùng tâm trạng, tư tưởng, quan điểm và thái độ như trước đây. Nhưng lúc này họ cảm thấy mình không thể cảm nhận được Đức Chúa Trời nữa. Khi họ cảm thấy không thể cảm nhận được Đức Chúa Trời, trong lòng họ nghĩ: “Chẳng lẽ Đức Chúa Trời không cần mình nữa? Đức Chúa Trời có ghét bỏ mình không? Phải chăng vì tâm tính bại hoại của mình mà Đức Chúa Trời không thích mình nữa? Có phải Đức Chúa Trời muốn loại bỏ mình không? Nếu vậy thì chẳng phải là mình xong đời rồi sao? Mình sống còn có ý nghĩa gì nữa? Tin Đức Chúa Trời còn có ý nghĩa gì nữa? Chi bằng mình không tin nữa. Nếu không tin, nói không chừng bây giờ mình còn có thể được một công việc tốt, một gia đình hòa thuận và một tương lai tốt đẹp! Tin Đức Chúa Trời cho đến nay chưa mang lại điều gì cho mình, nhưng nếu mình thực sự không tin nữa, thì chẳng phải là bao nhiêu công sức đổ sông đổ biển hay sao? Chẳng phải là uổng công trước đây dâng mình và trả giá hay sao?”. Khi nghĩ đến những điều này, họ chợt thấy thê lương, cả người khó chịu, và cho rằng: “Đức Chúa Trời trên trời quá xa vời, còn Đức Chúa Trời trên mặt đất này, ngoài việc thông công và cung ứng lẽ thật, Ngài còn có thể hỗ trợ gì cho tôi nữa? Ngài còn có thể ban những gì cho tôi? Ngài quá nhỏ bé và không thấu tình đạt lý. Có một chút tâm tính bại hoại thì đã sao? Nếu xử lý theo cách của con người, Đức Chúa Trời nên bỏ qua những người có một chút tâm tính bại hoại, nên xử lý họ một cách khoan hồng và không nên soi mói những lỗi nhỏ của họ. Tại sao vì một chuyện nhỏ như vậy mà Đức Chúa Trời lại tỉa sửa và sửa dạy tôi, thậm chí Ngài còn phớt lờ tôi như vậy? Việc bộc lộ tâm tính bại hoại trong hoàn cảnh như vậy không có gì to tát, nhưng Đức Chúa Trời lại có thể ghê tởm tôi. Rốt cuộc thì Ngài có yêu thương con người hay không? Rốt cuộc thì tình yêu của Ngài được tỏ lộ ở đâu? Rốt cuộc thì Ngài yêu thương con người như thế nào? Dù sao, vào lúc này, tôi cũng không còn cảm nhận được tình yêu của Đức Chúa Trời nữa”. Khi không thể cảm nhận được tình yêu của Đức Chúa Trời, trong lòng họ chợt cảm thấy xa cách với Đức Chúa Trời trên trời, và thậm chí còn xa cách hơn với Đấng Christ trên mặt đất, với con người bình thường này. Khi cảm thấy sự thê lương trong lòng, họ cầu nguyện và tự an ủi mình nhiều lần: “Đừng sợ, hãy đặt hy vọng vào Đức Chúa Trời trên trời. Đức Chúa Trời là hậu thuẫn của mình, Đức Chúa Trời là sức mạnh của mình, Đức Chúa Trời vẫn yêu thương con người”. Vào lúc này, Đức Chúa Trời mà con người nói đến ở đâu? Ở trên trời hay giữa vạn vật, Đức Chúa Trời nào mới là Đấng thực sự yêu thương con người, mới là Đức Chúa Trời mà con người ngưỡng vọng và yêu kính, mới là Đấng hậu thuẫn, hỗ trợ con người và có thể an ủi tâm hồn họ. Ngài là chỗ dựa cho tinh thần, tâm hồn và thể xác của họ. Còn những gì mà Đức Chúa Trời trên mặt đất có thể làm, trong lòng con người giờ đây không còn chút dựa dẫm nào nữa. Thái độ của họ biến đổi. Nó biến đổi trong tình huống nào? Khi họ đối mặt với việc bị tỉa sửa, tỏ lộ, và gặp phải những va vấp, thì đức tin thực sự của họ được tỏ lộ.

Một khi con người đối mặt với việc bị tỉa sửa, cái gọi là đức tin chân thực của họ ngay lập tức được gửi gắm vào Đức Chúa Trời xa vời ở trên trời. Đối với Đức Chúa Trời hữu hình trên mặt đất, thái độ của họ là gì? Phản ứng đầu tiên của con người là vứt bỏ, buông bỏ, không còn cậy dựa hay tin nữa mà là trốn tránh, tránh né và lánh xa Ngài. Mọi người có một loại tâm trạng như vậy. Khi đối mặt với việc bị tỉa sửa, lẽ thật mà con người hiểu, cái gọi là đức tin, lòng trung thành, tình yêu và sự thuận phục chân thực của họ trở nên mong manh đến vậy. Khi hết thảy những hoàn cảnh này thay đổi, thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời nhập thể cũng thay đổi theo. Những sự trả giá trước đây của họ – cái gọi là lòng trung thành, sự dâng mình, cái giá phải trả, cũng như cái gọi là sự thuận phục – vào giờ phút này được tỏ lộ không phải là lòng trung thành hay sự thuận phục thực sự nào, mà chỉ là một loại nhiệt huyết. Vậy điều gì pha lẫn trong sự nhiệt huyết này? Nó bị pha lẫn với tình cảm, lòng tốt và sự nghĩa khí của nhân loại. Sự nghĩa khí này cũng có thể được lý giải là sự nóng nảy, như “Nếu tôi đi theo ai thì phải có tình anh em nghĩa khí, sẽ vì họ mà bán mạng và ra sức, vì họ mà liều cả mạng sống, vì họ mà dâng hiến hết thảy”, đây là biểu hiện của sự nóng nảy của nhân loại. Những loại biểu hiện này của nhân loại bị tỏ lộ vào giờ phút này. Tại sao chúng bị tỏ lộ? Đó là bởi vì, trong tư tưởng và quan điểm của mọi người, họ dường như đã tiếp nhận rằng người bình thường này là Đức Chúa Trời nhập thể, là Đấng Christ, là Đức Chúa Trời, và rằng Ngài sở hữu thân phận của Đức Chúa Trời – nhưng nhìn vào vóc giạc thực tế của họ, lẽ thật mà họ hiểu, và sự nhận thức của họ về Đức Chúa Trời, họ chưa thực sự tiếp nhận con người bình thường này, cũng chưa tiếp cận người bình thường này như Đấng Christ hay như Đức Chúa Trời. Khi hết thảy mọi việc thuận lợi và như ý nguyện, khi con người cảm thấy rằng Đức Chúa Trời đang chúc phúc, soi sáng, dẫn dắt và ban ân điển cho họ, khi những gì con người đạt được từ Đức Chúa Trời phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của họ, thì họ có thể theo ý nguyện chủ quan mà tiếp nhận con người bình thường mà Đức Chúa Trời làm chứng là Đức Chúa Trời của con người. Tuy nhiên, khi hết thảy những hoàn cảnh này thay đổi, khi Đức Chúa Trời lấy đi hết thảy và khi con người không có nhận thức hay vóc giạc thực sự, thì hết thảy mọi thứ về họ đều bị tỏ lộ, và những gì họ bộc lộ ra hoàn toàn là thái độ thực sự của họ đối với Đức Chúa Trời. Thái độ thực sự này nảy sinh như thế nào? Căn nguyên là từ đâu? Căn nguyên là từ tâm tính bại hoại của con người và sự thiếu nhận thức của họ về Đức Chúa Trời. Tại sao lại nói như vậy? Bên trong tâm tính bại hoại của con người là gì? (Thưa, sau khi bị Sa-tan làm bại hoại, bên trong con người đề phòng Đức Chúa Trời và có sự ngăn cách với Ngài. Cho dù Đức Chúa Trời có làm gì, con người đều sẽ nghĩ: “Có phải Đức Chúa Trời muốn làm hại mình không?”) Có phải giữa con người và Đức Chúa Trời chỉ đơn thuần là có sự ngăn cách thôi không? Chỉ đơn giản như vậy thôi sao? Không chỉ là có sự ngăn cách; đây là vấn đề của hai loại thực chất khác nhau. Con người có tâm tính bại hoại – Đức Chúa Trời có tâm tính bại hoại không? (Thưa, không.) Vậy thì tại sao con người lại không hòa hợp với Đức Chúa Trời, và lại đối địch với Ngài? Nguyên nhân là ở đâu? Ở Đức Chúa Trời hay là ở chỗ con người? (Thưa, ở chỗ con người.) Chẳng hạn như, nếu hai người tranh cãi một trận và không nói chuyện với nhau, cho dù có nói thì cũng chỉ là nói điều gì đó ở bên ngoài, còn trong lòng họ thì đã nảy sinh sự ngăn cách. Sự ngăn cách này là như thế nào? Sự ngăn cách giữa người với người nảy sinh là do họ có hai loại quan điểm khác nhau không thể tương hợp được, hơn nữa là cũng không ai buông bỏ quan điểm của mình, không thể đạt đến hợp nhất. Nhưng nếu nói giữa con người và Đức Chúa Trời có sự ngăn cách, thì mức độ này phải chăng có chút giảm nhẹ và nói chưa chính xác? Đúng thật là có sự ngăn cách, nhưng nếu chỉ dùng từ “ngăn cách” để giải thích vấn đề về tâm tính bại hoại của con người thì mức độ là quá nhẹ. Bởi vì sau khi con người bị Sa-tan làm bại hoại, con người có tâm tính và thực chất bại hoại của Sa-tan, và tính cách bẩm sinh của họ chính là đối địch với Đức Chúa Trời. Sa-tan đối địch với Đức Chúa Trời. Nó có xem Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời không? Nó có tin hay thuận phục Đức Chúa Trời không? Nó không thực sự tin, cũng không thực sự thuận phục – Sa-tan là như vậy. Con người cũng giống như Sa-tan; họ có tâm tính và thực chất bại hoại của Sa-tan, cũng không thực sự tin và thuận phục Đức Chúa Trời. Vậy, nếu con người không thực sự tin và thuận phục Đức Chúa Trời, thì có thể nói rằng giữa con người và Đức Chúa Trời có sự ngăn cách không? (Thưa, không thể.) Chuyện này chỉ cho thấy rằng con người đối địch với Đức Chúa Trời. Khi những gì Đức Chúa Trời làm trên con người phù hợp với thị hiếu, tâm trạng và nhu cầu của họ, thỏa mãn sở thích và khiến hết thảy mọi thứ đều thuận lợi như mong muốn của họ, thì họ sẽ cảm thấy rằng Đức Chúa Trời quá đáng mến. Nhưng cảm giác Đức Chúa Trời đáng mến tại thời điểm này có chân thực không? (Thưa, không.) Chỉ là người ta được hưởng lợi nên thuận miệng nói một vài lời tử tế; việc này được gọi là hưởng lợi ích rồi giả vờ tử tế. Trong những tình huống như vậy, những lời người ta nói có phản ánh một sự nhận thức đúng về Đức Chúa Trời không? Sự nhận thức này về Đức Chúa Trời là thật hay giả? (Thưa, là giả.) Sự nhận thức này không phù hợp với lẽ thật, cũng không phù hợp với thực chất của Đức Chúa Trời. Đây không phải là sự nhận thức thực sự mà là một loại giả tưởng và quan niệm xuất phát từ tình cảm và sự nóng nảy của con người. Khi quan niệm này bị phá vỡ, vạch trần và tỏ lộ, mọi người cảm thấy nản lòng; hàm ý rằng hết thảy những gì họ mong muốn đạt được đều đã bị lấy đi. Chẳng phải nhận định trước đây của mọi người, rằng Đức Chúa Trời đáng mến và tốt như thế này thế kia, đã bị phê phán và lên án sao? Điều này hoàn toàn trái ngược với những gì họ tin trước đây. Vậy họ có thể tiếp nhận sự thật này không? (Thưa, không thể.) Khi Đức Chúa Trời không ban gì cho ngươi cả, Ngài chỉ để ngươi sống dựa theo lời Ngài, nói chuyện, làm việc, thực hiện bổn phận, phụng sự Đức Chúa Trời, hòa hợp với người khác, v.v., khiến người sống dựa theo lời Ngài trong hết thảy mọi việc. Khi sống dựa theo lời Ngài, ngươi có thể cảm nhận được sự lao tâm khổ tứ của Đức Chúa Trời, có thể thực sự yêu kính và thuận phục Đức Chúa Trời, khi đó, những uế tạp bên trong ngươi sẽ ít đi, ngươi sẽ cảm nhận được rằng sự đáng mến và thực chất của Đức Chúa Trời là chân thực.

Khi con người đối mặt với việc bị sửa dạy và tỉa sửa, họ nảy sinh những quan niệm, sự oán trách và hiểu lầm về Đức Chúa Trời. Khi những thứ này xuất hiện, con người chợt cảm thấy Đức Chúa Trời không thấu tình đạt lý, dường như Ngài không đáng mến như họ tưởng tượng: “Mọi người đều nói Đức Chúa Trời đáng mến, nhưng tại sao tôi lại không cảm nhận được? Nếu Đức Chúa Trời thực sự đáng mến, thì Ngài sẽ chúc phúc và an ủi tôi. Khi tôi làm chuyện gì sai, Ngài nên nhắc nhở tôi chứ không nên làm tôi xấu mặt hay để tôi phạm sai lầm! Đức Chúa Trời nên làm những chuyện này trước khi tôi phạm sai lầm, không để tôi xảy ra sai sót hoặc đi sai đường!” Khi đối mặt với nghịch cảnh, những quan niệm và ý nghĩ này quay cuồng lên trong lòng họ. Lúc này, cách họ nói chuyện và hành sự tất nhiên không thể cởi mở được. Khi con người đối mặt với việc bị tỉa sửa hay đối mặt với nghịch cảnh, tâm trạng của họ tệ đi, họ cảm thấy rằng Đức Chúa Trời không yêu thương họ đến vậy, cũng chẳng ban nhiều ân điển cho họ, rằng bản thân họ cũng chẳng phải được ưu ái cho lắm. Họ nghĩ trong lòng: “Nếu Đức Chúa Trời không yêu thương mình thì tại sao mình còn yêu kính Ngài làm gì? Mình cũng sẽ không yêu kính Đức Chúa Trời nữa”. Trước đây, khi đối thoại với Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời hỏi điều gì thì họ trả lời điều đó; họ vô cùng tích cực. Họ luôn muốn chia sẻ nhiều hơn, không bao giờ hết chuyện để nói, muốn nói, biểu đạt mọi suy nghĩ trong lòng và muốn làm tri kỷ của Đức Chúa Trời. Nhưng khi đối mặt với việc bị tỉa sửa, họ cảm thấy Đức Chúa Trời không còn đáng mến nữa, cũng không yêu thương họ nhiều nữa, và họ cũng không muốn yêu kính Đức Chúa Trời nữa. Khi Đức Chúa Trời hỏi điều gì, họ chỉ đáp qua quýt một câu ngắn gọn và qua loa, hỏi câu nào thì trả lời câu ấy. Đức Chúa Trời hỏi họ: “Gần đây ngươi thực hiện bổn phận của mình thế nào rồi?” “Cũng được”. “Có gặp khó khăn gì không?” “Thỉnh thoảng cũng có”. “Có thể phối hợp hài hòa với các anh chị em không?” Họ nghĩ thầm: “Hừm, bản thân mình còn lo chưa xong, làm sao có thể phối hợp hài hòa với người khác được?” “Ngươi có thấy yếu đuối không?” “Con vẫn ổn”. Họ cũng lười nói thêm, thái độ hoàn toàn là tiêu cực và oán giận. Cả người trở nên chán nản và suy sụp, tràn đầy oán khí và trạng thái ấm ức, chẳng buồn nói thêm dù chỉ một câu. Tại sao lại như vậy? Bởi vì tâm trạng của họ hiện tại không tốt lắm, tình trạng tương đối chùng xuống, cũng không có tâm trạng nói chuyện với ai. Khi được hỏi: “Gần đây ngươi có cầu nguyện không?” “Con vẫn chỉ cầu nguyện bấy nhiêu lời đó thôi”. “Tình trạng của ngươi gần đây không được tốt; ngươi có tìm kiếm lẽ thật khi gặp khó khăn chưa?” “Chuyện gì con cũng hiểu cả, chỉ là không thể tích cực nổi thôi”. “Ngươi đã nảy sinh hiểu lầm về Đức Chúa Trời. Ngươi có nhận biết vấn đề của mình nằm ở đâu không? Tâm tính bại hoại nào đang ngăn cản ngươi đến trước Đức Chúa Trời? Vấn đề gì đang khiến ngươi tiêu cực đến mức lười đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện vậy?” “Con cũng không biết”. Đây là loại thái độ gì vậy? (Thưa, tiêu cực và đối đầu.) Đúng vậy, họ không có chút thuận phục nào mà còn đầy oán giận và ấm ức. Trong thế giới tinh thần và tư tưởng của mình, họ cho rằng Đức Chúa Trời giống như tượng Phật hay Bồ Tát mà con người hay nói. Bất kể con người làm gì và sống như thế nào, những tượng Phật hay Bồ Tát đó không bao giờ thốt ra một lời nào, chỉ tùy cho con người sắp đặt. Họ cho rằng Đức Chúa Trời không nên tỉa sửa họ, càng không nên làm hại họ; dù họ có làm sai bất kỳ chuyện gì, Đức Chúa Trời chỉ nên vỗ về họ chứ không nên tỉa sửa, vạch trần hay tỏ lộ họ, và càng không nên sửa dạy họ. Họ muốn dựa theo tâm trạng cũng như tâm tính của mình mà tin Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình, muốn làm thế nào thì làm thế ấy, họ nghĩ rằng dù mình có làm như thế nào thì Đức Chúa Trời cũng phải hài lòng, vui mừng và chấp nhận. Nhưng không theo như mong muốn của họ, Đức Chúa Trời không làm việc như vậy. Nên họ cho rằng: “Nếu Đức Chúa Trời không làm việc theo như con người tưởng tượng thì Ngài có còn là Đức Chúa Trời không? Liệu Ngài có còn đáng để tôi bỏ công sức, dâng mình và trả giá không? Nếu không đáng mà tôi còn dâng hiến lòng chân thành của mình thì chẳng phải là ngu muội sao?” Khi đến lúc phải tỉa sửa, phản ứng ban đầu của con người là không lắng nghe, từ góc độ của một loài thọ tạo, đối với những gì Đức Chúa Trời nói hoặc những yêu cầu của Ngài, cũng như không lắng nghe những vấn đề, tình trạng hoặc tâm tính của con người mà Đức Chúa Trời tỏ lộ là gì, cũng không lắng nghe việc con người nên chấp nhận, quan tâm, hoặc thuận phục những điều này như thế nào. Những thứ như vậy không có trong tâm trí của con người. Bất kể Đức Chúa Trời nói với con người như thế nào hoặc Ngài hướng dẫn họ ra sao, nếu giọng điệu hoặc cách nói của Ngài không đúng với mong đợi của họ – nếu tình cảm, lòng tự trọng và sự yếu đuối của con người không được xem xét – thì con người sẽ có các quan niệm, và họ không muốn coi Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, cũng không coi bản thân họ là loài thọ tạo. Vấn đề lớn nhất ở đây là khi Đức Chúa Trời sắp đặt thiên thời địa lợi, con người sẵn sàng hành động như loài thọ tạo, nhưng khi Đức Chúa Trời bày ra nghịch cảnh để sửa dạy và phơi bày con người, để họ học được một bài học và để họ hiểu lẽ thật và biết ý muốn của Ngài – vào những lúc này, con người quay lưng lại với Ngài ngay lập tức và không còn mong muốn là loài thọ tạo nữa. Khi một người không muốn là loài thọ tạo, thì, từ quan điểm đó và vị trí đó, liệu họ sẽ có thể thuận phục Đức Chúa Trời không? Liệu họ sẽ có thể chấp nhận thân phận và thực chất của Đức Chúa Trời không? Họ sẽ không thể. Khi những lúc con người có tâm trạng tốt, trạng thái tốt và sự nhiệt tình – những lúc con người muốn trở thành bạn tâm giao của Đức Chúa Trời – nhường chỗ cho những lúc con người muốn từ bỏ Ngài khi phải đối mặt với sự tỉa sửa, những hoàn cảnh do Đức Chúa Trời sắp đặt, thì thật là một sự thay đổi lớn. Chính xác thì sự thật của vấn đề này là gì? Nó là gì mà con người nên biết? Chẳng phải một người, với tư cách là loài thọ tạo, nên biết họ nên có kiểu thái độ nào đối với Đức Chúa Trời sao? Những nguyên tắc nào cần được tuân thủ? Là một con người – một con người bại hoại – một người nên có quan điểm và vị trí nào đối với mọi thứ mà Đức Chúa Trời ban cho con người và những hoàn cảnh mà Ngài sắp đặt? Con người nên coi việc tỉa sửa của Đức Chúa Trời đối với họ như thế nào? Chẳng phải con người nên suy ngẫm về những vấn đề như vậy sao? (Phải.) Mọi người nên phản tỉnh về những điều như thế này. Bất kể khi nào và bất kể một người đối xử với Đức Chúa Trời như thế nào, thì trên thực tế, thân phận của con người vẫn không thay đổi; con người luôn luôn là loài thọ tạo. Nếu ngươi không chấp nhận địa vị của mình là loài thọ tạo, điều đó có nghĩa ngươi phản nghịch và không hề thay đổi tâm tính của mình, không kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Nếu ngươi chấp nhận vị trí của ngươi là loài thọ tạo, thì ngươi nên có loại thái độ nào đối với Đức Chúa Trời? Chí ít, ngươi phải có điều này: sự thuận phục vô điều kiện. Điều đó có nghĩa là lúc nào cũng phải biết rằng những việc Đức Chúa Trời làm không bao giờ sai, còn nếu có sai thì là ở con người. Bất kể các hoàn cảnh nào xảy đến – đặc biệt là khi đối mặt với nghịch cảnh, và đặc biệt là khi Đức Chúa Trời tỏ lộ hoặc phơi bày con người – thì điều đầu tiên con người nên làm là đến trước Đức Chúa Trời để phản tỉnh bản thân và xem xét lời nói và việc làm cũng như tâm tính bại hoại của họ, thay vì xem xét, nghiên cứu và phán xét xem liệu lời và hành động của Đức Chúa Trời là đúng hay sai. Nếu ngươi ở đúng vị trí của mình, ngươi nên biết chính xác ngươi phải làm gì. Con người có tâm tính bại hoại và không hiểu lẽ thật. Đây không phải là vấn đề lớn. Nhưng khi con người có tâm tính bại hoại và không hiểu lẽ thật, nhưng vẫn không tìm kiếm lẽ thật – lúc này thì họ có vấn đề lớn rồi. Ngươi có tâm tính bại hoại và không hiểu lẽ thật và ngươi có thể phán xét Đức Chúa Trời một cách tùy tiện, và tiếp cận, tương tác với Ngài tùy theo tâm trạng, sở thích và cảm xúc của ngươi. Tuy nhiên, nếu ngươi không mưu cầu và thực hành lẽ thật, thì mọi việc sẽ không đơn giản như vậy. Ngươi không chỉ sẽ không thể thuận phục Đức Chúa Trời, mà ngươi còn có thể hiểu lầm và phàn nàn về Ngài, lên án Ngài, chống đối Ngài và thậm chí mắng nhiếc và chối bỏ Ngài trong lòng, nói rằng Ngài không công chính, rằng không phải mọi điều Ngài làm đều nhất thiết là đúng. Chẳng phải là nguy hiểm khi ngươi vẫn có thể phát sinh những điều như vậy? (Đúng vậy.) Điều đó rất nguy hiểm. Việc không mưu cầu lẽ thật có thể phải trả giá bằng mạng sống của họ! Và việc này có thể xảy ra bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu. Cho dù cảm xúc, khát vọng, tham muốn hoặc lý tưởng của ngươi hiện tại có đầy dẫy đến đâu, và trong lòng ngươi có yêu Đức Chúa Trời nhiều bao nhiêu vào lúc này, thì tất cả chỉ là tạm thời. Giống như khi một mục sư chủ trì hôn lễ cho một cặp đôi và hỏi cả hai người: “Con có nguyện ý nhận anh ấy (hoặc cô ấy) làm chồng (hoặc vợ) của mình không? Bất kể gặp bệnh tật, tai họa hay bần cùng, v.v., thì con đều nguyện ý ở bên cạnh anh ấy (hoặc cô ấy) không?”. Đôi bên đều rưng rưng nước mắt, cảm xúc dâng trào, cùng nhau thề nguyện vì đối phương mà trả giá và chịu trách nhiệm suốt cuộc đời. Những lời thề non hẹn biển vào thời khắc này là gì? Chúng chỉ là tâm trạng và nguyện vọng nhất thời của con người. Nhưng liệu cả hai người đều có nhân cách giống như vậy không? Liệu họ đều có nhân tính giống như vậy không? Điều đó vẫn còn là một ẩn số; tương lai mười năm, hai mươi năm hoặc ba mươi năm nữa mới biết được đây có là chân tình hay không. Có người ly hôn sau ba đến năm năm, có người thì sau mười năm, và cũng có người thì sau ba mươi năm, nói ly hôn là ly hôn. Nguyện vọng lúc đầu của họ đã đi đâu mất rồi? Thề non hẹn biển đã đi đâu mất rồi? Chúng đã sớm bị ném lên chín tầng mây rồi. Thề non hẹn biển có tác dụng gì? Không có tác dụng gì cả; đó chỉ là nguyện vọng và tâm trạng nhất thời – tâm trạng và nguyện vọng chẳng quyết định được gì cả. Để một đôi vợ chồng có thể thực sự ở cùng nhau cả đời và đến cuối cuộc đời, thì cần phải có điều gì? Nói một cách lý tưởng thì tối thiểu là cả hai người đều phải có nhân cách chính trực và ngay thẳng. Nói một cách cụ thể hơn, trong cả cuộc đời, họ sẽ gặp phải rất nhiều chuyện lớn nhỏ, tốt xấu, hoạn nạn, va vấp, khó khăn, mười chuyện thì hết tám, chín chuyện là không như ý họ muốn. Nên đòi hỏi cả hai bên phải có sự bao dung, nhẫn nại, tình yêu thương, sự thông cảm và quan tâm thực sự, có những thứ tương đối tích cực này bên trong nhân tính thì hai người mới có thể dìu đỡ nhau đi đến cuối con đường. Nếu không có những phẩm chất này mà chỉ dựa vào lời thề, cũng như những lý tưởng, nguyện vọng và ảo tưởng lúc mới kết hôn, thì chắc chắn họ không thể đi đến cuối con đường. Tin Đức Chúa Trời cũng giống như vậy; nếu không tìm kiếm lẽ thật mà chỉ dựa vào một chút nhiệt huyết và nguyện vọng, thì chắc chắn không thể đứng vững và tuyệt đối không thể theo Đức Chúa Trời đến cùng.

Làm sao để một người có thể tin và theo Đức Chúa Trời mà không dựa theo tâm trạng và không bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh hay tâm trạng của họ? Làm thế nào mới có thể làm được như vậy? Người tin Đức Chúa Trời tối thiểu phải có điều gì? Họ phải có thái độ yêu thích và tìm kiếm lẽ thật. Có vài người nói: “Ý chí và phát nguyện có quan trọng hay không?” Những điều này không có thì cũng không được, tùy thuộc vào từng giai đoạn. Nếu ai đó mới tin một hoặc hai năm, không có những điều này thì không kích thích được nhiệt huyết của họ. Nếu không có nhiệt huyết, người mới tin Đức Chúa Trời sẽ có thể thờ ơ, không quá mưu cầu cũng không thối lui, bảo làm gì thì làm đó. Người như vậy khó mà tiến bộ và không có thái độ rõ ràng. Cho nên, người mới tin cần có phần nhiệt huyết này. Sự nhiệt huyết này có thể mang lại rất nhiều điều tích cực cho mọi người, cho phép họ nhanh chóng hiểu được lẽ thật, khải tượng và tôn chỉ công tác của Đức Chúa Trời, cũng như có thể nhanh chóng đặt nền móng. Mặt khác, khi mọi người có thể dâng mình và trả giá một cách tích cực và nhiệt huyết, họ bước vào thực tế lẽ thật nhanh hơn. Người mới tin chỉ cần có sự nhiệt huyết này, cũng cần có quyết tâm và lý tưởng. Tuy nhiên, nếu đã tin Đức Chúa Trời hơn ba năm mà một người vẫn dừng lại ở giai đoạn nhiệt huyết này thì họ có thể gặp nguy hiểm. Mối nguy hiểm này nằm ở đâu? Mọi người luôn dựa vào tưởng tượng và quan niệm để tiếp cận việc tin Đức Chúa Trời và biến đổi tâm tính, để biết Đức Chúa Trời, lý giải công tác cũng như những yêu cầu của Ngài đối với con người. Người như vậy có thể bước vào thực tế lẽ thật hay hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Nếu một người không thể hiểu lẽ thật thì sẽ gặp vấn đề. Có ai tin Đức Chúa Trời và sống cả đời trong sự nuông chiều, ân điển và phước lành hay không? Không có, sớm muộn gì thì ngươi đều phải tiếp xúc với đời sống hiện thực và những hoàn cảnh khác nhau mà Đức Chúa Trời đã sắp xếp cho ngươi. Khi tiếp xúc với những hoàn cảnh khác nhau này và đủ loại vấn đề trong đời sống hiện thực, sự nhiệt huyết của ngươi có thể có tác dụng gì? Nó chỉ có thể khiến ngươi khắc chế, trả giá, chịu khổ, chứ không thể khiến ngươi hiểu được lẽ thật hoặc tâm ý của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, nếu ngươi tìm kiếm và hiểu lẽ thật thì lại khác. Khác nhau ở đâu? Khi hiểu lẽ thật và đối mặt với những chuyện này, ngươi sẽ không còn dựa vào nhiệt huyết hay quan niệm để tiếp cận nữa. Khi gặp phải bất kỳ chuyện gì, trước tiên ngươi sẽ đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm, cầu nguyện và tìm kiếm những nguyên tắc lẽ thật. Ngươi sẽ có thể thuận phục với ý thức và thái độ này. Thái độ và ý thức này rất then chốt. Có khả năng trong một lần đối mặt với sự thử luyện nào đó, ngươi không đạt được gì cả, không đi sâu vào lẽ thật và không hiểu thực tế của lẽ thật rốt cuộc là gì. Nhưng trong lần thử luyện này, ngươi có được ý thức và thái độ thuận phục như vậy, cho phép ngươi thực sự thể nghiệm việc mà con người, với tư cách là loài thọ tạo, nên làm như thế nào và làm gì thì mới là bình thường và thỏa đáng nhất trước Đức Chúa Trời. Mặc dù ngươi có thể không hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời hoặc không biết chính xác những gì Ngài muốn ngươi đạt được hoặc nhận được trong một hoàn cảnh như vậy, nhưng ngươi cảm thấy rằng mình có thể thuận phục Ngài và những hoàn cảnh như vậy. Từ sâu thẳm nội tâm, ngươi có thể tiếp nhận hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời đã sắp xếp cho ngươi. Ngươi cảm thấy mình đã giữ vững được cương vị của một loài thọ tạo, không phản nghịch hay đối đầu với Đức Chúa Trời, và trong lòng ngươi rất vững vàng. Mặc dù cảm thấy vững vàng, nhưng sự cậy dựa của ngươi vào Đức Chúa Trời trên trời không hề xa vời, và đối với Đức Chúa Trời trên mặt đất, ngươi cũng không lánh xa hay vứt bỏ. Thay vào đó, từ sâu thẳm nội tâm, ngươi có thêm một chút kính sợ và thân thiết với Ngài. Hãy nhìn xem, người tìm kiếm lẽ thật, có thể đạt đến thuận phục cùng với người dựa vào nhiệt huyết và chỉ có một chút ý chí – sự khác biệt giữa họ có lớn hay không? Có sự khác biệt rất lớn. Người dựa vào nhiệt huyết và chỉ có ý chí khi gặp chuyện thì sẽ phản kháng, nói phải trái, oán trách và ấm ức, “Tại sao Đức Chúa Trời lại đối đãi với tôi như vậy? Tôi còn trẻ như vậy, sao Ngài không dỗ dành tôi? Tại sao Ngài không thử đếm những công lao trước kia của tôi? Tại sao Ngài không thưởng mà còn phạt tôi? Tôi mới bấy nhiêu tuổi, đã biết gì đâu? Ngay cả cha mẹ ở nhà cũng chưa bao giờ đối đãi với tôi như vậy; họ nâng niu tôi như viên ngọc quý trên tay và như đứa con bé bỏng của họ. Bây giờ tôi đã trưởng thành hơn nhiều sau khi đến nhà Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời đối đãi với tôi như vậy cũng quá thiếu sự cân nhắc!” Họ sẽ lập luận phi lý như vậy. Kiểu lập luận phi lý này nảy sinh như thế nào? Nếu một người tìm kiếm và hiểu lẽ thật thì có thể có những lập luận phi lý này không? Nếu một người đang thực hiện bổn phận bình thường, hiểu và nhận biết những lẽ thật này, thì khi gặp chuyện, liệu họ còn có thể nảy sinh những oán giận và sự nóng nảy này nữa không? (Thưa, không thể.) Chắc chắn họ sẽ không nói như vậy. Thay vào đó, họ tự xem mình là một loài thọ tạo bình thường, không phân biệt tuổi tác, giới tính, địa vị cao thấp hay sang hèn, họ chỉ đến trước Đức Chúa Trời, thuận phục và lắng nghe lời Ngài phán. Khi con người có thể lắng nghe những lời Đức Chúa Trời phán và những yêu cầu của Ngài, thì trong lòng họ sẽ có sự thuận phục. Khi một người có thể có ý thức và thái độ thuận phục, họ thực sự đứng ở vị trí của một loài thọ tạo, có sự yêu kính, thuận phục và kính sợ Đức Chúa Trời, chứ không dựa vào tâm trạng hay cảm xúc. Đây là một số phản ứng khi con người đối mặt với việc bị tỉa sửa. Các phản ứng chính yếu là gì? Con người thấy tâm trạng không tốt, thấy mình bị va vấp, ấm ức và cần được an ủi. Khi không đạt được sự an ủi hay ấm áp nào, trong lòng họ bắt đầu oán trách và hiểu lầm Đức Chúa Trời. Họ không còn mong muốn cầu nguyện với Ngài nữa, và từ sâu thẳm nội tâm, họ muốn vứt bỏ và rời xa Ngài – cả Đức Chúa Trời trên trời lẫn Đức Chúa Trời trên mặt đất. Có người nếu bị Ta tỉa sửa một chút, lần sau gặp lại thì họ sẽ luôn trốn tránh và không muốn tiếp xúc với Ta. Thông thường, khi không bị tỉa sửa thì họ luôn đến trước Ta, lát thì bưng trà rót nước, lát thì đến hỏi xem Ta có cần gì hay không, họ có tâm trạng tốt, chịu khó, nói cũng nhiều và có mối quan hệ thân thiết với Đức Chúa Trời. Nhưng một khi bị tỉa sửa thì mọi chuyện không còn như xưa nữa – trà nước không có, cũng không ân cần thăm hỏi, hỏi thêm vài câu là họ bỏ đi, không thấy bóng dáng đâu nữa.

Hồi còn ở Trung Quốc đại lục, Ta đã ở nhà của một số anh chị em. Vài người trong sô họ có nhân tính không tốt, một số là những người mới tin, một số thì lần đầu tiếp xúc mà đã có vô số quan niệm, họ không hiểu lẽ thật, còn số khác thì căn bản không phải là người mưu cầu lẽ thật. Khi nhìn thấy những người này bộc lộ sự bại hoại, Ta không thể tỉa sửa họ, phán lời cũng phải thật nhẹ nhàng. Nếu ngươi thực sự tỉa sửa họ, họ sẽ có quan niệm và phản nghịch, nên ngươi phải dỗ dành và thương lượng với họ, đồng thời thông công lẽ thật nhiều hơn để hướng dẫn họ. Nếu không thương lượng hay thông công mà chỉ trực tiếp đề xuất yêu cầu thì tuyệt đối sẽ không có tác dụng gì. Chẳng hạn như, ngươi có thể nói, “Bữa cơm này hơi mặn; có lẽ lần sau hãy làm nhạt hơn một chút. Đừng làm mặn như vậy, ăn quá mặn không tốt cho sức khỏe. Người tin Đức Chúa Trời cũng nên áp dụng lẽ thường chứ không thể ngu muội; ngươi phải tiếp nhận những điều tích cực. Nếu không tin Ta thì ngươi có thể hỏi bác sĩ trung y, xem thử ăn quá mặn có phải hại thận hay không”. Thương lượng theo cách này cũng được. Nhưng nếu ngươi nói: “Món mặn như vậy mà cũng làm được hay sao, muốn mặn chết người ta hay sao? Tại sao luôn làm mặn như vậy chứ? Mặn quá không cách nào ăn nổi! Tại sao anh lại ngu muội đến vậy? Lần sau đừng làm mặn như vậy nữa!” Cách nói này lại không ổn. Bữa ăn tiếp theo, họ có thể không thêm chút muối nào cho ngươi cả. Sau đó, ngươi nói, “Tại sao lại nhạt như vậy?” “Nhạt ư? Không phải anh đã nói là nó quá mặn sao? Quá mặn thì hại cho thận, vậy rõ ràng là không thêm muối thì tốt hơn chứ, như vậy sẽ không hại thận”. Nói nặng lời thì sẽ không ổn; ngươi cần phải thương lượng và dỗ dành. Nhiều người rất phiền phức, khi nói chuyện với họ, ngươi phải chú ý phương thức và thời điểm nói, cũng phải xem tâm trạng của họ – ngươi phải thương lượng một chút. Đôi khi, nếu ngươi vô tình nói hơi nặng lời thì có thể làm tổn thương họ, và trong lòng họ sẽ chống đối. Nhìn bề ngoài thì có vẻ là không có gì nhưng bên trong lại khác. Thông thường, khi ngươi yêu cầu họ làm điều gì đó, họ sẽ làm ngay, nhưng nếu ngươi làm tổn thương họ, tất nhiên họ sẽ không thể tích cực làm việc, sẽ lề mề và không hề tự nguyện. Họ nói: “Tâm trạng của tôi không tốt, làm sao có thể đối đãi tốt với anh được? Tôi sẽ tốt với anh hơn khi có tâm trạng tốt, nhưng khi tâm trạng không tốt thì tương đối là được rồi”. Đây là thứ người gì vậy? Chẳng phải là người quá khó nhằn sao? (Thưa, phải.) Con người chính là thứ như vậy, không thể nói lý và không thể giải thích được bằng lô-gích. Sau khi phản tỉnh, họ có thể cúi đầu, nhận lỗi và khóc lóc nức nở, nhưng vẫn phản ứng y như vậy khi một lần nữa đối mặt với những chuyện như vậy và bị tỉa sửa. Đây có phải là người tìm kiếm lẽ thật không? (Thưa, không phải.) Đây là loại người gì vậy? Người như vậy tùy hứng và không tiếp nhận lẽ thật chút nào. Đây là loại thái độ mà con người có đối với Đức Chúa Trời khi họ đối mặt với việc bị tỉa sửa hoặc khi gặp phải nghịch cảnh. Tóm lại, họ không thuận phục, không thể tiếp nhận lẽ thật và một khi bị tổn thương, họ sẽ có thể tiếp cận Đức Chúa Trời với sự nóng nảy của mình. Như vậy có phải là một vấn đề nghiêm trọng không? Khi Ta tiếp xúc với một số người, chưa cần tỉa sửa họ mà chỉ cần nói đến vấn đề trước mắt thì họ sẽ sa sầm mặt, nói năng gắt gỏng, có thái độ không tốt, thậm chí còn ném đồ đạc. Ngươi không thể nói thẳng với họ mà phải nói loanh quanh và khéo léo. Ta có thể nói chuyện vòng vo giống mọi người không? Bất kể ngươi có tiếp nhận hay không, Ta đều phải ăn ngay nói thật – phải làm việc theo nguyên tắc lẽ thật trong nhà Đức Chúa Trời. Có vài người không có phản ứng gì ở bên ngoài khi bị tỉa sửa, nhưng trong lòng họ lại hờn dỗi, vậy họ có thể làm tốt bổn phận không? (Thưa, không thể.) Nếu họ không thể làm tốt bổn phận của mình và luôn phạm sai lầm, thì hội thánh phải xử lý họ theo nguyên tắc.

2. Biểu hiện của họ khi Đấng Christ bị lùng bắt và không có cả chỗ để gối đầu

Khi tin Đức Chúa Trời và đi theo Ngài ở Trung Quốc đại lục thì ngày nào cũng đều nguy hiểm. Đó là một hoàn cảnh đặc biệt khắc nghiệt đối với việc này, ở đó người ta có thể bị bắt bất cứ lúc nào. Tất cả các ngươi đều đã trải nghiệm một hoàn cảnh bị săn đuổi – và chẳng phải Ta cũng vậy sao? Ngươi và Ta sống trong cùng một hoàn cảnh, vì vậy ngươi biết rằng trong hoàn cảnh đó, Ta không thể tránh việc thường xuyên ẩn mình. Có những lúc Ta phải thay đổi địa điểm hai hoặc ba lần trong một ngày; thậm chí có những lúc Ta phải đi đến một nơi mà Ta không hề muốn đi. Những lúc khó khăn nhất là khi Ta không có nơi nào để đi – Ta tổ chức một buổi nhóm họp vào ban ngày, rồi ban đêm, Ta không biết nơi nào là an toàn. Đôi lúc, khi đã rất vất vả mới tìm được một chỗ, ngày hôm sau Ta lại phải rời đi, bởi vì con rồng lớn sắc đỏ đang truy đuổi tới đó. Những người có đức tin chân chính sẽ nghĩ gì khi nhìn thấy cảnh tượng như vậy? “Việc Đức Chúa Trời đến thế gian trong xác thịt để cứu rỗi con người là cái giá mà Ngài đã phải trả. Đây là một trong những nỗi thống khổ mà Ngài đã trải qua, và nó hoàn toàn ứng nghiệm lời Ngài phán rằng: ‘Con cáo có hang, chim trời có tổ; nhưng Con người không có chỗ gối đầu’. Sự việc quả thật là như vậy – và Đấng Christ nhập thể cũng đích thân trải qua sự đau khổ như vậy, giống y như con người”. Tất cả những ai thực sự tin Đức Chúa Trời đều có thể thấy công tác cứu rỗi con người của Ngài vô cùng gian khổ như thế nào, và vì vậy, họ sẽ yêu Đức Chúa Trời, và họ sẽ tạ ơn Ngài về cái giá mà Ngài đã trả cho nhân loại. Những người có nhân tính đặc biệt xấu, ác độc, căn bản là không tiếp nhận lẽ thật, cũng như những người đi theo Đấng Christ chỉ vì hiếu kỳ hoặc vì muốn nhìn thấy phép lạ, khi nhìn thấy cảnh tượng này thì họ sẽ không nghĩ như vậy. Trong lòng họ sẽ nghĩ: “Ngài không có nơi nào để ở ư? Ngài là đức chúa trời, còn công tác cứu rỗi con người, nhưng ngay cả bản thân mình mà ngài cũng không cứu được, ngài không biết ngày mai mình sẽ ở đâu và hiện tại cũng không có chỗ dung thân, làm sao mà tôi có thể tin và đi theo ngài được?” Hoàn cảnh càng nguy hiểm, trong lòng họ càng vui mừng, “May mắn là tôi đã không hoàn toàn vứt bỏ mọi thứ; may mắn là tôi đã chừa lại đường lui. Thấy chưa? Bây giờ ngài không có nhà để mà về! Tôi biết chuyện sẽ thành ra thế này – ngài không có cả chỗ để gối đầu, và tôi còn phải giúp ngài tìm kiếm một nơi để an thân”. Mọi người đã bị tỏ lộ phải không? Nếu loại người như vậy nhìn thấy cảnh Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá, thì họ sẽ biểu hiện thế nào? Khi Đức Chúa Jêsus vác thập tự giá về phía Đồi Golgotha, những người như vậy ở đâu? Họ có thể tiếp tục đi theo Ngài không? (Thưa, không thể.) Họ phủ nhận thân phận, thực chất và thậm chí là cả sự tồn tại của Đức Chúa Trời. Họ bỏ trốn mất dạng, tự tìm lối thoát thân và không còn đi theo Đức Chúa Trời nữa. Bất kể trước đây họ đã nghe bao nhiêu bài giảng đạo, tất cả đều không còn sót lại chút gì ở trong lòng họ và đều biến mất không một dấu vết. Họ tin rằng mọi thứ họ nhìn thấy trước mắt đều chân thật, xuất phát từ con người và không liên quan gì đến Đức Chúa Trời. Họ cảm thấy: “Người này chỉ là một con người, đâu có thân phận hay thực chất của đức chúa trời? Nếu là đức chúa trời, thì liệu ngài có trốn tránh, ẩn núp như vậy không, có bị Sa-tan lùng bắt đến nỗi không có nơi gối đầu, không có chỗ an thân như vậy không? Nếu là đức chúa trời thì khi bị lùng bắt, ngài sẽ biến hóa một cách nhanh chóng, biến mất trước mắt mọi người, khiến không ai có thể nhìn thấy được và sẽ biết cách tàng hình, vậy mới là đức chúa trời!” Trong hoàn cảnh nguy hiểm ở Trung Quốc đại lục, có vài anh chị em nhìn thấy Ta đến, đã mạo hiểm tiếp đãi và che chở cho Ta, trong khi vài người khác thì bỏ trốn mất dạng và không thấy bóng dáng. Thậm chí, có vài người còn chế giễu sau lưng và đứng một bên quan sát. Những người này là ai? Đây chính là những kẻ chẳng tin, là kẻ địch lại Đấng Christ. Khi những người này nhìn thấy Ta không còn chỗ ẩn thân, họ nhận biết về chuyện này như thế nào? Họ lý giải chuyện này như thế nào? “Đấng christ cũng gặp nguy hiểm và cũng bị bắt. Trời ơi, hội thánh xong rồi, công tác của nhà đức chúa trời cũng xong rồi. Bước công tác này sai lầm rồi, những gì đức chúa trời làm chứng sai rồi – đây không phải là những gì đức chúa trời làm chứng. Mình nên nhanh chóng sống cuộc sống của riêng mình; mình đi phát tài thôi!” Đây là hành vi của kẻ địch lại Đấng Christ. Khi Đấng Christ bị lùng bắt, không còn chỗ nào để ẩn thân hay gối đầu, thay vì đồng tâm hợp ý cùng chịu khổ với Đức Chúa Trời và cùng Ngài tiếp tục thực hiện công tác của hội thánh trong hoàn cảnh như vậy, thì họ lại trở thành những người ngoài cuộc đứng xem và chế giễu Ngài. Họ thậm chí còn kích động một số người khác phá hủy, làm gián đoạn và gây nhiễu loạn, thậm chí, có vài người thấy Ta không còn chỗ để ẩn thân hay để ở thì đã nhân cơ hội mà gây nhiễu loạn công tác của hội thánh và chiếm đoạt tài sản của nhà Đức Chúa Trời. Giống như khi Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá, có không hề ít kẻ chẳng tin và kẻ địch lại Đấng Christ cho rằng: “Hội thánh xong rồi, công tác của Đức Chúa Trời cũng xong rồi, đều đã bị Sa-tan phá hủy hoàn toàn. Chúng ta nên nhanh chóng trốn đi và phân chia đồ đạc!” Bất kể gặp phải hoàn cảnh nào, những kẻ chẳng tin và kẻ địch lại Đấng Christ này đều sẽ tỏ lộ tâm tính hung ác và diện mạo kẻ chẳng tin của mình. Một khi hội thánh có biến động gì đó hoặc gặp phải hoàn cảnh tồi tệ, họ liền muốn bỏ trốn mất dạng, chỉ mong sao các anh chị em sẽ tan rã, thối lui và không còn đi theo Đấng Christ nữa. Họ chỉ mong sao dòng chảy này là sai, và tốt nhất là công tác của Đức Chúa Trời không được hoàn thành. Đây chính là diện mạo của kẻ địch lại Đấng Christ. Đây là thái độ của kẻ địch lại Đấng Christ đối với Đấng Christ khi gặp phải hoàn cảnh như vậy.

3. Biểu hiện của họ khi nảy sinh quan niệm về Đấng Christ

Một điều khác là những biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ khi họ có quan niệm về xác thịt của Đức Chúa Trời nhập thể. Chẳng hạn như, khi họ nhìn thấy Đức Chúa Trời nhập thể làm một vài việc hoặc nói những lời rất giống với con người, nhìn không ra một chút thần tính nào, họ nảy sinh sự chống đối, quan niệm cũng như lên án từ sâu thẳm nội tâm của mình, “Người này dù có nhìn như thế nào thì cũng đều không giống đức chúa trời, nhìn thế nào thì cũng chỉ giống một người bình thường mà thôi. Nếu giống con người thì liệu ngài còn có thể là đức chúa trời được không? Nếu ngài là con người, thì chẳng phải tôi đi theo ngài như vậy là quá ngốc nghếch sao?” Họ có thể nảy sinh quan niệm đối với những lời phán và hành động của Đấng Christ, với phương diện đời sống và ăn mặc của Ngài, với cả phương thức, ngữ điệu và cách dùng từ, v.v. của Ngài khi phán lời – họ có thể nảy sinh quan niệm về tất cả những điều này. Khi nảy sinh những quan niệm này, họ cư xử như thế nào? Họ giữ chặt những ý nghĩ này, họ cho rằng việc nắm bắt những quan niệm này chính là nắm bắt được mấu chốt. “Mấu chốt” này đến quá đúng lúc, khi đã có những quan niệm này thì sẽ có điểm yếu, một khi đã có điểm yếu thì sẽ dễ xử lý. Đây là cách kẻ địch lại Đấng Christ nghĩ; họ cảm thấy rằng việc có quan niệm chẳng khác nào bắt được điểm yếu, họ sẽ có thể phủ nhận Đấng Christ bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu, cũng như có thể phủ nhận sự thật rằng xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể có thực chất của Đức Chúa Trời. Có vài người nói: “Tại sao kẻ địch lại Đấng Christ lại có ý định này?” Các ngươi nói xem, kẻ địch lại Đấng Christ, những kẻ thuộc hội của Sa-tan, có hy vọng công tác của Đức Chúa Trời đại công cáo thành hay không? (Thưa, họ không hy vọng điều này.) Tại sao họ không hy vọng điều này? Dựa vào gì để nói như vậy? Kẻ địch lại Đấng Christ có bản chất chán ghét lẽ thật, mà toàn bộ mọi lời Đức Chúa Trời bày tỏ đều là lẽ thật, những lời mà trong lòng họ triệt để ác cảm, họ không nguyện ý nghe, cũng không nguyện ý tiếp nhận. Những lời vạch rõ và phán xét của Đức Chúa Trời đối với nhân loại đều là lời định tội kẻ địch lại Đấng Christ và những kẻ ác này, đối với họ, những lời này đều là những lời định tội, phán xét và rủa sả, khiến họ cảm thấy khó chịu và không thoải mái trong lòng. Trong lòng họ nghĩ gì? “Những lời mà đức chúa trời phán này đều đang phán xét và định tội tôi. Xem ra là một người như tôi thì không thể được cứu rỗi; nói cách khác, tôi là kẻ bị loại bỏ và vứt bỏ. Nếu không còn hy vọng được cứu rỗi thì tôi tin đức chúa trời để làm gì nữa? Nhưng trên thực tế thì ngài vẫn là đức chúa trời, là xác thịt mà đức chúa trời nhập thể, ngài còn phán nhiều lời và có nhiều người đi theo như vậy. Tôi phải làm sao bây giờ?” Họ phát cáu vì chuyện này; nếu họ không đạt được thứ gì thì cũng không muốn cho người khác đạt được thứ đó. Nếu người khác có thể đạt được thứ gì đó mà họ lại không được, thì trong lòng họ sẽ ghét cay ghét đắng và không được vui. Họ hy vọng rằng Đức Chúa Trời nhập thể này không phải là Đức Chúa Trời, rằng công tác mà Ngài làm này là giả và không phải do Đức Chúa Trời làm. Như vậy thì trong lòng họ sẽ cảm thấy cân bằng và vấn đề sẽ được giải quyết tận gốc. Họ nghĩ thầm: “Nếu người này không phải là đức chúa trời nhập thể, thì chẳng phải những người đi theo ngài đều bị lừa dối sao? Nếu như vậy thì sớm muộn gì những người này cũng sẽ giải tán. Nếu họ giải tán và không ai trong số họ nhận được gì, thì dù cho tôi cũng không nhận được gì, tôi vẫn có thể yên tâm thoải mái và cảm thấy cân bằng, không phải sao?” Đây là tâm tư của họ; họ không đạt được gì nên cũng không muốn người khác đạt được. Biện pháp tốt nhất để không cho người khác đạt được bất kỳ điều gì, chính là phủ nhận Đấng Christ, phủ nhận thực chất của Ngài, phủ nhận công tác mà Ngài thực hiện, và phủ nhận toàn bộ những lời mà Ngài phán. Như vậy thì họ sẽ không bị định tội, họ không đạt được gì cả, nên sẽ cam tâm và vững vàng, không cần phải nghĩ đến chuyện này nữa. Thực chất bản tính của loại người giống như kẻ địch lại Đấng Christ là như vậy. Vậy họ có quan niệm về Đấng Christ không? Khi có quan niệm thì họ giải quyết ra sao? Họ có thể buông bỏ chúng được không? Họ không thể. Những quan niệm của họ nảy sinh như thế nào? Họ rất dễ nảy sinh quan niệm: “Khi nói chuyện với ngài, tôi sẽ nghiên cứu ngài, xem động cơ phía sau những lời phán này của ngài là gì, và chúng đến đến từ đâu. Chúng là do ngài nghe được, học được, hay là có ai chỉ thị cho ngài phán? Có phải là có người nào đó đã phản ánh hoặc tố cáo với ngài không? Ngài đang vạch trần ai vậy?” Họ nghiên cứu như vậy đấy. Vậy họ có thể hiểu lẽ thật không? Họ không bao giờ hiểu được lẽ thật; trong lòng họ chống đối lẽ thật. Họ chán ghét lẽ thật, chống đối và căm ghét lẽ thật, họ đến nghe giảng đạo với thực chất bản tính này. Ngoài các lý luận và đạo lý ra, tất cả những gì họ nghe được chỉ là những quan niệm. Những quan niệm gì vậy? “Đấng christ phán lời như vậy đấy, có lúc ngài còn kể chuyện cười; như vậy thật không cung kính! Có lúc ngài còn nói lấp lửng; như vậy thật không nghiêm túc! Lời phán của ngài cũng không phải xuất khẩu thành thơ, như vậy thì học vấn của ngài cũng không được cao! Có lúc ngài còn phải cân nhắc và suy nghĩ cách dùng từ khi phán lời, ngài không học qua đại học phải không? Có lúc ngài phán lời nhằm vào đối tượng nào đó, là nhằm vào ai vậy? Đã có ai tố cáo chưa? Đó là ai? Tại sao đấng christ luôn trách móc tôi khi phán lời? Có phải ngài nhìn chằm chằm và quan sát tôi suốt cả ngày không? Có phải ngài dành cả ngày để ngẫm nghĩ về mọi người không? Trong lòng đấng christ muốn gì? Lời phán của đức chúa trời nhập thể không giống lời phán tựa như sét đánh, nhất ngôn cửu đỉnh của đức chúa trời trên trời – tại sao những gì ngài biểu hiện ra ngoài lại giống con người đến vậy? Bất kể tôi nhìn như thế nào thì ngài vẫn chỉ là một con người. Đức chúa trời nhập thể có yếu đuối không? Trong lòng ngài có hận con người không? Ngài có triết lý xử thế nào khi giao tiếp với mọi người không?” Những quan niệm này có nhiều hay không? (Thưa, nhiều.) Tất cả những suy nghĩ bên trong tư tưởng của kẻ địch lại Đấng Christ đều không liên quan gì đến lẽ thật, tất cả đều là tư tưởng, lô-gích và triết lý xử thế của Sa-tan. Trong sâu thẳm nội tâm của họ tràn ngập sự tà ác, tràn ngập tình trạng và tâm tính chán ghét lẽ thật. Họ đến để nghiên cứu Đức Chúa Trời chứ không phải để tìm kiếm hay đạt được lẽ thật. Họ nảy sinh quan niệm bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu, khi quan sát cũng như khi nghiên cứu. Quan niệm hình thành khi họ xét đoán và lên án, họ giữ chặt chúng trong lòng. Khi nhìn thấy mặt nhân tính của Đức Chúa Trời nhập thể, họ nảy sinh quan niệm. Khi nhìn thấy mặt thần tính của Ngài, họ nảy sinh sự hiếu kỳ và kinh ngạc, do đó cũng nảy sinh quan niệm. Thái độ của họ đối với Đấng Christ và đối với xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể không phải là thái độ thuận phục hay thật lòng tiếp nhận từ sâu thẳm nội tâm. Thay vào đó, họ đứng đối diện với Đấng Christ, xem chừng, nghiên cứu ánh mắt, tâm tư và cử chỉ của Ngài, thậm chí quan sát, nghiên cứu mỗi một biểu cảm của Ngài, lắng nghe mỗi một loại giọng điệu, ngữ điệu khi Ngài phán, cách dùng từ và hết thảy những gì được đề cập đến trong lời phán của Ngài, v.v.. Khi kẻ địch lại Đấng Christ xem chừng và nghiên cứu Đấng Christ, thái độ của họ không phải là có ý định tìm kiếm và hiểu lẽ thật, để sau đó có thể tiếp nhận Đấng Christ là Đức Chúa Trời của họ, tiếp nhận Đấng Christ là lẽ thật và trở thành sự sống của họ. Hoàn toàn ngược lại, họ muốn nghiên cứu con người này, một cách thấu đáo và rõ ràng. Họ nghiên cứu để hiểu điều gì? Họ nghiên cứu xem người này rốt cuộc giống Đức Chúa Trời ở chỗ nào, và nếu Ngài thực sự giống Đức Chúa Trời thì họ sẽ tiếp nhận Ngài. Nếu họ đã nghiên cứu đủ cách mà Ngài vẫn không giống Đức Chúa Trời, thì họ sẽ hoàn toàn bỏ cuộc, tiếp tục giữ quan niệm về Đức Chúa Trời nhập thể, hoặc là họ cảm thấy không còn hy vọng được phước lành, nên họ tìm cơ hội nhanh chóng rời đi.

Kẻ địch lại Đấng Christ nảy sinh quan niệm về xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể là chuyện rất bình thường. Bởi vì thực chất kẻ địch lại Đấng Christ và thực chất chán ghét lẽ thật của họ, nên họ không có khả năng buông bỏ quan niệm của mình. Khi không có chuyện gì xảy ra, họ đọc sách lời Đức Chúa Trời và xem những lời này là Đức Chúa Trời, nhưng khi tiếp xúc với Đức Chúa Trời nhập thể, nhận thấy rằng Ngài không giống Đức Chúa Trời, thì họ ngay lập tức nảy sinh quan niệm và thay đổi thái độ. Khi không tiếp xúc với Đức Chúa Trời nhập thể, họ chỉ cầm sách lời Đức Chúa Trời và xem lời Ngài là Đức Chúa Trời, họ vẫn có thể mang một chút ảo tưởng xa vời và ý định nhận phước lành mà miễn cưỡng ra chút sức, làm một số bổn phận và đảm đương một vai trò nào đó trong nhà Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, ngay khi họ tiếp xúc với xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể, đầu óc họ toàn là quan niệm. Ngay cả khi họ không bị tỉa sửa, thì sự nhiệt huyết và hăng hái thực hiện bổn phận của họ vẫn có thể suy giảm đáng kể. Đây là cách kẻ địch lại Đấng Christ tiếp cận lời Đức Chúa Trời và xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể. Họ thường tách lời Đức Chúa Trời ra khỏi xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể, xem lời Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời và xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể là con người. Khi xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể không phù hợp với quan niệm của họ, hoặc vi phạm quan niệm của họ, thì họ nhanh chóng đến trước lời Đức Chúa Trời mà cầu nguyện-đọc lời Đức Chúa Trời, mạnh mẽ áp chế quan niệm của mình và chặn chúng lại. Sau đó, họ thờ phượng lời Đức Chúa Trời như thể thờ phượng chính Đức Chúa Trời, cứ như là những quan niệm của họ đã được giải quyết. Trên thực tế, trong sâu thẳm nội tâm của họ, sự không tuân phục và khinh bỉ đối với Đấng Christ không được giải quyết chút nào. Trong việc tiếp cận Đấng Christ, kẻ địch lại Đấng Christ không ngừng nảy sinh quan niệm, hơn nữa còn cố giữ chặt chúng. Khi không có quan niệm, họ nghiên cứu và phân tích; khi có quan niệm, họ không chỉ nghiên cứu, phân tích mà còn cố giữ chặt chúng. Họ có quan niệm nhưng lại không giải quyết, cũng không tìm kiếm lẽ thật; họ cho rằng bản thân mình đúng, đây chẳng phải là thuộc về Sa-tan sao? (Thưa, phải.) Đây là những biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ khi họ có quan niệm về Đức Chúa Trời nhập thể.

4. Biểu hiện của họ khi được đề bạt hoặc bị cách chức

Trong hội thánh, có vài người có chút tố chất và năng lực công tác. Khi được đề bạt, nhiệt huyết của họ rất lớn, họ tích cực thực hiện bổn phận, chịu trách nhiệm, chịu trả giá và còn có lòng trung thành. Nhưng bởi vì không thể gánh vác công tác nên họ bị cách chức và mất địa vị, thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời cũng thay đổi. Khi có địa vị, họ thưa với Đức Chúa Trời: “Các anh chị em nhà chúng ta thế này thế kia, nhà của chúng ta cần được sửa sang, sân nhà chúng ta cần được thu dọn”. Tất cả đều là “nhà chúng ta”. Khi được đề bạt, họ là người của nhà Đức Chúa Trời, có vẻ như họ một lòng với Đức Chúa Trời như là người một nhà, có thể đồng lòng, sát cánh quản lý công tác của nhà Đức Chúa Trời, và tương tác với Đức Chúa Trời một cách bình đẳng. Khi được đề bạt và trọng dụng, họ cảm thấy vinh hạnh, đồng thời cũng cảm nhận được trách nhiệm của mình. Cho dù nói chuyện với Ta hay với các anh chị em, họ đều hay nói “nhà chúng ta”. Ngươi nghe sẽ cảm thấy rằng người này không tệ, có lòng tốt, có lòng nhiệt tình, xem nhà Đức Chúa Trời như là nhà của chính mình, chuyện gì cũng quan tâm và có trách nhiệm như vậy, luôn muốn suy tính trước mọi việc, tỏ ra là một người mưu cầu lẽ thật và nhiệt tình trả giá. Nhưng sau khi bị cách chức, họ còn nói như vậy không? Một khi bị cách chức, họ không còn tâm trạng hay thái độ như vậy nữa. Họ không còn nói “nhà chúng ta” nữa và khi được yêu cầu làm việc gì đó, tất nhiên họ cũng không còn nhiệt tình nữa. Họ nghĩ gì vậy? “Trước đây khi ngài đề bạt tôi, tôi có địa vị và một lòng với ngài. Bây giờ tôi không còn địa vị, không còn là người một nhà nữa nên tự ngài hãy làm lấy đi. Ngài làm như thế nào thì cũng đừng bàn bạc với tôi, cũng đừng cho tôi biết, chuyện không liên quan gì đến tôi nữa. Tôi sẽ chỉ truyền đạt lời cho ngài, và chỉ vậy thôi, ngài bảo tôi làm việc gì thì tôi sẽ chỉ làm chút việc đó, nhưng sẽ không còn một lòng với ngài nữa”. Sau đó, họ xem ngươi như người ngoài. Nếu bảo họ làm việc gì thì họ sẽ làm một cách qua loa, giống như là đang làm công cho người khác. Trước đây họ có thể làm được năm điều, thì bây giờ chỉ làm được một hay hai điều, chỉ làm lấy lệ, làm một cách chiếu lệ, làm vài công tác hời hợt và thế là xong. Tại sao lại như vậy? Họ nói: “Trước đây, tôi một lòng với ngài, giúp đỡ ngài việc này việc nọ, xem việc của ngài như việc của chính tôi, như việc chung của chúng ta và làm thay cho ngài. Kết quả là ngài cứ vậy cách chức tôi mà không hề cân nhắc đến cảm xúc của tôi! Ngài không cân nhắc đến cảm xúc của tôi – vậy làm sao tôi có thể thay ngài làm việc? Nếu ngài đề bạt cho tôi lần nữa và cho tôi địa vị thì còn được. Nhưng nếu ngài không cho tôi địa vị thì hãy quên đi. Nếu muốn sai tôi làm việc thì sẽ không dễ sai như trước nữa đâu. Nếu muốn dùng tôi thì ngài phải cho tôi danh tiếng và địa vị mới được. Nếu không có địa vị mà chỉ nói một tiếng rồi muốn tôi đi thực hiện công tác gì đó, thì danh phận ở đâu? Phải có câu nói gì đó chứ!” Bây giờ lời Ta nói không còn tác dụng nữa. Khi bảo họ làm việc gì đó, họ không còn dụng tâm như trước, không hết lòng, hết trí khôn nữa; thái độ của họ đã biến đổi. Nếu Ta hoặc là nhà Đức Chúa Trời bảo họ làm việc gì đó, thì họ xem đó như một bổn phận được thêm vào và như chuyện của một người ngoài, như thể nếu họ làm việc đó thì có nghĩa là họ đã rất nể mặt ngươi. Họ cảm thấy rằng nếu không làm việc đó thì có vẻ không hợp lý, dù sao thì họ cũng tin Đức Chúa Trời. Nhưng nếu họ làm việc đó thì trong lòng cũng không thấy thoải mái và chỉ làm cho có lệ. Tại sao họ lại như vậy? Họ cho rằng: “Trước đây tôi đã tin ngài một trăm phần trăm, xem chuyện của ngài như chuyện của chính mình, nhưng sau đó ngài nói không cần là cứ thế vứt tôi sang một bên, làm tôi tổn thương và tổn thương lòng tự tôn của tôi, ngài đã lạnh nhạt đối với tôi. Được thôi, nếu ngài bất nhân đối với tôi, thì cũng đừng trách tôi bất nghĩa. Ngài muốn tiếp tục dùng tôi, nhưng tôi lại không thể giống như trước nữa, vì mối quan hệ giữa chúng ta đã rạn nứt rồi. Tôi không dễ bị sai khiến nữa, không phải gọi thì đến, đuổi thì đi. Tôi là ai chứ? Nếu không phải vì tin đức chúa trời, thì liệu tôi có để người khác thao túng mình như thế này không?” Khi kẻ địch lại Đấng Christ bị cách chức và mất đi địa vị, thái độ của họ có thể chuyển biến lớn vậy đấy. Khi họ có địa vị, mặc dù họ gọi nhà Đức Chúa Trời là “nhà chúng ta” và thường xuyên nói như vậy, nhưng họ không thực sự xem chuyện của nhà Đức Chúa Trời như chuyện của chính mình mà xử lý. Sau khi bị cách chức và mất địa vị, nếu nhà Đức Chúa Trời lại bảo họ thực hiện bổn phận, thì họ sẽ không nguyện ý làm, mà phải bàn bạc với họ, thậm chí còn phải cho họ một câu nói hay một danh phận nào đó. Thậm chí có vài người còn nói: “Trước đây ngài đã cách chức tôi, nói không cần là cứ thế vứt tôi sang một bên. Lần này nếu muốn tôi làm việc gì đó, thì trừ phi là người được đức thánh linh sử dụng tự mình đến nói chuyện với tôi, bằng không thì chính đức chúa trời nhập thể hãy tự mình đến nói chuyện với tôi, nếu không thì miễn bàn!” Họ thật quá tự phụ! Các ngươi nói xem, nhà Đức Chúa Trời có cần dùng người như vậy không? (Thưa, không cần.) Họ nghĩ mình là người quan trọng, nhưng thực ra, nhà Đức Chúa Trời không yêu thích những kẻ như vậy. Cho dù ngươi có bao nhiêu tài cán, năng lực hay tài năng lãnh đạo, nhà Đức Chúa Trời cũng không dùng ngươi. Có người nói rằng: “Có phải vì Ngài không cúi đầu trước kẻ ác không?” Không phải, đây là sắc lệnh quản trị và nguyên tắc dùng người của nhà Đức Chúa Trời. Nếu kẻ địch lại Đấng Christ nắm quyền trong nhà Đức Chúa Trời thì đối với các anh chị em và đối với hội thánh, đây là chuyện tốt hay xấu? (Thưa, là một chuyện xấu.) Nhà Đức Chúa Trời có thể làm chuyện xấu như vậy sao? Tuyệt đối không thể. Trước khi họ bị tỏ lộ là kẻ địch lại Đấng Christ, nhà Đức Chúa Trời đã miễn cưỡng đề bạt để họ đem sức lực phục vụ. Một khi họ bị tỏ lộ là kẻ địch lại Đấng Christ, liệu nhà Đức Chúa Trời có còn đề bạt cho họ không? Không thể. Họ đang tự ảo tưởng và mơ mộng. Có vài kẻ địch lại Đấng Christ nghĩ như thế này: “Hừm, nhà Đức Chúa Trời không có tôi thì không xử lý được. Không có tôi công tác thì không có ai trong nhà Đức Chúa Trời có thể đảm đương được. Ai có thể thay thế tôi chứ?” Kẻ địch lại Đấng Christ sẽ khiêu chiến như vậy. Chúng ta hãy cho họ thấy, nếu không có những kẻ địch lại Đấng Christ này thì công tác của Đức Chúa Trời có thể được thông suốt và hoàn thành hay không.

Hiện tại, các hạng mục công tác trong nhà Đức Chúa Trời có thể được tiến hành và triển khai thuận lợi, chuyện này có liên quan gì đến việc thanh trừ, khai trừ hết thảy những kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác ra khỏi hội thánh không? Quá có liên quan đi chứ! Kẻ địch lại Đấng Christ không biết chuyện này; họ không biết rằng chính vì họ đã bị thanh trừ, khai trừ và hạn chế nên công tác của nhà Đức Chúa Trời mới có thể tiến triển thuận lợi – họ còn lên mặt và phàn nàn! Ngươi phàn nàn về chuyện gì? Ngươi nghĩ rằng mình có tài cán, trí óc, tố chất và năng lực công tác, nhưng ngươi có thể làm gì trong nhà của Đức Chúa Trời? Vai trò mà những người này đảm đương đơn giản chính là đầy tớ của Sa-tan, gây nhiễu loạn và phá hoại công tác của Đức Chúa Trời. Nếu họ không tồn tại thì đời sống hội thánh, đời sống thực hiện bổn phận và đời sống hàng ngày của dân được Đức Chúa Trời chọn sẽ yên bình hơn, thuận lợi hơn và bình an hơn – điều mà kẻ địch lại Đấng Christ không biết. Những kẻ địch lại Đấng Christ này đã đánh giá quá cao năng lực của mình và không biết bản thân mình thực sự là thứ gì. Họ nghĩ rằng nhà Đức Chúa Trời không có họ thì không được, rằng không có họ thì công tác của nhà Đức Chúa Trời không triển khai được và các hạng mục nghiệp vụ không thể tiến hành được nữa. Họ không biết rằng sự công chính và lẽ thật nắm quyền trong nhà Đức Chúa Trời. Tại sao họ không biết? Chuyện đơn giản như vậy mà tại sao kẻ địch lại Đấng Christ lại không thể hiểu? Chuyện này chứng minh rằng kẻ địch lại Đấng Christ có thực chất chán ghét và thù hằn lẽ thật. Chính vì họ chán ghét và thù hằn lẽ thật mà họ không biết lẽ thật là gì, không biết những điều tích cực là gì. Ngược lại, họ cho rằng đủ loại biểu hiện tà ác, ác độc và chống đối Đức Chúa Trời của họ là chuyện tốt, đúng đắn và không có sai lầm gì. Họ cho rằng chỉ có họ mới hiểu lẽ thật, mới trung thành với Đức Chúa Trời và chỉ có họ mới xứng đáng nắm quyền trong nhà Đức Chúa Trời. Họ đã sai lầm! Chính lẽ thật nắm quyền trong nhà Đức Chúa Trời. Tất cả những kẻ địch lại Đấng Christ đều là đối tượng bị định tội, vứt bỏ và loại bỏ; họ không thể có một vị trí nào trong nhà Đức Chúa Trời và chỉ có thể mãi mãi bị vứt bỏ.

Có vài kẻ địch lại Đấng Christ có một số ân tứ, có chút tố chất, có chút năng lực và biết chơi trò chơi quyền lực. Họ cho rằng mình phải là đối tượng được đề bạt và trọng dụng trong nhà Đức Chúa Trời. Nhưng cho tới hôm nay, có vẻ như chuyện không phải như vậy. Những người này đều bị định tội, hạn chế, vứt bỏ, thậm chí một số còn bị thanh trừ và khai trừ khỏi hội thánh. Họ không bao giờ ngờ rằng những nhân vật “cao quý” như họ, với nhiều năng lực và tài cán cao siêu như vậy, lại có thể vấp ngã trong nhà Đức Chúa Trời và bị vứt bỏ. Họ không thể hiểu tại sao. Vậy có cần tiếp tục nhào nặn họ không? Không cần thiết. Ngươi có thể giảng đạo lý một cách rõ ràng với Sa-tan không? Giảng đạo lý với Sa-tan thì chính là đàn gảy tai trâu, chỉ có một cụm từ để miêu tả Sa-tan – không thể nói lý được. Giống như có người nói: “Đức chúa trời yêu cầu con người phải làm người trung thực, nhưng làm người trung thực thì có gì tốt? Nói dối vài câu hay lừa người thì có gì không tốt? Quanh co và giả dối thì có gì không tốt? Không trung thành thì có gì không tốt? Giở chút dối trá, qua loa chiếu lệ thì có gì không tốt? Xét đoán đức chúa trời thì có gì không tốt? Có quan niệm về đức chúa trời thì có làm sao? Phản nghịch đức chúa trời thì có gì không tốt, phạm sai lầm gì lớn chứ? Đây không phải là vấn đề nguyên tắc gì cả!” Thậm chí có người còn nói: “Người có năng lực muốn thành lập vương quốc độc lập của mình, chuyện này chẳng phải rất bình thường sao? Trên thế giới này, tất cả đều là cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu. Nếu có năng lực thì nên thành lập vương quốc độc lập của mình, chuyện này có gì không tốt? Năng lực bao nhiêu thì có bấy nhiêu quyền lực, có bao nhiêu quyền lực thì quản bấy nhiêu người!” Còn có người nói: “Dâm loạn có gì không tốt? Dâm loạn thì làm sao? Chạy theo xu hướng tà ác thì có gì không tốt?” v.v.. Sau khi nghe những lời này, các ngươi cảm nhận thế nào? (Thưa, kinh tởm.) Chỉ là kinh tởm thôi sao? Sau khi nghe những lời này, người ta sẽ cảm thấy: “Tất cả đều khoác trên mình bộ da người giống nhau, vậy tại sao có vài người không những không ghê tởm những sự vật tiêu cực này mà còn yêu thích như bảo vật vậy? Và tại sao có vài người lại ghê tởm những chuyện này? Giữa người với người, tại sao lại có sự khác biệt lớn đến như vậy? Tại sao những người chán ghét lẽ thật và những điều tích cực lại không yêu thích những điều tích cực vậy? Tại sao họ lại yêu thích những điều tiêu cực đến vậy, thậm chí coi chúng như báu vật? Tại sao họ không thể nhận biết sự tà ác và đáng ghê tởm của những điều tiêu cực này?” Những cảm xúc này nảy sinh trong lòng mọi người. Khi nghe những lời này từ kẻ địch lại Đấng Christ, một mặt mọi người cảm thấy kinh tởm, mặt khác thì cảm thấy không nói nên lời. Bản tính của những người như vậy thực sự khó sửa và không thể biến đổi, cho nên Đức Chúa Trời nói Ngài không cứu rỗi ma quỷ hay Sa-tan. Đức Chúa Trời chỉ cứu rỗi nhân loại, chứ không phải súc vật hay ma quỷ. Loại người như kẻ địch lại Đấng Christ này chính là thứ Đức Chúa Trời gọi là ma quỷ và súc vật; chúng không thể được tính là nhân loại. Chuyện này rõ ràng rồi phải không?

5. Biểu hiện của họ đối với hội thánh trong những tình cảnh khác nhau

Kẻ địch lại Đấng Christ tiếp cận với Đấng Christ như thế nào tùy thuộc vào tâm trạng của họ – vừa rồi chúng ta đã thông công tổng cộng bao nhiêu mục về điều này? Mục thứ nhất là khi họ đối mặt với việc bị tỉa sửa, còn gì nữa? (Thưa, khi họ nảy sinh quan niệm về Đức Chúa Trời nhập thể, khi họ được đề bạt hoặc bị cách chức, và khi Đấng Christ bị lùng bắt.) Tổng cộng có bốn mục. Chúng ta hãy tiếp tục thông công. Bởi vì kẻ địch lại Đấng Christ chán ghét lẽ thật, nên họ tin Đức Chúa Trời không phải để đạt được lẽ thật – họ muốn nhận được phước lành; họ có dự định, ý đồ và mục đích riêng của mình. Hơn nữa, họ thích thế lực và quyền thế, cho nên họ tin Đức Chúa Trời với thái độ mong chờ. Họ mong chờ như thế nào? Có nghĩa là, một mặt thì họ tin, mặt khác thì họ cũng nhìn xem số người trong nhà Đức Chúa Trời có gia tăng hay không, tình hình công tác phúc âm mở rộng ra sao, có thuận lợi hay không, và thế lực của nhà Đức Chúa Trời có liên tục lớn mạnh hay không. Mặt khác, họ cũng nhìn xem liệu số người thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời có ngày càng nhiều hay không, liệu ngày càng có nhiều người cam tâm đem sức lực phục vụ cho Đức Chúa Trời hay không và liệu ngày càng có nhiều người nguyện ý làm việc vì nhà Đức Chúa Trời hay không. Tiếp theo, họ cũng nhìn xem những người thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời này rốt cuộc có bối cảnh xã hội và văn hóa ra sao, có thân phận và địa vị thế nào trong xã hội. Qua quan sát, họ thấy ngày càng có nhiều người tin Đức Chúa Trời, số người trong nhà Đức Chúa Trời ngày càng tăng, hơn nữa, ngày càng có nhiều người nguyện ý từ bỏ gia đình, công tác và tiền đồ để thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời. Khi quan sát thấy những chuyện này, họ cảm thấy mình không thể thờ ơ nữa và cũng nên dấn thân vào công tác của nhà Đức Chúa Trời, dấn thân vào hàng ngũ của những người thực hiện bổn phận, trở thành một thành viên trong đó để về sau, bản thân họ cũng có phần nhận được phước lành. Mặc dù có thể thực hiện bổn phận và đảm đương vai trò trong nhà Đức Chúa Trời, nhưng họ chưa bao giờ từ bỏ tiền đồ và vận mệnh của mình, vẫn không ngừng tính toán trong lòng như cũ. Bởi vì nhóm người như kẻ địch lại Đấng Christ này có dã tâm và tâm tính như vậy, nên điều này cũng quyết định việc họ thay đổi thái độ tiếp cận Đấng Christ và Đức Chúa Trời khi địa vị và danh tiếng của nhà Đức Chúa Trời không ngừng tăng cao. Cho nên, trong quá trình thực hiện bổn phận, một mặt thì họ cực lực dự định, tính toán và quản lý vì tiền đồ và vận mệnh của mình; mặt khác thì họ cũng đang chờ xem tình trạng phát triển của nhà Đức Chúa Trời như thế nào, thế lực ở trong và ngoài nước ra sao, liệu số lượng người có tăng dần hay không, liệu quy mô của hội thánh có không ngừng mở rộng hay không, liệu hội thánh có liên lạc được với một số nhân sĩ nổi tiếng trong xã hội hay không, liệu hội thánh đã có được mức độ nổi tiếng nhất định ở phương Tây và có được nền móng nhất định hay chưa. Họ không ngừng mong chờ và hỏi thăm về những chuyện này. Thậm chí có vài người căn bản là không tham dự vào công tác của hội thánh và không thực hiện bổn phận, nhưng trong lòng họ cũng thường hay tính toán cho tiền đồ và vận mệnh của mình, họ nảy sinh sự hiếu kỳ cực độ về tình trạng phát triển của hội thánh. Cho nên, một mặt thì họ tra tìm những tin tức này trên trang web của hội thánh, mặt khác thì hỏi thăm về những tin tức này trong hội thánh. Khi nghe được rằng công tác của nhà Đức Chúa Trời ở nước ngoài đang mở rộng thuận lợi và ngày càng có triển vọng, rằng công tác ở phương Tây ngày càng được mở rộng hơn và tình hình càng ngày càng tốt, trong lòng họ cảm thấy vững vàng. Liệu vững vàng có cho thấy là họ thực sự biến đổi không? (Thưa, không.) Khi thấy vững vàng thì họ chỉ đang “tôn trọng” cũng như ngưỡng mộ hơn một chút, chứ không thực sự thuận phục Đức Chúa Trời nhập thể và Đấng Christ.

Khi Đấng Christ đang công tác ở Trung Quốc đại lục, trong lòng kẻ địch lại Đấng Christ thường hay suy nghĩ: “Đức chúa trời nhập thể có thể bị bắt không? Liệu ngài có thể rơi vào tay nhà cầm quyền không?” Khi nghĩ đến những chuyện này, họ nảy sinh chút xem thường đối với “con người nhỏ bé” này. Khi họ nghe nói rằng Đức Chúa Trời nhập thể thường không có nhà để về, cũng thường không có chỗ gối đầu và bị truy đuổi đến mức trốn đông trốn tây, tí xíu sự hiếu kỳ và sự “tôn trọng” rất miễn cưỡng của họ đối với Đức Chúa Trời nhập thể đã hoàn toàn tan vỡ. Tuy nhiên, khi họ nghe tin Đức Chúa Trời nhập thể – Đấng Christ, đang ở Hoa Kỳ, trên vùng đất tự do mà nhân loại hằng khao khát, trong lòng họ nảy sinh hâm mộ Đức Chúa Trời nhập thể – ở đây không phải tôn trọng mà là hâm mộ. Nhưng khi họ nghe tin rằng ở phương Tây, Đức Chúa Trời nhập thể bị nhân loại vứt bỏ, phỉ báng, lên án và xét đoán, thì sâu thẳm nội tâm kẻ địch lại Đấng Christ lại dậy sóng: “Ngài là đức chúa trời, tại sao nhân loại lại không tiếp nhận ngài? Ngài là đức chúa trời, tại sao giới tôn giáo không tiếp nhận ngài mà lại phao tin đồn thất thiệt về ngài? Tại sao ngài không biện bạch? Ngài nên thuê một đội luật sư! Ngài hãy nhìn xem trang web này bôi nhọ và phỉ báng lời của ngài, giới tôn giáo phao tin đồn thất thiệt về ngài, nói đến nỗi không thể nghe lọt lỗ tai! Chúng tôi đi theo ngài đều cảm thấy xấu hổ và ngại khi đề cập đến những chuyện này. Ngài bị lên án ở cả phương Đông và phương Tây, bị cả giới tôn giáo, nhân loại và thế giới này vứt bỏ. Chúng tôi cảm thấy hổ thẹn khi đi theo ngài”. Đây là tâm thế của kẻ địch lại Đấng Christ. Khi nhìn thấy Ngài trong mắt và cảm nhận về Ngài, trong lòng họ cảm thấy hổ thẹn, họ cũng nảy sinh sự khinh bỉ và đồng cảm – một sự đồng cảm rất miễn cưỡng – đối với “người bình thường” này. Sự đồng cảm này nảy sinh như thế nào? Trong lòng họ nghĩ: “Ngài đang làm công tác vĩ đại như vậy mà không hề quan tâm đến được và mất của cá nhân, xem như là hiến dâng một cách không vụ lợi, chịu khổ và chịu sỉ nhục lớn đến như vậy, ngài đang nhắm đến điều gì? Theo đạo lý mà nói thì ngài cũng là người tốt; nếu không thì làm sao ngài có thể chịu đựng được sự sỉ nhục và đau khổ lớn đến như vậy? Thật đáng thương và không hề dễ dàng; trong lòng ngài chắc hẳn rất ấm ức?”. Họ nảy sinh chút đồng cảm như vậy đối với Đấng Christ. Họ ngẫm nghĩ: “Nếu là mình, mình không thể chịu được đau khổ lớn đến như vậy; mình sẽ tìm nhân loại để biện hộ cho bản thân. Một mặt, mình sẽ tìm thuê một đội luật sư để xóa đi những lời đồn thất thiệt trên mạng, mặt khác, mình sẽ làm chút dấu kỳ và phép lạ trong giới tôn giáo, để họ nhìn xem rốt cuộc thì ai là đức chúa trời – ai thật ai giả – để chặn miệng của những kẻ phỉ báng và lên án này, cho họ chịu chút trừng phạt và dạy cho họ một bài học. Chẳng phải là họ sẽ không dám nữa sao? Tại sao ngài lại không làm như vậy? Tại sao cho đến bây giờ, ngài vẫn không biện bạch câu nào cho bản thân? Có phải vì ngài không có năng lực, không có sự dũng cảm hay dũng khí đó? Rốt cuộc thì chuyện gì đang xảy ra vậy? Chẳng lẽ do ngài nhu nhược sao? Trời ơi, trong lòng ngài cất giấu quá nhiều chuyện, chịu oan khuất lớn đến như vậy mà vẫn ngậm đắng nuốt cay, vẫn mở rộng công tác, tận tình khuyên bảo, phán lời cho những người trong hội thánh và cung ứng cho họ, vậy mà họ còn luôn có quan niệm và phản nghịch. Trong lòng ngài thật là khổ! Nhìn thấy ngài có thể chịu đựng được hết thảy những điều này, ngài quả thực không tệ và đáng được đồng cảm”. Như vậy là họ nảy sinh sự đồng cảm. Đây chính là sự đồng cảm của kẻ địch lại Đấng Christ. Từ khi bắt đầu vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ cho đến nay, đây là chút “việc tốt” duy nhất mà họ đã làm. Chút “việc tốt” này được làm như thế nào? Có chân chính không? (Thưa, không chân chính.)

Kẻ địch lại Đấng Christ đi theo Đấng Christ và tiếp nhận những lời Đấng Christ phán trong nhiều năm, nhưng họ chưa bao giờ cảm thấy vinh hạnh vì bản thân có thể tiếp nhận Đấng Christ làm Đấng Cứu Thế của mình trong kiếp này, cũng chưa bao giờ cảm thấy vinh hạnh khi cùng chịu khổ như Đấng Christ, cùng bị thế gian lên án và bị vứt bỏ giống như Đấng Christ. Thay vào đó, họ coi hết thảy những đau khổ mà Đấng Christ chịu là điểm yếu và chứng cứ để xem thường và phủ nhận Đấng Christ. Họ không có ý nguyện hay thái độ cùng với Đấng Christ chịu hết thảy mọi đau khổ như vậy. Thay vào đó, họ đứng ở góc độ của những người đứng ngoài xem, quan sát hết thảy những đau khổ mà Đấng Christ phải chịu, quan sát cách nhân loại tiếp cận Đấng Christ, và dựa theo đó mà tiếp cận Ngài. Khi danh của Đức Chúa Trời được rao truyền, công tác phúc âm từng bước được mở rộng giữa toàn thể nhân loại và mở ra triển vọng tốt đẹp, kẻ địch lại Đấng Christ dần dần đến gần hơn với Đức Chúa Trời nhập thể, trong lòng họ nảy sinh chút tôn kính và hâm mộ với Ngài. Đồng thời, họ cũng cực lực đến gần nhà Đức Chúa Trời hơn, cực lực muốn trở thành một thành viên trong nhà Đức Chúa Trời và trong việc mở rộng công tác của Đức Chúa Trời. Chỉ vậy thôi sao? Chỉ đơn giản như vậy thôi sao? Không phải, họ còn thay đổi thái độ tiếp cận nhà Đức Chúa Trời và Đấng Christ mọi lúc mọi nơi, tùy theo tình hình mở rộng các loại công tác khác nhau trong nhà Đức Chúa Trời. Nếu nghe thấy một chủng tộc nào đó trong nhân loại, và nhất là ở phương Tây, nói rằng: “Những lời này thực sự là lời Đức Chúa Trời, chúng thực sự có thẩm quyền! Từ lời Đức Chúa Trời, chúng ta nhìn thấy được thực chất của Đức Chúa Trời, xác định được rằng người bình thường này chính là Đức Chúa Trời, và rằng con đường này chính là chân đạo”, kẻ địch lại Đấng Christ âm thầm vui mừng trong lòng: “May mắn là mình đã không rời đi; đây thực sự là chân đạo! Xem nào, ngay cả người phương Tây cũng nói đức chúa trời nhập thể đang ở đâu. Mình phải nghe nhiều lời phán của ngài hơn, mình cần phải nhanh chóng nghe giảng đạo!” Vào lúc này, kẻ địch lại Đấng Christ cảm thấy rằng tiếng của Đức Chúa Trời thật hay, có thể gột rửa tâm hồn họ và cần được trân quý. Nhưng khi nhà Đức Chúa Trời thỉnh thoảng gặp phải một số va vấp trong việc mở rộng công tác ở nước ngoài và giữa nhân loại, hoặc khi công tác của nhà Đức Chúa Trời bị làm nhiễu loạn hay ảnh hưởng một chút, bị các thế lực ngoại lai can thiệp, hoặc thậm chí khi nhà Đức Chúa Trời gặp phải một vài khốn cảnh, trong lòng kẻ địch lại Đấng Christ lại dậy sóng, “Đức chúa trời nhập thể ở đâu? Ngài có phán lời không? Chuyện này được xử lý như thế nào? Liệu đức chúa trời có xử lý công bằng không? Dân được đức chúa trời chọn có sợ hãi không? Có ai rời xa nhà đức chúa trời không? Có nhân sĩ nổi tiếng hay có thâm niên nào ở bên ngoài lên tiếng hay hành sự vì nhà đức chúa trời, hoặc là đứng ra vì nhà đức chúa trời không? Nghe nói là không có ai cả. Vậy thì nên làm sao đây? Hội thánh của đức chúa trời có phải đã xong rồi không? Tôi có phải là nên khẩn trương chạy trốn không?” Sự xáo trộn này có lớn hay không? Vào lúc này, khi nghe lại lời Đức Chúa Trời giảng đạo, họ nghĩ thầm: “Ngài đừng nói những lời trống rỗng hay lên giọng như vậy nữa. Tôi không nghe lời ngài nữa. Nhà của đức chúa trời có thể bị thế giới này thôn tính mọi lúc mọi nơi; ngài phán những lời này thì có ích lợi gì? Những lời này có thể cứu người không? Thế lực của nhà đức chúa trời nói biến mất là biến mất; người trong nhà đức chúa trời nói tan rã là tan rã”. Họ không còn thích nghe những lời Ta phán nữa, vậy thì có còn sự tôn kính nào không? Còn sự đồng cảm nào không? (Thưa, không còn nữa.) Vậy còn lại gì? Chỉ còn lại sự chế giễu. Có vài người nói xấu sau lưng, nói những lời phá đám và đem chuyện của nhà Đức Chúa Trời ra làm trò cười: “Tôi nghĩ sẽ xảy ra chuyện thôi, tôi thấy ngài không thể đứng vững được đâu. Những lẽ thật này của ngài có tác dụng gì không? Những lời phán của ngài có tác dụng gì không? Thế nào? Gặp chuyện rồi phải không?” Hình tượng ma quỷ của họ đã lòi ra. Chẳng phải mọi chuyện mà kẻ địch lại Đấng Christ làm đều giống như những gì ma quỷ sẽ làm sao? Ngay cả đạo đức tối thiểu trong nhân tính mà họ cũng không có; họ quá tà ác, ăn cây táo rào cây sung! Họ ăn cơm từ nhà Đức Chúa Trời, hưởng thụ sự cung ứng từ lời Đức Chúa Trời, hưởng thụ sự bảo vệ và ân điển của Đức Chúa Trời, nhưng một khi xảy ra chuyện thì họ quay ra giúp người ngoài, phản bội lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và đem chuyện của nhà Đức Chúa Trời ra làm trò cười. Như thế này không phải ma quỷ thì là gì? Họ là ma quỷ, không hơn không kém! Khi thấy nhà Đức Chúa Trời đắc thế, họ quỳ “bịch” xuống trước mặt Đức Chúa Trời nhập thể, như thể họ là người đi theo Đức Chúa Trời. Nhưng khi nhìn thấy nhà Đức Chúa Trời bị Sa-tan bao vây và lên án, họ không còn phủ phục trước Đức Chúa Trời nữa. Thay vào đó, họ như một người đàn ông đỉnh thiên lập địa, đầu gối có dát vàng, làm sao có thể quỳ gối trước người khác? Họ sẽ chờ đem người khác ra làm trò cười. Họ nói chuyện với ngươi bằng giọng điệu và ngữ điệu to hơn, bắt đầu nói năng trịch thượng, hành động bất thường, hình tượng ma quỷ của họ lòi ra, biến đổi thật nhanh chóng. Các ngươi nói xem, khi nào thì những người này mới kính sợ Đức Chúa Trời? (Thưa, không bao giờ.) Đúng vậy, lời nói này quá chính xác. Những người này thuộc chủng loài của Sa-tan; họ sẽ không bao giờ kính sợ Đức Chúa Trời, bởi vì họ không tiếp nhận lẽ thật và thuộc về Sa-tan. Đây chính là thực chất bản tính của những kẻ thuộc về Sa-tan, là bộ mặt xấu xí của kẻ địch lại Đấng Christ, những kẻ thuộc về Sa-tan này. Họ định bụng đem nhà Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời nhập thể ra làm trò cười mọi lúc mọi nơi, chuẩn bị, sưu tầm tài liệu để phủ nhận Đấng Christ và phủ nhận thực chất của Đức Chúa Trời mọi lúc mọi nơi, quay ra giúp người ngoài và phản bội lợi ích của nhà Đức Chúa Trời mọi lúc mọi nơi. Nhà Đức Chúa Trời càng gặp chuyện thì kẻ địch lại Đấng Christ càng vui mừng và hạnh phúc hơn. Khi các anh chị em vẫn có thể thực hiện bổn phận một cách bình thường và mọi trật tự công tác trong nhà Đức Chúa Trời đều bình thường, trong lòng họ cảm thấy khó chịu, chỉ mong sao nhà Đức Chúa Trời nhanh chóng xảy ra chuyện, mong sao công tác của nhà Đức Chúa Trời không tiến triển thuận lợi mà gặp phải va vấp và trở ngại. Tóm lại, nếu hết thảy mọi việc đều tốt đẹp trong nhà Đức Chúa Trời, các anh chị em có thể thực hiện bổn phận một cách bình thường và đều có thể làm việc theo các nguyên tắc lẽ thật, thì trong lòng kẻ địch lại Đấng Christ sẽ không thấy vui. Khi các anh chị em đều nghe và thực hành theo lời Đức Chúa Trời, có thể tôn Đức Chúa Trời và Đấng Christ là vĩ đại, có thể làm chứng và đề cao Đấng Christ, đó là thời điểm mà trong lòng kẻ địch lại Đấng Christ thấy khó chịu nhất, là thời điểm mà họ chịu phán xét và giày vò nhất.

Kẻ địch lại Đấng Christ hỏi thăm đủ loại tin tức khác nhau trong nhà Đức Chúa Trời. Nếu trong một thời gian dài mà họ không hỏi thăm được về việc công tác phúc âm của nhà Đức Chúa Trời đang được mở rộng như thế nào, các hạng mục công tác nghiệp vụ trong nhà Đức Chúa Trời đang tiến triển ra sao, liệu có thuận lợi hay không, liệu số lượng người ở nước ngoài có tăng lên hay không, liệu quy mô của hội thánh có mở rộng hay không, liệu các quốc gia khác nhau có thành lập hội thánh hay không, hoặc nếu họ không thể hỏi thăm được rằng có nhiều người có danh tiếng trong xã hội có ý chí bước vào nhà Đức Chúa Trời hơn, thì trong lòng họ cảm thấy việc tin Đức Chúa Trời nhập thể không có ý nghĩa và không thú vị. Họ không muốn để ý đến Đức Chúa Trời nhập thể nữa và thậm chí còn muốn gia nhập các giáo phái náo nhiệt và có thế lực lớn hơn. Nếu thỉnh thoảng họ nghe được một số tin tức tốt lành về nhà Đức Chúa Trời, chẳng hạn như băng hình về lời chứng của các anh chị em thu hút được sự chú ý của một số tổ chức nhân quyền và hết sức được coi trọng, thì trong lòng họ sẽ vui mừng, tràn đầy hy vọng và vui sướng. Chẳng hạn như, nếu Nhà Đức Chúa Trời được đoàn thể nổi tiếng nào chú ý và đưa tin thì trong lòng họ càng vui mừng và dậy sóng hơn: “Xem ra người bình thường này không hề đơn giản; xem ra ngài sắp thành công rồi!” Nếu hội thánh may mắn được nêu tên bởi một nhân vật lớn hoặc thậm chí là một lãnh đạo nào đó, vậy thì trong lòng kẻ địch lại Đấng Christ càng dậy sóng hơn: “Trong cuộc đời này, mình đã đưa ra một lựa chọn lớn nhất và chuẩn xác nhất, chính là đi theo đức chúa trời toàn năng. Từ nay về sau, mình quyết định không bao giờ rời xa đức chúa trời toàn năng nữa, xem ngài như đức chúa trời mà đối đãi và tôn kính ngài trong lòng, bởi vì đức chúa trời được lãnh đạo này lãnh đạo kia tôn kính, họ tôn kính ngài thì mình cũng nên tôn kính ngài. Đức chúa trời đã được các lãnh đạo nêu tên và công nhận, vậy mình còn có gì phải tiếc nuối khi tin và đi theo ngài? Không phải mình càng nên đi theo ngài đến cùng sao? Từ nay về sau, mình hạ quyết tâm không bao giờ có ý định rời xa hội thánh của đức chúa trời toàn năng. Mình nhất định phải biểu hiện cho tốt, chịu đựng nhiều đau khổ hơn, trả giá nhiều hơn, làm chuyện gì cũng bàn bạc nhiều hơn với các anh chị em, bảo làm cái gì thì làm cái đó. Nói không chừng sau này, khi hội thánh mở rộng và nổi tiếng hơn, mình có thể được một chức vụ cao nào đó và có thể trở nên nổi bật!” Nghĩ đến đây, trong lòng họ cảm thấy thật tuyệt: “Mình đã lựa chọn quá giỏi, quá chuẩn xác! Mình thật thông minh làm sao! Lúc trước mình còn muốn rời đi – lúc đó mình thật ngốc và ngu muội biết bao! Khi đó mình còn trẻ, dễ bốc đồng và dễ đưa ra những lựa chọn và phán đoán sai lầm. Bây giờ lớn lên, mình vững chắc hơn và biết ẩn giấu, rốt cuộc cũng có được hy vọng. Rất may là mình đã không rời đi, không tin những lời đồn này và không bị chúng mê hoặc hay chi phối. Thật là nguy hiểm! Về sau mình cần phải cẩn thận hơn một chút. Xem ra người này thật phi thường, mình phải đối đãi với người này thật tốt!” Trong lúc kích động và bốc đồng, họ mua một số sản phẩm bảo vệ sức khỏe và một số thứ đẹp đẽ để kính dâng lên, trên đó viết: “Kính dâng lên Đức Chúa Trời thân mến của con, với những thứ sau đây”. Họ ký tên phía dưới: “Đặc biệt kính dâng và trình lên bởi người nào đó vào ngày tháng năm này”. Đây là một lễ vật đặc biệt và rất quý giá, nhưng đằng sau đó là một câu chuyện và một động cơ kín đáo. Có phải các ngươi nghe xong sẽ nói: “Vậy ra đây là cách Ngài lý giải việc mọi người dâng của lễ lên Đức Chúa Trời”? Không phải là Ta lý giải như vậy, không phải tất cả mọi người đều làm như vậy, cũng không phải tất cả những thứ đó đều bắt nguồn từ động cơ như vậy. Nhưng không thể phủ nhận rằng khi hiến dâng những thứ đó, có vài người chịu ảnh hưởng và bị thúc đẩy bởi những ý định và bối cảnh như vậy. Như vậy có khách quan không? (Thưa, khách quan.)

Khi kẻ địch lại Đấng Christ tính toán mọi sự việc trong đầu, thì trước hết vẫn là chữ “lợi”. Họ ích kỷ, đê tiện và có tính toán riêng trong mọi chuyện. Về tình hình tiến triển của các hạng mục công tác khác nhau trong nhà Đức Chúa Trời, đa số những người mưu cầu lẽ thật, cũng như mỗi một tín đồ bình thường đều không nguyện ý biết hoặc hỏi thăm về những chuyện này, bởi vì hỏi thăm về những chuyện này không liên quan gì đến việc mưu cầu lẽ thật. Ngươi có biết thì cũng vô dụng, làm như vậy cũng không có nghĩa là ngươi có được sinh mệnh hay lẽ thật, ngươi không biết thì cũng không có nghĩa là vóc giạc của ngươi nhỏ bé. Những chuyện này không liên quan chút nào đến lẽ thật, không hỗ trợ ngươi hiểu lẽ thật hay đạt đến kính sợ Đức Chúa Trời. Đây là mức độ mà người có lý trí có thể đạt đến. Tuy nhiên, kẻ địch lại Đấng Christ lại ngoan cố bám chặt vào những chuyện này, coi chúng là lẽ thật tối cao. Họ hỏi thăm và sưu tầm tin tức về những chuyện này. Sau khi sưu tầm tin tức về những chuyện này, chẳng những họ không giữ chúng cho riêng mình mà còn tuyên dương khắp nơi, họ cho rằng các anh chị em ai cũng hiếu kỳ về những chuyện này, dù thực ra thì có rất nhiều người không nguyện ý quan tâm đến những chuyện này. Bản thân Ta rất ít khi hỏi thăm về những chuyện này. Nếu tình cờ gặp ai đó có liên quan thì Ta có thể tán gẫu một chút nhưng sẽ không đặc biệt tìm người để hỏi thăm về những chuyện này. Chỉ có một loại tình huống, về việc một vài công tác rốt cuộc là làm như thế nào, tình hình công tác của ngươi tiến triển ra sao, có vấn đề hay lỗ hổng nào không. Chỉ có loại tình huống như vậy thì đến giờ Ta mới hỏi thăm, ngoài ra Ta tuyệt đối sẽ không vì hiếu kỳ hay quan tâm mà hỏi thăm về những chuyện này. Ta hỏi thăm những tình huống này chỉ có liên quan đến công tác chứ không liên quan đến nơi phát ra tin tức hay lòng hiếu kỳ. Kẻ địch lại Đấng Christ không yêu thích lẽ thật, họ rất muốn đào sâu vào những chuyện này và có mục đích khi làm như vậy. Họ dùng những tình hình và hoàn cảnh bên ngoài, bao gồm tình cảnh của hội thánh trong các thời kỳ, tình cảnh giữa các giáo phái, chủng tộc và nhóm dân tộc khác nhau để phán xét xem công tác mà Đức Chúa Trời làm là đúng hay sai, và phán xét chuyện Đấng Christ có phải là Đức Chúa Trời hay không. Họ là thứ gì vậy? Họ có tin Đức Chúa Trời không? Rõ ràng, họ chính là kẻ chẳng tin. Cho dù ngươi thông công bao nhiêu lẽ thật, họ cũng nghe mà không thấy và không hiểu được. Bên ngoài đánh giá như thế nào về hội thánh, địa vị và tình cảnh của hội thánh ở các quốc gia khác nhau ra sao, những chuyện này thì họ hỏi thăm và hiểu rất rõ ràng, hệt như một kẻ chẳng tin. Kẻ chẳng tin với dụng tâm kín đáo sẽ có những biểu hiện như vậy. Xung quanh ngươi có những người như vậy không? Các ngươi có thể không chú ý. Mỗi lần chúng ta nhóm họp và vạch trần đủ loại thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ, thì chỉ lên án một phần trong số những người này. Sau khi bị vạch trần, đuôi cáo của họ sẽ cụp lại và không dám thò ra. Nhất là sau lần thông công này, có vài người sau này sẽ không dám hỏi thăm nữa. Nhìn bề ngoài thì họ không dám hỏi thăm, nhưng sau lưng thì vẫn hỏi thăm tin tức hành lang. Họ không hỏi thăm giữa các anh chị em mà bí mật hỏi thăm trên mạng. Mặt khác, họ còn muốn bằng mọi cách tìm xem người ngoại đạo, các giáo phái và các nước phương Tây đánh giá và nhận định gì về hội thánh của chúng ta, gần như là họ phát điên. Như vậy chẳng phải là thần kinh không bình thường sao? Họ bị quỷ ám và không cưỡng lại được. Không thể nói lý với người không yêu thích lẽ thật và chán ghét lẽ thật được.

Chúng ta vừa vạch trần chuyện kẻ địch lại Đấng Christ tiếp cận hội thánh và tiếp cận xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể tùy thuộc vào tình cảnh của hội thánh và tình hình mở rộng công tác của Đức Chúa Trời. Đây là một phương diện biểu hiện về cách kẻ địch lại Đấng Christ tiếp cận với Đấng Christ tùy thuộc vào tâm trạng của họ. Những chuyện mà Ta vừa nói có xảy ra trong hội thánh không? Chúng có được coi là những chuyện nghiêm trọng không? Có đáng được nhắc tới không? (Thưa, đáng nhắc tới.) Giá trị của việc thông công những chuyện này là gì? Có phải là sau khi nghe xong, có vài người sẽ không bao giờ dám hỏi thăm về những tình huống này nữa, không bao giờ dám hiếu kỳ về tình hình và tình cảnh của hội thánh nữa không? Chỉ có chút giá trị như vậy thôi sao? (Thưa, không phải.) Vậy thì giá trị của việc vạch trần những chuyện này ở đâu? Mọi người nên hiểu lẽ thật nào từ chuyện này? Nếu hiện tại các ngươi chưa suy nghĩ cẩn thận thì có thể không phát biểu. Ta sẽ thông công với các ngươi vào cuối buổi. Những chuyện này quá xa vời với các ngươi, cho nên các ngươi khó có thể nói rõ ràng ngay lập tức, mà cần phải thu thập suy nghĩ trong đầu, trong lòng và cần sắp xếp lại ngôn ngữ; ngươi có thể không biết bắt đầu từ đâu hoặc có thể diễn đạt không rõ ràng lắm. Những thứ con người hiểu được quá ít, thật là đáng thương. Không thể nói hay giải thích rõ ràng về thực chất và ngọn nguồn của sự việc chính là không nhìn thấu được sự việc đó.

Khi mọi người tin Đức Chúa Trời trên trời, dâng mình và thực hiện bổn phận cho Đức Chúa Trời, có thể nói rằng hội thánh, nhà Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời, đối với con người mà nói, cơ bản là cùng một khái niệm. Thực hiện bổn phận trong hội thánh chính là dâng mình cho Đức Chúa Trời; làm việc cho nhà Đức Chúa Trời chính là làm việc cho hội thánh, cũng là trung thành với Đức Chúa Trời và tiếp nhận sự ủy thác của Ngài. Những chuyện này có thể nhập lại làm một mà nói và là cùng một khái niệm. Nhưng khi Đức Chúa Trời trở nên xác thịt và trở thành một người bình thường, đối với hầu hết mọi người thì hội thánh, nhà Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời (tức là Đấng Christ), ba đối tượng này trở nên dễ dàng tách rời. Người ta cho rằng: “Làm việc cho hội thánh cũng giống như làm việc cho nhà Đức Chúa Trời và cho Đức Chúa Trời; làm việc cho nhà Đức Chúa Trời là thực hiện bổn phận. Nhưng làm việc cho Đấng Christ thì có hơi khó nói. Đây chẳng phải là phục vụ theo ý của một con người sao? Chẳng phải có chút giống như làm việc theo ý của một con người sao?” Trong sâu thẳm nội tâm của rất nhiều người, rất khó để phân rõ và kết nối ba đối tượng này lại với nhau. Đối với hầu hết mọi người, khi họ thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời, đây là khái niệm cơ bản của họ về đối tượng mà họ phục vụ: Khi thực hiện bổn phận trong hội thánh, họ đang làm tròn bổn phận của mình vì đoàn thể là hội thánh, vì danh xưng này. Vậy thì ai được gọi là người đứng đầu hội thánh? Đương nhiên là Đức Chúa Trời trên trời, đây là điều không thể hoài nghi trong lòng mỗi một người. Làm việc cho nhà Đức Chúa Trời được hầu hết mọi người lý giải là làm việc vì danh xưng và tập thể các anh chị em, đương nhiên là có thể được quy vào phạm trù thực hiện bổn phận; như vậy là đang thực hiện bổn phận, đương nhiên đối tượng mà họ phục vụ cũng là Đức Chúa Trời. Cho nên, trong lòng mọi người thì hội thánh, các anh chị em và nhà Đức Chúa Trời có thể được coi là ngang nhau, tất cả đều phục vụ cho Đức Chúa Trời xa vời trên trời. Ngụ ý là gì? Đối với hầu hết mọi người, dù đang thực hiện bổn phận hay làm việc trong nhà Đức Chúa Trời, đối tượng mà họ phục vụ là hội thánh, một tổ chức vô hình, là các anh chị em, một tập thể hữu hình, và đặc biệt là Đức Chúa Trời xa vời và vô hình trên trời – đây là ba đối tượng mà họ phục vụ khi thực hiện bổn phận. Về phần Đức Chúa Trời nhập thể, mọi người có thể xem Ngài là thành viên của hội thánh, hoặc là người thủ lĩnh cao nhất trong số các anh chị em, và đương nhiên là có vài người cũng lý giải rằng Đấng Christ là người phát ngôn hoặc đại diện cho nhà Đức Chúa Trời. Cho nên, rất nhiều người có khái niệm rất mơ hồ về đối tượng mà họ đang phục vụ khi thực hiện bổn phận trong hội thánh. Chẳng hạn như, nếu bảo một người làm chuyện gì đó hoặc phục vụ cho các anh chị em, thì họ rất yên tâm thoải mái mà làm. Hoặc là nếu bảo họ làm chuyện gì đó cho hội thánh hay cho nhà Đức Chúa Trời, thì họ rất vui vẻ vì cho rằng đây là việc mà họ không thể thoái thác. Nhưng nếu Đấng Christ nhập thể căn dặn hoặc giao phó cho họ xử lý một chuyện tương tự, thì trong lòng họ sẽ cảm thấy chán nản: “Làm việc cho một con người sao? Tôi tin đức chúa trời không phải để làm việc cho con người; tôi đến để thực hiện bổn phận chứ không phải để hầu hạ người nào đó, tôi không ở đây để phục vụ hay đem sức lực phục vụ cho người nào đó!” Có rất nhiều người đang thực hiện bổn phận trong hội thánh. Nếu ngươi bảo họ làm chút chuyện gì đó cho hội thánh, cho nhà Đức Chúa Trời hoặc các anh chị em, họ tràn đầy vui mừng mà tiếp nhận, họ cho rằng yêu cầu như vậy là có căn cứ. Căn cứ nào vậy? “Tôi tiếp nhận từ đức chúa trời; đây là bổn phận và trách nhiệm của tôi”. Nhưng khi Đức Chúa Trời nhập thể bảo họ làm một chuyện gì đó, căn cứ lý luận “tiếp nhận từ đức chúa trời” của họ biến mất, trong lòng họ trở nên rất miễn cưỡng, không vui và không nguyện ý làm việc đó. Họ cảm thấy: “Nếu là vì hội thánh thì không sao, vì tôi là nhân viên công tác của hội thánh; nếu là vì các anh chị em thì cũng được, vì họ đều thuộc về nhà đức chúa trời, thuộc về đức chúa trời; nếu là vì nhà đức chúa trời, vì cái danh xưng ‘nhà đức chúa trời’ rất thiêng liêng, rất vĩ đại và cao quý, nên làm việc cho nhà đức chúa trời là danh chính ngôn thuận, mang lại vinh quang và sự công nhận. Nhưng làm việc cho một người bình thường như ngài thì sao? Như vậy là thực hiện bổn phận sao? Danh bất chính, ngôn bất thuận như vậy không phải là thực hiện bổn phận, cũng không phải là công tác, tôi nên xử lý chuyện này như thế nào?” Họ gặp vấn đề khó và không biết phải xử lý như thế nào. Họ ngẫm nghĩ: “Như vậy không phải là công tác, cũng không phải là thực hiện bổn phận và càng không mang lại lợi ích gì cho các anh chị em. Nếu ngài bảo tôi xử lý thì tốt thôi, tôi sẽ chỉ xử lý một cách đơn giản, nhưng trong lòng tôi sẽ không thấy vui hay thoải mái. Chuyện này là danh bất chính, ngôn bất thuận! Ai sẽ ghi nhận những gì tôi làm cho ngài? Có thể được ai ưu ái không? Có thể được thưởng không? Vậy thì có được xem là thực hiện bổn phận không? Có nên làm theo nguyên tắc lẽ thật không?” Trong lòng họ không nguyện ý, cảm thấy chuyện này bất tiện và không cần thiết, giống như tiếp nhận một bổn phận mà họ không nên tiếp nhận. Họ cảm thấy khó xử và xử lý rất miễn cưỡng, đồng thời trong lòng vẫn muốn được lợi ích nào đó, thậm chí họ còn nói: “Tôi không nguyện ý làm việc này”, biểu hiện thật sự rất miễn cưỡng. Ta nói rằng nếu ngươi không nguyện ý xử lý việc đó thì không cần phải làm. Ta không miễn cưỡng ai làm việc cho Ta. Nếu ngươi nguyện ý thì làm; nếu không thì Ta sẽ tìm người khác. Ai nguyện ý làm thì Ta tìm người đó. Chẳng phải đơn giản như vậy sao? Nhà Đức Chúa Trời có nhiều người đi theo như vậy, rất dễ tìm được một người vừa lòng đẹp ý và nguyện ý xử lý công việc. Ta có thể tìm được người như vậy, không bắt buộc là phải tìm ngươi, chuyện này quá dễ dàng! Tìm một người nào đó trong nhà Đức Chúa Trời có tính cách đáng tin cậy, thật thà và có năng lực làm việc, chuyện này có dễ hay không? (Thưa, dễ.) Mặc dù Ta chưa từng có quan hệ đặc biệt thân thiết hay đặc biệt tốt với ai, cũng như không có bất kỳ mối quan hệ cá nhân hay cảm tình đặc biệt nồng hậu nào, nhưng trong ba mươi năm này, tất cả mọi người trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời Toàn Năng đều ăn uống và lắng nghe lời phán của Ta. Bất kể từ thực chất hay trong sâu thẳm nội tâm, ngoài mặt hay là trong lời nói, những người này đều tin và đi theo Ta. Mặc dù Ta chưa trực tiếp ban cho bất kỳ ai lợi ích hay lời hứa đặc biệt nào, cũng chưa trực tiếp khen ngợi hay đề bạt ai, nhưng tất cả những ai đã đi theo Ta từ ngày đầu đến giờ đều đã ăn uống rất nhiều lời Đức Chúa Trời. Qua những lời Ta đã phán, bất kể là hiểu một số lẽ thật hay là đạo lý làm người, chẳng phải là họ đã nhận được không ít sao? (Thưa, phải.) Dựa vào điểm này, chẳng phải là Ta không nợ các ngươi bất cứ điều gì sao? Ta không nên nói lời này, nhưng hôm nay, ở đây Ta cần phải nói. Chẳng phải chính các ngươi mới là người nợ Ta điều gì đó sao? (Thưa, phải.) Nếu cá nhân Ta bảo bất kỳ ai trong số các ngươi làm chút chuyện gì đó thì chẳng phải là các ngươi nên nguyện ý sao? (Thưa, chúng con nguyện ý.) Bất kể từ góc độ nào, khi Ta bảo các ngươi làm việc thì có cần phải dỗ dành hay xu nịnh các ngươi, có cần phải nói hay hứa những lời êm tai cho các ngươi không? (Thưa, không cần.) Nhưng có người sẽ không nguyện ý và nói: “Tại sao làm việc cho ngài lại chẳng có gì thú vị vậy? Chẳng những không có lợi ích gì mà còn rất mệt mỏi và thật phiền phức!” Các ngươi nghe xong lời này thì có tâm trạng gì? (Thưa, tức giận.) Nếu là một người dân bình thường không có ai trên thế giới này để mắt đến, được một quan chức cấp cao đến nhà thăm hỏi và giao phó họ làm việc, nói không chừng họ có thể tìm cách tâng bốc người này, cũng như cảm thấy vô cùng vui mừng và vinh hạnh, vì chút chuyện này mà cả đời không quên. Nếu mọi người có thể tiếp cận những người có địa vị như vậy, tại sao họ không thể làm điều tương tự đối với Đấng Christ? Tại sao họ làm không được? Tại sao vậy? (Thưa, bởi vì con người vốn đối địch với Đức Chúa Trời.) Đúng vậy; chuyện này chỉ có thể minh chứng điều này. Con người có thể tương hợp với một Sa-tan có địa vị, nhưng đối với Đấng Christ thì trong lòng họ xem thường, chống đối, không tiếp nhận, phủ nhận và vứt bỏ Ngài. Nếu bảo họ phủ phục quỳ lạy một con quỷ, thì họ sẽ cam tâm tình nguyện mà quỳ, còn đối với con người bình thường như Đấng Christ, Đấng mà từ đó họ đã nhận được rất nhiều, thì họ lại không cam lòng đứng cùng, nói chuyện hay tương tác với Đức Chúa Trời một cách bình đẳng. Họ là thứ người gì vậy? Họ thuộc về ma quỷ chứ không phải con người. Sau đó, Ta nhờ người khác làm việc và người này cũng được. Người truyền lời cho biết: “Người làm việc lần này thực sự rất vui, họ rất nguyện ý làm việc cho Đức Chúa Trời”. Ta nói: “Nếu họ nguyện ý thì tốt thôi, nhưng xử lý chút chuyện nhỏ đó thì đã là gì, đây là chuyện theo lẽ thường phải làm, không cần phải truyền lời đến để đích thân tuyên bố đâu”. Các ngươi nói xem, truyền lời như vậy là sao? Nghe xong thì các ngươi có cảm nhận thế nào? Có thấy nhạt nhẽo không? (Thưa, nhạt nhẽo.) Tại sao cảm thấy nhạt nhẽo? (Thưa, đây là chuyện con người nên làm, nhưng họ còn cố gắng lấy lòng Đức Chúa Trời, như thể là làm việc cho Đức Chúa Trời là đã nể mặt Ngài lắm rồi vậy.) Vậy, người nói ra lời này là loại người gì? Nhân cách thế nào? (Thưa, họ có nhân cách thấp kém và không có lương tâm.) Đây chính là không có nhân tính.

Có vài người vừa nghe đến ân điển và phước lành của Đức Chúa Trời, nghe đến việc Đức Chúa Trời cung ứng cho con người, thì lòng họ vô cùng cảm động và không ngừng tạ ơn Đức Chúa Trời: “Đức chúa trời rất yêu thương con người!” Họ đang vô cùng kích động! Mỗi khi nhắc đến những chủ đề này, những người này đều rơm rớm nước mắt, họ dậy sóng trong lòng và hạ quyết tâm, nhất định phải dâng mình cho Đức Chúa Trời thật tốt. Nhưng khi bảo họ làm chút chuyện gì đó cho Đức Chúa Trời nhập thể, Đấng thấy được và rờ được này, thì họ cảm thấy vô cùng nhục nhã và không cam tâm tình nguyện. Chuyện gì đang xảy ra vậy? (Thưa, họ tin Đức Chúa Trời xa vời chứ không tin Đức Chúa Trời nhập thể. Họ xem Đức Chúa Trời xa vời trên trời là cao quý, nhưng lại xem Đức Chúa Trời nhập thể là tầm thường.) Ta nghe nói rằng có người rất nguyện ý đánh giày, giặt tất và thậm chí còn giặt quần áo cho các anh chị em, nhưng khi được bảo làm chút chuyện cho Đấng Christ thì họ lại không nguyện ý. Những người khác thấy không vừa mắt nên nói: “Người này bị sao vậy? Họ thà làm việc cho các anh chị em chứ không nguyện ý làm việc cho Đấng Christ. Đây là loại người gì vậy?” Có vài người, khi Ta dặn dò họ làm chuyện gì đó, bảo họ làm việc dựa theo các nguyên tắc của nhà Đức Chúa Trời và các quy định của hội thánh, họ nghe xong nhưng lại không coi trọng những lời này. Họ nói: “Ngài đang nói cái gì vậy? Tôi phải hỏi các anh chị em một chút, phải suy xét vì họ để mang lại lợi ích cho đa số họ”. Chẳng hạn như, Ta bảo một vài người phụ trách trồng cây ăn quả và bảo họ đi chợ xem loại cây ăn quả nào phù hợp để trồng ở vùng này. Một mặt, chúng phải thích hợp với khí hậu và thổ nhưỡng của địa phương, mặt khác, chúng ta nên nhìn xem những loại hoa quả nào được người dân địa phương cho là có giá trị dinh dưỡng cao và chọn trồng loại đó với số lượng vừa phải. Sau khi Ta phán xong, những người nghe Ta thì nên làm như thế nào? (Thưa, họ nên khẩn trương thực hiện.) Họ nên thực hiện như thế nào? (Thưa, họ nên tra cứu tư liệu liên quan, hỏi những người hiểu biết, tìm hiểu một số chi tiết rồi thực hiện.) Thực hiện theo cách này chính là thực hiện theo lời Ta phán, một mặt là dựa theo khí hậu địa phương, mặt khác là nhìn xem loại hoa quả nào có giá trị dinh dưỡng. Các ngươi nói xem, Ta suy xét có chu toàn hay không, có thực tế hay không? Nhưng những người nghe lời phán của Ta đã thực hiện chúng như thế nào? Họ yêu cầu toàn thể các anh chị em trong hội thánh địa phương bày tỏ ý kiến, hỏi mọi người thích ăn hoa quả gì, đem thống kê những loại hoa quả mà mọi người thích ăn rồi theo số lượng và tỉ lệ đó để gieo trồng. Họ thực hiện như vậy đấy. Họ trưng cầu ý kiến của các anh chị em, coi tập thể này, danh xưng này là tối cao trong lòng mình. Phục vụ cho các anh chị em là tôn chỉ và mục tiêu thực hiện bổn phận. Họ cho rằng phục vụ các anh chị em là phục vụ nhà Đức Chúa Trời, và phục vụ nhà Đức Chúa Trời là phục vụ các anh chị em. Nếu các anh chị em vui vẻ và hài lòng thì Đức Chúa Trời cũng vui vẻ và hài lòng. Các anh chị em là những người đại diện toàn quyền của Đức Chúa Trời, là biểu tượng của lẽ thật và là người phát ngôn của Đức Chúa Trời. Các anh chị em có quyền định đoạt, là trụ cột vững chắc cho nhà Đức Chúa Trời. Cho nên, bất kể làm chuyện gì thì cũng không thể tách rời danh xưng và tập thể các anh chị em này. Đối với bất kỳ ai làm việc hoặc thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời, chỉ có các anh chị em mới là đối tượng phục vụ duy nhất của họ. Họ thực hiện như vậy đấy; những gì Ta phán không là gì cả. Cho dù Ta có phán cặn kẽ đến đâu thì đối với họ, chúng cũng chỉ là những đạo lý và khẩu hiệu rỗng tuếch. Họ cho rằng việc cho các anh chị em bày tỏ đầy đủ ý kiến, cho họ đầy đủ quyền phát biểu và quyết định cũng như thực hành dân chủ trong nhà Đức Chúa Trời, thì như vậy là lẽ thật cao nhất. Dù Ta có phán gì đi nữa thì họ vẫn nhìn nhận rằng: “Ngài chỉ nói suông và thể hiện hình thức là xong việc rồi, còn lại là việc của các anh chị em chứ không phải của ngài nữa, ngài có thể đứng sang một bên rồi! Chúng tôi ăn gì uống gì không liên quan gì đến ngài; ngài chỉ bỏ tiền ra và vậy là xong rồi. Việc chúng ta có thức ăn và đồ uống là lẽ thật tối thượng. Phục vụ nhà đức chúa trời, phục vụ các anh chị em, làm các anh chị em vui vẻ, để họ được hưởng đầy đủ nhân quyền và tự do, đây là lẽ thật tối thượng”. Đây là loại người gì? Đây chẳng phải là chuyện mà kẻ địch lại Đấng Christ sẽ làm sao? Biểu hiện thứ nhất của việc kẻ địch lại Đấng Christ chán ghét lẽ thật chính là họ lên án và phủ nhận lẽ thật; sau đó, họ tìm ra một loạt lý luận và khẩu hiệu mà họ cho là khả thi và hợp lý rồi thực hiện chúng, công khai làm trái lẽ thật, công khai lên án và vứt bỏ Đấng Christ. Chính từ chút chuyện nhỏ này mà họ bị tỏ lộ. Họ có phải là những người tiếp nhận lẽ thật không? (Thưa, không phải.)

Ta thường nghe có vài người nói: “Ôi, nhìn các anh chị em thật buồn bực”; hoặc “Ôi, nhìn các anh chị em thật vui vẻ”; hoặc: “Ôi, hãy nhìn xem, các anh chị em bị đả kích và họ đang thực sự khó chịu”. Tại sao các anh chị em lại giữ địa vị cao như vậy trong lòng họ? Tại sao họ lại yêu thương các anh chị em đến vậy? Để yêu thương được nhiều người như vậy thì lòng dạ của họ phải rộng lượng biết bao? Vậy được rồi, Ta nói câu nào thì ngươi hãy chiếu theo đó mà làm, ngươi có thể tiếp nhận nhiều người như vậy, thì thêm một người như Ta cũng không thành vấn đề phải không, ngươi cũng có thể tiếp nhận Ta đúng không? Hoàn toàn ngược lại, họ không thể tiếp nhận những lời Ta phán, cũng không thể tiếp nhận một người như Ta. Họ có thể tiếp nhận tất cả các anh chị em và mọi người trong hội thánh, nhưng không thể tiếp nhận Đấng Christ. Họ là thứ gì vậy? Có phải là con người không? Người như vậy có xứng đáng làm người tùy tùng của Đấng Christ không? (Thưa, không xứng.) Vậy thì chúng ta nên xác định tính chất của họ như thế nào? (Thưa, họ là ma quỷ, là kẻ địch lại Đấng Christ.) Có phải là họ đang lý giải sai lầm về chuyện bầu cử dân chủ trong nhà Đức Chúa Trời không? Nhà Đức Chúa Trời làm chuyện gì cũng muốn các anh chị em tham dự, bày tỏ ý kiến, bầu chọn, cách chức các lãnh đạo và để các anh chị em đưa ra quyết định – họ có nghĩ rằng các anh chị em là tối cao trong nhà Đức Chúa Trời không? Đây chẳng phải là sự lý giải sai lầm về bầu cử dân chủ trong nhà Đức Chúa Trời sao? Nguyên tắc bầu cử dân chủ là gì? Để các anh chị em bầu cử dân chủ có nghĩa là để họ định đoạt hay sao? Có nghĩa là để cho tâm tính bại hoại của con người định đoạt hay sao? Có nghĩa là để cho ma quỷ và Sa-tan nắm quyền hay sao? Không phải, nó có nghĩa là để lẽ thật mà các anh chị em hiểu rõ trong lòng nắm quyền, chứ không phải để chính các anh chị em, những con người tự nhiên và bại hoại này nắm quyền. Đó là không để sự nóng nảy nắm quyền, không để quan niệm của con người nắm quyền, không để sự phản nghịch và chống đối của con người nắm quyền, và không để tâm tính tà ác của con người nắm quyền – đó là để lẽ thật nắm quyền. Có vài người nói: “Tại sao một số cuộc bầu cử trong hội thánh lại bầu ra kẻ địch lại Đấng Christ, hoặc tại sao các lãnh đạo và người làm công trong hội thánh lại đưa ra những quyết sách sai lầm?” Đó là vì vóc giạc của con người quá nhỏ; họ không hiểu lẽ thật và không thể phân định con người. Nhưng nguyên tắc bầu cử của hội thánh được quy định dựa theo các nguyên tắc lẽ thật, và có lẽ thật. Vậy, kẻ địch lại Đấng Christ này – những kẻ không có hiểu biết thuộc linh – họ đã ngộ nhận điều gì? Họ nghĩ rằng trong nhà Đức Chúa Trời, các anh chị em được tôn là vĩ đại, được đề cao, danh xưng và tập thể các anh chị em này được coi là tôn quý trong mắt Đức Chúa Trời. Nhưng trên thực tế thì các anh chị em có tôn quý không? Họ có lẽ thật không? Đa số các anh chị em đều không có thực tế lẽ thật, làm việc cũng không có nguyên tắc và còn có thể khiến cho các hạng mục công tác trong nhà Đức Chúa Trời rối tung lên. Nếu không có Bề trên can thiệp, sửa chữa và giải quyết kịp thời các vấn đề, thì liệu các anh chị em này có thể làm tốt bổn phận không? Chẳng những họ không thể làm tốt bổn phận mà còn có thể làm rất nhiều chuyện gây nhiễu loạn và làm gián đoạn. Những người này có lẽ thật không? Họ có xứng đáng được tôn là vĩ đại không? Họ không xứng đáng. Vậy thì tại sao kẻ địch lại Đấng Christ vẫn có thể làm như vậy? Họ bẩm sinh đã như vậy. Họ chỉ tìm cớ để phủ nhận lẽ thật và lên án Đấng Christ – chẳng phải họ bẩm sinh là như vậy sao? Họ có bản tính của Sa-tan và luôn không kìm được bản thân!

Trọng tâm của buổi thông công hôm nay là về cách mà kẻ địch lại Đấng Christ tiếp cận Đấng Christ tùy thuộc vào tâm trạng của họ. Mỗi một hạng mục mà chúng ta thông công đều liên quan đến tâm trạng của kẻ địch lại Đấng Christ. Nhìn bề ngoài thì có vẻ như vậy, nhưng trên thực tế, tâm trạng này phát sinh như thế nào? Nó được quyết định bởi tâm tính bại hoại và thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ. Do có thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ nên kẻ địch lại Đấng Christ nảy sinh đủ loại tư tưởng, và dưới sự chi phối của những tư tưởng khác nhau này, họ nảy sinh đủ loại quan niệm, quan điểm, góc độ và lập trường, từ đó nảy sinh đủ loại tâm trạng khác nhau. Sau khi nảy sinh đủ loại tâm trạng này, kẻ địch lại Đấng Christ tiếp cận Đức Chúa Trời trên trời và Đức Chúa Trời trên mặt đất – Đấng Christ, bằng đủ loại phương thức, phương pháp và thái độ khác nhau. Từ những phương thức, phương pháp và thái độ này, đủ để chứng tỏ thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ là chán ghét và thù hằn lẽ thật, là phủ nhận và lên án Đấng Christ. Mỗi khi gặp chuyện liên quan đến lẽ thật, đến thực chất và thân phận của Đức Chúa Trời nhập thể, họ đều rất tự giác đứng về phía đối lập với Đức Chúa Trời, đóng vai kẻ thù của Ngài. Khi không có chuyện gì xảy ra, miệng họ hét lên danh của Đức Chúa Trời, thậm chí cứ mở miệng ra là xưng “Thưa đức chúa trời, đức chúa trời của con”. Họ nói chuyện gì cũng phải bắt đầu bằng danh xưng: “Thưa đức chúa trời, ngài nhìn xem”, “Thưa đức chúa trời, ngài có biết không”, “Thưa đức chúa trời, ngài hãy nghe con nói”, “Thưa đức chúa trời, con có một điều cần tìm kiếm”, “Thưa đức chúa trời, chuyện là như vầy”, v.v.. Trong khi xưng “Thưa đức chúa trời”, trong lòng họ đầy quan niệm, sự căm thù và cũng đầy sự khinh bỉ đối với Đấng Christ. Khi hội thánh, nhà Đức Chúa Trời và Đấng Christ gặp phải đủ loại hoàn cảnh và tình cảnh khác nhau, thái độ của kẻ địch lại Đấng Christ đối với Đấng Christ và Đức Chúa Trời liên tục biến đổi, phát sinh những sự biến đổi khác nhau. Khi Đấng Christ đề xuất yêu cầu đối với họ với vẻ mặt ôn hòa, thái độ của họ có vẻ rất dịu dàng và ngoan ngoãn; khi Đấng Christ nghiêm khắc với họ và tỉa sửa họ, thái độ của họ đối với Đấng Christ là ác cảm, ghê tởm, khinh bỉ, thậm chí là lánh xa và vứt bỏ Ngài. Khi Đấng Christ hứa ban cho họ những phần thưởng và phước lành một cách rõ ràng, họ thầm vui mừng trong lòng, thậm chí còn nịnh nọt, xu nịnh, tâng bốc Ngài, không tiếc hy sinh tôn nghiêm và nhân cách của mình để đổi lấy những lợi ích này. Nhưng bất kể thái độ của họ như thế nào, họ không bao giờ thực sự tiếp nhận và tin Đấng Christ, càng không bao giờ thực sự thuận phục Ngài. Thái độ của họ đối với Đấng Christ mãi mãi là thái độ lánh xa, lên án, mong chờ và vứt bỏ Ngài từ sâu thẳm nội tâm. Cho dù họ ở đâu, tâm trạng thế nào thì thực chất của họ là bất biến. Mặc dù thỉnh thoảng họ có nảy sinh một số thay đổi hoặc hồi chuyển bất ngờ thì đây cũng chỉ là tạm thời. Nguyên nhân cho chuyện này là vì thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ là đối địch với Đấng Christ, cho nên họ sẽ không bao giờ thật lòng tiếp nhận người bình thường này là Chúa của họ, là Đức Chúa Trời của họ.

Trên cơ bản, mấy phương diện của việc kẻ địch lại Đấng Christ tiếp cận Đấng Christ tùy thuộc vào tâm trạng của họ đã được thông công xong rồi. Còn một vấn đề cuối cùng, như vừa nãy Ta đã hỏi các ngươi, giá trị của việc vạch trần những chuyện này là gì và lẽ thật mà mọi người nên hiểu là gì? Giá trị của việc vạch trần những chuyện này có thể được nói đơn giản theo hai phương diện. Phương diện thứ nhất, vạch trần thực chất bên trong thái độ thực sự của con người đối với Đức Chúa Trời rốt cuộc là gì, để từ đó con người có thể nhận biết mọi biểu hiện bại hoại của nhân loại, như vậy có lợi cho việc nhận biết bản thân và nhận biết tâm tính bại hoại của mọi người. Phương diện thứ hai là để mọi người biết rốt cuộc nên có thái độ gì khi tiếp cận Đức Chúa Trời. Ngươi cho rằng mình tiếp cận Đức Chúa Trời như vậy là đã xem Ngài là Đức Chúa Trời rồi, nhưng trên thực tế, bên trong còn có rất nhiều uế tạp và nhiều thứ thuộc về Sa-tan – đây là những biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ, những thứ mà Đức Chúa Trời không thừa nhận, cũng không tiếp nhận. Đây là uế tạp cần phải được làm tinh sạch. Ở đây tồn tại cả giá trị tích cực và tiêu cực: Ít nhất, từ góc độ tiêu cực, nó cho ngươi biết rằng những thứ này là tiêu cực và thuộc về biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ. Góc độ tích cực cho ngươi biết rằng Đức Chúa Trời không yêu thích những thứ này, Ngài không tiếp nhận việc ngươi tiếp cận Ngài theo cách này. Ngụ ý chính là, dù con người cho rằng cách tiếp cận của họ với Đức Chúa Trời có đúng, có tốt, có hợp lô-gích hay phù hợp với tình cảm của con người đến đâu, thì Đức Chúa Trời cũng không chấp nhận. Nếu Đức Chúa Trời không chấp nhận thì ngươi nên làm gì? Nếu ngươi nói: “Tôi sẽ làm theo cách này, tôi cho rằng làm như vậy là tốt và tôi sẽ kiên trì; bất kể ngài có chấp nhận hay không, tôi sẽ chính trực như vậy đấy”, như vậy có được không? (Thưa, không được.) Nếu là tiếp cận chuyện gì khác thì chúng ta sẽ không cần bàn đến việc thái độ này có đúng hay không; nhưng đây là tiếp cận Đức Chúa Trời, ngươi làm như vậy là rất nguy hiểm, ngươi hãy nên quay đầu. Con người nên có thái độ gì đối với những chuyện mà Đức Chúa Trời không thể tiếp nhận? Thái độ duy nhất mà con người nên có chính là tiếp nhận hết thảy mọi sự đến từ Đức Chúa Trời; dù cho đối với họ, chuyện đó có vẻ tốt hay xấu, lời nói dễ nghe hay là chối tai, khó nghe, thì họ cũng đều nên tiếp nhận và thuận phục một cách vô điều kiện, xem đó là lẽ thật để thay đổi và làm tinh sạch bản thân. Giá trị của việc vạch trần những chuyện này là gì? Chẳng phải đã được nói hết cả từ phương diện tiêu cực lẫn chủ động, cả mặt tích cực và mặt trái rồi sao? Vậy thì lẽ thật mà mọi người nên hiểu là gì? (Thưa, Đức Chúa Trời là lẽ thật, Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa. Dù Ngài nhập thể trong xác thịt hay xuất hiện dưới bất kỳ phương thức nào, thì những lời Ngài phán đều là lẽ thật, và chúng ta nên thuận phục và tiếp nhận vô điều kiện.) Có phải mọi người nên nói amen với lời nói này không? (Amen.) Ta cũng nói amen với lời này; tiếp nhận và thuận phục vô điều kiện, đây là lẽ thật. Bất kể Đức Chúa Trời xuất hiện và sống giữa con người dưới hình thức hay phương thức nào, bất kể Đức Chúa Trời tồn tại dưới hình thức nào, thì Đức Chúa Trời mãi mãi là Đức Chúa Trời. Đây là lẽ thật và là lẽ thật mà mọi người nên hiểu rõ nhất. Tiếp theo, thái độ mà một loài thọ tạo nên có đối với Đức Chúa Trời là thái độ thuận phục vô điều kiện. Ngoài ra, còn có một điểm mà mọi người không hiểu: Tại sao con người lại đi theo Đức Chúa Trời? Là vì giải sầu sao? Để cho trí óc được phong phú và giải quyết sự trống rỗng về tinh thần sao? Là để giải quyết vận mệnh về sau của họ sao? Là để được làm sạch sao? Hay là để vào học đại học lẽ thật? Mọi người đi theo Đức Chúa Trời là để giải quyết chuyện gì? Chuyện này thì mọi người cần biết. (Thưa, để giải quyết tâm tính bại hoại của mình.) Đúng vậy. Mọi người đi theo Đức Chúa Trời để giải quyết tâm tính bại hoại. Con người có thể tự mình giải quyết tâm tính bại hoại không? Người có danh tiếng, có tri thức, có văn hóa liệu có thể giải quyết được không? Có ai trong nhân loại có thể giải quyết được vấn đề này không? (Thưa, không ai có thể giải quyết được.) Hôm nay Đức Chúa Trời đến đây chính là để giải quyết vấn đề này; chỉ có Đức Chúa Trời nhập thể, chỉ có chính Đức Chúa Trời mới có thể giải quyết vấn đề này. Tại sao Đấng Christ nhập thể nhìn có vẻ giống như con người nhưng lại có thể giải quyết vấn đề này? Con người có ngôn ngữ, có tư duy, có suy nghĩ, vậy tại sao họ không giải quyết được vấn đề này? Sự khác biệt nằm ở đâu? (Thưa, Đức Chúa Trời là lẽ thật, con đường và sinh mệnh; con người không có lẽ thật.) Đức Chúa Trời là lẽ thật, con đường và sinh mệnh. Chỉ khi tiếp nhận sự thật này và tiếp nhận toàn bộ xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể thì tâm tính bại hoại của con người mới có thể được giải quyết. Ngụ ý rằng mọi người đến trước Đức Chúa Trời để giải quyết tâm tính bại hoại của mình, cũng có nghĩa là đến với Đức Chúa Trời để nhận được lẽ thật. Có được lẽ thật thì tâm tính bại hoại của con người mới có thể được giải quyết. Không có được lẽ thật thì làm sao ngươi có thể giải quyết được? Đạo lý có thể giải quyết được tâm tính bại hoại không? Tri thức có thể giải quyết được tâm tính bại hoại không? Quan niệm và tưởng tượng có thể giải quyết được tâm tính bại hoại không? Không giải quyết được. Chỉ có Đức Chúa Trời nhập thể thực tế mới có thể giúp ngươi giải quyết. Cho nên, ngươi sùng bái bất kỳ danh nhân, vĩ nhân hay cao nhân nào thì cũng vô ích; họ đều không thể giải quyết những khó khăn hiện thực của ngươi, cũng không cứu được ngươi. Mặt khác, ngươi học bất kỳ môn học, nghiệp vụ hoặc tri thức nào cũng đều không thể giải quyết được những khó khăn hoặc vấn đề hiện thực của ngươi. Nếu ngươi nói: “Tôi chỉ xem thường người bình thường này thôi”, vậy thì quan điểm của ngươi cần phải biến đổi. Sự thật chính là như vậy; Đức Chúa Trời sẽ làm như vậy. Nếu muốn tiếp nhận Đức Chúa Trời là sinh mệnh của mình, thì ngươi nên tiếp nhận mỗi một câu mà Đức Chúa Trời phán và mỗi một việc mà Ngài làm. Nếu thừa nhận Đức Chúa Trời là lẽ thật, vậy thì ngươi nên tin và thừa nhận Đức Chúa Trời, bất kể Ngài tồn tại hay xuất hiện dưới phương thức và hình thức nào, Ngài luôn là lẽ thật. Đây là sự thật không hơn không kém và là sự thật tuyệt đối. Sau khi thừa nhận sự thật này, ngươi nên tiếp cận xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể, con người bình thường này với thái độ như thế nào? Bên trong vẫn còn lẽ thật cần được tìm kiếm.

Vạch trần những biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ tiếp cận Đấng Christ tùy thuộc vào tâm trạng của họ, lẽ thật đằng sau mà mọi người nên hiểu là gì? Các ngươi hãy tổng kết lại mấy điều để chúng được rõ ràng và ngươi cũng hiểu rõ về lẽ thật này. (Thưa, chúng ta tổng kết bốn điều: Điều thứ nhất, Đức Chúa Trời mãi mãi là Đức Chúa Trời, và đây là lẽ thật. Điều thứ hai, thái độ mà loài thọ tạo nên có đối với Đức Chúa Trời là thuận phục vô điều kiện. Điều thứ ba, Đức Chúa Trời là lẽ thật, con đường và sinh mệnh, chỉ khi tiếp nhận sự thật này và tiếp nhận toàn bộ xác thịt mà Đức Chúa Trời nhập thể thì tâm tính bại hoại của con người mới có thể được giải quyết. Điều thứ tư, nếu con người thừa nhận Đức Chúa Trời là lẽ thật, thì họ nên tin và thừa nhận Đức Chúa Trời, bất kể Ngài tồn tại hay xuất hiện dưới phương thức và hình thức nào, Ngài luôn là lẽ thật, đây là sự thật không hơn không kém.) Bốn điều này có then chốt không? (Thưa, then chốt.) Thực ra, mọi người đều biết mỗi một điều này về mặt đạo lý, nhưng về việc những nguyên tắc lẽ thật nào có liên quan đến cách tiếp cận Đấng Christ, khi gặp chuyện thực tế thì mọi người đều trở nên hồ đồ. Họ không biết thực hành như thế nào và những lẽ thật mà họ hiểu trước đây đều biến thành những đạo lý không thể vận dụng được. Chuyện này đủ để chứng minh rằng, cho dù mọi người có hiểu bao nhiêu đạo lý thì cũng vô ích; không hiểu lẽ thật thì sẽ không giải quyết được vấn đề.

Ngày 20 tháng 6 năm 2020

Trước: Mục 10. Họ xem thường lẽ thật, ngang nhiên vi phạm các nguyên tắc và phớt lờ những sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời (Phần 2)

Tiếp theo: Bài bàn thêm 2: Nô-ê và Áp-ra-ham đã lắng nghe lời Đức Chúa Trời và thuận phục Ngài như thế nào (Phần 1)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger