Mục 5. Họ mê hoặc, lôi kéo, đe dọa và khống chế mọi người
Phần bổ sung: Câu chuyện của Đại Bảo và Tiểu Bảo
Trước khi chúng ta chính thức bắt đầu mối thông công ngày hôm nay, hãy để Ta kể một câu chuyện. Tất cả các ngươi đều thích nghe kể chuyện phải không? (Thưa, phải.) Vậy có một nguyên tắc nào trong việc nghe kể chuyện không? Trong những câu chuyện đang được kể, ngươi nên có thể ngộ ra được một phương diện lẽ thật, hiểu được một phương diện tâm ý của Đức Chúa Trời, nhận thức được một phương diện trong thực chất bản tính của con người, hoặc phát hiện ra thực tế lẽ thật mà con người nên thực hành và bước vào trong câu chuyện. Đây là ý nghĩa của việc kể chuyện, chứ không phải là tán gẫu, càng không phải là ngồi lê đôi mách. Có những người, khi nghe kể chuyện, chỉ nghe hiểu được sự tình – họ là loại người gì? (Thưa, người có tố chất kém.) Tố chất kém nghĩa là họ không có tư tưởng; chủ yếu là họ không có hiểu biết thuộc linh. Dù có nghe câu chuyện gì, họ cũng chỉ có thể nhớ được những sự tình trong câu chuyện hoặc có được một ít quy định trong chuyện được kể. Nhưng khi nói đến những lẽ thật khác nhau mà người ta nên hiểu được từ trong câu chuyện này, thì họ nghe không hiểu, không hiểu được hoặc ngộ ra được. Đây chẳng phải là biểu hiện của việc không có hiểu biết thuộc linh nhất sao? (Thưa, phải.) Giữa các ngươi, có ai có loại biểu hiện này sau khi nghe kể chuyện không? Sau khi nghe xong, họ không nghe hiểu được gì, cảm thấy câu chuyện này không có ý nghĩa, kể hay không đều được. Những người như thế có năng lực lĩnh hội không? Khi nghe kể chuyện, các ngươi có thể nhận được chút lợi ích từ những sự tình trong đó không? Dù có thể hiểu được lẽ thật từ đó hay không, các ngươi cũng nên hiểu được nguyên tắc của việc nghe kể chuyện Ta vừa nói đến. Bây giờ hãy cùng bắt đầu với câu chuyện.
Có một cậu bé tên là Tiểu Bảo. Gần đây, có một người chú đến nhà cậu, và người chú này thường ra ngoài rao truyền phúc âm với cha mẹ của Tiểu Bảo. Một hôm, cha mẹ Tiểu Bảo ra ngoài giải quyết công chuyện, ở nhà chỉ còn người chú này và Tiểu Bảo. Sau đó, đã có câu chuyện xảy ra. Vì Tiểu Bảo chưa quen lắm với người chú này, nên anh ta đã đi tới làm thân với Tiểu Bảo trong khi cậu đang chơi. Anh ta nói với Tiểu Bảo rằng anh ta biết cậu và thậm chí còn biết tên cậu. Tiểu Bảo rất vui và cho rằng người chú này không thể là người xấu. Rồi người chú này hỏi Tiểu Bảo: “Tiểu Bảo này, bình thường lúc nói chuyện, ba mẹ con có bao giờ nhắc đến chú không?”. Tiểu Bảo nghĩ một lúc và nói: “Con không biết”. Người chú này nói: “Con là đứa trẻ trung thực. Có gì nói nấy mới là bé ngoan”. Rồi anh ta lại hỏi Tiểu Bảo: “Ba mẹ con rốt cuộc có từng nhắc đến chú không?”. Tiểu Bảo vẫn nói rằng cậu không biết. Người đàn ông tiếp tục: “Tiểu Bảo, ngoan nào, nếu con nói thật cho chú biết, chú sẽ cho con kẹo”. Tiểu Bảo suy nghĩ một lúc, nhưng vẫn nói rằng cậu không biết. Người chú này ngẫm nghĩ: “Dùng cách gì để khiến thằng bé nói thật với ta đây nhỉ?”. Người chú này nghĩ ngợi một lúc, rồi nói với Tiểu Bảo: “Tiểu Bảo này, ba mẹ con tin Đức Chúa Trời, chú cũng vậy. Chú là bạn tốt nhất của ba mẹ con. Cả ba mẹ con lẫn chú đều tin Đức Chúa Trời, và con cũng tin Đức Chúa Trời. Con có biết Đức Chúa Trời thích những đứa trẻ thế nào không?”. Tiểu Bảo suy nghĩ và nói: “Con không biết”. Người chú này nói: “Đức Chúa Trời thích những đứa trẻ trung thực, không nói dối. Chuyện gì biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết. Đó gọi là đứa trẻ trung thực, và Đức Chúa Trời thích những đứa trẻ như vậy”. Tiểu Bảo suy nghĩ và nói: “Vâng ạ”. Sau đó cậu bé đã không còn nói rằng cậu không biết nữa. Rồi người chú này lại nói: “Nếu con nói thật với chú, thì con sẽ là đứa trẻ trung thực, đứa trẻ được Đức Chúa Trời yêu thích”. Tiểu Bảo suy nghĩ và nói: “Vậy thì được ạ”. Người chú này hỏi: “‘Vậy thì được ạ’ nghĩa là gì?”. Tiểu Bảo nói: “Có nghĩa là ba mẹ con cũng từng nói chuyện về chú”. Thế là người chú này tiếp tục hỏi dồn xem họ từng nói gì và bảo Tiểu Bảo phải là một đứa trẻ trung thực, không được nói dối nhiều lần. Tiểu Bảo nói: “Ba mẹ con nói rằng chú không phải là đứa trẻ tốt. Ba mẹ nói rằng chú không thật thà lắm và họ nên cẩn thận khi nói chuyện với chú”. Người chú này lại hỏi: “Ba mẹ còn nói gì nữa không?”. Tiểu Bảo đáp: “Con không nhớ được”. “Ngoan nào!”, người chú này nói. Thế là Tiểu Bảo đáp: “Ba mẹ nói rằng họ không nên nói tất cả với chú”. Rồi người chú này tiếp tục hỏi dồn và Tiểu Bảo đã kể với anh ta rất nhiều. Trong lòng người chú này ngày càng cảm thấy bất an và nói với Tiểu Bảo: “Tiểu bảo này, con thật là một đứa trẻ ngoan, là một đứa trẻ được Đức Chúa Trời yêu thích bởi vì con là người trung thực và con đã nói cho chú bất cứ điều gì con biết”. Lúc này, Tiểu Bảo đã không còn đề phòng người chú này như lúc đầu nữa, cũng không còn hỏi gì cũng đáp “Con không biết” nữa. Cậu muốn kể hết mọi chuyện cho người chú này biết, để anh ta biết được những gì anh ta không biết – chỉ cần anh ta hỏi thì Tiểu Bảo sẽ nói cho anh ta. Người đàn ông cũng tiết lộ với Tiểu Bảo: “Biệt danh của chú là Đại Bảo, nên con thấy không, con gọi là Tiểu Bảo, còn chú gọi là Đại Bảo. Chẳng phải chúng ta nên trở thành những người bạn tốt nhất sao?”. Tiểu Bảo đáp: “Vâng”. Trao đổi qua lại như vậy, họ đã nói về rất nhiều chuyện, và càng nói, họ càng cảm thấy vui vẻ hơn. Tiểu Bảo cũng được ăn kẹo và không còn đề phòng người chú này nữa. Rồi người chú này yêu cầu Tiểu Bảo rằng: “Sau này nếu ba mẹ có nói gì về chú nữa, con có thể nói cho chú biết được không?”. Tiểu Bảo nói: “Vâng, tất nhiên là có thể rồi, bởi vì chúng ta là bạn tốt mà”. Tiểu Bảo không còn đề phòng người chú này nữa, và người chú này cũng đạt được những thông tin mà anh ta muốn từ cậu bé. Từ hôm đó trở đi, họ đã trở thành những người bạn rất thân nhau. Mỗi khi cha mẹ Tiểu Bảo nói gì đó về người chú này, cậu bé lại nhanh chóng kể với anh ta. Người chú này cũng hứa với Tiểu Bảo rằng: “Chú tuyệt đối sẽ không nói với ba mẹ con về chuyện giữa hai ta – đó là bí mật của chú cháu mình. Sau này, nếu con cần món gì ngon hoặc trò gì hay, chú nhất định sẽ mua cho con. Và nếu có điều gì mà con không muốn ba mẹ biết, thì chú sẽ giữ bí mật cho con”. Như thế Tiểu Bảo càng cảm thấy yên tâm hơn và hết lòng tin tưởng người chú này. Cậu bé giao du với anh ta một cách chân thành, và họ trở thành “hai người bạn tốt chân chính”.
Đây là nội dung khái quát của câu chuyện. Trong câu chuyện không có nhiều nhân vật; hai nhân vật chính là Đại Bảo và Tiểu Bảo. Nội dung cụ thể xoay quanh cách người đàn ông Đại Bảo cố gắng mê hoặc, xúi giục và lôi kéo đứa trẻ Tiểu Bảo, khiến cậu bé kể cho anh ta nghe một vài thông tin mà anh ta muốn biết. Đó là một câu chuyện và một đoạn hội thoại như thế. Từ cốt truyện và đoạn hội thoại đơn giản này, chúng ta có thể thấy được điều gì? Ở đây chủ yếu bàn về đặc trưng của nhân vật nào? Đứa trẻ hay người lớn? (Thưa, người lớn.) Vậy điều gì cần được làm sáng tỏ ở đây? Nội dung cần bàn đến là gì? Chính là người lớn này đã sử dụng rất nhiều thủ đoạn để đạt được mục đích của mình. Các ngươi có hiểu anh ta đã dùng những thủ đoạn nào không? (Thưa, lôi kéo và mê hoặc.) Anh ta đã sử dụng những lợi ích để lôi kéo đứa trẻ và những lời nói đúng để mê hoặc nó, và thậm chí anh ta còn dụ dỗ nó. Anh ta đã dùng điều gì để dụ dỗ nó? Lợi ích – anh ta đã dùng lợi ích để dụ dỗ đứa trẻ. Lôi kéo, dụ dỗ và mê hoặc – việc này vừa là dụ dỗ, vừa là mê hoặc, dùng những lời nói đúng để dụ dỗ, và cũng mang theo tính chất hơi đe dọa nữa. Những lời nói đó nghe có vẻ đúng, nhưng anh ta đã sử dụng những lời này vào việc gì? (Thưa, đạt được ý đồ riêng của anh ta.) Anh ta đã sử dụng chúng vào việc đạt được những mục đích không thể nói cho người ta biết của mình. Những thủ đoạn mà anh ta sử dụng về cơ bản đều có thể thấy rõ ràng. Đây có phải là biểu hiện mà nhân tính bình thường có không? (Thưa, không phải.) Vậy thì loại biểu hiện này thuộc về phương diện nào trong tâm tính bại hoại của Sa-tan? (Thưa, tà ác.) Tại sao lại nói là tà ác mà không phải là giả dối? Mức độ của tà ác sâu sắc hơn giả dối; nó nham hiểm hơn, bí mật hơn, có tính mê hoặc hơn và khó lường hơn giả dối. Trong tà ác còn chứa đựng sự dụ dỗ, xúi giục, lôi kéo, lung lạc, mua chuộc và cám dỗ. Những cách làm và biểu hiện này vượt xa sự giả dối; đó là tà ác, không sai một chút nào. Người chú này không nói: “Nếu mày không nói với tao, tao sẽ đánh mày, đá mày hoặc làm thịt mày!”. Anh ta không dùng những thủ đoạn như thế, nhìn bề ngoài, anh ta có vẻ không ác độc. Nhưng đây thậm chí còn khủng khiếp hơn ác độc – đây là tà ác. Tại sao Ta lại nói đây là tà ác? Giả dối thì thường mọi người còn có thể hiểu thấu được, nhưng thủ đoạn này của anh ta gian xảo hơn. Ngoài mặt anh ta nói chuyện rất lịch sự, hợp tình người, nhưng trên thực tế, trong sâu thẳm nội tâm anh ta có những điều ẩn giấu hơn. Những cách làm và thủ đoạn của anh ta che giấu hơn, nham hiểm hơn sự giả dối mà mọi người thường thấy và thường được tiếp xúc. Những thủ đoạn của anh ta cao siêu hơn, có tính lừa gạt hơn và có tính mê hoặc hơn. Đây chính là tà ác.
Trong cuộc sống thường ngày, các ngươi có thể phân biệt và phân định tâm tính tà ác cũng như biểu hiện tà ác mà người khác bộc lộ ra không? Mặc dù người giả dối khá khéo léo, nhưng tiếp xúc với họ một thời gian, hầu hết mọi người vẫn có thể hiểu thấu họ. Tuy nhiên, với người có tâm tính tà ác thì không dễ gì hiểu thấu như thế. Nếu ngươi không thể nhìn được thực chất hoặc hậu quả, ngươi sẽ không cách nào hiểu thấu được họ. Người tà ác thậm chí còn nham hiểm hơn người giả dối. Ngươi không cách nào hiểu thấu được họ chỉ bằng một hai câu họ nói. Đối với người có tâm tính tà ác, trong một giai đoạn hoặc thời gian ngắn, ngươi có thể không nhìn thấu hoặc hiểu thấu được tại sao họ lại làm chuyện đó, tại sao họ lại dùng cách nói như thế, cách làm như thế. Đợi đến một ngày họ bị bại lộ triệt để và bị phơi bày hoàn toàn, thì mọi người mới phát hiện rằng đây không chỉ là giả dối, mà còn là tà ác. Cho nên, để phân định được tâm tính tà ác thì phải trải nghiệm một khoảng thời gian, và đôi khi còn phải nhìn thấy hậu quả thì mới có thể phân định ra được – đây không phải là chuyện có thể phân định ra được trong thời gian ngắn. Chẳng hạn như con rồng lớn sắc đỏ mê hoặc nhân loại mấy chục năm, và ngày nay mới chỉ một số ít người có chút phân định. Con rồng lớn sắc đỏ thường nói một vài lời dễ nghe nhất và phù hợp nhất với quan niệm của con người, giương cao ngọn cờ phục vụ nhân dân để mê hoặc mọi người, giương cao ngọn cờ chính nghĩa để loại trừ phe đối lập, tàn sát vô số người tốt. Nhưng chẳng có mấy ai có thể phân định ra được vì những gì nó nói và làm đều đúng trong mắt mọi người. Ai cũng cho rằng mọi việc nó làm hết thảy đều danh chính ngôn thuận, hợp pháp và hợp lý, hợp nhân đạo. Kết quả là nó đã mê hoặc mọi người mấy chục năm. Đến lúc nó bị phơi bày triệt để và sụp đổ rồi, mọi người mới nhìn ra bộ mặt thật của nó là ma quỷ và thực chất bản tính của nó là tà ác. Con rồng lớn sắc đỏ đã mê hoặc nhân loại nhiều năm như thế, trong mỗi người đều có độc tố của con rồng lớn sắc đỏ – họ đã trở thành hậu duệ của nó. Trong các ngươi có ai có thể làm loại chuyện như con rồng lớn sắc đỏ đã làm không? Có những người có cách nói chuyện giống như con rồng lớn sắc đỏ, nói chuyện cực kỳ êm tai, nhưng lại không làm việc thật nào. Cố gắng nói lời dễ nghe, nhưng lại không làm việc thật. Họ còn đặc biệt nham hiểm và tà ác nữa. Với loại người này, bất kỳ ai đắc tội với họ, họ cũng sẽ không buông tha. Sớm muộn gì họ cũng sẽ tìm được cơ hội thích hợp để đạt được mục đích trả thù mà không cho người khác nắm được sơ hở. Họ thậm chí còn xử lý vấn đề mà không xuất đầu lộ diện. Đó chẳng phải là tà ác sao? Người tà ác làm việc với những nguyên tắc, thủ đoạn, ý định, động cơ và xuất phát điểm đặc biệt bí mật và không thể cho người ta biết. Người tà ác sử dụng quỷ kế để hại người, có khi mượn đao giết người, có khi dụ dỗ người ta phạm tội để trừng trị họ, có khi mượn pháp luật hoặc dùng mọi thủ đoạn đê hèn để trừng trị người khác. Đây đều là những biểu hiện của sự tà ác, đều không phải là mánh khóe quang minh chính đại. Các ngươi có những biểu hiện và sự bộc lộ này không? Các ngươi có thể phân định được chúng không? Các ngươi có thể ý thức được rằng đây là tâm tính tà ác không? Giả dối thì thường có thể nhìn ra được từ bề ngoài: người ta nói chuyện vòng vo hoặc khéo ăn khéo nói, và không ai có thể suy đoán được tâm tư của họ. Đó là giả dối. Đặc trưng chính của tà ác là gì? Đó là lời họ nghe cực kỳ êm tai, nghe bên ngoài thì có vẻ đúng. Dường như không bới móc ra được bất kỳ vấn đề gì, và mọi thứ trông khá tốt đẹp từ mọi mặt. Khi họ làm gì đó, ngươi không thấy họ dùng thủ đoạn gì, và nhìn bề ngoài không có một chút sơ hở hay khiếm khuyết nào, vậy mà họ lại đạt được mục đích của mình. Họ làm mọi việc cực kỳ bí mật. Đây chính là cách kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc mọi người. Những loại người và loại chuyện như thế này là khó phân định nhất. Có những người thường nói một vài lời nói đúng, sử dụng những lí do thoái thác êm tai, và dùng một số đạo lý, câu nói hoặc cách làm hợp tình người để che mắt mọi người. Họ giả vờ làm việc này trong khi đang làm việc khác để đạt được mục đích không thể cho người ta biết của mình. Đây chính là tà ác, nhưng hầu hết mọi người đều xem những biểu hiện này là giả dối. Con người có nhận thức và mổ xẻ tương đối ít về sự tà ác. Trên thực tế, tà ác khó phân định hơn giả dối, bởi vì nó bí mật hơn, hơn nữa những thủ đoạn, cách làm của nó cũng cao siêu hơn. Nếu bên trong ai đó có tâm tính giả dối, thì thông thường người khác có thể nhìn ra sự giả dối của họ trong hai, ba ngày tiếp xúc, hoặc có thể nhìn ra tâm tính giả dối mà họ bộc lộ khi làm việc, nói chuyện. Tuy nhiên, giả sử người đó tà ác, vậy thì đây không phải là chuyện có thể phân định được trong một vài ngày, bởi vì trong một khoảng thời gian ngắn, nếu không có chuyện gì lớn hay chuyện gì đặc biệt xảy ra, chỉ nghe họ nói không thôi thì không dễ phân định được điều gì cả. Họ luôn nói lời đúng, làm chuyện đúng, giải thích hết đạo lý này đến đạo lý khác. Sau vài ngày tiếp xúc, ngươi cảm thấy người này khá tốt, có thể vứt bỏ mọi sự và dâng mình, có hiểu biết thuộc linh, có lòng yêu kính Đức Chúa Trời, và làm việc có cả lương tâm và lý trí. Nhưng sau khi họ xử lý vài việc, ngươi thấy có quá nhiều thứ, quá nhiều ý định ma quỷ trộn lẫn trong lời nói và hành động của họ. Ngươi sẽ phát hiện ra rằng người này không trung thực, mà họ giả dối – một thứ tà ác. Họ thường sử dụng những lời nói đúng và lời nói êm tai, hợp lẽ thật và có tình người để giao tiếp với mọi người. Một mặt, họ khẳng định bản thân; mặt khác, họ mê hoặc người khác, đạt được danh vọng và địa vị giữa mọi người. Những người như thế vô cùng mê hoặc, và một khi có được quyền lực, địa vị, họ có thể mê hoặc và làm hại nhiều người. Người có tâm tính tà ác rất nguy hiểm. Xung quanh các ngươi có ai như vậy không? Bản thân các ngươi có phải loại người này không? (Thưa, phải.) Vậy các ngươi nghiêm trọng đến mức độ nào rồi? Nói chuyện, làm việc không có một chút nguyên tắc lẽ thật nào, hoàn toàn dựa trên bản tính tà ác của mình để làm việc, luôn muốn mê hoặc người khác và sống sau lớp mặt nạ, để người khác không thể nhìn thấu hoặc hiểu thấu ngươi và khiến người khác đạt đến có thái độ sùng bái, ngưỡng vọng địa vị và nhân tính của ngươi – đây chính là tà ác. Thông thường, các ngươi chỉ thỉnh thoảng mới có một chút biểu hiện tà ác này hay phần lớn thời gian đều như vậy? Có phải bản thân các ngươi là người như thế và rất khó thoát khỏi không? Nếu ngươi chỉ thỉnh thoảng có chút thủ đoạn này thì còn có thể thay đổi. Nhưng nếu ngươi chính là người như thế, luôn làm việc khéo léo và giả dối, luôn làm việc dựa vào thủ đoạn, thì ngươi là ma quỷ xảo quyệt nhất. Ta sẽ nói cho các ngươi biết một sự thật: những người như thế này sẽ không bao giờ thay đổi.
Trong câu chuyện, Đại Bảo đã sử dụng thủ đoạn như thế để mê hoặc Tiểu Bảo và khiến cậu bé nói thật với anh ta. Nói Ta nghe, ai dạy anh ta làm việc như vậy? Không ai dạy anh ta cả. Vậy những chiêu trò này xuất phát từ đâu? (Thưa, từ bản tính của anh ta.) Chúng xuất phát từ bản tính của anh ta, từ thực chất bại hoại của anh ta. Anh ta chính là người như vậy. Ngay cả một đứa trẻ anh ta cũng không tha – chuyện này thật hèn hạ biết bao! Nếu muốn biết sự thật, anh ta có thể tìm người lớn mà hỏi, hoặc anh ta có thể chủ động biết mình và giãi bày lòng mình với người ta; thì có lẽ người ta sẽ nói thật với anh ta. Không cần phải sử dụng loại thủ đoạn này để làm loại chuyện đáng xấu hổ và vụng về này sau lưng người khác. Đây chính là những việc mà người có tâm tính tà ác làm. Nói Ta nghe, chẳng phải như thế đáng ghê tởm sao? (Thưa, đáng ghê tởm.) Thậm chí anh ta còn không tha cho một đứa trẻ; thấy đứa trẻ dễ bắt nạt, lừa bịp và lừa đảo, nên anh ta liền có âm mưu với nó. Vậy nếu mà thấy một người lớn trung thực và thiện lương, anh ta sẽ đối xử với họ như thế nào? Anh ta có thể tha cho họ không? Tuyệt đối là không thể. Nếu thấy ai đó giống như mình, thích giở thủ đoạn khi nói chuyện và làm việc, thì anh ta sẽ làm gì? (Thưa, anh ta biết rằng người đó cũng tà ác y như anh ta và có thể sẽ đề phòng họ, sẽ không dễ dàng bộc lộ điều gì.) Ngoài việc đề phòng thì còn gì nữa không? (Thưa, anh ta sẽ tranh đấu.) Anh ta sẽ tranh đấu cả công khai lẫn vụng trộm – chính là vậy. Đây chính là biểu hiện của người có tâm tính tà ác. Loại người này thích tranh đấu với người khác cả công khai lẫn vụng trộm, không bỏ qua cơ hội nào. Họ có một câu châm ngôn nổi tiếng, và nếu ngươi gặp phải loại người này và nghe được họ nói câu này, ngươi có thể chắc chắn rằng họ có tâm tính tà ác. Họ nói câu gì? Chẳng hạn như khi ngươi bảo họ phối hợp làm bổn phận với một người khác, họ nói: “Ôi, tôi tranh đấu làm sao nổi với họ!”. Họ nghĩ đến “tranh đấu” trước tiên. Suy nghĩ đầu tiên của họ không phải là về việc làm sao phối hợp với người khác để làm tốt công việc, mà là về việc tranh đấu với người ta. Đây là câu châm ngôn nổi tiếng của họ. Bất kể họ thuộc nhóm người nào, dù ở giữa những người ngoại đạo, các anh chị em hay người nhà, thì quy luật duy nhất của họ là gì? Đó là tranh đấu, và nếu họ không thể tranh đấu lại một cách công khai, thì họ sẽ vụng trộm tranh đấu. Dạng tâm tính này chính là tà ác. Có người, bề ngoài trông như đang tán gẫu bình thường với người khác, nhưng trong lòng lại đang vụng trộm tranh đấu, vận dụng các loại thủ đoạn và kỹ xảo để công kích một cách vòng vo, hạ thấp đối phương. Những người không biết phân định sẽ không nhìn ra được lề lối của họ, và đến khi nhìn ra được thì sự tranh đấu của họ đã có kết quả rồi. Đây chính là tà ác. Khi người tà ác chung sống với người khác thì đều tranh đấu cả, công khai lẫn vụng trộm, dùng các loại quỷ kế, âm mưu hoặc thủ đoạn nhất định để đánh bại người khác, khiến người khác chịu phục và cuối cùng đạt đến khiến mọi người đều phục họ. Từ khi có nhân loại cho đến hiện tại, toàn bộ lịch sử nhân loại đều tràn ngập từ “tranh đấu”. Dù trên quy mô lớn giữa các quốc gia, trên quy mô nhỏ giữa các gia đình, hay ở cấp độ cá nhân giữa mọi người, không cộng đồng nào là không tràn đầy đấu tranh; không phải là tranh đấu công khai thì cũng là vụng trộm, không phải là đấu văn thì cũng đấu võ. Trong lịch sử Trung Quốc, giai đoạn chiến tranh giữa các dân tộc khác nhau thường xuyên nhất là Thời Xuân Thu và Thời Chiến Quốc. Hầu hết sách binh pháp nổi tiếng cơ bản đều xuất hiện trong hai thời kỳ này, như các kế sách trong cuốn Binh Pháp Tôn Tử – tất cả đều sinh ra từ thời đó. Ngoài ra, còn có cuốn Ba mươi sáu kế, ghi lại mọi kế sách sử dụng trong chiến tranh. Ngày nay, một số kế sách và chiến thuật quân sự này vẫn đang được sử dụng. Nói Ta nghe, có những kế sách gì? (Thưa, “Khổ nhục” kế.) (Thưa, “Điệu hổ ly sơn” kế.) (Thưa, “Phản gián” kế, “Không thành” kế và “Mỹ nhân” kế.) Tất cả những kế sách nổi tiếng này, dù bắt đầu với “Mỹ nhân”, “Không thành” hay “Điệu hổ ly sơn”, thì cũng đều kết thúc với chữ “Kế”. “Kế” nghĩa là gì? (Thưa, “kế sách” hoặc “sự tính toán”.) Nó là một số kế sách nham hiểm, xảo trá, ám muội hoặc bí mật. “Kế” này không phải là chữ “kế” trong kế hoạch – mà là âm mưu. Đằng sau những kế này, chúng ta thấy được điều gì? Những việc làm, biểu hiện của họ, cũng như những kế sách và cách làm mà họ sử dụng trong chiến tranh này có hợp với nhân tính và lẽ thật không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời có làm việc như vậy không? (Thưa, không.) Tuyệt đối không. Vậy những cách làm này đại diện cho ai? Chúng đại diện cho Sa-tan và nhân loại tà ác này. Những kế sách này của nhân loại tà ác bắt nguồn từ đâu? (Thưa, từ Sa-tan.) Họ có được chúng từ Sa-tan. Một số người có thể khó hiểu với lời này, vì vậy Ta nên nói rằng họ có được chúng từ ma vương – như vậy mọi người sẽ dễ hiểu hơn. Ma vương là ai? Họ là những ma quỷ và Sa-tan đầu thai chuyển thế đến nhân thế làm yêu quái và gây tai vạ cho nhân loại – họ lập ra những kế sách này. Trong những ghi chép về công tác của Đức Chúa Trời, các ngươi có bao giờ thấy Ngài sử dụng Không thành kế hay Điệu hổ ly sơn kế không? Kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời có bao gồm những kế này không? Đức Chúa Trời không bao giờ sử dụng những kế như vậy để quản lý công tác của Ngài. Những kế sách này được toàn thể nhân loại tà ác sử dụng. Từ một quốc gia hay triều đại trên quy mô lớn, cho đến một họ hàng hay gia đình trên quy mô nhỏ, thậm chí đến tận mối quan hệ giữa người với người, phàm là nơi có nhân loại bại hoại thì sẽ không thể thiếu tranh đấu. Tranh cái gì? Đấu cái gì? Để đạt được mục đích gì? Tất cả đều vì quyền lực, địa vị và lợi ích – để đạt được những thứ này. Quốc gia tranh đấu với quốc gia để có thể thống trị nhiều người hơn. Các dân tộc đấu đá lẫn nhau vì lãnh thổ, con người và chủ quyền. Người đấu đá với người để tranh giành ưu thế và lợi ích. Nơi nào có nhân loại, thì nơi đó có tranh đấu, bởi vì nơi nào có nhân loại, thì nơi đó có sự bại hoại của Sa-tan. Toàn thể nhân loại nói chung đã bị Sa-tan làm bại hoại, nên thế giới mới tràn ngập tranh đấu và đổ máu. Nhân loại bại hoại làm việc gì cũng đều không thể thoát khỏi sự trói buộc của tâm tính Sa-tan. Vì thế, toàn bộ lịch sử nhân loại, dù ở phương Tây hay phương Đông, mọi phần của lịch sử nhân loại đều là bản tường thuật đáng lên án về sự tranh đấu tà ác của nhân loại. Thậm chí nhân loại còn cảm thấy đây là chuyện vẻ vang. Ngày nay, một số người vẫn còn đang học về Ba mươi sáu kế của Trung Quốc. Các ngươi có đang học về chúng không? (Thưa, không.) Nếu ngươi có lòng học về những thứ này, hấp thu những kinh nghiệm, bài học, thủ đoạn phương thức và phương pháp ở trong đó để làm giàu trí óc mình và biến chúng thành kỹ năng sinh tồn của mình, thì điều đó chắc chắn là sai lầm. Ngươi chắc chắn sẽ ngày càng gần Sa-tan hơn, ngày càng tà ác hơn, ngày càng xấu xa hơn. Nhưng nếu ngươi có thể thay đổi góc độ và mổ xẻ, phân định, cũng như vạch trần chúng theo lời Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ đạt được kết quả gì? Ngươi sẽ càng căm ghét Sa-tan hơn, càng hiểu và căm ghét chính mình hơn. Kết quả tốt hơn nữa là gì? Đó là vứt bỏ Sa-tan và quyết một lòng đi theo Đức Chúa Trời. Sa-tan lợi dụng những cái gọi là văn hóa truyền thống này và đủ loại tri thức, lý luận mà nhân loại tích lũy qua hàng ngàn năm để dạy dỗ và tiêm nhiễm vào con người, nhằm làm bại hoại và khống chế họ ở mức độ sâu sắc hơn. Nếu ngươi học về những thứ này đến nơi đến chốn và biết cách sử dụng chúng, thì ngươi sẽ trở thành một Sa-tan sống, và ngươi sẽ bị Đức Chúa Trời đào thải triệt để.
Trong những buổi nhóm họp trước đây, khi thông công về việc hiểu mình, hầu hết mọi người thường nói đến vấn đề tâm tính kiêu ngạo, đây là tâm tính bại hoại thường thấy nhất và sự tồn tại của nó cũng phổ biến. Có những tâm tính bại hoại nào khác cũng tương đối phổ biến? (Thưa, giả dối và cương ngạnh.) Giả dối, cương ngạnh, chán ghét lẽ thật và hung ác – đây là những điều mà mọi người thường xuyên được tiếp xúc. Phương diện tà ác thì con người ít tiếp xúc hơn, và cũng ít khi nhận biết được hơn. Có thể nói rằng tâm tính tà ác là khó nhận biết nhất, và nó là một dạng tâm tính bại hoại ẩn núp ở chỗ sâu nhất và tương đối bí mật, đúng không? Chẳng hạn như hai người sống cùng nhau, và không ai yêu thích lẽ thật hay mưu cầu lẽ thật cả, cũng không ai trung thành khi làm bổn phận. Nhìn bề ngoài, có thể hai người họ sống hòa thuận cùng nhau, không vấn đề gì cả. Nhưng trong sâu thẳm nội tâm, không ai mưu cầu lẽ thật, và các loại tâm tính bại hoại vẫn tồn tại, dù ngươi không thể thấy. Tại sao ngươi không thể thấy? Đó là bởi vì cả hai người này đều vô cùng giả dối và làm việc khôn khéo. Vì ngươi không hiểu được lẽ thật và không hề có chút phân định nào cả, nên ngươi không thể nhìn thấu được thực chất vấn đề của họ. Những lẽ thật ngươi hiểu được rất ít, vóc giạc của ngươi quá nhỏ bé, nên có nhiều vấn đề phức tạp mà ngươi không cách nào nhìn thấu được, muốn giúp người khác giải quyết vấn đề cũng bất lực. Là lãnh đạo, nếu gặp phải những người như thế này, thì các ngươi làm thế nào? Nếu ngươi vạch trần và phân định họ, họ có dễ dàng tiếp nhận không? Không. Vậy nên đối đãi với loại người này như thế nào? Có biện pháp nào không? Nguyên tắc đối đãi với loại người này là gì? Nếu họ biết một số kỹ thuật nghiệp vụ, có thể đem sức lực phục vụ vì nhà Đức Chúa Trời, thì ngươi nên đối đãi và đưa ra yêu cầu với họ như với anh chị em. Nhưng những người như thế này không mưu cầu lẽ thật, liệu họ có thể trung thành khi làm bổn phận được không? (Thưa, không.) Biểu hiện nào cho thấy họ không có lòng trung thành? Chẳng phải loại người này vô cùng biết cách làm công việc giữ thể diện sao? Khi xung quanh không có ai, thì họ sẽ chơi và làm một cách chậm chạp. Ngay khi thấy có người đi tới, họ liền vội vàng làm. Thậm chí họ còn đưa ra một đống vấn đề, hỏi xem thế này có được không, thế kia có được không. Đến lúc người đó vừa đi thì họ cũng không còn việc gì nữa, chẳng làm gì cả, không hề có vấn đề nào cả, và thậm chí còn tự nhủ trong lòng: “Tôi chỉ đang giỡn chơi với anh thôi; chứ tôi đâu có ngu như vậy!”. Loại người này cố gắng làm công việc giữ thể diện; họ vô cùng biết cách tạo vỏ bọc cho bản thân và rất giỏi giả vờ, tạo cho mọi người ấn tượng sai lầm. Nhiều người tiếp xúc với họ nhiều năm mà vẫn không thể nhìn thấu được thực chất xảo quyệt và giả dối của họ. Khi được hỏi về họ, thậm chí những người đó còn nói: “Người này tốt lắm, không tệ với ai cả, không bao giờ làm hại ai, là một người dĩ hòa vi quý. Thậm chí khi có ai làm sai, họ cũng không tỉa sửa; họ không ngừng khuyến khích và an ủi người khác”. Khi chung sống với người khác, loại người này có những thủ đoạn và phương pháp nào? Họ góp vui lấy lệ, khôn khéo trăm bề, và hầu hết mọi người đều nói họ là người tốt. Xung quanh các ngươi có loại người này không? (Thưa, có.) Ai cũng có sự bộc lộ những tâm tính bại hoại riêng của mình, nhưng những người này tạo vỏ bọc cho bản thân vô cùng kín kẽ, ai cũng không phát hiện được vấn đề của họ. Đây chẳng phải là có vấn đề sao? Trong lịch sử, có những hoàng đế làm nhiều việc ác như thế, nhưng hậu thế vẫn gọi họ là minh quân. Tại sao mọi người lại có nhận định như vậy về họ? Chẳng phải họ đã bỏ một ít công sức và làm một số việc vì danh tiếng của bản thân sao? Một mặt, họ làm một số việc tốt vì những thành tích chính trị riêng của mình, mặt khác, họ xuyên tạc lịch sử và sát hại những người viết ra chân tướng sự thật về họ để che đậy những việc xấu họ làm. Nhưng dù họ có che đậy đi nữa, thì chắc chắn vẫn có những ghi chép về việc làm của họ. Họ không thể sát hại tất cả mọi người biết tình hình thực tế được. Cuối cùng, những chuyện đó bị hậu thế lột trần ra từng chút một. Khi mọi người biết được, họ cảm thấy bị lừa gạt. Thông qua việc vạch trần những sự thật lịch sử này, con người nên có một nhận thức mới về tình hình thực tế về toàn thể nhân loại. Nhận thức như thế nào? Từ vua chúa cho đến dân thường, toàn thể nhân loại đều nằm trong tay những kẻ ác, bị Sa-tan làm bại hoại để rồi người này tà ác hơn người kia. Không có ai là không ác cả, không có ai là không xấu cả. Hết thảy họ đều làm rất nhiều việc xấu; hết thảy họ đều rất tà ác, không có ai là người tốt cả. Có người nói: “Trong triều đại nào cũng có vài vị quan thanh liêm. Những vị quan thanh liêm này có tính là tà ác không?”. Nếu ngươi tin Đức Chúa Trời dưới quyền của những vị quan thanh liêm này, hãy xem họ có bắt ngươi hay không. Nếu ngươi chứng thực về Đức Chúa Trời với họ, hãy xem thái độ của họ là gì. Ngươi sẽ biết ngay rằng họ có tà ác hay không. Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời, cũng như lẽ thật mà Ngài bày tỏ, tỏ lộ người ta nhất. Một số người cai trị và quan chức có một vài thành tựu chính trị và làm một vài việc tốt, nhưng tính chất của những việc tốt này là gì? Chúng có lợi cho ai? Đó là những việc tốt theo yêu cầu của giai cấp thống trị. Những việc tốt họ làm có phải là những việc lành mà Đức Chúa Trời khen ngợi không? “Những thành tựu chính trị” này có phải là thực hành lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời không? Tuyệt đối không. Những thành tựu chính trị và việc tốt mà họ làm hoàn toàn không liên quan gì đến lẽ thật hoặc việc thuận phục Đức Chúa Trời. Chút việc tốt và thành tựu chính trị mà họ làm đều có ý định và động cơ của họ; để bản thân lưu danh nghìn đời, được người khác ca tụng. Cho nên, bất kể họ làm bao nhiêu việc tốt hay có bao nhiêu thành tựu chính trị, thì điều đó cũng không thể chứng tỏ rằng họ là người tốt có tâm địa thiện lương, càng không thể chứng tỏ rằng họ chưa bao giờ hành ác hoặc không có bản tính tà ác. Ngươi có rõ những người này là kiểu người gì trong mắt Đức Chúa Trời chưa? Các ngươi có thể mượn những việc này để hiểu mình không? Các ngươi có những cách làm này không, làm chút việc tốt thì rất muốn khoe khoang, để ai cũng biết, sau đó ngoài mặt còn nói người ta không nên khoác lác hay kiêu ngạo, làm người thì phải khiêm tốn? Chẳng hạn như ngươi đến một hội thánh mới để thực hiện công tác, và mọi người không biết ngươi là lãnh đạo, nên ngươi đã phải nghĩ đủ mọi cách để mọi người biết mình là lãnh đạo, và ngươi vắt óc nghĩ suốt đêm, cuối cùng cũng nghĩ ra một biện pháp hay. Biện pháp là gì? Ngươi triệu tập mọi người nhóm họp và nói rằng: “Trong buổi nhóm họp ngày hôm nay, hãy cùng thông công về việc liệu tôi, với tư cách là lãnh đạo, có đạt tiêu chuẩn hay không. Nếu tôi không đạt tiêu chuẩn, thì các anh chị em có thể lột trần và miễn nhiệm tôi. Còn nếu tôi đạt tiêu chuẩn, thì tôi sẽ tiếp tục làm”. Mọi người vừa nghe liền biết rằng ngươi là lãnh đạo. Chẳng phải ngươi đã đạt được mục đích của mình rồi sao? Mục đích này bắt nguồn từ đâu? Là do bản tính tà ác chi phối. Có dã tâm là điểm chung của con người, tuy nhiên, mặc dù ai cũng có dã tâm, nhưng có những người sẽ vận dụng đủ loại ngôn ngữ, thủ đoạn và phương thức trong những thời điểm khác nhau và ở những nơi chốn khác nhau để đạt được mục đích mình muốn đạt được. Đây chính là tà ác.
Về chủ đề bản tính tà ác này, sau này chúng ta vẫn phải thường xuyên thảo luận. Như vậy, các ngươi sẽ càng ngày càng nhận thức được thấu đáo hơn về phương diện lẽ thật và tâm tính bại hoại này. Một mặt, các ngươi có thể hiểu mình, mặt khác, các ngươi cũng biết phân định các kiểu người khác nhau. Các ngươi cũng sẽ có sự bước vào sâu hơn trong phương diện lẽ thật. Nếu Ta chỉ thông công về một khái niệm chung chung hoặc về một phương diện của định nghĩa, các ngươi sẽ nhận biết khá nông cạn. Tuy nhiên, thông qua một số việc thực và việc đưa ra ví dụ để thông công, nhận thức của các ngươi có thể sâu sắc hơn. Ví dụ: giả sử hai đứa trẻ đang nói chuyện với nhau. Một đứa hỏi: “Hôm nay, cậu đã làm bài tập về nhà chưa?”. Đứa kia đáp: “Tớ chưa làm”. Rồi đứa đầu nói: “Tớ cũng chưa làm”. Hai đứa này có đang nói thật không? (Thưa, có.) Ngươi nhầm rồi, có một đứa đang nói dối. Trong lòng nó nghĩ thế nào? “Đồ ngốc, cậu tưởng là tôi thực sự chưa làm bài tập sao? Tôi đâu có ngu như vậy! Nếu không làm bài tập về nhà, tôi sẽ bị phạt. Làm sao tôi có thể chưa làm được? Tôi cố tình khiến cậu tưởng là tôi chưa làm để cậu cũng không làm thôi. Cuối cùng, cậu sẽ bị phạt, còn tôi có thể lấy cậu ra làm trò cười”. Đứa trẻ này có xấu không? (Thưa, xấu.) Trong các ngươi có ai từng làm chuyện này chưa? Lại lấy một ví dụ khác: ngày Thứ Hai, lúc đến trường, một học sinh nói rằng Chủ Nhật vừa rồi cô đi mua sắm, trong khi một học sinh khác nói rằng cô đi thăm bạn bè. Thực ra, cả hai học sinh này đều ở nhà học bài. Đặc biệt là người Trung Quốc cạnh tranh vô cùng gay gắt, người ta nói như vậy để khiến đối thủ buông lỏng cảnh giác, để bản thân dễ dàng vượt qua họ. Đây gọi là thủ đoạn. Trong cuộc sống, loại chuyện này đâu đâu cũng có thể thấy. Đôi khi giữa cha mẹ và con cái cũng có những cuộc đối thoại tương tự và sự bộc lộ tâm tính tương tự, giữa bạn bè với nhau cũng có sự bộc lộ tương tự. Những sự bộc lộ tâm tính này có thể nhìn thấy ở khắp mọi nơi, chỉ xem ngươi có thể quan sát kỹ lưỡng không thôi. Quan sát để làm gì? Không phải là để lấy tài liệu, tán gẫu, bàn chuyện đúng sai hay tạo câu chuyện. Mà thay vào đó là để nâng cao sự phân định của ngươi, cho phép ngươi đối chiếu bản thân thông qua những việc người khác làm và những gì họ bộc lộ, biểu hiện, để ngươi xem mình có những biểu hiện như thế hay không. Khi ngươi thấy ai đó có biểu hiện như thế, ngươi sẽ biết rằng họ có phương diện tâm tính này. Nhưng khi ngươi cũng có biểu hiện như thế, liệu ngươi có thể nhận thức được mình cũng có phương diện tâm tính này hay không? Nếu ngươi không thể nhận thức được, thì nhận thức kia của ngươi là giả: ngươi chưa nhận thức được thấu đáo, hay nói cách khác là ngươi căn bản không có hiểu biết thuộc linh, và ngươi chưa nhận thức chính xác được. Những chủ đề này không thể vài ngày là giảng hết được. Giảng một chút thì các ngươi có được một chút, nhận thức về lẽ thật của các ngươi cũng sâu hơn. Nếu thực sự yêu thích lẽ thật, ngươi có thể có sự bước vào sâu hơn. Bề sâu trải nghiệm và sự bước vào của ngươi gắn liền với nhận thức của ngươi. Bề sâu trải nghiệm và sự bước vào của ngươi chắc chắn sẽ quyết định bề sâu nhận thức của ngươi. Tương tự như vậy, bề sâu nhận thức của ngươi cũng có thể chứng tỏ ngươi đã trải nghiệm và bước vào sâu đến đâu. Hai điều này không thể tách rời nhau. Đây chính là con đường để bước vào lẽ thật, bước vào lẽ thật thì mới có thực tế. Chúng ta sẽ kết thúc chủ đề này ở đây, tiếp theo đây chúng ta sẽ nói về chủ đề chính phải thông công ngày hôm nay.
Mổ xẻ về cách kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc, lôi kéo, đe dọa và khống chế mọi người
I. Mổ xẻ về cách kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc mọi người
Trong buổi nhóm họp lần trước, chúng ta đã thông công xong về mục thứ tư trong phần những biểu hiện khác nhau của kẻ địch lại Đấng Christ. Hôm nay, chúng ta sẽ bắt đầu thông công về mục thứ năm: cách kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc, lôi kéo, đe dọa và khống chế mọi người. Trong phương diện biểu hiện này của kẻ địch lại Đấng Christ có bốn động từ, và từ bốn động từ này cũng như hành vi của loại người địch lại Đấng Christ, chúng ta có thể thấy được những tâm tính của họ. Động từ đầu tiên là “mê hoặc”. Ở đây chứa đựng kiểu tâm tính gì? Đó chính là tà ác. Vậy còn “lôi kéo” thì sao? Lôi kéo người khác thì thường sử dụng những lời dễ nghe hay khó nghe? (Thưa, những lời dễ nghe.) Vậy tâm tính nào chi phối loại hành vi này? Tà ác. Còn “đe dọa” và “kiểm soát” thì sao – tâm tính nào chi phối những điều này? (Thưa, hung ác.) Đúng vậy, hung ác. Từ mục thứ năm, chúng ta có thể thấy được những tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ. Trong mục này, những biểu hiện chính của kẻ địch lại Đấng Christ là gì? (Thưa, tà ác và hung ác.) Hai phương diện tâm tính tà ác và hung ác này đều rất nổi bật và rõ ràng. Chúng ta sẽ nói về từng hành vi này một, nói về “mê hoặc” trước. Ý nghĩa cơ bản của từ “mê hoặc” này là gì? Trong đó có biểu hiện của sự trung thực không? Có lời nói thật nào không? (Thưa, không.) Không có lời nói thật nào – tất cả đều là giả dối, là sử dụng những biểu hiện giả dối, những lời nói dối và gạt người để khiến người khác tin những gì mình nói là đúng, từ đó đạt đến khiến người khác thừa nhận và tin tưởng mình. Đây gọi là “mê hoặc”. Những người bị mê hoặc có đạt được lẽ thật hay bước trên con đường đúng đắn được không? Cả hai điều đó họ đều không làm được. Hành vi và cách làm mê hoặc mọi người chắc chắn là tiêu cực, chứ không phải tích cực. Những người bị mê hoặc chẳng khác nào bị lừa cả; họ không hiểu được chân tướng, tình hình thực tế hoặc bối cảnh thực, sau đó họ chọn sai con đường và phương hướng, cũng như chọn sai đối tượng để đi theo. Đây là ảnh hưởng xảy ra trên những người bị mê hoặc. Nó cũng giống như những quảng cáo trong trung tâm thương mại: viết rất hay, mọi người xem xong quảng cáo liền tin là thật, nhưng sau khi mua về thì lại chẳng có tác dụng gì. Đó là bị lừa. Vậy mục đích của kẻ địch lại Đấng Christ là gì khi họ có hành vi mê hoặc mọi người? Họ sử dụng những phương thức nào, nói những lời nào và làm những việc gì để mê hoặc mọi người? Đầu tiên, hãy cùng nói về mục đích của họ. Nếu không hề có mục đích gì cả, liệu họ có cần phải bỏ công sức hoặc nói những lời dễ nghe để lôi kéo và mê hoặc mọi người không? Người ngoại đạo có câu: “Không có bữa trưa nào là miễn phí cả”. Nếu ngươi không thể nhìn thấu được chuyện này, thì ngươi sẽ bị lừa. Nhân thế tà ác như vậy đấy, người với người tính toán lẫn nhau, tàn hại lẫn nhau. Đây chính là cuộc sống của nhân loại bại hoại. Tại sao kẻ địch lại Đấng Christ lại bỏ công sức nói chuyện quanh co lòng vòng để mê hoặc mọi người? Họ nói chuyện và làm việc có mục đích rõ ràng, chính là để tranh đoạt quyền lực và kiểm soát mọi người – đây là điều không còn gì để nghi ngờ nữa. Những mục tiêu làm việc của họ không khác gì của các chính trị gia. Vậy thì kẻ địch lại Đấng Christ có những thủ đoạn nào để mê hoặc mọi người? Họ làm điều đó như thế nào? Đầu tiên, họ sẽ khiến ngươi có thiện cảm với họ. Sau khi có thiện cảm với họ, ngươi sẽ không đề phòng họ nữa: ngươi sẽ tin tưởng họ, sau đó tiếp nhận sự lãnh đạo của họ và bằng lòng vâng phục họ. Họ nói gì hay bảo ngươi làm gì, ngươi cũng sẵn lòng nghe theo. Sự sẵn lòng nghe theo này nghĩa là gì? Nghĩa là không thực hành phân định, và nghe theo, vâng phục một cách vô nguyên tắc. Liệu kẻ địch lại Đấng Christ có thể đạt được hiệu quả mê hoặc mọi người bằng cách sử dụng lời nói hoặc phương thức kết tội không? Tuyệt đối không thể. Vậy họ thường sử dụng những phương thức nào để có thể đạt được hiệu quả này? Phần lớn thời gian họ sẽ sử dụng những lời hợp với quan niệm của con người, hợp với tình người và đạo lý. Đôi khi họ cũng nói một ít câu chữ và đạo lý hợp lẽ thật. Như thế, họ dễ dàng đạt được mục đích mê hoặc mọi người, và mọi người cũng dễ tiếp nhận chúng. Chẳng hạn như khi các anh chị em làm sai việc gì đó, mang lại thiệt hại cho công tác của hội thánh, và trong lòng họ cảm thấy tiêu cực, yếu đuối, thì kẻ địch lại Đấng Christ sẽ không thông công về lẽ thật để nâng đỡ và trợ giúp họ. Mà thay vào đó, kẻ địch lại Đấng Christ nói: “Việc người ta yếu đuối là chuyện thường tình – bình thường thôi. Tôi cũng thường xuyên yếu đuối. Đức chúa trời không nhớ những chuyện này đâu”. Thực ra việc Đức Chúa Trời có nhớ những chuyện này hay không, họ có biết không? Không, họ không biết. Họ nói: “Việc này làm chưa được tốt cũng không sao. Lần sau sửa là được. Nhà đức chúa trời không biết đâu, cũng không ai truy cứu đâu. Chỉ cần tôi không báo cáo lên trên thì lãnh đạo cấp trên sẽ không biết, bề trên càng không biết, vậy thì đức chúa trời cũng không biết – nên đức chúa trời sẽ không để ý chuyện này đâu. Chúng ta đều là con người bại hoại; anh có sự bại hoại, tôi cũng vậy. Là lãnh đạo, tôi giống như cha mẹ: các anh chị em phạm sai lầm gì cũng đều là trách nhiệm của tôi, đều do tôi vóc giạc nhỏ bé và không thể nâng đỡ, trợ giúp các anh chị em, mới dẫn đến việc các anh chị em làm sai. Nếu tôi có vóc giạc lớn hơn thì đã có thể trợ giúp các anh chị em, và các anh chị em đã không phạm sai lầm. Trách nhiệm về việc này nằm ở tôi. Tuy rằng việc này đã mang lại một ít thiệt hại cho công tác của hội thánh, nhưng chúng ta tự tiêu hóa nó là xong chuyện. Không ai được truy cứu việc này nữa, không ai được báo cáo lên trên; chỉ có anh và tôi biết thôi nhé. Nếu tôi không nói với các anh chị em khác thì sẽ không ai phản ánh lên trên, chuyện này sẽ bị bỏ ngỏ thôi. Chúng ta chỉ cần cầu nguyện và thề trước đức chúa trời rằng sau này chúng ta tuyệt đối sẽ không làm chuyện như vậy hay phạm sai lầm như vậy nữa là được. Là lãnh đạo, tôi có trách nhiệm bảo vệ các anh chị em. Đức chúa trời cao lớn biết bao – chúng ta cầu xin sự bảo vệ của ngài liệu có thực tế không? Hơn nữa, đức chúa trời không để ý đến những chuyện lặt vặt này trong cuộc sống của con người đâu, nên trách nhiệm bảo vệ các anh chị em vô hình trung đặt lên vai người lãnh đạo là tôi đây. Các anh chị em có vóc giạc nhỏ bé, nên tôi sẽ chịu trách nhiệm nếu các anh chị em phạm sai lầm. Đừng lo, nếu đến lúc thực sự có chuyện để bề trên phát hiện ra hay biết được, thì tôi sẽ ra mặt thay các anh chị em”. Sau khi mọi người nghe thấy vậy, họ cảm thấy: “Chuyện này thật tốt! Mình đang sợ gánh trách nhiệm – vị lãnh đạo này tuyệt vời quá!”. Chẳng phải họ đã bị mê hoặc sao? Trong những lời kẻ địch lại Đấng Christ nói, có một câu nào hợp với lẽ thật không? Có một câu nào có lợi hoặc có sự bồi dưỡng cho mọi người không? Có một câu nào xử lý việc dựa trên nguyên tắc không? (Thưa, không.) Vậy đây là những kiểu lời gì? Đây là những lời sử dụng tình người, sự cảm thông và tha thứ để xây dựng mối quan hệ, nói về tình cảm và tình hữu nghị, xây dựng mối quan hệ lên một mức độ nhất định, khiến cho mọi người cảm thấy rằng kẻ địch lại Đấng Christ vô cùng am hiểu lòng người, vô cùng có khả năng bao dung và tha thứ cho mọi người. Nhưng trong đó không có nguyên tắc hay lẽ thật nào cả. Sự lý giải bề ngoài này là gì? Đó chỉ là ba phải, là dỗ trẻ con thôi. Thủ đoạn ở đây là gì? Dỗ dành, lừa bịp, xây dựng mối quan hệ, ba phải và giả vờ là người tốt, lấy lợi ích của các anh chị em và việc bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời làm cái giá để đạt được mục đích lừa gạt và mê hoặc mọi người. Cuối cùng đạt đến hậu quả gì? Khiến mọi người xa rời Đức Chúa Trời, đề phòng Đức Chúa Trời và thân thiết với kẻ địch lại Đấng Christ. Thậm chí sau khi bị mê hoặc, những người này vẫn nói: “Sau khi phạm sai lầm, tôi đã lo lắng thành bộ dạng này, đã nhiều lần cầu nguyện với Đức Chúa Trời, nhưng Ngài không an ủi tôi. Tôi cảm thấy không thoải mái và không yên ổn trong lòng, và không thể tìm được kết quả ở chỗ Đức Chúa Trời. Lần này thì tốt rồi; chỉ cần tìm đến lãnh đạo, mọi vấn đề của tôi đều được giải quyết. Thật là may mắn ba đời cho tôi khi có một vị lãnh đạo như thế. Không ai tốt hơn lãnh đạo của chúng ta!”. Đạt tới mức độ này, thì lòng họ và quan điểm của họ đã nghiêng về kẻ địch lại Đấng Christ, và họ đã bị kẻ địch lại Đấng Christ kiểm soát. Vì sao họ có thể bị kẻ địch lại Đấng Christ kiểm soát? Bởi vì họ tìm thấy cảm giác an toàn nơi kẻ địch lại Đấng Christ. Họ nhận được sự cảm thông, và trong sâu thẳm nội tâm họ nhận được sự thỏa mãn và an ủi. Đây chính là bị mê hoặc.
Trước đây, Bề trên đã phát hiện ra có một kẻ nhân tính xấu trong một hội thánh, cứ làm những chuyện gây nhiễu loạn và gián đoạn mà còn không biết hối cải, nên đã bảo lãnh đạo hội thánh địa phương thanh lọc kẻ này ra ngoài. Khi lãnh đạo hội thánh địa phương nghe thấy vậy, anh ta nghĩ: “Thanh lọc anh ta ra ngoài ư? Tôi cần phải suy nghĩ đã. Anh ta là người của tôi – anh không thể tùy tiện thanh lọc anh ta được. Tôi phải đứng lên bảo vệ anh ta. Bề trên không hiểu rõ tình hình thực tế. Nói thanh lọc là thanh lọc thì thật đáng hổ thẹn. Vậy thì người của tôi sẽ đau lòng biết bao!”. Ngoài miệng anh ta đồng ý thanh lọc kẻ này, nhưng trong lòng anh ta lại không có ý định thanh lọc. Ngươi đoán xem anh ta đã xử lý việc này thế nào? Anh ta suy ngẫm: “Trả lời chuyện này thế nào để vừa có thể khiến mọi người bên dưới hài lòng với người làm lãnh đạo là mình lại vừa có thể khiến bề trên không ác cảm với mình nhỉ?”. Suy nghĩ kỹ rồi anh ta nảy ra một sáng kiến. Anh ta triệu tập mọi người nhóm họp và nói: “Hôm nay chúng ta có một chuyện đặc biệt. Chuyện đặc biệt gì nào? Có một người mà bề trên không hài lòng lắm và muốn thanh lọc anh ấy ra ngoài. Vậy làm thế nào đây? Tất cả chúng ta sẽ cùng quyết định xem có nên thanh lọc anh ấy không bằng cách bỏ phiếu”. Sau khi kết quả bỏ phiếu ngã ngũ, khoảng 80 - 90% mọi người đồng ý thanh lọc kẻ này, nhưng vẫn còn mấy phiếu không đồng ý. Chúng ta sẽ không nói về việc những người không đồng ý này rốt cuộc là những kẻ sống chết đi theo kẻ ác hay họ làm vậy vì lý do nào khác, tóm lại thì cũng có một số người không đồng ý, ý kiến chưa nhất trí. Người lãnh đạo này liền nói: “Thông qua việc bỏ phiếu, tôi phát hiện có những tiếng nói khác nhau. Đây là chuyện lớn, và chúng ta phải tôn trọng những tiếng nói khác nhau này. Chúng ta cần thực hành dân chủ. Mọi người thấy đấy, chế độ dân chủ phương Tây thật tuyệt vời làm sao: trong hội thánh, chúng ta cũng phải thực hành như thế, chúng ta phải nỗ lực tối đa để đạt tới có sự dân chủ và nhân quyền. Bây giờ, nếu đã có mấy phiếu không đồng ý, thì chúng ta không thể thanh lọc người này được. Chúng ta phải tôn trọng ý kiến của các anh chị em. Các anh chị em là ai? Họ là dân được đức chúa trời chọn! Chúng ta không thể không nghe ý kiến của họ. Ngay cả khi chỉ có một người dân được đức chúa trời chọn không đồng ý, chúng ta cũng không thể thanh lọc được”. Thực ra, anh ta nói lời này là không có cơ sở, Đức Chúa Trời không bao giờ phán những điều như thế. Anh ta chỉ đang nói bậy bạ. Về sau, khi Bề trên phát hiện ra kẻ ác đó vẫn chưa bị thanh lọc, liền bảo người lãnh đạo địa phương nhanh chóng thanh lọc. Anh ta hứa hẹn: “Vâng, con sẽ làm sớm thôi”. Lời hứa của anh ta nghĩa là gì? Nghĩa là anh ta sẽ trì hoãn. Anh ta cho rằng: “Anh bảo tôi thanh lọc anh ấy tôi cũng không thể thanh lọc ngay được. Biết đâu một thời gian sau, anh sẽ quên chuyện này, và tôi cũng chẳng cần thanh lọc anh ấy nữa”. Về sau, anh ta lại triệu tập mọi người nhóm họp và bỏ phiếu lần nữa. Thông qua sự thông công và phân định, tất cả mọi người đều thấy rằng thực sự cần phải thanh lọc kẻ này. Những phiếu phản đối ngày càng ít đi, nhưng vẫn còn một phiếu không đồng ý thanh lọc anh ta. Người lãnh đạo lại một lần nữa không thanh lọc anh ta, nói rằng: “Chỉ cần có một phiếu phản đối thì chúng ta không thể thanh lọc anh ấy được”. Hầu hết mọi người đều nghĩ: “Bề trên đã ra lệnh thanh lọc anh ta thì thanh lọc đi. Bề trên có thể không nhìn thấu được sao? Bề trên có thể làm sai sao?”. Việc thuận phục sự an bài của Bề trên có phải là một nguyên tắc không? Đó có phải là lẽ thật không? (Thưa, phải.) Lãnh đạo này không biết rằng đây là lẽ thật. Anh ta đã làm thế nào? Anh ta nói: “Vẫn còn một phiếu phản đối, vậy thì chúng ta không thể thanh lọc anh ấy được. Chúng ta phải tuyệt đối tôn trọng ý kiến của các anh chị em. Đó mới gọi là nhân quyền cao nhất”. Về sau, khi Bề trên hỏi đến vấn đề này lần nữa, người lãnh đạo vẫn xử lý lấy lệ và tiếp tục trì hoãn. Cuối cùng, khi Bề trên thấy anh ta không thanh lọc kẻ ác này, liền phế truất và thanh lọc luôn cả anh ta ra ngoài. Bề trên để anh ta làm lãnh đạo, anh ta lại không nghe lời; Bề trên có quyền tuyển dụng anh ta và cũng có quyền phế truất anh ta – đây là một sắc lệnh quản trị. Tiếp theo đó, những kẻ đồng đảng của anh ta cũng bị thanh lọc ra ngoài. Chuyện mà Bề trên sắp xếp có cần mọi người bỏ phiếu thông qua không? (Thưa, không cần.) Tại sao không cần? Các ngươi không thể giải thích được; xem ra các ngươi cũng không khác kẻ lãnh đạo hồ đồ đó là mấy, chuyện chẳng phải vậy sao? Nói Ta nghe, những lời này mà Ta đang thông công với các ngươi là đạo lý hay thực tế? (Thưa, thực tế.) Nếu con người thực hành và thực thi chúng, thì có thể đạt đến chuẩn xác không? (Thưa, có thể.) Nếu chuẩn xác thì có cần mọi người bỏ phiếu biểu quyết không? (Thưa, không cần.) Khi ra lệnh thanh lọc ai đó, Bề trên có thể nào xử oan họ được không? Tuyệt đối không thể. Cho nên, khi Bề trên đã ra lệnh thanh lọc kẻ ác này ra ngoài mà người lãnh đạo này không thanh lọc, thì vấn đề ở đây là gì? (Thưa, công khai chống đối.) Đó không chỉ là công khai chống đối, mà còn là đang tạo ra một vương quốc độc lập. Khi Bề trên ra lệnh thanh lọc kẻ ác, người lãnh đạo giả này đã trì hoãn và không thực hiện, thậm chí còn tổ chức bỏ phiếu và khảo sát dân ý. Anh ta đang khảo sát dân ý gì? Dân ý là gì? Đa số mọi người là gì? Đa số mọi người có hiểu hoặc sở hữu lẽ thật không? (Thưa, không.) Thậm chí đa số mọi người còn không có sự phân định, vậy họ có thể là những người hiểu lẽ thật được không? Người lãnh đạo này thậm chí còn khảo sát dân ý – điều đó có thể thực sự giải quyết được bất kỳ vấn đề gì không? Điều đó có cần thiết không? Đa số mọi người không có sự phân định, và Bề trên đã đích thân kiểm định, ra lệnh thanh lọc kẻ ác, nhưng kẻ địch lại Đấng Christ này lại trì hoãn và không thanh lọc anh ta, bao che và bênh vực kẻ ác, để anh ta tiếp tục ở lại hội thánh và gây nhiễu loạn. Nơi nào có kẻ ác tồn tại, nơi đó liền hỗn loạn và mất trật tự. Dân được Đức Chúa Trời chọn không thể làm bổn phận bình thường, và công tác của hội thánh không có cách nào tiến triển bình thường. Chỉ khi kịp thời thanh lọc kẻ ác ra ngoài mới có thể đảm bảo công tác của hội thánh tiến triển bình thường được. Tuy nhiên, ở những nơi kẻ địch lại Đấng Christ cầm quyền thì không có cách nào thanh lọc được những kẻ gây tổn hại cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, gây nhiễu loạn, hành động vô lý và làm bổn phận không có một chút thành tâm nào. Trong hội thánh, những kẻ địch lại Đấng Christ làm xằng làm bậy, bao che và bênh vực cho những kẻ ác và kẻ chẳng tin đó. Họ làm vậy với cái cớ gì? Với cái cớ họ làm quan thì phải làm chủ của dân. Họ đã đến làm quan trong nhà Đức Chúa Trời, lại còn muốn làm chủ cho người khác. Nói Ta nghe, ai là chủ của con người? (Thưa, Đức Chúa Trời.) Đức Chúa Trời và lẽ thật là Chủ của con người. Những kẻ địch lại Đấng Christ đó không là gì cả! Họ muốn làm chủ cho những người này, chủ của họ là ai họ còn không biết! Chẳng phải họ là kẻ vô lại sao? Những kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng phương thức như thế để nói với mọi người rằng: “Tôi có thể làm chủ cho các anh chị em. Nếu các anh chị em có bất kỳ oan tình, bất kỳ sự không phục nào, hoặc nếu các anh chị em phải chịu bất kỳ sự oan uổng hay khó khăn nào, thì tôi, với tư cách là lãnh đạo của các anh chị em, có thể giải quyết công bằng cho các anh chị em”. Vì thế, những ai không hiểu được lẽ thật hoặc chân tướng sẽ bị kẻ địch lại Đấng Christ đó mê hoặc. Họ xem kẻ địch lại Đấng Christ như tổ tiên và Đức Chúa Trời để đi theo và thờ phượng. Những ai hiểu được lẽ thật, khi gặp phải những kẻ địch lại Đấng Christ như vậy, sẽ cảm thấy thế nào? Họ cảm thấy ghê tởm, phản cảm, nói rằng: “Vậy là anh muốn làm chủ của chúng tôi và kiểm soát chúng tôi đúng không? Không có cửa đâu! Chúng tôi chọn anh làm lãnh đạo của chúng tôi là để anh dẫn dắt chúng tôi đến trước Đức Chúa Trời, chứ không phải đến trước anh”. Đây mới là hiểu thấu quỷ kế của kẻ địch lại Đấng Christ. Kẻ địch lại Đấng Christ giương cao ngọn cờ làm chủ cho người khác như thế để mê hoặc mọi người, khiến họ cảm thấy điều này phù hợp với nhu cầu của họ, dù là nhu cầu tình cảm, tâm lý, tinh thần hay những nhu cầu khác. Những người không hiểu được lẽ thật hoặc chân tướng thường bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc, đến mức sau khi bị mê hoặc, họ chẳng những không thể quay đầu và phản tỉnh được, mà thậm chí còn lên tiếng biện hộ cho kẻ địch lại Đấng Christ đó. Việc họ có thể lên tiếng biện hộ cho kẻ địch lại Đấng Christ đủ để chứng tỏ rằng họ đã thực sự bị mê hoặc – chuyện chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Tại sao con người tin Đức Chúa Trời? Chẳng phải để được cứu rỗi sao? Nếu ngươi đi theo kẻ địch lại Đấng Christ, chẳng phải ngươi đang chống đối Đức Chúa Trời và phản bội Ngài sao? Chẳng phải ngươi đang đứng về phía các thế lực thù địch Đức Chúa Trời sao? Vậy thì Đức Chúa Trời có còn muốn ngươi nữa không? Nếu trên danh nghĩa ngươi đi theo Đức Chúa Trời, nhưng lại đi theo con người, thì Đức Chúa Trời sẽ nhìn nhận và đối đãi ngươi như thế nào? Nếu ngươi vứt bỏ Đức Chúa Trời, chẳng phải Ngài sẽ ghét bỏ ngươi sao? Nếu ngay cả một chút đạo lý này mà con người còn không hiểu được, thì liệu họ có thể nào hiểu được lẽ thật không? Đây chẳng phải là những người hồ đồ sao?
Việc kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc mọi người không phải là một biểu hiện thỉnh thoảng; mà họ thường xuyên làm vậy, đó là nguyên tắc làm việc nhất quán của họ, hoặc có thể nói rằng đó là cơ sở, thủ đoạn và cách làm việc của họ – đó là phong cách làm việc nhất quán của họ. Nếu không thì ai có thể coi trọng họ đây? Thứ nhất, họ không hiểu được lẽ thật. Thứ hai, họ có nhân tính xấu. Thứ ba, họ cũng chẳng có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Vậy dựa vào cái gì để họ có thể khiến mọi người tâm phục khẩu phục, coi trọng và ngưỡng mộ họ? Họ dựa vào các loại phương thức và thủ đoạn khác nhau để thể hiện rõ bản thân, khiến mọi người coi trọng và tôn sùng họ. Họ dựa vào những thủ đoạn này để mê hoặc mọi người, để mọi người nhìn thấy một số biểu hiện giả dối, nhìn thấy họ thuộc linh, họ yêu kính Đức Chúa Trời, họ trả giá, họ thường nói những lời nói đúng, những lý luận đúng, và họ bảo vệ lợi ích của các anh chị em. Rồi họ sử dụng những biểu hiện giả dối này để khiến mọi người sinh lòng ngưỡng mộ và khâm phục đối với họ, từ đó đạt được mục đích có thể mê hoặc và khiến mọi người đi theo họ. Khi họ mê hoặc mọi người như thế này, thì những việc họ làm có hợp với lẽ thật không? Mặc dù lời họ nói đều đúng, nhưng chắc chắn không hợp lẽ thật. Những người không có sự phân định không thể nhìn ra được vấn đề. Xét từ thực chất mê hoặc mọi người, những gì họ làm khiến mọi người không nhìn ra được chúng không hợp với lẽ thật. Nếu có thể để mọi người nhìn ra được thì chẳng phải họ sẽ bị mọi người hiểu thấu sao? Thực ra, những gì họ làm và những gì họ bộc lộ chính là giả thuộc linh. Vậy biểu hiện của giả thuộc linh là gì? Nhiều hành vi, cách làm và câu nói thuộc về giả thuộc linh đều có vẻ đúng, nhưng thực ra chỉ là những cách làm bề ngoài, và không liên quan gì đến việc thực hành lẽ thật. Cũng giống như những người Pha-ri-si chống đối Đức Chúa Jêsus: họ cầm Kinh Thánh trong tay và lớn tiếng cầu nguyện ở ngã tư đường, nói “Lạy chúa tôi…”, cho mọi người thấy họ rất mộ đạo. Kết quả là ngày nay, từ “Pha-ri-si” đã trở thành một thuật ngữ để nói về loại người đạo đức giả. Định ngữ nào đứng trước người Pha-ri-si? Đạo đức giả. Thực ra, không cần phải nói “đạo đức giả”, bây giờ nói đến từ “Pha-ri-si” là sẽ biết rằng đó không phải là một từ mang nghĩa tốt – mà là một từ có ý nghĩa giống như “kẻ vô lại” hoặc “ma quỷ”. Nói về giả thuộc linh, ngày nay, không nhiều người nói về thuộc linh, chỉ cần người ta đề cập đến thuộc linh, họ sẽ thêm từ gì vào trước? (Thưa, giả.) Đúng vậy, giả. Nhiều lúc, những biểu hiện của việc kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc mọi người thực ra chính là những biểu hiện của giả thuộc linh. Những câu nói, cách làm và hành vi liên quan đến giả thuộc linh có vẻ rất tốt đẹp, rất mộ đạo và hợp với lẽ thật. Khi thấy ai yếu đuối, họ chưa ăn uống gì cũng phải nhanh chóng nâng đỡ người ta. Khi thấy ai trong nhà có việc, họ không xử lý việc riêng của mình mà nhanh chóng trợ giúp người ta. Nhưng cách họ giúp người ta chỉ là nói một vài lời nói đúng hoặc một vài lời êm tai và cảm thông, thực ra nói tới nói lui thì những vấn đề thực tế của người khác căn bản cũng chưa được giải quyết. Vậy thì họ làm như vậy để đạt được mục đích gì? Mọi người vô cùng cảm động trước hành vi của họ, và cảm thấy có một lãnh đạo như họ để dựa vào những lúc gặp chuyện thật quá tuyệt vời, quá hạnh phúc. Cho nên nói kẻ địch lại Đấng Christ không chỉ sử dụng ngôn ngữ để mê hoặc mọi người, mà đồng thời còn sử dụng đủ loại hành vi để mê hoặc họ, đạt đến khiến mọi người cho rằng kẻ địch lại Đấng Christ rất thuộc linh, rất giỏi và rất đáng để người ta tin cậy, dựa cậy. Thậm chí còn khiến người ta cảm thấy: “Tin đức chúa trời thì hơi trống rỗng, tin lãnh đạo của chúng ta mới thực tế. Đây mới là hiện thực, cực kỳ chân thực: sờ được, thấy được, có chuyện gì thì hỏi thẳng, nói thẳng. Thật tuyệt vời biết bao!”. Khi đạt được những kết quả như thế, kẻ địch lại Đấng Christ liền đạt được mục đích của mình, nhưng những người bị họ mê hoặc thì sẽ bị lừa và đau khổ. Sau khi bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc một thời gian, khi những người này lại đến trước Đức Chúa Trời, họ không còn biết cách cầu nguyện và nói lời trong lòng mình với Ngài nữa. Hơn nữa, khi những người này ở chung một chỗ, họ cũng nịnh nọt nhau, giả vờ thuộc linh, và mê hoặc, lừa gạt lẫn nhau. Cuối cùng, thậm chí kẻ địch lại Đấng Christ còn nói: “Trong hội thánh của chúng ta, mỗi một anh chị em đều yêu kính đức chúa trời. Khi gặp chuyện, mỗi một người một đều không chịu thua, nếu có bị con rồng lớn sắc đỏ bắt được cũng đều có thể đứng vững làm chứng. Trong chúng ta không có một Giu-đa nào cả – tôi dám đảm bảo điều đó”. Kết quả sau khi họ bị bắt, hầu hết đều làm Giu-đa. Chẳng phải họ là một lũ vô lại sao? Kẻ địch lại Đấng Christ dùng những lời và khẩu hiệu sáo rỗng này để lừa bịp, mê hoặc và lừa gạt các anh chị em. Hầu hết mọi người đều ngu muội, vô tri, không có sự phân định và mặc cho những kẻ địch lại Đấng Christ làm loạn. Những sắp xếp công việc từ Bề trên đã sớm nhấn mạnh việc khi gặp phải hoàn cảnh thì nên xử lý thế nào, nên làm những công tác nào, mục đích là đạt đến khiến dân được Đức Chúa Trời chọn đều có thể làm bổn phận trong hoàn cảnh an toàn. Một khi bị bắt giữ và bức hại thì thiệt hại nên được giảm thiểu ở mức tối đa. Nếu tất cả dân được Đức Chúa Trời chọn đều bị bắt đi và bỏ tù, đánh mất hoàn toàn đời sống hội thánh, thì chẳng phải là tổn hại đối với lối vào sự sống của con người sao? Không thể ăn uống lời Đức Chúa Trời trong tù, sự sống của người ta có thể trưởng thành được không? Họ chỉ có thể nhớ được vài câu thánh ca, và mỗi ngày họ sống dựa vào vài câu đó. Ban đêm khi cầu nguyện, họ chỉ có thể cầu nguyện thầm trong lòng và không dám mấp môi. Điều duy nhất đọng lại trong lòng họ là những suy nghĩ như: “Đừng bán đứng, đừng làm Giu-đa, hãy đứng vững làm chứng cho Đức Chúa Trời và làm vinh hiển Ngài, đừng làm ô danh Ngài”, không gì khác nữa – người ta chỉ có một chút vóc giạc đó. Kẻ địch lại Đấng Christ không suy xét những điều này. Tại sao gọi họ là kẻ địch lại Đấng Christ? Họ tàn hại người khác và hãm hại các anh chị em không chớp mắt! Những sắp xếp công việc từ Bề trên yêu cầu mọi người làm bổn phận trong tiền đề an toàn và cố gắng hết sức để tránh xảy ra chuyện gì, nhưng kẻ địch lại Đấng Christ không làm việc theo những sắp xếp công việc này. Họ la hét và làm việc mù quáng theo ý mình, bất chấp sự an toàn. Một số người ngu muội không có sự phân định liền cảm thấy: “Tại sao Bề trên lại luôn nhắc đến sự an toàn nhỉ? Tại sao họ lại sợ xảy ra chuyện gì như thế? Có gì mà phải sợ? Mọi sự đều nằm trong tay Đức Chúa Trời!”. Nói lời này chẳng phải là ngu muội sao? Vóc giạc của ngươi nhỏ bé, ngươi không hiểu và không thể nhìn thấu được mọi chuyện, nhưng ngươi không thể làm chuyện ngu ngốc! Bề trên đã sắp xếp việc mọi người nhóm họp thế nào trong hoàn cảnh ra sao, tuân thủ những nguyên tắc nào, làm những sắp xếp chi tiết này là để làm gì? Đó chính là để bảo vệ dân được Đức Chúa Trời chọn, để họ có thể nhóm họp cũng như làm bổn phận một cách bình thường và an toàn. Có sự an toàn rồi ngươi mới có thể tiếp tục tin Đức Chúa Trời, sống đời sống hội thánh và ăn uống lời Đức Chúa Trời bình thường. Nếu ngay cả sự an toàn của ngươi còn bị mất, nếu ngươi bị con rồng lớn sắc đỏ bắt được, ở trong tù không thể nghe hay đọc lời Đức Chúa Trời, không thể hát thánh ca và không có nhóm họp – thì ngươi còn tin Đức Chúa Trời thế nào được nữa? Ngươi chỉ có thể trở thành tín hữu trên danh nghĩa. Kẻ địch lại Đấng Christ không quan tâm đến những việc này; họ không quan tâm đến sự sống chết của mọi người. Để thỏa mãn dã tâm và dục vọng của bản thân, họ bảo mọi người mù quáng đứng lên hô to: “Chúng tôi không sợ hoàn cảnh – chúng tôi đã có đức chúa trời!”. Những người ngu muội không hiểu gì cả và bị lời này mê hoặc. Mọi người đều có những tư tưởng mơ hồ và nông cạn, cho rằng: “Chúng ta tin Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời bảo vệ chúng ta; nếu có chuyện gì xảy ra với chúng ta thì cũng đã được sự cho phép của Đức Chúa Trời”. Đó chẳng phải là những lời sáo rỗng sao? Đây là cách kẻ địch lại Đấng Christ và những người không hiểu được lẽ thật làm. Các anh chị em không hiểu, nhưng là lãnh đạo, thường xuyên thông công về sự sắp xếp công việc, ngươi không thể không hiểu những việc này. Ngươi phải làm công việc theo sự sắp xếp công việc và không thể lúc nào cũng muốn nói cho mọi người nhiều hơn để thỏa mãn những dã tâm, dục vọng của mình, thậm chí còn cảm thấy càng có nhiều người nghe thì càng tốt, và càng có nhiều người nghe thì ngươi nói càng hăng hái. Để làm lung lạc được những người bên dưới và khiến họ nghe theo sự sai khiến của mình, kẻ địch lại Đấng Christ triệu tập những người này lại trong thời gian rảnh rỗi, mà không hề cân nhắc đến sự an toàn của hoàn cảnh, cuối cùng khiến những người này bị hủy hoại.
Kẻ địch lại Đấng Christ rất giỏi nói bốc phét và nói một vài cơ sở lý luận giả thuộc linh, sáo rỗng để mê hoặc mọi người. Nhiều người không biết phân định cứ nghe theo họ, và họ bị thao túng thế nào thì sẽ thuận theo kẻ địch lại Đấng Christ thế ấy, kết quả là xảy ra chuyện và bị bắt. Làm sao lại có thể xảy ra chuyện được? Có người nói đó là bởi vì Đức Chúa Trời không bảo vệ họ. Đây chẳng phải là oán trách Đức Chúa Trời sao? Chuyện này không thể đổ cho Đức Chúa Trời được. Đức Chúa Trời để cho con người trải nghiệm công tác của Ngài trong các loại hoàn cảnh. Nếu ngươi thực hành theo nguyên tắc dựa trên sự sắp xếp công việc, trong tình huống mà hoàn cảnh cho phép, thì dù có bao nhiêu người tụ họp cùng nhau đi nữa, chỉ cần các ngươi có thể ăn uống lời Đức Chúa Trời bình thường, trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và làm bổn phận con người nên làm, thì Đức Chúa Trời sẽ dẫn dắt ngươi và thực hiện công tác của Ngài trong ngươi. Nếu ngươi đi ngược lại yêu cầu từ Bề trên, mù quáng làm ra chuyện gì đó theo ý mình, thì đó chính là ngu muội và vô tri. Đức Chúa Trời không có ý định đặt tất cả mọi người vào tù để tinh luyện. Tâm ý của Ngài là để mỗi người đều có thể ăn uống lời Ngài cho tốt và trải nghiệm công tác của Ngài. Nhưng những kẻ địch lại Đấng Christ không hiểu điều này. Họ tin vào lô-gic của riêng mình, cảm thấy có sự bảo vệ của Đức Chúa Trời rồi thì sợ cái gì chứ. Họ không hiểu các nguyên tắc bảo vệ của Đức Chúa Trời chút nào và mù quáng làm theo quy định, luôn quy định Đức Chúa Trời. Nhiều người bị họ mê hoặc và mù quáng làm theo họ, không nghe theo sự sắp đặt từ Bề trên, và kết quả là xảy ra chuyện – họ bị bắt vào trong tù và chịu cực hình. Khi xảy ra chuyện, những người này có kiểu vóc giạc gì? Họ chỉ có một chút nhiệt huyết, hiểu một chút đạo lý và biết hô một ít khẩu hiệu, nhưng họ không hề có nhận thức gì về Đức Chúa Trời, họ không có sự hiểu biết, nhận thức và trải nghiệm chân thực về lẽ thật, cũng không hề hiểu rốt cuộc Đức Chúa Trời công tác thế nào để cứu rỗi con người. Họ chỉ dựa vào nhiệt huyết để đi theo Đức Chúa Trời và có chút ý chí. Những người có vóc giạc như thế, khi bị bắt vào tù, có thể mang chứng ngôn được không? Tuyệt đối không thể. Ngay khi họ bán đứng, hậu quả là gì? Họ liền nghĩ: “Chẳng phải đức chúa trời là toàn năng sao? Mọi sự đều nằm trong tay ngài, vậy tại sao ngài lại không cứu mình? Tại sao ngài lại để cho mình chịu đựng nỗi khổ này? Rốt cuộc có đức chúa trời hay không đây? Lẽ nào chúng ta đã sai khi có nhiệt huyết lớn như thế? Nếu lãnh đạo của chúng ta dẫn dắt chúng ta sai lầm, vậy thì tại sao đức chúa trời không sửa dạy họ? Sao đức chúa trời đưa chúng ta đến đây? Sao ngài lại cho phép chúng ta gặp phải hoàn cảnh như vậy?”. Sự oán trách xuất hiện rồi, tiếp theo đó là đến lượt phủ nhận Đức Chúa Trời: “Đức chúa trời làm việc không hợp ý của con người. Ngài làm việc chưa chắc đã đúng hoàn toàn, ngài cũng chưa chắc là lẽ thật”. Cuối cùng, sau khi đã chịu khổ nhiều và chịu đựng một thời gian, thì ngay cả chút đạo lý họ biết và chút nhiệt huyết họ có cũng không còn. Họ phủ nhận Đức Chúa Trời và không tin nữa, thậm chí còn làm Giu-đa. Sau khi được ra tù, thậm chí họ còn cảm thấy: “Lần này mình không cần lo lắng về hoàn cảnh nữa. Nhìn xem, những người không tin đức chúa trời tốt biết bao: tự do ở bên ngoài biết bao. Tội gì chúng ta phải tin một cách lén lút? Quốc gia không cho tin thì thôi, không tin nữa”. Những người như thế về sau còn có thể tin Đức Chúa Trời được nữa không? (Thưa, họ không thể.) Tại sao họ không thể? Đức Chúa Trời không còn muốn họ nữa. Đức Chúa Trời chỉ chọn ngươi một lần, và Ngài cho ngươi cơ hội mà ngươi đã đánh mất rồi, nên Đức Chúa Trời không muốn ngươi nữa. Những người như thế có bao nhiêu hy vọng được cứu rỗi? Bằng không, không còn hy vọng nào. Đó chính là hậu quả cuối cùng mà những kẻ địch lại Đấng Christ gây ra khi làm xằng làm bậy và sử dụng một vài lý luận giả thuộc linh để mê hoặc mọi người, khiến họ mưu cầu sự thuộc linh và nhiệt huyết bề ngoài. Hậu quả là gì? (Thưa, họ bị hủy hoại.) Đức Chúa Trời không cứu rỗi họ thì đó là việc của Đức Chúa Trời, nhưng ít nhất bây giờ xem ra khi con đường đức tin nơi Đức Chúa Trời của người ta đã đến mức độ này, thì tiền đồ và đích đến của họ về cơ bản là bị hủy hoại. Suy cho cùng thì ai đã gây ra chuyện này? Chính kẻ địch lại Đấng Christ đã gây ra. Nếu họ không mù quáng làm như thế, mà làm theo sự sắp xếp công việc, dẫn dắt các anh chị em theo yêu cầu từ Bề trên, và đưa tất cả mọi người đến trước Đức Chúa Trời, thì những chuyện này đã không xảy ra. Liệu những người này có còn hy vọng được cứu rỗi không? (Thưa, có.) Những người này vẫn còn hy vọng được cứu rỗi. Bởi vì những dã tâm và dục vọng của kẻ địch lại Đấng Christ đã bành trướng ghê gớm, nên nếu không có ai ở đó bảo vệ họ và nghe theo lời của họ, thì họ sẽ cảm thấy cuộc sống thật nhàm chán, vô vị. Họ xem những người hồ đồ đi theo họ đó như là bia đỡ đạn và đồ chơi để đùa giỡn, khiến cho những người này đều đi theo sự dẫn dắt của họ. Họ cảm thấy mình có bản lĩnh, có sự hưởng thụ và đời này đáng sống. Để thỏa mãn những dã tâm và dục vọng của mình, họ đã sử dụng một vài lời êm tai gọi là thuộc linh này để mê hoặc những người đi theo họ, sau khi mê hoặc người ta, họ khiến người ta đi chệch khỏi con đường thật và khỏi lời Đức Chúa Trời, xa rời Đức Chúa Trời để đi theo họ và đi lên con đường địch lại Đấng Christ. Kết quả cuối cùng là gì? Tiền đồ và đích đến của những người này bị hủy hoại, họ đánh mất cơ hội được cứu rỗi. Khi người ta không tin Đức Chúa Trời cho tốt mà đi theo người khác, thì hậu quả là gì? Các ngươi có còn hâm mộ nếu lại nhìn thấy ai thuộc linh nữa không? (Thưa, không.) Từ “thuộc linh” như thế nào? Nó trống rỗng. Con người thuộc về xác thịt – họ là loài thọ tạo. Nếu ngươi thực sự thuộc linh, thì xác thịt của ngươi sẽ không còn tồn tại, vậy thì ngươi còn thuộc linh gì nữa? Chẳng phải đó chỉ là lời nói sáo rỗng sao? Cho nên nói, bản thân từ “thuộc linh” này không có cơ sở; nó chỉ là lời nói sáo rỗng. Sau này, nếu ngươi lại nghe được ai đó nói rằng họ đang mưu cầu sự thuộc linh, thì hãy bảo họ rằng: “Anh nên mưu cầu làm người trung thực và sống trước Đức Chúa Trời – điều đó thực tế hơn. Nếu anh mưu cầu sự thuộc linh, đó sẽ là ngõ cụt! Tuyệt đối đừng mưu cầu sự thuộc linh; đó không phải là điều con người mưu cầu – chuyện này căn bản là không có cơ sở”. Nói Ta nghe, sau nhiều năm tin Đức Chúa Trời, ai đã trở thành người thuộc linh? Những danh nhân và người giải nghĩa Kinh Thánh trong tôn giáo có thuộc linh không? Hết thảy họ đều là kẻ đạo đức giả, không một ai thuộc linh cả. Những người sáng tạo ra từ “thuộc linh” đang sử dụng lời sáo rỗng này để mê hoặc người khác. Họ là những kẻ vô lại và ma quỷ. Kiểu người nào có thể nói những lời nói suông này? Họ có hiểu biết thuộc linh không? (Thưa, không.) Nếu ngươi còn không hiểu rõ khi tin Đức Chúa Trời, con người nên mưu cầu điều gì hoặc nên thuộc về điều gì, thì ngươi có thể hiểu được lẽ thật không? Ngươi vốn là một loài thọ tạo, một thành viên của nhân loại đã bị Sa-tan làm bại hoại. Nếu nói về việc thuộc về điều gì, thì ngươi thuộc về xác thịt – đó là thuộc tính của con người. Đương nhiên, nếu ngươi mưu cầu thuộc về xác thịt, thì ngươi thuộc về Sa-tan và đi con đường của thế gian. Những người tin Đức Chúa Trời nên mưu cầu lẽ thật, đây mới là đúng. Nếu con người mưu cầu trở nên thuộc linh hoặc thuộc về Đức Chúa Trời, thì họ có thể với tới được không? Họ có mưu cầu điều đó thế nào cũng vô ích. Đó không phải là con đường đúng đắn để tin Đức Chúa Trời. Vì thế, mưu cầu thuộc linh hoặc thuộc về Đức Chúa Trời chỉ là một khẩu hiệu, một lý luận giả thuộc linh, không liên quan đến lẽ thật. Nếu ngươi tin Đức Chúa Trời và muốn đi theo Đức Chúa Trời, ngươi nên làm tốt bổn phận của loài thọ tạo, có thể thuận phục Đức Chúa Trời và thỏa mãn Ngài. Đây mới là thực tế lẽ thật.
Dù kẻ địch lại Đấng Christ có nghe bao nhiêu bài giảng đạo cũng không thể hiểu lẽ thật. Những gì họ hiểu được và có thể nói toàn là đạo lý. Họ lấy những lời mà họ có thể hiểu và ghi nhớ đó, trải qua sự gia công tư tưởng để biến chúng thành những đạo lý thuộc linh phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của con người, rồi tuyên truyền trắng trợn và giảng giải cho người khác. Khi những người không có hiểu biết thuộc linh và không hiểu được lẽ thật nghe được những điều này, họ cảm thấy rất đúng và sẵn lòng tiếp nhận. Kết quả là họ bị mê hoặc và bắt đầu tôn sùng kẻ địch lại Đấng Christ. Chuyện này rắc rối rồi đây. Thực ra kẻ địch lại Đấng Christ căn bản không hiểu được lẽ thật. Nếu ngươi nghe kỹ và phân định kỹ những lời gọi là đúng của họ, ngươi sẽ thấy đó là những lý luận rỗng tuếch phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của con người. Đương nhiên, những người không hiểu được lẽ thật cảm thấy những lời này là đúng và dễ dàng bị lừa. Các ngươi từng thể hội những chuyện này chưa? Các ngươi có thể đưa ra ví dụ được không? Nếu các ngươi có thể đưa ra ví dụ và thấy rõ cách những người giỏi nói câu chữ và đạo lý đó mê hoặc người khác, thì điều đó chứng tỏ các ngươi nghe hiểu được và có thể đối chiếu được. Nếu các ngươi không thể đưa ra ví dụ, thì điều đó cho thấy các ngươi chưa nghe hiểu được và không thể đối chiếu được. Nếu gặp phải những người giỏi nói câu chữ và đạo lý, chắc chắn các ngươi sẽ không thể phân định được họ. (Thưa, con có tình trạng này. Khi các anh chị em gặp phải sự tỉa sửa, sửa phạt và sửa dạy, và không hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời, thì họ đã tìm kiếm đến con. Thực ra, con cũng không hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời và thực chất của những vấn đề này. Nhưng con sẽ nói với họ một số lời sáo rỗng, chẳng hạn như: “Sự tỉa sửa, sửa phạt và sửa dạy đều là tình yêu thương của Đức Chúa Trời và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Đó chính là cách Đức Chúa Trời làm đối với những tâm tính bại hoại của chúng ta”. Khi nói như vậy, con có thể cảm giác được rằng mình chưa giải thích thấu đáo được thực chất của vấn đề cho họ, chẳng hạn như tại sao họ lại gặp phải hoàn cảnh như vậy, những cách làm và sự bộc lộ của họ thuộc loại tâm tính bại hoại nào hoặc có tính chất gì, và tâm ý của Đức Chúa Trời là gì, v.v. – những điều này con chưa thể thông công được cho họ. Con chỉ nói một vài đạo lý đúng và khẩu hiệu êm tai, quả thực không thể giúp được ai cả.) Đó là bởi vì bản thân ngươi cũng không hiểu rõ về lẽ thật như thế, nên ngươi không thể giải quyết được những vấn đề thực tế của các anh chị em. Vậy có sự khác biệt giữa việc kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc mọi người và việc này không? Kẻ địch lại Đấng Christ không muốn trợ giúp mọi người một cách thiện chí; ý định và mục đích của họ là muốn mê hoặc và kiểm soát mọi người. Khi kẻ địch lại Đấng Christ làm loại chuyện này, khi họ hô khẩu hiệu, thì họ có biểu hiện gì, bộc lộ ra tâm tính gì – đây là điểm mấu chốt để phân định kẻ địch lại Đấng Christ. Một số người có vóc giạc nhỏ bé và không hiểu rõ lẽ thật. Cường độ thực hiện công tác của họ không thể đạt đến kết quả nên có, nhưng họ không có ý định hoặc mục đích muốn mê hoặc hay kiểm soát mọi người. Họ cũng muốn mang mọi người đến trước Đức Chúa Trời – chỉ là lực bất tòng tâm thôi. Mặc dù họ chưa đạt được những kết quả rõ ràng, nhưng mọi người có thể nhìn ra họ có ý định đúng và muốn mang mọi người đến trước Đức Chúa Trời. Nhưng mục đích của kẻ địch lại Đấng Christ là gì? (Thưa, để khiến mọi người tán thành với họ, nghe theo, đi theo họ.) Vậy sự khác biệt giữa những lời họ nói và những lời mà người lực bất tòng tâm nói là gì? Người lực bất tòng tâm nói lời trong lòng mình, chỉ có điều họ không thể nhìn thấu được thực chất và gốc rễ của vấn đề; họ không thể thông công rõ ràng được và cuối cùng không thể giải quyết vấn đề hoặc cung ứng cho người khác. Còn những lời của kẻ địch lại Đấng Christ là gì? Có phải là lời trong lòng họ không? (Thưa, không.) Rõ ràng là không: những gì họ nói đều là nói dối. Tại sao họ lại phải nói dối? Họ muốn lừa gạt và mê hoặc ngươi. Ý họ là: “Là một lãnh đạo, tôi đã làm công việc tôi nên làm rồi, tôi đã thông công những điều tôi nên thông công rồi, những lời tôi nói đều đúng. Nếu anh không tiếp nhận và vấn đề không thể giải quyết được, thì hãy oán mình, đừng có trách tôi”. Họ không thực sự muốn giải quyết vấn đề của ngươi, mà chỉ làm cho có, để giữ được địa vị của mình, bất đắc dĩ họ phải nói những lời đúng này. Họ nói những lời này là rất trái với lòng mình, dù họ có nói cũng không phải là tự nguyện – đó không phải là những gì họ đang thực sự nghĩ trong lòng. Vì thế, bình thường một số kẻ địch lại Đấng Christ có thể học cách nói một vài lời đúng, trợ giúp người khác bước ra khỏi tiêu cực, nhưng khi bản thân họ gặp phải sự tỉa sửa và bị cách chức, thì họ cực kỳ tiêu cực, từ đầu đến cuối đều không thể biết mình và phải để các anh chị em trợ giúp ngược lại. Có chuyện này không? (Thưa, có.) Có quá nhiều chuyện thế này rồi. Những câu chữ và đạo lý mà kẻ địch lại Đấng Christ suốt ngày giảng cho người khác thậm chí còn không thể giúp được chính họ. Vậy những lời này có phát ra từ trong sâu thẳm nội tâm họ không? Đó có phải là những gì họ trải nghiệm thực tế ra được không? (Thưa, không phải.) Vậy thì những gì họ giảng chỉ là câu chữ và đạo lý, chứ không đại diện cho vóc giạc chân thực của họ. Họ làm công tác trợ giúp người khác chỉ đơn thuần là làm qua loa bằng những biểu hiện giả dối và cách làm bề ngoài cùng hành vi tốt để khiến mọi người thừa nhận, tiếp nhận và đồng ý việc họ là lãnh đạo. Một khi mọi người đã đồng ý việc họ là lãnh đạo của mình, thì chẳng phải mọi người đã chịu phục họ rồi sao? Nếu mọi người chịu phục họ, thì chẳng phải kẻ địch lại Đấng Christ đã có được địa vị sao? Chẳng phải địa vị của họ liền vững chắc sao? Đây chính là mục đích của họ. Một số lãnh đạo và người làm công không hiểu được lẽ thật, và lực bất tòng tâm trong khi thực hiện công tác. Họ cùng lắm cũng chỉ là có vóc giạc nhỏ bé và không phải lãnh đạo đạt tiêu chuẩn. Nhưng khi kẻ địch lại Đấng Christ thực hiện công tác, họ không cân nhắc xem liệu họ có thể trợ giúp hoặc nâng đỡ các anh chị em hay không. Họ chỉ cân nhắc đến địa vị và lợi ích của bản thân. Đây chính là sự khác biệt giữa hai loại người này: tâm tính của họ khác nhau. Do đó, cho dù kẻ địch lại Đấng Christ có nói rất nhiều lời êm tai, thì đó cũng không phải thực tế của họ. Họ nói trái lòng mình; họ chỉ đang sử dụng một số đạo lý và khẩu hiệu đúng bên ngoài hoặc những lời lẽ hợp tình người, để khuyên nhủ mọi người và làm cho có lệ mà thôi. Tại sao họ phải làm cho có lệ? Đó là bởi vì nếu họ thấy ai đó tiêu cực hoặc yếu đuối mà lại mặc kệ, thì những người khác sẽ nói rằng họ không thực hiện công tác thực tế và không làm hết trách nhiệm lãnh đạo của mình. Vì sợ người khác nói những lời như vậy, nên họ bất đắc dĩ phải làm. Vì thế, mục đích của họ không chỉ đơn thuần là làm bổn phận; mà họ sợ rằng nếu họ không xuất hiện đầu tiên khi các anh chị em gặp phải khó khăn, trợ giúp và cung ứng cho họ, làm hết trách nhiệm của mình, thì anh chị em sẽ không ủng hộ họ nữa. Trong cuộc bầu cử tiếp theo, mọi người có thể sẽ không bầu họ nữa, vậy thì họ sẽ không phải là người lãnh đạo danh xứng với thực, mà chỉ có hư danh thôi. Việc chỉ có hư danh có phải là những gì trong lòng họ muốn không? (Thưa, không phải.) Vậy họ muốn gì? Họ muốn quyền lực và địa vị đích thực, họ muốn trong lòng các anh chị em tôn sùng, ủng hộ và đi theo họ. Vì thế, họ phấn đấu để được bầu làm lãnh đạo trong mọi cuộc bầu cử – đó là mục đích của họ.
Một số người được gọi là lãnh đạo và người làm công trở nên vô cùng nhiệt tình khi cuộc bầu cử đến gần, thể hiện bản thân mọi nơi và biểu hiện khác thường. Những người như thế này có thể là cùng một loại người với kẻ địch lại Đấng Christ. Nếu họ thực sự có thể làm như vậy, thì quá hèn hạ rồi! Người thực sự có lương tâm và lý trí tự nhiên sẽ cảm thấy tự trách trong lòng khi làm việc có ý định và mục đích. Xuất phát từ sự ràng buộc của lương tâm và lý trí, họ sẽ cảm thấy trước đây họ không nhiệt tình như thế, bây giờ đột nhiên lại nhiệt tình như thế khiến mọi người thấy được quá rõ ràng. Ngay cả bản thân họ còn cảm thấy ghê tởm chính mình, họ thà không tranh cử còn hơn là làm như thế. Bởi vì những năm này họ đã tin Đức Chúa Trời và có được chút vóc giạc cũng như chút liêm sỉ như thế, nên cuối cùng họ đã có thể ràng buộc bản thân. Nhưng những kẻ địch lại Đấng Christ không ràng buộc bản thân; họ thích gì làm nấy, muốn sao làm vậy. Họ có những dã tâm và các loại ý định, mục đích và quỷ kế. Trong lòng họ biết hết, nhưng vẫn cứ muốn làm như thế, luôn nghĩ đến danh dự và địa vị của chính mình. Họ cảm thấy nếu làm việc cho hội thánh và cho các anh chị em thật quá thiệt thòi, không đáng. Vì thế, họ làm gì cũng đặt bản thân mình lên hàng đầu, cố gắng vì bản thân mình. Đến lúc bầu cử, họ ra sức vận động hành lang khắp nơi, mê hoặc và lôi kéo người khác bầu cho họ, cuối cùng còn bí mật bỏ thêm hai phiếu cho chính mình khi bỏ phiếu. Việc kẻ địch lại Đấng Christ làm chuyện này chẳng đáng ghê tởm sao? Nếu không có dã tâm, thì họ bỏ công sức làm gì? Đây chẳng phải là dã tâm đang tác quái sao? Một khi nói đến dã tâm thì không phải điều gì tích cực; việc họ làm chắc chắn đều khiến người ta ghê tởm và không thể mở miệng. Mọi việc kẻ địch lại Đấng Christ làm đều giả tạo và lừa gạt; họ luôn sử dụng biểu hiện giả tạo để mê hoặc mọi người. Những người không rõ chân tướng thấy thế liền nghĩ: “Lãnh đạo đã bỏ công sức quá nhiều trong những ngày này, quên ăn quên ngủ, hết ngày dài lại đêm thâu, đi đầu làm mọi chuyện. Họ đã chịu khổ quá nhiều, mệt mỏi đến nỗi gầy đi nhiều và tóc bạc cũng nhiều hơn”. Một số anh chị em thấy thế liền cảm thấy thương kẻ địch lại Đấng Christ, và cuối cùng trong cuộc bầu cử, những người đó đã bỏ phiếu cho họ. Chẳng phải kẻ địch lại Đấng Christ đã đạt được mục đích của mình sao? (Thưa, phải.) Đây gọi là âm mưu, gọi là thủ đoạn, gọi là tà ác. Cho nên, kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc mọi người không chỉ bằng lời nói, mà nhiều lúc còn bằng cách làm và hành vi để ngầm nói với mọi người rằng họ nhiệt tình biết bao, thuận phục biết bao và nghĩ cho các anh chị em biết bao. Họ sử dụng những câu nói có vẻ tốt và đúng, cũng như những biểu hiện giả dối bề ngoài, để nói với mọi người nhiều lần, nhấn mạnh nhiều lần và cho mọi người biết rằng họ là người lãnh đạo đạt tiêu chuẩn, là người lãnh đạo tốt mà mọi người nên tiếp nhận. Giống như lúc vận động bầu cử ở các quốc gia dân chủ, các ứng cử viên thường đi diễn thuyết, vận động hành lang, tham gia chiến dịch khắp nơi. Họ thậm chí còn gian lận trong khi bỏ phiếu. Nhưng những người này không cảm thấy xấu hổ; điều họ theo đuổi là “Không độc không là trượng phu”. Bất kể dùng thủ đoạn gì, có thể thắng cử là được – đây chính là tư tưởng, quan điểm của người ngoại đạo. Có phải những kẻ địch lại Đấng Christ cũng sẽ làm vậy không? Chắc chắn! Vì quyền lực và địa vị, trong sâu thẳm nội tâm họ nhiệt huyết sôi sục, sóng lòng dâng trào mà triển khai hoạt động tất cả những việc này, hơn nữa còn vắt óc suy nghĩ để làm những việc này. Họ tuyệt đối sẽ không an phận. Cho nên, nếu cuối cùng những người có mức độ nhiệt tình cao đối với quyền lực và địa vị cũng tức là loại người không có cách nào kiểm soát được dã tâm của mình được bầu chọn làm lãnh đạo, họ không chỉ đi con đường địch lại Đấng Christ; mà thậm chí bản thân họ có thể trở thành kẻ địch lại Đấng Christ. Các ngươi có dã tâm không? Các ngươi có thể kiểm soát được dã tâm của mình trong phạm vi nhân tính và lý trí không? Nếu có thể kiểm soát được, thì các ngươi có thể tránh được nguy cơ đi con đường địch lại Đấng Christ và sẽ không trở thành kẻ địch lại Đấng Christ để rồi bị đào thải. Nếu các ngươi cảm thấy rằng dã tâm của mình quá lớn, thường vì địa vị mà không từ thủ đoạn, thậm chí không ăn không uống, chịu bất kỳ khổ sở nào cũng được, thủ đoạn hèn hạ nào cũng có thể dùng, nếu ngươi đã đạt đến mức độ không biết xấu hổ và khó mà kiềm chế, thì rắc rối rồi đấy – ngươi chắc chắn là kẻ địch lại Đấng Christ. Nếu ngươi chỉ có những biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ, thì còn có cơ hội được cứu rỗi. Nhưng ngươi đã thoát khỏi nguy hiểm chưa? Vẫn chưa. Nếu ngươi có những biểu hiện này của kẻ địch lại Đấng Christ, thì ngươi vẫn đối địch với Đức Chúa Trời, có thể chống đối và vứt bỏ Ngài bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu. Hoặc bởi vì một việc Đức Chúa Trời đã làm không hợp với quan niệm của ngươi, nên ngươi có thể nghiên cứu Đức Chúa Trời, hiểu lầm Ngài, xét đoán Ngài và thậm chí gieo rắc quan niệm về Ngài, sau đó vứt bỏ Ngài mà đi, cuối cùng bị Đức Chúa Trời đào thải. Những điều ngươi bộc lộ ra bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu có thể đại diện cho tâm tính ngươi. Vì thế, những điều mà ngươi bộc lộ ra mọi lúc, mọi nơi chính là sự bộc lộ của tâm tính ngươi. Tại sao chúng ta lại luôn thảo luận về sự thay đổi tâm tính? Bởi vì người mà tâm tính không thay đổi là kẻ thù của Đức Chúa Trời. Hết thảy những kẻ địch lại Đấng Christ đều là những kẻ có chết cũng không ăn năn, thề sống chết muốn chống đối Đức Chúa Trời và đối địch với Ngài đến cùng. Cho dù trong lòng họ thừa nhận có Đức Chúa Trời, rằng Đức Chúa Trời tạo ra nhân loại và Đức Chúa Trời có thể cứu rỗi nhân loại, nhưng vì bản tính của họ, nên họ không thể thay đổi được con đường mình đi, cũng không thể thay đổi được thực chất chống đối Đức Chúa Trời và đối địch với Ngài.
Thực chất hành vi của những kẻ địch lại Đấng Christ là liên tục sử dụng các phương tiện và phương thức khác nhau để thỏa mãn dã tâm và dục vọng của họ, đạt được mục đích mê hoặc và lung lạc người ta, chiếm vị thế cao để khiến người ta đi theo và sùng bái họ. Có thể trong sâu thẳm nội tâm, họ không cố ý tranh giành nhân loại với Đức Chúa Trời, nhưng có một điều chắc chắn: Ngay cả khi họ không tranh giành con người với Đức Chúa Trời, họ vẫn mong muốn có địa vị và quyền thế giữa mọi người. Ngay cả khi đến một ngày họ nhận ra rằng mình đang tranh giành địa vị với Đức Chúa Trời, và họ tự kiềm chế một chút, thì họ vẫn sử dụng các phương pháp khác nhau để mưu cầu địa vị và danh dự; trong lòng họ biết rõ rằng họ chỉ cần có thể đạt được sự tán thưởng và khâm phục của một số người thì họ sẽ có được địa vị một cách danh chính ngôn thuận. Nói tóm lại, mặc dù mọi việc những kẻ địch lại Đấng Christ làm dường như là đang làm bổn phận, nhưng hậu quả nó mang lại là mê hoặc mọi người, khiến mọi người sùng bái và đi theo họ – trong trường hợp này, việc thực hiện bổn phận của họ theo cách này là đề cao và làm chứng cho chính họ. Dã tâm muốn khống chế mọi người – cũng như giành được địa vị và quyền lực trong hội thánh của họ – sẽ không bao giờ thay đổi. Họ hoàn toàn là một kẻ địch lại Đấng Christ. Bất kể Đức Chúa Trời phán gì hay làm gì, và bất kể Ngài yêu cầu con người những gì, thì những kẻ địch lại Đấng Christ cũng không dựa vào lời Đức Chúa Trời và những yêu cầu của Ngài mà làm việc mình nên làm hay là làm bổn phận của mình, họ cũng không vì hiểu được chút lẽ thật mà từ bỏ việc mưu cầu quyền lực và địa vị. Bất kể lúc nào, dã tâm và dục vọng của họ vẫn luôn có đó, chúng vẫn chiếm hữu lòng họ và khống chế toàn bộ con người của họ, chỉ đạo hành vi và tư tưởng của họ, chỉ đạo con đường họ đi. Họ hoàn toàn là kẻ địch lại Đấng Christ. Biểu hiện nổi bật nhất nơi những kẻ địch lại Đấng Christ là gì? Có những người nói rằng: “Những kẻ địch lại Đấng Christ tranh giành con người với Đức Chúa Trời, không thừa nhận Đức Chúa Trời”. Không phải là họ không thừa nhận Đức Chúa Trời; trong lòng họ thực sự thừa nhận và tin Ngài hiện hữu. Họ sẵn lòng đi theo Ngài và muốn mưu cầu lẽ thật, nhưng họ không kìm được mình, cho nên họ có thể hành ác. Dù họ cũng biết nói nhiều lời dễ nghe, nhưng có một điều sẽ không bao giờ thay đổi: dã tâm và dục vọng muốn quyền lực và địa vị của họ sẽ không bao giờ thay đổi, cũng như họ sẽ không từ bỏ việc mưu cầu quyền lực và địa vị vì sự thất bại hay gặp trở ngại, hay vì Đức Chúa Trời đã gạt họ sang một bên hay bỏ rơi họ. Đó là bản tính của những kẻ địch lại Đấng Christ. Ngươi xem, đã bao giờ có một kẻ địch lại Đấng Christ nào vì chịu ít nhiều đau khổ, hoặc vì hiểu được chút lẽ thật, có được chút nhận thức về Đức Chúa Trời mà cải tà quy chính và bắt đầu mưu cầu lẽ thật không? Có loại người này không? Chúng ta chưa bao giờ thấy chuyện như vậy. Dã tâm và sự mưu cầu của kẻ địch lại Đấng Christ đối với quyền lực và địa vị sẽ không bao giờ thay đổi, và một khi họ nắm được quyền lực, họ sẽ không bao giờ để mất nó; điều này quyết định thực chất bản tính của họ rốt cuộc là gì. Đức Chúa Trời liệt loại người này là kẻ địch lại Đấng Christ là cực kỳ chuẩn xác; điều này được quyết định bởi chính thực chất bản tính của họ. Có lẽ, trước đây, một số người cho rằng kẻ địch lại Đấng Christ tranh giành nhân loại với Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, có lúc những kẻ địch lại Đấng Christ không nhất thiết phải tranh giành với Đức Chúa Trời; họ là những người có sự nhận thức, lĩnh hội và nhu cầu về địa vị, quyền lực không giống người bình thường. Người bình thường có thể thỉnh thoảng có chút lòng tham hư vinh; tranh thể diện, câu nói và thứ hạng giữa mọi người. Đây là dã tâm của người bình thường. Nếu bị cách chức lãnh đạo, không còn địa vị, thì họ cũng sẽ buồn; nhưng theo sự thay đổi trong môi trường, sự phát triển về vóc giạc, sự bước vào lẽ thật hoặc chiều sâu của mức độ hiểu lẽ thật, thì dã tâm của họ dần dần nguội đi. Con đường họ đi và phương hướng họ tiến tới sẽ có sự thay đổi, sự mưu cầu địa vị, quyền lực của họ cũng từng bước giảm dần. Dục vọng của họ cũng vậy, ít dần đi. Tuy nhiên, những kẻ địch lại Đấng Christ thì khác: Họ không bao giờ có thể từ bỏ việc mưu cầu địa vị và quyền lực của mình. Tại bất kỳ thời điểm nào, trong bất kỳ môi trường nào, bất kể xung quanh họ có những người như thế nào và dù họ bao nhiêu tuổi, thì dã tâm và dục vọng của họ cũng sẽ không bao giờ thay đổi. Làm sao nhìn ra được dã tâm của họ sẽ không bao giờ thay đổi? Giả sử họ là lãnh đạo hội thánh. Trong lòng họ luôn nghĩ cách kiểm soát hết thảy mọi người trong hội thánh. Nếu họ được thuyên chuyển đến một hội thánh khác và không làm lãnh đạo nữa, liệu họ sẽ cam lòng làm người đi theo bình thường không? Chắc chắn là không. Họ vẫn sẽ suy nghĩ cách để có thể có được địa vị và cách để có thể kiểm soát hết thảy mọi người. Bất kể đến nơi nào họ cũng muốn làm vua và nắm quyền. Dù có đặt họ ở nơi không có ai, trong một bầy cừu đi nữa, họ cũng vẫn muốn thống lĩnh bầy cừu. Nếu đặt họ chung với chó mèo, họ sẽ muốn là vua chó mèo, thống trị động vật. Đây chẳng phải là bị dã tâm lấp đầy rồi sao? Tâm tính của loại người này chẳng phải là quỷ tính sao? Đây chẳng phải là tâm tính của Sa-tan sao? Sa-tan chính là thể loại như vậy. Trên thiên đàng, Sa-tan đã muốn ngang hàng với Đức Chúa Trời, và sau khi bị đánh xuống đất, nó luôn muốn kiểm soát nhân loại, khiến nhân loại thờ phượng nó và đối đãi với nó như Đức Chúa Trời. Những kẻ địch lại Đấng Christ luôn muốn kiểm soát mọi người bởi vì họ có bản tính Sa-tan; họ sống dựa vào tâm tính Sa-tan của mình mà đã vượt quá phạm vi lý trí của người bình thường. Điều này chẳng phải hơi bất thường sao? Sự bất thường này có nghĩa là gì? Có nghĩa là biểu hiện của họ không phải là điều mà nhân tính bình thường nên có. Vậy biểu hiện này là gì? Điều gì chi phối nó? Nó do bản tính của họ chi phối. Họ có thực chất của tà linh, và không giống như nhân loại bại hoại bình thường. Đây là sự khác biệt. Việc những kẻ địch lại Đấng Christ không từ thủ đoạn nào để mưu cầu quyền lực và địa vị không chỉ phơi bày thực chất bản tính của họ, mà còn cho mọi người thấy rằng bộ mặt gớm ghiếc của họ chính là bộ mặt vốn có của Sa-tan và ma quỷ. Họ không những tranh đoạt địa vị với mọi người, mà còn cả gan tranh đoạt địa vị với Đức Chúa Trời. Họ sẽ chỉ thỏa mãn khi chiếm lấy dân được Đức Chúa Trời chọn cho riêng mình và hoàn toàn kiểm soát họ trong tay. Bất kể kẻ địch lại Đấng Christ đến hội thánh hay nhóm người nào, họ cũng muốn đạt được địa vị, nắm chắc quyền lực và khiến mọi người nghe theo mình. Bất kể mọi người có sẵn lòng hoặc đồng ý hay không, kẻ địch lại Đấng Christ đều muốn có tiếng nói quyết định và khiến mọi người thuận theo, tiếp nhận họ. Đó chẳng phải là bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ sao? Mọi người có sẵn lòng nghe theo họ không? Mọi người có bầu chọn và tiến cử họ không? Không. Nhưng kẻ địch lại Đấng Christ vẫn muốn có tiếng nói quyết định. Bất kể mọi người có đồng ý hay không, kẻ địch lại Đấng Christ vẫn muốn thay mặt người ta nói chuyện và làm việc, họ muốn được xuất đầu lộ diện. Thậm chí họ còn áp đặt ý kiến của mình lên người khác, nếu mọi người không tiếp nhận, thì kẻ địch lại Đấng Christ sẽ nghĩ đủ mọi cách để khiến họ tiếp nhận. Đây là vấn đề gì? Đây là không biết xấu hổ, mặt dày trơ tráo. Loại người này là kẻ địch lại Đấng Christ chính hiệu, dù có là lãnh đạo hay không thì họ vẫn là kẻ địch lại Đấng Christ. Họ có thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ.
Có những người luôn rất chú trọng việc hỏi thăm xem các lãnh đạo hội thánh là ai, những ai đang rao truyền phúc âm, hết thảy họ sống ở đâu, họ có mối quan hệ mật thiết với ai, v.v. Giống như trinh sát của Sa-tan, họ luôn nghe ngóng và hỏi thăm những tình hình này. Tại sao họ lại luôn quan tâm đến những chuyện này? Nhiều người không nhìn thấu được ý định của họ, chỉ cảm thấy những người này hơi khác thường. Đa số mọi người không sẵn lòng quan tâm đến những chuyện này; họ đủ bận rộn với bổn phận của chính mình và không có tâm tư lo chuyện bao đồng. Họ chuyên tâm làm bổn phận của chính mình và chú trọng thực hành lẽ thật, rồi tự lúc nào không hay, tâm tính họ thay đổi – đây là ân điển của Đức Chúa Trời. Nhưng có một loại người đặc biệt thích nghe ngóng và hỏi thăm các loại chuyện của hội thánh. Gặp được một lãnh đạo, họ liền hỏi: “Các anh đã xử lý kẻ ác đó trong hội thánh thế nào rồi?”. Người lãnh đạo đáp: “Việc chúng tôi xử lý thế nào thì liên quan gì đến anh? Anh nghe ngóng chuyện này làm gì? Anh có biết người đó không?”. Người này nói: “Tôi chỉ quan tâm thôi mà. Đây là việc của nhà đức chúa trời. Là người của nhà đức chúa trời, chúng ta phải nhiệt tình chú ý đến những việc của nhà ngài. Làm sao chúng ta có thể thờ ơ được?”. Người lãnh đạo bảo họ: “Anh đừng nghe ngóng việc này. Nên nghe giảng đạo thì cứ nghe giảng đạo, nên nhóm họp thì cứ nhóm họp đi. Ăn uống lời Đức Chúa Trời là việc chính của anh. Anh tin Đức Chúa Trời cho tốt là được rồi”. “Không được, tôi phải quan tâm chứ”. Vì không ai nói cho họ biết, nên họ suy nghĩ xem nên đi nghe ngóng ở đâu. Khi lãnh đạo cấp cao đến nhà họ nhóm họp đồng sự, họ cảm thấy việc bước vào và tham gia có vẻ hơi danh bất chính, ngôn bất thuận, nên họ giả vờ mang nước vào, nghe ngóng xem liệu kẻ ác đó đã bị khai trừ hay được phép ở lại. Khi không ai nói cho họ biết, thì họ đi ra ngoài và để hé cửa, đứng cạnh cửa nghe lén. Chẳng phải người này bị tâm thần sao? Đúng vậy, họ bị tâm thần; khẩu ngữ gọi là “thánh nhiều chuyện”. Những người như thế chắc chắn có dã tâm. Họ muốn trở thành lãnh đạo, nhưng lại không thể, nên họ lo chút chuyện bao đồng để an ủi mình, đồng thời cũng khiến mọi người thấy họ biết nhiều, đầu óc không tầm thường. Như vậy, sau này họ có thể được chọn làm lãnh đạo. Để trở thành lãnh đạo, họ muốn tham gia vào mọi chuyện, nghe ngóng mọi chuyện và biết mọi chuyện. Họ cho rằng chỉ cần tham dự vào những chuyện này mỗi ngày, cho dù họ không trở thành lãnh đạo thì vẫn là người chịu trách nhiệm về mọi việc, vẫn có thể khiến mọi người coi trọng. Họ không hề có một chút hứng thú nào với lẽ thật; họ chỉ chú trọng lo chuyện bao đồng – chuyên môn nghe ngóng những chuyện họ muốn biết. Phàm nơi nào có vấn đề là họ sẽ sáp lại đó, như con ruồi đáng ghét vậy. Chẳng phải những người như thế này đáng ghê tởm sao? Họ hồ đồ đến mức độ này, nhưng lại tràn đầy sinh lực – chỉ là họ không suy nghĩ về việc làm bất kỳ công việc chính đáng nào mà thôi. Họ làm bổn phận tiếp đãi mọi người ở nhà mình, nhưng sàn bếp có bẩn cũng không sẵn lòng lau chùi. Họ cho rằng mình là người làm chuyện lớn, còn lau nhà là việc người bình thường làm. Dựa vào tố chất của họ, thì họ không thể làm những việc như vậy được. Họ không hề làm bất kỳ công việc thực tế nào, không thể gánh vác được công việc thuộc bổn phận của chính mình chút nào, không thể làm tốt bất kỳ bổn phận nào, và không làm việc một cách thật lòng thật ý hay yên ổn; thay vào đó, họ lại muốn nghe ngóng công tác của hội thánh, cũng như một số việc lớn liên quan đến các lãnh đạo và người làm công cũng như anh chị em của hội thánh. Chuyện gì họ cũng muốn đưa ra ý kiến, và nếu người ta không sẵn lòng nghe, họ sẽ nói: “Nếu không nghe lời tôi, anh sẽ phải chịu thiệt đó!”. Đây chẳng phải là không có lý trí sao? (Thưa, phải.) Do đó, có những kẻ địch lại Đấng Christ ẩn tàng; họ không nhất thiết phải có địa vị. Dù không có địa vị, họ vẫn bay nhảy khắp nơi. Nếu mà họ có được địa vị, thì còn thế nào nữa? Họ phải nhảy cao đến đâu nữa? Dù có ngã chết, họ cũng không để ý. Nói Ta nghe, nếu những người như thế được chọn làm lãnh đạo, liệu dân được Đức Chúa Trời chọn có thể sống những ngày tốt đẹp được không? Có những kẻ địch lại Đấng Christ ẩn tàng – lời này nghĩa là gì? Có nghĩa là kẻ địch lại Đấng Christ không phải có địa vị mới trở thành kẻ địch lại Đấng Christ; mà họ vốn dĩ là kẻ địch lại Đấng Christ rồi. Chỉ là do mọi người có vóc giạc nhỏ bé và không phân định được họ, hoặc có lẽ một số hội thánh vẫn chưa thể tìm được người mưu cầu lẽ thật, nên đành chọn những người nhiệt huyết, có thể thu xếp công việc và có thể chạy việc này làm lãnh đạo. Bây giờ chưa bàn đến việc chọn họ làm lãnh đạo là đúng hay sai, chỉ nói về việc một khi phát hiện ra họ là kẻ địch lại Đấng Christ thì nên làm gì. Nên vạch trần và loại bỏ họ. Nếu người bị xác định tính chất là kẻ địch lại Đấng Christ bị cách chức, thì về sau có nên chọn loại người này làm lãnh đạo lần nữa không? (Thưa, không.) Tại sao? (Thưa, bản tính của họ sẽ không thay đổi.) Phàm là những người bị xác định tính chất là kẻ địch lại Đấng Christ thì không nên chọn họ làm lãnh đạo lần nữa bởi vì thực chất bản tính của họ không thể thay đổi. Những kẻ địch lại Đấng Christ chỉ làm việc cho Sa-tan; họ chỉ là nô dịch của Sa-tan. Họ tuyệt đối sẽ không làm bất cứ việc gì, nói bất cứ lời nào vì lẽ thật. Thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ là đối địch với Đức Chúa Trời, chán ghét lẽ thật, vứt bỏ, xem thường lẽ thật. Bản tính của họ sẽ không bao giờ thay đổi. Nếu loại người này chưa từng làm lãnh đạo thì không nên chọn họ, còn nếu họ đã từng làm lãnh đạo nhưng bị cách chức, về sau lại trở thành lãnh đạo lần nữa, thì liệu họ sẽ thay đổi chứ? (Thưa, không.) Họ vẫn là kẻ địch lại Đấng Christ. Thực chất bản tính của họ quyết định điều này.
II. Mổ xẻ về cách kẻ địch lại Đấng Christ lôi kéo mọi người
Chúng ta vừa thảo luận về các biểu hiện của việc kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc mọi người. Mê hoặc và lôi kéo có ý nghĩa tương tự nhau, nhưng khác nhau về cả tính chất và thủ đoạn. Mê hoặc là sử dụng biểu hiện giả dối để khiến mọi người lạc hướng, khiến họ tin rằng đó là thật. Lôi kéo là sử dụng một số thủ đoạn một cách có ý thức để khiến mọi người nghe theo một người cụ thể và đi theo con đường của họ – ý định của họ rất rõ ràng. Mê hoặc và lôi kéo dựa vào một số lời nói đúng để mê hoặc mọi người, nói một số lời hợp với quan niệm của con người và lời mọi người thích tiếp nhận để mê hoặc họ. Mọi người bất giác tin tưởng và đi theo họ, đứng cùng chiến tuyến với họ và trở thành một đội với họ. Cứ như thế, kẻ địch lại Đấng Christ lôi kéo mọi người ra khỏi một nhóm người đúng, về phe của họ. Tóm lại, nếu mọi người tiếp nhận những cách làm như thế của kẻ địch lại Đấng Christ, thì họ có thể tin và tôn sùng kẻ địch lại Đấng Christ, để rồi kẻ địch lại Đấng Christ nói gì họ cũng tiếp nhận và vâng phục, bất giác đi theo kẻ địch lại Đấng Christ. Chẳng phải họ đã bị lừa rồi sao? Một số kẻ địch lại Đấng Christ thường sử dụng một số thủ đoạn để đạt được mục đích mê hoặc và lôi kéo mọi người trong khi tiếp xúc, nói chuyện với họ, kết quả là dẫn đến việc trong hội thánh bắt đầu chia bè, chia phái, chia dòng tộc. Chẳng hạn như nếu kẻ địch lại Đấng Christ là người miền Nam và gặp một người miền Nam khác, thì kẻ địch lại Đấng Christ nói: “Cả hai chúng ta đều là người miền Nam: uống nước chung dòng sông mà lớn lên, nói chung thứ tiếng. Người miền Bắc không hiểu phương ngữ của chúng ta – không thể nào kết thân với họ được! Mặc dù chúng ta đều tin cùng một đức chúa trời, nhưng thói quen sinh hoạt của người miền Bắc bọn họ khác với của chúng ta, tính cách cũng không hợp, không thể nói chuyện cùng nhau được. Nên anh và tôi giống như người một nhà, chúng ta cần phải gắn kết với nhau”. Lời này nói có vẻ hợp lý, giống như họ chỉ đang bày tỏ một loại quan điểm, nhưng họ nói lời này là có ý định, mục đích và mọi người nên có sự phân định. Thực ra, kẻ địch lại Đấng Christ nói lời này không phải là lời trong lòng họ; họ là kiểu gặp người thì nói tiếng người, gặp quỷ thì nói tiếng quỷ. Khi kẻ địch lại Đấng Christ gặp người miền Bắc, họ liền nói: “Miền Bắc rất tuyệt vời; không khí ở đó trong lành. Mặc dù tôi sinh ra ở miền Nam, nhưng lại uống nước miền Bắc mà lớn lên. Bởi vậy mà chúng ta gần gũi nhau, chứ còn gì nữa!”. Khi người miền Bắc nghe được lời này, họ liền cảm thấy kẻ địch lại Đấng Christ là người khá tốt và kết giao với kẻ này. Kẻ địch lại Đấng Christ giỏi nhất việc mê hoặc và lôi kéo mọi người, sử dụng các loại thủ đoạn để chia rẽ hội thánh, khiến cho những người miền Bắc và người miền Nam hình thành bè phái riêng, kẻ địch lại Đấng Christ dễ dàng đạt được lợi ích từ trong đó, đạt được mục đích kéo bè kéo cánh và hình thành một thế lực bè phái của riêng họ. Nhất là trong những cuộc bầu cử của hội thánh, nếu kẻ địch lại Đấng Christ thấy một anh chị em người miền Bắc có thể sẽ được bầu, họ sẽ có những hoạt động ngầm, đổi trộm phiếu bầu, cuối cùng tất cả các lãnh đạo và chấp sự hội thánh được bầu đều là người miền Nam. Kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và lôi kéo mọi người trắng trợn như thế, chia bè chia phái, sử dụng những thủ đoạn này để chia rẽ và kiểm soát hội thánh. Khi làm vậy, mục đích của họ là gì? (Thưa, để tạo ra vương quốc độc lập của riêng họ.) Tính chất của việc tạo ra vương quốc độc lập là gì? Nó có nghĩa là không đội trời chung với Đấng Christ, chiếm dân được Đức Chúa Trời chọn làm của mình, và đứng ngang hàng với Đức Chúa Trời. Chẳng phải đây là đối chọi với Đức Chúa Trời sao? (Thưa, phải.) Chuyện chính là như vậy. Vậy thì hậu quả của việc kẻ địch lại Đấng Christ làm như thế là gì? Điều này gây nhiễu loạn và gián đoạn nghiêm trọng công tác của hội thánh, và là điều trực tiếp xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ nổi giận với họ, và tất cả những kẻ địch lại Đấng Christ như thế đều phải bị trừng phạt và hủy diệt, không nghi ngờ gì nữa. Trong Thời đại Luật pháp, 250 thủ lĩnh xét đoán Môi-se đã bị trừng phạt trực tiếp. Trong Thời đại Ân điển, những kẻ đóng đinh Đức Chúa Jêsus lên thập tự giá cũng bị trừng phạt trực tiếp; chúng bị rủa sả và không được chết tử tế. Đây chính là kết cục của việc kẻ địch lại Đấng Christ đối đầu với Đức Chúa Trời và cũng là cái kết tất yếu cho những kẻ chống đối Đức Chúa Trời.
Kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng những cách khác nhau để lôi kéo mọi người nhằm chia rẽ hội thánh như thế nào? Đầu tiên, kẻ địch lại Đấng Christ sẽ lôi kéo những người có ân tứ và biết ăn nói, trước hết khiến những người này có thiện cảm với họ, mở rộng phạm vi thế lực của riêng họ bằng cách kết giao bằng hữu. Họ sẽ không để ý tới, thậm chí bài xích những người nghèo khó, những người có tố chất kém hoặc tương đối thật thà. Hễ ai có địa vị và tiền tài trong xã hội, họ liền nghĩ cách làm lung lạc họ về tay mình, trong khi các anh chị em thành tâm dâng mình nhưng gia đình nghèo khó, hoặc những người có địa vị trong xã hội thấp, không có thế lực nào và dễ bị người khác ức hiếp, thì sẽ bị phân chia thành công dân hạng hai trong hội thánh. Như vậy, hội thánh với vài chục thành viên vô hình trung trở nên bị phân chia thành hai hạng người. Ai làm chuyện này? (Thưa, kẻ địch lại Đấng Christ.) Kẻ địch lại Đấng Christ sẽ làm những chuyện như thế. Nếu một người lãnh đạo tốt thực sự hiểu được lẽ thật phát hiện ra tình trạng như thế này xuất hiện trong hội thánh, họ sẽ sử dụng lẽ thật để giải quyết. Họ sẽ không để mọi người trong hội thánh bị phân biệt đẳng cấp hoặc phân loại dựa trên địa vị xã hội, họ cũng sẽ không chia rẽ hội thánh. Họ sẽ chỉ khiến tất cả các anh chị em, bất kể đến từ đâu, có địa vị xã hội nào hay không, đều hợp nhất trong lời Đức Chúa Trời và trước Đức Chúa Trời. Còn kẻ địch lại Đấng Christ không những không giải quyết những vấn đề như thế, mà ngược lại sẽ dùng những tâm tính bại hoại của mọi người để đạt được mục đích của mình. Họ thấy ai có địa vị xã hội và tiền tài thì lôi kéo người đó. Họ lôi kéo thế nào? Họ sẽ nói: “Việc anh có địa vị trong xã hội là do đức chúa trời chúc phúc, đức chúa trời tiền định. Anh phải dùng điều kiện này để làm tốt bổn phận trong nhà đức chúa trời. Anh xem bây giờ tôi là lãnh đạo và khá có tiếng trong khu vực vì đức tin của mình. Người nhà thúc ép tôi khá gay gắt, tôi làm lãnh đạo có hơi nguy hiểm. Tôi cần dùng những người như anh để bảo vệ mình an toàn. Nếu anh bảo vệ tôi thật tốt, thì sau này anh sẽ có được phước lành lớn và anh sẽ tiến bộ nhanh trong sự sống!”. Kẻ địch lại Đấng Christ lôi kéo và dụ dỗ mọi người đi theo họ như thế. Nếu kẻ địch lại Đấng Christ thích ai đó và thấy ai có giá trị lợi dụng, họ sẽ sắp xếp cho người đó những bổn phận đơn giản hoặc những bổn phận mà người đó có thể xuất đầu lộ diện, tận lực cất nhắc người đó. Kẻ địch lại Đấng Christ không quan tâm liệu người ta có phù hợp với các nguyên tắc dùng người trong nhà Đức Chúa Trời hay không. Chỉ cần người này có địa vị xã hội và có thể hữu dụng với họ thì kẻ địch lại Đấng Christ liền lôi kéo. Để đạt được mục đích của mình, kẻ địch lại Đấng Christ sẽ tiếp cận, nịnh nọt và lôi kéo những người có tiền tài và địa vị trong xã hội, đồng thời vơ vét lợi ích nơi những người này. Họ còn có cách lôi kéo thứ hai với những người có tiền, có thế và có địa vị, đó là nuông chiều. Những người như thế thường làm chuyện xấu trong hội thánh, đả kích tính tích cực của các anh chị em và gây nhiễu loạn đời sống hội thánh. Kẻ địch lại Đấng Christ thấy thế thì vui vẻ và mặc cho những người đó làm chuyện xấu. Mục đích của việc kẻ địch lại Đấng Christ nuông chiều những người này là gì? Vẫn là để lôi kéo, lôi kéo về phía họ để dễ dàng đạt được lợi ích nơi những người này. Thậm chí kẻ địch lại Đấng Christ còn giả vờ nói với họ rằng: “Mặc dù các anh chị em đã chọn tôi làm lãnh đạo và tôi có trách nhiệm dẫn dắt các anh chị em, nhưng hội thánh này không thuộc về mình tôi. Tôi không thể tự định đoạt mọi chuyện trong hội thánh được. Các anh chị em cũng phải giúp đỡ; nếu có chuyện gì đó, các anh chị em cũng có thể có định đoạt – đây gọi là phối hợp”. Họ nói điều này với những người có tiền, có thế và có lợi cho họ, cực lực lôi kéo những người này cho đến khi đạt tới mức có thể kiểm soát người ta. Còn đối với những người thật tâm tin Đức Chúa Trời, nhưng không có tiền bạc, địa vị xã hội hay giá trị lợi dụng nào, thì họ cực lực bài xích, công kích hoặc là dứt khoát phớt lờ người ta. Việc họ phớt lờ người ta nghĩa là gì? “Chỉ cần vài người chúng tôi đoàn kết lại với nhau, trở thành thành đồng vách sắt, thì chắc rằng dân thường các anh không thể tạo ra bất kỳ sự khác biệt nào. Nếu anh thành thật nghe lời tôi, thì tôi sẽ để cho anh tiếp tục tin. Nhưng nếu anh cứ bới lông tìm vết, có ý kiến về tôi hoặc phản ánh vấn đề của tôi với cấp trên, thì tôi sẽ trừng trị anh, khai trừ anh!”. Họ dự định là như thế. Một số người không phân định được liền sợ hãi, nói rằng: “Chúng ta không được đắc tội với họ. Mấy người họ đã hình thành phe cánh riêng, chúng ta không đắc tội nổi đâu. Chúng ta thấp cổ bé họng, ngộ nhỡ nói câu nào không tốt làm tổn thương đến họ, và thực sự bị họ khai trừ, thì chúng ta sẽ mất cơ hội tin Đức Chúa Trời”. Những người này sợ mất mật. Khi kẻ địch lại Đấng Christ lôi kéo mọi người, thì trong hành vi này có tâm tính tà ác, hung ác và độc ác. Khi lôi kéo mọi người, mục đích của họ là gì? Cũng là để củng cố địa vị của họ. Mục đích họ trở thành băng đảng hoặc tập thể là gì? Là để mở rộng phạm vi thế lực của họ, để có thể có người giúp đỡ họ, khiến quyền lực địa vị của họ càng được củng cố hơn. Có ai trong các ngươi từng tiếp xúc với những chuyện này chưa? Khi một kẻ địch lại Đấng Christ kiểm soát hội thánh, ai có tiền bạc, địa vị hoặc hoành hành ngang ngược liền đi theo và nắm quyền cùng họ, trở thành một tập thể, một băng nhóm gồm bốn, năm hoặc sáu người. Không ai được phép vạch trần vấn đề của họ. Kẻ địch lại Đấng Christ lôi kéo những người này bởi vì họ rất khó mà kiểm soát được những người này. Kẻ địch lại Đấng Christ phải lôi kéo những người này lại gần, biến họ thành trợ thủ của mình, như thế địa vị của họ mới được củng cố. Ngoài ra, những người này có giá trị lợi dụng với kẻ địch lại Đấng Christ. Họ dùng phương thức lôi kéo để đối đãi với những người này cũng là hơi có ý ổn định những người này và khiến những người này không tạo thành mối đe dọa cho địa vị của họ.
Về phương diện lôi kéo mọi người này của kẻ địch lại Đấng Christ, chúng ta vừa thảo luận hai biểu hiện. Những hiện tượng như thế có xảy ra trong hội thánh của các ngươi không? Nói Ta nghe, loại chuyện này có tồn tại không? (Thưa, có.) Chắc chắn là có. Vậy thì trong mọi thứ liên quan đến việc lôi kéo, thì còn những biểu hiện nào mang tính chất của việc kẻ địch lại Đấng Christ lôi kéo mọi người? Hậu quả của việc lôi kéo mọi người là gì? Tại sao kẻ địch lại Đấng Christ muốn lôi kéo mọi người? Nếu không lôi kéo mọi người, liệu họ có thể đạt được mục đích kiểm soát mọi người không? (Thưa, họ không thể.) Họ phải lôi kéo những người nghe lời họ và hợp ý họ về bên cạnh, thì họ mới có địa vị và có những đối tượng để thực thi thẩm quyền. Nếu không có ai xung quanh nghe lời họ, chẳng phải họ sẽ không thể thỏa mãn được dã tâm muốn có được địa vị và quyền lực của mình sao? Vì thế, chỉ khi lôi kéo mọi loại người có thể lôi kéo được, họ mới có được vị trí và quyền lực. Với những người không thể lôi kéo được, họ xử lý như thế nào? (Thưa, họ bài xích và đả kích.) Họ sẽ bắt đầu đả kích và bài xích người ta. Chẳng phải từng có những kẻ địch lại Đấng Christ biến những người không thể lôi kéo được trong hội thánh thành “người dự thính” sao? Họ dứt khoát không cho những người này những bài giảng, thánh ca và sách lời Đức Chúa Trời mà hội thánh phân phát, hoặc họ không thông báo nhóm họp cho những người này trong một thời gian dài. Loại chuyện này chắc chắn là có, đó đều là những việc làm của kẻ địch lại Đấng Christ. Những người bị kẻ địch lại Đấng Christ đả kích và bài xích không phải bị hội thánh gạch tên, không phải chủ động rút khỏi và không phải chủ động không nhóm họp. Họ đều là những người thành tâm tin Đức Chúa Trời, nhưng bởi vì họ có chút phân định về kẻ địch lại Đấng Christ, nên họ thường bị bài xích bên ngoài và không thể nhận được kịp thời các sách lời Đức Chúa Trời hoặc bài giảng, thánh ca và những sắp xếp công việc khác nhau do hội thánh ban hành, cũng không thể ăn uống lời Đức Chúa Trời được. Còn những thuộc hạ của kẻ địch lại Đấng Christ, tức là những người có thể nghe lời họ, đã bị họ lôi kéo và quy phục họ, lại được ưu tiên nhận được các loại sách và video do nhà Đức Chúa Trời phân phát, được hưởng thụ đãi ngộ như thế. Hội thánh bị những hành vi và cách làm của kẻ địch lại Đấng Christ làm cho hỗn loạn, chia năm xẻ bảy, lòng người hoang mang.
Kẻ địch lại Đấng Christ lôi kéo mọi người có điều kiện gì không? Họ có lôi kéo những người yêu thích lẽ thật và thật tâm thuận phục Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Những người yêu thích lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời có chút phân định, họ không thể bị lôi kéo, và họ sẽ không đi theo kẻ địch lại Đấng Christ. Vậy kẻ địch lại Đấng Christ lôi kéo những ai? Trong lòng kẻ địch lại Đấng Christ ưa chuộng nhất những người giỏi nịnh nọt, những người có địa vị, những người biết nịnh hót, bợ đỡ và một số người từng làm chuyện xấu và sợ bị khai trừ nên ra sức lấy lòng kẻ địch lại Đấng Christ. Kẻ địch lại Đấng Christ dùng những điều kiện bảo vệ họ như thế để lôi kéo mọi người và mua chuộc lòng người, để những người này đến gần họ. Hầu hết những người bị kẻ địch lại Đấng Christ lôi kéo, ngoại trừ những người mới tin chưa hiểu được lẽ thật, thì đa phần đều là những người không yêu thích lẽ thật. Hết thảy những người không yêu thích lẽ thật này có lương tâm và lý trí không? Không ai trong số họ là tốt đẹp cả, và Đức Chúa Trời không chọn những người như vậy. Kẻ địch lại Đấng Christ lôi kéo những người này và dẫn dắt họ như thằng hề. Thậm chí kẻ địch lại Đấng Christ còn nghĩ rằng mình đã làm quan và có địa vị, trong lòng vô cùng thỏa mãn. Đây chẳng phải là không biết xấu hổ sao? Kẻ địch lại Đấng Christ còn lôi kéo những loại người nào nữa? (Thưa, người có nhân tính tương đối ác.) Chính là kẻ ác. Kẻ địch lại Đấng Christ đối đãi với kẻ ác như thế nào? Họ bảo vệ kẻ ác. Ví dụ trong hội thánh có một kẻ ác, và các anh chị em đều phản ánh rằng kẻ này vô cùng xấu xa, chỉ cần kẻ này còn ở hội thánh thì sẽ quấy nhiễu đến mức không ai được yên ổn, làm nhiễu loạn việc thực hiện bổn phận của mọi người và làm nhiễu loạn công tác của hội thánh. Chỉ cần dùng họ để làm bổn phận là công tác của hội thánh liền chịu tổn thất. Nhưng kẻ địch lại Đấng Christ lại thấy những kẻ ác như thế có thể lợi dụng được và lôi kéo về phía mình để phục vụ cho mình. Kẻ địch lại Đấng Christ không khai trừ, trái lại còn bảo vệ kẻ ác. Trừ khi có kẻ ác không ủng hộ kẻ địch lại Đấng Christ hoặc biết phân định họ – thì họ sẽ xử lý những người đó. Chỉ cần kẻ ác nịnh nọt, ủng hộ và không phản đối kẻ địch lại Đấng Christ, thì họ đều sẽ lôi kéo và mua chuộc kẻ đó để mở rộng thế lực của riêng mình. Vậy kẻ địch lại Đấng Christ chung sống với những kẻ không mưu cầu lẽ thật này như thế nào? Cách giao thiệp của họ về cơ bản là tâng bốc lẫn nhau và hùa theo nịnh nọt. Hễ kẻ địch lại Đấng Christ đi đâu là những kẻ ác này vây quanh họ đến đó, luôn tụ tập lại với nhau như ruồi nhặng hôi hám. Chắc chắn họ không tụ tập lại với nhau để thông công lẽ thật, bởi vì hết thảy họ đều chán ghét lẽ thật, và không ai tìm kiếm, thông công lẽ thật để giải quyết vấn đề cả. Họ cứ nói những lời của người ngoại đạo, đa phần đều là những lời đâm bị thóc chọc bị gạo, hạ thấp người khác và nâng cao bản thân, bàn bạc cách trị người khác. Ngoài ra, họ còn nghiên cứu cách đề phòng nhà Đức Chúa Trời, bàn bạc cách đối chọi với Bề trên, cách để có thể biết trước nếu có ai muốn phản ánh vấn đề của họ, và cách đối đáp sau khi biết được. Đó là những chuyện mà băng nhóm kẻ ác này bàn bạc. Khi tụ họp, họ không bao giờ thông công chuyện thực hiện bổn phận, và không bao giờ thông công lẽ thật để giải quyết vấn đề. Chẳng hạn như họ không bao giờ bàn bạc về những việc chính đáng như nên nâng đỡ và trợ giúp các anh chị em tiêu cực, yếu đuối và không có hứng thú làm bổn phận như thế nào, hoặc xem xem có biện pháp và con đường nào cho một số phương diện công tác của hội thánh có hiệu quả không tốt. Họ bàn bạc về cách lừa gạt Bề trên và cách lừa gạt nhà Đức Chúa Trời, đảm bảo nhà Đức Chúa Trời không biết về tình hình thực tế của họ. Một khi phát hiện ra có người liên hệ với Bề trên hoặc phản ánh tình trạng của họ, thì họ sẽ xem đó là mối đe dọa đến vị trí của mình và làm hỏng việc của mình. Họ sẽ không ngừng truy cứu trách nhiệm, tìm kẻ khả nghi, sau khi tìm được, họ sẽ cô lập người đó, điều chuyển đi nơi khác, sau đó ra lệnh cấm bất kỳ ai phản ánh tình trạng của họ lên Bề trên. Như vậy thì không ai dám phản ánh họ nữa. Cứ thế, kẻ địch lại Đấng Christ hoàn toàn kiểm soát được hội thánh. Bề trên không cách nào biết được họ làm việc ác nào sau lưng, cho đến khi Bề trên hiểu rõ được tình hình và phát hiện ra sơ hở của họ, sau đó ra lệnh điều tra và cuối cùng cách chức hoặc khai trừ họ. Nhóm kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác này có thể làm công tác của hội thánh rối loạn chỉ trong mấy tháng ngắn ngủi, có thể khiến các anh chị em nghi kỵ nhau, phá đám nhau, vạch trần nhau và công kích nhau, gây chia rẽ hội thánh. Đây chính là hậu quả mà kẻ địch lại Đấng Christ sẽ đạt được khi mê hoặc mọi người và kiểm soát hội thánh. Kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc hết thảy những người không mưu cầu lẽ thật như vậy đấy, họ còn lôi kéo một số kẻ ác có thể lợi dụng được để kiểm soát hội thánh, củng cố vị trí và quyền thế của chính mình. Nếu kẻ ác nghe lời họ thì sẽ được họ bảo vệ. Nếu không, họ sẽ xử lý kẻ ác trước. Nếu kẻ ác đi theo họ và có thể chiêu mộ, lôi kéo được, thì họ sẽ để cho kẻ ác trở thành đồng bọn của họ, trở thành trợ thủ, gián điệp để họ làm những chuyện xấu, thâm nhập vào giữa các anh chị em, nghe ngóng xem những ai có ý kiến với họ, những ai có sự phân định với việc họ làm, những việc xấu nào họ làm đã bị phát hiện, và những ai luôn muốn liên hệ với Bề trên để phản ánh vấn đề của họ. Kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác chuyên môn điều tra những chuyện này, những chuyện này cũng là những chuyện mà kẻ địch lại Đấng Christ lo lắng nhất. Họ thường cùng bàn bạc đối sách, đối đãi những người có thể phân định họ hoặc nghi ngờ họ như kẻ thù. Hôm nay họ kiếm cớ trị người này, ngày mai họ nắm được sơ hở để trị người kia; thậm chí họ còn tìm một vài lý do và cái cớ để xúi giục dân được Đức Chúa Trời chọn thanh trừ và khai trừ những người này. Một khi kẻ địch lại Đấng Christ trở thành lãnh đạo và người làm công, thì họ sẽ làm những chuyện này. Chỉ trong mấy tháng, họ có thể làm cho hội thánh rối loạn, cho dù hội thánh tân tín hữu như ngọn lửa bùng cháy thì cũng bị họ hắt nước dập lửa. Cho nên, kẻ địch lại Đấng Christ chính là kẻ thù của Đức Chúa Trời, cũng là kẻ thù của dân được Đức Chúa Trời chọn. Nói vậy không quá chút nào – mà vô cùng chuẩn xác! Nơi nào kẻ địch lại Đấng Christ hoặc kẻ ác nắm quyền là hội thánh liền tối tăm hỗn loạn. Căn bản là không có đời sống hội thánh, không có việc ăn uống lời Đức Chúa Trời bình thường, và không có bầu không khí thông công lẽ thật. Chỉ toàn là hục hặc với nhau, làm xằng làm bậy. Đây gọi là ma quỷ cầm quyền. Khi ma quỷ cầm quyền, liệu có thể có bất kỳ kết quả tốt đẹp nào không? Nó chỉ có thể mang đến tai họa cho dân được Đức Chúa Trời chọn – đó là điều chắc chắn, không nghi ngờ gì nữa.
Có những kẻ địch lại Đấng Christ, khi đến một hội thánh để làm lãnh đạo, thì nghiên cứu trước xem trước đây ai trong hội thánh luôn phản ánh vấn đề với Bề trên. Họ muốn tránh xa những người như thế một chút, và dù có thể được những người đó tiếp đãi, họ cũng không đến ở nhà người ta. Nếu có ai biết nịnh hót, luôn vây quanh lãnh đạo, còn biết ra vẻ nịnh bợ, thì nhà của người đó chính là nơi họ suy xét đến ở. Có người nói: “Họ đang tiếp đãi hai người chị em”. Kẻ địch lại Đấng Christ đáp: “Không được, chuyển hai chị em kia đi nơi nào khác đi”. Người đó nói: “Anh không thể tùy ý điều động mọi người được; hai người chị em kia khá hợp với nơi đó – tùy ý điều động họ đi có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện bổn phận của họ”. Họ đáp: “Tôi là lãnh đạo, tôi có tiếng nói quyết định, anh phải vâng phục tôi!”. Thế là họ ép hai người chị em kia chuyển đi. Tại sao họ lại nhất quyết ở nhà này? Đó là bởi vì người nhà này thành thật, nhu nhược, không đe dọa gì đến kẻ địch lại Đấng Christ. Dù họ có làm chuyện gì xấu hay họ phóng đãng sau lưng mọi người thế nào đi nữa, thì người nhà này cũng sẽ không phản ánh. Cho nên họ tìm nơi như thế để ở. Sau một thời gian, họ gọi những kẻ ác đến và làm chuyện xấu xa ở đó, bàn bạc đối sách và suy xét đến việc trị người này, người kia. Khi một kẻ địch lại Đấng Christ hoặc kẻ ác xuất hiện trong hội thánh, họ tìm những người mà họ thích hoặc có thể lợi dụng trước, mở rộng và củng cố thế lực của mình trước. Họ tạm để yên cho những người hiểu được lẽ thật, tránh gây bất lợi đến địa vị của mình. Họ chưa phá vỡ ngay trật tự hiện tại. Sau khi củng cố địa vị của mình và tìm được trợ thủ phù hợp, họ bắt đầu bàn bạc đối sách để trị và giải quyết những anh chị em mưu cầu lẽ thật đó. Họ trị và giải quyết những người đó thế nào? Đầu tiên, họ lôi kéo những người tán thành họ, những người không có sự phân định với họ và những người họ có thể lợi dụng. Nếu có những người mà họ quả thực không thể lôi kéo hoặc phân định được họ, thì họ sẽ kiếm cớ hoặc lý do để cô lập hoặc thanh trừ những người đó. Kiểu hành vi này của những kẻ địch lại Đấng Christ bộc lộ tâm tính nào? (Thưa, hung ác.) Nơi nào họ làm trò lãnh đạo, thì nơi đó bị quấy nhiễu đến mức tối tăm rối loạn. Trật tự của đời sống hội thánh bị xáo trộn. Nếu không nghe theo họ, ngươi sẽ bị chèn ép, hạn chế, thậm chí bị thanh trừ hoặc khai trừ. Có những kẻ địch lại Đấng Christ giống như côn đồ, lưu manh hay người đàn bà chanh chua vậy. Tin Đức Chúa Trời mà vẫn muốn có được địa vị, làm mưa làm gió trong nhà Đức Chúa Trời và kiểm soát dân được Đức Chúa Trời chọn. Họ làm cho hội thánh rối loạn như thế. Nếu mọi người không có sự phân định thì sẽ bị họ mê hoặc và kiểm soát, cuối cùng tự đẩy mình đến chỗ lụn bại.
Chúng ta đã ít nhiều thảo luận xong về phương diện biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ khi lôi kéo mọi người. Khi nghe những chuyện Ta thảo luận này, các ngươi có cảm thấy đó là những chuyện hiếm gặp không? Các ngươi có cảm thấy không thể tưởng tượng nổi: “Thật sự có chuyện này sao? Không thể nào đâu nhỉ? Người tin Đức Chúa Trời sao lại có người như thế được?”. Để Ta nói cho các ngươi biết, thậm chí còn có chuyện nghiêm trọng hơn chuyện này nữa. Trước mặt người khác, ai cũng mang hình tượng giống con người, nhưng sau lưng họ như thế nào mới là bộ mặt chân thật của họ. Những lời họ nói và việc họ làm trước mặt người khác chỉ là sự ngụy trang, là biểu hiện giả dối. Chính những gì họ nói và làm sau lưng mới là chân tướng của họ. Nếu ai đó trước mặt người khác một kiểu, sau lưng một kiểu, thì các ngươi nên biết phân định đâu là thật, đâu là giả, phải không? Kẻ địch lại Đấng Christ có thể ra vẻ rất lịch sự trước mặt mọi người, nhưng nếu mọi người biết những gì kẻ địch lại Đấng Christ làm sau lưng, họ sẽ thấy ghê tởm. Họ sẽ cảm thấy việc có quan hệ với kẻ địch lại Đấng Christ là sự ô nhục, đó không phải là chính nhân quân tử, mà là tiểu nhân hèn hạ. Vậy thì liệu kẻ địch lại Đấng Christ có thể hòa hợp với người bình thường được không? Không thể. Họ không phải là người bình thường có vài thói quen xấu, mà đây là một dạng tâm tính. Vừa thấy tâm tính của họ, ngươi liền nhận ra họ không phải con người, mà là súc sinh, ma quỷ. Nói Ta nghe, khi giao thiệp với súc sinh thì con người có cảm giác gì? Giống như mang heo vào nhà, tắm sạch cho nó, mặc cho nó ít đồ và nuôi nó như thú cưng. Hôm sau, ngươi thấy trong nhà mình giống như chuồng heo. Nó ăn, uống, phóng uế trong nhà, không biết gì về vệ sinh cả. Người biết mình không thể nuôi heo thế này được – chúng là súc sinh! Loại người như kẻ địch lại Đấng Christ có thể trông từ bên ngoài thì như có chút tố chất và giáo dưỡng, hoặc từng là người có máu mặt trong xã hội, khiến người ta tôn trọng một chút. Nhưng đa số họ giống như súc sinh, đến lương tâm và lý trí cũng không có. Họ có nhân tính bình thường không? (Thưa, không.) Không có nhân tính bình thường thì có còn là con người không? Liệu các ngươi có thể tiếp nhận sự lãnh đạo của họ không? Nếu các anh chị em rơi vào tay những người như thế thì kết cục sẽ là gì? Họ sẽ bị mê hoặc, lôi kéo, và chắc chắn sẽ chịu đựng đau khổ. Loại người như kẻ địch lại Đấng Christ này là ma quỷ, họ không có một chút lương tâm hay lý trí nào. Nhìn bề ngoài họ dường như rất có lòng yêu thương với một số người, thấu hiểu và cảm thông với những khó khăn, yếu đuối và nhu cầu tình cảm của con người. Nhưng thực ra đó là những người họ ưa thích, những người nịnh nọt họ. Nhưng nếu những người này đe dọa đến địa vị và thanh danh của họ, thì họ cũng sẽ không khách khí, sẽ không từ thủ đoạn mà đối xử với người ta bằng những thủ đoạn ác độc hơn nữa, không có một chút cảm thông hay bao dung nào. Lòng yêu thương và sự bao dung của kẻ địch lại Đấng Christ hết thảy chỉ là biểu hiện giả dối, tuyệt đối không phải là để đưa mọi người đến trước Đức Chúa Trời, mà là khiến cho mọi người tôn sùng và đi theo họ. Mục đích gài bẫy mọi người như thế là để củng cố địa vị của chính họ và có được sự tôn sùng, đi theo của mọi người. Bất kể kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng thủ đoạn nào để mê hoặc và lôi kéo mọi người, thì có một điều chắc chắn là: vì quyền lực và địa vị của chính mình, họ sẽ vắt óc và không từ thủ đoạn nào vận dụng mọi cách để đạt được mục đích của mình. Một điều chắc chắn nữa là dù làm gì, họ cũng không phải đang thực hiện bổn phận, càng không để thực hiện tốt bổn phận; mà để đạt được mục đích nắm quyền trong hội thánh. Ngoài ra, dù làm gì, họ cũng không bao giờ cân nhắc đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, càng không cân nhắc đến lợi ích của dân được Đức Chúa Trời chọn. Trong từ điển của kẻ địch lại Đấng Christ, hai điều này không tồn tại; họ sinh ra đã không có chúng. Dù làm lãnh đạo ở cấp bậc nào, họ cũng không quan tâm một chút nào đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời hay dân được Đức Chúa Trời chọn. Trong tư tưởng, quan điểm của họ, công tác của hội thánh và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời không liên quan đến họ, là những thứ họ coi thường. Họ chỉ suy nghĩ đến địa vị của chính mình và lợi ích của chính mình. Từ điểm này, có thể thấy rằng thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ ngoài tà ác ra thì còn đặc biệt ích kỷ và đê tiện. Họ chỉ làm việc vì danh lợi và địa vị của bản thân, mà không để ý một chút nào đến sự sống chết của người khác. Bất kỳ ai tạo ra mối đe dọa đến địa vị của họ, họ đều sẽ chèn ép và bài xích không từ thủ đoạn, cũng như trị cho đến chết. Thỉnh thoảng, khi kẻ địch lại Đấng Christ bị tố giác vì làm quá nhiều việc ác và khiến Bề trên biết được, họ cảm thấy như sắp mất địa vị và khóc lóc nức nở. Bề ngoài, trông họ như đang ăn năn và quay trở lại với Đức Chúa Trời, nhưng trên thực tế, vì sao họ lại khóc? Vì sao mà họ hối hận? Họ đau đớn, buồn khổ bởi vì đã đánh mất lòng người, đánh mất địa vị và danh vọng của mình. Đó chính là những gì chứa đựng trong nước mắt của họ. Đồng thời, họ cũng đang tính toán xem những bước tiếp theo làm thế nào để củng cố địa vị của mình, học bài học và đợi thời trở lại. Xét trên biểu hiện này của kẻ địch lại Đấng Christ, họ sẽ không bao giờ hối hận hoặc đau khổ vì những sai lầm và tâm tính bại hoại mà mình bộc lộ, càng không có sự nhận thức hoặc ăn năn chân thực. Cho dù họ khóc lóc quỳ gối trước Đức Chúa Trời, phản tỉnh và nguyền rủa bản thân, nhưng đó chỉ là biểu hiện giả dối để mê hoặc mọi người, thậm chí có những người vẫn tin là thật. Có thể tâm trạng lúc đó của họ là thật. Tuy nhiên, cần nhớ rằng những kẻ địch lại Đấng Christ sẽ không bao giờ có sự ăn năn chân thực. Cho dù một ngày kia bị tỏ lộ và đào thải, họ cũng sẽ không có sự ăn năn chân thực. Họ chỉ thừa nhận thất bại của chính mình, thừa nhận họ đã diễn hỏng vở kịch và bại lộ mọi việc ác. Tại sao Ta lại nói vậy? Bởi vì dựa trên bản tính thù hận lẽ thật và Đức Chúa Trời của kẻ địch lại Đấng Christ, họ sẽ không bao giờ tiếp nhận lẽ thật. Vì thế, sự biết mình của kẻ địch lại Đấng Christ vĩnh viễn là giả. Họ sẽ chỉ thừa nhận rằng họ đã đánh mất lòng người bởi vì họ không nắm bắt được cơ hội tốt để nắm giữ quyền lực và củng cố địa vị. Vì những lý do này mà họ ăn năn, đau khổ. Khi tâm trạng của kẻ địch lại Đấng Christ đau khổ, họ cũng rơi lệ, nhưng tại sao họ khóc? Bối cảnh là gì? Họ khóc lóc bởi vì làm nhiều việc ác, bị vạch trần và đánh mất địa vị của mình. Nếu họ có thể thực sự ăn năn và khóc lóc vì làm sai và cảm thấy mắc nợ với Đức Chúa Trời, thì họ sẽ không làm quá nhiều việc ác như vậy. Họ không có sự cắn rứt lương tâm và không thừa nhận việc ác của mình – vậy thì làm sao có thể sinh ra sự ăn năn chân thực được? Sau khi hành ác, họ không cảm thấy ăn năn; họ dửng dưng, chỉ cảm thấy mất mặt và suy sụp cảm xúc một chút thôi. Đừng thấy bề ngoài họ giả vờ như người không có chuyện gì, nhưng trên thực tế trong sâu thẳm nội tâm họ như người câm ăn hoàng liên – có khổ cũng không nói được. Cảm xúc trong lòng họ phức tạp, cũng đau khổ, cũng khóc lóc, nhưng không có sự ăn năn chân thực nào. Đây là tình hình thực tế. Đôi lúc kẻ địch lại Đấng Christ cũng nói một ít lời êm tai, như: “Chính vì tố chất kém nên con mới không làm tốt công tác và làm một số chuyện gây nhiễu loạn và gián đoạn; con đã không phát huy được tác dụng dẫn dắt và không xứng đáng làm lãnh đạo. Xin đức chúa trời sửa dạy và rủa xả con. Nếu sau này các anh chị em quyết định không bầu con làm lãnh đạo, con cũng không oán trách”. Ngay sau đó, họ òa khóc. Một số người thiếu sự phân định liền nảy sinh lòng đồng cảm và nói: “Đừng khóc nữa, sau này chúng tôi vẫn bầu cho anh”. Nghe xong, họ lập tức ngừng khóc. Bộ mặt vốn có của họ đã lộ ra rồi phải không? Họ nói vài lời hay cũng là để mua chuộc lòng người, mê hoặc và lừa gạt mọi người, có những người còn thật sự bị lừa. Hễ kẻ địch lại Đấng Christ rơi lệ là chắc chắn có vấn đề ở đây. Khi đối mặt với việc những người tôn sùng họ nảy sinh nghi ngờ với họ và địa vị không ổn định, thì họ khóc. Họ buồn đến nỗi mất ăn mất ngủ, không ngừng nói với người nhà rằng: “Sau này không làm lãnh đạo nữa thì tôi sống sao đây?”. Người nhà họ đáp: “Thế trước không có địa vị, chẳng phải anh vẫn sống tốt sao? Tại sao lại không thể sống được?”. Họ đáp: “Nếu không có địa vị, liệu tôi có thể có được những thứ tốt này không? Liệu chúng ta có thể sống tốt như vậy được không? Tại sao cô lại ngu ngốc như vậy chứ?”. Có những người ở nhà công khai nói thế này: “Không có địa vị thì sống còn gì thú vị nữa? Sống còn gì ý nghĩa nữa? Gia đình ta chỉ có mấy người, ở nhà tôi chỉ có thể quản mấy người này thôi. Tôi chỉ là chủ gia đình, địa vị không cao. Tôi phải làm quan trong hội thánh mới được; mới không sống uổng phí. Hơn nữa, không có địa vị này trong hội thánh, liệu gia đình ta có thể có một cuộc sống tốt đẹp như vậy được không?”. Sau lưng họ đã nói thật và hoàn toàn bộc lộ dã tâm. Đây chẳng phải là kẻ mặt dày vô liêm sỉ sao? Việc kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc mọi người không phải là vi phạm thỉnh thoảng – không phải là vô ý thức. Nếu thỉnh thoảng và vô ý thức mới làm một chuyện xấu, thì đó không phải là kẻ địch lại Đấng Christ rồi. Kẻ địch lại Đấng Christ có ý định mê hoặc mọi người; họ bị bản tính của Sa-tan chi phối. Cho nên họ mới có thể mê hoặc mọi người một cách nhất quán, dựa vào phương thức mê hoặc có mục đích để kiểm soát mọi người trong tay và cuối cùng đạt được quyền lực. Thực ra, mục đích của kẻ địch lại Đấng Christ khi mê hoặc và kiểm soát mọi người là khiến mọi người nghe theo họ, đi theo họ và xa rời Đức Chúa Trời. Mục đích của kẻ địch lại Đấng Christ rất rõ ràng; chính là muốn tranh giành người với Đức Chúa Trời. Họ không bộc lộ sự bại hoại nhất thời, cũng không phải nhất thời kích động, không kiềm chế được, càng không phải do hoàn cảnh đặc biệt bức bách họ mà thành. Mà đó hoàn toàn là do bản tính tà ác của họ, do dã tâm và dục vọng của họ quá lớn, do tâm tính họ nham hiểm, quỷ kế đa đoan. Hiện tại họ có thể làm ra những chuyện này là do thực chất bản tính của họ quyết định: sau khi tin Đức Chúa Trời, họ có loại ý định này và mưu tính trước trong lòng, chỉ chờ một ngày sau khi làm lãnh đạo là sẽ bắt đầu thực hiện những mộng tưởng này và đạt được mục đích của mình. Đây chính là tình trạng chân thực trong lòng kẻ địch lại Đấng Christ, không sai lệch chút nào.
Từ những nội dung vừa thảo luận ở trên, các ngươi phải hiểu được lẽ thật mà mình cần bước vào. Một mặt, các ngươi nên phân định được kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác, những người có hành vi và thực chất bản tính như thế. Mặt khác, các ngươi cũng nên đối chiếu với bản thân để xem mình có những biểu hiện này không. Bây giờ, nếu các ngươi có thể đối chiếu bản thân với kẻ địch lại Đấng Christ khi nói cùng một lời, biểu hiện giống nhau trong cùng một tình cảnh, thì liệu các ngươi có thể phân định được khi có sự bộc lộ tâm tính tương tự hoặc có cách làm tương tự với kẻ địch lại Đấng Christ không? Thông qua một số ví dụ mà Ta đã nói, hoặc thông qua một số chi tiết, ngôn ngữ được miêu tả trong ví dụ, các ngươi có thể lĩnh hội được lẽ thật Ta muốn thông công ở đây không. Liệu các ngươi có thể nhận thức được những tâm tính bại hoại của con người cần được vạch trần ở đây không? Các ngươi có thể nghe như vậy được không? Các ngươi đang đứng ở góc độ nào để nghe? Nếu các ngươi hoàn toàn đứng ở góc độ của người ngoài cuộc để phân định những tâm tính và thực chất này của kẻ địch lại Đấng Christ, cũng như nhìn nhận những hành vi và cách làm này, thì liệu các ngươi có thể đạt được lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Vậy các ngươi nên đứng từ góc độ nào để nghe? (Thưa, đối chiếu với bản thân.) Đối chiếu với bản thân – đây là điều tối thiểu. Còn gì nữa? (Thưa, trang bị lẽ thật cho mình.) Đúng vậy, các ngươi phải hiểu được lẽ thật mà mình cần hiểu được trong mỗi một ví dụ Ta thảo luận. Người không có hiểu biết thuộc linh chỉ có thể nghe hiểu được sự tình, trong khi người có hiểu biết thuộc linh và tố chất tốt có thể hiểu và đạt được lẽ thật từ đó. Các ngươi có thể tổng kết ra được những lẽ thật liên quan ở đây từ trong những câu chuyện và ví dụ vừa được thảo luận không? Thông công về một số câu chuyện hoặc ví dụ là để khiến mọi người gắn liền với tình hình thực tế, hiểu rõ hơn các loại vấn đề được thể hiện trong tình hình thực tế, ngoài ra chính là để khiến con người có ấn tượng sâu sắc hơn về các loại biểu hiện và thực chất liên quan đến phương diện lẽ thật này. Nói cách khác, khi liên quan đến phương diện lẽ thật hoặc thực chất bản tính này, ngươi sẽ nghĩ đến một ví dụ hoặc tình cảnh cụ thể. Như vậy, khi ngươi hiểu mình và phân định người, ngươi sẽ có cách hiểu mang tính hình tượng, dễ hiểu hơn, thực tế hơn và cụ thể hơn là chỉ đọc lý luận hoặc văn tự. Nếu đó chỉ là văn tự và ngươi chưa có trải nghiệm nào về nó, thì cách hiểu về văn tự của ngươi có thể chỉ dừng lại ở câu chữ, luôn bị kìm kẹp bởi chính những trải nghiệm hạn chế của ngươi và chỉ có thể dừng lại trong phạm vi đó. Nhưng nếu Ta thêm một số ví dụ, kết hợp với một số câu chuyện, một số cảnh tượng, một số lời nói, việc làm và biểu hiện cụ thể, thì nó sẽ có tác dụng bổ trợ cho việc hiểu lẽ thật của ngươi trong phương diện này. Nếu tác dụng này đạt được, thì chứng tỏ ngươi đã hiểu được phương diện lẽ thật này. Vậy thì phải đạt đến mức độ nào mới được xem là hiểu được? Không phải là đạt đến hiểu 100%, nhưng sự lĩnh hội, định nghĩa, khái niệm và nhận thức của ngươi về khía cạnh lẽ thật này ít nhất cũng đã được cố định. Được cố định nghĩa là gì? Có nghĩa là trở nên tương đối thuần túy, về cơ bản không bị trộn lẫn với bất kỳ tri thức, quan niệm, tưởng tượng hoặc suy đoán chủ quan nào của con người, hoặc bị trộn lẫn ít hơn. Đó chính là tác dụng của những ví dụ này. Ngươi có thể biết những con người hoặc sự việc Ta nói đến trong một số ví dụ, thậm chí đã tiếp xúc hoặc khá quen thuộc với những người như thế, hoặc ngươi có thể đã tiếp xúc với loại chuyện này, thậm chí tận mắt chứng kiến toàn bộ quá trình loại người này làm loại chuyện này. Nhưng nó có lợi ích gì đối với việc hiểu và nhận biết lẽ thật của ngươi? Có thể là ngươi đã sống cùng với những người như thế, ngươi đã thấy những câu chuyện như thế, và đã thể nghiệm mọi sự xảy ra trong những câu chuyện như thế, nhưng chưa chắc ngươi đã hiểu được phương diện lẽ thật này. Ta nói lời này là có ý gì? Đừng cho rằng bởi vì ngươi quen và biết người hoặc sự việc mà Ta đang nói đến, nên ngươi không cần nghe chi tiết hoặc không cần nghe lẽ thật và nội dung cụ thể được thông công ở đây. Đó là sai hoàn toàn. Dù người đó có là người ngươi quen thuộc nhất, thì cũng không có nghĩa là ngươi đã hiểu và nhận biết được lẽ thật ở đây. Tại sao Ta lại nhắc nhở các ngươi về việc này? Đó là để đề phòng các ngươi bị cuốn vào chi tiết. Hễ thấy ai từng làm loại chuyện đó và Đức Chúa Trời lấy họ ra làm ví dụ, ngươi liền cười nhạo và khinh thường loại người đó. Đây có phải là thái độ đối với lẽ thật không? (Thưa, không.) Đây là thái độ gì? Đây chẳng phải là lạc lối rồi sao? Đây là lĩnh hội lệch. Chính vì có những ví dụ, câu chuyện sống động, cũng như những con người và sự việc cụ thể này, mà khiến mọi người thực sự nhận thức được hơn sự bộc lộ tâm tính bại hoại của con người là như thế nào, thực sự chứng kiến được sự bộc lộ tâm tính bại hoại và thực chất bản tính của con người là như thế nào, thực chất bản tính của con người là gì, tâm tính bại hoại là gì, những người có loại tâm tính bại hoại và thực chất bản tính này đi con đường nào, họ yêu thích những gì, những hỉ nộ ai lạc của họ như thế nào, họ đối nhân xử thế như thế nào và nhân sinh quan của họ là gì, các nguyên tắc xử sự của họ là gì, và thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật là gì. Chính vì có những ví dụ này, những con người cụ thể và sự việc cụ thể này, mới khiến mọi người càng có thể kết hợp thực tế lẽ thật với sự mặc khải của Đức Chúa Trời về thực chất của con người, đạt đến nhìn nhận rõ ràng hơn và chuẩn xác hơn. Cho nên, Ta nói những lời này là có ý gì? Đó là ngươi không nên xem nhẹ những câu chuyện này. Dù Ta kể câu chuyện như thế nào, câu chuyện của ai, hay câu chuyện của loại người nào, thì cũng chỉ có một mục đích duy nhất, đó là khiến ngươi hiểu được lẽ thật. Nếu ngươi đạt được lẽ thật từ đó, thì là đạt được hiệu quả rồi. Do đó, có lẽ ngươi nghe những câu chuyện này một lần thì chỉ có thể hiểu được một số lẽ thật dễ hiểu từ đó, hiểu được một ít ý nghĩa bề mặt hoặc trên mặt chữ. Tuy nhiên, theo sự tiến bộ không ngừng của vóc giạc, theo tuổi tác không ngừng tăng lên, theo sự trưởng thành trong sự sống trong các loại hoàn cảnh, thì sự sống của con người cũng dần dần trưởng thành, và ngươi sẽ có những nhận thức khác nhau về các sự kiện trong những câu chuyện này, cũng như thực chất bản tính, hành vi và biểu hiện của các loại người được thể hiện ở đây. Những nhận thức này do đâu mà có? Chúng đến từ những lẽ thật liên quan trong những câu chuyện này, chứ không phải từ bản thân câu chuyện. Nếu chỉ là kể chuyện, như câu chuyện “Cậu bé chăn cừu”, thì ngươi nghe xong là xong; nó không liên quan đến lẽ thật. Nó chỉ dạy bảo con người cách làm: rất đơn giản, rất dễ hiểu. Nhưng khi nói đến lẽ thật thì chiều sâu của câu chuyện này không chỉ là những ý nghĩa bề nổi mà người ta có thể nghe hiểu được. Nó liên quan đến tâm tính bại hoại và thực chất bản tính của con người, liên quan đến cách phân định con người, cách lựa chọn con đường, cách tiếp cận lẽ thật, liên quan đến việc con người nên có thái độ thế nào đối với yêu cầu của Đức Chúa Trời. Nó liên quan đến việc con người nên vứt bỏ những điều gì và lựa chọn những điều gì. Nếu các ngươi có thể nghe như vậy, thì mỗi lần nghe giảng đạo, các ngươi đều sẽ có một vài sự thu hoạch, các ngươi sẽ có được nhiều sự sáng hơn và hiểu được nhiều nguyên tắc hơn trong các phương diện lẽ thật, đồng thời sẽ mang đến chút lối vào sự sống. Theo sự gia tăng tuổi tác, theo sự chảy trôi thời gian, theo sự thay đổi hoàn cảnh xã hội, theo sự chuyển dời của toàn bộ trào lưu, lẽ thật liên tục có tác dụng trong lòng người, và họ sẽ biết cách thực hành lẽ thật, cũng như cách nhìn nhận con người và sự việc dựa trên lẽ thật. Đây mới gọi là có được sự sống – lẽ thật có thể làm sự sống của con người. Cho nên, bất kể lần kể chuyện nào thì các ngươi cũng đừng chỉ nghe một lần là xong chuyện. Phải nghe nhiều hơn, và nếu không hiểu, các ngươi có thể thông công về nó. Nếu như giai đoạn này ngươi nghe không hiểu, thì có thể là do vóc giạc của ngươi chưa đạt đến. Vậy thì hãy nghe những gì ngươi có thể đạt đến trước và nghe một cách có chọn lọc dựa trên vóc giạc của mình. Nếu nghe xong câu chuyện ngươi thấy có vẻ khá dễ hiểu, nhưng về sau ngươi lại cảm thấy rất sâu sắc và có hơi không thể đạt tới, hoặc không thể kết hợp được với những việc ngươi trải nghiệm và hoàn cảnh sống của ngươi ở giai đoạn này, thì hãy giữ nó trong lòng trước và để nó trở thành một loại ấn tượng. Đợi đến khi ngươi tiếp xúc được với loại chuyện này lần nữa, những thứ ngươi giữ trong lòng có thể được phản ánh ra ngoài. Cũng giống như những từ vựng và thuật ngữ ngươi học được hoặc những thông tin mà não ngươi thu thập được. Ngươi có suy nghĩ về chúng hàng ngày không? Không cần nhỉ. Ngươi thường không suy nghĩ về chúng, nhưng trong một hoàn cảnh liên quan đến những thuật ngữ, từ vựng hoặc thông tin này, thì ngươi sẽ nhớ đến một số từ. Con người có ký ức, và họ sẽ tự nhiên lưu trữ một số điều trong lòng mình. Những điều này đủ cho ngươi sử dụng trong cuộc sống thường ngày và có một số ích lợi với ngươi, nhưng nếu ngươi cố ý sử dụng chúng và áp dụng quy định một cách cứng nhắc, thì ngươi sẽ dễ phạm sai lầm. Ngươi nên nghe một cách có tính chọn lọc dựa trên vóc giạc của chính mình và những hoàn cảnh mình đã trải nghiệm. Như vậy, ngươi sẽ tiến bộ nhanh hơn. Những ai biết cách nghe sẽ được nhiều hơn, trong khi những ai không biết cách nghe sẽ được ít hơn hoặc có lẽ không được gì cả. Thậm chí họ còn cảm thấy kể nhiều câu chuyện như vậy mà không có câu chuyện nào họ sẵn lòng nghe, không có câu chuyện nào liên quan đến lẽ thật cả, và tự hỏi tại sao Ta lại không giảng lẽ thật, mà suốt ngày tán gẫu chuyện thường ngày, bàn chuyện đúng sai. Đây là biểu hiện của loại người nào? (Thưa, những người không có hiểu biết thuộc linh.) Những người không có hiểu biết thuộc linh có thể cho là như vậy. Họ cho rằng khi giảng đạo, Ta chỉ giảng những chuyện này; vậy thì họ cũng biết, khi không có việc gì họ cũng nói với người khác những chuyện này. Ngươi có thể biết nhiều chuyện thị phi hơn những câu chuyện Ta kể, nhưng những gì ngươi kể có liên quan đến lẽ thật không? (Thưa, không.) Nếu chúng không liên quan đến lẽ thật, thì đừng kể bừa bãi, kẻo lại kể những chuyện không liên quan đến lẽ thật. Ta kể chuyện để khiến con người hiểu được lẽ thật. Các ngươi không nên mù quáng bắt chước. Các ngươi chỉ nên chú trọng việc tìm kiếm lẽ thật, hiểu lẽ thật và đạt đến xử lý mọi việc theo nguyên tắc. Chú trọng việc phù hợp với nguyên tắc lẽ thật, dù là khi nói chuyện hay làm việc. Như vậy, các ngươi mới dần dần bước được vào thực tế lẽ thật.
III. Mổ xẻ về cách kẻ địch lại Đấng Christ đe dọa mọi người
Chúng ta vừa thông công xong về hai biểu hiện mê hoặc và lôi kéo mọi người của kẻ địch lại Đấng Christ; dưới đây hãy tiếp tục cùng thông công về cách họ đe dọa mọi người. Những thủ đoạn này của kẻ địch lại Đấng Christ, cái sau nghiêm trọng hơn cái trước. Khi so sánh với việc mê hoặc và lôi kéo, thì thủ đoạn đe dọa này cao siêu hay vụng về? (Thưa, vụng về.) Thế nghĩa là nếu mê hoặc và lôi kéo không được, thì nên đe dọa. Kẻ địch lại Đấng Christ đe dọa mọi người như thế nào? Tại sao họ lại dùng thủ đoạn đe dọa? (Thưa, bởi vì chưa đạt được mục đích.) Mục đích của họ chưa đạt được. Trong việc đe dọa còn có một ý nghĩa nữa – sử dụng cụm từ nào để biểu đạt nó đây? (Thưa, lộ ra bộ mặt thật.) Chưa thỏa đáng lắm; nghĩ một cụm từ khác xem nào. (Thưa, thẹn quá hóa giận.) Có phần sát nghĩa rồi đấy. Có cụm từ nào phù hợp hơn không? (Thưa, vô cùng tức giận.) Chính xác, vô cùng tức giận. Dân gian gọi là “nóng mắt”; ý là: “Lời tốt lời xấu gì tôi cũng đã nói rồi. Bình thường tôi cũng không bạc đãi các anh. Tại sao anh không nghe theo tôi? Không nghe theo tôi thì anh cứ chờ đấy: tôi sẽ sử dụng chiêu đe dọa này với anh!”. Họ thay đổi mánh khóe. Sa-tan có nhiều mánh khóe khác nhau, hết thảy đều đê tiện. Đe dọa thường đi liền với dụ dỗ. Nếu họ chỉ đe dọa, thì có những người không sợ và không nghe theo họ. Nên họ không còn cách nào khác và đôi khi họ sẽ cần phải dụ dỗ. Nếu làm như thế không được thì họ sẽ vừa đấm, vừa xoa. Vậy tại sao kẻ địch lại Đấng Christ muốn đe dọa mọi người? Trong những trường hợp nào thì họ có thể đe dọa mọi người? Nếu hai người chung sống hòa thuận, đường ai nấy đi, không có xung đột về lợi ích giữa họ, thì họ sẽ đe dọa không? (Thưa, sẽ không.) Vậy thì trong những trường hợp nào, hành vi và cách làm đe dọa này bắt đầu phát sinh? Đương nhiên là khi liên quan đến lợi ích hoặc danh vọng của họ, khiến cho mục đích của họ không thể được thực hiện. Họ sẽ trở nên tàn nhẫn: “Anh không nghe theo tôi đúng không? Thế thì tôi sẽ cho anh thấy hậu quả!”. Hậu quả gì? Bất kỳ hậu quả nào mà ngươi sợ. Có những ví dụ nào ở phương diện đe dọa này mà các ngươi đã từng gặp? (Thưa, có những kẻ địch lại Đấng Christ, khi thấy các anh chị em không thuận phục mình, liền xét đoán và kết tội họ, nói rằng: “Không thuận phục lãnh đạo tức là không thuận phục đức chúa trời”, và họ sử dụng lời này để đe dọa mọi người.) (Thưa, con còn nghĩ đến một ví dụ khác là nếu ai mà không nghe theo lãnh đạo, thì lãnh đạo sẽ lợi dụng quyền lực trong tay mình để cách chức họ.) Dù thế nào đi nữa, họ cũng muốn mọi người hiểu rằng không nghe theo họ thì sẽ có hậu quả. Vậy cơ sở để khiến mọi người nghe theo họ là gì? Họ sẽ thường nói: “Thuận phục lãnh đạo tức là thuận phục đức chúa trời, bởi vì lãnh đạo là do đức chúa trời tiền định. Anh phải thuận phục. Nếu anh không thuận phục hoặc nghe theo lãnh đạo, thì đó chính là kiêu ngạo, tự nên công chính và chống đối đức chúa trời. Hậu quả của việc chống đối đức chúa trời là bị đào thải. Nhẹ thì có thể bị cô lập để phản tỉnh, nặng thì bị khai trừ ra khỏi hội thánh!”. Họ sử dụng những luận điệu hoang đường có vẻ đúng nhưng lại sai này để ép buộc mọi người thuận phục mình. Ngoài ra, lại có những kẻ địch lại Đấng Christ đe dọa mọi người bằng cách nào? Họ xúi giục những người khác bao vây tấn công, vứt bỏ những người không thuận phục mình. Ngoài ra, họ sẽ cách chức những ai không thuận phục mình hoặc sẽ điều chỉnh bổn phận của người ta. Một số người thực sự sợ không có bổn phận để làm. Họ cảm thấy làm bổn phận thì có thể có cơ hội được cứu rỗi, và việc không làm bổn phận thì không thể được cứu rỗi. Kẻ địch lại Đấng Christ trong lòng suy nghĩ: “Tôi biết điểm yếu của anh. Nếu anh không nghe theo tôi, tôi sẽ tước quyền làm bổn phận của anh. Tôi sẽ không để cho anh làm bổn phận!”. Họ không để cho người ta làm bổn phận có phải bởi vì những người này làm bổn phận không đạt tiêu chuẩn hay khiến cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bị tổn hại không? (Thưa, không phải.) Vậy tại sao họ làm điều đó? Đó là để bài xích những người bất đồng và sử dụng phương thức này để đe dọa mọi người, đạt đến khiến mọi người nghe theo mình. Nói đến đe dọa, kẻ địch lại Đấng Christ chắc chắn không tuân theo các nguyên tắc lẽ thật để đối đãi mọi người hoặc xử lý mọi việc. Thay vào đó, họ hăm dọa, ép buộc và cưỡng ép để khiến mọi người ngoan ngoãn thuận phục và nghe theo họ, đừng gây ra rắc rối gì cho họ hay làm hỏng việc của họ.
Kẻ địch lại Đấng Christ đe dọa mọi người không chỉ bởi vì mọi người không vâng phục, hoặc không xem trọng và coi thường họ – đó chỉ là một trong số các nguyên nhân. Còn một nguyên nhân nữa, đó là, khi người khác phát hiện ra vấn đề của kẻ địch lại Đấng Christ và muốn vạch trần hoặc báo cáo họ với Bề trên, họ sợ rằng Bề trên biết được hoặc nhiều người hơn biết được, nên họ nghĩ đủ mọi cách để che đậy và áp chế chuyện này, tuyệt đối không thể để nó bại lộ ra ngoài. Nếu để nhiều người hơn biết được thì sẽ ra sao? Họ sẽ vứt bỏ và nguyền rủa kẻ địch lại Đấng Christ, không ai tôn sùng họ nữa, và họ sẽ không còn địa vị và quyền lực. Vì thế, mục đích của kẻ địch lại Đấng Christ khi làm việc bằng phương thức đe dọa này cũng là để bảo vệ địa vị và quyền lực của chính mình. Họ cảm thấy nếu họ không làm vậy, các anh chị em sẽ có sự phân định với họ, họ sẽ không được chọn trong cuộc bầu cử lần sau và trở thành tín hữu thông thường. Làm tín hữu thông thường có nghĩa là gì? Có nghĩa là họ sẽ không có quyền lực, không ai đi theo họ hoặc làm tùy tùng của họ, có nghĩa là địa vị cũng như quyền lực của họ đều bị tước mất, những dã tâm và dục vọng của họ không được thỏa mãn. Họ không muốn là tín hữu hoặc người đi theo thông thường, nên họ sử dụng phương thức đe dọa này để hăm dọa và cưỡng ép mọi người nghe theo họ, thuận phục họ, sau đó đạt đến việc họ có thể tiếp tục có được quyền lực và địa vị của mình, có thể tiếp tục khống chế mọi người và nhận được sự ủng hộ của một số người. Mọi việc kẻ địch lại Đấng Christ làm đều xoay quanh địa vị của họ. Hễ chuyện gì liên quan đến địa vị của mình, họ đều sẽ sử dụng một loại thủ đoạn hoặc phương thức để cực lực bảo vệ và giữ vững vị trí của mình; thậm chí khi được Bề trên hỏi thăm một số việc, có những người còn có thể trợn mắt nói dối. Chẳng hạn như khi Bề trên hỏi về việc tháng này hội thánh rao truyền phúc âm đã đạt được bao nhiêu người, rõ ràng không đạt được ai nhưng kẻ địch lại Đấng Christ vẫn có thể nói đã đạt được năm người. Các anh chị em biết được tình hình thực tế liền nói: “Năm người đó chỉ là đang tìm hiểu. Tại sao anh lại nói chúng ta đã đạt được năm người? Anh phải nói thật với Bề trên chứ”, thì kẻ địch lại Đấng Christ nói gì? “Tại sao chúng ta không thể được được năm người? Tôi đã nói năm người, là năm người. Ý kiến của anh không tính. Nếu chúng ta nói mình không đạt được một người nào, thì tôi bàn giao với Bề trên thế nào đây? Nếu anh muốn báo cáo thì cứ việc, nhưng nếu anh nói đúng sự thật, Bề trên có thể tỉa sửa anh. Họ có thể sa thải những người rao truyền phúc âm như các anh, thậm chí cấm chỉ đội phúc âm. Anh sẽ không thể làm bổn phận nữa, chuyện này đừng trách tôi đấy”. Người này vừa nghe liền ngơ người và không dám tố giác. Đây chẳng phải là đe dọa sao? (Thưa, phải.) Đây chính là đe dọa trắng trợn, công khai làm như vậy. Có những người, khi nghe thấy vậy liền nghĩ: “Làm người trung thực thì có hậu quả. Nếu làm người trung thực, mình sẽ không có bổn phận để làm, nên mình sẽ không báo cáo. Nhất định phải báo là năm người”. Có người bất an trong lòng, nói: “Chúng ta không đạt được ai tức là không đạt được ai cả. Dù Bề trên có xử lý chúng ta ra sao thì chúng ta cũng nên thuận phục”. Khi nghe lời này, quan điểm của kẻ địch lại Đấng Christ là gì? “Thuận phục ư? Còn tùy vào tình hình chứ. Bề trên có biết mức độ khó khăn của chúng ta khi rao truyền phúc âm hiện tại lớn đến đâu không? Bề trên có quan tâm đến chuyện đó không?”. Khi Bề trên hỏi tình hình rao truyền phúc âm, Bề trên không phải là không nắm được khó khăn của việc rao truyền phúc âm. Họ biết mỗi tháng tối thiểu có thể đạt được bao nhiêu người, và chưa bao giờ nói rằng nếu đội phúc âm không đạt được ai cả trong một tháng thì sẽ bị giải thể. Vậy kẻ địch lại Đấng Christ lấy lời này ở đâu? (Thưa, họ bịa ra.) Họ tự bịa ra để che đậy lời nói dối của mình, để khống chế được những người này, để Bề trên hoặc các anh chị em không nhìn thấu lời nói dối của họ, và để địa vị của họ có thể được vững chắc, không bị cách chức – vì thế họ dám bịa ra những lời của quỷ như thế. Những người có sự phân định có thể vạch trần họ, nhưng những người không có sự phân định thì bị mê hoặc, cảm thấy: “Còn không phải sao, bổn phận này không dễ gì có được. Chúng ta không nên nói thật với Bề trên được. Anh nói năm người thì là năm người đi. Tháng này không đạt được năm người, thì tháng sau chúng ta phấn đấu. Dù sao nếu tháng sau chúng ta đạt được năm người thì sẽ không tính là nói dối”. Kẻ địch lại Đấng Christ lừa gạt, những người không có sự phân định cũng lừa gạt theo; họ là một đám lừa đảo. Kẻ địch lại Đấng Christ đe dọa mọi người nhằm mục đích gì? Là để khiến mọi người thuận phục và nghe theo họ. Họ nói dối và làm việc ác, khống chế hội thánh, mê hoặc mọi người, thực hiện công tác không tuân theo nguyên tắc hoặc sự sắp xếp công tác, và dù họ có làm xằng làm bậy thế nào cũng không cho anh chị em vạch trần hoặc báo cáo họ với Bề trên. Một khi họ biết được ai định báo cáo họ với Bề trên, thì họ sẽ phải đe dọa người đó. Họ đe dọa người đó như thế nào? Họ nói: “Chúng ta thực hiện công tác ở phía dưới, công tác rất khó khăn. Thậm chí chúng ta phải bất chấp nguy cơ bị con rồng lớn sắc đỏ bắt giữ. Bề trên luôn yêu cầu chúng ta thực hành theo sự sắp xếp công tác. Chúng ta chịu bao khổ cực, gánh bao rủi ro trong khi rao truyền phúc âm. Khi kết quả kém, anh vẫn muốn tôi báo cáo với bề trên; sau khi anh báo cáo, họ sẽ tỉa sửa anh. Sau khi họ tỉa sửa anh, tôi không sợ bị cách chức lãnh đạo, mà sợ anh chị em các anh sẽ không có bổn phận để làm nữa. Nếu anh chị em các anh không có bổn phận để làm nữa thì cũng đừng trách tôi!”. Nói dễ nghe biết bao! Họ còn nói: “Rốt cuộc ai muốn báo cáo? Nếu các anh muốn báo cáo, tôi sẽ không cản; dù sao thì ai cũng biết những chuyện này rồi. Nếu anh không báo cáo với bề trên, thì họ sẽ không trách tội chúng ta. Nếu anh báo cáo thì chúng ta sẽ bị tỉa sửa. Các anh có thể tự lựa chọn; nếu các anh muốn báo cáo với bề trên thì cứ việc. Bây giờ, ai muốn báo cáo thì giơ tay”. Khi mọi người nghe giọng điệu này của họ liền suy ngẫm: “Rốt cuộc là có cho phép mình báo cáo chuyện này hay không đây?”. Sau khi suy ngẫm, có người giơ tay. Kẻ địch lại Đấng Christ thấy thế liền nghĩ: “Anh vẫn muốn báo cáo đúng không? Chẳng phải anh đang đâm đầu vào chỗ chết sao? Tốt thôi, tôi sẽ không quên anh đâu”. Sau đó, họ sẽ suy xét tìm cơ hội trừng trị người này. Họ kiếm cớ, nói rằng: “Gần đây anh không có được bất kỳ kết quả nào trong khi làm bổn phận. Ai làm bổn phận không có kết quả trong ba tháng sẽ bị tước đi quyền làm bổn phận. Nếu biểu hiện còn không tốt nữa thì sẽ bị cách ly. Nếu vẫn không ăn năn sẽ bị thanh trừ hoặc khai trừ!”. Liệu kẻ ngu ngốc đó, kẻ hèn nhát đó còn dám báo cáo nữa không? Nghe vậy, họ liền suy nghĩ: “Mình báo cáo cũng đâu phải vì mình. Báo cáo thì có ích gì? Ngộ nhỡ sau khi báo cáo mình bị lãnh đạo trả đũa, bị các anh chị em vứt bỏ, thì mình sẽ bị cô lập trong hội thánh. Nghe theo lãnh đạo quan trọng hơn; thậm chí mình còn chẳng biết đức chúa trời ở đâu, liệu ngài có thể quan tâm đến sự sống chết của mình hay không?”. Thế là họ không báo cáo nữa. Chẳng phải họ đã bị kẻ địch lại Đấng Christ hù cho sợ sao? (Thưa, phải.) Người đó cho rằng: “Mạo phạm đức chúa trời không phải là chuyện lớn. Đức chúa trời có tình yêu thương, thương xót, bao dung và nhẫn nại; ngài không dễ dàng nổi giận hay rủa xả và trừng phạt con người. Nhưng nếu đắc tội với lãnh đạo, thì mình sẽ phải chịu khổ. Báo cáo vấn đề chẳng được lợi ích gì; mình sẽ bị mọi người vứt bỏ. Mình không thể làm chuyện ngu ngốc đó được”. Chẳng phải đây là hèn nhát sao? (Thưa, phải.) Nên xử lý kẻ hèn nhát thế này như thế nào? Họ có đáng để thương hại không? Một kẻ hèn nhát như thế nên được giao cho Sa-tan, cho kẻ địch lại Đấng Christ, để cho kẻ địch lại Đấng Christ trừng trị – họ bị vậy là đáng đời. Họ không có đức tin, ý chí và sức mạnh để thực hành lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời, nhưng khi nói đến thuận phục kẻ địch lại Đấng Christ, họ lại có sức mạnh vô cùng, bảo làm gì thì làm nấy, tràn đầy hăng hái. Khi bị kẻ địch lại Đấng Christ đe dọa và hù dọa, họ không dám báo cáo vấn đề nữa. Đây chẳng phải là kẻ hèn nhát sao? Nói theo ngôn ngữ thông tục là gì? Là kẻ nhát gan, đụng kẻ địch lại Đấng Christ liền co rúm lại. Trong hội thánh, không ít người bị kẻ địch lại Đấng Christ đe dọa mà biến thành kẻ nhát gan. Những người này không biết cách tiếp cận câu “Đức Chúa Trời tể trị hết thảy”. Khi bị kẻ địch lại Đấng Christ đe dọa, vứt bỏ hoặc cô lập, họ cảm thấy như không có chỗ dựa, họ không tin Đức Chúa Trời tể trị hết thảy, cũng không tin Đức Chúa Trời công chính, họ không tin rằng số mệnh của con người nằm trong tay Đức Chúa Trời. Bị kẻ địch lại Đấng Christ nói một, hai lời hăm dọa hoặc đe dọa là đã dọa họ bỏ về, nhượng bộ và không còn dám báo cáo nữa.
Khi kẻ địch lại Đấng Christ báo cáo công tác với Bề trên, họ trợn mắt nói dối và lừa gạt Bề trên. Có những người biết tình hình thực tế thì không nghe nổi và muốn báo cáo tình hình với Bề trên. Kẻ địch lại Đấng Christ khống chế mọi người thật chặt, theo dõi mọi người thật kỹ. Họ có thể lập tức nhìn ra bất kỳ ai có thể có xu hướng báo cáo vấn đề với Bề trên. Khi không có việc gì làm, họ chuyên môn quan sát mọi người, đoán ý qua lời nói và nét mặt của mọi người, xem những ai có ý kiến về họ, những ai hai lòng, những ai không phục họ, những ai đe dọa đến địa vị của họ, những ai không hay để ý đến họ, những ai không xem trọng họ, những ai không cho họ ngồi ghế đầu khi ngồi vào chỗ, và những ai không cho họ ăn trước khi ăn cơm. Những người này sẽ gặp rắc rối đây. Kẻ địch lại Đấng Christ sẽ làm gì với những người này? Có những kẻ địch lại Đấng Christ nham hiểm sẽ không bộc lộ ngay bộ mặt thật của mình trước. Họ tìm một cơ hội để xử lý ngươi. Nếu quả thực không được thì họ sẽ dùng những lời ác độc đe dọa ngươi để khiến ngươi cảm thấy được sinh mệnh của mình bị họ nắm chặt trong tay. Ngươi tin Đức Chúa Trời thì có thể được cứu rỗi hay không, có thể đi đến cùng hay không, có thể ở lại hội thánh hay không – hết thảy đều trong tay họ nắm giữ và chỉ cần một lời từ họ. Họ có tiếng nói quyết định. Nếu ngươi không nghe theo, không phục tùng sự khống chế của họ, không xem trọng họ và luôn muốn báo cáo vấn đề của họ, thì ngươi sẽ phải gặp họa. Họ sẽ phải suy nghĩ đến việc trừng trị ngươi. Kẻ địch lại Đấng Christ xem hành vi các anh chị em báo cáo vấn đề của họ với Bề trên là gì? (Thưa, mách lẻo.) Chính xác, họ không xem đó là báo cáo tình hình; mà họ xem là mách lẻo. Mách lẻo nghĩa là gì? Có nghĩa là báo cáo mọi việc làm đi ngược lại lẽ thật và mọi việc ác của họ với Bề trên, hoặc báo cáo những chuyện mà họ không muốn ai biết cho Bề trên. Họ xem đây là mách lẻo. Một khi họ phát hiện ra ai đó mách lẻo, người đó sẽ phải bị trừng trị. Có những người hồ đồ và hèn nhát bị dọa sợ bởi loại đe dọa này, bởi loại hung hăng vênh váo này, bởi ảnh hưởng xấu xa này của kẻ địch lại Đấng Christ. Khi kẻ địch lại Đấng Christ hỏi ai có liên hệ với Bề trên, thì còn chưa hỏi đến họ, họ đã nhanh chóng làm sáng tỏ: “Không phải tôi”. Kẻ địch lại Đấng Christ hỏi: “Vậy tại sao bề trên biết chuyện đó?”. Họ suy nghĩ và nói: “Tôi cũng không biết”. Kẻ địch lại Đấng Christ trừng trị họ đến mức họ nơm nớp lo sợ, lo lắng hãi hùng cả ngày, rất sợ bị kẻ địch lại Đấng Christ khai trừ khỏi hội thánh. Trong lòng họ lo sợ đến mức thậm chí không chịu nổi dù chỉ một ngày. Nếu kẻ địch lại Đấng Christ không đe dọa họ như vậy, họ sẽ sợ hãi như thế sao? Không. Hơn nữa, họ có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời không? Không. Họ là kẻ hèn nhát và hồ đồ. Khi gặp kẻ địch lại Đấng Christ, họ co rúm lại. Họ không có đức tin chân thực nơi Đức Chúa Trời, mà lại ngoan ngoãn khuất phục với kẻ địch lại Đấng Christ. Họ bẩm sinh là tay sai của Sa-tan.
Kẻ địch lại Đấng Christ còn sử dụng những cách làm nào để đe dọa mọi người nữa? Có những kẻ địch lại Đấng Christ rất giỏi nói một số đạo lý đúng và dễ nghe để hạn chế và kìm kẹp ngươi. Họ nói: “Chẳng phải anh yêu thích lẽ thật sao? Nếu anh yêu thích lẽ thật thì phải nghe theo tôi bởi vì tôi là lãnh đạo. Mọi điều tôi nói đều hợp lẽ thật. Tôi nói gì anh cũng phải vâng phục; tôi bảo đi đằng Đông thì anh không được đi đằng Tây. Khi tôi nói gì, anh đừng có hai lòng; anh không được có bất kỳ ý kiến nào hay mù quáng xen vào. Những gì tôi nói là lẽ thật”. Nếu ngươi không nghe theo họ, trong lòng họ sẽ căm ghét hoặc kết tội ngươi. Họ kết tội gì? Họ sẽ nói: “Anh không phải là người yêu thích lẽ thật; nếu anh yêu thích lẽ thật, thì là lãnh đạo, lời tôi là đúng – tại sao anh không nghe theo?”. Kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng những lý luận và đạo lý đúng này để khống chế và hạn chế ngươi. Hơn nữa, có một số kẻ địch lại Đấng Christ còn bảo mọi người xử lý một số việc riêng của mình, nói rằng: “Bây giờ tôi là lãnh đạo, và tôi không có thời gian làm một số việc cá nhân. Hơn nữa tôi là lãnh đạo, việc của tôi cũng là việc của nhà đức chúa trời. Việc của nhà đức chúa trời cũng là việc của tôi. Chúng ta không thể phân biệt quá rạch ròi được nữa. Vì thế, các anh chị em cần san sẻ việc trong nhà của tôi một chút, chẳng hạn những việc như trông trẻ, trồng trọt, bán rau hay xây nhà, còn cả những việc như trong nhà thiếu tiền. Những chuyện đó vốn dĩ là bổn phận của tôi, nhưng giờ đây tôi là lãnh đạo thì chúng là bổn phận của các anh chị em – các anh chị em phải san sẻ. Nếu không, tôi cứ hoài lo lắng về việc nhà, bị những chuyện này làm phân tâm, thì tôi còn có thể làm tốt việc lãnh đạo được nữa không?”. Họ càng nói, càng trơ trẽn. Có vài người nghe vậy liền cảm thấy: “Chúng tôi không biết quan tâm đến lòng anh – chúng tôi thật vô tâm! Anh không cần nói nữa; sau này, chúng tôi sẽ lo mọi việc nhà của anh”. Những kẻ địch lại Đấng Christ này gọi việc riêng ở nhà và những chuyện trong cuộc sống của họ bằng cái tên mỹ miều nào? Họ gọi là “bổn phận của mọi người”, nghĩa là kẻ địch lại Đấng Christ biến việc mọi người ra sức cho gia đình họ, phục vụ già trẻ trong nhà họ và những việc trong cuộc sống cá nhân của họ thành việc của nhà Đức Chúa Trời. Nếu đã là việc của nhà Đức Chúa Trời, thì mọi người đều phải góp một phần sức lực, và nếu lãnh đạo bảo ngươi làm gì thì nó chính là bổn phận của ngươi. Chẳng phải lời này nghe có vẻ đúng sao? Những người không có sự phân định nghe rồi thì cảm thấy lời này là đúng. Lãnh đạo quá bận rộn, không thể để ý đến việc gia đình, còn bản thân họ có tố chất kém và không làm được bổn phận nào, nên họ chỉ có thể san sẻ một chút việc nhà cho lãnh đạo. Thế là hễ không bận rộn, họ lại đến nhà của lãnh đạo làm việc, bận bịu vô cùng. Có thể nào coi đây là làm bổn phận được không? Chỉ có thể nói đây là nhiệt tình trợ giúp người thôi. Nếu là những người thực sự dâng mình cho Đức Chúa Trời, tuân theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, thì khi gia đình họ gặp khó khăn, hội thánh sẽ sắp xếp người giúp đỡ xử lý. Trong những trường hợp đó thì có thể phần nào xem đây là thực hiện bổn phận. Nói thế thì các ngươi nghe hiểu rồi chứ? Kẻ địch lại Đấng Christ, bận rộn mê hoặc và khống chế mọi người trong hội thánh, bèn sắp xếp việc nhà của mình cho các anh chị em, nói đó cũng là làm bổn phận. Có một số anh chị em bởi vì không hiểu được lẽ thật bị mê hoặc và còn làm một cách tự nguyện, vui vẻ. Cuối cùng, thậm chí họ còn cảm thấy mắc nợ lãnh đạo, nghĩ rằng: “Lãnh đạo đã lo nghĩ cho chúng ta đến nát lòng, giảng giải cho chúng ta mà không nề hà. Chúng ta lại không cố gắng, đã làm rất nhiều việc như thế mà sao hiện tại vẫn không hiểu được một chút lẽ thật nào?”. Nếu ngươi suốt ngày làm việc cho lãnh đạo, không nhóm họp hoặc nghe giảng đạo, liệu ngươi có thể hiểu được lẽ thật không? Tuyệt đối không thể. Đây là nịnh nọt lấy lòng đến chết! Đây là chạy theo kẻ địch lại Đấng Christ, đi lên con đường không đúng đắn. Kẻ địch lại Đấng Christ thường sử dụng một vài cách nói đúng, đem đóng gói và gia công thành lời nói đúng, khiến cho mọi người lầm tưởng rằng những lời này là lẽ thật, là điều họ nên tuân thủ và thực hành, rằng họ nên tiếp nhận những lời này. Như thế, mọi người không cần phân định liệu những gì lãnh đạo đang làm rốt cuộc là đúng hay sai, hoặc liệu những gì họ đang tuân thủ rốt cuộc là đúng hay sai. Chẳng phải vậy sao? Đây gọi là mê hoặc, và cũng là đe dọa mọi người. Kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng những lý luận và câu nói đúng này để khống chế những người này. Họ khống chế đến mức độ nào? Đến mức những người này tự nguyện ra sức cho họ, tự nguyện bán mạng cho họ và tự nguyện xử lý mọi công việc cá nhân cho họ. Những người này thà không nhóm họp, không làm bổn phận của chính mình, bỏ lại công việc thuộc bổn phận của mình, và từ bỏ thời gian tĩnh nguyện, nhóm họp và ăn uống lời Đức Chúa Trời của mình, chỉ để phục vụ và bán mạng toàn thời gian cho kẻ địch lại Đấng Christ. Tại sao họ lại có thể bán mạng như vậy? Có nguyên nhân của nó. Nguyên nhân là gì? Chính là vì kẻ địch lại Đấng Christ cố ý bảo họ: “Chuyện này anh còn làm không tốt, thì anh có thể làm được bổn phận nào chứ? Nếu anh không thể làm được bổn phận của mình, liệu anh có còn là một thành viên trong nhà đức chúa trời nữa không? Được thôi, vậy thì tôi sẽ không dẫn dắt anh nữa. Nếu tôi không dẫn dắt anh, anh sẽ không được tính vào quân số của nhà đức chúa trời. Bởi vì tôi được chọn làm lãnh đạo, nên tôi là cổng vào hội thánh này. Ai muốn bước vào hội thánh đều phải được sự đồng ý của tôi. Không có sự đồng ý của tôi, không ai bước vào được. Cho dù hội thánh sắp thanh trừ ai, thì cũng phải có sự đồng ý của tôi, thì họ mới có thể bước ra khỏi hội thánh. Vì thế, công việc tôi sắp xếp cho các anh chị em và những việc tôi giao cho các anh chị em chính là bổn phận của các anh chị em. Nếu các anh chị em không làm tốt bổn phận của mình, thì như đức chúa trời đã phán, ngươi không làm bổn phận sẽ không có cơ hội được cứu rỗi. Các anh chị em sẽ không được tính vào quân số của nhà đức chúa trời!”. Đây chẳng phải là đe dọa sao? (Thưa, phải.) Thủ đoạn nào được sử dụng để đe dọa mọi người? (Thưa, những lời nói đúng.) Đó là sử dụng những lời nói đúng, những lời có vẻ hợp với lẽ thật để đe dọa người khác – đây là trộm đổi khái niệm. Kẻ địch lại Đấng Christ mượn danh nghĩa làm bổn phận để đạt được mục đích cá nhân của mình. Nhưng làm việc cho cá nhân họ có phải là làm bổn phận không? Họ nói chuyện làm việc cho họ thành bổn phận mà mọi người nên làm, sau đó sử dụng nguyên tắc và tiêu chuẩn làm bổn phận để yêu cầu các anh chị em bán mạng cho họ. Thậm chí họ còn đe dọa nếu mọi người không bán mạng cho họ, thì sẽ không có cơ hội được cứu rỗi và sẽ bị thanh trừ ra khỏi hội thánh, loại bỏ khỏi nhà Đức Chúa Trời. Khi những người ngu muội, không có sự phân định này nghe thấy hậu quả nghiêm trọng như thế, liền mau chóng ôm đồm mọi việc của nhà lãnh đạo cùng những việc trong sinh hoạt của họ, làm xong trong lòng mới yên ổn. Thậm chí họ còn vô cùng đắc chí nghĩ rằng: “Lần này mình đã làm tốt bổn phận. Mình không hề lười biếng, và đã quan tâm đến tâm ý của lãnh đạo. Mình đã làm được mọi việc lãnh đạo dặn dò mình làm, và ôm đồm mọi việc nhà của lãnh đạo. Đây chính là quan tâm đến đức chúa trời! Lãnh đạo hài lòng, thì đức chúa trời cũng hài lòng. Lần này mình có hy vọng được cứu rỗi rồi!”. Đây có gọi là hy vọng không? Chẳng phải họ đã trở thành nô lệ cho kẻ địch lại Đấng Christ sao? Chẳng phải họ đã lầm đường lạc lối bởi kẻ địch lại Đấng Christ sao? Ở đây kẻ địch lại Đấng Christ đang đóng vai trò nào? Chẳng phải là người trung gian sao? Họ có tâm tính tà ác, và tà ác đương nhiên nghiêm trọng hơn giả dối nhiều. Vì thế, chắc chắn họ biết phải nói những lời thế nào và sử dụng những lý luận thế nào để hạn chế mọi người, mới có thể đạt được mục đích không thể cho người khác biết của họ, mới có thể lung lạc được lòng người, mới có thể khống chế hành vi cũng như tư tưởng của mọi người. Họ hiểu quá rõ những điều này. Do đó, kẻ địch lại Đấng Christ nói lời nào làm việc gì, muốn đạt được mục đích nào thì đều trải qua việc nghĩ sâu tính kỹ và mưu đồ từ lâu. Tuyệt đối không phải là vấn đề vô ý thức nói ra một câu hay làm ra một chuyện, sau đó đạt được kết quả bất ngờ – tuyệt đối không phải như vậy. Cho nên, những người có thể bằng lòng phục vụ và bán mạng cho kẻ địch lại Đấng Christ, ngoài việc bị những ngôn luận này của họ mê hoặc, thì cũng bị một loại lý do thoái thác của họ đe dọa và bức ép. Có thể họ tự nguyện làm những việc đó cho kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng chẳng phải trong “sự tự nguyện” này có vấn đề sao? Chẳng phải nên cho nó vào ngoặc kép sao? (Thưa, phải.) Đây tuyệt đối không phải là thực sự làm bổn phận, mà là hậu quả sinh ra do bị mê hoặc bởi một loại lý luận, một loại luận điệu và lý do thoái thác đúng, êm tai và mê hoặc người khác. Bởi vì họ lo lắng mình sẽ không thể làm bổn phận, sẽ bị khai trừ và không được cứu rỗi, nên họ tự nguyện tiếp nhận những nhiệm vụ mà kẻ địch lại Đấng Christ phân công cho họ, thậm chí còn tưởng rằng họ đang làm bổn phận cho Đức Chúa Trời. Chuyện này hồ đồ đến mức nào!
Sự đe dọa của kẻ địch lại Đấng Christ khiến mọi người thấy rõ bộ mặt thật của họ. Các ngươi có đe dọa người khác như thế không? Có sự khác biệt giữa việc đe dọa và cảnh cáo hoặc nhắc nhở không? (Thưa, có.) Các ngươi có thể phân định được không? Điểm khác biệt này nằm ở chỗ nào? Tìm được điểm khác biệt rồi thì các ngươi sẽ hiểu và có thể phân định được. (Thưa, xuất phát điểm khác nhau.) Ý định và xuất phát điểm chắc chắn khác nhau. Vậy thì rốt cuộc điểm khác biệt nằm ở chỗ nào? Đe dọa là gì? Đe dọa chính là những lời họ nói có thể rất dễ nghe, rất đúng, người ta nghe cũng sẽ không bị kích thích lắm, nhưng mục đích của họ lại là vì tư lợi của mình. Còn mục đích của nhắc nhở và cảnh cáo là gì? Là muốn giúp mọi người, khiến họ tránh phạm sai lầm, tránh đi lạc đường hoặc đi đường vòng, bị mê hoặc, và khiến họ giảm bớt hoặc phòng ngừa tổn thất. Mục đích không phải là vì lợi ích cá nhân, mà đơn thuần là để trợ giúp người khác. Chẳng phải là sự khác biệt này sao? (Thưa, phải.) Về mặt này, các ngươi cần biết phân định. Đừng bởi vì đã được thông công về biểu hiện đe dọa mọi người của việc kẻ địch lại Đấng Christ mà khi nói chuyện với người khác, có lúc cần cảnh cáo các ngươi lại không dám cảnh cáo. Khi cần phải cảnh cáo thì vẫn phải cảnh cáo. Cảnh cáo và nhắc nhở không giống như đe dọa. Cảnh cáo là thực sự muốn giúp mọi người hầu cho họ có thể làm bổn phận của mình cho tốt, khiến công tác của nhà Đức Chúa Trời không bị tổn hại. Mục đích là chính đáng. Mục đích của đe dọa là không chính đáng, không thể nói cho người khác biết – nó bao gồm dã tâm cá nhân và sự ích kỷ cá nhân. Chẳng hạn như việc kẻ địch lại Đấng Christ bảo những người khác làm việc cho nhà mình, thì sự ích kỷ của họ là gì? Đơn giản là họ muốn hưởng thụ lợi ích của địa vị, bảo người khác làm những công việc dơ dáy, mệt nhọc trong nhà, còn họ thì chẳng là gì. Rồi thậm chí có người còn phải phục vụ họ ba bữa một ngày. Họ cảm thấy hiện tại mình có địa vị rồi thì có thể hưởng thụ. Nhưng bảo thẳng mọi người làm việc cho họ thì không danh chính ngôn thuận, nên kẻ địch lại Đấng Christ phải tạo ra một loạt lý do, nói rằng: “Giờ đây tôi là lãnh đạo, rất bận rộn với bổn phận. Nếu các anh chị em có sự gánh vác, có nhân tính, thì nên học cách phối hợp. Các anh chị em có thể làm gì? Tất cả những gì các anh chị em có thể làm là ra sức, chẳng phải sao? Vườn rau của tôi ở nhà không có ai làm, các anh chị em cũng không giúp! Nếu các anh chị em giúp thì chứng tỏ các anh chị em có lòng yêu thương, và trên thực tế các anh chị em giúp tôi làm việc cũng là làm bổn phận. Tôi là lãnh đạo của các anh chị em – chẳng phải việc của tôi cũng là việc của các anh chị em sao? Việc của các anh chị em chính là những việc mà các anh chị em nên làm, những việc các anh chị em nên làm chính là bổn phận của các anh chị em, chẳng phải sao?”. Khi họ chụp một cái mũ lớn như vậy lên đầu ngươi và ngươi suy ngẫm rằng những gì lãnh đạo nói cũng đúng, thì ngươi sẽ đi làm việc cho họ. Đây chẳng phải là bị lừa sao? Kẻ địch lại Đấng Christ có những mục đích riêng của họ, trước khi đạt được mục đích đó, họ cần tìm một bộ lý luận và lý do thoái thác phù hợp để làm cái cớ. Sau đó những ai tiếp nhận những lý luận này sẽ đi làm việc cho họ, họ sẽ đạt được mục đích của mình, và sẽ hưởng thụ phúc lợi của địa vị. Đây chẳng phải là người kiếm ăn từ tôn giáo sao? (Thưa, phải.) Đây chính là kiếm ăn từ tôn giáo. Họ lười biếng và không sẵn lòng làm việc, tham hưởng an nhàn xác thịt và lợi ích của địa vị. Họ chơi trò lộng quyền, và khi không thể tìm được câu nói phù hợp, họ sẽ tìm ra một vài lời hợp lý và người ta có thể tiếp nhận hơn trong lời Đức Chúa Trời cũng như đạo lý họ hiểu được. Họ sử dụng những lời này để mê hoặc và hạn chế những người không hiểu được lẽ thật và còn ngu muội. Sau đó họ đạt được mục đích không thể cho người khác biết của mình, khiến mọi người tình nguyện tiếp nhận sự thao túng của họ. Có người thậm chí còn cảm thấy nếu họ không nghe lời lãnh đạo hoặc không thực hiện tốt chuyện lãnh đạo căn dặn, thì tức là họ không làm tốt bổn phận của mình. Họ cảm thấy như mắc nợ Đức Chúa Trời, thậm chí còn rơi nước mắt. Đây chẳng phải là hồ đồ ở mức độ cao sao? Họ hồ đồ đến mức khiến người ta ghê tởm.
Kẻ địch lại Đấng Christ thường nói chuyện bằng cách đe dọa để đạt được mục đích của mình, nhưng đôi khi sự đe dọa của họ lại dùng lời nói đúng, dùng cách nhẹ nhàng, như con rắn từ từ quấn quanh ngươi – sau khi quấn quanh ngươi thì nó sẽ lấy mạng ngươi. Kẻ địch lại Đấng Christ còn một cách đe dọa khác, nó không nhẹ nhàng, mà cứng rắn và hung ác, như sói thấy cừu và bộc lộ bộ mặt hung ác của nó. Ý họ là muốn nói với mọi người rằng: “Nếu không nghe theo tôi thì anh không gánh nổi đâu, nếu hậu quả phát sinh thì anh tự chịu trách nhiệm!”. Những chiêu bài thông thường của kẻ địch lại Đấng Christ khi đe dọa người khác là gì? Là đích đến, bổn phận của mọi người, thậm chí địa vị và việc đi hay ở trong hội thánh của họ. Kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng những cách này, và đương nhiên còn cả nhiều cách khác nữa, để đe dọa mọi người. Tuy nhiên, về cơ bản thì nằm trong hai loại này: có khi dỗ dành ngươi bằng những lời dễ nghe, có khi trực tiếp trở nên cứng rắn và hung ác. Kẻ địch lại Đấng Christ đe dọa nhằm mục đích gì? Thứ nhất là khiến mọi người nghe theo họ. Họ muốn vơ vét được lợi ích trên người khác, hưởng thụ được lợi ích của địa vị, và hưởng thụ các loại phúc lợi và các loại hưởng thụ mà địa vị mang đến cho họ. Thứ hai là không để ai nói ra chân tướng hay không cho phép ai thách thức địa vị của họ. Họ cũng không cho phép ai làm bất kỳ chuyện gì đe dọa đến địa vị của họ. Chẳng hạn như nếu một số người muốn báo cáo tình trạng của họ với cấp trên, hoặc nếu một số người có sự phân định với họ và muốn liên hiệp các anh chị em để vứt bỏ và bãi nhiệm họ, thì kẻ địch lại Đấng Christ sẽ dùng thủ đoạn đe dọa. Mục đích của việc đe dọa này, một mặt là để hưởng thụ nhiều phúc lợi mà địa vị mang lại, mặt khác là để giữ vững địa vị của họ. Mục đích của kẻ địch lại Đấng Christ khi đe dọa mọi người chỉ có hai kiểu này, đều xoay quanh địa vị. Các loại phúc lợi này từ đâu mà có? Chúng cũng đến từ địa vị của họ. Có kẻ địch lại Đấng Christ nói: “Trong chuyện này, nếu các anh chị em không nghe theo tôi thì tự chịu hậu quả!”. Nếu có người có sự phân định với họ thì sẽ không nghe theo họ, họ có nghĩ biện pháp không? Họ sẽ không ngồi chờ chết đâu. Chỉ cần còn một tia hy vọng để có thể giữ vững địa vị của mình, họ sẽ cố gắng hết sức để đấu tranh. Mức độ ưa chuộng địa vị của họ vượt xa người bình thường. Nó giống như sói thấy cừu – thậm chí chưa đến lúc ăn, miệng đã nhỏ dãi. Ánh mắt nó lộ vẻ dữ tợn và nó suy nghĩ về chuyện muốn ăn thịt cừu; đây là kiểu dục vọng của nó. Chẳng phải đây là bản tính của nó sao? (Thưa, phải.) Dục vọng đối với địa vị của kẻ địch lại Đấng Christ cũng giống như dục vọng của sói đối với cừu, là một nhu cầu trong bản tính ác độc của họ. Cho nên, việc họ đe dọa người khác là không thể thiếu.
IV. Mổ xẻ về cách kẻ địch lại Đấng Christ khống chế mọi người
Khống chế mọi người là một trong những thủ đoạn làm việc của kẻ địch lại Đấng Christ. Họ khống chế mọi người như thế nào? Kẻ địch lại Đấng Christ không chỉ có một bộ thủ đoạn khống chế mọi người, mà có mấy bộ. Các ngươi đã bao giờ trải qua chuyện này chưa? Có những người chưa từng làm lãnh đạo, nhưng lại có dục vọng khống chế người khác – đó chính là mầm mống của kẻ địch lại Đấng Christ. Dù họ bao nhiêu tuổi, ở đâu hay trong việc gì, họ cũng đều muốn khống chế mọi người. Thậm chí cả trong chuyện ăn uống, làm việc hay trong những chuyện như các loại chuyên ngành, nghiệp vụ, họ cũng muốn khiến mọi người nghe theo họ, ai không nghe là không được. Thậm chí họ muốn cũng không thể khống chế được dục vọng muốn nắm quyền trong hội thánh của mình. Họ cảm thấy đây là đang thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ, là chuyện thuộc bổn phận, mà không hề cảm thấy được rằng đây chính là dã tâm và dục vọng của họ, đây chính là tâm tính bại hoại của họ. Vậy kẻ địch lại Đấng Christ khống chế mọi người như thế nào? Chẳng hạn như khi được bầu làm lãnh đạo, thì ngay ngày đầu tiên, họ ngẫm nghĩ: “Những người này ăn uống, làm việc và nghỉ ngơi đều không có quy luật; có nhiều việc phải làm đây. Trách nhiệm của người làm lãnh đạo tôi đây lớn lao, gánh nặng cũng nặng nề!”. Kẻ địch lại Đấng Christ nhốt mình trong phòng cả ngày viết hai, ba trang nội dung. Nội dung gì? Đầu tiên là liên quan đến việc ăn uống. Phải ăn vào những giờ cụ thể, ở những nơi cụ thể và với khẩu phần cụ thể. Ăn sáng lúc 6:30, ăn trưa lúc 12:30 và ăn tối lúc 6:30 – sẽ ăn vào ba khoảng thời gian này, không được sớm hơn hay trễ hơn. Dù trong hoàn cảnh nào cũng phải đúng giờ, trời gió hay mưa cũng như thế, nếu làm trái, thì sẽ không được ăn. Rồi liên quan đến chuyện làm việc và nghỉ ngơi, đây đúng là chuyện lớn. Mỗi sáng phải thức dậy lúc 6:00, dù tối hôm trước có đi ngủ muộn cỡ nào. Sau bữa trưa nên nghỉ trưa lúc 1:00, và mỗi tối đúng 10:00 phải đi ngủ. Khi họ quy định thời gian ăn uống và ngủ nghỉ xong, thì vẫn còn nhiều quy định cụ thể khác nữa. Chẳng hạn như phải ăn ở những nơi quy định, và khi ăn không được tạo ra bất kỳ tiếng ồn nào. Mỗi người phải mặc những trang phục cụ thể, v.v.. Quy định này chi tiết hơn nhiều, thậm chí còn chi tiết hơn cả sắc lệnh quản trị trong nhà Đức Chúa Trời. Những chuyện nhỏ trong sinh hoạt này không liên quan gì đến lẽ thật. Chỉ cần sinh hoạt hàng ngày và việc ăn uống của người ta có quy luật và phù hợp, không làm tổn hại sức khỏe, thì cứ tuân theo nguyên tắc này là đủ. Không cần những quy định chi tiết. Vậy tại sao kẻ địch lại Đấng Christ lại có thể quy định chi tiết như thế? Họ nói: “Không quản lý mọi người là không được. Những chuyện này chưa bao giờ được nhắc đến trong lời đức chúa trời. Không có những chi tiết này, đời sống của chúng ta sẽ vô kỷ luật, thiếu quy luật và không có chút hình tượng giống con người nào. Giờ đây tôi là lãnh đạo, các anh chị em đều có thể được cứu chữa. Các anh chị em không còn là những con chiên lang thang nữa, có người quản lý các anh chị em”. Cả chuyện lớn lẫn chuyện nhỏ trong đời sống hàng ngày, chẳng hạn như chuyện ăn, mặc, ở và đi lại, hết thảy đều đã được quy định xong. Rồi họ nói cho ngươi một “bí mật” rằng: “Lời đức chúa trời chưa bao giờ nói đến những chi tiết cụ thể này của đời sống. Đức chúa trời không phán không có nghĩa là chúng ta không nên biết. Con người chúng ta phải làm những công việc chi tiết mà đức chúa trời chưa bao giờ phán này”. Họ tự lập ra một vài quy định cứng nhắc bên ngoài lời Đức Chúa Trời, có vẻ như là các quy định bằng văn bản rất chi tiết, dùng để thay thế lẽ thật và dẫn dắt người khác. Sau khi những quy định bằng văn bản cụ thể này được ban hành, thì sẽ để cho mọi người phải tuân thủ những cái gọi là phép tắc của họ. Ai không tuân thủ, không nghe theo, phớt lờ hoặc làm trái những phép tắc này sẽ bị kẻ địch lại Đấng Christ tỉa sửa. Tỉa sửa người ta xong, kẻ địch lại Đấng Christ còn phải để cho người ta tiếp nhận những phép tắc này và đón nhận chúng từ Đức Chúa Trời. Họ sử dụng những điều này để thay thế lẽ thật và dẫn dắt mọi người, vậy những người đó sẽ đi về phía con đường nào? Họ sẽ chỉ tuân theo quy định và nghi thức, sẽ chỉ chạy theo hình thức. Dưới sự lãnh đạo như vậy, thì trong quan niệm mọi người sẽ ngộ nhận rằng: “Nếu mình có thể tuân thủ những quy định bên ngoài và hình thức thật tốt, nếu mình có thể tuân thủ thật tốt thời gian thức dậy, ngủ và ba bữa một ngày, thì chẳng phải là mình đang thực hành được lẽ thật sao? Chẳng phải sau này mình sẽ được cứu rỗi sao?”. Được cứu rỗi có đơn giản như vậy không? Đạt được lẽ thật có dễ dàng như vậy không? Có phải lẽ thật chỉ liên quan đến hành vi của con người không? Không. Kẻ địch lại Đấng Christ xem việc thay đổi tâm tính, hiểu lẽ thật và thực hành lẽ thật của mọi người là gì? Họ xem những việc đó như việc tuân thủ trật tự công cộng hoặc tuân thủ luật pháp quốc gia. Thậm chí họ còn khiến mọi người ngộ nhận rằng những quy định cứng nhắc này cao hơn, cụ thể hơn và thực tế hơn lời Đức Chúa Trời. Trên thực tế, họ sử dụng những điều này để mê hoặc và khống chế mọi người, khống chế chặt chẽ hành vi của mọi người. Họ không dùng lẽ thật để giải quyết vấn đề, cũng không bảo mọi người sống, hành động và làm bổn phận theo các nguyên tắc lẽ thật. Thay vào đó, họ tự tổng kết ra một số quy định cứng nhắc, điều lệ, quy chế để mọi người tuân theo. Mục đích của họ là gì? Họ khiến mọi người chịu phục họ, khiến mọi người cảm thấy họ cao minh và phục tùng sự lãnh đạo của họ bằng cách thực hành và tuân theo những quy định cứng nhắc này. Như thế họ sẽ đạt được mục đích của mình. Họ muốn đạt được mục đích khống chế tất cả của con người bằng cách ràng buộc và tiêu chuẩn hóa hành vi của họ. Và có lẽ, xét từ xuất phát điểm hành động, họ không muốn đạt được địa vị một cách rõ ràng, nhưng hậu quả cuối cùng là họ khống chế mọi người, và mọi người hoàn toàn sống cũng như làm việc theo các quy định cứng nhắc họ đặt ra. Lẽ thật còn có vị trí trong lòng mọi người nữa không? Không. Người như kẻ địch lại Đấng Christ không có hiểu biết thuộc linh và không hiểu lẽ thật. Nếu ngươi sống đời sống hội thánh cùng họ, hôm nay họ bảo ngươi làm cái này, ngày mai lại bảo ngươi làm cái kia, căn bản sẽ không thông công về các nguyên tắc lẽ thật. Thay vào đó, họ sẽ cho ngươi một vài quy định để tuân theo. Ngươi tuân theo cũng rất mệt, nhưng không tuân theo không được. Họ không thể cho phép ngươi tự do giải phóng. Đây là một cách mà kẻ địch lại Đấng Christ khống chế mọi người.
Kẻ địch lại Đấng Christ chủ yếu khống chế điều gì ở mọi người? (Thưa, tư tưởng của họ.) Đúng vậy; họ chủ yếu khống chế tư tưởng của mọi người. Họ không chỉ là khống chế cách nói và cách làm của mọi người. Họ mượn danh nghĩa thông công về lẽ thật và sử dụng những lý luận sáo rỗng và lời lẽ ngụy biện khéo léo để mê hoặc ngươi, đạt được mục đích khống chế tư tưởng ngươi, khiến ngươi nghe theo và làm theo họ. Đây chính là mê hoặc và khống chế mọi người. Nếu không làm theo kiến giải của họ, trong lòng ngươi sẽ cảm thấy như thể mình đang làm trái lẽ thật, trong lòng còn cảm thấy mắc nợ họ hoặc có lỗi với họ. Chuyện này tức là ngươi đã bị họ khống chế rồi. Nhưng nếu ngươi không thực hành lẽ thật hoặc thuận phục Đức Chúa Trời, ngươi sẽ cảm thấy mắc nợ Đức Chúa Trời trong lòng chứ? Nếu không thì ngươi là người không có lương tâm và nhân tính. Nếu ngươi có thể thuận theo kẻ địch lại Đấng Christ thay vì thực hành lẽ thật, mà không có cảm giác bất an nào trong lòng hay một chút cắn rứt lương tâm nào, thì có nghĩa là ngươi đã bị họ khống chế. Hiện tượng phổ biến nhất của việc kẻ địch lại Đấng Christ khống chế mọi người là trong phạm vi thẩm quyền của họ, chỉ mình họ có tiếng nói quyết định. Vắng mặt họ, không ai dám ra quyết định hoặc xử lý vấn đề cả. Không có họ, những người khác như đứa trẻ không mẹ, không biết cách cầu nguyện, tìm kiếm hay trao đổi với nhau, giống như những con rối hoặc kẻ đã chết vậy. Về những gì kẻ địch lại Đấng Christ thường nói để mê hoặc và khống chế mọi người, chúng ta sẽ không nói chi tiết ở đây. Chắc chắn có nhiều câu nói và thủ đoạn, và hậu quả đạt được có thể được thể hiện ra ở những người bị mê hoặc. Để Ta đưa ra một ví dụ. Có mấy người tố chất trung bình, không quá tệ, làm bổn phận cũng có lòng trung thành và hiếm khi tiêu cực. Nhưng sau khi phối hợp làm bổn phận với kẻ địch lại Đấng Christ một thời gian, họ nảy sinh sự ỷ lại với kẻ địch lại Đấng Christ. Họ chỉ thích nghe theo kẻ địch lại Đấng Christ trong mọi sự, và kẻ địch lại Đấng Christ trở thành cột trụ tinh thần của họ. Hễ tách khỏi kẻ địch lại Đấng Christ này, họ không làm được việc gì cả. Vắng mặt kẻ địch lại Đấng Christ, họ làm bổn phận trì trệ, gặp vấn đề, họ cũng thông công không ra kết quả. Họ chỉ có thể chờ đợi kẻ địch lại Đấng Christ đến giải quyết. Thực ra, dựa vào tố chất, đầu óc, kinh nghiệm và sự từng trải thì trước khi bị kẻ địch lại Đấng Christ khống chế những người này có khả năng xử lý những chuyện này. Nhưng sau khi bị kẻ địch lại Đấng Christ khống chế, thì một khi những người này xa rời họ, không ai dám ra quyết định hoặc đưa ra phương án rõ ràng để xử lý việc này. Tư tưởng của họ dường như đã bị giam cầm, hơi có tính chất của người sống trong tình trạng nửa thực vật. Kẻ địch lại Đấng Christ khống chế những người này đã làm những việc gì để khiến họ có thể có biểu hiện như thế? Chắc chắn phải có một số câu nói hoặc phát ngôn rõ ràng để khiến mọi người tâm phục, khẩu phục. Chắc chắn phải có một vài câu nói quan điểm hoặc cách làm mà khiến người ta tán đồng. Nhưng kẻ địch lại Đấng Christ tuyệt đối không có thực tế lẽ thật. Những câu nói và quan điểm của họ, dù có đúng đi nữa, cũng là để mê hoặc mọi người và không hề có nghĩa là họ có thực tế lẽ thật. Có những người có thể khâm phục kẻ địch lại Đấng Christ bởi vì họ thực sự có một vài ân tứ và một chút tài năng. Nhưng những thứ này không có nghĩa là con người có thực tế lẽ thật. Những người tôn sùng kẻ địch lại Đấng Christ bởi vì họ không có lẽ thật và không biết phân định con người, nên họ mới có thể tôn sùng kẻ địch lại Đấng Christ và thậm chí cả một số danh nhân, vĩ nhân thuộc linh. Có những người có thể bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc, nhưng đó chỉ là nhất thời. Đợi đến một ngày họ thực sự nhìn ra rằng kẻ địch lại Đấng Christ chỉ biết nói lý luận thuộc linh nhưng không thực hành được lẽ thật, không làm một chuyện gì để bảo vệ công tác của hội thánh và thực sự là người Pha-ri-si đạo đức giả, thì họ sẽ vứt bỏ và căm ghét kẻ địch lại Đấng Christ. Có rất nhiều ví dụ về việc kẻ địch lại Đấng Christ dựa vào ân tứ và tài ăn nói của mình để mê hoặc những người không hiểu lẽ thật. Chẳng hạn như nếu ngươi đưa ra một đề xuất hợp lý, thì mọi người nên tiếp tục thông công xoay quanh phương án đúng đắn này, đây là con đường đúng đắn và là lòng trung thành cũng như có trách nhiệm đối với bổn phận. Nhưng trong lòng kẻ địch lại Đấng Christ lại suy nghĩ: “Sao mà tôi lại không nghĩ ra phương án đó của anh trước nhỉ?”. Trong thâm tâm, họ thừa nhận rằng phương án đó là đúng, nhưng họ có thể tiếp nhận nó không? Do bản tính của mình, họ tuyệt đối sẽ không tiếp nhận đề xuất đúng đắn của ngươi. Họ nhất định sẽ nghĩ đủ mọi cách để bác bỏ phương án của ngươi, sau đó lập ra một phương án khác để khiến ngươi cảm thấy rằng phương án của mình chỗ nào cũng không ổn, và phương án của họ tốt hơn, ngươi cảm thấy rằng không thể thiếu họ được và chỉ khi họ thực hiện công tác, mọi người mới có thể phát huy tác dụng của mình. Vắng mặt họ, không có công việc nào có thể được thực hiện tốt cả, tách khỏi họ thì mọi người đều trở thành phế vật, không làm được trò trống gì. Thủ đoạn làm việc của kẻ địch lại Đấng Christ là luôn khác người và hót hay như khướu. Dù người khác có nói đúng đến đâu cũng không được, họ cũng sẽ bác bỏ. Dù đề xuất của người khác nhất trí với chính ý tưởng của họ, nhưng chỉ cần không phải do họ đề ra trước, họ tuyệt đối sẽ không thừa nhận hoặc tiếp thu. Thay vào đó, họ sẽ nghĩ đủ mọi cách để hạ thấp, sau đó phủ nhận và định tội, liên tục nói cho đến khi người đưa ra đề xuất cảm thấy ý tưởng của mình là không đúng và thừa nhận mình đã sai rồi. Chỉ khi đó, cuối cùng kẻ địch lại Đấng Christ mới chịu để yên. Loại người địch lại Đấng Christ này thích khẳng định bản thân, hạ thấp người khác, đạt đến khiến người khác tôn sùng họ và coi họ là trung tâm. Họ chỉ cho phép bản thân mình tỏa sáng, những người khác chỉ có thể làm nền. Họ nói hay làm gì cũng đều đúng, người khác nói hay làm gì cũng đều sai. Họ thường đưa ra những quan điểm mới lạ để phủ nhận quan điểm và cách làm của người khác, bới lông tìm vết ý kiến của người khác, làm rối tung và bác bỏ phương án của người khác. Như thế người khác phải nghe theo họ và hành động theo phương pháp của họ. Họ sử dụng loại thủ đoạn và phương thức này để không ngừng phủ nhận ngươi, đả kích ngươi, và khiến ngươi cảm thấy mình kém cỏi, từ đó khiến ngươi ngày càng phục tùng, ngưỡng mộ và xem trọng họ. Như thế, ngươi sẽ bị họ khống chế hoàn toàn. Đây chính là quá trình kẻ địch lại Đấng Christ chế ngự và khống chế mọi người.
Kẻ địch lại Đấng Christ có nhiều loại thủ đoạn để mê hoặc và khống chế mọi người; không phải dùng mắt ra hiệu và nói mấy câu là mọi người sẽ nghe theo họ – hoàn toàn không đơn giản như thế. Dù là khống chế mọi người hay khống chế một phương diện quyền lực, như quyền nhân sự, quyền tài vụ hay quyền phát biểu, họ đều sẽ chọn dùng những thủ đoạn khác nhau, họ tuyệt đối không phải thỉnh thoảng làm một chút, mà là thể hiện rõ bản thân và làm chứng cho bản thân một cách nhất quán cho đến khi mọi người có thể khâm phục và bầu chọn họ, sau đó quyền lực nằm trong tay họ. Họ tiến hành một khoảng thời gian mới đạt được mục đích. Một loại thủ đoạn khác mà kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng để mê hoặc và khống chế mọi người là khiến mọi người biết rõ về họ, cũng như khiến nhiều người hơn biết về một số đóng góp mà họ từng làm cho nhà Đức Chúa Trời bằng cách không ngừng thể hiện rõ bản thân. Chẳng hạn như họ nói: “Trước đây tôi đã nghĩ ra một số phương pháp rao truyền phúc âm, và hiệu quả rao truyền phúc âm đã tốt hơn rồi. Đến bây giờ một số hội thánh khác cũng đang phổ biến rộng rãi phương thức này”. Thực ra hội thánh các nơi đều tổng kết được không ít kinh nghiệm rao truyền phúc âm, nhưng kẻ địch lại Đấng Christ lại không ngừng khoe khoang mình từng đưa ra quyết sách đúng và lập được công lao, báo cho mọi người biết, nhấn mạnh và lặp lại chuyện này ở khắp nơi, đạt đến việc tất cả mọi người đều biết. Mục đích của họ là gì? Để xây dựng hình ảnh và danh tiếng của chính mình, để thu về sự tán thành, ủng hộ và ngưỡng vọng từ nhiều người hơn, và để khiến mọi người chỉ cần có chuyện thì đều tới khẩn cầu họ. Đây chẳng phải là đạt được mục đích mê hoặc và khống chế mọi người của kẻ địch lại Đấng Christ rồi sao? Hầu hết kẻ địch lại Đấng Christ đều làm như vậy, đảm nhiệm vai trò mê hoặc, gài bẫy và khống chế mọi người. Bất kể ở trong hội thánh, nhóm người hay nơi làm việc nào, hễ kẻ địch lại Đấng Christ xuất hiện, hầu hết mọi người đều sẽ vô thức bắt đầu tôn sùng và ngưỡng mộ họ. Mỗi khi họ gặp phải khó khăn mà cảm thấy bối rối hoặc cần ai đó dẫn đường, nhất là trong những chuyện mấu chốt phải đưa ra quyết sách, họ sẽ nghĩ đến kẻ địch lại Đấng Christ có ân tứ. Trong lòng họ cảm thấy: “Giá như họ ở đây thì tốt rồi. Chỉ họ mới có thể bày mưu tính kế để giúp chúng ta vượt qua cửa ải khó khăn này; họ có nhiều chủ kiến và biện pháp nhất, kinh nghiệm của họ phong phú nhất, và trí óc họ lanh lợi nhất”. Chẳng phải việc những người này có thể tôn sùng kẻ địch lại Đấng Christ đến mức độ như vậy liên quan trực tiếp đến cách kẻ địch lại Đấng Christ khoe khoang, thể hiện rõ và phô trương bản thân lúc thường sao? Nếu họ thể hiện sự trầm ổn trong lời nói và hành động của mình, nếu họ là người vùi đầu vào công việc, nếu họ nói ít làm nhiều, không bao giờ nói toạc ra khắp nơi hay thể hiện rõ, càng không khoe khoang bản thân, thì họ sẽ không thể đạt đến mê hoặc mọi người và khiến mọi người coi trọng, ngưỡng vọng mình được. Vậy tại sao có một số người tương đối trung thực, có thể thực hành lẽ thật và vùi đầu vào công việc lại hiếm khi được bầu chọn làm lãnh đạo và người làm công? Đó là bởi vì hầu hết mọi người không có thực tế lẽ thật và không giỏi phân định. Mọi người thường ưa chuộng những người có ân tứ, biết ăn nói và giỏi thể hiện rõ bản thân. Họ đặc biệt hâm mộ và tán thành, cũng như thích tiếp xúc với những người như vậy. Như thế, kẻ địch lại Đấng Christ tự nhiên trở thành đối tượng được tôn sùng và ngưỡng vọng của hầu hết mọi người. Nói sao đi nữa, thì kẻ địch lại Đấng Christ cũng có một bộ thủ đoạn để khống chế mọi người, và họ không tiếc tốn thời gian, sức lực cho việc quản lý địa vị cũng như hình ảnh của mình trong lòng mọi người, cuối cùng họ đạt được mục đích khống chế được mọi người. Trước khi đạt được mục đích này, kẻ địch lại Đấng Christ làm gì? Thái độ trong lòng họ đối với địa vị là gì? Nó không phải là yêu thích hay ước ao thông thường, mà là có âm mưu đã lâu, cố ý muốn đạt được. Họ đặc biệt coi trọng quyền lực và địa vị, cho rằng địa vị là điều kiện phải có để đạt đến mê hoặc và khống chế mọi người. Chỉ cần có được địa vị, thì việc được hưởng thụ hết thảy phúc lợi là hợp lẽ. Vì thế, việc kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và khống chế mọi người là việc đã trải qua sự dày công quản lý mới đạt đến. Tuyệt đối không phải là họ tình cờ đi vào con đường đó; mọi việc họ làm đều có mục đích, được mưu đồ và tính toán mọi cách. Đối với kẻ địch lại Đấng Christ, việc đạt được quyền lực và đạt được mục đích khống chế mọi người là sự thu hoạch – đó là thành quả mà trong lòng họ mong muốn nhìn thấy nhất. Việc mưu cầu quyền lực và địa vị của họ là có mưu đồ, có mục đích, có ý đồ và được dày công quản lý; nghĩa là khi nói chuyện hoặc làm việc, họ có ý thức mạnh mẽ về mục đích và ý đồ, mục tiêu của họ vô cùng rõ ràng. Chẳng hạn như họ khoe khoang về việc mình từng là lãnh đạo hoặc người làm công ở cấp bậc nào đó, từng đạt được bao nhiêu người thông qua rao truyền phúc âm, hoặc có những phương thức kinh điển nào để rao truyền phúc âm; họ khoe khoang những kinh nghiệm và vốn liếng này của mình. Trong khi khoe khoang, trong lòng họ nghĩ thế nào? Xuất phát điểm của họ là gì? Chẳng phải trong lòng họ có tính toán xem nên nói lời nào và nên nói những lời lẫn lộn thật giả thế nào rồi sao? Họ không tùy ý nói bừa; mọi điều họ nói đều có mục đích và tuyệt đối không chỉ là nói mấy câu thổi phồng về bản thân thôi đâu. Lời họ nói nghe có vẻ như vô cùng đúng mực và có mục tiêu rõ ràng, ý thức về sự đúng mực vô cùng tốt. Chẳng hạn như nếu họ nhìn thấy những người hiểu được lẽ thật, thì lòng họ sẽ có sự đề phòng, họ sẽ không tùy tiện nói bậy hoặc làm bậy trước mặt người ta, sợ bị phân định ra. Họ sẽ thành thật hơn. Nhưng nếu đó là tín hữu mới hoặc tín hữu bình thường, họ sẽ cân nhắc xem nên nói gì với những người này. Nếu đó là lãnh đạo và người làm công, họ sẽ suy ngẫm xem nên nói gì với nhóm này. Nếu đó là người hiểu nghiệp vụ, họ sẽ cân nhắc nên nói gì với những người này. Họ đặc biệt nhanh trí trong những chuyện bên ngoài, biết nên nói lời nào với ai và nên nói như thế nào, những chuyện này họ phân biệt vô cùng rõ ràng. Nói cách khác, khi làm việc, loại người địch lại Đấng Christ này đều có ý đồ cả. Lời nói, hành động và cử chỉ của họ, ngay cả cách diễn đạt khi nói chuyện cũng có ý đồ; họ không phải bộc lộ sự bại hoại nhất thời, không phải vóc giạc nhỏ bé, không phải ngu muội hoặc vô tri, đi đâu cũng nói năng lung tung – tuyệt đối không phải như vậy. Thông qua việc xem xét các thủ đoạn, phương thức làm việc và cách diễn đạt khi nói chuyện của họ, loại người địch lại Đấng Christ này rất kỳ dị và tà ác. Vì địa vị của bản thân và để đạt được mục đích có thể khống chế mọi người, thì có cơ hội họ liền thể hiện rõ bản thân, tận dụng mọi thứ, và họ sẽ không bỏ lỡ một cơ hội nào. Nói Ta nghe, liệu người như thế có bộc lộ những điều này trước mặt Ta không? (Thưa, có.) Tại sao ngươi lại nói là có? (Thưa, bởi vì thực chất bản tính của họ là giỏi thể hiện.) Kẻ địch lại Đấng Christ chỉ đơn thuần thể hiện rõ thôi sao? Mục đích của họ khi thể hiện rõ bản thân là gì? Họ muốn đạt được địa vị, và ý họ là: “Anh không biết tôi là ai sao? Nhìn những việc tôi từng làm này, chính tôi đã làm những việc tốt này đấy; tôi đã có khá nhiều đóng góp cho nhà đức chúa trời. Nếu anh đã biết rồi, thì chẳng phải anh nên giao cho tôi công tác lớn hơn nữa sao? Chẳng phải anh nên xem trọng tôi sao? Chẳng phải anh nên dựa vào tôi khi làm bất cứ việc gì sao?”. Đây chẳng phải là có mục đích sao? Ai kẻ địch lại Đấng Christ cũng muốn khống chế, bất kể là ai. Một cách nói khác của “khống chế” là gì? Thao túng, đùa giỡn – họ chỉ muốn chi phối ngươi. Chẳng hạn như khi các anh chị em khen ngợi việc gì đó được làm tốt, kẻ địch lại Đấng Christ lập tức nói rằng họ đã làm việc đó, để mọi người đều biết ơn họ. Một người thực sự có lý trí sẽ làm như vậy sao? Tuyệt đối sẽ không. Kẻ địch lại Đấng Christ làm được chút việc tốt thì luôn muốn khiến mọi người biết, xem trọng họ và khen ngợi họ – như vậy là họ thỏa mãn rồi. Dù làm gì, họ cũng muốn có được sự khen ngợi và tôn sùng của mọi người, và để có được những điều đó, dù chịu đựng đau khổ gì họ cũng sẵn lòng. Vì địa vị và quyền lực, kẻ địch lại Đấng Christ sẽ không bỏ lỡ bất kỳ cơ hội thể hiện rõ bản thân nào, dù sự thể hiện của họ rất ngu xuẩn, hay thủ đoạn thể hiện của họ rất vụng về và khiến người khác rất khinh thường – họ vẫn sẽ không bỏ qua những cơ hội như vậy. Tương tự, họ không từ thủ đoạn nào để đạt được mục đích khống chế mọi người, và không ngại phiền phức mà bỏ công sức vì điều đó. Họ hao tổn tâm huyết và vắt óc để vạch kế hoạch. Khi làm được chút việc tốt, họ không ngừng khoe khoang và thể hiện khắp nơi. Nếu người khác làm việc gì tốt, thì họ đố kỵ và nghĩ đủ mọi cách nhận việc tốt về mình hoặc nói rằng họ có phần trong đó để dát vàng lên mặt mình. Tóm lại, kẻ địch lại Đấng Christ có những thủ đoạn để khống chế mọi người. Đó hoàn toàn không phải là sự giả dối nhất thời, cũng không phải là một hai chuyện thỉnh thoảng mới làm. Mà thay vào đó, họ làm rất nhiều việc và nói rất nhiều lời. Lời nói họ có tính mê hoặc, cách làm của họ có tính mê hoặc, và khi nói những lời này và làm những việc này, mục đích cuối cùng của họ là để khống chế mọi người.
Mục đích của kẻ địch lại Đấng Christ khi khống chế mọi người là gì? Đó là để có được địa vị và uy quyền trong lòng mọi người. Một khi có được uy quyền và địa vị, họ có thể hưởng thụ lợi ích của địa vị và các loại quyền lợi nó mang lại. Chẳng hạn như những khi thời tiết nóng nực, trong khi người khác ở trong phòng không có điều hòa, thì họ được ở trong phòng có điều hòa. Lúc ăn cơm, trong khi những người khác chỉ được một phần rau và một phần cơm, thì họ được thêm chút thịt và súp. Khi bước vào phòng không có ghế ngồi, những người khác phải ngồi trên sàn, phải để lại một chiếc ghế duy nhất dành cho họ. Những đãi ngộ đặc biệt này là do địa vị mang lại, và họ thích tham hưởng lợi ích của địa vị. Đương nhiên, những quyền lợi và sự hưởng thụ này mãi mãi không thể lớn hơn dã tâm của họ. Họ không chỉ cần những phúc lợi mà địa vị mang lại, mà còn cần hư vinh, cảm giác thỏa mãn và cảm giác an toàn mà nó mang lại cho thế giới nội tâm của họ. Biểu hiện của những người đã bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc, lôi kéo và khống chế là gì? Họ sẽ so sánh địa vị, quyền lực, ân tứ và bản lĩnh, cũng như bối cảnh gia đình và xuất thân của nhau, và họ cạnh tranh xem mưu ma chước quỷ của ai nhiều hơn, ai có trí óc lanh lợi hơn. Những kẻ địch lại Đấng Christ trong tôn giáo còn cạnh tranh xem ai cầu nguyện lâu nhất. Nếu một người cầu nguyện trong mười phút, người kia sẽ cầu nguyện trong hai mươi phút, và trong buổi nhóm họp, họ không làm gì ngoài cầu nguyện, giống như những người tụng kinh trong ngôi chùa Phật giáo, lẩm bẩm không ngừng. Đức Chúa Trời có nghe lời cầu nguyện như vậy không? Nhìn cách cầu nguyện của họ, thì Đức Thánh Linh sẽ không làm công tác trên họ. Họ so đo xem ai có thể cầu nguyện lâu nhất, ai có thể cầu nguyện to nhất, có thể lấn át những người khác. Đây chẳng phải bị thần kinh sao? Những chuyện họ làm thật không thể tưởng tượng được và bất chấp lý lẽ. Đó là những biểu hiện chủ yếu của những người đã bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và khống chế; khi kẻ địch lại Đấng Christ dẫn dắt mọi người thì sẽ có kết quả như vậy. Vì thế, nếu ngươi bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và khống chế, ngươi có thể sẽ ngưỡng vọng họ, đi theo họ và nghe theo họ trong mọi sự. Người khác nói là không được, dù là Đức Chúa Trời phán một câu cũng không nghe. Họ sẽ có những biểu hiện này. Kẻ địch lại Đấng Christ khống chế mọi người thì chẳng khác nào Sa-tan thống trị con người. Nếu ngươi bị Sa-tan khống chế, và trong lòng ngươi có chỗ cho con người, có chỗ cho Sa-tan, thì Đức Thánh Linh sẽ không làm công tác trên ngươi – Ngài sẽ rời bỏ ngươi. Chẳng phải ngươi thích đi theo kẻ địch lại Đấng Christ sao? Chẳng phải ngươi thích ngưỡng vọng họ sao? Chẳng phải ngươi thích tiếp nhận sự khống chế và thao túng của họ sao? Vậy thì ngươi sẽ bị giao nộp cho họ. Nếu kẻ địch lại Đấng Christ nói gì, ngươi cũng cho là lẽ thật, thì ngươi cứ nghe lời và đi theo họ, ngươi sẽ bị giao nộp cho họ. Nhưng ngươi phải tự chịu trách nhiệm về hậu quả. Nếu một ngày ngươi không được cứu rỗi, thì đừng tìm Đức Chúa Trời hay oán trách Ngài; việc này không liên quan gì đến Đức Chúa Trời. Đó là sự lựa chọn của chính ngươi, và ngươi phải trả giá cho sự lựa chọn của mình.
Chúng ta ít nhiều đã thông công xong về những biểu hiện của việc kẻ địch lại Đấng Christ khống chế mọi người. Mọi người phải hiểu được bị khống chế nghĩa là gì. Có những người, nhìn bề ngoài thì vẫn đang đi theo Đức Chúa Trời, nghe Ngài giảng đạo, ăn uống lời Ngài, sống đời sống hội thánh, làm bổn phận của mình, và chưa rời khỏi nhà Đức Chúa Trời. Vậy tại sao họ lại bị kẻ địch lại Đấng Christ khống chế? Chủ yếu là do họ không có lẽ thật. Đầu tiên, những người này bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc, sau đó lại đặc biệt khâm phục họ, dẫn đến bị họ khống chế. Bị khống chế nghĩa là gì? Có nghĩa là bị họ chi phối và trói buộc. Mặc dù ngươi đang làm bổn phận, nhưng khi tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật trong việc làm bổn phận, ngươi bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc. Những câu nói và quan điểm của họ càng hợp với quan niệm và tưởng tượng của bản thân ngươi, thì ngươi càng cảm thấy đúng và hợp lẽ thật, và ngươi không còn tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật, không còn muốn suy nghĩ độc lập nữa, và không còn thực hành dựa trên lời Đức Chúa Trời nữa. Ngươi cảm thấy những quan điểm của kẻ địch lại Đấng Christ không sai chút nào, và hoàn toàn chứng thực nó trong lòng. Cứ như thế, nếu ngươi thực sự thực hành theo lời Đức Chúa Trời, thì trong lòng ngươi sẽ cảm thấy bất an và không vững vàng. Ngươi cảm thấy làm như vậy là có lỗi với kẻ địch lại Đấng Christ và mình tuyệt đối không thể làm như vậy. Chẳng phải ngươi đang bị những câu nói và quan điểm của kẻ địch lại Đấng Christ trói buộc hoàn toàn sao? Khi làm việc, ngươi không biết cách phán đoán, tìm kiếm hoặc tuân thủ dựa trên lời Đức Chúa Trời. Ngươi không biết cách làm, cũng không dám làm. Tại sao ngươi không biết cách làm, và tại sao ngươi không dám làm? Kẻ địch lại Đấng Christ chưa lên tiếng; họ chưa cho ngươi một quyết sách hay đưa ra kết luận, và họ chưa nói cho ngươi biết kết quả hay chỉ đường cho ngươi. Đó chính là lý do tại sao ngươi không dám làm theo sự lĩnh hội của mình, và ngươi sợ đi sai, sợ làm sai. Chẳng phải ngươi đang bị khống chế sao? Tại sao ngươi lại luôn sợ hãi như vậy? Chẳng lẽ lời Đức Chúa Trời phán chưa rõ ràng sao? Chẳng lẽ lời Ngài không nói cho ngươi biết nguyên tắc hoặc không nói cho ngươi biết làm thế nào sao? Tại sao ngươi lại không nghe theo lời Đức Chúa Trời và nhất quyết nghe theo kẻ địch lại Đấng Christ? Ngươi đang bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và khống chế. Chẳng hạn như Ta bảo một người xây một bức tường, nói cho họ biết chiều cao, chiều dài và vị trí. Rồi một kẻ địch lại Đấng Christ đến và nói: “Chiều cao của bức tường này thì được rồi, nhưng có một vấn đề ở đây. Nếu anh xây như thế này, liệu gió thổi một trận thì nó có thể đổ không?”. Nghe thấy vậy, người này nói: “Đúng vậy, liệu có thể đổ không nhỉ? Đức Chúa Trời không nói, vậy thì tôi chưa xây vội”. Khi Ta tới xem, Ta hỏi: “Tại sao ngươi chưa xây tường? Bao nhiêu ngày rồi mà vẫn chưa xây – ngươi đang trễ nải công việc à?”. Họ đáp rằng có người đã nêu lên một vấn đề, sợ bức tường bị đổ vì gió thổi. Ta lại bảo họ sử dụng một cây cột để đỡ nếu lo ngại gió, và họ ghi nhớ điều đó. Về sau, kẻ địch lại Đấng Christ lại tới quấy nhiễu họ, nói: “Một cây cột có đủ không? Chẳng phải anh nên sử dụng hai cây cột sao?”. Người này suy ngẫm, Đức Chúa Trời chỉ phán sử dụng một cây cột, chứ không phải hai, và họ lại không biết làm sao. Sau khi bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và làm nhiễu loạn, hết thảy những lời trước đó Ta phán đều vô ích, và họ không thể làm nổi công việc này. Chẳng phải điều đó tương đương với việc bị kẻ địch lại Đấng Christ khống chế sao? Ngươi làm việc này thì nên nghe theo ai? (Thưa, nghe theo Đức Chúa Trời.) Vậy tại sao họ lại không nghe theo lời Đức Chúa Trời phán? Có phải là họ không muốn nghe không? Họ muốn nghe, nhưng họ đã bị mê hoặc bởi một loại tà thuyết và luận điệu hoang đường của kẻ địch lại Đấng Christ. Một khi bị mê hoặc, họ sẽ thuận theo kẻ địch lại Đấng Christ, chẳng khác nào bị kẻ địch lại Đấng Christ ép buộc. Nếu hành vi và tư tưởng của ngươi bị kẻ địch lại Đấng Christ ràng buộc và gò bó, thì đó gọi là bị khống chế. Cuối cùng, người này không làm tròn bổn phận của mình, và họ không thuận phục Đức Chúa Trời hay nghe theo lời Ngài. Ai đã gây ra hậu quả này? Do sự ngu muội của họ tạo ra, và cũng không thể tách rời khỏi sự mê hoặc, làm nhiễu loạn và khống chế của kẻ địch lại Đấng Christ. Vậy việc kẻ địch lại Đấng Christ xen ngang vào đây có nghĩa là gì? Họ muốn chứng tỏ sự giỏi giang của mình, và ý họ là: “Tại sao anh lại mù quáng nghe theo đức chúa trời khi ngài bảo anh xây tường này ở đây chứ? Tại sao tư tưởng của anh lại đơn giản như vậy? Nếu anh xây tường ở đây, chẳng phải hễ gió thổi là nó sẽ đổ sao? Nghe theo đức chúa trời không chuẩn bằng nghe theo tôi; anh phải nghe theo tôi. Nếu anh nghe theo tôi, thì tôi sẽ vui vẻ, nhưng nếu anh nghe theo đức chúa trời, thì trong lòng tôi sẽ không thoải mái và tôi sẽ không vui vẻ. Anh nghe theo đức chúa trời thì không được đâu – anh bỏ tôi ở chỗ nào rồi?”. Họ không nói thẳng như vậy; họ xen vào giữa và cố tình quấy rầy như vậy. Sau khi họ quấy rầy, chuyện này không thể hoàn thành nổi, và họ trông thật cao minh, vậy là họ vui mừng. Khi Đức Chúa Trời bảo ai xây tường, thì người đó nên khẩn trương xây lên, nhưng giờ đây kết quả là tường chưa được xây. Ai gây ra kết quả này? Kẻ địch lại Đấng Christ gây ra – người đó đã bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc, quấy nhiễu và khống chế. Chuyện này giống như chuyện con rắn dụ dỗ A-đam và Ê-va. Đức Chúa Trời bảo A-đam và Ê-va rằng: “nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết”. Những lời này của Đức Chúa Trời có phải là lẽ thật không? Đó là lẽ thật, và ngươi không cần hiểu ý nghĩa của nó ở đây; ngươi chỉ cần nghe theo và thuận phục. Dù trong tình huống nào, lời Đức Chúa Trời cũng là bất biến, và nếu Đức Chúa Trời bảo ngươi làm gì thì hãy làm vậy. Đừng phân tích. Cho dù ngươi không hiểu thì cũng phải biết rằng lời Đức Chúa Trời là đúng; ngươi phải hiểu định nghĩa này trong lòng. Nói cách khác, trước hết ngươi phải biết lẽ thật này. Dù lời Đức Chúa Trời có hợp với quan niệm của bản thân ngươi hay không, dù ngươi có hiểu hay không, và dù ngươi hồ đồ đến mức nào, thì ngươi cũng phải giữ chặt lời Ngài. Đây là trách nhiệm và bổn phận của ngươi. Một khi ngươi đã xác định chuẩn rồi, thì khi Sa-tan lại đến dụ dỗ ngươi, ngươi nên làm thế nào? Ngươi nên giữ vững lời Đức Chúa Trời và tuân theo con đường của Ngài – đây là nguyên tắc quan trọng đầu tiên. Hãy phớt lờ những gì Sa-tan nói. Kết quả cuối cùng của việc A-đam và Ê-va nghe theo lời con rắn là gì? Họ đã bị Sa-tan mê hoặc và khống chế. Chỉ với một lời của quỷ như đúng mà lại sai, mơ hồ, Sa-tan đã chi phối và khống chế hành vi của A-đam và Ê-va. Đây là kết quả mà Đức Chúa Trời không muốn thấy. Mục đích của con rắn khi nói câu đó là gì? Thông qua câu nói đó, nó muốn quấy rối tư tưởng của con người, chi phối hành vi của họ và khiến họ không còn nghe theo lời Đức Chúa Trời và từ bỏ lời Ngài. Sau khi con người có tư tưởng sống này, họ sẽ đi theo con đường được chỉ. Mục đích của Sa-tan là gì? Đó là để nói rằng: “Đừng nghe theo những gì đức chúa trời phán. Ngươi phải nghe theo ta; ngươi phải ăn trái cây này”. Ý của Đức Chúa Trời không cho họ ăn, trong khi ý của Sa-tan là cho họ ăn. Cuối cùng, A-đam và Ê-va có ăn trái cây đó không? (Thưa, có.) Đây chính là cách Sa-tan khống chế con người. Khi nghe theo lời của quỷ của kẻ địch lại Đấng Christ, ngươi có thể bị quấy nhiễu đến choáng váng đầu óc, không biết Đông Nam Tây Bắc, và có khả năng không nghe theo lời Đức Chúa Trời. Vậy thì chẳng phải hành vi và tư tưởng của ngươi đã bị chi phối và khống chế sao? Đây chính là ý nghĩa của khống chế. Các ngươi đã bao giờ gặp phải những tình huống như vậy chưa? Có những người có ý không tốt thấy ngươi làm một chuyện gì đó rất suôn sẻ và sắp có thành quả, sắp được nhìn nhận, và họ thấy họ sẽ không thể tham gia gì trong việc này. Nếu ngươi được nhìn nhận, thì họ sẽ không được nhìn nhận, nên họ đưa ra những quan điểm như đúng mà lại là sai hoặc những câu hỏi để mê hoặc, quấy nhiễu và khống chế ngươi. Kết quả là ngươi trở nên hồ đồ, cảm thấy lời họ cũng đúng. Ngươi không biết phải làm sao nữa và bổn phận không thể tiến hành thì dừng lại. Đó chẳng phải là ngu ngốc sao? Ban đầu, khi ngươi chưa bị mê hoặc, đầu óc ngươi khá tỉnh táo và biết phải làm thế nào, nhưng ngay khi bị kẻ địch lại Đấng Christ quấy nhiễu, ngươi trở nên hồ đồ và không biết xử lý sao cho phù hợp. Vấn đề ở đây là gì? (Thưa, bị mê hoặc.) Những người dễ dàng bị kẻ địch lại Đấng Christ hay Sa-tan mê hoặc và khống chế là những người ngu muội, hồ đồ. Về những biểu hiện của việc kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và khống chế mọi người, mối thông công của chúng ta đã đủ cụ thể chưa? Các ngươi nên nghe hiểu được rồi, và khi có chuyện xảy đến, các ngươi nên đối chiếu với các loại lẽ thật để phản tỉnh về lời nói, hành động và thực chất của mình. Đồng thời, các ngươi nên nhận biết và phân định được những con người, sự việc và sự vật xung quanh để đạt đến hiểu rõ lẽ thật hơn và nhận biết chính xác hơn về thực chất bản tính của những người khác nhau.
Hiện nay, nhiều người trong các ngươi chỉ mới tiếp xúc với những trạng thái và biểu hiện cụ thể của các lẽ thật khác nhau. Tại sao Ta lại nói rằng các ngươi chỉ mới tiếp xúc? Đó là bởi vì các ngươi chỉ mới bắt đầu hiểu được một ít chi tiết, nhưng vẫn còn một chặng đường để đi mới có thể thực sự bước vào. Hiểu không tương đương với bước vào. Khi ngươi hiểu, thì chỉ có nghĩa rằng sự lý giải về các khái niệm và định nghĩa của những chuyện này trong lòng ngươi chuẩn xác và ăn khớp hơn với lẽ thật, nhưng ngươi vẫn còn cách xa lối vào của mình. Việc nghe hiểu, nhận thức và có thể kết hợp những việc này với tình trạng của ngươi, và với những con người, sự việc và sự vật xung quanh ngươi, không có nghĩa rằng ngươi đã bước vào. Đây là hai chuyện khác nhau. Để con người được cứu rỗi và đạt đến thay đổi tâm tính, thì phải bắt đầu từ việc hiểu được các phương diện lẽ thật, và việc bước vào thực tế lẽ thật bắt đầu từ việc thực hành các lẽ thật khác nhau. Nếu các ngươi đã có một nền tảng nhất định trong việc nhận thức và bước vào các lẽ thật khác nhau, thì khi Ta yêu cầu nêu ví dụ, các ngươi có thể lập tức nghĩ tới những biểu hiện của chính mình, hoặc một số chuyện mình đã thấy và trải nghiệm. Vậy thì Ta thông công sẽ bớt việc hơn nhiều, và Ta sẽ không phải phán chi tiết như vậy nữa bởi vì các ngươi đã được trải nghiệm và có thể với tới rồi. Tuy nhiên, hiện tại khi Ta hỏi, các ngươi đều phải suy nghĩ tại chỗ, và cũng phải lục tìm trong trí nhớ của mình. Khi Ta thấy các ngươi không biết những chuyện này và chưa đích thân trải nghiệm, thì Ta phải giải thích chi tiết, phải phán một cách thấu đáo những thứ trọng tâm và cốt lõi, cũng như những vấn đề mang tính thực chất của những việc này, đồng thời cho các ngươi một sự lý giải cơ bản về những chi tiết của các lẽ thật khác nhau, để các ngươi không lẫn lộn những thứ mang tính khái niệm hoặc định nghĩa khi thực hành, và để các ngươi không trộm đổi khái niệm hoặc cảm thấy những điều này quá phức tạp – các ngươi sẽ có thể phân biệt rõ ràng từng mục một. Như vậy, lần tới Ta thông công về những điều này sẽ dễ dàng. Hiện tại các ngươi vẫn chưa đủ trình độ, nên Ta luôn phải giải thích chi tiết. Các ngươi có thể nghiền ngẫm và hấp thụ được bao nhiêu nội dung thông công trong các buổi nhóm họp của chúng ta? Nếu chỉ là mười phần trăm thì các ngươi gần như không có chút vóc giạc nào, còn nếu là ba mươi phần trăm thì các ngươi mới chỉ hiểu được một chút. Nếu các ngươi đạt đến năm mươi phần trăm thì đã có vóc giạc và sự bước vào nhất định, nhưng nếu các ngươi không thể đạt đến mức đó thì chưa hề có sự bước vào. Các ngươi hiểu chưa? Nếu các ngươi vẫn nghe không hiểu khi Ta thông công như thế này, thì có nghĩa là tố chất của các ngươi quá kém, và các ngươi không cách nào hiểu được lẽ thật. Được rồi, mối thông công của chúng ta ngày hôm nay kết thúc tại đây. Tạm biệt!
Ngày 17 tháng 4 năm 2019