Mục 6. Họ làm việc theo cách kỳ dị, độc đoán chuyên quyền, không bao giờ thông công với người khác, và buộc người khác phải thuận phục mình

Phần bổ sung: Câu chuyện của Đại Minh và Tiểu Minh

Trước khi chúng ta đi vào chủ đề thông công chính, hãy cùng bắt đầu bằng việc kể chuyện. Lợi ích của việc kể chuyện là gì? (Thưa, dễ nhớ.) Cho đến nay, Ta đã kể bao nhiêu câu chuyện dễ nhớ rồi? (Thưa, câu chuyện của Đại Bảo và Tiểu Bảo.) “Câu chuyện của Đại Bảo và Tiểu Bảo” là câu chuyện Ta kể lần trước. (Ngoài ra còn có “Săn chuột” và câu chuyện các lãnh đạo nữ.) Ta đã kể khá nhiều câu chuyện rồi. Tại sao Ta lại kể chuyện? Thực ra mục đích là để chuyển đổi sang một hình thức thư giãn hơn, dễ hiểu hơn để thông công về một số lẽ thật mà con người nên lĩnh hội được. Nếu các ngươi lĩnh hội được những lẽ thật từ các câu chuyện Ta kể, và những lẽ thật này giúp ích cho nhiều khía cạnh lối vào của các ngươi trong đời sống hàng ngày, thì Ta kể chuyện không tốn công vô ích. Nó cho thấy các ngươi thực sự lĩnh hội được những lẽ thật liên quan trong các câu chuyện, các ngươi lĩnh hội được khía cạnh thực tế của những lẽ thật này, chứ không chỉ nghe như những câu chuyện đơn thuần. Lần trước, Ta đã kể câu chuyện của Đại Bảo và Tiểu Bảo. Hôm nay, Ta sẽ kể câu chuyện của Đại Minh và Tiểu Minh. Khi nghe, các ngươi hãy suy ngẫm xem câu chuyện này đang thực sự muốn các ngươi hiểu được điều gì và liên quan đến khía cạnh lẽ thật nào.

Đại Minh và Tiểu Minh là hai cha con. Cách đây một thời gian, Đại Minh và cậu con trai Tiểu Minh của mình đã đón nhận công tác mới của Đức Chúa Trời. Đây có phải là một điều tốt lành không? (Thưa, phải.) Đó là một điều tốt lành. Tiểu Minh còn nhỏ và chỉ biết đọc một chút, nên hàng ngày Đại Minh đọc lời Đức Chúa Trời cho cậu bé nghe và kiên nhẫn giải thích những lời mà Tiểu Minh không hiểu. Sau một thời gian, Tiểu Minh đã hiểu được khá nhiều đạo lý làm người, cũng như một số từ vựng mà cậu chưa bao giờ tiếp xúc trước khi tin Đức Chúa Trời, chẳng hạn như thuận phục, đức tin, trung thực, giả dối, v.v. Thấy con trai tiến bộ, Đại Minh rất vui. Tuy nhiên, gần đây Đại Minh nhận thấy rằng dù anh ấy có đọc bao nhiêu lời Đức Chúa Trời cho Tiểu Minh đi nữa, thì hành vi hay lời nói của cậu bé cũng không có nhiều tiến bộ. Đại Minh trở nên ưu lo và hình thành một trọng trách, nghĩ rằng: “Làm sao để bằng cách đọc lời Đức Chúa Trời, mình có thể khiến con trai hiểu được chút lẽ thật, thể hiện chút thay đổi, để người ta tán thành, tán thưởng và khen ngợi con là đứa trẻ ngoan nhỉ? Và khi đó, nhờ biểu hiện của Tiểu Minh, họ có thể tán dương rằng tin Đức Chúa Trời là điều tốt lành, và Phúc Âm có thể được rao truyền đến những người khác thông qua sự thay đổi của con trai mình – như vậy thật tuyệt vời biết mấy!”. Sau khi hình thành trọng trách này, Đại Minh cứ ngẫm nghĩ: “Làm sao để mình có thể giáo dục Tiểu Minh cho tốt hầu cho con hiểu nhiều hơn về đạo lý làm người, từ đó có những biểu hiện tốt hơn và hợp tâm ý của Đức Chúa Trời đây? Cuối cùng, khi Tiểu Minh trở thành một đứa trẻ ngoan và được mọi người khen ngợi, mọi vinh hiển này có thể dâng cho Đức Chúa Trời – như vậy thật tuyệt vời biết mấy! Khi đó mới có thể đặt xuống hòn đá nặng trĩu trong lòng mình”. Trọng trách mà Đại Minh cảm thấy có hợp lý không? Có thể xem đó là thực hiện nhiệm vụ chính đối với anh ấy không? (Thưa, có.) Từ góc độ này, xuất phát điểm của anh ấy là đúng – cũng coi là hợp lý và là một nhiệm vụ chính. Con đường mà Đại Minh chọn cho Tiểu Minh là đúng hay sai? Tốt hay xấu? Hồi sau sẽ rõ. Đại Minh thường cầu nguyện và cầu khẩn với Đức Chúa Trời về điều này. Cuối cùng một ngày nọ, anh ấy có một “linh hứng”. “Linh hứng” gì? Cái gọi là “linh hứng” này nằm trong ngoặc kép. Vì “linh hứng” này nằm trong ngoặc kép, vậy Đại Minh có thể đang ám chỉ dạng con đường nào? Các ngươi có thể tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo trong câu chuyện không? Chưa rõ ràng lắm, phải không? Nó phần nào còn là ẩn số.

Một hôm, sau khi đọc lời Đức Chúa Trời cho con trai, Đại Minh hỏi Tiểu Minh một cách rất nghiêm túc rằng liệu việc tin Đức Chúa Trời có phải là điều tốt lành hay không. Tiểu Minh trịnh trọng thưa: “Tin Đức Chúa Trời là điều tốt lành. Người tin Đức Chúa Trời không ức hiếp người khác, không gặp thảm họa, có thể lên thiên đàng, và sau khi chết không bị đày xuống địa ngục”. Tiểu Minh nói có đúng không? Tuổi nhỏ như vậy mà Tiểu Minh đã có thể nói thế là tốt lắm rồi. Nhận thức của cậu bé về đức tin nơi Đức Chúa Trời rất đơn giản, còn sơ khai và hết sức nông cạn, nhưng đối với cậu bé, như vậy đã là sâu sắc rồi. Nghe xong, Đại Minh rất vui lòng và cảm thấy được an ủi, nói rằng: “Tốt lắm, Tiểu Minh, con đã có sự tiến bộ. Xem ra đức tin của con nơi Đức Chúa Trời đã có chút căn cơ. Ba rất vui và cảm thấy được an ủi. Nhưng liệu việc tin Đức Chúa Trời có thực sự đơn giản như vậy không?”. Tiểu Minh suy ngẫm một lúc và nói: “Chẳng phải đó là tất cả những gì mà lời Đức Chúa Trời phán sao ba? Còn gì nữa ạ?”. Đại Minh lập tức đáp lại: “Yêu cầu của Đức Chúa Trời không chỉ có vậy. Con đã tin Đức Chúa Trời một thời gian dài như vậy, mà khi các anh chị em ghé thăm, con thậm chí còn không biết chào họ. Từ nay trở đi, khi gặp người cao tuổi, con hãy gọi họ là ông, bà; khi gặp người ít tuổi hơn, con hãy gọi họ là bác, cô, chú, hoặc anh, chị. Như vậy, con sẽ trở thành đứa trẻ được mọi người yêu mến – và Đức Chúa Trời chỉ yêu thương những đứa trẻ được mọi người yêu mến. Từ nay trở đi, hãy nghe lời ba và làm như ba nói; khi ba bảo con gọi ai thế nào, hãy gọi họ như vậy”. Tiểu Minh khắc cốt ghi tâm lời ba, cảm thấy những gì ba nói là đúng. Trong trái tim non nớt của mình, cậu tin rằng ba lớn tuổi hơn, đọc nhiều lời Đức Chúa Trời hơn và hiểu biết nhiều hơn cậu. Hơn nữa, ba luôn mong muốn những điều tốt đẹp nhất cho cậu và chắc chắn sẽ không khiến cậu lạc lối, nên dù ba có nói gì cũng chắc chắn là đúng. Tiểu Minh không hiểu lẽ thật là gì và đạo lý là gì, nhưng ít nhất cậu cũng biết tốt, xấu, đúng, sai là gì. Sau khi nghe ba nói, Tiểu Minh cũng hình thành một chút trọng trách về việc này. Từ đó trở đi, mỗi khi Tiểu Minh ra ngoài với ba và gặp ai đó, nếu ba bảo cậu gọi họ là “cô”, cậu sẽ nói “Con chào cô”; nếu ba bảo gọi họ là “chú”, cậu sẽ nói “Con chào chú”. Mọi người đều khen ngợi Tiểu Minh là đứa trẻ ngoan ngoãn, lễ phép, đồng thời ca ngợi Đại Minh dạy con tốt. Tiểu Minh rất vui, tự nhủ: “Lời chỉ dẫn của ba thật tốt đẹp; ai gặp mình cũng thích”. Trong lòng Tiểu Minh cảm thấy đắc ý và đặc biệt tự hào, nghĩ rằng cách mà ba đang hướng dẫn cậu là thực sự tốt đẹp và đúng đắn.

Một hôm, vừa đi học về, Tiểu Minh liền chạy ùa tới chỗ ba và nói: “Ba ơi, biết sao không? Ông lão Trương hàng xóm bắt được một con –”. Cậu chưa nói hết câu thì Đại Minh ngắt lời: “‘Ông lão Trương’ sao? Tại sao con lại có thể nói thế được, Tiểu Minh? Con có còn là tín hữu nữa không? Làm sao con có thể gọi ông ấy là ‘Ông lão Trương’ được? Con quên ba dạy thế nào rồi, con không thực sự có đức tin nơi Đức Chúa Trời, con không phải là tín hữu thực sự. Xem này, ba nhớ mà; ba có thể giúp con nhớ lại. Con nên gọi ông ấy là ông Trương, hiểu chưa?”. Tiểu Minh ngẫm nghĩ: “Gọi ông ấy là ông Trương cũng được”. Cậu tiếp tục: “Ông Trương hàng xóm bắt được một con cá to như thế này này! Bà lão Trương khoái chí!” “Con lại quên rồi sao?” Đại Minh nói. “Con vẫn chưa hiểu, cái thằng này. Ba vừa nói xong, con nên gọi ông ấy là ông Trương; có nghĩa là vợ ông, cùng thế hệ với ông, thì nên gọi là gì? Nên gọi là bà Trương. Nhớ đấy, đừng bao giờ nói ông lão Trương hay bà lão Trương nữa, kẻo người ta cười chúng ta. Chúng ta là tín hữu mà như vậy chẳng phải xấu hổ sao? Họ sẽ nói rằng chúng ta không lễ phép và không quy củ, không giống như tín hữu. Như vậy không mang lại vinh hiển cho Đức Chúa Trời”. Ban đầu Tiểu Minh hào hứng kể cho ba nghe về con cá to mà ông lão Trương bắt được, nhưng sau khi bị ba chỉnh đốn, cậu cụt hứng và không còn muốn nói nữa. Cậu khoác ba lô quay đầu bước đi, vừa đi vừa lẩm bẩm: “Ba nghĩ ba biết hết mọi thứ với hết thảy những điều ông Trương, bà Trương này. Chuyện đó thì liên quan gì đến chúng ta chứ? Như kiểu chỉ có ba mới thuộc linh vậy!”. Đại Minh đáp lại: “Ồ, thực ra thì ba cũng thuộc linh mà! Hầu hết mọi người, dù họ bao nhiêu tuổi, ba cũng có thể nhận biết thứ bậc của họ chỉ bằng cách nhìn vào tuổi họ, và biết nên xưng hô với họ thế nào. Ba gọi người lớn tuổi hơn là cô, chú – vậy tại sao thậm chí con còn không thể gọi cho đúng được? Là tín hữu, chúng ta không được quên điều này; chúng ta không được lẫn lộn từ ngữ về thế hệ”. Sau trận quở trách này, trong lòng Tiểu Minh cảm thấy không vui lắm, nhưng trong thâm tâm cậu vẫn cho rằng ba đúng; ba làm gì cũng đúng, và dù có không muốn, cậu cũng thừa nhận mình sai. Từ đó trở đi, mỗi khi gặp ông lão Trương và bà lão Trương, cậu đều gọi họ là ông Trương, bà Trương. Mọi điều ba dạy dỗ và truyền thụ cho mình, Tiểu Minh đều khắc cốt ghi tâm. Đây là điều tốt hay điều xấu? Cho đến nay thì nó có vẻ là một điều tốt, phải không?

Một hôm Tiểu Minh và ba đi dạo, thấy một con lợn nái dẫn theo đàn lợn con. Mối quan hệ giữa con lợn nái và đàn lợn con của nó rất mật thiết. Tiểu Minh nghĩ rằng vạn vật do Đức Chúa Trời tạo dựng đều tốt lành; dù là lợn hay chó, tất cả đều có bản năng mẫu tử và nên được tôn trọng. Lần này Tiểu Minh không ăn nói lỗ mãng và hay vội gọi nó là “bà lão lợn”. Sợ mắc lỗi khiến ba giận, cậu hỏi nhỏ: “Ba ơi, con lợn mẹ này bao nhiêu tuổi? Nó sinh được nhiều con như vậy thì con nên gọi nó là gì?”. Đại Minh ngẫm nghĩ một lúc: “Chúng ta nên gọi nó là gì nhỉ? Khó nói đấy”. Thấy ba ngẫm nghĩ mãi mà chưa có câu trả lời, Tiểu Minh phàn nàn: “Chẳng phải ba đã đọc rất nhiều lời Đức Chúa Trời sao? Ba còn lớn hơn con nữa, làm sao mà thậm chí ba còn không biết cái này chứ?”. Bị Tiểu Minh kích, Đại Minh trở nên hơi ưu lo và nói: “Hay là chúng ta gọi nó là ‘bà’?”. Tiểu Minh chưa kịp cất tiếng gọi con lợn thì Đại Minh nghĩ lại và nói: “Chúng ta không thể gọi nó là bà được; như vậy sẽ đặt nó ngang với thế hệ với của bà ngoại của con, chẳng phải sao? Gọi nó là Bà mẹ lợn còn tệ hơn, như vậy sẽ đặt nó ngang với thế hệ của mẹ con. Vì nó đẻ ra nhiều lợn con như thế, nên chúng ta không được thờ ơ với thân phận hoặc địa vị của nó, và chúng ta không được hiểu sai thế hệ của nó. Chúng ta nên gọi nó là ‘Cô lợn’”. Nghe vậy, Tiểu Minh kính cẩn cúi mình trước con lợn và nói to: “Chào cô lợn”. Con lợn mẹ giật mình, và nó cùng cả đàn lợn con kinh hãi chạy tán loạn. Thấy thế, Tiểu Minh băn khoăn không biết cậu có gọi nó sai danh xưng hay không. Đại Minh nói: “Hẳn con lợn phải vui mừng và phấn khởi thì mới phản ứng như thế. Sau này, khi chúng ta gặp phải tình huống như vậy, dù người khác có nói hay làm gì, chúng ta cứ nên hành xử như thế. Hãy lễ phép và tuân theo chuẩn mực xã hội; thấy thế, ngay cả con lợn cũng vui”. Từ chuyện này, Tiểu Minh học được một điều mới. Cậu học được điều gì? Cậu nói: “Đức Chúa Trời đã tạo dựng vạn vật, chỉ cần muôn loài tôn trọng nhau, lễ phép, hiểu thứ bậc và kính già yêu trẻ, thì muôn loài đều có thể chung sống hài hòa”. Bây giờ Tiểu Minh đã hiểu được đạo lý này. Nghe xong, ba khen ngợi Tiểu Minh là cậu bé rất dễ dạy. Từ đó trở đi, Tiểu Minh càng trở nên văn minh và lễ phép hơn. Đi đâu cậu cũng hành xử ngoan ngoãn và nổi bật giữa đám đông. Chẳng phải cậu là một “cậu bé ngoan” sao? Cậu ấy là một “cậu bé ngoan” trong ngoặc kép. Và chúng ta kết thúc câu chuyện ở đây.

Các ngươi nghĩ sao về câu chuyện này? Khá hài hước, phải không? Câu chuyện này sinh ra từ đâu? Nó bắt nguồn từ lời nói, hành động, hành vi, tư tưởng và quan điểm của con người trong đời thực – được cô đọng lại trong câu chuyện nhỏ này. Câu chuyện này đang nói về vấn đề gì? Trong câu chuyện này, các ngươi có thể thấy vấn đề gì với Đại Minh? Còn Tiểu Minh thì sao? Thực chất vấn đề của Đại Minh là gì? Trước hết, hãy cùng suy ngẫm: Trong những gì mà Đại Minh đúc kết và thực hành, có bất kỳ phần nào phù hợp với lẽ thật không? (Thưa, không.) Vậy thì anh ta đang thực hành điều gì? (Thưa, những quan niệm và tưởng tượng.) Những quan niệm và tưởng tượng này do đâu mà có? (Thưa, do văn hóa truyền thống.) Căn nguyên là văn hóa truyền thống; những quan niệm, tưởng tượng của anh ta là sản phẩm của sự tiêm nhiễm, hun đúc và giáo dục của văn hóa truyền thống. Anh ta đem những gì mình tin là những yếu tố tốt đẹp nhất, tích cực nhất và tinh túy nhất của văn hóa truyền thống, đóng gói lại và biến chúng thành những gì anh ta tin là lẽ thật để cho con trai thực hành. Có thể xem câu chuyện này là rõ ràng và dễ hiểu không? (Thưa, có.) Hãy chia sẻ những gì các ngươi hiểu và có thể lĩnh hội được sau khi nghe câu chuyện này. (Thưa, sau khi nghe, con cảm thấy rằng vấn đề của Đại Minh là mặc dù anh ta tin Đức Chúa Trời, nhưng lại không bao giờ nỗ lực hiểu lời Đức Chúa Trời. Anh ta tin Đức Chúa Trời dựa trên quan niệm truyền thống của mọi người, nghĩ rằng nếu anh ta tuân theo những chuẩn mực bề ngoài đó, thì Đức Chúa Trời sẽ hài lòng. Anh ta không tìm kiếm hoặc suy ngẫm từ bên trong lời Đức Chúa Trời về những gì Đức Chúa Trời thực sự yêu cầu ở con người và con người nên sống thể hiện ra nhân tính bình thường như thế nào.) Đại Minh đang sống dựa trên điều gì? (Thưa, quan niệm và tưởng tượng.) Sống dựa trên quan niệm và tưởng tượng là câu sáo rỗng; thực ra anh ta đang sống dựa trên văn hóa truyền thống, và anh ta xem văn hóa truyền thống là lẽ thật. Anh ta đang sống dựa trên văn hóa truyền thống – những chi tiết nào liên quan đến điều này? Tại sao anh ta lại muốn Tiểu Minh gọi mọi người theo những danh xưng nhất định? (Thưa, bề ngoài anh ta nói rằng đó là để mang vinh hiển cho Đức Chúa Trời thông qua những việc lành này, nhưng thực ra anh ta muốn thỏa mãn hư vinh của chính mình, muốn được khen ngợi vì biết giáo dục con tốt.) Đúng vậy, đó chính là ý định của anh ta. Sự giáo dục của anh ta không phải là để khiến cho con mình lĩnh hội được lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, mà là để khiến cho con mình làm những việc mang lại thêm vinh hiển cho anh ta, để thỏa mãn hư vinh cá nhân của anh ta. Đây cũng là một vấn đề. Có vấn đề với việc luôn chú trọng tô điểm và tạo vỏ bọc cho chính mình thông qua hành vi không? (Thưa, có.) Điều đó cho thấy một vấn đề với con đường anh ta đi, và đây là vấn đề nghiêm trọng nhất. Mục đích của việc luôn chú trọng tạo vỏ bọc cho hành vi của mình là gì? Đó là để có được sự ngưỡng mộ của mọi người, để được mọi người nịnh nọt và khen ngợi. Tính chất của việc này là gì? Đó là đạo đức giả, đó là cách tiếp cận của người Pha-ri-si. Những người chú trọng vào hành vi tốt bề ngoài, chú trọng vào việc tạo vỏ bọc cho hành vi của mình, dốc nhiều sức lực cho hành vi của mình – họ có lĩnh hội được lẽ thật không? (Thưa, không.) Họ đã đọc rất nhiều lời Đức Chúa Trời và bỏ không ít công sức, nhưng tại sao họ lại không lĩnh hội được lẽ thật? Họ không hiểu được rằng sự quản lý và cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời là nhằm mục đích khiến con người lĩnh hội được lẽ thật, hoàn thiện con người và khiến họ có sự thay đổi tâm tính – họ không hiểu điều đó. Họ nghĩ: “Dù có đọc bao nhiêu lời Đức Chúa Trời, tôi cũng sẽ đúc kết một số lời nói, hành động và hành vi mà mọi người dễ dàng đồng thuận hơn, cảm kích và tán thành, sau đó tôi sẽ sống thể hiện ra và giữ vững những điều này trong đời sống thực tế. Đây chính là những gì mà một tín hữu thực sự sẽ làm”.

Các ngươi có những vấn đề tương tự như của Đại Minh không? Ngoài những khía cạnh rõ ràng vừa được thảo luận, chẳng hạn như tuân theo chuẩn mực xã hội, để ý đến thứ bậc, kính già yêu trẻ và duy trì tôn ti trật tự giữa người già và người trẻ, thì còn có những hành vi, tư tưởng, quan điểm hoặc nhận thức tương tự nào khác không? Bản thân các ngươi có biết đào sâu, mổ xẻ những vấn đề này không? Chẳng hạn như trong hội thánh, nếu ai đó lớn tuổi hơn hoặc đã tin Đức Chúa Trời được nhiều năm, thì ngươi luôn muốn cho họ thể diện. Ngươi để cho họ nói hết, chứ không ngắt lời, cho dù họ đang nói nhảm, và ngay cả khi họ làm gì sai và cần được tỉa sửa, ngươi vẫn cố gắng giữ thể diện cho họ và tránh phê bình họ trước mặt người khác, nghĩ rằng dù hành động của họ có vô lý hoặc tồi tệ cỡ nào thì mọi người vẫn cần phải tha thứ và bao dung cho họ. Ngươi cũng thường dạy người khác rằng: “Chúng ta nên cho người lớn tuổi chút thể diện và không làm tổn hại phẩm giá của họ. Chúng ta là vãn bối của họ”. Từ “vãn bối” này bắt nguồn từ đâu? (Thưa, từ văn hóa truyền thống.) Nó bắt nguồn từ tư tưởng văn hóa truyền thống. Hơn nữa, một bầu không khí nhất định đã hình thành trong hội thánh mà khi gặp anh chị em lớn tuổi hơn, mọi người sẽ nồng nhiệt gọi họ là “Anh đại”, “Chị đại”, “Cô”, “Chú” hoặc “Bác”, như thể mọi người đều là thành viên của một đại gia đình; những người lớn tuổi hơn này được mọi người tỏ vẻ kính trọng hơn, vô hình trung để lại ấn tượng tốt về những người trẻ trong tâm trí người khác. Những yếu tố của văn hóa truyền thống này đã thâm căn cố đế trong tư tưởng và cốt tủy của người Trung Quốc, đến mức độ không ngừng lan truyền và định hình bầu không khí trong đời sống hội thánh. Bởi vì mọi người thường bị những khái niệm này giới hạn và khống chế, nên họ không những đích thân ủng hộ, nỗ lực hành động và thực hành theo hướng này, mà còn tán thành, chỉ dẫn người khác làm như vậy. Văn hóa truyền thống không phải là lẽ thật; đó là điều chắc chắn. Nhưng nếu người ta chỉ đơn giản biết rằng nó không phải là lẽ thật thì đã đủ chưa? Việc nó không phải là lẽ thật chỉ là một khía cạnh, tại sao chúng ta nên mổ xẻ nó? Căn nguyên của nó là gì? Thực chất vấn đề nằm ở đâu? Làm sao để buông bỏ được những thứ này? Mổ xẻ văn hóa truyền thống là nhằm mục đích cho ngươi một nhận thức hoàn toàn mới trong thâm tâm về những lý luận, tư tưởng và quan điểm trong khía cạnh này. Nhận thức hoàn toàn mới này có thể đạt được bằng cách nào? Đầu tiên, ngươi phải biết rằng văn hóa truyền thống bắt nguồn từ Sa-tan. Và Sa-tan tiêm nhiễm những yếu tố văn hóa truyền thống này vào con người như thế nào? Trong mọi thời đại, Sa-tan đều dùng một số danh nhân và vĩ nhân để truyền bá những tư tưởng này, những cái gọi là câu nói và lý luận này. Sau đó, những tư tưởng này dần dần được hệ thống hóa và cụ thể hóa, ngay càng gần hơn bao giờ hết với đời sống của con người, và cuối cùng trở nên phổ biến trong nhân loại; từng chút một, tâm trí con người bị tiêm nhiễm những tư tưởng, câu nói và lý luận Sa-tan này. Sau khi bị nhồi sọ, con người xem những tư tưởng và lý luận này từ Sa-tan là những điều tích cực nhất mà họ nên thực hành và tuân theo. Sau đó, Sa-tan sử dụng những thứ này để giam cầm và khống chế tâm trí con người. Từ thế hệ này qua thế hệ khác đều bị giáo dục, hun đúc và khống chế trong những hoàn cảnh như thế cho đến tận ngày nay. Hết thảy những thế hệ này đều tin rằng văn hóa truyền thống là đúng đắn và tốt đẹp. Không ai mổ xẻ nguồn gốc hay căn nguyên của những cái gọi là tốt đẹp và đúng đắn này – đây chính là tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Ngay cả một số tín hữu đọc lời Đức Chúa Trời trong nhiều năm mà vẫn nghĩ rằng đây là những điều đúng đắn và tích cực, đến mức độ tin rằng những điều này có thể thay thế lẽ thật, có thể thay thế lời Đức Chúa Trời. Thậm chí một số người còn nghĩ: “Dù chúng ta có đọc bao nhiêu lời Đức Chúa Trời đi nữa, thì khi sống giữa mọi người, những cái gọi là tư tưởng truyền thống và yếu tố văn hóa truyền thống – như Tam tòng tứ đức, cũng như những khái niệm như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín – không thể bỏ được. Đó là bởi vì những điều đó do tổ tiên của chúng ta, những bậc thánh hiền truyền lại. Chúng ta không thể đi ngược lại lời giáo huấn của tổ tiên chỉ vì chúng ta tin Đức Chúa Trời, và chúng ta không thể thay đổi hoặc từ bỏ những giáo huấn của tổ tiên và thánh hiền thời xưa đó”. Trong lòng mọi người đều tồn tại những tư tưởng và nhận thức như thế. Vô thức, hết thảy họ vẫn bị những yếu tố văn hóa truyền thống này khống chế và trói buộc. Chẳng hạn như khi một đứa trẻ thấy ngươi tầm hai mươi tuổi và gọi ngươi là “chú”, ngươi cảm thấy vui mừng và hài lòng. Nếu chúng gọi thẳng ngươi bằng tên, ngươi cảm thấy không thoải mái, nghĩ rằng đứa trẻ vô lễ, phải bị quở trách, và thái độ của ngươi thay đổi. Thực ra, dù chúng gọi ngươi là chú hay bằng tên, thì cũng không hề ảnh hưởng gì đến nhân cách của ngươi. Vậy tại sao ngươi lại không vui khi chúng không gọi ngươi là chú? Đó là bởi vì ngươi bị văn hóa truyền thống chi phối và ảnh hưởng; nó đã bén rễ phủ đầu trong tâm trí ngươi và trở thành tiêu chuẩn cơ bản nhất của ngươi để đối đãi với con người, sự việc và sự vật, cũng như để đánh giá và phán đoán mọi sự. Khi tiêu chuẩn của ngươi sai, thì tính chất hành động của ngươi có thể đúng được không? Tuyệt đối không thể. Nếu dùng lẽ thật để đánh giá, thì ngươi nên xử lý việc này như thế nào? Ngươi có quan tâm người khác gọi mình là gì không? (Thưa, không.) Trừ khi, nghĩa là, nếu họ xúc phạm hoặc sỉ nhục ngươi – thì trong trường hợp đó, ngươi chắc chắn sẽ cảm thấy không thoải mái; đây là biểu hiện bình thường của nhân tính. Nhưng nếu tiêu chuẩn đánh giá của ngươi là lời Đức Chúa Trời, lẽ thật hoặc văn hóa đến từ Đức Chúa Trời, thì dù mọi người có gọi người bằng tên hay là “chú” hoặc “anh”, chắc chắn ngươi sẽ không phản ứng. Trong việc này, ngươi có thể nhập gia tùy tục. Chẳng hạn như ở Trung Quốc, khi ai đó gọi ngươi là “chú”, ngươi cảm thấy họ đang tôn trọng mình. Nhưng nếu ngươi đến một quốc gia phương Tây và ai đó gọi ngươi là “chú”, ngươi liền cảm thấy khó chịu; ngươi thích được gọi bằng tên hơn, xem đó là một hình thức tôn trọng. Ở Trung Quốc, nếu ai đó nhỏ tuổi hơn ngươi nhiều mà gọi ngươi bằng tên, thì ngươi rất không vui, cảm thấy họ coi thường thứ bậc; ngươi sẽ cảm thấy rất nhục nhã, và ngươi sẽ nổi giận, thậm chí kết tội người này. Chẳng phải điều này cho thấy có vấn đề với lối tư duy này sao? Đây chính là vấn đề Ta muốn giải quyết.

Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có văn hóa truyền thống riêng. Có phải chúng ta phê phán tất cả mọi văn hóa truyền thống không? Có một văn hóa không nên phê phán. Các ngươi có thể nói đó là văn hóa nào không? Ta sẽ cho các ngươi một ví dụ. Đức Chúa Trời tạo dựng A-đam, ai đã đặt tên cho A-đam? (Thưa, Đức Chúa Trời.) Vậy Đức Chúa Trời tạo dựng nhân loại, và khi tiếp xúc với họ, Ngài xưng hô với con người như thế nào? (Thưa, Ngài gọi họ bằng tên của họ.) Đúng vậy, Ngài gọi họ bằng tên của họ. Đức Chúa Trời cho ngươi một cái tên, và cái tên này có ý nghĩa trong mắt Đức Chúa Trời; nó đóng vai trò như một tên gọi, một danh xưng. Khi Đức Chúa Trời cho ngươi một tên gọi, Ngài gọi ngươi bằng tên gọi này. Đây chẳng phải là một hình thức tôn trọng sao? (Thưa, phải.) Đây là hình thức tôn trọng nhất, sự tôn trọng phù hợp nhất với lẽ thật và tích cực nhất. Đây là tiêu chuẩn tôn trọng mọi người, và nó đến từ Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là một hình thức văn hóa sao? (Thưa, phải.) Chúng ta có nên ủng hộ văn hóa này không? (Thưa, có.) Điều này đến từ Đức Chúa Trời; Đức Chúa Trời gọi thẳng con người bằng tên của họ. Đức Chúa Trời cho ngươi một cái tên, cho ngươi một tên gọi, rồi sử dụng tên gọi này để đại diện cho ngươi và gọi ngươi. Đây là cách Đức Chúa Trời đối đãi con người. Khi Đức Chúa Trời tạo dựng con người thứ hai, Ngài đối đãi với cô ấy như thế nào? Đức Chúa Trời để cho A-đam đặt tên cho cô ấy. A-đam đã đặt tên cho cô ấy là Ê-va. Đức Chúa Trời có gọi cô ấy bằng cái tên này không? Ngài có. Cho nên, đây là một văn hóa đến từ Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời cho mỗi loài thọ tạo một tên gọi, và khi Ngài gọi tên gọi đó, cả con người và Đức Chúa Trời đều biết ai đang được nói đến. Đây gọi là tôn trọng, đây gọi là bình đẳng, đây là tiêu chuẩn để đánh giá liệu người ta có lịch sự hay không, liệu có ý thức quy củ trong nhân tính của họ hay không. Nó có chuẩn xác không? (Thưa, có.) Nó quả thực là chuẩn xác. Trong Kinh Thánh, dù là ghi lại một sự kiện nào đó hay gia phả của một gia tộc, tất cả mọi nhân vật đều có tên, họ có tên gọi. Tuy nhiên, có một điều mà không biết các ngươi có để ý hay không: Kinh Thánh không sử dụng những cách xưng hô như ông, bà, cô, chú, bác, v.v., mà chỉ đơn giản sử dụng tên của người ta. Từ đây, các ngươi thu được điều gì? Những gì Đức Chúa Trời đã thiết lập cho con người, dù là quy luật hay phép tắc, thì nói theo ngôn ngữ của con người, là một dạng truyền thống được truyền lại cho con người. Và truyền thống này mà được truyền lại từ Đức Chúa Trời là gì? Đó là điều con người nên tuân theo: không cần phải có những danh xưng theo thứ bậc. Trong mắt Đức Chúa Trời, không có những danh xưng gia đình phức tạp này như ông, bà, bác, cô, chú, v.v. Tại sao con người lại quá bận tâm đến những danh xưng và tên gọi thứ bậc này như vậy? Điều đó có nghĩa là gì? Đức Chúa Trời ghét bỏ những thứ này nhất. Om sòm nhặng xị lên về những thứ này luôn là cái giống Sa-tan. Về mặt văn hóa truyền thống này, có một sự thật rất thực tế với Đức Chúa Trời: Đức Chúa Trời tạo dựng nên toàn thể nhân loại, và Ngài biết rõ một người có thể có bao nhiêu gia tộc và hậu duệ; không cần bất kỳ hệ thống thứ bậc nào. Đức Chúa Trời chỉ đơn giản phán rằng hãy sinh sôi, nảy nở, hãy làm cho gia tộc ngươi thịnh vượng – đó là tất cả những gì ngươi cần ghi nhớ. Mỗi thế hệ có bao nhiêu con cháu, và những con cháu đó có bao nhiêu con cháu – nó chỉ có vậy thôi, không cần hệ thống thứ bậc. Các thế hệ sau không cần biết tổ tiên của họ là ai, cũng không cần xây từ đường hay đền thờ tổ tiên, càng không cần cung phụng hay tế bái tổ tiên. Kinh Thánh ghi chép rằng tất cả những ai tin Đức Chúa Trời và đi theo Ngài, tất cả những ai tin Đức Giê-hô-va, đều dâng của lễ trước bàn thờ. Mọi thành viên trong gia đình đều đến trước Đức Chúa Trời và dâng của lễ. Chứ không giống như người Trung Quốc, mỗi gia tộc đều có một từ đường, bên trong bày đầy bài vị cho cụ tổ, ông tổ, bà tổ. Ở nơi Đức Chúa Trời mới bắt đầu công tác của Ngài, những thứ này không tồn tại. Tuy nhiên, những nơi khác cách xa công tác của Đức Chúa Trời lại chịu sự khống chế của Sa-tan và tà linh. Ở các quốc gia Phật Giáo này, những thông lệ Sa-tan này thịnh hành. Ở đó mọi người phải thờ cúng tổ tiên, chuyện gì cũng phải báo cáo gia tộc, chuyện gì cũng phải báo về cho tổ tiên của gia tộc; cho dù tro cốt tổ tiên không còn, các thế hệ sau vẫn phải dâng hương, cúi lạy. Trong thời buổi hiện đại, một số người tiếp xúc với những tư tưởng Tây hơn, mới hơn và bứt phá khỏi sự trói buộc của gia đình truyền thống, họ không muốn ở lại trong những gia đình như thế. Họ cảm thấy bị những gia đình như thế kiểm sát chặt chẽ và cứng nhắc, bị người lớn tuổi trong gia đình can thiệp trong gần như mọi việc, nhất là trong chuyện hôn nhân. Ở Trung Quốc, những chuyện như thế không phải là hiếm. Sa-tan đã khiến con người chú trọng vào thứ bậc, và khái niệm này có vẻ được mọi người sẵn sàng đón nhận, tin rằng: “Mỗi thế hệ đều có thứ bậc riêng; những ai ở trên cùng là tổ tiên của chúng ta. Một khi nhắc đến từ ‘tổ tiên’, mọi người nên quỳ lạy và thờ cúng họ như thần linh”. Từ bé người ta đã chịu sự ảnh hưởng, hun đúc và nuôi dạy như thế bởi gia đình; tâm trí non nớt của họ bị tiêm nhiễm một điều rằng: người ta không thể sống trên đời này nếu thiếu gia tộc, và việc rời bỏ gia tộc hay thoát khỏi sự trói buộc của gia tộc chính là đại nghịch bất đạo. Đại nghịch bất đạo ngụ ý là gì? Ngụ ý rằng nếu ngươi không nghe theo gia tộc mình, thì ngươi là đứa con bất hiếu, và bất hiếu có nghĩa là ngươi không phải là người. Vì thế, hầu hết mọi người không dám thoát khỏi những xiềng xích gia tộc này. Người Trung Quốc chịu sự hun đúc, ảnh hưởng và khống chế nặng nề của hệ thống thứ bậc, cũng như những khái niệm như Tam tòng tứ đức, Tam cương ngũ thường. Người trẻ mà không gọi người già là cô, chú, bác, ông, bà cho đúng thường bị buộc tội là lỗ mãng và vô văn hóa. Điều này nghĩa là gì? Có nghĩa là ngươi bị xem là hạ đẳng trong nhóm dân tộc này, trong xã hội này, bởi vì ngươi không tuân theo chuẩn mực xã hội, ngươi không có văn hóa, và ngươi vô giá trị. Người khác ăn mặc chỉnh tề, giỏi giả vờ, và nói chuyện vừa lịch sự, vừa có duyên, miệng lưỡi ngọt xớt, trong khi thậm chí ngươi còn không biết gọi ai đó là chú hay cô. Mọi người sẽ nói ngươi vô văn hóa, và đi đâu ngươi cũng bị xem thường. Đây là dạng hệ tư tưởng mà người Trung Quốc bị tiêm nhiễm. Có những đứa trẻ không biết cách gọi mọi người liền bị cha mẹ la mắng thậm tệ hoặc thậm chí đánh đập. Trong khi đánh con, có những cha mẹ nói: “Mày thật vô lễ, vô giá trị, vô văn hóa; tao đánh chết mày! Mày chỉ làm xấu mặt tao, làm tao mất mặt trước người ta!”. Chỉ vì đứa con không biết cách gọi người khác, mà cha mẹ làm to chuyện vì thể diện của chính họ, đánh đập con cái thậm tệ. Đây là dạng hành vi gì? Nó hoàn toàn vô lý! Nếu Ta không thông công như vậy, liệu các ngươi có nhận ra được những điều này không? Các ngươi có thể nào thông qua hiện tượng mình quan sát thấy trong đời sống thực tế, thông qua việc đọc lời Đức Chúa Trời, hoặc thông qua trải nghiệm của chính mình, mà dần dần và từng chút nhìn thấu được những việc này, sau đó thay đổi phương hướng cuộc đời mình, thay đổi phương hướng của con đường mình đi không? Nếu không thể thì các ngươi thiếu ngộ tính. Trong mọi việc, sử dụng lời Đức Chúa Trời, công tác của Đức Chúa Trời và yêu cầu của Đức Chúa Trời làm tiêu chuẩn là cách tiếp cận đúng đắn nhất, không chút sai lầm nào – đó là điều chắc chắn. Bất cứ thứ gì từ Sa-tan, dù có hợp với quan niệm hoặc thị hiếu của con người như thế nào, dù có vẻ đúng đắn thế nào, cũng không phải là lẽ thật, mà là thứ giả mạo.

Mục đích Ta kể câu chuyện này là để các ngươi thêm thông tỏ, để các ngươi hiểu lẽ thật là gì, con người nên thu được gì từ việc tin Đức Chúa Trời, việc Đức Chúa Trời khiến con người thay đổi tâm tính và đạt được lẽ thật nghĩa là gì, và liệu lẽ thật mà Đức Chúa Trời phán cũng như các yêu cầu của Ngài có liên quan gì đến những gì con người có thể hình dung, hoặc những tư tưởng, quan điểm và nhận thức khác nhau sinh ra thông qua sự giáo dục và hun đúc từ hoàn cảnh quốc gia và xã hội của họ hay không. Tất cả các ngươi cũng nên tự mình mổ xẻ những chuyện này. Hôm nay, ví dụ của chúng ta chỉ đề cập đến một khía cạnh. Thực ra trong lòng mỗi người đều không thiếu những thứ từ văn hóa truyền thống. Có những người nói: “Vì chúng ta nên loại bỏ thứ bậc, vậy điều đó có nghĩa rằng tôi có thể gọi ba mẹ mình bằng tên được không?”. Như thế có được không? Nếu ngươi gọi ba mẹ mình là ba và mẹ, liệu điều đó có nghĩa là ngươi vẫn đang tuân theo thứ bậc và rơi vào văn hóa truyền thống không? Không. Vẫn nên gọi ba mẹ như họ nên được gọi; gọi họ là ba và mẹ là cách Đức Chúa Trời yêu cầu con người xưng hô với họ. Đây là cách họ nên được gọi; cũng giống như cách ba mẹ ngươi gọi ngươi là “bé”, “con trai” hay “con gái” vậy. Việc Ta kể câu chuyện này là để cho các ngươi chủ yếu hiểu được điều gì? Nó đang chủ yếu giải quyết vấn đề gì? (Thưa, tiêu chuẩn đánh giá mọi sự của chúng ta phải thay đổi; phải đánh giá mọi sự theo lời và yêu cầu của Đức Chúa Trời.) Đúng vậy. Chớ mù quáng nói bừa loạn tạo. Con người luôn muốn tạo ra “lẽ thật” của chính mình. Hễ muốn làm gì đó, họ liền nghĩ ra một bộ lập luận và lý luận, rồi một bộ phương pháp, và thực hiện theo, bất kể đúng sai. Họ thực hành như vậy trong nhiều năm, nhất quyết bám vào đó bất kể nó có mang lại kết quả nào hay không, còn cảm thấy mình nhân nghĩa, tử tế. Họ nghĩ rằng những điều họ đang sống thể hiện ra là tốt đẹp và mang lại cho họ sự khen ngợi, ngưỡng mộ, và cuối cùng họ ngày càng tưởng rằng mình vĩ đại. Con người không bao giờ suy ngẫm, cố gắng hiểu thấu hoặc tìm kiếm xem trong mỗi việc, yêu cầu của Đức Chúa Trời là gì, nguyên tắc hành động là gì, và trong quá trình làm bổn phận, liệu họ đã tỏ lòng trung thành với sự ủy thác của Đức Chúa Trời hay chưa. Họ không suy ngẫm về những điều này, mà chỉ suy ngẫm những chuyện oai môn tà đạo – đây chẳng phải làm chuyện tà ác sao? (Thưa, phải.) Ai mà bề ngoài hòa nhã, cư xử đúng mực, có giáo dưỡng và tuân theo chuẩn mực xã hội, miệng đầy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; ai mà nói chuyện khéo léo tinh tế, nói những điều êm tai – hãy quan sát xem liệu một người như thế có thực hành lẽ thật hay không. Nếu họ không bao giờ thực hành lẽ thật, thì họ chỉ là kẻ đạo đức giả, giả vờ tốt đẹp, không hơn; họ chỉ giống như Đại Minh, không khác chút nào. Những người chỉ chú trọng vào việc có hành vi tốt và sử dụng điều đó để lừa có được sự khen ngợi và ngưỡng mộ của người khác là loại người gì? (Thưa, đạo đức giả.) Những người này có hiểu biết thuộc linh không? (Thưa, không.) Người không có hiểu biết thuộc linh có thể thực hành lẽ thật được không? (Thưa, không.) Tại sao họ không thể? (Thưa, họ không hiểu lẽ thật là gì, nên họ chỉ lấy một số hành vi tốt bề ngoài và những điều mà mọi người xem là tốt, xem đó là lẽ thật và thực hành theo.) Đó không phải là điểm chính. Dù họ có không lĩnh hội được lẽ thật thế nào đi nữa, chẳng phải họ vẫn biết một số nguyên tắc hành sự rõ ràng sao? Khi ngươi bảo họ làm bổn phận, chẳng phải họ có thể hiểu sao? Những người như thế có một đặc điểm: họ không có ý định thực hành lẽ thật. Dù ngươi có nói gì đi nữa, họ cũng sẽ không nghe; họ sẽ chỉ nói và làm theo ý mình. Gần đây chúng ta thường xuyên nói về những biểu hiện khác nhau của kẻ địch lại Đấng Christ. Hãy nhìn những người xung quanh ngươi: xem ai đã có chút thay đổi, những hành vi và nguyên tắc hành sự của ai chưa hề thay đổi, lòng ai vẫn không lay chuyển dù ngươi có thông công với họ thế nào đi nữa, ai vẫn không thay đổi, hoặc không có ý định thay đổi, và tiếp tục hành sự theo ý mình, ngay cả khi họ có thể liên hệ nội dung thông công của ngươi với chính mình. Các ngươi đã gặp những người như thế chưa? Gặp rồi, phải không? Tại sao một số lãnh đạo và chấp sự bị bãi nhiệm khỏi vai trò của họ? Đó là bởi vì họ không thực hành lẽ thật, họ không làm công việc thực tế. Họ hiểu đủ loại đạo lý, và họ cứ nhất quyết làm theo cách của mình. Dù ngươi có thông công về các nguyên tắc lẽ thật như thế nào đi nữa, họ vẫn có bộ quy tắc riêng của họ, bám vào những quan điểm riêng của họ và không nghe ai. Họ cứ làm theo ý mình – ngươi nói một đằng, họ làm một nẻo. Những lãnh đạo và chấp sự như thế này nên bãi nhiệm, phải không? (Thưa, phải.) Thật vậy. Những người này đang đi trên con đường nào? (Thưa, con đường của kẻ địch lại Đấng Christ.) Đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, đến lúc chín muồi, chính họ sẽ trở thành một kẻ địch lại Đấng Christ. Đó chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Nếu như, cho dù ngươi có thông công về lẽ thật với họ thế nào, họ vẫn không đón nhận và không hề thay đổi, thì thực sự phiền toái, và họ đã trở thành kẻ địch lại Đấng Christ rồi.

Cảm hứng lớn nhất mà các ngươi có được từ câu chuyện Ta kể ngày hôm nay là gì? Đó là con người dễ đi chệch hướng. Tại sao con người lại dễ lạc lối? Thứ nhất, con người có những tâm tính bại hoại. Thứ hai, dù bao nhiêu tuổi, con người cũng không phải là tờ giấy trắng trong tư tưởng và thâm tâm họ. Vậy thì câu chuyện này cho các ngươi những lời khuyên nào? Con người dễ đi lạc lối – đây là điều thứ nhất. Thứ hai, con người có xu hướng bám vào những gì họ tin là tốt đẹp và đúng đắn như thể là lẽ thật, xem những tri thức Kinh Thánh và đạo lý thuộc linh như lời Đức Chúa Trời để thực hành. Sau khi hiểu được hai vấn đề này, các ngươi có những nhận thức, ý tưởng hoặc kế hoạch mới nào cho con đường mình nên đi sau này, cũng như cho từng nhiệm vụ mình phải thực hiện sau này? (Thưa, sau này khi hành xử, chúng con không nên hành động theo những gì mình tin là đúng. Đầu tiên, chúng con nên suy xét xem liệu tư tưởng của mình có phù hợp với những gì Đức Chúa Trời mong muốn hay không, và có phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời hay không. Chúng con nên tìm nguyên tắc thực hành trong lời Đức Chúa Trời, rồi mới tiến hành. Chỉ như vậy, chúng con mới có thể đảm bảo rằng mình đang thực hành lẽ thật và con đường chúng con đang đi trong đức tin nơi Đức Chúa Trời của mình là đúng đắn.) Các ngươi phải dốc sức vào lời Đức Chúa Trời. Chớ tự đoán mò. Ngươi không có hiểu biết thuộc linh; tố chất của ngươi kém; và dù những ý tưởng ngươi nghĩ ra có vĩ đại đến đâu cũng không phải là lẽ thật. Dù ngươi có tự tin rằng những gì mình đã làm là hoàn hảo và đúng đắn, thì ngươi cũng nên đem ra cho các anh chị em thông công và xác minh, hoặc đối chiếu với những lời Đức Chúa Trời liên quan. Như vậy, ngươi có thể đạt đến sự hoàn hảo một trăm phần trăm không? Chưa chắc; ngươi vẫn có thể đi chệch hướng khi thực hành, trừ khi ngươi đã hoàn toàn nắm bắt được các nguyên tắc lẽ thật và căn nguyên của điều Đức Chúa Trời phán. Một mặt là vậy. Thứ hai là gì? Nếu con người đi chệch khỏi lời Đức Chúa Trời, thì dù hành động của họ có thể có vẻ lý tính hoặc dễ được tán thành thế nào đi nữa, cũng không thể thay thế lẽ thật. Bất cứ điều gì không thể thay thế lẽ thật thì không phải là lẽ thật, càng không phải là điều tích cực. Nếu đó không phải là điều tích cực, thì là gì? Đó chắc chắn không phải là điều làm vui lòng Đức Chúa Trời, cũng không phù hợp với lẽ thật; đó là điều mà Đức Chúa Trời định tội. Nếu ngươi làm điều mà Đức Chúa Trời định tội, hậu quả sẽ là gì? Ngươi sẽ khiến Đức Chúa Trời ghét bỏ ngươi. Hết thảy những thứ không đến từ Đức Chúa Trời đều là thứ tiêu cực, đến từ Sa-tan. Một số người có thể không hiểu điều này; khi có trải nghiệm, ngươi sẽ dần hiểu được.

Ngày hôm nay, chúng ta đang nghiêm túc phê phán một điều; chúng ta đang phê phán điều gì? Có phải vấn đề gọi con lợn nái già là Cô lợn không? Gọi con lợn là “Cô lợn” có đáng xấu hổ không? (Thưa, có.) Nó là một chuyện đáng xấu hổ. Mọi người luôn muốn có một tôn xưng. Từ “Tôn” này đến từ đâu? “Tôn” nói đến điều gì? Có phải là về thứ bậc không? (Thưa, phải.) Luôn muốn được xem là trưởng bối, luôn chú trọng vào thứ bậc – như vậy có tốt không? (Thưa, không.) Tại sao chú trọng vào thứ bậc lại không tốt? Ngươi nên phân tích ý nghĩa của việc chú trọng vào thứ bậc là gì. Rất đơn giản, chỉ cần nói như thế này: “Đức Chúa Trời không cho phép con người chú trọng vào thứ bậc, tại sao anh lại bàn luận vô nghĩa về nó vậy? Anh đang nói hươu nói vượn trong khi giả vờ là văn minh. Trong khi làm bổn phận, anh không bao giờ quan tâm đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, luôn phản bội vì lợi riêng. Khi có chuyện liên quan đến lợi riêng, anh sẽ không do dự phản bội lại lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Anh hành động như một người tốt để cố gắng lừa ai chứ? Anh có đáng được xem là tốt đẹp không?”. Nói như thế có được không? (Thưa, được.) Nghiêm khắc hơn nữa thì nên nói thế nào? “Anh đang nói nhảm gì vậy? Anh chính là cái đồ con lợn, đồ ngu, mảy may lẽ thật đều không hiểu. Anh đang tỏ vẻ gì chứ? Anh có giáo dục, có văn hóa, lại tin Đức Chúa Trời. Anh đã đọc rất nhiều lời Đức Chúa Trời và còn nghĩ mình tin Đức Chúa Trời rất tốt. Nhưng cuối cùng, thậm chí anh còn không biết thực hành lẽ thật là gì. Chẳng phải anh chính là đồ con lợn, đồ ngu đặc sao?”. Câu chuyện này khép lại ở đây. Bây giờ hãy cùng quay lại chủ đề thông công chính.

Mổ xẻ về cách kẻ địch lại Đấng Christ làm việc kỳ dị, độc đoán chuyên quyền, và buộc người khác phải thuận phục mình

I. Mổ xẻ về cách làm việc kỳ dị của kẻ địch lại Đấng Christ

Lần trước chúng ta đã thông công về mục thứ năm trong những biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ – họ mê hoặc, lôi kéo, đe dọa và khống chế mọi người. Hôm nay chúng ta sẽ thông công về mục sáu – họ làm việc theo cách kỳ dị, độc đoán chuyên quyền, không bao giờ thông công với người khác, và buộc người khác phải thuận phục mình. Có sự khác biệt giữa mục này và mục năm không? Về mặt tâm tính thì không có sự khác biệt lớn; những hành động trong cả hai mục này đều là nắm quyền và hành động độc đoán chuyên quyền. Tâm tính đều là tà ác, kiêu ngạo, cương ngạnh và hung ác; tâm tính giống nhau. Tuy nhiên, mục sáu nêu bật một biểu hiện nổi bật khác của kẻ địch lại Đấng Christ, đó là hành động kỳ dị – nó liên quan đến tính chất hành động của kẻ địch lại Đấng Christ. Bây giờ, đầu tiên hãy cùng thảo luận về từ “kỳ dị”. Trên bề mặt, “kỳ dị” là từ chê bai hay khen ngợi? Nếu ai đó làm chuyện gì kỳ dị, thì chuyện đó là tốt hay xấu? (Thưa, xấu.) Nếu ai đó bị nói là hành động kỳ dị, thì người này tốt hay xấu? Rõ ràng, trong ấn tượng và cảm nhận của mọi người, người hành động kỳ dị là kẻ ngu vô tích sự. Nếu ai đó gặp chuyện gì kỳ dị, thì đó là nguyên nhân khiến họ hạnh phúc hay ghê rợn? (Thưa, ghê rợn.) Nó đơn giản là không phải điều tốt. Tóm lại, trên bề mặt, kỳ dị là từ chê bai, dù nó mô tả bản thân hành động hay cách hành động của người ta thì cũng không có gì tích cực cả; nó chắc chắn là tiêu cực. Bây giờ, đầu tiên hãy cùng giải thích những biểu hiện của kỳ dị là gì. Tại sao lại gọi là kỳ dị, chứ không gọi là giả dối? Từ “kỳ dị” có hàm ý đặc biệt gì ở đây? Kỳ dị sâu hơn giả dối. Để người ta nhìn thấu được ai đó hành động kỳ dị thì mất nhiều thời gian hơn và khó hơn, chẳng phải sao? (Thưa, phải.) Nhiêu đây là rõ ràng. Vậy hãy sử dụng những từ ngữ mà các ngươi đều có thể hiểu để giải thích từ “kỳ dị”. Ở đây, “kỳ dị” có nghĩa là nham hiểm, quỷ quyệt, và đề cập đến hành vi dị thường. Sự dị thường này chính là chỉ sự ẩn sâu và khó hiểu thấu đối với người bình thường, họ không thể thấy loại người này đang suy nghĩ cái gì, đang làm cái gì. Nói cách khác, những thủ đoạn, động cơ và xuất phát điểm hành động của loại người này đặc biệt khó lường, và đôi khi hành vi của họ cũng lén lút, ngấm ngầm. Tóm lại, có một thuật ngữ có thể mô tả được biểu hiện và tình trạng thực tế của kỳ dị, đó là “thiếu minh bạch”, khiến người khác không thể dò đường, không thể hiểu thấu. Hành động của kẻ địch lại Đấng Christ có tính chất này – nghĩa là khi ngươi nhận ra và cảm thấy ý định của họ khi làm gì đó không đơn giản, ngươi thấy rất đáng sợ, nhưng trong thời gian ngắn hoặc vì lý do nào đó, ngươi vẫn không thể nhìn thấu được động cơ và ý định của họ, mà chỉ bất tri bất giác cảm thấy hành động của họ kỳ dị. Tại sao họ lại khiến ngươi có kiểu cảm giác này? Một mặt là bởi vì không ai hiểu nổi những gì họ nói hoặc làm. Mặt khác là họ thường nói chuyện quanh co lòng vòng, giương đông kích tây, cuối cùng khiến ngươi không chắc lời nào của họ là đúng, lời nào là sai, và lời họ thực sự có ý gì. Khi họ nói dối, ngươi nghĩ là thật; ngươi không biết lời nào là đúng, lời nào là sai, và ngươi thường cảm thấy bị lừa bịp, lừa gạt. Tại sao lại sinh ra cảm giác này? Đó là bởi vì loại người này không bao giờ hành động minh bạch; ngươi không thể thấy rõ họ đang làm cái gì, bận bịu cái gì, khiến cho ngươi trong lòng không thể không hoài nghi họ. Cuối cùng, ngươi thấy tâm tính họ giả dối, nham hiểm và cũng tà ác. Từ “kỳ dị” này thâm thúy, khiến cho người ta nghe cảm thấy rất không tầm thường, nhưng tại sao lại dùng cụm từ “thiếu minh bạch” đơn giản như vậy để giải thích? Có ngụ ý trong cụm từ này. Ngụ ý này là gì? Đó là khi họ muốn làm gì đó, kẻ địch lại Đấng Christ thường cho ngươi thấy một hình ảnh giả, khiến ngươi khó mà nhìn thấu được họ. Chẳng hạn như nếu kẻ địch lại Đấng Christ muốn tát vào má bên trái của ngươi, họ sẽ hướng tay về má bên phải. Khi ngươi né để bảo vệ má bên phải, thì họ đã đáp thành công cú tát vào má bên trái rồi, vậy là đạt được mục đích. Đây chính là kỳ dị, và đầy mưu mô – tất cả mọi người tương tác và giao thiệp với họ đều nằm trong sự tính toán của họ. Tại sao họ lại luôn tính toán? Ngoài việc muốn khống chế mọi người và có vị trí trong lòng người, họ còn muốn thu hoạch lợi ích từ tất cả mọi người. Thêm vào đó, ngươi cũng phát hiện ra một loại tâm tính tà ác ở loại người này: họ đặc biệt thích lợi dụng người khác hoặc dùng điểm mạnh của bản thân để chế giễu điểm yếu của người khác, đồng thời lấy việc đùa giỡn với mọi người làm niềm vui. Đây là một biểu hiện tà ác của họ. Nói theo ngôn ngữ thế tục, loại người này được coi là gian xảo. Người bình thường nghĩ: “Chỉ người già mới có thể gian xảo, chứ người trẻ chưa có sự từng trải hay kinh nghiệm xử thế, thì làm sao có thể gian xảo được?”. Nói thế có đúng không? Không đúng. Tâm tính tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ không phụ thuộc vào tuổi tác; họ sinh ra đã có tâm tính này rồi. Chỉ là khi họ còn trẻ và ít kinh nghiệm, thì những sự mưu mô như thế của họ còn sơ đẳng và chưa tinh xảo. Khi nhiều tuổi hơn, họ trở nên kín kẽ, như những con quỷ vương già đó, hành động kín như bưng, và đa số mọi người căn bản là không thể nhìn thấu.

Ta vừa giải thích sơ qua về từ “kỳ dị”, bây giờ hãy cùng thông công về những tình trạng và biểu hiện cụ thể của kỳ dị. Chẳng phải điều này đáng để thông công sao? Nếu chúng ta không thông công, liệu các ngươi có khả năng phân định được không? Liệu các ngươi có thể nhìn thấu được không? (Thưa, không.) Không phải là ngươi hoàn toàn không thể phân định hay nhìn thấu được; đôi khi ngươi cũng sẽ cảm thấy một người cụ thể nào đó thực sự quỷ quyệt – quỷ quyệt đến mức cuối cùng ngươi vẫn nghe theo họ ngay cả khi trước đó họ đã phản bội ngươi – và đến mức ngươi phải đề phòng họ. Vậy khi đối đãi với các anh chị em và những người xung quanh, kẻ địch lại Đấng Christ làm những chuyện gì, và bộc lộ những lời nói, hành động nào, mà cho thấy họ hành sự theo cách kỳ dị, với tâm tính tà ác? Điều này đáng để thông công. Khi chỉ giải thích từ “kỳ dị” không thôi, mọi người thường thấy khá đơn giản, tra từ điển có lẽ cũng đủ để hiểu ý nghĩa. Nhưng khi nói đến những hành động, hành vi và tâm tính của người ta liên quan đến từ này, là những biểu hiện và tình trạng cụ thể của từ này, thì để hiểu được sẽ căng thẳng hơn, khó khăn hơn, phải không? Đầu tiên, hãy nhớ lại những người hoặc những kẻ địch lại Đấng Christ cụ thể mà các ngươi từng gặp gỡ hoặc tiếp xúc. Những hành động nào của họ khiến ngươi cảm thấy tính chất hành động này liên quan đến sự kỳ dị, hoặc những lời nói, hành động và hành vi thường ngày nào của họ liên quan đến sự kỳ dị? (Thưa, con đã từng gặp phải một kẻ địch lại Đấng Christ, rõ ràng muốn tranh giành địa vị và làm lãnh đạo, nhưng lại nói với các anh chị em rằng: “Chúng ta cần phải tố giác lãnh đạo giả và chấp sự giả. Có như vậy chúng ta mới có thể có được công tác của đức thánh linh. Nếu chúng ta không tố giác và vạch trần lãnh đạo giả, thì không thể có được công tác của đức thánh linh. Chúng ta phải đứng lên cùng nhau bảo vệ công tác của hội thánh”. Hành động dưới ngọn cờ bảo vệ công tác của hội thánh, anh ta tìm cách có lợi thế hơn các lãnh đạo và chấp sự, chuyện bé xé ra to và xúi giục các anh chị em tố giác các lãnh đạo, chấp sự. Mục đích của anh ta là để hạ bệ các lãnh đạo và chấp sự hầu cho bản thân anh ta có cơ hội trở thành lãnh đạo. Nhiều anh chị em không phân định được chuyện này và đã bị anh ta mê hoặc. Thay vì phân định vấn đề dựa trên nguyên tắc, họ lại bắt lấy một số vấn đề nhỏ và vạch trần sự bại hoại của các lãnh đạo, chấp sự để kết tội họ, quy chụp họ và thổi phồng sự việc, khiến hội thánh rơi vào hỗn loạn.) Nói Ta nghe, đây có phải là kỳ dị không? (Thưa, phải.) Chính xác là vậy. Tại sao nó lại kỳ dị? Anh ta giương ngọn cờ chính nghĩa để đạt được mục đích ngầm của mình, đồng thời giật dây những người khác đi làm trong khi anh ta không thể hiện bản thân và luôn ẩn mình để quan sát kết quả. Nếu việc thành thì càng tốt, nếu việc không thành thì cũng chẳng ai nhìn thấu được anh ta vì anh ta ẩn mình rất sâu. Đây chính là kỳ dị – đây là một dạng biểu hiện của nó. Anh ta sẽ không để ngươi biết được suy nghĩ thực sự trong thâm tâm, nếu ngươi có thể đoán ra một chút, anh ta liền nhanh chóng nghĩ ra muôn vàn cái cớ và lý lẽ để cực lực che đậy và biện hộ cho bản thân, sợ mọi người nhìn thấu chân tướng. Anh ta cố tình làm phức tạp hóa vấn đề; đây là kỳ dị. Người khác nào? (Thưa, cách đây vài năm, một băng nhóm kẻ địch lại Đấng Christ đã nổi lên trong hội thánh của chúng con và nắm quyền khống chế, khiến cho công tác của hội thánh bị đảo lộn. Bề trên đã cử người xuống tiếp quản công việc, nhưng băng nhóm kẻ địch lại Đấng Christ này lại sử dụng chiêu bài, nói rằng: “Chúng ta có các lãnh đạo của mình, và chúng ta không chấp nhận lãnh đạo từ nơi khác điều đến; chúng ta có thể tự mình xử lý công việc”. Kết quả là nhiều người bị mê hoặc và nghe theo những kẻ địch lại Đấng Christ này, không chịu đón nhận lãnh đạo do Bề trên sắp xếp. Những kẻ địch lại Đấng Christ này thậm chí còn giam lỏng vị lãnh đạo do Bề trên cử đến trong một chỗ, không cho họ tiếp xúc với các anh chị em và khiến họ không thể nào nhúng tay vào công tác của hội thánh hay thực hiện được bất kỳ công việc nào.) Như vậy, những kẻ địch lại Đấng Christ này hết sức kỳ dị – động cơ ngầm của họ là gì? Họ muốn khống chế hội thánh và thiết lập vương quốc độc lập của riêng mình. Đây chính là kì dị; đây chính là một dạng việc mà kẻ địch lại Đấng Christ làm.

Những biểu hiện chính của việc kẻ địch lại Đấng Christ hành động kỳ dị là gì? Một biểu hiện là thiếu minh bạch, và một biểu hiện khác nữa là ngầm nuôi những âm mưu không thể cho ai biết. Nếu họ tiết lộ kế hoạch và ý định của mình với tất cả mọi người, liệu họ có thể hiện thực hóa chúng được không? Chắc chắn là không. Tại sao những người sử dụng thủ đoạn kỳ dị lại hành sự như vậy? Mục đích đằng sau những hành động này là gì? Cho đến nay, những gì các ngươi nghĩ đến mới chỉ là khống chế hội thánh, nhưng có những chuyện không liên quan đến việc khống chế hội thánh hay khống chế mọi người. Mê hoặc mọi người trong một hội thánh hoặc tôn giáo là chuyện tương đối lớn, vậy mục đích đằng sau những hành vi và hành động nhỏ hơn của kẻ địch lại Đấng Christ trong những lúc bình thường là gì? Đó là để lợi dụng mọi người và khiến mọi người phải dốc sức vì họ để thỏa mãn lợi ích của họ, để phục vụ cho mục đích riêng của họ. Trong khi Đức Chúa Trời sắp đặt con người và tể trị vận mệnh của họ, thì kẻ địch lại Đấng Christ cũng muốn định đoạt vận mệnh của mọi người và thao túng họ. Nhưng nếu họ nói thẳng rằng họ muốn thao túng ngươi, liệu ngươi có đồng ý không? Nếu họ nói rằng họ muốn sai khiến ngươi như nô lệ, liệu ngươi có đồng ý không? Nếu họ nói rằng họ là lãnh đạo và ngươi phải nghe theo họ, liệu ngươi có đồng ý không? Chắc chắn ngươi sẽ không đồng ý. Vì thế, họ phải dùng tới một số thủ đoạn khác thường để ngươi bất tri bất giác bị họ lợi dụng; đây gọi là kỳ dị. Chẳng hạn như con rồng lớn sắc đỏ hoạt động theo cách kỳ dị, sử dụng những cái cớ nghe có vẻ chính đáng để mê hoặc mọi người. Nó đi sung công tài sản của địa chủ và tư bản như thế nào? Nó có lập chính sách bằng văn bản nói rằng tất cả các tài sản có giá trị lớn hơn một con số nhất định phải được chuyển giao cho nhà nước không? Nếu nó công khai tuyên bố như vậy thì có được không? (Thưa, không được.) Vì như vậy không được, nên nó đã làm gì? Nó phải tìm một cách mà hết thảy mọi người đều tin đúng để danh chính ngôn thuận sung công và tịch thu tài sản của địa chủ và tư bản. Như vậy loại bỏ được thế lực của địa chủ và tư bản, làm giàu cho nhà nước và củng cố sự thống trị của nó. Con rồng lớn sắc đỏ đã làm như thế nào? (Thưa, bằng cách tấn công địa chủ và phân phát lại ruộng đất.) Nó đã giương cao ngọn cờ “tấn công địa chủ và phân phát lại ruộng đất” và “người người bình đẳng”, sau đó bịa ra những câu chuyện như “Cô gái tóc trắng” để gài tội và kết tội tất cả các địa chủ và tư bản. Nó sử dụng lực lượng dư luận và tuyên truyền để tiêm nhiễm vào mọi người những tư tưởng sai lầm này, khiến cho hết thảy những ai không biết đều nghĩ rằng các địa chủ và tư bản là không tốt và không bình đẳng với quần chúng lao động, rằng bây giờ nhân dân là chủ nhân đất nước của chính họ, nhà nước thuộc về nhân dân, một số ít cá nhân này không nên sở hữu quá nhiều tài sản như vậy, và số tài sản đó nên được sung công và phân phát lại cho tất cả mọi người. Dưới sự kích động của những cái gọi là hệ tư tưởng và lý luận tốt đẹp, đúng đắn và có lợi cho người nghèo như thế, mọi người bị mê hoặc và mù quáng, bắt đầu đánh thổ hào đấu địa chủ, đấu tư bản. Và kết quả cuối cùng là gì? Một số địa chủ và tư bản bị đánh chết, một số bị đánh cho tàn phế, số khác chạy trốn nơi xa. Tóm lại, kết quả cuối cùng là con rồng lớn sắc đỏ đã đạt được điều nó muốn. Những quần chúng ngu muội, vô tri này dần dần bị dẫn dắt dưới những mưu đồ bất lương như thế để đạt được mục đích mà những ma quỷ này muốn. Tương tự như vậy, kẻ địch lại Đấng Christ cũng sử dụng dạng thủ đoạn kỳ dị như thế khi hành sự. Chẳng hạn như khi một kẻ địch lại Đấng Christ được ghép cặp với một người trong vai trò lãnh đạo, và thấy người này có tinh thần chính nghĩa, hiểu lẽ thật và có thể phân định được họ, thì họ bắt đầu cảm thấy chông chênh: “Liệu cha này có thể phá mình sau lưng không? Liệu hắn có đang làm gì đằng sau không? Tại sao mình không thể nhìn thấu hắn? Liệu hắn có cùng phe với mình không? Liệu hắn có tố giác mình với bề trên không?”. Với những tư tưởng này trong đầu, họ bắt đầu lo địa vị của mình không an toàn, chẳng phải sao? Vậy họ làm gì tiếp theo? Họ có thẳng tay trừng trị người đó không? Một số kẻ địch lại Đấng Christ sẽ có hành động công khai chống lại dạng người đó, nhưng loại kỳ dị hơn sẽ không làm một cách trực tiếp. Thay vào đó, họ sẽ bắt đầu nói chuyện với một vài anh chị em tương đối yếu đuối hơn, hồ đồ và không biết phân định, tra hỏi họ và ngầm thăm dò họ: “Anh X này đã là tín hữu hơn mười năm, nên đức tin của anh ấy hẳn phải có chút căn cơ rồi nhỉ?”. Một người khác có thể đáp: “Anh ấy thực sự có khá nhiều căn cơ rồi. Trong suốt những năm tin Đức Chúa Trời, anh ấy đã từ bỏ gia đình và sự nghiệp; đức tin của anh ấy lớn hơn của chúng tôi. Được ghép cặp với anh ấy sẽ rất tốt cho anh đấy”. Kẻ địch lại Đấng Christ sẽ nói: “Vâng, khá tốt đấy, nhưng anh ấy không bao giờ ngồi cùng với các anh chị em khác. Có vẻ anh ấy không hòa đồng cho lắm”. Một người khác có thể thêm vào: “Không phải vậy đâu – anh ấy mưu cầu lẽ thật nhiều hơn chúng tôi đấy. Chúng tôi thường trò chuyện với nhau, nhưng đa phần anh ấy dành thời gian đọc lời Đức Chúa Trời, nghe giảng và học Thánh ca, và khi ngồi cùng chúng tôi, anh ấy thông công về lời Đức Chúa Trời”. Nghe những nhận xét tích cực và tán thành về người này, kẻ địch lại Đấng Christ cảm thấy họ không thể nói thêm nhiều nữa, bèn đổi chủ đề, nói rằng: “Anh ấy đã tin đức chúa trời trong nhiều năm và có nhiều trải nghiệm hơn chúng ta. Sau này chúng ta nên tiếp xúc nhiều hơn với anh ấy, đừng cô lập anh ấy”. Nghe vậy, những người khác vẫn không phân định được gì cả. Thấy đa số mọi người đều nói tốt về người đó, kẻ địch lại Đấng Christ không thể đạt được động cơ của mình, liền không nói thêm về chủ đề đó nữa. Về sau kẻ địch lại Đấng Christ tìm được một nhóm người khác và hỏi: “Các anh chị em đã bao giờ thấy anh X này đọc lời đức chúa trời chưa? Tôi có cảm giác bề ngoài lúc nào anh ấy cũng thông công với người khác và trông bận rộn; tại sao anh ấy không bao giờ đọc lời đức chúa trời nhỉ?”. Nhóm này nhạy bén hơn, họ nắm bắt được ngầm ý và nghĩ: “Hình như có mối bất hòa giữa hai người này; họ đang cố khiến chúng ta dìm và bài xích anh ta”. Vì thế, họ đáp: “Đúng vậy, anh ấy lúc nào cũng bận rộn không đâu, lúc nào suy diễn quá mức về mọi người và mọi thứ. Anh ấy hiếm khi đọc lời đức chúa trời, có đọc thì cuối cùng cũng ngủ gật; tôi để ý thấy nhiều lần rồi”. Từ những cuộc nói chuyện của họ với nhóm người thứ nhất và thứ hai, dạng tâm tính nào hiện diện trong lời kẻ địch lại Đấng Christ? Chẳng phải là tà ác sao? (Thưa, phải.) Tính chất và ý nghĩa hành động của họ là gì? Chúng kỳ dị. Nhóm người đầu tiên không nhận ra kẻ địch lại Đấng Christ muốn làm gì, trong khi nhóm người thứ hai thoáng thấy chuyện gì đang diễn ra, sau đó hùa theo những gì họ nói. Thấy nhóm người thứ hai hùa theo những gì họ nói và có thể bị lôi kéo, kẻ địch lại Đấng Christ muốn sử dụng nhóm này để loại bỏ đối tác của mình. Dòng tư tưởng này là kỳ dị. Sau đủ kiểu thuyết phục, nhóm thứ hai đã bị mê hoặc và lôi kéo, nói rằng: “Vì người đó không đáp ứng các nguyên tắc và điều kiện để làm lãnh đạo hội thánh, nên tôi cho rằng lần tới chúng ta không nên bỏ phiếu cho anh ấy làm lãnh đạo, đúng không?”. Nhóm này rất xảo trá, và sau khi nói xong, họ quan sát thái độ của kẻ địch lại Đấng Christ. Kẻ địch lại Đấng Christ nói: “Như vậy không được; như vậy sẽ không công bằng. Đây là nhà đức chúa trời, chứ không phải xã hội!”. Nghe vậy, họ hỏi: “Như vậy thực sự không được sao? Vậy chúng ta nên làm gì? Vậy thì lần tới chúng ta sẽ bỏ phiếu cho anh ấy”. Kẻ địch lại Đấng Christ lập tức nói: “Bỏ phiếu cho anh ấy cũng không được”. Thấy không? Dù họ có nói gì cũng không đúng; đây là vấn đề. Thực ra kẻ địch lại Đấng Christ chỉ muốn dẫn những người này vào con đường của họ, đào lỗ cho họ rơi xuống. Cuối cùng, sau khi nghe điều này, điều kia, những người này hiểu được ý định của kẻ địch lại Đấng Christ: “Cứ bầu cử công bằng thôi. Dù sao anh ta cũng chẳng ra sao cả, nên chắc gì đã được chọn”. Kẻ địch lại Đấng Christ đắc ý. Xem này: đây là một con sói và mấy con cáo, chúng đang cấu kết với nhau làm chuyện xấu. Đây là nguyên tắc và tính chất của những hành động mà kẻ địch lại Đấng Christ thực hiện và những thế lực đi theo họ trong hội thánh; đây là biểu hiện của họ. Những người đi theo kẻ địch lại Đấng Christ nói: “Vậy thì cứ bầu thôi. Với lại anh ta cũng chẳng ra sao cả; chúng ta có bầu cũng chưa chắc anh ta được chọn”. Có điều gì mờ ám ở đây không? Họ có đang dự tính gì không? Họ đã phát hiện ra chút manh mối từ lời nhau rồi, nhưng không ai nói thẳng nên làm gì; có một sự ngầm hiểu giữa họ, và mọi người đều hiểu. Bề ngoài kẻ địch lại Đấng Christ không chỉ dẫn thẳng bất kỳ ai rằng không chọn đối tác của họ, và những người bên dưới họ cũng không nói: “Chúng tôi sẽ không chọn anh ta; mà chúng tôi sẽ chọn anh”. Tại sao họ không nói thẳng? Đó là bởi vì không ai muốn cho người khác nắm đằng chuôi của mình. Đây chẳng phải là kỳ dị sao? Nó hoàn toàn tà ác. Họ nghe giọng điệu của lời nhau, nhưng không ai nói thẳng, và cuối cùng đạt được sự đồng thuận. Đây gọi là cuộc đối thoại của Sa-tan. Trong số họ có một kẻ “ngu” nghe xong vẫn không hiểu và hỏi những người khác liệu có nên bầu cho người đó hay không. Kẻ địch lại Đấng Christ trả lời như thế nào? Nếu họ nói: “Anh thấy sao hợp lý thì làm”, thì sẽ quá lộ liễu. Câu trả lời như vậy mang tính chất đe dọa và xui khiến; những kẻ tà ác không nói chuyện như thế. Thay vào đó, họ nói: “Chẳng phải nhà đức chúa trời có sự sắp xếp công việc sao? Ai nên bầu thì bầu; ai không nên bầu thì không bầu”. Chẳng phải đây là nói lập lờ nước đôi sao? Họ sử dụng một cái cớ nghe có vẻ chính đáng, nói rằng: “Anh phải hành động theo nguyên tắc, không thể nghe theo tôi được. Những gì tôi nói không quan trọng. Tôi không phải là nguyên tắc; lời đức chúa trời mới là nguyên tắc”. Kẻ “ngu” nghe thấy vậy liền nghĩ: “Nếu chúng ta hành động theo nguyên tắc, thì mình sẽ bầu cho anh ấy”. Thấy người này ngu ngốc và có thể làm hỏng kế hoạch của họ, nhóm người này cùng nhau đẩy họ ra, và không cho phép kẻ “ngu” ở trong nhóm họ nữa. Cuối cùng, khi kẻ “ngu” không ngừng hỏi liệu hoặc có nên bầu cho người đó hay không, thì có người nói: “Chuyện đó nói sau đi. Chúng ta sẽ quyết định dựa trên biểu hiện của anh ấy”. Có bất kỳ sự quả quyết nào trong những lời này không? Có bất kỳ yếu tố trung thực nào không? (Thưa, không.) Vậy trong những lời này thực sự chứa đựng điều gì? Những lời này truyền tải tâm tính tà ác của họ, cũng như những động cơ, ý định và mục đích ngầm của họ. Chúng chứa đựng âm mưu ngầm giữa họ – con sói và bầy cáo – là loại bỏ người là cái gai trong mắt kẻ địch lại Đấng Christ. Tại sao nhóm người này lại có thể hành động như vậy? Ngoài việc bị tâm tính tà ác của họ chi phối, thì lý do họ có thể làm vậy là người cầm đầu của họ, kẻ địch lại Đấng Christ, không thích người đó. Nếu họ bầu chọn cho anh ấy, và kẻ địch lại Đấng Christ phát hiện ra, thì kết quả sẽ không có hậu. Cho nên đối với họ, điều cấp bách và quan trọng nhất nên làm, điều có lợi nhất nên làm là không bầu chọn cho người đó. Hết thảy họ đều nghe theo kẻ địch lại Đấng Christ; dù kẻ địch lại Đấng Christ nói gì, dù lời kẻ địch lại Đấng Christ chuyển sang hướng nào, những người này cũng ngả theo, gạt sang một bên các nguyên tắc lẽ thật và lời Đức Chúa Trời. Ngươi thấy đấy, chỉ cần một kẻ địch lại Đấng Christ xuất hiện, thì chắc chắn sẽ có những kẻ vâng phục họ. Chỉ cần một kẻ địch lại Đấng Christ hành động, thì sẽ có những kẻ tùy tùng và đi theo họ – không có kẻ địch lại Đấng Christ nào hành động đơn thương độc mã, lẻ loi trơ trọi một mình cả.

Những gì vừa được thảo luận chỉ là một trong những biểu hiện của cách kẻ địch lại Đấng Christ hành động kỳ dị. Sự kỳ dị được đề cập ở đây nói đến việc kẻ địch lại Đấng Christ có những mục đích và động cơ riêng trong những gì họ làm, nhưng họ sẽ không nói cho ngươi biết hay để ngươi thấy được. Khi ngươi phát hiện ra, họ sẽ làm mọi cách để che đậy, sử dụng các loại thủ đoạn để mê hoặc ngươi, để thay đổi nhìn nhận của ngươi về họ. Đây là khía cạnh kỳ dị của kẻ địch lại Đấng Christ. Nếu động cơ của họ dễ dàng bị lộ, bị công khai rộng rãi và chia sẻ với tất cả mọi người, để cho người ta biết, thì đó có phải là kỳ dị không? Đó sẽ không phải là kỳ dị; mà sẽ là gì? (Thưa, ngu ngốc.) Không phải ngu ngốc – đó là kiêu ngạo đến mức mất lý trí. Những kẻ địch lại Đấng Christ luôn ranh ma trong hành vi. Họ ranh ma như thế nào? Họ luôn hành xử dựa trên thủ đoạn, và lời nói của họ không hở ra điều gì, vì vậy người ta khó mà hiểu được ý định và mục đích của họ. Đó là ranh ma. Họ không dễ dàng đi đến kết luận trong bất cứ điều gì họ làm; họ làm cho cấp dưới và người nghe có thể cảm nhận được ý định của họ, và khi đã hiểu kẻ địch lại Đấng Christ, những người đó sẽ hành động theo ý đồ, động cơ của họ và thực hiện mệnh lệnh của họ. Nếu một nhiệm vụ được hoàn thành, thì kẻ địch lại Đấng Christ vui vẻ. Nếu nhiệm vụ không hoàn thành, không ai có thể tìm thấy bất cứ điều gì để chống lại họ, hoặc dò lường được động cơ, ý định hay mục đích đằng sau những gì họ làm. Sự ranh ma trong những điều họ làm nằm ở những âm mưu ẩn giấu và những mục tiêu bí mật, tất cả đều nhằm mục đích lừa gạt, đùa giỡn và kiểm soát mọi người khác. Đây là thực chất của hành vi ranh ma. Ranh ma không đơn thuần là nói dối; thay vào đó, nó là điều không thể dò lường đối với người bình thường. Nó không cùng loại với những hành động dối trá hoặc xấu xa thông thường. Nếu ngươi đã làm điều gì đó mà ngươi không muốn ai biết, hoặc nói dối, thì đó có bị coi là ranh ma không? (Không.) Đó chỉ là sự giả dối và không đến mức ranh ma. Điều gì khiến cho ranh ma sâu cay hơn giả dối? (Người ta không thể nhìn thấu nó.) Rất khó để người ta nhìn thấu nó. Đó là một phần. Còn gì nữa? (Người ta không có bất cứ điều gì để chống lại một người ranh ma.) Đúng vậy. Vấn đề là người ta khó có thể tìm thấy bất cứ điều gì để chống lại họ. Ngay cả khi một số người biết người đó đã phạm những việc ác, họ cũng không thể xác định được đó là người tốt hay xấu, hay là một kẻ địch lại Đấng Christ. Người ta không thể nhìn thấu họ, mà nghĩ rằng họ tốt và có thể bị họ lừa gạt. Đó là sự ranh ma. Con người ta thường có xu hướng nói dối và nuôi những âm mưu nhỏ. Đó chỉ là sự giả dối. Nhưng những kẻ địch lại Đấng Christ nham hiểm hơn những người giả dối thông thường. Họ giống như những quỷ vương; không ai có thể dò lường những gì họ làm, họ có thể nhân danh công lý mà làm nhiều điều ác, và người ta hết lời ca ngợi, trong khi trên thực tế, họ gài bẫy và hãm hại người ta. Đây gọi là ranh ma.

Trước đây có vụ một lãnh đạo, trong khi tiếp xúc và thông công với Bề trên, đã được cho biết về một số kế hoạch công tác của nhà Đức Chúa Trời. Lúc đó, sự sắp xếp công việc chưa được chính thức ban hành. Sau khi trở về, anh ta bắt đầu thể hiện, nhưng ngươi không thể nhận ra đó là thể hiện. Trong một cuộc nhóm họp, anh ta đang nói chuyện rất nghiêm túc, thì đột nhiên giữa mối thông công, anh ta nói một điều mà chưa ai từng nghe đến: “Cho đến nay, mỗi bước trong công tác của đức chúa trời đều đã hoàn tất, và về cơ bản con người đã được ổn định. Bắt đầu từ tháng sau trở đi, chúng ta sẽ mở rộng công tác rao truyền Phúc Âm, nên chúng ta cần thành lập các nhóm Phúc Âm. Nên thành lập các nhóm Phúc Âm như thế nào? Ở đây có một số chi tiết…”. Khi mọi người nghe thấy vậy, họ nghĩ: “Ở đâu ra những lời này vậy? Bề trên chưa ban hành bất kỳ sắp xếp công việc nào. Làm sao anh ấy biết được? Anh ấy hẳn có tài tiên tri!”. Họ đang tôn sùng anh ta, chẳng phải sao? Thái độ của mọi người đối với anh ta lập tức thay đổi. Anh ta chỉ đề cập đến việc thành lập các nhóm Phúc Âm, nhưng sau đó anh ta không làm bất kỳ công tác cụ thể nào cả – chỉ hô khẩu hiệu suông. Tất nhiên, anh ta hô khẩu hiệu suông là có mục đích. Anh ta đang thể hiện bản thân, muốn mọi người xem trọng mình, tôn sùng mình. Không lâu sau, sự sắp xếp công việc từ Bề trên được ban hành. Khi các anh chị em nhìn thấy, họ ngạc nhiên và nói: “Thật không thể tin được! Chẳng phải đây là tiên tri sao? Làm sao mà anh biết việc này được? Anh lĩnh hội lẽ thật tốt hơn chúng tôi; vóc giạc của anh lớn hơn. Vóc giạc của chúng tôi quá nhỏ bé. Khi đến lúc mở rộng Phúc Âm, anh đã nói cho chúng tôi biết rồi, trong khi chúng tôi tê liệt, không biết gì cả. Nhìn xem, chẳng phải những gì anh đã thông công khớp với sự sắp xếp công việc từ Bề trên sao? Đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên, và bây giờ đã được xác minh”. Thông qua vụ này, hết thảy mọi người đều càng tôn sùng anh ta hơn, và không phải theo cách bình thường, mà là với sự thuận phục hoàn toàn, gần như đến mức độ quỳ lạy trước anh ta. Hầu hết mọi người không biết việc này; nếu anh ta không tự nói ra thì sẽ không ai biết, chỉ có Đức Chúa Trời biết. Đó là một chuyện rõ ràng như vậy, mà anh ta không tiết lộ với bất kỳ ai, thay vào đó lại chọn cách lừa gạt họ một cách trắng trợn như thế. Hành vi này có được coi là kỳ dị không? (Thưa, có.) Tại sao anh ta lại lừa gạt người khác như thế? Tại sao anh ta lại có thể hành xử và hành động như thế? Trong lòng anh ta đang thực sự nghĩ gì? Anh ta muốn mọi người thấy anh ta khác biệt, nghĩ anh ta không phải là người bình thường. Đây có phải là điều nên thấy ở nhân tính bình thường không? (Thưa, không.) Hành động của loại người này thật kinh tởm và vô liêm sỉ. Các ngươi có xem đây là kỳ dị không? (Thưa, có.) Ngoài kỳ dị, nó còn có phần kinh tởm nữa.

Trong những kẻ địch lại Đấng Christ, có một loại người mà không bao giờ nghe thấy nói gì sai hay làm gì sai cả; những gì họ làm và cách họ hành động nhìn chung ai cũng xem là tốt đẹp, ai cũng khen ngợi. Họ thường nở nụ cười trên môi với sắc mặt như một vị Bồ Tát, không bao giờ tỉa sửa bất kỳ ai. Dù người ta phạm sai lầm gì, họ cũng luôn bao dung với tấm lòng tha thứ như từ mẫu. Họ không bao giờ xử lý những người trong hội thánh vi phạm các sắc lệnh quản trị, gây nhiễu loạn và gián đoạn, hay hành ác. Có phải bởi vì họ không thể thấy hay phân định được những chuyện này không? Cả hai đều không phải; họ có thể thấy và phân định được, nhưng trong lòng họ tin rằng nếu những người này bị thanh lọc và hội thánh trở nên yên bình, chỉ toàn những người trung thực, mưu cầu lẽ thật và thành tâm dâng mình cho Đức Chúa Trời, thì bản thân họ sẽ dễ dàng bị phân định và có khả năng không thể có chỗ đứng trong hội thánh. Vì thế, họ giữ lại những người này, để cho những kẻ ác tiếp tục hành ác, những kẻ nói dối tiếp tục nói dối, và những kẻ gây nhiễu loạn tiếp tục gây nhiễu loạn, đảm bảo rằng thông qua những sự nhiễu loạn này mà hội thánh không bao giờ yên bình, nhờ đó đảm bảo được địa vị của chính họ. Vì thế, hễ có người cần phải khai trừ, xử lý, cách ly hoặc miễn nhiệm, thì họ nói gì? “Chúng ta phải cho người ta cơ hội ăn năn. Ai mà chẳng có khiếm khuyết hoặc sự bại hoại? Ai mà chẳng phạm sai lầm? Chúng ta phải học bao dung”. Các anh chị em suy nghĩ và nói: “Chúng ta bao dung cho những người thực sự tin Đức Chúa Trời và có vi phạm, hoặc những người ngu muội vô tri, nhưng chúng ta không bao dung cho kẻ ác. Anh ta là kẻ ác”. Kẻ địch lại Đấng Christ đáp: “Làm sao anh ta là kẻ ác được? Anh ta chỉ thỉnh thoảng nói lời khó nghe thôi; đó không phải là ác. Những người trên thế gian phạm tội giết người, phóng hỏa, đó mới là kẻ ác thực sự”. Nhưng kẻ địch lại Đấng Christ thực sự nghĩ gì? “Anh ta là kẻ ác ư? Có ác bằng tôi không? Anh chưa thấy những gì tôi đã làm đâu, anh không biết tôi đang suy nghĩ gì bên trong đâu. Nếu mà biết, anh lại chẳng thanh lọc tôi à? Nghĩ đến chuyện thanh lọc anh ta sao? Không có cơ hội đâu. Tôi không để cho anh xử lý anh ta đâu. Ai thử xem, tôi sẽ nổi điên lên, tôi sẽ gây khó dễ cực kỳ! Ai thử xử lý anh ta xem, tôi sẽ khai trừ!”. Nhưng họ có nói ra điều này không? Không. Vậy họ làm gì? Đầu tiên, họ xoa dịu tình hình, ổn định sự tình, trông có vẻ có năng lực lãnh đạo hội thánh và có khả năng cân bằng giữa các thế lực khác nhau, để hội thánh không thể thiếu họ. Bằng cách này, chẳng phải vị trí của họ được đảm bảo sao? Một khi vị trí của họ được đảm bảo, chẳng phải sinh kế của họ được bảo vệ sao? Đây chính là cái gọi là kỳ dị. Đó là lý do tại sao hầu hết mọi người không thể nhìn thấu được loại người này. Tại sao lại không thể? Họ không bao giờ nói thật, cũng không bao giờ hành động khinh suất. Dù Bề trên yêu cầu làm gì, họ cũng làm cho có hình thức; dù sách nào cần phân phát, họ cũng phân phát; họ duy trì vài buổi nhóm họp một tuần, và không độc đoán trong mối thông công khi nhóm họp. Bề ngoài, mọi thứ có vẻ hoàn hảo, không tỳ vết, không chê vào đâu được. Nhưng có một điều mà các ngươi có thể phân định được: họ không bao giờ xử lý kẻ ác. Ngược lại, họ bảo vệ kẻ ác, luôn bao che, biện hộ cho kẻ ác. Đây chẳng phải là kỳ dị sao? Ở đây, khía cạnh kỳ dị trong hành vi của họ là gì, trọng tâm là gì? Những điều này phải được làm rõ. Họ không bao giờ nói thật, luôn nói dối để lừa gạt nhà Đức Chúa Trời. Họ thấy kẻ ác hành ác nhưng không xử lý, luôn lấp liếm mọi chuyện và thực hành nhẫn nại, bao dung. Khi làm những chuyện này, động cơ của họ là gì? Có phải là để thật tâm giúp mọi người lấy thừa bù thiếu cho nhau và bao dung cho nhau không? (Thưa, không.) Vậy thì mục đích của họ là gì? Họ muốn củng cố tầm ảnh hưởng của chính mình, ổn định địa vị của mình. Họ biết rằng một khi kẻ ác bị thanh lọc, thì họ sẽ là người tiếp theo ra đi; đây chính là điều họ sợ. Vì thế, họ giữ lại kẻ ác; chỉ cần kẻ ác ở đó thì địa vị của kẻ địch lại Đấng Christ được an toàn. Nếu kẻ ác bị thanh lọc, thì kẻ địch lại Đấng Christ sẽ tiêu tùng. Kẻ ác là ô dù bảo vệ của họ, là lá chắn của họ. Cho nên bất kể ai vạch trần kẻ ác hay đề xuất thanh lọc kẻ ác, họ cũng không đồng ý, nói rằng: “Họ vẫn có thể làm bổn phận mà, họ vẫn có thể dâng tiền mà; ít nhất họ vẫn có thể đem sức lực phục vụ!”. Họ tìm những lý do và cái cớ để biện hộ cho kẻ ác, và thông thường, những người không biết phân định không thể thấy được dã tâm ẩn trong đó, họ không thể phân định được.

Có trường hợp nào mà hành động kỳ dị của một kẻ địch lại Đấng Christ để lại ấn tượng sâu sắc đối với các ngươi không? Ai chia sẻ nào? (Thưa, có một người chị em là trưởng nhóm Phúc Âm, và tháng nào chị ấy cũng xoay sở thu phục được một số người, trong đó có người ngoại đạo. Kẻ địch lại Đấng Christ diễn giải sự sắp xếp công việc tách khỏi bối cảnh, nói rằng việc rao truyền Phúc Âm chủ yếu nên nhắm tới người theo đạo, còn người ngoại đạo là thứ yếu, nếu trọng tâm chính là người ngoại đạo thì sẽ là vi phạm nghiêm trọng sự sắp xếp công việc. Thậm chí anh ta còn sử dụng lời Đức Chúa Trời từ “Lời cảnh báo cho những ai không thực hành lẽ thật” để mổ xẻ hành vi này. Sau đó anh ta cho mọi người bỏ phiếu, hỏi rằng: “Một người như thế có nên tiếp tục giữ vai trò phụ trách không?”. Lúc đó, nhiều người trong hội thánh là tân tín hữu mới được một, hai năm, và không biết phân định, nên họ cảm thấy vi phạm sự sắp xếp công việc là việc nghiêm trọng và đồng ý thay thế người chị em đó. Lúc đó người chị em trở nên rất tiêu cực; sau khi bị kẻ địch lại Đấng Christ này mổ xẻ và kết tội, chị ấy cảm thấy mình chính là kẻ địch lại Đấng Christ, chắc chắn sẽ bị Đức Chúa Trời đào thải, và trở nên tiêu cực tột độ, không muốn sống nữa. Ngoài ra, kẻ địch lại Đấng Christ này còn giữ lại một số bài giảng và thông công từ Bề trên, không cho chúng con nghe. Anh ta nói rằng mối thông công từ Bề trên rất nghiêm khắc, và chúng con là những tân tín hữu với vóc giạc nhỏ bé, sau khi nghe sẽ hình thành quan niệm. Bề ngoài có vẻ như anh ta đang nghĩ cho chúng con, nhưng thực ra là anh ta sợ nếu chúng con nghe được những bài giảng từ Bề trên thì có thể phân định được anh ta, và khi đó anh ta sẽ không thể khống chế được chúng con. Anh ta đã sử dụng những thủ đoạn nghe có vẻ hợp lý này để thao túng và lừa bịp mọi người, khiến cho những gì anh ta làm có vẻ lô-gic và phù hợp với sự sắp xếp công việc của nhà Đức Chúa Trời.) Vụ việc này chắc chắn có thể được mô tả là kỳ dị. Phàm ai được coi là kẻ địch lại Đấng Christ, cách làm nhất quán luôn giống nhau, không khác chút nào, làm gì cũng có cùng ý định, nhắm đến cùng mục đích. Chẳng phải điều này chứng tỏ những kẻ địch lại Đấng Christ đích thị là ma quỷ và tà linh sao? (Thưa, phải.) Chắc chắn là vậy. Mô tả hành động của những kẻ địch lại Đấng Christ – những ma quỷ và tà linh này – là kỳ dị là hoàn toàn phù hợp, không hề nói quá chút nào.

Sau những ví dụ này, các ngươi nên có chút thấu hiểu; các ngươi đã bắt đầu hình thành chút phân định về những hành động kỳ dị của kẻ địch lại Đấng Christ chưa? Bất kỳ điều gì liên quan đến hành vi kỳ dị, với ý định và động cơ ngầm, đều không phải là hành động của người bình thường, không phải là hành động của người trung thực, càng không phải là hành động của người mưu cầu lẽ thật. Những chuyện họ làm có phải là thực hành lẽ thật không? Họ có đang bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Vậy họ đang làm gì? Họ đang làm gián đoạn và phá hoại công tác của hội thánh, làm việc ác; họ không đi theo con đường của Đức Chúa Trời, cũng không bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời. Những gì họ làm không phải là công tác của hội thánh; họ chỉ sử dụng ngọn cờ làm công tác của hội thánh để mưu cầu ý đồ riêng mà về bản chất là bảo vệ lợi ích cá nhân của họ và của Sa-tan. Còn ví dụ nào khác không? (Thưa, vào năm 2015, một sự sắp xếp công việc được ban hành từ Bề trên, chỉ dẫn chúng con sử dụng bài viết từ “Người Thức tỉnh” để thông công về việc phân định lãnh đạo giả, và phân biệt hội thánh thật và giả. Có một lãnh đạo trong hội thánh, mà vừa bị thay thế, nói rằng chúng mới tin Đức Chúa Trời, vóc giạc còn nhỏ bé, và chúng con lĩnh hội sự sắp xếp công việc của Bề trên còn quá nông cạn – hành động của Đức Chúa Trời là không thể dò lường, và Bề trên đã ban hành sự sắp xếp này với ý nghĩa sâu sắc hơn. Anh ta còn nói: “Về những lẽ thật về việc phân định lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ, trước đây bề trên đã có nhiều mối thông công và giải thích rất rõ ràng. Nếu chỉ là chuyện phân định lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ, thì có cần phải ban hành một sự sắp xếp công việc khác không?”. Sau đó, anh ta lấy ra khỏi bối cảnh những phần từ sự sắp xếp công việc, bài giảng và mối thông công trước đây từ Bề trên, biên soạn thành hàng vạn từ tài liệu để mê hoặc các anh chị em, khiến chúng con thay vào đó phân định “người Thức tỉnh”. Lúc đó, chúng con bị mê hoặc và không chú trọng phân định lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ. Về sau, người này bị vạch trần là kẻ địch lại Đấng Christ. Anh ta sợ rằng nếu mọi người bắt đầu phân định lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ, thì họ sẽ vạch trần những việc ác của anh ta và phân định được anh ta, nên anh ta cố tình đánh lạc hướng khiến chúng con thay vào đó phân định “người Thức tỉnh”.) Đây chính là trò đánh lận con đen, một chiến thuật đánh lạc hướng, tạo sự phân tán để chuyển hướng sự tập trung của các ngươi hầu cho không ai chú ý tới anh ta. Thủ đoạn này nghe quen không? Khi con rồng lớn sắc đỏ đối mặt với một cuộc khủng hoảng, chẳng hạn như rối ren nội bộ trong hệ thống chính trị hoặc các cuộc đình công và nổi loạn có kế hoạch của quần chúng, nó sử dụng cùng một chiến thuật này – phân tán sự chú ý. Nó thường xuyên sử dụng thủ đoạn này. Mỗi khi nổi lên một cuộc khủng hoảng, nó kích động sự hoang mang sợ hãi về chiến tranh, kích thích lòng yêu nước, sau đó không ngừng trình chiếu những bộ phim về kháng chiến, yêu nước, hoặc truyền bá tin giả để khơi dậy tinh thần dân tộc nhằm phân tán sự chú ý. Con rồng lớn sắc đỏ làm những chuyện này với động cơ ngầm, nuôi những mục đích không nói ra – đây gọi là hành vi kỳ dị. Ai là tổ tông của kẻ địch lại Đấng Christ? Đó chính là con rồng lớn sắc đỏ, ma quỷ. Tính chất hành động của chúng giống hệt nhau, như thể thông đồng với nhau. Những âm mưu, thủ đoạn của kẻ địch lại Đấng Christ bắt nguồn từ đâu? Do tổ tông của họ, những ma quỷ và Sa-tan truyền thụ cho họ. Sa-tan cư ngụ trong họ, nên chuyện hoạt động theo cách kỳ dị là rất bình thường đối với họ; nó tỏ lộ đầy đủ việc họ có bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ.

(Thưa, Đức Chúa Trời muốn con chia sẻ một ví dụ. Trường hợp kẻ địch lại Đấng Christ này xảy ra ở vùng đồng cỏ Jijin. Đó là vào khoảng mùa xuân năm 2012. Một kẻ địch lại Đấng Christ tên là An đã gieo rắc nhiều ngụy lý trong hội thánh các nơi, thậm chí còn viết một cuốn sách nhỏ có tựa đề “Điều Đức Chúa Trời quan tâm nhất trước khi rời Trái Đất” mà anh ta đã bí mật phân phát cho tất cả các hội thánh. Anh ta nói rằng điều Đức Chúa Trời quan tâm nhất trước khi rời đi là liệu dân được chọn của Đức Chúa Trời có nghe theo người được Đức Thánh Linh sử dụng sau khi Ngài rời đi hay không, vì vậy chúng con nên lĩnh hội được tâm ý của Đức Chúa Trời, và bây giờ chỉ cần đọc các bài giảng, mối thông công và sự sắp xếp công việc của người được Đức Thánh Linh sử dụng là đủ, thay cho nhu cầu ăn uống lời Đức Chúa Trời. Kết quả là nhiều anh chị em bị mê hoặc; họ ngừng ăn uống lời Đức Chúa Trời, đây chính là mục đích mà kẻ địch lại Đấng Christ tìm cách đạt được. Sự nham hiểm của kẻ địch lại Đấng Christ nằm ở đó, dưới chiêu bài làm chứng cho người được Đức Thánh Linh sử dụng, anh ta đã dẫn dắt con người xa rời lời Đức Chúa Trời, bỏ ăn uống lời Đức Chúa Trời, trong khi khiến mọi người cảm thấy anh ta thấu hiểu sâu sắc lòng Đức Chúa Trời. Anh ta đã suy nghĩ về điều Đức Chúa Trời quan tâm trước khi rời đi, nên mọi người xem trọng và tôn sùng anh ta.) Tại sao anh ta lại đề cao người được Đức Thánh Linh sử dụng? Người được Đức Thánh Linh sử dụng là con người, và anh ta cũng vậy. Bằng cách đề cao người được Đức Thánh Linh sử dụng, thực ra anh ta đang khiến mọi người tôn sùng và đề cao anh ta; đó chính là mục đích của anh ta. Chúng ta không thể chỉ đánh giá những gì anh ta nói là đúng hay sai, mà cần phải nhìn vào hậu quả và mục đích mà lời anh ta đạt được; đó mới là cái chính. Cho nên, khi đề cao người được Đức Thánh Linh sử dụng, trên thực tế mục đích của anh ta là để đề cao chính mình; đó chính là mục đích của anh ta. Anh ta biết rằng đề cao người được Đức Thánh Linh sử dụng thì chắc chắn không ai phản đối, và mọi người sẽ đồng ý với anh ta, đề cao anh ta. Nhưng nếu anh ta trực tiếp đề cao và làm chứng cho chính mình, thì mọi người có thể vạch trần, phân định và loại bỏ anh ta. Vì thế, kẻ địch lại Đấng Christ đã sử dụng chiến thuật đề cao người được Đức Thánh Linh sử dụng để đạt được việc đề cao chính mình và làm chứng cho chính mình; đây chính là sự nham hiểm của kẻ địch lại Đấng Christ. Những hành động của kẻ địch lại Đấng Christ An rất kỳ dị, mọi người dễ dàng bị họ mê hoặc – đây là một vụ kẻ địch lại Đấng Christ điển hình. Từ trường hợp kẻ địch lại Đấng Christ này, dân được chọn của Đức Chúa Trời nên học phân định, hiểu được khía cạnh kỳ dị của kẻ địch lại Đấng Christ, cũng như những phương thức, thủ đoạn mà họ sử dụng để đạt được kết quả mê hoặc mọi người. Hiểu được những điều này rất ích lợi cho mọi người trong việc phân định kẻ địch lại Đấng Christ. Ai có ví dụ để chia sẻ nữa không?

(Thưa Đức Chúa Trời, con cũng có một trường hợp kẻ địch lại Đấng Christ để chia sẻ. Vụ việc này xảy ra ở vùng đồng cỏ Hà Nam. Vào khoảng năm 2011, kẻ địch lại Đấng Christ Dư, một lãnh đạo giả đã bị thay thế, được hội thánh phân công giám sát công tác thanh lọc bởi vì cô ta có chút ân tứ và kinh nghiệm làm việc. Lúc đó, một sự sắp xếp công việc được ban hành từ Bề trên để vạch trần và loại bỏ triệt để các lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ. Dư, người rất ham địa vị, thấy đây là một cơ hội để trở lại. Dưới chiêu bài thi hành sự sắp xếp công việc, cô ta đã không ngừng thông công với các anh chị em để đi theo dòng chảy của công tác Đức Thánh Linh và chú trọng phân định lãnh đạo giả cũng như kẻ địch lại Đấng Christ. Nhưng cô ta lại không thông công về các nguyên tắc phân định, mà thay vào đó dẫn dắt chúng con tập trung sự chú ý vào các lãnh đạo và chấp sự. Trong mỗi buổi nhóm họp, cô ta sẽ mời các anh chị em nói về biểu hiện của các lãnh đạo và chấp sự. Sau khi chúng con nói xong, cô ta sẽ tóm lấy một số lệch lạc và vạch trần những tâm tính bại hoại trong công tác của họ, nghiêm trọng hóa tính chất của những vấn đề này, quy chụp thẳng họ là lãnh đạo giả, và thay thế họ. Sau đó, cô ta không ngừng làm chứng với các anh chị em về việc mình đã loại bỏ các lãnh đạo và chấp sự giả này như thế nào, khiến họ cảm thấy cô ta biết phân định và có năng lực trong công việc. Thực ra, mục đích của cô ta là sử dụng việc sa thải các lãnh đạo và chấp sự này như một cơ hội để quay trở lại và tiếp tục làm lãnh đạo. Bị Dư mê hoặc, các anh chị em khi nhìn thấy sự bại hoại và lệch lạc trong công việc bị vạch trần của các lãnh đạo và chấp sự, liền bắt đầu tự hỏi liệu bản thân họ có phải là lãnh đạo giả hay không, thậm chí còn đặt dấu hỏi về lãnh đạo hội thánh các cấp, không thể phối hợp bình thường với công việc của các lãnh đạo và chấp sự. Nhiều lãnh đạo và chấp sự có vóc giạc nhỏ bé cũng bị kìm kẹp rất nhiều, sống trong tình trạng thụ động và đề phòng, không thể làm bổn phận bình thường, dẫn đến hỗn loạn trong hội thánh. Lúc đó, nhiều người tôn sùng kẻ địch lại Đấng Christ này, và mười mấy hội thánh đã bị kẻ địch lại Đấng Christ này mê hoặc và khống chế. Ngay cả sau khi kẻ địch lại Đấng Christ này bị vạch trần, một số người vẫn không thể phân định được cô ta, tin rằng cô ta đang bảo vệ công tác của hội thánh, thậm chí có những người còn bênh vực cô ta.) Về sau các anh chị em bị mê hoặc đó như thế nào? (Thưa, thông qua việc thông công và trợ giúp, một số người đã phân định được kẻ địch lại Đấng Christ này và được cứu, trong khi số khác, dù có được người khác thông công như thế nào, vẫn ngoan cố, nhất quyết đi theo kẻ địch lại Đấng Christ, và những người này cuối cùng bị đào thải.) Bây giờ hầu hết mọi người đã phân định được kẻ địch lại Đấng Christ này chưa? (Thưa, bây giờ họ đã có chút phân định rồi.) Những người vẫn cố chấp và không thể thay đổi, xứng đáng bị diệt vong; đây chính là kết cục của việc đi theo kẻ địch lại Đấng Christ.

Chúng ta vừa thông công về các biểu hiện khác nhau của hành động kỳ dị của kẻ địch lại Đấng Christ. Bây giờ, hãy cùng tổng kết. Dạng hành vi này của kẻ địch lại Đấng Christ thể hiện thực chất và tâm tính nào? (Thưa, tà ác.) Đó là một tâm tính chủ yếu có đặc điểm tà ác. Vậy chúng ta có thể nói rằng những người có tâm tính tà ác thường hành động kỳ dị, và những người hành động kỳ dị có tâm tính rất tà ác không? (Thưa, có.) Đây có phải là suy luận logic không? Mặc dù bề ngoài nó có vẻ hơi giống suy luận, nhưng thực tế lại chính xác là vậy – người có tâm tính tà ác thường hoạt động theo những cách kỳ dị. Kẻ địch lại Đấng Christ hành động kỳ dị, thực chất bản tính này bắt nguồn từ Sa-tan; rất hiển nhiên là họ giống ma quỷ và Sa-tan. Bằng cách quan sát cách kẻ địch lại Đấng Christ hành động, ngươi có thể hiểu cách ma quỷ và Sa-tan hoạt động. Ma quỷ và Sa-tan thực sự, con rồng lớn sắc đỏ, hành động còn nghiêm trọng hơn thế. Thậm chí một kẻ địch lại Đấng Christ nhỏ bé thôi cũng có thể hành động kỳ dị đến mức như vậy, với những chiến thuật ranh ma như vậy, nói chuyện không có một lỗ hổng nào, khiến cho không ai có thể tìm được một kẽ hở nào hay bắt thóp được họ, huống chi những ma quỷ và Sa-tan già đó! Xét từ góc độ hành vi kỳ dị của kẻ địch lại Đấng Christ, những người bình thường không có địa vị, hiếm khi giao tiếp hoặc cởi mở với người khác, hành động thiếu minh bạch và không muốn người khác biết trong thâm tâm họ đang suy nghĩ gì hay cân nhắc làm gì, và ý định hành động của họ là gì, những người ẩn mình rất sâu và tạo vỏ bọc kín kẽ cho mình – chẳng phải lời nói và hành động của họ cũng có chút kỳ dị sao? Nếu những người như thế không được xếp là kẻ địch lại Đấng Christ, thì chắc chắn họ đang đi con đường địch lại Đấng Christ. Điều này là chắc chắn. Những người đi con đường địch lại Đấng Christ, nếu không đón nhận sự tỉa sửa, không để tâm đến lời khuyên của người khác, càng không đón nhận lẽ thật, thì một khi có được địa vị, họ sẽ không tránh khỏi trở thành kẻ địch lại Đấng Christ; đó chỉ là vấn đề thời gian. Nếu một số người có dạng tâm tính tà ác này và từng đi con đường địch lại Đấng Christ, có chút biểu hiện tương tự với kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng sau khi đón nhận sự tỉa sửa, họ ăn năn, có thể đón nhận lẽ thật, từ bỏ con đường trước đây, và có thể quay đầu, thực hành lẽ thật, thì kết quả sẽ là gì? Sự chuyển hóa như thế sẽ giúp họ rời xa hơn khỏi con đường địch lại Đấng Christ, dễ dàng hơn trong việc bước vào con đường tin Đức Chúa Trời đúng đắn, và khi đó họ sẽ có hy vọng được cứu rỗi. Mối thông công về các biểu hiện của cách kẻ địch lại Đấng Christ hành động kỳ dị kết thúc ở đây; biểu hiện tiếp theo chúng ta sẽ thông công là cách họ chuyên quyền độc đoán.

II. Mổ xẻ về sự độc đoán chuyên quyền và buộc người khác thuận phục mình của kẻ địch lại Đấng Christ

Kẻ địch lại Đấng Christ hành động độc đoán chuyên quyền, không bao giờ thông công hay bàn bạc với người khác, muốn sao làm vậy và buộc người khác thuận phục mình. Có thể nói rằng dù làm gì, dù có sự sắp xếp hay quyết định nào, kẻ địch lại Đấng Christ cũng không bao giờ thông công với người khác, không đạt đến sự đồng thuận, không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề và không tìm kiếm các nguyên tắc nên áp dụng khi làm bổn phận. Hơn nữa, họ không cho phép người khác hiểu tại sao mình đang làm theo cách nhất định, khiến mọi người mơ mơ hồ hồ và buộc phải nghe theo họ. Nếu có người không hiểu và hỏi họ, thì kẻ địch lại Đấng Christ không sẵn lòng thông công hoặc giải thích. Trong chuyện này, kẻ địch lại Đấng Christ muốn duy trì tình trạng nào? Không ai được phép biết chi tiết; không ai có quyền được thông tin. Họ muốn gì làm nấy, và những gì họ cho là đúng phải được quán triệt đến cùng. Người khác không có quyền hỏi, càng không đủ tư cách phối hợp công việc với họ, mà chỉ có vai trò vâng phục và thuận phục. Kẻ địch lại Đấng Christ nhìn nhận thế nào về việc này? “Vì các người đã chọn tôi làm lãnh đạo, nên các người chịu sự quản lý của tôi và phải nghe theo tôi. Nếu các người không nghe theo tôi thì đừng chọn tôi. Nếu chọn tôi thì phải nghe theo tôi. Tôi có quyền quyết định mọi chuyện!”. Trong mắt họ, mối quan hệ giữa họ và các anh chị em là gì? Họ là người ra lệnh. Các anh chị em không được phân tích đúng sai, không được hỏi, và không được phép buộc tội, phân định, chất vấn hay nghi ngờ họ; cấm tất cả những việc này. Kẻ địch lại Đấng Christ chỉ cần đưa ra kế hoạch, tuyên bố và phương thức, và mọi người phải vỗ tay đồng thuận mà không được đặt câu hỏi. Chẳng phải như vậy là hơi ép buộc sao? Đây là loại chiến thuật gì? Đây là độc đoán chuyên quyền. Đây là loại tâm tính gì? (Thưa, hung ác.) Trên bề mặt, “độc đoán” nói đến việc một mình ra quyết định, có quyền quyết định; còn “chuyên quyền” có nghĩa là sau khi tự họ đưa ra phán đoán hoặc quyết định, thì mọi người khác phải chấp hành mà không có quyền có ý kiến hay phát ngôn khác, thậm chí không được đặt câu hỏi. Độc đoán chuyên quyền có nghĩa là khi đối mặt với tình huống, họ tự ngẫm nghĩ, suy xét trước khi ra quyết định phải làm gì. Họ ra quyết định độc lập đằng sau về cách làm, mà không tham khảo ý kiến của bất kỳ ai khác; ngay cả các đồng sự, cộng sự hoặc lãnh đạo cấp trên của chính họ cũng không thể can thiệp – độc đoán chuyên quyền nghĩa là vậy. Dù gặp tình huống nào, những người hành động kiểu này cũng luôn tiến hành bằng cách nghiền ngẫm mọi sự trong đầu và vắt óc suy tính, không bao giờ bàn bạc với người khác. Họ nghĩ kiểu này, kiểu kia trong đầu, nhưng không ai biết họ đang thực sự nghĩ gì. Tại sao không ai biết? Bởi vì họ không nói. Một số người có thể cho rằng đó chẳng qua là do họ không hay nói, nhưng thực tế có phải vậy không? Đây không phải là vấn đề tính cách, mà là sự lựa chọn cố ý để không cho người khác biết. Họ muốn tự mình hành sự, họ có những tính toán riêng. Họ đang tính toán điều gì? Những tính toán của họ xoay quanh lợi ích, địa vị, danh lợi và danh vọng của bản thân. Họ suy ngẫm cách hành động sao cho có lợi cho chính mình, cách bảo vệ địa vị và danh dự của mình khỏi bị tổn hại, cách hành động mà không để bị người khác nhìn thấu, và quan trọng là cách che giấu hành động của họ khỏi Bề trên, hy vọng cuối cùng được lợi mà không để lộ sơ hở nào với ai. Họ nghĩ: “Nếu mình nhất thời sơ suất nói sai sẽ bị mọi người sẽ nhìn thấu. Nếu có kẻ lắm miệng tố giác mình với bề trên, thì bề trên có thể thay thế mình, và mình sẽ mất địa vị. Ngoài ra, nếu mình luôn thông công với người khác, thì chẳng phải khả năng hạn chế của mình sẽ lộ ra với mọi người sao? Người khác có thể xem thường mình sao?”. Bây giờ, nói Ta nghe, nếu họ thực sự bị nhìn thấu, thì điều đó là tốt hay xấu? Thực ra, đối với những người mưu cầu lẽ thật, đối với những người trung thực, thì việc bị nhìn thấu và mất chút thể diện hoặc danh dự không quan trọng lắm. Họ dường như không mấy bận tâm đến những chuyện này; họ dường như không quá ý thức và không quá đặt nặng những chuyện này. Nhưng kẻ địch lại Đấng Christ hoàn toàn ngược lại; họ không mưu cầu lẽ thật, và họ xem địa vị của mình, và sự nhìn nhận cũng như thái độ của người khác đối với mình, còn quan trọng hơn chính sự sống. Bảo họ nói lên suy nghĩ hoặc sự thật khó vô cùng; dù có đưa ra nhiều lợi ích cũng chưa chắc đã đủ. Bảo họ tiết lộ bí mật hoặc chuyện riêng càng khó nữa – thậm chí họ có chết cũng không tiết lộ. Đây là loại bản tính gì? Dạng người này có thể đón nhận lẽ thật được không? Họ có thể được cứu rỗi không? Tuyệt đối không. Rốt cuộc thì “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”.

Kẻ địch lại Đấng Christ rất xem trọng giá trị bản thân, địa vị và thể diện, cũng như bất cứ thứ gì có thể duy trì quyền lực của họ. Ngươi thông công với họ, nói rằng: “Khi làm công tác của hội thánh, dù là việc bên ngoài hay quản trị nội bộ, điều chỉnh nhân sự hay bất kỳ việc gì khác, anh cũng phải thông công với các anh chị em. Bước đầu tiên để học phối hợp với người khác là học thông công. Thông công không phải là tán gẫu, hoặc chỉ bày tỏ sự tiêu cực hay phản nghịch Đức Chúa Trời của bản thân mình. Anh không nên xả những tình trạng tiêu cực hoặc phản nghịch của mình để ảnh hưởng đến người khác. Cái chính là thông công về cách tìm nguyên tắc trong lời Đức Chúa Trời và lĩnh hội lẽ thật”. Nhưng dù ngươi có thông công về lẽ thật thế nào cũng không thể lay chuyển được họ, hay khiến họ thay đổi nguyên tắc và phương hướng hoạt động cũng như hành xử của mình. Đây là loại tâm tính gì? Nói nhẹ là cương ngạnh; nói nặng là hung ác. Thực ra gọi là hung ác là đúng. Thử nghĩ xem, một con sói đang gặm con cừu trong miệng, tận hưởng con mồi. Nếu ngươi thương lượng với nó, nói rằng: “Ta sẽ cho mày một con thỏ thay thế, mày thả con cừu ra, được không?”, nó sẽ không đồng ý. Ngươi nói: “Ta sẽ cho mày con bò, được không?”. Nó sẽ nhất định không đồng ý. Nó sẽ ăn thịt con cừu trước, rồi đi tìm con bò. Một con chưa thỏa mãn đâu, nó muốn cả hai con. Đây là loại tâm tính gì? (Thưa, tham lam không đáy và hung ác tột độ.) Nó hoàn toàn quá là hung ác. Tương tự như vậy, đối với tâm tính cực kỳ hung ác của kẻ địch lại Đấng Christ, có thông công về lẽ thật, tỉa sửa hay khuyên nhủ họ cũng vô ích, không gì thay đổi được sự mưu cầu địa vị thâm căn cố đế hay dục vọng muốn khống chế người khác của họ. Trừ khi người thu hút họ bằng địa vị cao hơn hoặc lợi ích lớn hơn. Nếu không, con mồi đã nằm trong miệng họ rồi, họ còn lâu mới nhả. Còn lâu mới nhả nghĩa là gì? Có nghĩa là một khi có được địa vị nhất định, họ sẽ sử dụng cơ hội này để ra sức thể hiện và phô trương bản thân. Phô trương điều gì? Các loại tài năng và ân tứ, xuất thân, trình độ học vấn, giá trị bản thân và địa vị xã hội của họ, khoe khoang và phô trương việc họ có năng lực và kỹ năng đến đâu, họ có thể đùa giỡn và thao túng mọi người ra sao, họ có thể lèo lái mọi người thế nào. Những người không có lẽ thật hoặc khả năng phân định, nghe thấy vậy liền cảm thấy dạng kẻ địch lại Đấng Christ này quá lợi hại; họ cảm thấy mặc cảm và sẵn sàng thuận phục sự khống chế của kẻ địch lại Đấng Christ.

Có những kẻ địch lại Đấng Christ đặc biệt quỷ quyệt và mưu mô thâm hiểm. Họ tuân theo một triết lý Sa-tan tối cao, đó là trong tình huống nào cũng ít khi lên tiếng, gặp tình huống nào cũng không sẵn lòng bày tỏ lập trường của mình, bất đắc dĩ lắm mới nói. Họ chỉ đơn giản chú ý quan sát hành động của mọi người, như thể mục đích của họ là hiểu thấu và nhìn thấu những người xung quanh rồi mới nói hoặc hành động. Đầu tiên, họ xác định ai có thể là con mồi của họ và trở thành trợ thủ của họ, và ai cần đề phòng như “kẻ thù chính trị” của họ. Đôi khi họ không lên tiếng hoặc đưa ra lập trường, mà giữ im lặng, nhưng bên trong đang ngẫm nghĩ, tính toán; những người này lòng dạ xảo quyệt và hiếm khi lên tiếng. Theo các ngươi, dạng người này có phải là rất nham hiểm không? Nếu họ không lên tiếng, làm sao ngươi có thể phân định được họ? Nhìn thấu họ có dễ không? Rất khó. Lòng dạ của dạng người này hoàn toàn chứa đầy triết lý Sa-tan. Đây chẳng phải là kỳ dị sao? Kẻ địch lại Đấng Christ tin rằng nếu họ nói quá nhiều, luôn bày tỏ quan điểm và thông công với người khác, thì sẽ bị mọi người nhìn thấu; mọi người sẽ nghĩ kẻ địch lại Đấng Christ thiếu chiều sâu, chỉ là một người bình thường và không tôn trọng họ. Đánh mất sự tôn trọng nghĩa là gì đối với kẻ địch lại Đấng Christ? Nghĩa là đánh mất vị trí cao trọng trong lòng người khác, trông tầm thường, vô tri và bình thường. Đây là điều mà kẻ địch lại Đấng Christ không muốn thấy. Vì thế, khi họ thấy những người khác trong hội thánh luôn cởi mở và thừa nhận sự tiêu cực, phản nghịch Đức Chúa Trời của họ, những sai lầm họ phạm phải hôm qua, hoặc nỗi đau khổ không thể chịu đựng mà họ cảm thấy khi không trung thực hôm nay, thì kẻ địch lại Đấng Christ xem những người này là ngu ngốc và ngây thơ, vì họ không bao giờ tự thừa nhận những chuyện như thế, giữ kín suy nghĩ của mình. Có những người ít nói do tố chất kém hoặc đầu óc đơn giản, không suy nghĩ phức tạp, nhưng khi kẻ địch lại Đấng Christ ít nói thì không phải vì lý do đó; mà là vấn đề tâm tính. Họ ít khi nói chuyện khi gặp người khác và không sẵn lòng bày tỏ quan điểm. Tại sao họ không bày tỏ quan điểm? Thứ nhất, chắc chắn họ không có lẽ thật và không thể nhìn thấu sự việc. Nếu họ nói, họ có thể phạm sai lầm và bị nhìn thấu; họ sợ bị xem thường, nên giả bộ trầm mặc, làm bộ thâm trầm, khiến người khác khó đánh giá họ, trông có vẻ khôn ngoan, siêu phàm. Với vẻ bề ngoài này, mọi người không dám đánh giá thấp kẻ địch lại Đấng Christ, và nhìn bề ngoài có vẻ điềm tĩnh, điềm đạm của họ, mọi người càng xem trọng và không dám coi nhẹ họ. Đây chính là khía cạnh kỳ dị và tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ. Họ không sẵn lòng bày tỏ quan điểm bởi vì hầu hết quan điểm của họ không hợp lẽ thật, mà chỉ là quan niệm và tưởng tượng của con người, không đáng đưa ra công khai. Cho nên họ giữ im lặng. Bên trong họ mong có được chút sự sáng mà họ có thể tiết lộ để được ngưỡng mộ, nhưng vì không có nên họ trầm mặc, ẩn mình trong mối thông công về lẽ thật, ẩn núp trong bóng tối như con ma chờ cơ hội. Khi thấy người khác nói lên sự sáng, họ liền nghĩ cách biến thành của mình, bày tỏ theo một cách khác để thể hiện. Đây chính là sự quỷ quyệt của kẻ địch lại Đấng Christ. Dù làm gì, họ cũng cố gắng nổi bật và vượt trội, vì chỉ khi đó họ mới cảm thấy hài lòng. Nếu không có cơ hội, thì trước tiên họ ẩn mình và giữ kín quan điểm của mình. Đây chính là sự quỷ quyệt của kẻ địch lại Đấng Christ. Chẳng hạn như khi nhà Đức Chúa Trời đưa ra một bài giảng, một số người nói rằng nó giống như lời Đức Chúa Trời, một số người cho rằng giống mối thông công từ Bề trên hơn. Những người có lòng dạ tương đối đơn giản nghĩ sao nói vậy, nhưng những kẻ địch lại Đấng Christ thì dù có quan điểm cũng giữ kín. Họ quan sát và sẵn sàng đi theo quan điểm của số đông, nhưng thực ra là bản thân họ không thể nắm bắt được thấu đáo. Những người lươn lẹo, xảo trá có thể lĩnh hội lẽ thật hoặc có sự phân định thực sự được không? Người không lĩnh hội được lẽ thật có thể nhìn thấu được điều gì? Họ không thể nhìn thấu được bất kỳ điều gì cả. Có những người không thể nhìn thấu được sự việc, nhưng lại giả vờ thâm trầm; thực ra họ không có khả năng phân định và sợ bị người khác nhìn thấu. Trong tình huống như vậy, thái độ đúng đắn là: “Chúng tôi không thể nhìn thấu việc này. Vì không biết, nên chúng tôi nên không nên nói lung tung. Nói sai có thể mang đến ảnh hưởng xấu. Tôi sẽ chờ xem Bề trên nói gì”. Như vậy chẳng phải là nói thật sao? Đơn giản như thế nhưng tại sao kẻ địch lại Đấng Christ không nói? Họ không muốn bị nhìn thấu, họ biết hạn chế của chính mình; nhưng đằng sau đó còn có một ý định đáng khinh nữa – đó là được ngưỡng mộ. Đây chẳng phải là thứ đáng ghê tởm nhất sao? Sau khi tất cả mọi người nói xong, thấy hầu hết đều nói đó là lời Đức Chúa Trời, chỉ một số ít nói không phải, kẻ địch lại Đấng Christ cũng cảm thấy bài giảng có thể không phải là lời Đức Chúa Trời, nhưng không dám nói thẳng. Họ nói: “Chuyện này tôi không thể vội đánh giá được; tôi sẽ đi theo số đông”. Họ không thừa nhận sự thiếu thấu suốt của mình, mà thay vào đó sử dụng cách tiếp cận này để ngụy trang và che giấu, lại còn cho rằng mình rất khôn ngoan, thủ đoạn của mình rất cao tay. Rồi hai ngày sau, khi nhà Đức Chúa Trời thông báo bài giảng này là lời Đức Chúa Trời, thì kẻ địch lại Đấng Christ lập tức nói: “Thấy chưa, tôi đã bảo mà. Tôi biết đó là lời đức chúa trời từ đầu rồi, nhưng tôi lo những anh chị em không nhận ra sẽ yếu đuối, nên tôi không thể nói ra được. Nếu tôi nói rằng đó là lời đức chúa trời, chẳng phải tôi đang kết tội các anh chị em sao? Các anh chị em sẽ buồn đến mức nào? Làm sao tôi có thể yên lòng khi biết các chị anh chị em yếu đuối như vậy được? Như thế tôi sẽ là loại lãnh đạo gì chứ?”. Thật là một bậc thầy ngụy trang! Đằng sau mọi điều kẻ địch lại Đấng Christ nói đều có ý định và mục đích; hễ mở miệng là họ khoe khoang về bản thân, phô trương thành tích, việc lành quá khứ và hào quang quá khứ của mình. Hễ họ nói chuyện là về những điều này. Những người không thể nhìn thấu họ thì thần tượng họ, trong khi những người có thể nhìn thấu họ lại thấy họ cực kỳ nham hiểm và giả dối – kẻ địch lại Đấng Christ không bao giờ thừa nhận điểm yếu của mình. Kẻ địch lại Đấng Christ hoạt động âm thầm và nói lập lờ nước đôi; hầu hết những gì họ nói đều là nói nhảm, và họ không thể nhìn thấu được bất kỳ điều gì hay lĩnh hội được bất kỳ lẽ thật nào. Tệ hơn nữa, dù không lĩnh hội được bất kỳ lẽ thật nào, nhưng họ lại giả vờ lĩnh hội được, và còn muốn tham dự vào mọi chuyện, muốn ra quyết định và có quyền quyết định trong mọi chuyện, không cho những người xung quanh một quyền được biết nào. Cuối cùng, điều này dẫn đến tình trạng nào? Tất cả những người phối hợp với họ hoặc làm bổn phận với họ đều cảm thấy bề ngoài họ có vẻ trung thành và sẵn lòng trả giá, nhưng thực tế không phải vậy. Ngay cả những người gần gũi với kẻ địch lại Đấng Christ lâu năm cũng không thể nhìn thấu được họ hay biết họ thực sự có khả năng gì – hầu hết mọi người không thể nhìn thấu được họ. Những gì họ nói đều là nói dối, nói suông, đều là lời dối trá, lừa lọc. Chuyện gì họ cũng muốn tham dự và quyết định, nhưng một khi quyết định xong, họ lại không gánh bất kỳ trách nhiệm nào về hậu quả tiềm tàng, và họ nghĩ ra lý do để bào chữa cho hành vi này. Sau khi quyết định, họ để người khác làm, trong khi họ tiếp tục can thiệp vào chuyện khác. Còn việc ban đầu kia có được theo dõi hay không, có được thực hiện hay không, hiệu quả thực hiện như thế nào, hầu hết người khác có ý kiến gì về cách tiếp cận này không, nó có làm tổn hại lợi ích của nhà Đức Chúa Trời không, hoặc các anh chị em có sự phân định về nó hay không, thì họ không quan tâm, làm như không phải việc của họ, không liên quan gì đến họ – họ không hề tỏ ra quan tâm chút nào. Họ chỉ quan tâm đến điều gì? Họ chỉ quan tâm đến những chuyện mà họ có thể thể hiện và có được sự ngưỡng mộ từ người khác; họ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để làm vậy. Trong công việc, họ không làm gì ngoài ra lệnh và thực thi quy định. Họ chỉ có khả năng chơi trò chơi quyền lực và thao túng mọi người, lại còn tự mãn và nghĩ mình tài giỏi trong công việc. Họ hoàn toàn không ý thức được hậu quả của cách làm việc của mình – họ đang làm hại dân được chọn của Đức Chúa Trời, gây nhiễu loạn và gián đoạn trong công tác của hội thánh. Họ đang cản trở việc thực hiện tâm ý của Đức Chúa Trời, và cố gắng thiết lập vương quốc độc lập của riêng mình.

Độc đoán chuyên quyền, không bao giờ thông công với người khác và buộc người khác thuận phục mình – hành vi này của kẻ địch lại Đấng Christ chủ yếu cho thấy điều gì? Tâm tính của họ tà ác, hung ác, và họ có dục vọng khống chế người khác đặc biệt lớn, vượt ra khỏi phạm vi lý tính bình thường của con người. Thêm vào đó, nhận thức hoặc quan điểm và thái độ của họ đối với bổn phận mình làm là gì? Nó khác biệt như thế nào so với những người thực sự làm bổn phận? Những người thực sự làm bổn phận tìm kiếm nguyên tắc cho việc họ làm, đây là một yêu cầu cơ bản. Nhưng kẻ địch lại Đấng Christ hiểu như thế nào về bổn phận họ làm? Tâm tính và thực chất nào bộc lộ thông qua việc làm bổn phận của họ? Họ ở trên cao nhìn xuống và trịch thượng với những người phía dưới. Một khi được chọn làm lãnh đạo, họ bắt đầu xem mình là người có địa vị và thân phận. Họ không đón nhận bổn phận từ Đức Chúa Trời. Ngay khi có được một vị trí nhất định, họ liền cảm thấy mình quyền cao chức trọng, thân phận không giống bình thường, có thể ở trên cao nhìn xuống những người khác. Đồng thời, họ nghĩ rằng họ có thể ra lệnh và làm việc dựa theo suy nghĩ của mình, thậm chí không có gì phải e ngại khi làm vậy. Họ nghĩ họ có thể sử dụng cơ hội làm bổn phận để thỏa mãn khao khát thẩm quyền của mình, để thỏa mãn dục vọng cùng dã tâm muốn thống trị và lãnh đạo người khác bằng quyền lực. Có thể nói rằng cuối cùng, họ cảm thấy mình có cơ hội nắm chắc thẩm quyền. Có những người nói: “Biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ là độc đoán chuyên quyền và không bao giờ thông công với người khác. Mặc dù lãnh đạo của chúng tôi cũng có tâm tính và sự bộc lộ của kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng họ thường xuyên thông công với chúng tôi!”. Điều đó có đồng nghĩa họ không phải là kẻ địch lại Đấng Christ không? Đôi khi kẻ địch lại Đấng Christ có thể giả vờ; sau một vòng thông công với mọi người, hiểu và nắm bắt được suy nghĩ của mọi người – xác định ai đồng lòng với họ, ai không – họ liền phân loại mọi người. Về sau có chuyện gì, họ chỉ trao đổi với những người có mối quan hệ tốt và tương hợp với họ. Những người không đồng lòng với họ thường không được biết thông tin về hầu hết mọi chuyện, thậm chí họ còn giữ lại sách lời Đức Chúa Trời không phát cho những người đó. Các ngươi đã bao giờ hành động kiểu này chưa, độc đoán chuyên quyền, không bao giờ thông công với người khác? Việc độc đoán chuyên quyền chắc chắn xảy ra, nhưng không bao giờ thông công với người khác thì không hẳn; thỉnh thoảng cũng có thể thông công. Tuy nhiên, sau khi thông công thì vẫn làm như ngươi nói. Có những người nghĩ: “Mặc dù chúng ta thông công, nhưng thực ra tôi đã lập kế hoạch cố định từ lâu rồi. Tôi chỉ thông công với anh cho có hình thức thôi, chỉ để anh biết rằng tôi làm việc có nguyên tắc thôi. Anh nghĩ tôi không biết anh tám lạng nửa cân thế nào sao? Cuối cùng, anh vẫn phải nghe theo tôi và đi theo con đường của tôi thôi”. Thực ra họ đã quyết định trong lòng từ lâu rồi. Họ tin rằng: “Miệng ta có thể nói chết thành sống, nói sống thành chết; ai cũng không nói lại được, nên đương nhiên xu hướng sẽ đi theo sự dẫn dắt của ta”. Họ đã tính toán trước rất xa. Kiểu tình trạng này có tồn tại không? Độc đoán chuyên quyền không phải là một hành vi thỉnh thoảng bộc lộ ngẫu nhiên, mà do một tâm tính nhất định khống chế. Có thể là từ cách họ nói chuyện hoặc hành động thì có vẻ không độc đoán chuyên quyền, nhưng từ tâm tính và tính chất hành động của họ, thì họ quả thực độc đoán chuyên quyền. Họ làm cho có hình thức và “lắng nghe” ý kiến của người khác, để cho người khác nói, cho họ biết đầu đuôi sự tình, thảo luận những gì mà lời Đức Chúa Trời yêu cầu – nhưng họ sử dụng một loại ngôn luận hoặc cách nói để dẫn dắt người khác đi đến sự đồng thuận với họ. Và kết quả cuối cùng là gì? Mọi việc diễn ra theo kế hoạch của họ. Đây chính là khía cạnh nham hiểm của họ; đây cũng gọi là buộc người khác thuận phục họ, đó là một dạng ép buộc “nhẹ nhàng”. Họ nghĩ: “Anh không nghe, đúng không? Anh không hiểu, đúng không? Để tôi giải thích cho”. Khi giải thích, họ thêu dệt lời mình, dẫn dắt người khác theo lô-gic của họ. Sau khi bị họ dắt mũi, mọi người nghe theo và nghĩ: “Những gì anh nói là đúng; chúng tôi sẽ thực hành như anh nói, không cần phải quá nghiêm túc nữa”, và kẻ địch lại Đấng Christ liền vui vẻ. Hầu hết mọi người không thể phân định được lời họ. Các ngươi có phân định được không? Khi gặp phải tình huống như thế, các ngươi nên làm gì? Chẳng hạn như khi đối mặt với một chuyện, ngươi cảm thấy có vấn đề; lúc đó ngươi chưa thể xác định vấn đề chính xác, nhưng ngươi cảm thấy mình đang bị buộc thuận phục. Vậy ngươi nên làm gì? Ngươi nên tìm kiếm các nguyên tắc liên quan, tìm kiếm sự hướng dẫn từ Bề trên, hoặc thông công với người nghi vấn. Ngoài ra, những người lĩnh hội được lẽ thật có thể thảo luận và thông công cùng nhau về việc này. Đôi khi, công tác và sự chỉ dẫn của Đức Thánh Linh sẽ cho phép ngươi hiểu được vấn đề trong phương án hoặc lý luận đưa ra bởi kẻ địch lại Đấng Christ hoặc những người đi con đường địch lại Đấng Christ, cũng như động cơ ngầm của họ. Thông qua việc thông công với nhau, các ngươi có thể hiểu ra được. Nhưng có thể các ngươi không thông công, mà thay vào đó lại nghĩ: “Đó không phải là vấn đề lớn, cứ để anh ta làm theo ý mình đi. Rốt cuộc mình cũng không chịu trách nhiệm chính, nên chẳng cần phải bận tâm về những chuyện này. Nếu xảy ra chuyện, mình cũng đâu phải gánh trách nhiệm; anh ta gánh mà”. Đây là loại hành vi gì? Đây là không trung thành với bổn phận của mình. Không trung thành với bổn phận của mình chẳng phải là phản bội lợi ích của nhà Đức Chúa Trời sao? Đây là như Giu-đa! Nhiều người, khi đối mặt với quyền lực áp chế, cuối cùng thỏa hiệp và thông đồng làm bậy với những kẻ vung quyền lực này, đó chính là một biểu hiện không trung thành với bổn phận của mình. Dù ngươi gặp phải kẻ địch lại Đấng Christ hay ai đó làm xằng làm bậy và buộc ngươi thuận phục họ, thì ngươi cũng nên chọn giữ vững những nguyên tắc nào? Ngươi nên đi theo con đường nào? Nếu người cảm thấy những gì mình đang làm không mâu thuẫn hoặc đi chệch khỏi lời Đức Chúa Trời và sự sắp xếp công việc, thì ngươi phải đứng vững. Bám vào lẽ thật là đúng đắn và được Đức Chúa Trời khen ngợi, nhưng cúi đầu thỏa hiệp với Sa-tan, với các thế lực tà ác, với kẻ ác, là hành vi phản bội, đó là một việc ác mà Đức Chúa Trời thù hận, rủa sả. Khi kẻ địch lại Đấng Christ gặp phải người tranh luận với họ, họ thường nói: “Trong chuyện này, tôi có quyền quyết định, và phải làm theo cách của tôi. Nếu xảy ra chuyện gì, tôi sẽ chịu trách nhiệm!”. Phát ngôn này thể hiện tâm tính nào? Liệu người nói và thực hành theo cách này có nhân tính bình thường không? Tại sao họ lại buộc người khác thuận phục mình? Tại sao họ không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề nảy sinh? Tại sao họ không thể xác định các nguyên tắc thực hành lẽ thật? Điều này chứng tỏ họ không có lẽ thật. Các ngươi có thể phân định được vấn đề ở phát ngôn này không? Nói những điều như thế đủ để chứng tỏ họ có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ; đây chính là hành vi của kẻ địch lại Đấng Christ. Tuy nhiên, một kẻ địch lại Đấng Christ quỷ quyệt hơn, sợ bị người khác phân định, phải nói một số điều mà mọi người đồng tình và có vẻ đúng đắn để đạt được mục đích mê hoặc mọi người và có được chỗ đứng. Sau đó, họ sẽ nghĩ cách khống chế dân được chọn của Đức Chúa Trời.

Những biểu hiện của việc kẻ địch lại Đấng Christ độc đoán chuyên quyền rất nhiều, bởi vì loại hành vi, tâm tính và đặc tính này có thể thấy được ở mọi con người bại hoại, chưa nói đến kẻ địch lại Đấng Christ. Các ngươi có thể nghĩ ra một số ví dụ khi mình chuyên quyền độc đoán không? Chẳng hạn như nếu ai đó nói ngươi để tóc ngắn đẹp, và ngươi đáp: “Để tóc ngắn có gì đẹp đâu? Tôi thích tóc dài hơn, và tôi sẽ làm theo ý thích”, thì đây có phải là độc đoán chuyên quyền không? (Thưa, không.) Đây chỉ là sở thích cá nhân, một phần của nhân tính bình thường. Có những người thích đeo kính dù không cận thị. Nếu một số người phán xét họ, nói: “Không cận thị còn đeo kính, anh chỉ cốt cho đẹp thôi!”, và họ đáp: “Thì sao nào? Tôi cứ đeo đấy!” – đây có phải là độc đoán chuyên quyền không? Không, đây là sở thích cá nhân của họ, cùng lắm cũng chỉ là tùy hứng, và không liên quan đến bất kỳ vấn đề tâm tính nào của họ. Không chừng họ đeo kính vài ngày, cảm thấy không thích, liền không đeo nữa. Vậy những điều gì chủ yếu cấu thành sự độc đoán chuyên quyền? Nó chủ yếu liên quan đến con đường người ta đi, tâm tính của họ, và các nguyên tắc cũng như động cơ đằng sau hành động của họ. Chẳng hạn như trong một cuộc hôn nhân, người chồng thích ô tô trong khi gia đình chỉ có 20.000 nhân dân tệ. Người chồng vay mượn khắp nơi có thể để mua chiếc ô tô trị giá 200.000 nhân dân tệ một cách không cần thiết, khiến gia đình không còn tiền ăn, và người vợ thậm chí còn không biết về giao dịch mua này. Vậy người chồng có phải là độc đoán chuyên quyền không? Đây thực sự là độc đoán chuyên quyền. Độc đoán chuyên quyền có nghĩa là không quan tâm đến cảm nhận, suy nghĩ, ý kiến, thái độ hoặc quan điểm của người khác, mà chỉ biết mình. Nói một cách đơn giản, trong đời sống hàng ngày, nó có nghĩa là thỏa mãn thú vui và dục vọng xác thịt của mình, thỏa mãn sự ích kỷ của mình; còn khi liên quan đến bổn phận, nó nói đến việc thỏa mãn dã tâm, dục vọng của mình để mưu cầu địa vị và quyền lực. Lấy ví dụ: hội thánh có một ngôi nhà, và cần xây con đường bên cạnh. Chiều rộng thích hợp của con đường nên được xác định bởi kích thước của ngôi nhà và khoảng sân, để đáp ứng được cả tính thẩm mỹ và công năng. Xét diện tích lớn của ngôi nhà và khoảng sân này, con đường cần phải rộng ít nhất hai mét. Người phụ trách nói: “Tôi quyết định rồi, chúng ta sẽ làm đường rộng một mét”. Những người khác nói: “Hàng ngày nhiều người ra vào, đôi khi chúng ta cũng phải chuyển đồ nữa; một mét làm sao đủ được, quá hẹp”. Nhưng người phụ trách cứ khăng khăng với quan điểm riêng của mình và không sẵn lòng thảo luận. Sau khi xây xong, mọi người đều thấy con đường quá hẹp, không cân đối với ngôi nhà và khoảng sân, và không thực tế – cần phải tu sửa, lại phải làm lại. Khi đó, mọi người đều oán trách người này. Thực ra, trước khi bắt đầu xây dựng con đường, một số người đã nêu ý kiến phản đối, nhưng người này không đồng ý và khăng khăng giữ quan điểm riêng của mình, ép buộc người khác làm theo ý mình, dẫn đến hậu quả như vậy. Tại sao người này lại không thể đón nhận ý kiến đóng góp của người khác? Khi có những ý kiến khác nhau, tại sao họ không thể suy xét toàn diện và tìm ra cách tiếp cận đúng đắn? Nếu không có ai để bàn bạc thì tự ra quyết định cũng được, nhưng bây giờ có người để bàn bạc và thậm chí có những ý kiến đóng góp tốt hơn, tại sao họ không thể đón nhận? Đây là loại tâm tính gì? Có ít nhất hai khả năng: một là người này thiếu suy nghĩ, là người hồ đồ; hai là tâm tính họ quá kiêu ngạo và tự nên công chính, luôn cảm thấy mình đúng đắn, dù người khác có nói đúng đến đâu cũng không thể đón nhận – đây là kiêu ngạo đến mức mất lý trí. Một chuyện nhỏ như thế đã bộc lộ tâm tính họ rồi. Kiêu ngạo quá mức sẽ dẫn đến không có lý tính. Không có lý tính nghĩa là gì? Giống gì không có lý tính? Súc sinh không có lý tính. Nếu con người không có lý tính thì không khác gì súc sinh; đầu óc họ không có năng lực phán đoán và không có lý tính. Nếu con người trở nên kiêu ngạo đến mức mất lý trí, và không có lý tính, thì chẳng phải họ giống súc sinh sao? (Thưa, phải.) Họ chính là vậy; không có lý tính của con người đồng nghĩa họ không phải là con người. Kẻ địch lại Đấng Christ có dạng lý tính này không? (Thưa, không.) Kẻ địch lại Đấng Christ càng không có; họ còn tệ hơn súc sinh, họ là ma quỷ. Giống như khi Đức Chúa Trời hỏi Sa-tan: “Ngươi ở đâu đến?”. Câu hỏi của Đức Chúa Trời thực ra rất rõ ràng; Đức Chúa Trời truyền tải thông điệp gì? (Thưa, Ngài đang hỏi Sa-tan rằng nó ở đâu đến.) Câu này rõ ràng kết thúc bằng dấu hỏi; nó là một câu hỏi, đề cập đến “Sa-tan” với chủ ngữ là “ngươi”: “Ngươi ở đâu đến?”. Ngữ pháp chuẩn, và câu hỏi của Đức Chúa Trời dễ hiểu. Sa-tan trả lời như thế nào? “Tôi trải qua đây đó trên đất và dạo chơi tại nơi nó” (Gióp 1:7). Đây là danh ngôn của Sa-tan. Câu trả lời của Sa-tan có thể hiện bất kỳ lý tính nào không? (Thưa, không.) Nó không có lý tính. Khi Đức Chúa Trời hỏi lại nó ở đâu đến, nó lặp lại câu trả lời đó, như thể không thể hiểu được lời Đức Chúa Trời. Mọi người có hiểu những gì Sa-tan nói không? Lời nói của nó có chút lý tính nào không? (Thưa, không.) Nó không có lý tính – vậy nó có thể lĩnh hội được lẽ thật không? Ngay cả với một câu hỏi đơn giản như vậy từ Đức Chúa Trời mà nó còn đáp lại kiểu đó; thì những lẽ thật mà Đức Chúa Trời phán, nó càng không có khả năng lĩnh hội. Có thể nói rằng những kẻ địch lại Đấng Christ cũng không có lý tính; những người hành động kỳ dị, những người không thể lĩnh hội được lời Đức Chúa Trời hay lẽ thật đều vô lý tính. Dù ngươi có nói nhiều đến đâu về việc thực hành lẽ thật, làm theo nguyên tắc, tìm kiếm nguyên tắc và thông công với người khác trong khi làm bổn phận – mà họ nói rằng họ hiểu và biết rồi – thì đến khi hành động, họ cũng sẽ không ghi nhớ lời ngươi và muốn sao làm vậy. Đây chính là quỷ tính! Những người có loại quỷ tính này không lĩnh hội được lẽ thật và không có lý tính. Khía cạnh vô lý trí và vô liêm sỉ nhất của họ là gì? Con người là do Đức Chúa Trời tạo dựng, Đức Chúa Trời lựa chọn con người và đưa họ đến trước Ngài để làm gì? Để khiến cho con người lưu tâm và lĩnh hội được lời Đức Chúa Trời, đi con đường nhân sinh đúng đắn như Đức Chúa Trời chỉ dẫn, và cuối cùng biết phân biệt giữa đúng và sai, cái tích cực và cái tiêu cực. Đây chính là tâm ý của Đức Chúa Trời; như thế, những người đi theo Đức Chúa Trời sẽ ngày càng tốt hơn. Mà kẻ địch lại Đấng Christ vô lý trí đến mức nào? Họ nghĩ: “Lạy đức chúa trời, ngài mang con người đến trước ngài, vậy thì con cũng sẽ làm thế. Ngài có thể lựa chọn con người, sắp đặt và tể trị họ, vậy thì con cũng sẽ làm thế. Ngài có thể khiến con người thuận phục và nghe theo ngài, ngài ra lệnh trực tiếp và khiến họ làm như ngài phán, vậy thì con cũng sẽ làm thế”. Đây chẳng phải là vô lý tính sao? (Thưa, phải.) Vô lý tính chẳng phải có nghĩa là họ vô liêm sỉ sao? (Thưa, phải.) Con người là của ngươi sao? Họ nên đi theo ngươi sao? Tại sao họ nên nghe theo ngươi chứ? Ngươi chỉ là một trong những con người thọ tạo nhỏ xíu, làm sao lại có thể mơ mộng cao hơn hết thảy được? Đây chẳng phải là vô lý tính sao? (Thưa, phải.)

Có những người đủ may mắn để được chọn làm lãnh đạo trong hội thánh, nhưng thực ra tố chất và vóc giạc chưa đáp ứng được. Làm lãnh đạo là niềm vinh dự lớn lao từ Đức Chúa Trời, nhưng họ lại không nhận thức được như vậy. Thay vào đó, họ nghĩ: “Là lãnh đạo, tôi giỏi hơn và cao hơn người khác; tôi không còn là người bình thường nữa. Trong khi các người đều cần phải ngoan ngoãn cúi mình thờ phượng trước đức chúa trời, thì tôi không cần, bởi vì tôi khác các người; các người là con người thọ tạo, nhưng tôi không phải”. Vậy thì ngươi là cái gì? Chẳng phải ngươi cũng là thịt và huyết sao? Ngươi khác người khác ở chỗ nào? Khác ở chỗ ngươi không biết xấu hổ; ngươi không có ý thức danh dự và lý tính, thậm chí ngươi còn không bằng con chó. Ngươi hành động độc đoán chuyên quyền, làm ngơ mọi lời khuyên từ người khác – đó chính là sự khác biệt. Dù tố chất của bản thân kém đến đâu, hay hiệu quả làm việc thấp ra sao, họ vẫn nghĩ mình cao hơn người bình thường, tin rằng họ có khả năng và tài năng. Vì thế, làm gì họ cũng không bàn bạc với người khác để đi đến sự đồng thuận, nghĩ rằng họ đủ tư cách và có đầy đủ năng lực kiểm soát mọi việc. Chẳng phải đây là kiêu ngạo đến mất lý trí sao? Chẳng phải đây là trơ trẽn một cách vô liêm sỉ sao? (Thưa, phải.) Trước khi trở thành lãnh đạo, họ cụp đuôi đối nhân xử thế; họ tin rằng mình có tài năng và năng lực, và nuôi chút dã tâm trong hành động, chỉ là chưa có cơ hội. Một khi trở thành lãnh đạo, họ tách khỏi các anh chị em, đứng ở trên cao. Họ bắt đầu trịch thượng, lộ bộ mặt thật của mình; họ bắt đầu nghĩ mình có thể đạt được những điều lớn lao, tin rằng: “Nhà đức chúa trời không chọn nhầm người; mình đúng là nhân tài – vàng thật sớm muộn cũng phát sáng. Bây giờ nhìn mình này: đức chúa trời đã nhận ra mình, chẳng phải sao?”. Như vậy chẳng đáng ghê tởm sao? (Thưa, phải.) Ngươi chỉ là một trong những con người thọ tạo bình thường; dù ân tứ hay tài năng của ngươi có lớn đến đâu, thì tâm tính bại hoại của ngươi cũng giống như của tất cả mọi người khác. Nếu ngươi nghĩ mình không giống người bình thường và xem mình cao siêu, muốn vượt lên trên tất cả mọi người khác, cao hơn hết thảy, thì ngươi nhầm. Vì quan niệm sai lầm này mà ngươi hành động độc đoán chuyên quyền, không thông công hay bàn bạc với người khác, thậm chí còn tận hưởng sự thuận phục và tuân thủ của người khác đối với mình, chỗ này sai. Sai ở đâu? (Thưa, đứng sai vị trí.) Tại sao những kẻ địch lại Đấng Christ lại luôn đứng sai vị trí? Có một điều chắc chắn, mà các ngươi có thể không nhận ra: trong nhân tính của họ có thêm một thứ so với người khác; họ luôn có một kiểu quan niệm sai lầm. Quan niệm sai lầm này do đâu mà có? Không phải là do Đức Chúa Trời cho, mà là Sa-tan cho. Mọi việc họ làm, mọi thứ họ bộc lộ và thể hiện, đều không phải là bản năng trong phạm vi nhân tính bình thường, mà do một lực lượng ngoại lai thúc đẩy. Tại sao lại nói hành động của họ kỳ dị, và dã tâm, dục vọng của họ không thể khống chế được? Dục vọng khống chế mọi người của họ đã vượt qua cực hạn. Vượt qua cực hạn nghĩa là gì? Nghĩa là không từ thủ đoạn, vượt quá lý tính và liêm sỉ; như cái lò xo – khi ngươi ấn xuống, nó có thể tạm thời đi xuống, nhưng một khi ngươi buông tay, nó liền bật lên trở lại. Chẳng phải đây là bị dục vọng thiêu đốt, tẩu hỏa nhập ma sao? Nói vậy không hề quá chút nào.

Nơi nào kẻ địch lại Đấng Christ cầm quyền trong hội thánh, thì hội thánh đó có thể không còn gọi là hội thánh nữa. Những ai đã trải qua chuyện này hẳn có cảm nhận như vậy. Đó không phải là bầu không khí yên tĩnh, vui vẻ và tinh thần chung dâng cao, mà là một bầu không khí bất hòa náo loạn. Ai cũng cảm thấy rất xao động, bất an, không thể nào cảm thấy bình an trong lòng, như thể một đại họa nào đó sắp xảy đến. Những lời nói và hành động của kẻ địch lại Đấng Christ mang lại một bầu không khí mà trong đó lòng người trở nên u ám, mất khả năng phân định giữa điều tích cực và điều tiêu cực. Ngoài ra, việc bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc trong một thời gian dài còn khiến lòng người xa cách Đức Chúa Trời, dẫn đến mối quan hệ không bình thường với Đức Chúa Trời, giống như những người trong đạo tin Đức Chúa Trời trên danh nghĩa, nhưng trong lòng không có chỗ cho Ngài. Còn một vấn đề thực tế nữa, đó là khi kẻ địch lại Đấng Christ cầm quyền sẽ sinh ra chia rẽ và hỗn loạn trong hội thánh. Những người yêu lẽ thật không cảm nhận được sự vui hưởng hay giải phóng khi nhóm họp, vì thế muốn rời khỏi hội thánh để tin Đức Chúa Trời ở nhà. Khi Đức Thánh Linh làm công tác trong hội thánh, dù mọi người có lĩnh hội được lẽ thật hay không, tất cả cũng đều đồng lòng đồng sức, tạo nên một bầu không khí an bình và ổn định hơn, không có xao động. Tuy nhiên, hễ kẻ địch lại Đấng Christ làm việc là họ mang lại bầu không khí xao động, kỳ quái. Sự can thiệp của họ dẫn đến chia rẽ, mọi người trở nên phòng thủ lẫn nhau, phán xét lẫn nhau, công kích lẫn nhau và phá hoại nhau sau lưng. Rõ ràng, kẻ địch lại Đấng Christ đóng vai trò gì? Họ là tay sai của Sa-tan. Hậu quả gây ra bởi hành động của kẻ địch lại Đấng Christ là: thứ nhất, phán xét, nghi ngờ, đề phòng lẫn nhau giữa các anh chị em; thứ hai, ranh giới giữa nam và nữ lu mờ, dần dần dẫn đến những tương tác không phù hợp; và thứ ba, trong lòng mọi người trở nên mơ hồ về các khải tượng, và họ không còn chú trọng thực hành lẽ thật nữa. Họ không còn biết cách hành động phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật. Sự lĩnh hội đạo lý ít ỏi mà họ từng có được cũng mất đi, tâm trí họ trở nên u ám, và họ mù quáng đi theo kẻ địch lại Đấng Christ, chỉ chú trọng chạy những nhiệm vụ bề nổi. Một số người có thể cảm thấy đi theo kẻ địch lại Đấng Christ sẽ không đến đâu cả; giá như những người mưu cầu lẽ thật có thể nhóm họp và làm bổn phận cùng nhau thì vui biết mấy! Một khi kẻ địch lại Đấng Christ cầm quyền trong hội thánh, Đức Thánh Linh sẽ ngừng làm công tác, và bóng tối bao trùm các anh chị em. Việc tin Đức Chúa Trời và làm bổn phận trở nên thiếu sức sống. Nếu tình trạng này kéo dài, chẳng phải đa số các anh chị em sẽ bị Đức Chúa Trời đào thải sao?

Hôm nay, một mặt chúng ta đã mổ xẻ những biểu hiện của hành vi độc đoán chuyên quyền của kẻ địch lại Đấng Christ. Mặt khác, bằng cách mổ xẻ những biểu hiện này, mọi người đều ý thức được rằng ngay cả khi ngươi không phải là kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng nếu ngươi có những biểu hiện như vậy thì sẽ liên quan đến tính chất của kẻ địch lại Đấng Christ. Hành động theo cách độc đoán chuyên quyền có phải là một biểu hiện của nhân tính bình thường không? Chắc chắn là không; rõ ràng, đây là một biểu hiện của tâm tính bại hoại. Dù địa vị của ngươi cao đến đâu hay ngươi có thể làm bao nhiêu bổn phận, nếu ngươi có thể học thông công với người khác, thì ngươi đang giữ vững nguyên tắc lẽ thật, đó là yêu cầu tối thiểu. Tại sao lại nói rằng học thông công với người khác chính là giữ vững nguyên tắc? Nếu ngươi có thể học thông công thì chứng tỏ ngươi không xem địa vị của mình là bát cơm hoặc quá coi trọng địa vị. Dù địa vị của ngươi cao đến đâu thì ngươi cũng đang làm bổn phận. Ngươi làm việc là để làm bổn phận, chứ không phải vì địa vị. Đồng thời, khi gặp vấn đề, nếu ngươi có thể học thông công, và dù với các anh chị em bình thường hay những người ngươi cộng tác, ngươi đều có thể tìm kiếm và thông công cùng họ, thì chứng tỏ điều gì? Nó cho thấy ngươi có thái độ tìm kiếm và thuận phục lẽ thật, đó là điều đầu tiên phản ánh thái độ của ngươi đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật. Hơn nữa, làm bổn phận là trách nhiệm của ngươi, và tìm kiếm lẽ thật trong công việc là con đường ngươi nên đi theo. Còn người khác phản hồi quyết định của ngươi như thế nào, họ có thể thuận phục hay không, thuận phục như thế nào, đó là việc của họ; nhưng liệu ngươi có thể làm tốt bổn phận của mình và đạt tiêu chuẩn hay không là việc của ngươi. Ngươi phải lĩnh hội được các nguyên tắc làm bổn phận; nó không chỉ là chuyện thuận phục một cá nhân nào đó, mà là thuận phục các nguyên tắc lẽ thật. Nếu ngươi cảm thấy mình lĩnh hội được các nguyên tắc lẽ thật, và thông qua thông công với tất cả mọi người, đạt đến sự đồng thuận mà mọi người đều nhất trí là phù hợp, nhưng có một vài người ngoan cố và muốn gây rối, thì trong tình huống như vậy nên làm gì? Trong trường hợp này, thiểu số nên theo đa số. Vì đa số mọi người đã đạt được sự đồng thuận, tại sao họ lại ra gây rối? Họ đang cố tình phá hoại à? Họ có thể bày tỏ ý kiến của mình để mọi người cùng phân định, và nếu mọi người nói rằng ý kiến của họ không phù hợp với nguyên tắc và không đứng vững, thì họ nên từ bỏ quan điểm của mình, không bám vào đó nữa. Nguyên tắc xử lý chuyện này là gì? Cái gì đúng thì nên giữ vững, cái gì sai thì không nên buộc người khác thuận phục. Hiểu chưa? Thực ra, trước khi kẻ địch lại Đấng Christ bộc lộ hành vi và cách làm độc đoán chuyên quyền này, họ đã có kế hoạch riêng trong đầu rồi. Độc đoán chuyên quyền chắc chắn không nói đến việc làm điều đúng đắn hay thực hành lẽ thật, mà chắc chắn nói đến việc làm điều sai trái và vi phạm lẽ thật, đi theo con đường sai lầm và ra quyết định sai lầm, trong khi vẫn mong đợi người khác lưu tâm. Đây gọi là độc đoán chuyên quyền. Nếu điều gì là đúng đắn và hợp lẽ thật thì phải tuân theo. Đây không phải là độc đoán chuyên quyền, mà là tuân theo nguyên tắc. Nên phân biệt được hai cái này. Việc kẻ địch lại Đấng Christ độc đoán chuyên quyền chủ yếu nói đến điều gì? (Thưa, làm việc không phù hợp với nguyên tắc hoặc lẽ thật, mà vẫn bắt người khác theo.) Đúng vậy, dù tình huống nào nảy sinh hay vấn đề nào đang được xử lý, họ cũng không tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, mà ra quyết định dựa trên quan niệm và tưởng tượng riêng của mình. Trong lòng họ biết làm vậy đi ngược lại nguyên tắc, nhưng vẫn muốn người khác nghe theo và thuận phục. Đây là cách tiếp cận nhất quán của kẻ địch lại Đấng Christ.

Khi công tác mở rộng Phúc Âm mới bắt đầu, một số người đem cuốn “Lời xuất hiện trong xác thịt” tới các nhóm theo đạo để rao truyền Phúc Âm. Dân theo đạo, sau khi đọc lời Đức Chúa Trời mặc khải về những lẽ mầu nhiệm, thông công về các khải tượng và bàn về lối vào sự sống, ai cũng nói rằng rất hay. Tuy nhiên, họ thấy một số lời phán xét và vạch trần con người quá nghiêm khắc trong cách dùng từ. Họ cảm thấy như đang bị la mắng và không thể đón nhận, nói rằng: “Đức chúa trời mà có thể phán theo cách la mắng con người sao? Những lời này chắc cùng lắm là do cao nhân viết”. Người chịu trách nhiệm rao truyền Phúc Âm nói rằng anh ta có một giải pháp. Về sau, anh ta sửa đổi tất cả những phần lời Đức Chúa Trời không phù hợp với quan niệm, tưởng tượng và thị hiếu của mọi người, cũng như những lời mà anh ta sợ sẽ khiến mọi người hình thành quan niệm sau khi đọc. Chẳng hạn như những lời Đức Chúa Trời dùng để vạch trần bản tính con người, như “đĩ”, “điếm”, “kẻ vô lại”, và những cụm từ như “quẳng xuống địa ngục”, “quẳng vào hồ lửa và diêm sinh”, đều bị xóa. Tóm lại, bất kỳ từ ngữ nào có thể dễ làm nảy sinh quan niệm hoặc hiểu lầm đều bị xóa hết. Nói Ta nghe, sau khi xóa bỏ những lời phán xét, định tội và rủa sả này từ lời Đức Chúa Trời, đó có còn là lời Đức Chúa Trời nguyên gốc nữa không? (Thưa, không.) Đó có còn là những lời Đức Chúa Trời bày tỏ trong công tác phán xét của Ngài nữa không? “Ông già” này không bàn bạc với ai và xóa nhiều lời Đức Chúa Trời đặc biệt nghiêm khắc về việc tinh luyện và vạch trần những tâm tính bại hoại của con người, nhất là những lời liên quan đến thời gian thử luyện của những kẻ phục vụ. Về sau, khi những người theo đạo đọc bản sửa đổi, họ nói: “Không tệ, đức chúa trời như vậy thì chúng tôi có thể tin”, và họ đón nhận. Ông già này nghĩ bụng: “Thấy mình thông minh chưa! Lời đức chúa trời mà nghiêm khắc quá thì không khôn ngoan. Với những người đó là phải dỗ dành – làm sao ngài lại có thể nói những điều mà có thể bị hiểu nhầm là la mắng được? Như vậy không khôn ngoan! Mình sửa đổi một chút, và xem chuyện gì xảy ra này: ngay cả những mục sư trong đạo cũng sẵn sàng tin, và ngày càng nhiều người đón nhận. Thế nào? Mình chẳng khôn ngoan sao? Mình chẳng thông minh sao? Chẳng dữ dằn ra phết đấy chứ?”. Kết quả của việc anh ta sửa đổi khiến anh ta vô cùng tự hào về bản thân. Tuy nhiên, một số người theo đạo bước vào hội thánh nhận thấy lời Đức Chúa Trời mà họ đọc được trước kia bị sửa đổi và khác với nguyên bản trong hội thánh, liền đưa ra vấn đề này. Về sau mới phát hiện ra là ông già này đã thay đổi nội dung của lời Đức Chúa Trời. Các ngươi nghĩ sao về những gì ông già này làm? Chưa nói đến điều gì khác, mà chỉ nói rằng: những lời đó không phải là của ngươi, ngươi không có quyền thay đổi. Cho dù là một bài báo hay cuốn sách do con người viết, nếu ngươi muốn thay đổi, thì đầu tiên cần có được sự đồng ý của tác giả ban đầu. Nếu họ đồng ý thì ngươi có thể thay đổi. Nếu họ không đồng ý thì ngươi tuyệt đối không thể thay đổi dù chỉ một từ. Đây gọi là tôn trọng tác giả và độc giả. Nếu tác giả không có sức thực hiện sửa đổi và ủy quyền cho ngươi, nói rằng ngươi có thể thay đổi gì cũng được, chỉ cần giữ ý tứ ban đầu và đạt hiệu quả mong muốn là được, thì khi đó ngươi có thể thay đổi không? (Thưa, có.) Nếu tác giả đã đưa ra sự đồng ý hoặc ủy quyền, thì có thể thực hiện thay đổi. Loại hành vi này gọi là gì? Đó là danh chính ngôn thuận và đúng đắn, phải không nào? Nhưng nếu tác giả chưa đồng ý và ngươi thay đổi mà không được sự ủy quyền của họ thì sao? Nó gọi là gì? (Thưa, tùy ý làm bậy.) Nó gọi là tùy ý làm bậy, độc đoán chuyên quyền. Vậy ông già này đã thay đổi cái gì? (Thưa, lời Đức Chúa Trời.) Những lời nguyên gốc của Đức Chúa Trời, chứa đựng tâm tình, tâm tính và tâm ý của Đức Chúa Trời đối với nhân loại. Đức Chúa Trời phán theo cách như vậy là có ý tứ. Ngươi có biết tâm tình, mục đích và hiệu quả mong muốn đằng sau từng lời Đức Chúa Trời phán không? Nếu ngươi không thể hiểu thấu được thì tại sao lại mù quáng thay đổi? Từng câu Đức Chúa Trời phán, cách dùng từ, giọng điệu, bầu không khí, tâm tình và cảm xúc mà lời Ngài khơi dậy ở con người đều được đưa ra và cân nhắc kỹ càng. Đức Chúa Trời có sự suy tính và khôn ngoan. Ông già này nghĩ gì? Anh ta đã xem cách phán của Đức Chúa Trời là không khôn ngoan. Đó là cách anh ta nhìn nhận công tác của Đức Chúa Trời. Anh ta tin rằng: “Những người trong đạo chỉ muốn ăn bánh no bụng cần phải được dỗ dành và đối đãi bằng tình yêu thương và thương xót. Lời lẽ không được quá nghiêm khắc. Nếu quá nghiêm khắc thì làm sao rao truyền Phúc Âm được? Khi đó liệu còn mở rộng Phúc Âm được nữa không?”. Đức Chúa Trời không biết điều đó sao? (Thưa, Ngài biết.) Đức Chúa Trời biết rất rõ. Vậy tại sao Ngài vẫn phán theo cách này? Đây chính là tâm tính Đức Chúa Trời. Tâm tính Đức Chúa Trời là gì? Là phán theo cách của Ngài, dù ngươi có tin hay không. Nếu ngươi tin thì ngươi là một trong những con chiên của Đức Chúa Trời; nếu không tin thì ngươi là sói. Lời Đức Chúa Trời vạch trần ngươi và la mắng ngươi một chút, vì thế mà ngươi từ chối thừa nhận mình là người tin Đức Chúa Trời sao? Cái gì, ngươi không còn là một con người thọ tạo của Đức Chúa Trời nữa sao? Đức Chúa Trời ngừng là Đức Chúa Trời sao? Nếu vì thế mà ngươi có thể phủ nhận Đức Chúa Trời, thì ngươi là kẻ ác, là ma quỷ. Đức Chúa Trời không cứu rỗi dạng người này, nên hội thánh không nên đón nhận họ một cách cưỡng ép hoặc dỗ dành. Có những người nói: “Dù Đức Chúa Trời có la mắng, tôi cũng vui vẻ cam lòng. Nếu Ngài là Đức Chúa Trời thì Ngài có thể cứu rỗi tôi. Nếu Ngài đánh tôi thì cũng đáng thôi. Nếu Ngài gọi tôi là kẻ hồ đồ thì tôi chính là vậy, thậm chí còn hồ đồ hơn thế nữa; nếu Ngài gọi tôi là con đĩ, thì mặc dù xem ra tôi không làm những chuyện mà con đĩ làm, nhưng vì Đức Chúa Trời phán vậy nên tôi thừa nhận và đón nhận”. Họ có đức tin, sự thừa nhận và đón nhận đơn giản nhất, cũng như lòng kính sợ Đức Chúa Trời đơn giản nhất. Đức Chúa Trời muốn thu phục những người như thế. Có những người thấy lời Đức Chúa Trời quá nghiêm khắc và đau buốt, cảm thấy họ sẽ không nhận được phước lành, nên không muốn tin nữa. Họ nghĩ: “Dù ngài có là đức chúa trời đi nữa, con cũng không tin ngài. Nếu ngài phán như thế này, con sẽ không đi theo ngài”. Vậy thì cút ngay! Nếu ngươi thậm chí còn không thừa nhận Đức Chúa Trời, thì làm sao Đức Chúa Trời có thể thừa nhận ngươi là con người thọ tạo của Ngài được? Không thể nào! Lời Đức Chúa Trời được giãi bày ở đây; tin hay không là tiếng gọi của ngươi. Nếu ngươi không tin thì lên đường. Ngươi sẽ thiệt thòi. Nếu ngươi tin thì sẽ có tia hy vọng được cứu rỗi. Như vậy chẳng công bằng sao? (Thưa, phải.) Nhưng ông già này có nghĩ vậy không? Anh ta có thể nhìn thấu tâm tư của Đức Chúa Trời không? Anh ta chẳng ngu xuẩn sao? Người không có hiểu biết thuộc linh làm những chuyện ngu xuẩn như vậy. Anh ta nhận thức rằng Đức Chúa Trời rất nhỏ bé và đơn giản, cho rằng tâm tư của Đức Chúa Trời không cao hơn là bao so với tư duy của con người. Những lúc bình thường, anh ta thường nói tâm tư của Đức Chúa Trời cao hơn của con người, thuyết giảng những đạo lý lớn lao này, nhưng khi thực sự đối mặt với tình huống, thì những lời này anh ta ném vào tận xó xỉnh nào trong đầu rồi, cảm thấy những lời này của Đức Chúa Trời có vẻ không giống điều Đức Chúa Trời phán. Trong lòng anh ta không thừa nhận những lời này của Đức Chúa Trời, nên anh ta đơn giản là không thể đón nhận. Vừa đúng lúc Phúc Âm đang được rao truyền, anh ta nhân cơ hội này để thay đổi lời Đức Chúa Trời, thậm chí dưới ngọn cờ “rao truyền Phúc Âm hiệu quả và thu phục nhiều người hơn”. Cuối cùng Ta gọi hành vi của anh ta là gì? Là xuyên tạc lời Đức Chúa Trời. Xuyên tạc nghĩa là gì? Nghĩa là tùy tiện thêm, bớt hoặc sửa đổi ý tứ gốc, thay đổi ý tứ dự định của tác giả, coi thường dụng ý và mục đích phán ban đầu của tác giả, rồi tùy ý sửa đổi. Đây gọi là xuyên tạc. Anh ta có lòng kính sợ Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Thật to gan! Đây có phải là điều mà con người làm không? (Thưa, không.) Đó là công tác của ma quỷ, chứ không phải của con người. Thậm chí ngươi còn không được tùy tiện thay đổi lời của một người bình thường; ngươi phải tôn trọng quan điểm của tác giả. Nếu muốn thay đổi, ngươi cần phải thông báo trước cho họ và được sự đồng ý của họ, chỉ sau khi nhận được sự cho phép của họ, ngươi mới có thể thực hiện sửa đổi dựa trên ý tứ gốc. Đây gọi là tôn trọng. Đối với Đức Chúa Trời càng không chỉ cần tôn trọng! Nếu dù chỉ một câu trong lời Đức Chúa Trời bị in sai thôi, nếu thiếu dù chỉ một mạo từ thôi, ngươi cũng phải hỏi xem có được không; nếu không thì phải in lại trang đó. Việc này đòi hỏi một thái độ nghiêm túc và có trách nhiệm như vậy; đây gọi là có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Ông già này có tấm lòng như vậy không? (Thưa, không.) Anh ta không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Anh ta xem Đức Chúa Trời thấp hơn mình; thật cực kỳ to gan. Dạng người này nên bị khai trừ.

Gần đây cũng xảy ra một vụ việc tương tự. Có những người lại một lần nữa lấy cớ rao truyền Phúc Âm và thu phục được nhiều người hơn làm lý do để loạn đổi lời Đức Chúa Trời. Lần này khá hơn lần trước một chút; lần trước là làm độc đoán chuyên quyền, không thông công với người khác, tùy ý loạn làm, xuyên tạc lời Đức Chúa Trời. Lần này, họ hỏi Bề trên trước, nói rằng: “Những người từ một nhóm dân tộc nhất định không thể đón nhận một số thuật ngữ trong lời đức chúa trời. Chúng con đã nghĩ ra chiến lược loại bỏ hoặc thay đổi những thuật ngữ đó, và những phần câu nói hoặc đoạn trong lời đức chúa trời mà họ không thể đón nhận, sau đó thuyết giảng cho họ bằng phiên bản lời đức chúa trời được điều chỉnh riêng. Chẳng phải khi đó họ sẽ tin sao?”. Nhìn xem; họ thật to gan. Đây là dạng hành vi gì? Nếu xử lý nhẹ thì có thể đơn giản coi dạng người này là ngu xuẩn vô tri và quá non trẻ; chỉ cần bảo họ lần sau không được làm vậy nữa. Nhưng nếu chúng ta đánh giá tính chất của việc họ đã làm, thì họ đang tùy tiện sửa đổi lời Đức Chúa Trời để lấy lòng Sa-tan. Đây gọi là gì? Đây là hành vi của Giu-đa, của kẻ phản bội và phản nghịch, bán Chúa cầu vinh. Họ xuyên tạc lời Đức Chúa Trời, làm cho lời Ngài dễ nghe và vừa ý hơn với mọi người để lấy lòng họ và khiến họ đón nhận Phúc Âm – việc này chung quy lại là gì? Cho dù không có một người nào trên đất tin thì lời Đức Chúa Trời có ngừng là lời Đức Chúa Trời không? Tính chất của lời Đức Chúa Trời có thay đổi không? (Thưa, không.) Chẳng lẽ nếu họ đón nhận thì lời Đức Chúa Trời mới là lẽ thật, còn nếu họ không đón nhận thì lời Ngài không phải là lẽ thật à? Tính chất của lời Đức Chúa Trời có vì thế mà thay đổi không? Chắc chắn là không. Lẽ thật là lẽ thật; nếu ngươi không đón nhận thì ngươi bị diệt vong! Có những người rao truyền Phúc Âm nghĩ rằng: “Họ không đón nhận thật đáng thương quá! Họ là một dân tộc thật vĩ đại, cao đẹp! Đức chúa trời yêu thương và thương xót họ vô cùng, làm sao chúng ta lại có thể không tỏ chút yêu thương với họ được? Hãy cùng thay đổi lời đức chúa trời để họ có thể đón nhận. Những người đó mới tuyệt vời làm sao, đức chúa trời đối tốt và thương xót họ biết bao. Chúng ta nên quan tâm đến tâm ý của đức chúa trời!”. Đây chẳng phải là giả tạo sao? (Thưa, phải.) Lại một kẻ giả tạo nữa – những kẻ không lĩnh hội được lẽ thật chỉ có thể làm chuyện ngu xuẩn! Đã nói rồi rằng có người xuyên tạc lời Đức Chúa Trời đã bị xử lý và khai trừ, mà bây giờ lại có những kẻ muốn xuyên tạc lời Ngài. Họ đang cố gắng đạt được mục đích gì? Đây chẳng phải là bán Chúa cầu vinh sao? (Thưa, phải.) Đây chính là bán Chúa cầu vinh, lấy lòng Sa-tan. Lời Đức Chúa Trời không thực tế sao? Lời Ngài không thể được đưa ra công khai sao? Ngươi không thừa nhận lời Ngài là lẽ thật sao? Nếu ngươi không thừa nhận thì tại sao vẫn còn tin? Nếu ngươi không thể đón nhận lẽ thật thì tin Đức Chúa Trời làm gì? Như thế này không thể nào được cứu rỗi. Dù Đức Chúa Trời phán như thế nào, dù Ngài sử dụng lời lẽ nào không hợp với quan niệm của ngươi, thì Ngài vẫn là Đức Chúa Trời, và thực chất của Ngài không thay đổi. Dù ngươi có nói dễ nghe đến đâu, dù ngươi làm gì, dù ngươi cho rằng mình thiện lương, nhân từ, giàu lòng yêu thương đến đâu, thì ngươi vẫn là con người, một con người bại hoại. Ngươi không chịu thừa nhận lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và cố sửa đổi lời Đức Chúa Trời để lấy lòng Sa-tan. Đây là dạng hành vi gì? Thật đáng khinh bỉ! Ta tưởng rằng sau những mối thông công trước đây về tính chất của việc xuyên tạc lời Đức Chúa Trời, thì trong việc rao truyền Phúc Âm hiện nay sẽ không nảy sinh một vấn đề như thế lần nữa. Nhưng thật không thể tin được, vẫn có những người dám xuyên tạc và nuôi những ý nghĩ như vậy. Thái độ của những người này đối với lời Đức Chúa Trời là gì? (Thưa, bất kính.) Họ quả thực không kiêng nể gì cả! Trong lòng họ, lời Đức Chúa Trời nhẹ tựa lông hồng, không có hậu quả gì. Họ nghĩ: “Lời đức chúa trời phán thế nào cũng được; mình có thể tùy ý thay đổi lời ngài. Làm cho lời ngài hợp với quan niệm và thị hiếu của con người thì tốt hơn. Lời đức chúa trời nên như vậy!”. Những kẻ làm những chuyện như xuyên tạc lời Đức Chúa Trời có thể được liệt là kẻ địch lại Đấng Christ. Họ không kiêng nể gì cả, không lưỡng lự tùy ý xuyên tạc; họ độc đoán chuyên quyền, và có cùng tâm tính, tính chất như những kẻ địch lại Đấng Christ khác. Còn một điểm nữa: khi đối mặt với nguy hiểm hoặc khi lợi ích của bản thân bị tổn hại, thì suy nghĩ và hành động đầu tiên của họ là gì? Họ chọn điều gì? Họ chọn phản bội lợi ích của Đức Chúa Trời và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời để bảo vệ mình. Những người xuyên tạc lời Đức Chúa Trời, họ có thực sự làm vậy để rao truyền Phúc Âm hiệu quả không? Động cơ ngầm đằng sau cái gọi là hiệu quả của họ là gì? Họ muốn thể hiện tài năng và năng lực của mình, để cho mọi người thấy: “Nhìn tôi có năng lực chưa này! Thấy Phúc Âm được rao truyền hiệu quả thế nào sau khi tôi sửa đổi chưa? Các người không có kỹ năng đó đâu, thậm chí các người còn không dám suy nghĩ như thế nữa. Nhìn xem, với những suy nghĩ và hành động của tôi, thấy kết quả tôi đạt được chưa?”. Những người này xem thường lời Đức Chúa Trời và xuyên tạc lời Ngài để thỏa mãn dã tâm và dục vọng mưu cầu danh vọng, địa vị của chính mình. Chẳng phải họ có tính cách của kẻ địch lại Đấng Christ sao? Liệt họ là kẻ địch lại Đấng Christ không hề oan uổng chút nào.

Kẻ địch lại Đấng Christ độc đoán chuyên quyền, một biểu hiện khác là gì? Họ không bao giờ thông công về lẽ thật với các anh chị em, cũng không giải quyết vấn đề thực tế của mọi người. Thay vào đó, họ chỉ thuyết giảng câu chữ và đạo lý để tên lớp mọi người, thậm chí còn buộc người khác thuận phục mình. Thái độ và cách tiếp cận của họ đối với Bề trên và với Đức Chúa Trời là gì? Chính là dối trên gạt dưới. Dù trong hội thánh có vấn đề gì, họ cũng không bao giờ báo cáo bất kỳ điều gì với Bề trên. Dù làm gì, họ cũng không bao giờ hỏi Bề trên. Có vẻ như họ không có vấn đề gì cần Bề trên thông công hay chỉ đạo – mọi việc họ làm đều lén lén lút lút sau lưng. Đây gọi là ngầm thao túng, họ muốn có quyền quyết định và là người ra quyết định. Nhưng đôi khi họ cũng ngụy trang, đem những chuyện to bằng hạt vừng lên hỏi Bề trên, giả bộ là người mưu cầu lẽ thật, khiến Bề trên lầm tưởng họ tìm kiếm lẽ thật trong mọi sự cực kỳ tỉ mỉ. Thực ra, trong mọi đại sự, họ đều không bao giờ tìm kiếm sự chỉ đạo, đơn phương ra quyết định và không cho Bề trên biết. Nếu xảy ra vấn đề gì, họ càng không báo cáo, sợ ảnh hưởng đến quyền lực, địa vị hoặc thanh danh của mình. Kẻ địch lại Đấng Christ hành động độc đoán chuyên quyền; họ không bao giờ thông công với người khác và buộc người khác thuận phục mình. Nói trắng ra, những biểu hiện chính của hành vi này là làm công việc quản lý riêng; bồi đắp sự ảnh hưởng, bè phái cá nhân và những mối quan hệ của họ; mưu cầu canh bạc riêng; rồi muốn sao làm vậy, làm những việc có lợi cho mình và hành động thiếu minh bạch. Mong muốn và dục vọng khiến người khác thuận phục mình của kẻ địch lại Đấng Christ đặc biệt mãnh liệt; họ mong đợi người khác thuận phục mình như thợ săn khiến chó săn tuân lệnh, không cho phép ai phân định đúng sai, nhất định phải tuân thủ và thuận phục tuyệt đối mới được.

Có thể quan sát thấy một biểu hiện độc đoán chuyên quyền khác của kẻ địch lại Đấng Christ Đấng Christ trong kịch bản sau. Chẳng hạn như nếu lãnh đạo của một hội thánh là kẻ địch lại Đấng Christ, và giả sử các lãnh đạo, chấp sự cấp cao hơn định tìm hiểu và can thiệp vào công tác của hội thánh đó, thì kẻ địch lại Đấng Christ này có đồng ý không? Chắc chắn là không. Anh ta khống chế hội thánh đến mức độ nào? Giống như tường đồng vách sắt, châm cắm không vào, nước tạt không lọt, anh ta không cho ai khác tham dự hoặc thẩm vấn. Khi biết các lãnh đạo và chấp sự sắp đến để tìm hiểu công việc, anh ta nói với các anh chị em rằng: “Tôi không biết mục đích những người này đến đây làm gì. Họ không hiểu tình hình thực tế của hội thánh chúng ta. Nếu họ can thiệp, họ có thể làm nhiễu loạn công tác của hội thánh chúng ta”. Đó chính là cách anh ta mê hoặc các anh chị em. Một khi các lãnh đạo và chấp sự đến, anh ta tìm các loại lý do và cái cớ để ngăn các anh chị em tiếp xúc với họ, trong khi đạo đức giả tiếp đãi các lãnh đạo và chấp sự, giữ họ tách biệt ở một nơi dưới chiêu bài đảm bảo an toàn cho họ; nhưng thực ra là để ngăn họ gặp và tìm hiểu tình hình từ các anh chị em. Khi các lãnh đạo và chấp sự hỏi về tình hình công tác, kẻ địch lại Đấng Christ liền giở trò dối trá, lừa trên gạt dưới, nói chuyện thêm thắt và thổi phòng hiệu quả công việc để lừa dối họ. Khi các lãnh đạo và chấp sự đề nghị gặp gỡ các anh chị em của hội thánh, thì anh ta đáp: “Tôi chưa sắp xếp gì cả! Anh không báo trước khi đến. Nếu có thì tôi đã sắp xếp cho một số anh chị em gặp anh rồi. Nhưng bây giờ hoàn cảnh ác liệt, vì lý do an toàn, tốt hơn các anh chị không nên gặp các anh chị em”. Mặc dù lời anh ta nghe có vẻ hợp lý, nhưng người biết phân định có thể phát hiện ra vấn đề: “Anh ta không muốn các lãnh đạo và chấp sự gặp các anh chị em bởi vì anh ta sợ bị lộ, sợ những thiếu sót và sai lệch trong công việc của mình lộ ra”. Kẻ địch lại Đấng Christ không chế chặt chẽ các anh chị em của hội thánh. Nếu các lãnh đạo và chấp sự không có trách nhiệm, họ có thể dễ dàng bị kẻ địch lại Đấng Christ lừa dối, lừa gạt. Tình hình thực tế của các anh chị em hội thánh, những khó khăn tồn đọng của họ, liệu các mối thông công và bài giảng của Bề trên cũng như các sách lời Đức Chúa Trời có được phát kịp thời cho các anh chị em hay không, các dự án công việc khác nhau của hội thánh đang tiến triển thế nào, liệu có sai lệch hay vấn đề gì không – tất cả những điều này, các lãnh đạo và chấp sự sẽ không biết. Các anh chị em cũng không biết gì về bất kỳ sự sắp xếp công việc mới nào trong nhà Đức Chúa Trời. Như thế, kẻ địch lại Đấng Christ hoàn toàn không chế hội thánh, độc chiếm quyền lực và có quyền quyết định trong mọi sự. Các anh chị em hội thánh không có cơ hội tiếp xúc với các lãnh đạo, chấp sự cấp cao hơn, và không biết chân tướng sự thật; họ bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và khống chế. Các lãnh đạo và chấp sự thanh tra này, dù kẻ địch lại Đấng Christ nói thế nào, cũng không biết phân định và vẫn nghĩ kẻ địch lại Đấng Christ đang làm tốt công việc, đặt trọn lòng tin vào anh ta. Điều này tương đương với giao phó dân được chọn của Đức Chúa Trời cho kẻ địch lại Đấng Christ phụ trách. Trong khi bị kẻ địch lại Đấng Christ lừa dối, nếu các lãnh đạo và chấp sự không biết phân định, vô trách nhiệm và không biết cách xử lý, thì chẳng phải nó sẽ cản trở công tác của hội thánh và làm hại dân được chọn của Đức Chúa Trời sao? Dạng lãnh đạo và chấp sự này chẳng phải chính là lãnh đạo, chấp sự giả sao? Đối với hội thánh bị kẻ địch lại Đấng Christ khống chế, các lãnh đạo và chấp sự phải can thiệp, thẩm vấn, đồng thời cần kịp thời xử lý và loại bỏ kẻ địch lại Đấng Christ – điều này là chắc chắn. Nếu có lãnh đạo giả không làm công việc thực tế và làm ngơ việc kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc dân được chọn của Đức Chúa Trời, thì dân được chọn nên vạch trần những lãnh đạo và chấp sự giả này, tố giác, bãi nhiệm và thay thế họ bằng lãnh đạo tốt. Chỉ có cách này mới giải quyết triệt để được vấn đề kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc mọi người. Một số người có thể nói: “Những lãnh đạo và chấp sự như thế có thể có tố chất kém và thiếu khả năng phân định, nên mới không xử lý và giải quyết được vấn đề kẻ địch lại Đấng Christ. Họ không cố ý làm vậy; chẳng phải nên cho họ thêm một cơ hội sao?”. Đối với dạng lãnh đạo hồ đồ này, không nên cho thêm cơ hội nào nữa. Nếu được cho thêm cơ hội, họ chỉ có tiếp tục làm hại dân được chọn của Đức Chúa Trời mà thôi. Đó là bởi họ không phải là người mưu cầu lẽ thật; họ không có lương tâm, lý trí, và làm việc vô nguyên tắc – họ là kẻ tiểu nhân hèn hạ nên bị đào thải! Trong hai năm qua, có những anh chị em trong một số hội thánh đã hợp lại sa thải, thay thế và đào thải các lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ không làm công việc thực tế như thế. Đó chẳng phải là chuyện tốt sao? (Thưa, phải.) Ta rất vui khi nghe những tin tốt lành như thế; đó là bằng chứng thuyết phục nhất cho thấy dân được chọn của Đức Chúa Trời đang trưởng thành trong sự sống và bước vào con đường tin Đức Chúa Trời đúng đắn. Nó cho thấy mọi người đã có chút phân định và vóc giạc, không còn bị những ma quỷ lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ khống chế nữa. Những lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ thông thường không còn có thể mê hoặc hoặc khống chế dân được chọn của Đức Chúa Trời nữa, họ không còn bị địa vị hoặc quyền lực kìm kẹp nữa. Họ có can đảm để phân định và vạch trần lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ, dám trục xuất và sa thải lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ. Thực ra, dù là lãnh đạo, chấp sự, hay người bình thường trong dân được chọn của Đức Chúa Trời, hết thảy đều có địa vị ngang nhau trước Đức Chúa Trời, chỉ khác nhau về bổn phận. Trong nhà Đức Chúa Trời không có sự phân biệt về địa vị, chỉ khác nhau về bổn phận và trách nhiệm. Khi gặp phải lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ làm nhiễu loạn công tác của hội thánh, cả lãnh đạo và chấp sự, cũng như dân được chọn của Đức Chúa Trời, đều nên vạch trần và tố giác họ, kịp thời xử lý họ, khai trừ kẻ địch lại Đấng Christ khỏi hội thánh. Trách nhiệm này là như nhau và thuộc về tất cả mọi người.

Kẻ địch lại Đấng Christ độc đoán chuyên quyền, không bao giờ thông công với người khác và phải có quyền quyết định trong mọi sự – chẳng phải những vấn đề này đều có thể thấy rõ sao? Thông công với người khác và tìm kiếm nguyên tắc không phải là hình thức, không phải là làm cho có; mục đích là gì? (Thưa, để thực hiện bổn phận có nguyên tắc và để có con đường thực hiện bổn phận.) Đúng vậy; đó là để có thể thực hiện bổn phận có nguyên tắc và con đường. Yêu cầu của Đức Chúa Trời là gì, và quy định của nhà Đức Chúa Trời là gì? Chỉ có tìm kiếm lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời và hiểu nguyên tắc mới có thể thực hiện bổn phận hiệu quả được. Nếu thông công về lẽ thật để giải quyết vấn đề thì nên sử dụng cách tiếp cận nào? Cần những người nào tham gia? Nên chọn những người phù hợp; nên thông công chủ yếu với một số người tố chất tốt có thể lĩnh hội được lẽ thật, vì như vậy sẽ có hiệu quả. Đây là điều cốt yếu. Nếu chọn những người hồ đồ, tố chất kém, thiếu lý trí, dù có thảo luận bao nhiêu cũng không thể lĩnh hội hay đạt đến lẽ thật, thì ngay cả khi thông công muôn vàn lẽ thật cũng không có kết quả gì. Bất kể vấn đề nào nảy sinh trong hội thánh, dân được chọn của Đức Chúa Trời cũng phải có quyền được thông tin và nên biết tình hình công tác của hội thánh cũng như các vấn đề tồn tại. Nếu các lãnh đạo và chấp sự dối trên lừa dưới, sử dụng những thủ đoạn để khiến người khác mơ hồ, thì dân được chọn của Đức Chúa Trời có quyền vạch trần và tố giác họ, hoặc báo cáo tình hình lên trên. Đây cũng là bổn phận và nghĩa vụ của dân được chọn của Đức Chúa Trời. Có những lãnh đạo giả làm việc độc đoán chuyên quyền, khống chế dân được chọn của Đức Chúa Trời trong hội thánh. Đây là chống đối và chống lại Đức Chúa Trời, là cách làm nhất quán của kẻ địch lại Đấng Christ. Nếu dân được chọn của Đức Chúa Trời không vạch trần và tố giác chuyện này, và công tác của hội thánh bị cản trở hoặc trì trệ, thì không chỉ các lãnh đạo và chấp sự phải chịu trách nhiệm, mà cả dân được chọn của Đức Chúa Trời cũng phải chịu trách nhiệm, bởi vì khi các lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ cầm quyền trong hội thánh, người chịu khổ chính là dân được chọn của Đức Chúa Trời, có nguy cơ mất cơ hội được cứu rỗi. Cho nên, dân được chọn của Đức Chúa Trời có quyền và trách nhiệm tố giác cũng như vạch trần lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ, điều đó có lợi cho công tác của hội thánh và lối vào sự sống của dân được chọn của Đức Chúa Trời. Có những lãnh đạo và chấp sự nói: “Các anh chị em đều nói tôi độc đoán chuyên quyền, phải không? Lần này tôi sẽ không như vậy nữa. Tôi sẽ để cho mọi người bày tỏ quan điểm. Một ngày, hai ngày – các anh chị em chia sẻ bao lâu cũng được, tôi sẽ đợi”. Đôi khi gặp phải vấn đề đặc biệt, bàn cãi nhiều ngày cũng không ra giải pháp, và họ cứ chờ đợi. Họ chờ đợi cho đến khi tất cả mọi người đều đạt đến sự đồng thuận, rồi mới tiến hành công việc, mà như vậy có thể gây chậm trễ nghiêm trọng. Nó cản trở công việc rất nhiều; đây rõ ràng là một biểu hiện của vô trách nhiệm. Nếu không thể ra quyết định thì làm sao một lãnh đạo hoặc chấp sự có thể quản lý công tác của hội thánh hiệu quả được? Trong công tác của hội thánh, trong khi các lãnh đạo và chấp sự có thẩm quyền ra quyết định, thì các anh chị em có quyền được thông tin. Nhưng cuối cùng, lãnh đạo và chấp sự mới là người phải ra quyết định. Nếu một lãnh đạo hoặc chấp sự không thể ra quyết định, thì tố chất quá kém và không phù hợp với vai trò lãnh đạo. Cho dù làm lãnh đạo, họ cũng không thể làm công việc thực tế hoặc thực hiện đầy đủ bổn phận được. Có những lãnh đạo và chấp sự, một vấn đề thôi mà tranh luận trong một thời gian dài không đưa ra được quyết định, và cuối cùng cứ ai lợi hại liền nghe theo. Cách tiếp cận này có nguyên tắc không? (Thưa, không.) Đó là dạng lãnh đạo gì? Đó chỉ là dạng hồ đồ. Nếu ngươi nói: “Kẻ địch lại Đấng Christ độc đoán chuyên quyền, và tôi sợ trở thành kẻ địch lại Đấng Christ; tôi không muốn đi con đường địch lại Đấng Christ. Tôi sẽ đợi tất cả mọi người bày tỏ quan điểm rồi mới kết luận và tổng kết ra cách tiếp cận vừa phải để quyết định” – thì như vậy có được không? (Thưa, không.) Tại sao không? Nếu kết quả không phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật, thì cho dù ngươi có tiến hành như vậy cũng có thể hiệu quả được không? Nó có thể làm hài lòng Đức Chúa Trời không? Nếu nó không hiệu quả và không làm hài lòng Đức Chúa Trời, thì vấn đề này nghiêm trọng. Không làm việc theo các nguyên tắc lẽ thật, thực hiện bổn phận vô trách nhiệm, làm qua loa chiếu lệ, và làm việc theo triết lý của Sa-tan, là bất trung với Đức Chúa Trời. Đó là lừa dối Đức Chúa Trời! Để tránh bị nghi ngờ hoặc đánh giá là kẻ địch lại Đấng Christ, ngươi trốn tránh trách nhiệm phải thực hiện và sử dụng cách tiếp cận “thỏa hiệp” theo triết lý của Sa-tan. Kết quả là ngươi làm hại dân được chọn của Đức Chúa Trời và ảnh hưởng đến công tác của hội thánh. Chẳng phải đây là vô nguyên tắc sao? Chẳng phải như vậy là ích kỷ và đê tiện sao? Là lãnh đạo hoặc chấp sự, ngươi phải nói và làm có nguyên tắc, thực hiện bổn phận có hiệu quả và hiệu suất. Cách nào có lợi cho công tác của nhà Đức Chúa Trời và phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật thì nên làm. Chẳng hạn như mua đồ cho hội thánh phải tính đến hiệu quả thực tế. Món đồ nên có giá cả hợp lý và thực dụng. Nếu ngươi tiêu xài bậy bạ, vô nguyên tắc, thì có thể gây tổn thất cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và của lễ của Đức Chúa Trời. Các ngươi sẽ xử lý tình huống như vậy thế nào? (Thưa, tìm kiếm sự hướng dẫn từ Bề trên.) Tìm kiếm sự hướng dẫn từ Bề trên là một cách. Ngoài ra, đừng lười biếng. Hãy nghiên cứu kỹ lưỡng, tìm hiểu sâu rộng, hỏi thêm xung quanh, hiểu chi tiết và chuẩn bị đầy đủ; khi đó có lẽ sẽ có thể tìm được một giải pháp tương đối phù hợp. Nếu không làm công tác chuẩn bị cơ bản này, không hiểu chi tiết mà tùy tiện làm, cuối cùng lãng phí rất nhiều tiền, thì gọi là gì? Đó gọi là qua loa chiếu lệ. Có những người làm bổn phận kiểu này, làm không có sự minh bạch. Họ chỉ báo cáo một nửa, giấu một nửa, bởi vì họ cảm thấy nếu họ hoàn toàn minh bạch sẽ tự chuốc rắc rối vào thân, sẽ bị yêu cầu nghiên cứu và hoàn thiện thêm. Vì thế, họ đơn giản là giấu người khác tình hình thực tế và thông tin chi tiết, mau mau hoàn thành nhiệm vụ, rồi xin nhà Đức Chúa Trời thanh toán. Nhưng khi kiểm tra thì nhiệm vụ không đạt tiêu chuẩn và cần phải làm lại, lại tốn không ít tiền. Như thế chẳng phải gây tổn hại cho nhà Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải đây là hành vi của Giu-đa sao? (Thưa, phải.) Hành vi của Giu-đa chính là chuyên phản bội lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Khi đối mặt với tình huống, dạng người này đứng về phía người ngoài hội thánh, chỉ quan tâm đến xác thịt bản thân và không mảy may nghĩ gì đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Họ có bất kỳ lòng trung thành nào với Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Không hề có một chút lòng thành nào. Họ lấy việc phản bội lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và làm tổn hại công tác của hội thánh làm vui – đây chính là hành vi của Giu-đa. Ngoài ra còn một loại tình huống: có những bổn phận liên quan đến tri thức nghiệp vụ hoặc chuyên môn trong những lĩnh vực khác mà có thể mọi người đều lạ lẫm. Trong những trường hợp đó, ngươi không được né tránh rắc rối. Trong thời đại thông tin phong phú này, ngươi không nên lười biếng, mà phải tích cực tìm kiếm dữ liệu và thông tin liên quan. Bắt đầu bằng cách có được những thông tin cơ bản nhất, ngươi sẽ dần có được hiểu biết cơ bản về nghiệp vụ hoặc lĩnh vực đó, rồi từng bước tìm hiểu về các khía cạnh khác trong phạm vi lĩnh vực đó, dù là dữ liệu hay các thuật ngữ chuyên môn khác nhau, để cho mình cơ bản quen thuộc với nó. Sau khi đạt đến trình độ này, chẳng phải nó sẽ ích lợi hơn cho việc giúp ngươi thực hiện bổn phận đầy đủ và trung thành sao? (Thưa, phải.) Vậy thì khi thực hiện bổn phận, mục đích của hết thảy những công tác chuẩn bị này là gì? Nghiên cứu, hiểu chi tiết, sau đó tìm ra giải pháp khả thi thông qua thông công và thảo luận, đều nằm trong sự chuẩn bị để thực hiện đầy đủ bổn phận. Làm tốt những công tác chuẩn bị này thể hiện lòng trung thành trong việc thực hiện bổn phận; đồng thời phơi bày những ai qua loa chiếu lệ. Còn thái độ khi thực hiện bổn phận của người không tin và người không thành tâm dâng mình cho Đức Chúa Trời thì thế nào? Họ hoàn toàn qua loa chiếu lệ; dù mua gì cho hội thánh cũng xài tiền bậy bạ theo ý mình, mà không tìm kiếm hướng dẫn từ Bề trên, nghĩ rằng cái gì mình không hiểu. Kết quả là họ làm lãng phí tiền bạc của nhà Đức Chúa Trời. Chẳng phải họ là phá gia chi tử, điềm báo tai họa sao? Họ gây thiệt hại cho của lễ của Đức Chúa Trời, mà thậm chí còn không nhận ra mình đang hành ác và chống đối Đức Chúa Trời; lòng họ không cảm thấy mảy may chút ân hận nào. Chỉ khi bị dân được chọn của Đức Chúa Trời vạch trần và phân định, bị biểu quyết thanh trừ và khai trừ, họ mới có chút ý thức và bắt đầu hối tiếc. Họ không nhận ra hành động của mình lại có những hậu quả nghiêm trọng như vậy – thật sự là chưa thấy quan tài chưa đổ lệ! Dạng người này đa phần là kẻ ngu, đầu óc thiếu muối, nhưng lại mong ước làm lãnh đạo và chấp sự, thực hiện nhiệm vụ cho nhà Đức Chúa Trời. Họ giống như heo thoa son – cực kỳ vô liêm sỉ. Những người này là kẻ chẳng tin; dù có tin bao nhiêu năm cũng không lĩnh hội được lẽ thật. Thế nhưng họ vẫn muốn làm lãnh đạo và chấp sự trong nhà Đức Chúa Trời, luôn muốn cầm quyền và có quyền quyết định – chẳng phải họ mặt dày vô liêm sỉ sao? Tại sao lại coi dạng người này là kẻ chẳng tin? Đó là bởi vì dù đã tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm và nghe nhiều bài giảng như vậy mà họ vẫn không lĩnh hội được lẽ thật và không thể đưa bất kỳ lẽ thật nào vào thực hành, vì thế họ là kẻ chẳng tin. Trong các ngươi có ai bộc lộ những hành vi này không? Ai có giơ tay. Tất cả à? Vậy thì các ngươi đều là kẻ chẳng tin, và đó là một vấn đề nghiêm trọng. Những người thật lòng tin Đức Chúa Trời, nếu nghe giảng lâu dài sẽ lĩnh hội được chút lẽ thật và có chút tiến bộ, trở nên đáng tin cậy hơn trong lời nói và hành động. Nếu ai nghe giảng trong nhiều năm mà không có chút tiến bộ nào thì chính là kẻ hồ đồ, súc sinh, kẻ chẳng tin. Có những người, trong ba đến năm tin Đức Chúa Trời, lĩnh hội được khá nhiều và có thể tìm kiếm lẽ thật trong lời nói và hành động của mình. Nếu họ để ý thấy thiếu sót trong việc thực hiện bổn phận của mình hoặc gây ra thiệt hại nào đó cho nhà Đức Chúa Trời, thì cảm thấy rất đau khổ, tự trách mình và thù hận mình; họ cảm thấy những sai lầm nhất thời, sự nhất thời thiếu trung thành, lười biếng hoặc tham hưởng an nhàn xác thịt của mình đã dẫn đến những thiếu sót lớn như thế, gây ra thiệt hại lớn như thế, và vì thế họ thù hận mình. Dạng người có lòng ân hận này còn có chút nhân tính và có thể đạt đến mức độ được cứu rỗi. Nếu ai mà sau nhiều năm nghe giảng vẫn không lĩnh hội được bất kỳ lẽ thật nào, không ngừng phạm sai lầm khi làm bổn phận, luôn tạo rắc rối cho nhà Đức Chúa Trời và gây thiệt hại cho công tác của hội thánh, thậm chí còn không có lòng ân hận, thì dạng người này không hề có chút nhân tính nào, còn tệ hơn heo chó. Họ còn có thể thực hiện tốt bổn phận được không? Dù họ có thực hiện bổn phận thì cũng qua loa chiếu lệ và sẽ không được Đức Chúa Trời khen ngợi.

Có những người, khi nói chuyện, luôn nói nhà Đức Chúa Trời là “nhà ta”, khi trò chuyện liên tục nhắc đến “nhà ta”. Họ nói từ đó mới ngọt làm sao! “Nhà ta” mà họ nói đến này là gì? Chỉ có nhà Đức Chúa Trời, gia đình Đức Chúa Trời, hội thánh thôi. Luôn nói “nhà ta” có phù hợp không? Ta nghe cảm giác không phù hợp. Từ “nhà ta” có thể được sử dụng, nhưng nó chỉ phù hợp nếu nói đúng với thực tế. Nếu ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật, nếu ngươi thường xuyên thực hiện bổn phận qua loa chiếu lệ, không hề giữ vững công tác của hội thánh, không hề xem trọng công tác của hội thánh, mà cứ luôn nói “nhà ta”, thì không phù hợp. Nó có chút giả dối và giả vờ, khiến người ta thấy phản cảm, chán ghét. Nhưng nếu ngươi là người thực sự có thực tế lẽ thật và giữ vững công tác của hội thánh, thì nói nhà Đức Chúa Trời là “nhà ta” còn có thể chấp nhận được. Người khác nghe cảm giác chân thực, không giả dối, và họ sẽ xem ngươi là một anh chị em, yêu quý và ngưỡng mộ ngươi. Nếu trong lòng ngươi không yêu lẽ thật, cũng không đón nhận lẽ thật, và làm bổn phận vô trách nhiệm, thì đừng nói nhà Đức Chúa Trời là “nhà ta”. Ngươi nên sốt sắng mưu cầu lẽ thật, thực hiện tốt bổn phận của mình và có thể bảo vệ công tác của hội thánh, để dân được chọn của Đức Chúa Trời cảm thấy ngươi là người của nhà Đức Chúa Trời. Như vậy, khi ngươi nói “nhà ta”, người nghe liền cảm giác thân thiết, không có chút phản cảm nào, bởi vì trong lòng, ngươi thực sự xem nhà Đức Chúa Trời như nhà của chính mình, và khi thực hiện bổn phận, ngươi thực sự có trách nhiệm và giữ vững công tác của hội thánh. Khi ngươi nói “nhà ta”, nó nghe hoàn toàn xứng đáng mà không có một chút giả dối nào. Nếu không thể hiện trách nhiệm với công tác của hội thánh, làm bổn phận nào cũng qua loa chiếu lệ, thậm chí còn không buồn nhặt đồ rơi dưới đất lên, không buồn lau dọn phòng dơ bẩn hay dọn tuyết, dọn sân mùa đông, trông không giống người nhà Đức Chúa Trời, mà như người ngoài, thì dạng người này có đủ tư cách gọi nhà Đức Chúa Trời là “nhà ta” không? Họ chỉ đơn thuần là người phục vụ, cộng tác viên, người không có sự sống thuộc về Sa-tan, chứ không hề thuộc về nhà Đức Chúa Trời. Và họ vẫn còn thường xuyên trơ trẽn nói nhà Đức Chúa Trời là “nhà ta”, hễ mở miệng là nói vậy, nói một cách rất thân thiết, gọi các anh chị em một cách vô cùng ấm áp – nhưng lại không xử lý bất kỳ nhiệm vụ thực tế nào. Khi đảm đương nhiệm vụ, họ phạm sai lầm, gây tổn hại cho nhà Đức Chúa Trời. Chẳng phải họ chỉ là kẻ đạo đức giả sao? Dạng người này hoàn toàn vô đạo đức, không có bất kỳ lương tâm hay lý trí nào. Là người tin Đức Chúa Trời, những phẩm chất cơ bản nhất mà người ta nên có là lương tâm và lý trí, cũng như có thể đón nhận lẽ thật. Nếu ngay cả lương tâm và lý trí còn không có, và hoàn toàn không đón nhận lẽ thật, thì có còn xứng đáng gọi nhà Đức Chúa Trời là “nhà ta” không? Họ chỉ là cộng tác viên, là người phục vụ; họ thuộc về Sa-tan và gần như không liên quan đến nhà Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không thừa nhận dạng người này; trong mắt Ngài, họ là kẻ ác. Nhiều người tin Đức Chúa Trời nhưng lại không hề mưu cầu lẽ thật, tỏ ra thờ ơ với công chuyện của nhà Đức Chúa Trời. Họ thấy vấn đề nhưng làm ngơ, sao nhãng trách nhiệm, tránh xa các anh chị em gặp khó khăn, và không tỏ ra thù hận đối với những kẻ làm chuyện xấu và gây tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời hoặc phá hoại công tác của hội thánh. Họ không có nhận thức trong những chuyện đúng sai rành rành; dù chuyện gì xảy ra trong nhà Đức Chúa Trời cũng không liên quan gì đến họ. Họ có xem nhà Đức Chúa Trời như nhà của chính mình không? Rõ ràng là không. Những người này không đủ tư cách gọi nhà Đức Chúa Trời là “nhà ta”; ai gọi như vậy chỉ là kẻ đạo đức giả. Người nào đủ tư cách nói “nhà ta”? Gần đây Ta để ý thấy một số người quả thực không tệ, mặc dù đương nhiên họ chỉ là thiểu số. Dù lĩnh hội được bao nhiêu lẽ thật, hay có vóc giạc hoặc đức tin lớn đến đâu, thì những người này cũng thực sự tin Đức Chúa Trời, có thể đàm đương những nhiệm vụ thực tế và làm bổn phận nào cũng thực sự có trách nhiệm – họ còn có chút hình người. Chỉ những người như vậy mới có thể thực sự được coi là người của nhà Đức Chúa Trời. Khi họ nói “nhà ta”, người nghe cảm giác ấm áp và thực sự chân thành. Chẳng hạn như hội thánh cần một chiếc bàn, nếu mua thì có giá tầm sáu, bảy trăm đô la. Có những anh chị em nói: “Giá đấy đắt quá. Chúng ta có thể tiết kiệm nhiều tiền bằng cách mua gỗ về tự đóng. Dùng cũng tốt như thế, không khác gì cả”. Nghe vậy, trong lòng Ta cảm thấy thế nào? Ta có chút cảm động: “Những người này không tệ; họ biết tiết kiệm tiền cho nhà Đức Chúa Trời”. Những người như thế tốt hơn nhiều so với những người phung phí của lễ, ít nhất họ cũng có chút lương tâm và lý trí, có chút tình người. Có những người gây thiệt hại hàng trăm, hàng ngàn đô la cho nhà Đức Chúa Trời mà không hề ý thức được, thậm chí còn nói chuyện đó không liên quan đến họ, không cảm thấy chút trách cứ nào trong lòng. Mặt khác, lại có những người nói rằng: “Dù tiết kiệm được mười hay tám đô cũng quý. Chúng ta không nên tiêu tiền không cần thiết vào những cái mình có thể tự giải quyết. Chỗ nào tiết kiệm được thì nên tiết kiệm. Không cần thiết tiêu thì không cần tiêu. Chúng ta chịu khổ cực, vất vả một chút cũng là phải”. Chỉ những người có thể nói những điều như thế mới là người có lương tâm và lý trí, có nhân tính bình thường, và thực sự một lòng với nhà Đức Chúa Trời. Những người này có thể đường đường chính chính gọi nhà Đức Chúa Trời là “nhà ta” bởi vì họ quan tâm đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Có những người không mảy may nghĩ đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Có phải họ không biết quan tâm không? Với cuộc sống của chính họ, thì họ cực kỳ tằn tiện, chắt bóp từng xu một, luôn muốn mua những đồ rẻ nhất và thực dụng nhất, tiết kiệm hết mức có thể, thậm chí kỳ kèo trả giá, tính toán từng ly từng tý, rõ ràng rất giỏi quản lý cuộc sống. Nhưng khi làm việc cho nhà Đức Chúa Trời, họ lại không hành động như vậy. Khi sử dụng tiền của nhà Đức Chúa Trời, họ vung tay quá trán, tiêu xài tùy thích, như thể không tiêu thì phí. Đây chẳng phải là dấu hiệu của một nhân cách quá tệ sao? Dạng người này cực kỳ ích kỷ, không mảy may quan tâm đến nhà Đức Chúa Trời, chỉ tìm cách thỏa mãn bản thân. Họ hy vọng trà trộn vào thiên quốc và có được phước lành lớn lao với cái giá thấp nhất. Dạng người ích kỷ và đê tiện này vẫn còn nuôi những dã tâm, dục vọng to lớn như thế, cho thấy sự khiếm khuyết nghiêm trọng trong nhân cách đạo đức của họ!

Bây giờ trong mối thông công, về cơ bản chúng ta đã nói đầy đủ về biểu hiện này của kẻ địch lại Đấng Christ là họ hành xử kỳ dị và độc đoán chuyên quyền, phải không? (Thưa, phải.) Vậy hãy cùng tổng kết. Kẻ địch lại Đấng Christ làm việc kỳ dị, và độc đoán chuyên quyền, là hai hành vi phổ biến của họ, tuy khác biệt nhưng nghiêm trọng ngang nhau và đồng tồn tại. Biểu hiện này phơi bày hai tâm tính chính của kẻ địch lại Đấng Christ – tà ác và hung ác; họ vừa tà ác, vừa hung ác. Đôi khi ngươi có thể không thấy mặt hung ác, nhưng có thể thấy mặt tà ác của họ. Họ có thể làm việc nhu hòa, khiến mọi người khó mà thấy được bất kỳ hành vi ép buộc hay dã man nào của họ. Bề ngoài họ trông không hung dữ, cũng không ép buộc ngươi làm gì cả, nhưng họ gài bẫy ngươi thông qua những thủ đoạn tà ác khác, lùa người vào vòng khống chế của họ, khiến ngươi phục vụ cho mục đích của họ – và thế là bị họ lợi dụng. Tự lúc nào không hay, ngươi rơi vào bẫy của họ, sẵn lòng thuận phục sự thao túng và đùa giỡn của họ. Tại sao họ lại có thể gây ra những hậu quả như thế? Kẻ địch lại Đấng Christ thường sử dụng những phát ngôn và câu nói đúng đắn để dạy bảo ngươi, giáo hóa ngươi, xui khiến ngươi làm một số chuyện, khiến ngươi cảm thấy rằng mọi điều họ nói đều đúng đắn, rằng ngươi nên thực hiện và nên làm theo cách này, nếu không ngươi sẽ cảm thấy như mình đi ngược lại lẽ thật, cảm thấy việc bất tuân họ đồng nghĩa với phản nghịch Đức Chúa Trời. Khi làm vậy, ngươi sẵn lòng vâng phục họ. Kết quả cuối cùng của việc này là gì? Mặc dù làm theo lời họ và thực hành những gì họ nói, nhưng mọi người có lĩnh hội được lẽ thật không? Mối quan hệ của mọi người với Đức Chúa Trời ngày càng gần gũi hay ngày càng xa cách? Khi đối mặt với tình huống, mọi người không những không đến trước Đức Chúa Trời và cầu nguyện với Ngài, mà còn không biết cách tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời, cũng không biết cách nắm bắt tâm ý và yêu cầu của Đức Chúa Trời. Thay vào đó, họ lại có một phán ngôn không thể tin nổi: “Tôi đã tin Đức Chúa Trời rất nhiều năm rồi, chủ yếu dựa vào lãnh đạo để được nâng đỡ, cung dưỡng. Dù chuyện gì xảy đến cũng chỉ cần lãnh đạo thông công là luôn có con đường để đi. Không có lãnh đạo, không được”. Họ đã tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm mà vóc giạc của họ chỉ ngần đó, vẫn không thể hoạt động nếu thiếu lãnh đạo. Như vậy chẳng phải rất đáng thương sao? Hàm ý ở đây là gì? Hàm ý là họ không biết cách cầu nguyện với Đức Chúa Trời, nương cậy nơi Đức Chúa Trời, ngưỡng vọng Đức Chúa Trời, hoặc ăn uống lời Đức Chúa Trời. Hết thảy những việc này đều phải có sự nâng đỡ của lãnh đạo thì họ mới hiểu; lãnh đạo có thể thay thế Đức Chúa Trời mà họ tin. Có thể nói rằng đức tin nơi Đức Chúa Trời của dạng người này thực ra là đức tin nơi lãnh đạo của họ. Lãnh đạo nói gì họ cũng nghe, nói gì họ cũng tin. Họ đang thực sự tin, đi theo và vâng phục ai – Đức Chúa Trời hay lãnh đạo? Chẳng phải đây chỉ là những người theo đạo tin Chúa trên danh nghĩa, nhưng thực tế lại tin, đi theo và trông cậy vào mục sư của mình sao? Đây chẳng phải là bị con người khống chế sao? Ngươi tôn sùng lãnh đạo, nghe theo họ trong mọi sự. Đây là tin và đi theo con người, bị con người kìm kẹp và khống chế. Đức Chúa Trời đã phán rất rõ ràng, vậy mà ngươi không thể hiểu được lời Ngài, cũng không biết cách thực hành lời Ngài, nhưng ma quỷ và Sa-tan nói vài lời thôi là ngươi hiểu sao? Thực ra ngươi hiểu cái gì? Đôi khi ngươi hiểu một quy định hoặc đạo lý – nó có tính là lĩnh hội lẽ thật không? (Thưa, không.) Đó không phải là lĩnh hội lẽ thật, mà là bị mê hoặc. Chính xác là vậy.

Trong biểu hiện của việc kẻ địch lại Đấng Christ hành xử kỳ dị và độc đoán chuyên quyền, những tâm tính chính của họ là tà ác và hung ác. Sự tà ác của họ biểu hiện ở đâu? Nó biểu hiện ở hành vi kỳ dị của họ. Còn sự hung ác của họ biểu hiện ở đâu? (Thưa, ở sự độc đoán chuyên quyền.) Nó chủ yếu biểu hiện ở sự độc đoán chuyên quyền và buộc người khác thuận phục mình; sự ép buộc của họ truyền tải tâm tính hung ác. Đức Chúa Trời yêu cầu con người thuận phục Ngài và lẽ thật. Cách làm việc của Đức Chúa Trời là gì? Sau khi Đức Chúa Trời bày tỏ lời Ngài, Ngài cho con người biết điều quan trọng nhất khi tin Đức Chúa Trời là họ nên thuận phục lẽ thật và lời Đức Chúa Trời. Ngươi biết lẽ thật này, biết rằng câu này đúng, nhưng về việc ngươi có thuận phục hay không, và thuận phục như thế nào, thì thái độ của Đức Chúa Trời là gì? Ngươi có sự tự do ý chí, có quyền lựa chọn. Nếu muốn thuận phục thì ngươi thuận phục; nếu không muốn thuận phục thì ngươi không phải thuận phục. Tuy nhiên, việc không thuận phục có thể dẫn đến hậu quả gì? Đức Chúa Trời dò xét điều gì ở con người, và Ngài kết luận gì về họ? Trong những chuyện này, Đức Chúa Trời không làm gì thêm cả. Ngài không vì thế mà cảnh cáo, đe dọa hay ép buộc ngươi, khiến ngươi phải trả giá hay trừng phạt ngươi. Đức Chúa Trời không làm như vậy. Trong thời kỳ Đức Chúa Trời cứu rỗi con người, khi Ngài đang bày tỏ lời để cung dưỡng cho con người, Đức Chúa Trời cho phép con người phạm sai lầm, đi sai đường, cũng như cho phép con người phản nghịch Ngài và làm chuyện ngu muội. Nhưng thông qua lời Ngài và một số phương pháp làm việc của Ngài, Đức Chúa Trời dần dần cho phép con người hiểu được yêu cầu của Ngài là gì, lẽ thật là gì, điều gì đúng và điều gì sai – chẳng hạn như thông qua tỉa sửa, hành phạt và sửa dạy, cũng như thông qua khuyến khích. Đôi khi Ngài ban cho ngươi chút ân điển, cảm thúc ngươi bên trong, hoặc cho ngươi chút soi sáng và khai sáng, để ngươi biết điều gì đúng, điều gì sai, yêu cầu của Đức Chúa Trời thực sự là gì, con người nên đứng ở vị trí nào, và người ta nên thực hành điều gì. Trong khi làm cho ngươi hiểu được, Ngài cũng cho ngươi lựa chọn. Nếu ngươi nói: “Con phản nghịch, con tùy ý, con không muốn lựa chọn điều đúng đắn, con không muốn trung thành, con chỉ muốn làm như vậy!”, thì cuối cùng ngươi chịu trách nhiệm về đích đến và kết cục của chính mình. Ngươi phải chịu trách nhiệm về hành động của mình và trả giá; về mặt này, Đức Chúa Trời không làm gì cả. Đức Chúa Trời công bằng và công chính. Nếu ngươi làm theo yêu cầu của Ngài và là người thuận phục Đức Chúa Trời, hoặc ngược lại, nếu ngươi không làm theo yêu cầu của Đức Chúa Trời và không phải là người thuận phục Đức Chúa Trời, thì trong cả hai trường hợp, dù đích đến của ngươi sẽ là đâu, Đức Chúa Trời cũng đã định đoạt trước từ lâu. Đức Chúa Trời không phải làm gì thêm cả. Không phải giống như nếu hôm nay ngươi không làm theo yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ sửa dạy, sửa phạt hoặc trừng phạt ngươi, giáng tai họa xuống ngươi – Đức Chúa Trời không làm việc như vậy. Với Đức Chúa Trời, Ngài yêu cầu con người thuận phục chỉ đơn giản để họ lĩnh hội được lẽ thật về sự thuận phục; không có yếu tố “ép buộc”. Đức Chúa Trời không ép buộc con người thuận phục hay thực hành khía cạnh lẽ thật này. Vì thế, theo cách của Đức Chúa Trời, dù là Ngài sắp đặt con người, tể trị vận mệnh của họ, dẫn dắt họ hay cung dưỡng lẽ thật cho họ, thì tiền đề của những việc làm này đều không dựa trên sự ép buộc, cũng không phải là bắt buộc. Nếu làm theo lời Đức Chúa Trời, ngươi sẽ dần dần ngày càng lĩnh hội được lẽ thật, và tình trạng của ngươi trước Đức Chúa Trời sẽ tiếp tục cải thiện – ngươi sẽ duy trì được một tình trạng tốt, và Đức Chúa Trời cũng sẽ khai sáng cho ngươi trong những khía cạnh của cuộc sống thường ngày mà ngươi không hiểu. Nhưng nếu ngươi không thực hành lẽ thật, không thuận phục Đức Chúa Trời và không sẵn lòng mưu cầu lẽ thật, thì những gì người đạt được sẽ rất hạn chế. Đây là sự khác biệt hoàn toàn giữa hai chuyện này. Đức Chúa Trời không tỏ ra thiên vị; Ngài công bằng với tất cả mọi người. Có những người nói: “Nếu Đức Chúa Trời không ép buộc tôi, chẳng phải tôi sẽ không thực hành sao?”. Đức Chúa Trời không ép buộc con người; đó là việc Sa-tan làm. Đức Chúa Trời không làm việc theo cách đó. Nếu ngươi chỉ có thể thuận phục Đức Chúa Trời khi bị ép buộc, thì ngươi là thứ gì? Ngươi có đang thực sự thuận phục Đức Chúa Trời không? Đó không phải là kiểu thuận phục mà Đức Chúa Trời mong muốn. Sự thuận phục mà Đức Chúa Trời nói đến là khi dựa trên sự lĩnh hội lẽ thật, con người sẵn lòng thực hành lời Đức Chúa Trời xuất phát từ lương tâm và lý trí. Đây là ý nghĩa vốn có của thuận phục. Nó không bao hàm sự ép buộc, hạn chế, đe dọa hoặc bất kỳ hình thức trói buộc hay khống chế nào. Cho nên, khi ngươi cảm thấy bị trói buộc hoặc kìm kẹp vô cùng trong một sự việc, thì chắc chắn đó không phải là công tác của Đức Chúa Trời. Một mặt, nó có thể bắt nguồn từ tư tưởng của con người hoặc nhận thức lệch lạc và sự tự kìm kẹp của họ. Mặt khác, có thể là ai khác đang cố kìm kẹp ngươi, sử dụng quy định, hoặc lý lẽ hay lý luận nghe có vẻ đúng nào đó để kìm kẹp ngươi, khiến ngươi hình thành một số lệch lạc trong tư tưởng. Điều này cho thấy nhận thức của ngươi có vấn đề. Nếu ngươi cảm thấy sẵn lòng và vui vẻ thuận phục Đức Chúa Trời, thì điều này đến từ công tác của Đức Thánh Linh, cũng như từ nhân tính thực sự, từ lương tâm và lý trí.

Trong nhà Đức Chúa Trời, có những người không thuận phục lẽ thật, không thuận phục sự sắp xếp công việc của nhà Đức Chúa Trời và không thuận phục sự sắp xếp của hội thánh. Nhà Đức Chúa Trời xử lý chuyện này như thế nào? Có sử dụng bất kỳ biện pháp cưỡng chế chấp hành nào không? Chẳng hạn như nếu một lãnh đạo không làm công việc thực tế, không làm việc theo sự sắp xếp công việc, và không thực hành lẽ thật, hoặc không thể làm công việc thực tế, thì nhà Đức Chúa Trời xử lý như thế nào? (Thưa, nhà Đức Chúa Trời thay thế họ.) Họ bị thay thế thẳng, nhưng họ có bị khai trừ không? (Thưa, không.) Ai không hành ác thì không bị khai trừ. Đối với các anh chị em bình thường, nếu sắp xếp họ thực hiện một bổn phận nào đó và họ từ chối, thì có tính là không thuận phục không? Nếu họ không làm thì có thể tìm người khác; có ai bị ép buộc thực hiện bổn phận không? (Thưa, không.) Không có sự ép buộc. Nếu thông qua thông công về lẽ thật, họ sẵn lòng đón nhận và thuận phục thì tốt. Đây không coi là ép buộc, mà là sắp xếp cho họ thực hiện bổn phận này với điều kiện cá nhân họ đồng ý và sẵn lòng. Chẳng hạn như có những người thích nấu ăn, nhưng lại được sắp xếp quét dọn vệ sinh, và họ nói: “Nếu yêu cầu tôi quét dọn vệ sinh, thì tôi sẽ quét dọn vệ sinh. Tôi thuận phục sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời”. Ở đây có bất kỳ sự ép buộc nào không? Có bất kỳ sự làm khó nào không? (Thưa, không.) Việc này được sắp xếp với sự sẵn lòng và thuận phục của họ, chứ không làm khó ai hay ép buộc ai thực hiện việc gì cả. Cũng có thể có những trường hợp mà đối với một bổn phận nào đó, tạm thời chưa tìm được ai, và ngươi được sắp xếp tạm thời lấp chỗ trống; cá nhân ngươi có thể không sẵn lòng, nhưng đây là nhu cầu công việc, nó là trường hợp đặc biệt. Ngươi là người nhà Đức Chúa Trời, ăn cơm nhà Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình ở đó – vì ngươi thừa nhận mình là người tin và đi theo Đức Chúa Trời, vậy chút chuyện nhỏ này mà ngươi còn không thể chống lại xác thịt của mình được sao? Thậm chí đây còn không thực sự được tính là thuận phục hay chịu khổ; nó chỉ là tạm thời, không phải là yêu cầu ngươi thực hiện bổn phận này lâu dài. Có những người phàn nàn rằng công việc họ được yêu cầu thực hiện dơ dáy và mệt mỏi, và họ không sẵn lòng làm. Nếu họ nêu ra thì sẽ được phân công lại ngay thôi. Nhưng nếu họ chỉ bày tỏ miệng như vậy, nhưng thực ra vẫn sẵn lòng thuận phục và sẵn lòng chịu khổ, thì họ nên tiếp tục thực hiện bổn phận. Cách tiếp cận này có phù hợp không? (Thưa, có.) Nguyên tắc này có đúng không? (Thưa, có.) Nhà Đức Chúa Trời tuyệt đối không làm khó mọi người. Còn có tình huống mà một số người, bất kể thực hiện bổn phận nào cũng lười biếng, vô trách nhiệm và không trung thành, thậm chí đôi khi còn lén làm chuyện xấu. Khi không làm hết bổn phận, họ lấy lý do, nói bổn phận không phù hợp với họ, không phải là điểm mạnh của họ, hoặc họ không hiểu nghiệp vụ liên quan. Nhưng thực tế mọi người đều thấy rõ họ không làm hết bổn phận không phải vì những lý do này. Nên xử lý dạng người này thế nào? Nếu họ xin thực hiện bổn phận ở nơi khác thì có nên đồng ý không? (Thưa, không.) Vậy nên làm gì? Dạng người này không phù hợp để thực hiện bổn phận; họ làm miễn cưỡng và không có thái độ đúng đắn, vì vậy nên đuổi đi. Còn một dạng người khác, hễ bảo làm bổn phận là bắt đầu khó khăn, chống đối. Họ cực kỳ không sẵn lòng và miễn cưỡng, gần như không thể kìm nén sự bất mãn, nghĩ rằng: “Mình chỉ nằm im ở đây, chịu đựng vài năm, sau đó cuối cùng đi đâu cũng không biết được!”. Người có những ý định như thế không nên để cho thực hiện bổn phận, và dù họ có muốn thực hiện những bổn phận khác cũng không được. Những trường hợp như thế phải xử lý mạnh. Tại sao vậy? Bởi vì đã nhìn thấu được thực chất của họ – những người hiểu họ nói rằng họ là kẻ chẳng tin; những người xung quanh họ cũng nói rằng họ không phù hợp để thực hiện bổn phận. Dạng người này là người ngoại đạo và phải thanh lọc. Nếu không, họ có thể gây nhiễu loạn, làm chuyện xấu và làm hại dân được chọn của Đức Chúa Trời trong hội thánh, mà điều đó tuyệt đối không chấp nhận được. Nên xử lý những trường hợp như thế theo các nguyên tắc đối đãi người thực hiện bổn phận trong hội thánh; họ không sẵn lòng cũng không được. Đây có phải là ép buộc không? Đây không phải là ép buộc, mà là làm theo nguyên tắc, giữ vững lợi ích và công tác của nhà Đức Chúa Trời. Đó là chuyện thanh lọc những kẻ chẳng tin và những kẻ chỉ ở đó để ăn bám trong nhà Đức Chúa Trời. Nếu ngươi muốn ăn bám thì đi chỗ khác, chứ không phải ở đây. Nhà Đức Chúa Trời không phải là viện dưỡng lão, không nuôi kẻ ăn bám. Hiểu chưa?

Có những kẻ địch lại Đấng Christ ẩn mình rất kỹ, trông thấy chuyện gì chỉ mỉm cười không nói, giữ im lặng về nhiều chuyện, giả vờ thâm trầm và không tỏ bất kỳ lập trường nào. Khi mới tiếp xúc, ngươi không dễ nhìn thấu được họ; thậm chí còn nghĩ họ có trọng lượng và không đơn giản. Làm sao để phân định dạng kẻ địch lại Đấng Christ này? Ngươi phải chú ý quan sát kỹ xem họ thực sự thích điều gì, họ chú trọng điều gì, họ hứng thú với điều gì và họ tiếp xúc với ai. Bằng cách quan sát những khía cạnh này, ngươi có thể hiểu được họ. Ngoài ra, có một điều mà tất cả các ngươi cần phải ý thức được: Bất kể cấp bậc của người lãnh đạo hay chấp sự, nếu các ngươi tôn thờ họ vì sự hiểu biết của họ về một chút lẽ thật và vì một vài ân tứ của họ, tin rằng họ sở hữu thực tế lẽ thật và có thể giúp các ngươi, và nếu các ngươi tôn sùng và lệ thuộc vào họ trong mọi việc, và thông qua điều này, cố gắng đạt được sự cứu rỗi, thì đây là sự dại dột và thiếu hiểu biết của ngươi. Cuối cùng, tất cả sẽ chẳng đi đến đâu, bởi vì xuất phát điểm của các ngươi vốn dĩ đã sai. Dù ai đó có hiểu được bao nhiêu lẽ thật đi chăng nữa thì cũng không ai có thể thay thế được Đấng Christ, và cho dù ai đó có nhiều ân tứ đến đâu, điều này cũng không có nghĩa là họ sở hữu lẽ thật – vì vậy những ai tôn thờ, tôn sùng và đi theo con người cuối cùng đều sẽ bị đào thải và bị kết án. Những người tin Đức Chúa Trời có thể tôn kính và đi theo Đức Chúa Trời. Các lãnh đạo và chấp sự, bất kỳ ở cấp bậc nào, thì vẫn là người thường. Nếu ngươi xem họ như cấp trên trực tiếp của mình, nếu ngươi cảm thấy rằng họ vượt trội hơn ngươi, rằng họ có năng lực hơn ngươi, và rằng họ nên dẫn dắt ngươi, rằng họ vượt trội hơn bất kỳ ai khác về mọi mặt, thì ngươi nhầm rồi – đó là sự ảo tưởng. Và những hậu quả nào mà sự ảo tưởng này sẽ gây ra cho ngươi? Nó sẽ khiến ngươi vô tình đánh giá các lãnh đạo của mình theo những yêu cầu không phù hợp với thực tế, và không thể xử lý đúng những vấn đề và thiếu khuyết của họ; đồng thời, ngươi cũng sẽ bị thu hút sâu sắc bởi sự tinh tế, những ân tứ và tài năng của họ mà không biết, đến nỗi rằng trước khi ngươi kịp nhận ra thì ngươi đã đang tôn thờ họ, và họ đã là thần của ngươi. Con đường đó, từ lúc họ bắt đầu trở thành hình mẫu của ngươi, đối tượng tôn thờ của ngươi, cho đến lúc ngươi trở thành một trong những người đi theo họ, là con đường sẽ dẫn dắt ngươi vô tình đi xa khỏi Đức Chúa Trời. Và ngay cả khi ngươi dần rời xa Đức Chúa Trời, ngươi vẫn sẽ tin rằng ngươi đang theo Đức Chúa Trời, rằng ngươi đang ở trong nhà Ngài, rằng ngươi đang ở trong sự hiện diện của Ngài, trong khi thực ra, ngươi đã bị lôi kéo bởi tay sai của Sa-tan, bởi một kẻ địch lại Đấng Christ. Ngươi thậm chí sẽ không ý thức được điều đó. Đây là một trạng thái rất nguy hiểm. Để giải quyết vấn đề này thì một mặt, cần phải có khả năng phân định bản tính và thực chất của những kẻ địch lại Đấng Christ, và khả năng nhìn thấu bộ mặt xấu xa căm ghét lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời của những kẻ địch lại Đấng Christ; do đó, điều này cũng đòi hỏi phải nắm rõ với các kỹ thuật lừa phỉnh và gài bẫy mọi người mà những kẻ địch lại Đấng Christ thường sử dụng, cũng như cách họ làm việc. Mặt khác, các ngươi phải mưu cầu kiến thức về tâm tính và thực chất của Đức Chúa Trời. Các ngươi phải hiểu rõ rằng chỉ có Đấng Christ mới là lẽ thật, là đường đi và sự sống, rằng việc tôn thờ bất kỳ người nào cũng sẽ mang lại tai họa và bất hạnh cho ngươi. Ngươi phải tin rằng chỉ có Đấng Christ mới có thể cứu rỗi con người, và ngươi phải đi theo và vâng phục Đấng Christ với đức tin tuyệt đối. Chỉ đây mới là con đường đúng đắn cho sự tồn tại của con người. Một số người có thể nói: “Hừm, tôi quả thật có lý do để tôn thờ những nhà lãnh đạo – trong lòng mình, tôi tự nhiên tôn thờ bất kỳ ai tài năng. Tôi tôn thờ bất kỳ lãnh đạo nào phù hợp với những quan niệm của tôi”. Tại sao ngươi nhất quyết tôn thờ con người mặc dù ngươi tin Đức Chúa Trời? Suy cho cùng, ai là người sẽ cứu rỗi ngươi? Ai là người thực sự yêu thương ngươi và bảo vệ ngươi – ngươi thực sự không thể nhìn thấy sao? Nếu ngươi tin Đức Chúa Trời và đi theo Đức Chúa Trời, thì ngươi nên chú ý đến lời Ngài, và nếu ai đó nói và hành động một cách đúng đắn, và phù hợp với các nguyên tắc của lẽ thật, thì chẳng phải đó chỉ là vấn đề ngươi vâng phục lẽ thật hay sao? Tại sao ngươi lại thấp hèn như vậy? Tại sao ngươi nhất quyết phải tìm một người mà ngươi tôn thờ để đi theo? Tại sao ngươi thích trở thành nô lệ của Sa-tan? Tại sao thay vào đó lại không làm tôi tớ của lẽ thật? Trong chuyện này có thể thấy liệu một người có ý thức và phẩm giá hay không. Ngươi nên bắt đầu với chính mình: hãy trang bị cho mình đủ loại lẽ thật, có thể xác định những cách thức khác nhau mà những vấn đề và con người khác nhau biểu hiện, biết được bản chất hành vi của con người cũng như họ bộc lộ ra tâm tính gì, học cách phân biệt bản chất của nhiều loại người khác nhau, biết rõ về những loại người xung quanh mình, biết mình thuộc loại người gì, và lãnh đạo của mình thuộc loại người gì. Một khi thấy được tất cả những điều này rõ ràng, ngươi sẽ có khả năng tiếp cận mọi người theo cách đúng đắn, phù hợp với các nguyên tắc của lẽ thật: Nếu họ là anh chị em thì đối đãi bằng tình yêu thương; nếu họ không phải là anh chị em, mà là kẻ ác, kẻ địch lại Đấng Christ hoặc kẻ chẳng tin, thì tránh xa và từ bỏ. Còn nếu họ là người có thực tế lẽ thật, thì dù ngươi có thể ngưỡng mộ, nhưng không được tôn sùng họ. Không ai có thể thay thế Đấng Christ được; chỉ Đấng Christ mới là Đức Chúa Trời thực tế. Chỉ Đấng Christ mới có thể cứu rỗi con người, và chỉ khi đi theo Đấng Christ, ngươi mới có thể có được lẽ thật và sự sống. Nếu ngươi có thể nhìn thấu những điều này, thì ngươi có vóc giạc và không dễ bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc, cũng không cần phải sợ bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc.

Có những người, khi thấy một số kẻ địch lại Đấng Christ bị vạch trần và đào thải thì bắt đầu lo lắng, nói: “Mặc dù bề ngoài kẻ địch lại Đấng Christ trông không giống kẻ ác, nhưng tại sao sau khi phân định những việc họ làm, hóa ra họ lại ác đến vậy? Có vẻ như kẻ địch lại Đấng Christ quả thực rất kỳ dị. Nhưng tố chất của tôi kém, nếu gặp lại dạng kẻ địch lại Đấng Christ này, chỉ sợ cũng không phân định được. Tôi nên đề phòng kẻ địch lại Đấng Christ như thế nào?”. Dù ngươi có tố chất kém, thì cũng không cần phải luôn lo bị mê hoặc hay luôn nghĩ cách đề phòng họ. Ngươi chỉ cần chú trọng lĩnh hội lẽ thật, đọc nhiều lời Đức Chúa Trời hơn, và khi có thời gian thì suy ngẫm nghiêm túc về những việc ác mà kẻ địch lại Đấng Christ làm, tự hỏi: “Họ ác ở chỗ nào? Điều gì thúc đẩy họ làm việc ác như vậy? Người bình thường có thể làm việc ác như vậy không? Những người lĩnh hội được lẽ thật làm cách nào để phân định được họ? Làm cách nào để mình phân định được họ?”. Một khi nhìn thấu được thực chất của mọi người thông qua lời Đức Chúa Trời, ngươi sẽ hiểu tất cả. Khi không ngừng suy nghĩ về những điều này, ngươi sẽ vô thức biết cách phân định, và tự nhiên ngươi sẽ có thể phân định được khi lại gặp phải kẻ địch lại Đấng Christ cố gắng mê hoặc mọi người. Việc này đỏi hỏi kinh qua nhiều trải nghiệm, chứ không phải là cái ngươi có thể học được chỉ bằng cách nghe nhiều bài giảng hơn. Nó cũng giống như người trong xã hội, ăn thiệt thòi, mắc lừa nhiều, liền có kinh nghiệm – “thất bại là mẹ thành công”. Nó chính là đạo lý này. Trong đức tin nơi Đức Chúa Trời của chúng ta, cái chính là lĩnh hội được lẽ thật. Ngươi lĩnh hội được lẽ thật càng nhiều, thì nhìn thấu sự tình càng nhiều. Nếu ngươi không lĩnh hội được bất kỳ lẽ thật nào, thì dù có tri thức cũng vô ích. Chỉ có tri thức không thôi thì không thể nhìn thấu được gì cả; quan điểm của ngươi giống như của người thế tục, có bình luận về điều gì cũng đều vô vị, sai lầm. Nếu hiện giờ ngươi chưa thể nhìn thấu được một số người thì cũng đừng lo. Một khi lĩnh hội được lẽ thật, ngươi sẽ tự nhiên có sự phân định. Trước mắt, ngươi chỉ cần tập trung làm hết bổn phận của chính mình, ăn uống nhiều lời Đức Chúa Trời hơn, và suy ngẫm nhiều hơn về lẽ thật. Đến ngày nào đó lĩnh hội được lẽ thật, ngươi sẽ có thể phân định được mọi người. Chỉ cần quan sát hành vi của họ, trong lòng ngươi sẽ biết chuyện gì xảy ra với họ; chỉ cần nghe ai báo cáo về một vấn đề, ngươi sẽ có thể nhìn thấu thực chất của vấn đề; và chỉ cần nghe tư tưởng, quan điểm của ai đó, ngươi sẽ biết được vóc giạc của họ. Ngươi sẽ có thể dễ dàng hiểu hết về bất kỳ sự việc hoặc con người nào, mà không cần tốn nhiều công sức. Nhưng nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật, mà thay vào đó chỉ dựa vào tưởng tượng của mình để đánh giá người ta, tôn sùng họ, nương cậy vào họ, và mù quáng nịnh nọt họ, nếu ngươi không đi theo con đường mưu cầu lẽ thật, thì kết quả cuối cùng sẽ là gì? Ai cũng có thể mê hoặc ngươi; ai ngươi cũng không thể nhìn thấu, dù là kẻ địch lại Đấng Christ rõ ràng nhất. Họ sẽ đùa giỡn ngươi đến đầu óc choáng váng, mà ngươi còn ngưỡng mộ bản lĩnh của họ, quay quanh họ mỗi ngày. Vậy thì ngươi đúng là kẻ hồ đồ, và chắc chắn có thể nói rằng ngươi tin vị đức chúa trời mơ hồ, chứ không phải Đức Chúa Trời thực tế, chắc chắn ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật.

Có những người, dù nghe giảng mấy lần về việc phân định kẻ địch lại Đấng Christ, vẫn không thể phân định được. Họ chỉ hiểu một số cách phân định, nhưng không có kinh nghiệm thực tế. Khi thực sự đối mặt với việc ác của kẻ địch lại Đấng Christ, họ lại không thể phân định được. Mặc dù sau khi nghe giảng, họ không thể phân định được kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng họ soi mình vào những điều nghe được và ngày càng bắt đầu cảm thấy mình giống kẻ địch lại Đấng Christ. Cuối cùng, họ bắt đầu tin rằng chính họ là kẻ địch lại Đấng Christ. Kiểu phân định này không có gì sai. Họ hoàn toàn rõ ràng về các chi tiết trong việc phân định kẻ địch lại Đấng Christ, chỉ thiếu các nguyên tắc định nghĩa. Đây không phải là vấn đề lớn; nó cho thấy việc nghe giảng của họ có hiệu quả. Mặc dù họ chưa phân định được kẻ địch lại Đấng Christ thực sự, nhưng họ đã phân định được chính mình, đó cũng là một điều tốt. Đầu tiên, họ cứu rỗi chính mình và tránh trở thành kẻ địch lại Đấng Christ, đó là thành quả của việc nghe những bài giảng vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ này. Có thể phân định chính mình là kẻ địch lại Đấng Christ là chuyện không đơn giản; sự phân định như thế đòi hỏi quan sát chi tiết, và Ta tin rằng như vậy cũng tính là có sự phân định rồi. Phân định chính mình hiện tại là một điều tốt; còn chưa quá muộn. Nếu ngươi hành ác và gây họa, rồi bị định nghĩa là kẻ địch lại Đấng Christ, thì đã quá muộn rồi. Nếu ngươi có sự phân định về bản thân mình hiện tại, thì cùng lắm cũng chỉ có nghĩa rằng ngươi bộc lộ những đặc điểm tương tự như của kẻ địch lại Đấng Christ, ngươi đang đi con đường địch lại Đấng Christ và ngươi chọn sai đường – chỉ có thể định nghĩa ngươi như vậy. Vẫn còn kịp đổi hướng, nhưng nếu ngươi chọn không đổi hướng thì nguy hiểm. Chủ đề phân định kẻ địch lại Đấng Christ đã được thông công nhiều lần, và đến nay, một số người đã thực sự có thể phân định. Họ có thể xác định được những tâm tính địch lại Đấng Christ của chính mình mà họ bộc lộ, đây chính là thành quả, và nó chứng tỏ họ đã có sự phân định. Nếu họ lại có thể phân biệt giữa người có thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ và người chỉ có tâm tính địch lại Đấng Christ, thì họ đã làm chủ hoàn toàn khả năng phân định. Đây là việc trong tầm tay, không cần phải ưu lo. Nếu người ta có thể phân định được những tâm tính địch lại Đấng Christ của chính mình, nhận ra mình có đang đi con đường địch lại Đấng Christ hay không, và hiểu thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ là gì, thì họ đã học được cách phân định kẻ địch lại Đấng Christ rồi. Việc có khả năng phân định kẻ địch lại Đấng Christ không phải là chuyện tin Đức Chúa Trời được bao nhiêu năm, mà là có nỗ lực đạt được lẽ thật và lĩnh hội lẽ thật hay không. Có những người tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm và nghe nhiều bài giảng về việc vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng những tâm tính và biểu hiện địch lại Đấng Christ của họ vẫn chưa hề thay đổi. Dù Ta có thông công về lẽ thật như thế nào, họ vẫn không ý thức được. Họ có thể đồng cảm với nội dung thông công lúc đó, nhưng đến khi hành động hoặc làm bổn phận, họ lại quay về lối cũ. Như vậy chẳng phải là rắc rối và nguy hiểm cho những người như vậy sao? Rất nguy hiểm! Dù Ta có thông công cách nào, dù lúc nghe Ta phán, họ có cảm thấy tự trách mình hay khổ sở thế nào đi nữa, thì sau đó họ cũng không hề thay đổi. Họ không phản tỉnh tại sao mình lại luôn đề bạt và bồi dưỡng những người nịnh nọt, xu nịnh, cũng không phản tỉnh tại sao họ lại đối xử với người khác không dựa trên nguyên tắc, mà tùy hứng. Họ không ghê tởm những người mà họ thích, ngay cả khi người ta là kẻ ác hay kẻ xấu, mà tiếp tục đề bạt, sử dụng. Thậm chí họ còn không còn phản tỉnh tại sao mình không hề mưu cầu lẽ thật, mà lại bước vào con đường địch lại Đấng Christ. Làm nhiều việc ác như thế mà không hề có bất kỳ sự phản tỉnh hay thay đổi thực sự nào là rất nguy hiểm. Khoảng thời gian này, nhóm họp thông công đều là về việc vạch trần những tâm tính và thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ. Tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ ẩn tàng hơn và tà ác hơn những tâm tính bại hoại thường thấy. Kẻ địch lại Đấng Christ chán ghét lẽ thật, thù hận lẽ thật, và tuyệt đối không thể đón nhận lẽ thật hay sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời. Vậy thì kết cục, cái kết của kẻ địch lại Đấng Christ là gì? Họ chắc chắn sẽ bị đào thải. Đức Chúa Trời mô tả kẻ địch lại Đấng Christ như thế nào? Là những người thù hận lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời – là kẻ thù của Đức Chúa Trời! Chống đối lẽ thật, thù hận Đức Chúa Trời, và thù hận mọi điều tích cực – đây không phải là sự yếu đuối hay ngu muội nhất thời ở người bình thường, cũng không phải là sự bộc lộ của những tư tưởng, quan điểm sai lầm sinh ra do nhận thức lệch lạc nhất thời; đó không phải là vấn đề. Mà vấn đề chính là họ là kẻ địch lại Đấng Christ, kẻ thù của Đức Chúa Trời, thù hận hết thảy những điều tích cực và hết thảy lẽ thật; họ là nhân vật thù hận và chống đối Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời nhìn nhận những nhân vật như vậy thế nào? Đức Chúa Trời không cứu rỗi họ! Những người này khinh ghét và thù hận lẽ thật, họ có thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ. Các ngươi có hiểu điều này không? Cái đang vạch trần ở đây là sự tà ác, sự hung ác và sự thù hận lẽ thật. Đó là những tâm tính Sa-tan nghiêm trọng nhất trong số các tâm tính bại hoại, thể hiện những đặc điểm điển hình nhất, thực chất nhất của Sa-tan, chứ không phải là những tâm tính bại hoại mà nhân loại bại hoại thông thường bộc lộ. Những kẻ địch lại Đấng Christ là một thế lực thù địch Đức Chúa Trời. Họ có thể làm nhiễu loạn và khống chế hội thánh, và có khả năng hủy hoại và làm gián đoạn công tác quản lý của Đức Chúa Trời. Đây không phải là điều mà người bình thường có tâm tính bại hoại có thể làm; chỉ những kẻ địch lại Đấng Christ mới có thể có những hành động như vậy. Đừng xem nhẹ việc này.

Tất cả những kẻ ác đều có tâm tính tà ác. Một số điều ác biểu hiện qua tâm tính độc ác, như thường xuyên ức hiếp người vô tội, đối xử với họ một cách giễu cợt hay mỉa mai, luôn lấy họ ra làm trò đùa, và lợi dụng họ. Kẻ ác khi thấy kẻ ác khác thì cúi mình phục tùng, nhưng khi thấy kẻ yếu thì họ chà đạp và hành xử hống hách. Đây là những kẻ độc ác và xấu xa. Bất kỳ ai ức hiếp hoặc áp bức Cơ Đốc nhân đều là người đội lốt quỷ; bọn chúng là dã thú không có linh hồn và là quỷ đầu thai. Nếu trong đám kẻ ác có người không ức hiếp người vô tội, không hành hạ những Cơ Đốc nhân, những người chỉ trút cơn thịnh nộ lên những ai làm hại đến tư lợi của họ, thì những người này được coi là người tốt giữa những người ngoại đạo. Nhưng cái ác của những kẻ địch lại Đấng Christ khác như thế nào? Cái ác của những kẻ địch lại Đấng Christ chủ yếu biểu hiện ở khuynh hướng cạnh tranh đặc biệt của chúng. Chúng dám tranh với Trời, với đất và với người khác. Chúng không những không để người khác ức hiếp mình mà còn ức hiếp và trừng phạt người khác. Hàng ngày, chúng nghĩ cách trừng phạt người ta. Nếu chúng ghen tị với ai hay ghét ai thì chúng sẽ không bao giờ bỏ qua. Đây là những cách ác độc của những kẻ địch lại Đấng Christ. Cái ác này còn biểu hiện ở đâu nữa? Có thể thấy được trong cách làm việc thủ đoạn của chúng, mà những người có chút trí tuệ, chút hiểu biết và chút kinh nghiệm xã hội cũng khó mà phát hiện ra được. Chúng làm mọi việc theo cách cực kỳ thủ đoạn, và điều này làm nảy sinh cái ác; đó không phải là sự giả dối thông thường. Chúng có thể giở trò và mánh lới, và làm vậy ở cấp độ cao hơn hầu hết mọi người. Hầu hết những người bình thường không thể cạnh tranh được với chúng và không thể đối phó được với chúng. Đây là một kẻ địch lại Đấng Christ. Tại sao Ta lại phán rằng người thường không thể đối phó được với chúng? Bởi vì chúng quá tà ác đến nỗi có năng lực siêu phàm để lừa dối mọi người. Chúng có thể nghĩ ra đủ mọi cách để khiến mọi người tôn thờ và đi theo chúng. Chúng cũng có thể lợi dụng đủ mọi loại người để làm nhiễu loạn và gây hại cho công tác của hội thánh. Trong những hoàn cảnh như vậy, nhà Đức Chúa Trời liên tục thông công về đủ mọi kiểu biểu hiện, tâm tính và thực chất của những kẻ địch lại Đấng Christ để mọi người có thể phân định được chúng. Việc này là cần thiết. Một số người không hiểu và nói: “Tại sao cứ thông công mãi cách phân định những kẻ địch lại Đấng Christ vậy?”. Bởi vì tất cả những kẻ địch lại Đấng Christ đều rất có khả năng lừa dối mọi người. Chúng có thể lừa dối nhiều người, giống như căn bệnh dịch chết người, do sự lây lan của nó mà có thể gây hại và giết chết nhiều người chỉ trong một đợt bùng phát; nó rất dễ lây lan và có phạm vi rộng cũng như tỷ lệ lây nhiễm và tử vong tương đối cao. Đây chẳng phải là những hậu quả nghiêm trọng sao? Nếu Ta không thông công như thế này với các ngươi, liệu các ngươi có thể thoát khỏi sự mê hoặc và kìm kẹp của kẻ địch lại Đấng Christ không? Liệu các ngươi có thể thực sự hướng về Đức Chúa Trời và thuận phục Ngài không? Rất khó. Khi người bình thường bộc lộ tâm tính kiêu ngạo, thì cùng lắm là khiến người khác thấy được tình trạng kiêu ngạo xấu xí của họ. Đôi khi họ khoe khoang, đôi khi họ phô trương và thể hiện, đôi khi họ thích phô trương địa vị và lên lớp người khác. Nhưng kẻ địch lại Đấng Christ có như vậy không? Có thể bề ngoài, họ không có vẻ phô trương địa vị hay yêu thích địa vị, có thể họ không bao giờ có vẻ hứng thú với địa vị, nhưng trong thâm tâm, họ có dục vọng mãnh liệt về địa vị. Cũng giống như một số hoàng đế và lãnh chúa trong dân ngoại đạo: khi đấu tranh giành thiên hạ, họ đồng cam cộng khổ cùng anh em, trông khiêm nhường và không có dã tâm. Nhưng ngươi có thấy dục vọng ẩn sâu trong lòng họ không? Tại sao họ lại có thể chịu những khổ cực như vậy? Chính là dục vọng của họ đang chống đỡ. Họ nuôi dã tâm lớn bên trong, sẵn sàng chịu đựng bất kỳ khổ cực nào, sẵn sàng nhịn nhục bất kỳ sự vu khống, phỉ báng, xúc phạm và sỉ nhục nào, để một ngày nào đó có thể leo lên ngai vàng. Đây chẳng phải là kỳ dị sao? Liệu họ có thể để cho bất kỳ ai biết về dã tâm này không? (Thưa, không.) Họ che giấu và bao bọc nó. Những gì có thể thấy bề ngoài là một người có thể chịu đựng những gì người khác không thể, có thể chịu những khổ cực không thể chịu nổi, trông bền bỉ, không tham vọng, giản dị và đối tốt với mọi người xung quanh. Nhưng ngày mà họ lên ngôi và có được thực quyền, để củng cố quyền lực của mình và phòng người khác soán vị, họ giết hết thảy những người đã từng đồng cam cộng khổ và chiến đấu bên cạnh họ. Chỉ khi chân tướng rõ ràng, mọi người mới nhận ra họ quỷ quyệt sâu đến mức nào. Khi ngươi nhìn lại và thấy mọi việc họ làm đều do dã tâm chi phối, ngươi mới phát hiện ra tâm tính của họ là tà ác. Đây là chiến thuật gì? Đó là kỳ dị. Đây là tâm tính chứa đựng trong cách kẻ địch lại Đấng Christ hoạt động. Kẻ địch lại Đấng Christ và quỷ vương cầm quyền chính thức đều cùng một giuộc; họ tuyệt đối sẽ không vô cớ chịu khổ và chịu đựng trong hội thánh nếu không có được quyền lực và địa vị. Nói cách khác, những người này tuyệt đối không bằng lòng với việc là người đi theo bình thường, thỏa hiệp trong nhà Đức Chúa Trời làm người thờ phượng Đức Chúa Trời bình thường, hoặc làm bổn phận nào đó thầm lặng, vô danh; chắc chắn họ sẽ không sẵn lòng làm vậy. Nếu ai có địa vị bị thay thế do đi con đường địch lại Đấng Christ, và suy nghĩ: “Bây giờ không có địa vị thì mình cứ đàng hoàng làm người bình thường, làm được bổn phận nào thì làm; không có địa vị, mình vẫn có thể tin Đức Chúa Trời tốt”, thì họ có phải là một kẻ địch lại Đấng Christ không? Không, người này đã từng đi con đường địch lại Đấng Christ, từng đi sai đường do nhất thời ngu muội, nhưng họ không phải là kẻ địch lại Đấng Christ. Kẻ địch lại Đấng Christ thực sự sẽ làm gì? Nếu mất địa vị, họ sẽ không tin nữa. Không những vậy, họ còn nghĩ trăm phương ngàn kế để mê hoặc người khác, khiến người khác tôn sùng và đi theo họ, để đạt được dã tâm và dục vọng có quyền lực của mình. Đây chính là sự khác biệt giữa người đi con đường địch lại Đấng Christ và kẻ địch lại Đấng Christ thực sự. Chúng ta phân tích và mổ xẻ những thực chất tâm tính và biểu hiện này của kẻ địch lại Đấng Christ bởi vì tính chất của vấn đề này rất nghiêm trọng. Hầu hết mọi người không thể phân định được kẻ địch lại Đấng Christ. Chưa nói đến các anh chị em bình thường, ngay cả một số lãnh đạo và chấp sự nghĩ họ lĩnh hội được chút lẽ thật, cũng chưa hoàn toàn thành thạo việc phân định kẻ địch lại Đấng Christ. Khó mà nói được họ thành thạo đến đâu, cho thấy vóc giạc của họ quá nhỏ bé. Chỉ những người có thể phân định chính xác kẻ địch lại Đấng Christ mới là người có vóc giạc thực sự.

Vấn đề chính mà hiện nay tất cả các ngươi đều đang đối mặt là gì? Hầu hết mọi người không thể phân định và dễ dàng bị lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc, chuyện này nếu không giải quyết rất nguy hiểm. Cho nên, Ta yêu cầu các ngươi phải học phân biệt các loại người khác nhau. Phân định tâm tính nào được thể hiện qua các hành vi và phát ngôn khác nhau của người ta, và dựa trên đó, phân định thực chất của người ta. Ngoài ra, các ngươi cần phải biết phân biệt cái gì là thực tế lẽ thật và cái gì chỉ là câu chữ, đạo lý. Nếu không thể phân định được những điều này, thì các ngươi sẽ không thể bước vào thực tế lẽ thật. Không biết phân định, làm sao có con đường bước vào thực tế được? Có những lãnh đạo và chấp sự chỉ tuôn câu chữ và đạo lý, nghĩ rằng hiểu câu chữ và đạo lý có nghĩa là họ có thực tế. Vì thế, trong khi tuôn câu chữ và đạo lý, họ cảm thấy yên tâm thoải mái, càng giảng càng nhiệt tình. Nhưng khi cám dỗ đến, họ sa ngã, và thậm chí còn không biết làm sao mình lại sa ngã, vẫn còn nói: “Tại sao Đức Chúa Trời không bảo vệ con?”. Đây chẳng phải là một sự thất bại đáng hổ thẹn sao? Vậy có những lãnh đạo và chấp sự luôn nói câu chữ và đạo lý – các ngươi có thể phân định được điều này không? (Thưa, không.) Đôi khi Ta nghe từ một số anh chị em rằng một số lãnh đạo chỉ nói câu chữ và đạo lý và không phù hợp làm lãnh đạo, và họ xin thay thế người đó. Nhưng sau khi yêu cầu họ bầu chọn lãnh đạo mới, thì hầu hết mọi người không có sự phân định, và lãnh đạo, chấp sự được bầu chọn cũng lại là người chỉ nói câu chữ và đạo lý mà không có nhiều thực tế. Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng, một vấn đề rất nan giải. Khi nghe lời thông công của Ta về những việc này, các ngươi có thể phân định được bất kỳ sự khác biệt nào so với những gì mà lãnh đạo bình thường nói không? Nếu có thể phân định được sự khác biệt, thì ngươi biết thực tế lẽ thật là gì. Nếu ngươi không thể phân định được và cho là đều như nhau, nghĩ rằng: “Chúng con cũng đã học được cách nói lời Đức Chúa Trời, và những gì chúng con nói giống như những gì Đức Chúa Trời phán”, thì có vấn đề. Nó chứng tỏ ngươi không hề lĩnh hội được lẽ thật, chỉ biết bắt chước lời Đức Chúa Trời và đọc thuộc lòng một chút lời Ngài, mà không thực sự lĩnh hội được lẽ thật. Hầu hết kẻ địch lại Đấng Christ có những ân tứ và tài hùng biện nhất định, cho họ vốn liếng để mê hoặc mọi người. Kết hợp với tâm tính tà ác và những cách thao túng trong lời nói và hành động, họ thực sự có thể mê hoặc mọi người. Nếu ngươi chỉ có thể tuôn câu chữ, đạo lý, và không thể phân định thực tế lẽ thật là gì, thì ngươi chỉ có thể bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc. Đây là điều nằm ngoài tầm kiểm soát của ngươi! Đối với những người không lĩnh hội được lẽ thật thì dù có muốn cũng không thể không bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc. Thoát khỏi quyền thế của Sa-tan không phải là chuyện đơn giản, phải không?

Ngày 11 tháng 6 năm 2019

Trước: Mục 5. Họ mê hoặc, lôi kéo, đe dọa và khống chế mọi người

Tiếp theo: Mục 7. Họ tà ác, nham hiểm và giả dối (Phần 1)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger