Mục 4. Họ đề cao và làm chứng cho bản thân

Phần bổ sung: Săn chuột

Gần đây, Ta nghe nói về một chuyện mới. Hãy lắng nghe và suy nghĩ xem chuyện này liên quan gì đến hành vi và tâm tính của con người, câu chuyện này nói về điều gì, và minh họa kiểu vấn đề gì. Có những người Trung Quốc, sau khi đến Hoa Kỳ, thì ngoài việc thấy môi trường và bầu không khí xã hội nơi đây khác xa Trung Quốc, còn một điều khác mà họ thấy rất thú vị. Đó là ở đất nước này, không những con người được tự do, mà muôn loài sinh vật cùng động vật cũng đều rất tự do, không ai làm hại chúng. Sự tự do của con người đương nhiên là sản phẩm của chế độ xã hội, vậy thì sự tự do cho muôn loài sinh vật và động vật là do đâu mà có? Nó có liên quan đến chế độ xã hội không? (Thưa, có.) Nó liên quan đến cách chế độ xã hội và chính sách của chính phủ bảo vệ cũng như quản lý toàn bộ môi trường tự nhiên. Ở đây, động vật hoang dã khắp nơi đều có, khắp nơi đều có thể thấy được. Chẳng hạn như có thể thấy ngỗng trời ăn cỏ trên đồng cỏ bên cạnh đường cao tốc, rồi có những công viên, đồng cỏ và khu rừng mà có thể thấy một số con nai, gấu hoặc chó sói, cũng như gà tây, gà lôi và đủ loài chim cùng động vật hoang dã khác. Khi nhìn thấy cảnh tượng như thế, ấn tượng đầu tiên của người ta là gì? (Thưa, họ cảm thấy mình nhìn thấy thiên nhiên.) Và khi nhìn thấy thiên nhiên, họ có cảm tưởng gì? Chẳng phải họ sẽ nói thế này sao: “Nhìn đất nước của họ này. Không những con người được tự do, mà ngay cả động vật ở đây cũng được tự do. Tái sinh làm động vật ở nơi đây còn tốt hơn cả sống làm người ở Trung Quốc, bởi vì ở đây ngay cả động vật cũng được tự do, không ai xâm hại”? Chẳng phải họ sẽ có cảm tưởng như thế sao? (Thưa, phải.) Đối với những người đã sống ở đây một thời gian dài, thì những điều này nhìn nhiều thành quen, chẳng có gì lạ lùng; họ cho rằng những điều này rất đỗi bình thường. Nhưng đối với một số người, sau khi đã trở nên quen thuộc với kiểu môi trường này, thì trong họ bắt đầu nảy sinh một số tư tưởng xáo động: “Những động vật này đều quá tự do, không ai giám sát hay trông coi cả, vậy mình có thể bắt về ăn thịt được không? Nếu ăn thịt được thì tuyệt quá, nhưng mà không thể làm bừa được, nhỡ chúng được pháp luật bảo vệ thì sao? Phải tìm hiểu cái này đã”. Sau khi kiểm tra thông tin, họ thấy pháp luật quy định rõ ràng rằng động vật hoang dã được luật pháp quốc gia nhất loạt bảo vệ, và không được tùy ý săn bắn, giết hại. Nếu muốn săn bắn động vật thì phải săn bắn trong khu vực săn thú do nhà nước quy định; cần có giấy phép nữa, và khi bắt được thì có thể phải nộp phí. Tóm lại, luật pháp bảo vệ những động vật hoang dã này và có văn bản quy định rõ ràng. Có những người không hiểu nổi luật bảo vệ động vật hoang dã, và ngẫm nghĩ: “Toàn là đặc sản thịt rừng thế này mà chính phủ không cho phép chúng ta tùy ý bắt về ăn. Tiếc thế! Ở Trung Quốc, chẳng ai quan tâm đến chuyện này: ‘Không ai tố giác thì chính quyền không điều tra’. Chỉ cần không ai biết là có thể bắt một con về ăn. Nhưng ở một quốc gia dân chủ thì không làm thế được. Ở đây có quy định pháp luật, không thể muốn làm gì thì làm trên đất người ta được. Nhưng những động vật này đều là thịt rừng; chỉ được nhìn mà không được ăn, tiếc thế! Cần phải nghĩ giải pháp. Làm sao để có thể ăn thịt những thú rừng này mà không bị ai phát hiện và không vi phạm pháp luật nhỉ?”. Có những người liền nghĩ ra một chiêu, nói: “Hay là ta làm một cái lồng và bỏ chút đồ ăn ngon vào để dụ động vật, bắt được vài con nho nhỏ như thỏ rừng chẳng hạn, rồi tìm nơi vắng vẻ để làm thịt ăn, như vậy sẽ không vi phạm pháp luật, chẳng phải sao? Những động vật nhỏ đó không được nhà nước bảo vệ, luật pháp cũng không có quy định cụ thể. Làm vậy thì mình có thể ăn thịt rừng, lại đảm bảo không vi phạm pháp luật. Vẹn cả đôi đường”. Sau khi có ý tưởng này, họ làm một cái lồng và bắt đầu săn. Chưa được hai ngày thì một con chuột chui vào lồng, và họ vội làm thịt ăn, cảm giác đúng là thịt rừng! Ăn xong, họ đi đến kết luận gì? “Thịt rừng khá ngon. Từ giờ trở đi, mình sẽ nghĩ thêm cách để ăn những loại thú rừng khác. Chỉ cần không vi phạm pháp luật thì cứ ăn, sợ gì”. Câu chuyện đến đây là hết.

Có những người hỏi: “Đây là chuyện thật hay bịa vậy?”. Hiện giờ đừng lo đó là chuyện thật hay bịa, có thực sự xảy ra hay không. Mà chỉ suy nghĩ xem dựa trên câu chuyện này, thì những người làm những chuyện như vậy có vấn đề gì. Làm dạng chuyện này có phải là một sai lầm nghiêm trọng không? Có bị xem là vi phạm pháp luật không? Có bị xem là vô đạo đức không? (Thưa, có.) Nó đi ngược lại đạo đức, hay đi ngược lại nhân tính, hay đi ngược lại điều gì khác? Đầu tiên, nói Ta nghe: Dạng hành vi này là đáng khen hay đáng chê? Các ngươi đứng về phía nào? (Thưa, đáng chê.) Bất kể nó đi ngược lại đạo đức, đi ngược lại pháp luật hay đi ngược lại nhân tính, thì dù thế nào đi nữa, dạng hành vi này cũng không tốt, và không phải là hành vi của người có nhân tính. Vậy thì nó là gì? Kiểu tâm tính hoặc hành vi này có phải là một vấn đề nghiêm trọng không? Dựa trên tiêu chuẩn của chính mình, các ngươi đánh giá chuyện này như thế nào? Trong cuộc sống thường ngày và trong mọi nhóm người, kiểu hành vi này có phổ biến không? (Thưa, có.) Đó không phải là hành động đại gian hay đại ác, nhưng nó không phù hợp, và không phải là biểu hiện mà người có nhân tính bình thường nên có. Chính xác thì đó là dạng biểu hiện gì? Hãy phân loại nó. Đây là kiểu hành vi gì? Có nên khuyến khích không? (Thưa, không.) Nó không đáng khuyến khích và không được mọi người khen ngợi, vì thế nó nên bị chê trách và khinh miệt. Kiểu hành vi này là phổ biến, thường xuất hiện trong đủ mọi nhóm người và cuộc sống thường ngày, thường được quan sát thấy, và có những người thường xuyên làm những việc kiểu này. Vậy thì nó đáng được tách ra thảo luận, từ đó cho phép mỗi người có một định nghĩa chuẩn xác về chuyện này, và tốt nhất là tránh xa kiểu hành vi này, chẳng phải sao? Như vậy chẳng tốt sao? (Thưa, phải.) Vậy thì hãy cùng định nghĩa nó – đây là loại hành vi gì? Nó có phải là kiêu ngạo không? Nó có phải là cương ngạnh không? Nó có phải là giả dối không? (Thưa, không.) Nó có phải là tà ác không? (Thưa, có chút.) Nó có phần gần với tà ác. Trong những từ mà các ngươi đã học và lĩnh hội được, có từ nào có thể định nghĩa được loại hành vi này không? (Thưa, đê tiện.) Đê tiện, nó có chút tính chất này. Từ này chứa đựng loại hành vi và thực chất này, nhưng không khái quát nó được một cách toàn bộ và trọn vẹn. Hành vi này không thể được xem là ác độc, bởi vì nếu giết một con chuột là ác độc, thì diệt chuột sẽ là việc tiêu cực. Diệt chuột là việc tích cực; chuột gây hại cho con người, nên diệt chuột là đúng. Nhưng chẳng phải có sự khác biệt giữa việc diệt chuột và ăn thịt chuột sao? (Thưa, phải.) Vậy thì có thể khái quát dạng hành vi này như thế nào? Các ngươi có thể nghĩ về những từ nào liên quan đến dạng hành vi này? (Thưa, bẩn thỉu.) (Thưa, nhân cách thấp hèn.) Nhân cách thấp hèn, đê tiện, và bẩn thỉu. Trong cuộc sống thường ngày, từ nào được dùng để khái quát hành vi thấp hèn, không phù hợp? (Thưa, vô lại.) Từ “vô lại” khái quát chính xác và sâu sắc loại hành vi này. Tại sao lại định nghĩa nó là “vô lại”? Nếu nói nó là đê tiện, ích kỷ hay bẩn thỉu, thì đó chỉ là một dạng biểu hiện mà kẻ vô lại bộc lộ. Từ “vô lại” chứa đựng nhiều ý nghĩa – đê tiện, bỉ ổi, bẩn thỉu, ích kỷ, vô đạo đức, cư xử không có khuôn phép, không quang minh chính đại, mà thay vào đó hành động lén lút và toàn làm những việc không đúng đắn. Đó là những hành vi và biểu hiện khác nhau của kẻ vô lại. Chẳng hạn như người bình thường mà muốn làm việc gì đó, chỉ cần nó là việc chính đáng thì họ sẽ làm một cách đĩnh đạc, còn nếu nó vi phạm pháp luật thì họ sẽ từ bỏ, không làm. Kẻ vô lại thì không như thế; họ sẽ không từ thủ đoạn để đạt được mục đích và có những chiến lược để đối phó với hạn chế của pháp luật. Họ lách luật và tìm trăm phương ngàn kế để đạt được mục đích, bất kể làm vậy có hợp luân thường đạo lý, đạo đức hoặc nhân tính hay không, bất kể hậu quả là gì. Họ không hề quan tâm, mà chỉ tìm cách đạt được mục đích, không từ thủ đoạn. Đây là “vô lại”. Kẻ vô lại có bất kỳ nhân cách hay tôn nghiêm nào không? (Thưa, không.) Họ là người cao quý hay thấp hèn? (Thưa, thấp hèn.) Họ thấp hèn như thế nào? (Thưa, cách hành xử của họ không có ranh giới đạo đức nào cả.) Đúng vậy, dạng người này không có ranh giới hay nguyên tắc nào trong cách làm người; họ không suy xét hậu quả, muốn gì làm nấy. Họ không quan tâm đến pháp luật, đến đạo đức, đến việc liệu lương tâm họ có chấp thuận hành động của họ hay không, hoặc liệu có ai chê trách, phán xét hoặc lên án họ hay không. Họ bàng quang với tất cả những điều này, và không bận tâm, miễn sao mình có lợi và hưởng thụ là được. Cách làm của họ thì bỉ ổi, tư tưởng thì đê hèn, và cả hai đều đáng xấu hổ. Đây chính là vô lại. Có thể thay thế từ “vô lại” bằng những biểu hiện của một số tâm tính mà chúng ta đã nói trước đây không? Sẽ không phù hợp lắm. Từ “vô lại” rất đặc thù, vậy thì kẻ vô lại có phải là một kiểu người đặc thù không? Không. Trong các ngươi có gì vô lại không? (Thưa, có.) Biểu hiện cụ thể của nó là gì? (Thưa, có lúc họ rửa mặt xong, nước vương vãi khắp mặt bồn mà họ không lau. Ăn xong thì họ không lau dọn cơm canh vãi trên bàn. Khi quần áo bẩn, họ quẳng vào một góc ở đâu đó mà không gấp lại. Con nghĩ rằng đó cũng là những biểu hiện của vô lại.) Thực ra, những cái đó đều là tiểu tiết của cuộc sống hằng ngày, và việc mất vệ sinh không thực sự là vô lại, nó liên quan đến việc sống thể hiện ra nhân tính của người ta. Nếu ở trong tập thể mà không làm những việc có lợi cho người khác, nếu không có giáo dưỡng hoặc không có khuôn phép, khiến người ta phản cảm và ghét bỏ, đi đâu cũng không biết tuân thủ khuôn phép hoặc chế độ, và không có ý thức này, thì chẳng phải nhân tính đang khiếm khuyết điều gì đó sao? (Thưa, phải.) Khiếm khuyết điều gì? Khiếm khuyết lý trí. Chẳng phải những người như thế này không có tôn nghiêm sao? (Thưa, phải.) Họ không có tôn nghiêm, không có nhân cách và không có giáo dưỡng. Nó liên quan đến ranh giới làm người của con người và việc sống thể hiện ra nhân tính bình thường. Những tiêu chuẩn này mà còn không đáp ứng được, thì làm sao có thể thực hành lẽ thật được? Làm sao có thể làm vinh hiển Đức Chúa Trời được? Làm sao có thể hành động theo các nguyên tắc lẽ thật được? Họ còn rất xa mới có thể làm được bất kỳ việc gì trong số đó. Dạng người này không có lương tâm hoặc lý trí – có dễ quản lý họ không? Có dễ để họ thay đổi không? Hoàn toàn không dễ. Làm sao để họ có thể thay đổi? Điều đó sẽ tùy thuộc vào sự giám sát, ràng buộc và nhắc nhở của mọi người đối với họ. Trong những trường hợp nghiêm trọng, tất cả mọi người đều phải đứng lên phê bình họ. Mục đích của việc phê bình này là gì? Đó là để trợ giúp họ, để giúp họ làm người cho tốt và không còn làm những chuyện ô nhục, lố lăng nữa. Vậy rốt cuộc tính vô lại là nói đến điều gì? Các triệu chứng và biểu hiện chủ yếu của nó là gì? Hãy xem Ta khái quát có chuẩn xác không nhé. Người có tính vô lại thì tương đương với thứ gì? Họ tương đương với thú hoang chưa được thuần chủng, không có giáo dưỡng. Và những biểu hiện chủ yếu của điều này là kiêu ngạo, lỗ mãng, không có sự ràng buộc, làm xằng làm bậy, không tiếp nhận một chút lẽ thật nào, cũng như muốn làm gì thì làm, ai nói cũng không nghe, ai quản lý cũng không được, ai cũng dám chống lại, và không xem ai ra gì. Nói Ta nghe, những biểu hiện khác nhau của sự vô lại có nghiêm trọng không? (Thưa, có.) Ít nhất thì tâm tính kiêu ngạo, không có lý trí và làm xằng làm bậy này rất nghiêm trọng. Cho dù bề ngoài, người như thế này có vẻ không làm những chuyện xét đoán hoặc chống đối Đức Chúa Trời, nhưng do tâm tính kiêu ngạo, nên họ cực dễ hành ác và chống đối Ngài. Mọi hành động của họ đều là sự bộc lộ của những tâm tính bại hoại. Khi trở nên vô lại đến một mức độ nhất định, người ta sẽ trở thành thổ phỉ, ma quỷ, và thổ phỉ, ma quỷ thì sẽ không bao giờ tiếp nhận lẽ thật – chúng chỉ có thể bị hủy diệt.

Việc nói về câu chuyện này có giá trị gì không? (Thưa, có.) Mặc dù câu chuyện này không động chạm đến thực chất bản tính hoặc tâm tính của con người, nhưng nó liên quan đến hành vi của con người, không hẳn là quá khác biệt hoặc tách biệt với thực chất của con người. Câu chuyện này nên được gọi là gì? Hãy cùng đặt cho nó một cái tên có tính chất ngụ ý và không quá trực tiếp. (Thưa, Săn chuột.) “Săn chuột” là một cái tên khá hay. Có người bắt được một con chuột theo cách “danh chính ngôn thuận” và nói: “Biết làm sao được? Nó chạy vào đây chứ, thật thương cho nó. Nó lại còn bị thương nữa. Nếu chạy ra ngoài trở lại, nó sẽ chết, rồi kiểu gì những động vật khác cũng sẽ ăn thịt nó thôi, không bằng để mình ăn cho rồi. Mình ăn như vậy chẳng phải là danh chính ngôn thuận sao?”. Để ăn thịt con chuột đó, họ đã viện ra không ít cái cớ và lý do, rồi ăn thịt nó với lương tâm yên ổn. Đây là vô lại. Đâu phải là người dân ở Mỹ không được ăn thịt, nên không đáng để trải qua đủ mọi rắc rối đó và bỏ hết công sức đó ra làm việc như vậy. Kẻ vô lại thì làm những việc như thế này. Người bình thường có làm những việc như thế này không? Người có nhân tính và nhân cách có làm những việc như thế này không? (Thưa, không.) Tại sao họ không làm? Nó liên quan đến nhân cách. Những người mà bản tính là phường trộm cắp không thể cải tạo thì luôn ăn trộm, ăn cắp vặt và làm những việc đáng xấu hổ. Có phải là ở nhà họ thiếu đồ không? Không hẳn. Vì họ có tính vô lại, nên họ phải trộm cắp, dựa vào việc trộm cắp để thỏa mãn ý thích của bản thân và tâm tính tham lam không đáy. Làm những việc này giúp xoa dịu lòng họ. Nếu không làm những việc như thế này, họ sẽ cảm thấy khó chịu. Đây chính là tính vô lại. Bây giờ, Ta sẽ khép lại câu chuyện này và chuyển sang chủ đề chính.

Trước khi Ta nói về chủ đề chính, thì đầu tiên, hãy cùng suy ngẫm về nội dung của mối thông công lần trước. Những bổn phận mà dân được Đức Chúa Trời chọn thực hiện có thể được chia thành sáu loại chính. Chúng ta đã thảo luận xong về loại thứ nhất, đó là những người thực hiện bổn phận rao truyền phúc âm. Loại thứ hai là những người thực hiện bổn phận của lãnh đạo và người làm công các cấp trong hội thánh. Những người thuộc loại này về cơ bản có thể được chia thành hai loại chính, và lần trước chúng ta đã nói về một trong hai loại này, đó là kẻ địch lại Đấng Christ. Kẻ địch lại Đấng Christ làm việc như thế nào, có những biểu hiện nào và làm những việc gì mà có thể được định nghĩa là kẻ địch lại Đấng Christ – chúng ta đã phân loại những biểu hiện và tâm tính này của kẻ địch lại Đấng Christ. Có những mục cụ thể nào? (Thưa, mục 1. Họ làm lung lạc lòng người; mục 2. Họ tấn công và loại trừ những người bất đồng quan điểm với mình; mục 3. Họ loại trừ và tấn công những ai theo đuổi lẽ thật; mục 4. Họ đề cao và làm chứng cho bản thân; mục 5. Họ mê hoặc, lôi kéo, đe dọa và kiểm soát mọi người.) Lần trước, chúng ta đã khái quát năm mục, và các ngươi đã ghi lại hết rồi. Bây giờ, hãy ghi lại các mục tiếp theo. Mục 6. Họ làm việc kỳ dị, độc đoán chuyên quyền, không bao giờ thông công với người khác, và buộc người khác phải thuận phục mình; mục 7. Họ tà ác, nham hiểm và giả dối; mục 8. Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời; mục 9. Họ thực hiện bổn phận chỉ để làm bản thân nổi bật và thỏa mãn những lợi ích và dã tâm của riêng mình; họ không bao giờ suy xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thậm chí bán rẻ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời để đổi lấy vinh quang cá nhân; mục 10. Họ xem thường lẽ thật, ngang nhiên vi phạm các nguyên tắc và phớt lờ những sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời; mục 11. Họ không chấp nhận bị tỉa sửa, làm sai chuyện gì cũng không có thái độ hối cải, thay vào đó lại lan truyền quan niệm và công khai xét đoán Đức Chúa Trời; mục 12. Họ muốn rút lui khi không có được địa vị và hết hy vọng được phúc; mục 13. Họ không chỉ khống chế lòng người, mà còn khống chế tài chính của hội thánh; mục 14. Họ xem nhà Đức Chúa Trời như thiên hạ của mình; mục 15. Họ không tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, và phủ nhận thực chất của Đấng Christ. Tổng cộng có 15 mục, và tất cả đều mổ xẻ, vạch trần những biểu hiện khác nhau của kẻ địch lại Đấng Christ. 15 mục này về cơ bản khái quát những dạng hành vi, biểu hiện và tâm tính khác nhau của kẻ địch lại Đấng Christ. Một số thì bề ngoài có vẻ là hành vi, nhưng đằng sau những hành vi này là thực chất tâm tính ẩn bên dưới của kẻ địch lại Đấng Christ. Về nghĩa đen, chẳng phải 15 mục này dễ hiểu sao? Tất cả đều được diễn đạt bằng ngôn ngữ đơn giản, một mặt thì dễ hiểu, mặt khác, những gì mỗi mục khái quát đều liên quan đến những biểu hiện, sự bộc lộ và thực chất của con người. Mỗi mục đều là một loại tâm tính, chứ không phải là hành vi hoặc ý nghĩ nhất thời. Tâm tính là gì? Có thể giải thích tâm tính là gì như thế nào? Tâm tính là khi, bất kể người ta đi đâu, thì những ý nghĩ, tư tưởng, nguyên tắc hành sự, phương thức hoạt động và mục tiêu họ đang mưu cầu cũng không vì sự thay đổi của thời gian và vị trí địa lý mà thay đổi theo. Nếu ngay khi hoàn cảnh thay đổi, cách hành sự của người ta cũng biến mất, thì đó không phải là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại, mà chỉ là hành vi nhất thời. Một tâm tính thực sự nghĩa là gì? (Thưa, nó có thể chi phối con người bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu.) Đúng vậy, nó có thể chi phối lời nói và hành động của con người bất kể thời gian và nơi chốn, mà không bị ràng buộc hoặc ảnh hưởng bởi điều kiện; đó chính là thực chất. Thực chất là cái mà con người dựa vào để sinh tồn; nó không thay đổi theo sự thay đổi của thời gian, địa điểm hoặc các nhân tố bên ngoài khác. Đây chính là thực chất của con người. Có những người nói: “Con ít nhiều đều có tất cả 15 biểu hiện này của kẻ địch lại Đấng Christ mà Ngài tổng kết, nhưng con không mưu cầu địa vị và trời sinh vốn không có dã tâm gì. Ngoài ra, hiện con cũng không gánh vác bất kỳ trách nhiệm nào. Con không phải là lãnh đạo hay người làm công, và con không thích xuất đầu lộ diện, vậy thì chẳng phải thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ không liên quan đến con sao? Nếu không liên quan thì chẳng phải con không cần nghe những mối thông công này hoặc đối chiếu chúng với bản thân mình sao?”. Thực tế có phải vậy không? (Thưa, không.) Vậy thì nên tiếp cận những biểu hiện này của kẻ địch lại Đấng Christ như thế nào? Nên tiếp cận những lẽ thật được thông công về những biểu hiện này như thế nào? Con người phải từ trong những mối thông công này mà hiểu lẽ thật và biết mình, sau đó tìm ra được con đường đúng đắn, và đi đến chỗ có được các nguyên tắc khi thực hiện bổn phận của mình và phụng sự Đức Chúa Trời. Chỉ như vậy mới có thể thoát ly con đường của kẻ địch lại Đấng Christ và dấn bước trên con đường được hoàn thiện. Nếu các ngươi có thể đối chiếu những biểu hiện này của kẻ địch lại Đấng Christ với bản thân, thì nó sẽ là một lời cảnh báo, nhắc nhở, vạch trần và phán xét đối với các ngươi. Nếu các ngươi không thể đối chiếu với bản thân, nhưng có thể cảm nhận được rằng mình cũng có những tình trạng tương tự, thì các ngươi nên cố gắng phản tỉnh và biết mình nhiều hơn, đồng thời tìm kiếm lẽ thật để giải quyết những tình trạng đó. Như vậy cũng có thể dần dần thoát khỏi những tâm tính bại hoại của mình và tránh bước đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ.

Mổ xẻ về cách kẻ địch lại Đấng Christ đề cao và làm chứng cho bản thân

Mối thông công ngày hôm nay là về mục thứ tư trong các biểu hiện khác nhau của kẻ địch lại Đấng Christ: đề cao và làm chứng cho bản thân. Tâng bốc và làm chứng cho chính mình, khoe khoang bản thân, cố khiến người khác đề cao và sùng bái mình – loài người bại hoại hoàn toàn có thể làm những việc đó. Đây là cách con người phản ứng theo bản năng khi họ bị thao túng bởi bản tính Sa-tan của mình, và điều này rất phổ biến trong toàn nhân loại bại hoại. Bình thường, người ta đề cao và làm chứng cho mình như thế nào? Người ta đạt đến mục đích khiến mọi người xem trọng và sùng bái mình như thế nào? Họ làm chứng về việc mình đã có bao nhiêu công, chịu bao nhiêu khổ, dành trọn bao nhiêu, trả giá bao nhiêu. Họ dùng cách nói về vốn liếng để đề cao bản thân, khiến địa vị của bản thân trong lòng người khác ngày một cao hơn, vững hơn, ổn định hơn, từ đó khiến càng nhiều người tán thưởng, xem trọng, ngưỡng mộ họ, thậm chí là sùng bái, ngưỡng vọng và đi theo họ. Vì mục đích này mà bề ngoài người ta làm nhiều việc làm chứng cho Đức Chúa Trời, nhưng về thực chất, đó là đề cao và làm chứng cho mình. Làm như thế thì có lý trí không? Làm như thế là ra khỏi phạm vi của lý trí rồi, không còn liêm sỉ nữa. Cụ thể là không biết xấu hổ mà làm chứng rằng bản thân mình đã vì Đức Chúa Trời mà làm bao nhiêu việc, chịu bao nhiêu khổ, thậm chí khoe khoang mình có ân tứ gì, tài cán gì, kỹ năng đặc biệt gì, có kinh nghiệm gì, cao chiêu xử thế và thủ đoạn lừa người gì, v.v.. Thủ đoạn để đề cao và làm chứng cho mình là khoe khoang bản thân, hạ thấp người khác, còn có ngụy trang và che đậy bản thân, không để người khác thấy ra được nhược điểm, khuyết điểm và thiếu sót của mình, mà thay vào đó khiến người khác thấy mặt mãi mãi đẹp đẽ sáng ngời của mình. Thậm chí khi tiêu cực, họ cũng không dám nói cho người khác biết hay mở lòng thông công, khi làm sai thì cố hết sức mà lấp liếm, che đậy. Khi gây tổn hại cho công tác của hội thánh trong quá trình làm bổn phận thì họ không hề nhắc tới, còn khi có được chút cống hiến, có được chút thành tích thì liền đi khoe khoang, chỉ hận là không thể khiến hết thảy mọi người trên đời biết mình nhiều tài cán thế nào, tố chất cao làm sao, khác với người thường thế nào, cao hơn người thường thế nào. Đây không phải là một cách đề cao và làm chứng cho mình sao? Dạng hành vi đề cao và làm chứng cho mình như thế có phải là việc làm của người có lương tâm và lý trí không? Không phải. Vậy người làm những việc này thì thường bộc lộ tâm tính gì. Kiêu ngạo, đây là tâm tính chủ yếu nhất, tiếp theo là giả dối, nghĩa là nghĩ đủ mọi cách để khiến người khác xem trọng mình, nói năng không chút kẽ hở, nói năng hoàn toàn có ý định và quỷ kế, khoe khoang bản thân, còn muốn người ta nhìn không ra họ đang làm vậy. Hậu quả của cách nói chuyện này là khiến người ta cảm thấy họ cao hơn người khác, chẳng có ai được như họ, ai mà đứng trước mặt họ thì phải kém họ ba phần. Hậu quả này có phải là do dùng thủ đoạn mà đạt được không? Đằng sau dạng thủ đoạn này là tâm tính gì? Trong đó có yếu tố tà ác không? (Thưa, có.) Đây là một dạng tâm tính tà ác. Có thể thấy rằng những thủ đoạn mà họ sử dụng này là do tâm tính giả dối chi phối – tại sao Ta lại gọi nó là tà ác? Điều này liên quan gì đến sự tà ác? Theo các ngươi, họ có thể công khai mục đích của họ khi đề cao và làm chứng cho bản thân không? Họ không thể. Nhưng trong sâu thẳm nội tâm, họ luôn có một loại dục vọng, lời nói, việc làm của họ là để phục vụ cho dục vọng đó, và mục đích, động cơ trong lời nói, việc làm của họ được giữ bí mật rất kỹ. Chẳng hạn như họ sẽ sử dụng thuật dương đông kích tây hoặc một số thủ đoạn ám muội để đạt được những mục đích này. Giữ bí mật như thế thì chẳng phải là có tính chất kỳ dị sao? Sự kỳ dị như thế chẳng phải có thể gọi là tà ác sao? (Thưa, phải.) Quả thực có thể gọi nó là tà ác, và nó ăn sâu hơn sự giả dối. Họ sử dụng phương pháp hoặc thủ đoạn nhất định để đạt được mục đích của mình. Tâm tính này là giả dối. Tuy nhiên, dã tâm và dục vọng nơi sâu thẳm nội tâm họ về việc luôn muốn khiến mọi người đi theo, ngưỡng vọng và tôn sùng họ, lại thường xuyên chi phối họ đề cao và làm chứng cho bản thân, làm những việc này một cách không từ thủ đoạn và vô liêm sỉ. Tâm tính này là gì? Nó đã lên đến mức tà ác. Tà ác không chỉ là lòng dạ hẹp hòi thông thường, hay là giả dối và nói dối. Nếu người ta có thể đi từ sự bại hoại thông thường lên đến mức tà ác, thì chẳng phải có nghĩa rằng họ đã bị bại hoại sâu sắc hơn sao? (Thưa, phải.) Vậy thì hãy mô tả mức độ tà ác – nói thế nào cho phù hợp? Tại sao người ta lại đi từ sự bại hoại thông thường lên đến mức tà ác? Các ngươi có thể nhìn thấu được chuyện này không? Sự khác biệt giữa giả dối và tà ác là gì? Về mặt biểu hiện, thì tà ác và giả dối liên quan mật thiết với nhau, nhưng tà ác nghiêm trọng hơn – nó là giả dối đến tột độ. Nếu nói một người là có tâm tính tà ác, thì người này không phải là giả dối bình thường, vì giả dối bình thường chỉ có thể có nghĩa rằng họ là người quen nói dối hoặc không trung thực lắm trong việc làm, trong khi tà ác nghiêm trọng hơn và nằm ở mức độ sâu hơn so với giả dối. Sự giả dối của ai đó có tâm tính tà ác thì lớn hơn và nghiêm trọng hơn so với sự giả dối của người bình thường; những thủ đoạn và phương thức làm việc của họ, cũng như mưu mô đằng sau việc làm của họ, hết thảy đều giảo hoạt và bí mật hơn; và người bình thường thì không thể nhìn thấu được họ. Đây chính là tà ác.

Việc đề cao và làm chứng cho bản thân của kẻ địch lại Đấng Christ khác so với của người bình thường như thế nào? Người bình thường hay khoe khoang và thể hiện để khiến mọi người coi trọng họ, và cũng sẽ có biểu hiện của những tâm tính và tình trạng này, vậy thì việc đề cao và làm chứng cho bản thân của kẻ địch lại Đấng Christ khác so với của người bình thường như thế nào? Sự khác biệt nằm ở đâu? Ngươi phải rõ về điều này – đừng quy kết hết mọi biểu hiện của việc thỉnh thoảng đề cao và làm chứng cho bản thân đều thuộc phạm trù kẻ địch lại Đấng Christ. Đó chẳng phải là một sai lầm về mặt khái niệm sao? (Thưa, phải.) Vậy thì làm sao để có thể phân biệt rõ ràng việc này? Sự khác biệt nằm ở đâu? Nếu ngươi có thể nói rõ điều này, thì ngươi có thể nhìn thấu thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ là gì. Hãy thử xem. (Thưa, cách làm việc của kẻ địch lại Đấng Christ bí hiểm hơn; họ sử dụng một số thủ đoạn trông có vẻ rất chính đáng để mê hoặc mọi người. Họ có vẻ như đang nói về một việc chính đáng, nhưng tự lúc nào không hay, họ bắt đầu đề cao và làm chứng cho bản thân mà không ai nhận ra. Nghĩa là phương thức của họ tương đối bí hiểm.) Phương thức tương đối bí hiểm – đây là phân biệt thông qua cách họ đề cao và làm chứng cho bản thân. Còn gì nữa không? Nói Ta nghe, sự khác biệt về tính chất giữa việc đề cao và làm chứng cho bản thân một cách có ý thức so với việc làm điều đó một cách vô thức là gì? (Thưa, ý định khác nhau.) Đó chẳng phải là chỗ khác nhau sao? (Thưa, phải.) Khi người bình thường có tâm tính bại hoại đề cao và khoe khoang bản thân, thì đó chỉ là phô trương. Khi họ phô trương xong là hết chuyện, họ không quan tâm người khác coi trọng hay xem thường mình. Ý đồ của họ không quá rõ ràng, đó chỉ là một tâm tính chi phối họ, một sự bộc lộ của tâm tính. Vậy thôi. Dạng tâm tính này có dễ thay đổi không? Nếu đây là người mưu cầu lẽ thật, họ sẽ có thể dần dần thay đổi khi trải qua sự tỉa sửa, phán xét và hành phạt. Họ sẽ dần dần ngày càng có liêm sỉ hơn, có lý tính hơn, và họ sẽ thể hiện ngày càng ít dạng hành vi này. Họ sẽ lên án loại hành vi này, và họ sẽ thu bớt lại, cũng như có sự ràng buộc bản thân. Đây là đề cao và làm chứng cho bản thân một cách vô thức. Mặc dù những tâm tính chứa đựng trong việc đề cao và làm chứng cho bản thân một cách có ý thức và vô thức là giống nhau, nhưng tính chất của chúng khác nhau. Chúng khác nhau về tính chất như thế nào? Đề cao và làm chứng cho bản thân một cách có ý thức là có ý đồ. Người làm việc này không phải nói chuyện tùy tiện – mà mỗi khi đề cao và làm chứng cho bản thân, họ đang nuôi những ý định và mục đích ngầm nhất định, và họ làm dạng việc này với dã tâm và dục vọng của Sa-tan. Bề ngoài, nó có vẻ như cùng một dạng biểu hiện. Trong cả hai trường hợp, người ta đều đang đề cao và làm chứng cho bản thân, nhưng Đức Chúa Trời định nghĩa việc đề cao và làm chứng cho bản thân một cách vô thức như thế nào? Là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại. Còn Đức Chúa Trời định nghĩa việc đề cao và làm chứng cho bản thân một cách có ý thức như thế nào? Là ai đó muốn mê hoặc mọi người, với ý đồ là khiến mọi người coi trọng, tôn sùng, ngưỡng vọng và sau đó đi theo họ. Việc làm của họ về tính chất là mê hoặc. Vì vậy, hễ có ý đồ mê hoặc người, và chiếm hữu người để người ta đi theo và tôn sùng mình, thì khi nói chuyện và làm việc, họ sử dụng một số thủ đoạn và phương thức mà có thể dễ dàng mê hoặc và làm lầm lạc những người không hiểu lẽ thật và căn cơ còn nông cạn. Những người như thế không những không biết phân định, mà ngược lại còn cảm thấy những gì người này nói là đúng, và có thể ngưỡng vọng, coi trọng họ, lâu dần sẽ tôn sùng và thậm chí đi theo họ. Một hiện tượng phổ biến nhất trong cuộc sống thường ngày là có người, sau khi nghe giảng, có vẻ hiểu rất rõ, nhưng về sau gặp chuyện, lại không biết giải quyết thế nào. Họ đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm, nhưng không có kết quả gì, cuối cùng phải tìm đến lãnh đạo của mình để hỏi về việc này và xin giải pháp. Mỗi khi có chuyện xảy đến, họ lại muốn tìm lãnh đạo để giải quyết. Cũng giống như có những người hít thuốc phiện thành nghiện, thành quen, đến lúc không hít thuốc là không làm gì được. Cho nên, việc kẻ địch lại Đấng Christ đề cao và làm chứng cho bản thân vô hình trung trở thành một dạng thuốc phiện đối với những người nhỏ bé về vóc giạc, không biết phân định, ngu muội và vô tri. Mỗi khi có chuyện xảy đến, họ sẽ đi hỏi kẻ địch lại Đấng Christ, và nếu kẻ địch lại Đấng Christ không hạ lệnh, thì cho dù mọi người đều đã bàn luận xong xuôi và thống nhất về việc đó, họ cũng không dám tiến hành gì cả. Họ sợ làm trái ý kẻ địch lại Đấng Christ và bị chèn ép, nên trong mọi việc, họ chỉ dám hành động sau khi có tiếng nói của kẻ địch lại Đấng Christ. Ngay cả khi đã hiểu rõ ràng các nguyên tắc lẽ thật, họ cũng không dám quyết định và xử lý những chuyện đó, thay vào đó chờ đợi “chủ nhân” mà họ ngưỡng vọng đưa ra phán quyết và quyết định cuối cùng. Nếu chủ nhân không nói gì, thì ai xử lý những chuyện đó cũng sẽ cảm thấy không chắc chắn nên làm gì. Những người này chẳng phải đã bị đầu độc sao? (Thưa, phải.) Đây chính là bị đầu độc. Để họ bị đầu độc sâu như thế, kẻ địch lại Đấng Christ cần phải làm bao nhiêu việc và truyền vào cho họ bao nhiêu độc tố? Nếu kẻ địch lại Đấng Christ thường xuyên mổ xẻ bản thân và biết mình, đồng thời thường công khai những điểm yếu, sai lầm và vi phạm của mình cho mọi người thấy, thì mọi người có còn tôn sùng họ như vậy nữa không? Chắc chắn là không. Có vẻ như kẻ địch lại Đấng Christ đã bỏ không ít công sức ra để đề cao và làm chứng cho bản thân, nên mới đạt được “thành tích” như vậy. Đây chính là thành quả họ mong muốn. Không có họ thì không ai biết làm sao để thực hiện bổn phận cho phù hợp, và mọi người đều sẽ vô cùng lúng túng. Rõ ràng là trong khi khống chế những người này, kẻ địch lại Đấng Christ ngấm ngầm truyền vào họ nhiều độc tố và bỏ ra nhiều công sức! Nếu họ chỉ nói dăm ba câu, thì những người này có thể bị họ kìm kẹp như vậy không? Chắc chắn là không. Khi kẻ địch lại Đấng Christ tìm cách đạt được mục đích khiến mọi người tôn sùng, ngưỡng vọng và nghe lời họ trong mọi việc, thì chẳng phải họ đã làm nhiều chuyện và nói nhiều lời đề cao và làm chứng cho bản thân sao? Kết quả họ đạt được khi làm vậy là gì? Đó là mọi người sẽ không có con đường và không thể sống thiếu họ được – như thể nếu không có họ thì bầu trời sụp xuống, Trái Đất ngừng quay, việc tin Đức Chúa Trời sẽ không có giá trị hay ý nghĩa gì cả, và nghe giảng đạo cũng vô ích. Đồng thời, mọi người cũng cảm thấy rằng khi có kẻ địch lại Đấng Christ ở bên, họ có chút hy vọng trong cuộc sống, nếu kẻ địch lại Đấng Christ mà chết thì họ sẽ mất hết hy vọng. Những người này chẳng phải đã bị Sa-tan bắt đi sao? (Thưa, phải.) Và chẳng phải những người này bị Sa-tan bắt đi là đáng đời sao? (Thưa, phải.) Tại sao lại nói đáng đời? Đức Chúa Trời là Đấng ngươi tin, vậy tại sao ngươi lại tôn sùng và đi theo kẻ địch lại Đấng Christ, để cho họ kìm kẹp và khống chế ngươi mọi lúc? Còn nữa, dù một người đang làm bổn phận nào, thì nhà Đức Chúa Trời cũng đã cung cấp cho mọi người các nguyên tắc và quy định rõ ràng. Nếu có khó khăn mà không thể tự mình giải quyết, thì nên tìm kiếm từ người hiểu lẽ thật, cũng như tìm kiếm từ Bề trên khi gặp chuyện lớn. Nhưng không những ngươi không tìm kiếm lẽ thật, mà ngược lại còn tôn sùng và ngưỡng vọng con người, tin vào những gì những kẻ địch lại Đấng Christ này nói. Vì thế mà ngươi đã trở thành tay sai của Sa-tan, đây chẳng phải là gieo gió gặt bão sao? Ngươi bị như vậy chẳng phải đáng đời sao? Đề cao và làm chứng cho bản thân là một hành vi và biểu hiện chung của những kẻ địch lại Đấng Christ, và cũng là một trong những biểu hiện phổ biến nhất. Đặc điểm chính của cách kẻ địch lại Đấng Christ đề cao và làm chứng cho bản thân là gì? Nó khác như thế nào so với cách người bình thường đề cao và làm chứng cho bản thân? Nó khác ở chỗ những kẻ địch lại Đấng Christ có ý đồ đằng sau hành động này, và hoàn toàn không làm vậy một cách vô thức. Thay vào đó, họ đang nuôi những chủ tâm, dục vọng và dã tâm, và thật không dám nghĩ đến hậu quả của việc họ làm chứng cho bản thân theo cách này – họ có thể mê hoặc và khống chế mọi người.

Ta sẽ cho một ví dụ. Các ngươi có thể suy nghĩ xem dạng biểu hiện và tâm tính này có liên quan đến việc đề cao và làm chứng cho bản thân hay không. Trước kia, có một lãnh đạo đã làm công tác của hội thánh ở một nơi trong hai, ba năm. Anh ta đã đi các hội thánh, và rồi cuối cùng bén rễ ở đó. Bén rễ có nghĩa là gì? Có nghĩa là hầu hết mọi người đều biết và coi trọng anh ta, và anh ta tương đối nổi tiếng ở nơi đó. Hễ nhìn thấy anh ta là mọi người nghênh đón, nhường chỗ ngồi, mời xơi đồ ngon. Không có tiếng nói bất đồng nào, không ai phản đối anh ta; mọi người đều khá quen thuộc với lãnh đạo này, và trong sâu thẳm nội tâm đều rất tán thành cách làm cũng như tiếp nhận sự lãnh đạo của anh ta. Không rõ người lãnh đạo đã làm bao nhiêu công tác, nói bao nhiêu, hay nói những gì, những chi tiết này không biết, nhưng tóm lại, hầu hết mọi người đều rất tán thành sự lãnh đạo của anh ta. Sau một thời gian, người lãnh đạo nói: “Các anh chị em ở đây đều nghe lời và thuận phục, tình hình hội thánh cũng tốt đẹp trên mọi phương diện. Tiếc là có một điều không như ý lắm, đó là hoàn cảnh ở đây quá ác liệt. Nếu hoàn cảnh thích hợp, chúng ta sẽ tìm một ngày nắng đẹp để đi tới công viên lớn tổ chức một buổi nhóm họp lớn với quy mô hàng nghìn người, và chúng ta sẽ giải phóng lẽ thật qua mic cùng dàn loa cỡ đại, để khiến nhiều người hơn tin đức chúa trời. Chẳng phải như vậy, công tác của chúng ta sẽ có thành quả sao?”. Nghe xong, mọi người đều nói “Amen” và tán thành. Nói Ta nghe, có vấn đề với câu “chúng ta sẽ giải phóng lẽ thật” không? (Thưa, có.) Vấn đề là gì? (Thưa, người lãnh đạo đang xem mình như Đức Chúa Trời.) Các ngươi đều nhận ra rằng có vấn đề với câu đó, nhưng những kẻ hồ đồ ở đó thì không. Thậm chí họ còn đáp lại “Amen” với câu này! Lẽ thật có phải là do người lãnh đạo này giải phóng không? Anh ta là ai? Anh ta là một lãnh đạo bình thường, làm được vài năm công tác, rồi bắt đầu nghĩ mình cao siêu hơn mọi người khác, quên mất mình là ai, và thậm chí còn muốn bày tỏ lẽ thật – mà sẽ là một nhiệm vụ khó khăn với anh ta. Nó chứng tỏ điều gì? Nó chứng tỏ rằng anh ta không biết mình là ai, và không biết mình đang làm bổn phận gì. Vì anh ta có dạng tâm tính này, vậy trong công tác hoặc lời nói bình thường của anh ta có chỗ nào hợp lẽ thật không? Chắc chắn công tác và lời nói bình thường của anh ta chứa đầy những lời hồ đồ, những lời của quỷ, và tuyệt đối không thể đạt được kết quả cung ứng và chăm tưới cho hội thánh. Anh ta không biết lẽ thật là gì, càng không biết bày tỏ lẽ thật nghĩa là gì. Sau khi làm việc ở đâu đó mới được hai, ba năm, anh ta liền cảm thấy có chút uy thế và vốn liếng, rồi quên mất mình là ai, cảm thấy khá hài lòng về bản thân và muốn bày tỏ lẽ thật. Việc có ảo tưởng như vậy chẳng đáng ghê tởm sao? Ảo tưởng này đến từ đâu? Đó là rối loạn tâm thần hay bốc đồng nhất thời? Anh ta làm chút công tác, không bị ai trong hội thánh địa phương phản đối, mọi việc có vẻ diễn ra suôn sẻ với anh ra, thế là anh ta tin rằng mọi thứ đều là kết quả của công tác anh ta làm, và bỗng nhiên cảm thấy mình có công lao. Anh ta nghĩ: “Nếu mình có thể làm công tác lớn như thế, thì chẳng phải mình là đức chúa trời sao? Và nếu mình là đức chúa trời, thì hiện tại mình đang ngột ngạt khủng khiếp – nếu hoàn cảnh bên ngoài tốt hơn, mình đã có thể bày tỏ lẽ thật rồi!”. Ý nghĩ này đột nhiên nảy sinh trong tâm trí anh ta. Chẳng phải thần kinh anh ta có vấn đề sao? (Thưa, phải.) Thần kinh của anh ta có vấn đề. Chẳng phải anh ta không có lý trí sao? Những lời nói, việc làm của Sa-tan và kẻ địch lại Đấng Christ có thể có lý trí của nhân tính bình thường được không? Tuyệt đối không thể. Người lãnh đạo này làm một chút công tác và đạt được một số kết quả, liền đột nhiên quên mất mình là con người. Việc anh ta có thể thốt ra những lời không có lý trí như thế chẳng phải liên quan đến tâm tính của anh ta sao? (Thưa, phải.) Liên quan như thế nào? Trong tâm tính, anh ta có cam lòng làm người đi theo không? Anh ta có biết rằng anh ta chỉ là một người đi theo bình thường của Đức Chúa Trời không? Hoàn toàn không. Anh ta cho rằng địa vị và thân phận của mình tôn quý vô cùng, không ai bì nổi. Chẳng phải các ngươi đã quen với dạng hành vi này và tính chất của nó sao? Tại sao Sa-tan lại bị ném xuống không trung? (Thưa, bởi vì nó muốn đứng ngang hàng với Đức Chúa Trời.) Đó là bởi vì nó muốn đứng ngang hàng với Đức Chúa Trời. Bởi vì Sa-tan không biết trời cao đất dày, không biết mình là ai và không biết tự lượng sức mình, nên khi Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan đi trong cùng một không gian như Ngài, thì Sa-tan bắt đầu nghĩ rằng nó chính là Đức Chúa Trời. Nó muốn làm những điều mà Đức Chúa Trời làm, nó muốn đại diện cho Ngài, thay thế Ngài và phủ nhận sự hiện hữu của Ngài, kết quả là nó bị ném xuống không trung. Kẻ địch lại Đấng Christ cũng làm cùng một chuyện như vậy, tính chất hành động là giống nhau, và họ cùng một nguồn với Sa-tan. Đối với kẻ địch lại Đấng Christ, biểu hiện như vậy không phải là sự bộc lộ thỉnh thoảng hoặc do ngẫu hứng nhất thời – mà chắc chắn là do sự chi phối của bản tính Sa-tan, cũng như sự bộc lộ tự nhiên của tâm tính Sa-tan. Tính chất biểu hiện của người lãnh đạo mà Ta vừa nói đến là gì? (Thưa, đó là của kẻ địch lại Đấng Christ.) Tại sao chúng ta lại đang nói về biểu hiện này trong mục đề cao và làm chứng cho bản thân? Tính chất của biểu hiện này liên quan như thế nào đến việc đề cao và làm chứng cho bản thân? Tính chất của lời “giải phóng lẽ thật” mà anh ta nói là gì? Tại sao Ta lại nói rằng lời này liên quan đến việc đề cao và làm chứng cho bản thân? (Thưa, người lãnh đạo này tin rằng anh ta có thể cung cấp lẽ thật cho mọi người.) Đó chính là ý của anh ta. Khi anh ta nói những điều như thế, người nghe liền nghĩ: “Anh có phong thái thật ấn tượng, và anh có thể nói với một khẩu khí như thế – chẳng phải đây chính là khẩu khí mà Đức Chúa Trời nên có sao? Chẳng phải đây chính là dạng phong thái ấn tượng và lòng mong mỏi mà Đức Chúa Trời nên có sao?”. Đây chẳng phải là người lãnh đạo này đã đạt được mục đích của việc đề cao và làm chứng cho bản thân hay sao? Vô hình trung, anh ta đã khiến cho mọi người hình thành những tình cảm kính trọng, tôn sùng và ngưỡng mộ đối với anh ta. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Đây chính là diện mạo gớm ghiếc của kẻ địch lại Đấng Christ; đây chính là một dạng đề cao và làm chứng cho bản thân trá hình.

Còn biểu hiện nào khác của việc đề cao và làm chứng cho bản thân không? Hết thảy các ngươi nên phản tỉnh bản thân về việc này. Các ngươi có làm chuyện làm chứng cho bản thân mình không? Ngươi có thể chịu sự ràng buộc của lương tâm và lý trí và ngăn mình làm một chuyện ô nhục như thế được không? Nếu ngươi có thể ràng buộc bản thân, thì chứng tỏ rằng ngươi có lý tính, rằng ngươi khác với kẻ địch lại Đấng Christ. Nếu ngươi không có lý tính này, lại có những dạng dã tâm và dục vọng này, cũng như có thể làm một chuyện như làm chứng cho bản thân, thì ngươi giống như kẻ địch lại Đấng Christ rồi. Vậy thì các ngươi thuộc trường hợp nào? Các ngươi có sự ràng buộc trong việc làm không? Nếu ngươi có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, có liêm sỉ và lý tính, thì dù cũng muốn làm những chuyện này, ngươi sẽ nghĩ rằng làm như vậy sẽ đắc tội với Đức Chúa Trời và bị Ngài ghê tởm, sau đó ngươi sẽ có thể ràng buộc bản thân và không dám làm chứng cho bản thân nữa. Nếu ngươi ràng buộc bản thân một lần, rồi hai lần, thì sau một thời gian, những ý nghĩ, ý định và ý niệm này sẽ bắt đầu từng chút giảm dần. Ngươi sẽ phân định được những ý nghĩ này và cảm thấy chúng đáng khinh miệt và ghê tởm, sự thôi thúc và dục vọng muốn làm những chuyện như thế của ngươi sẽ giảm bớt, và ngươi sẽ dần dần có thể thu bớt lại, khống chế được bản thân, đến mức những ý nghĩ này sẽ ngày càng ít nảy sinh. Nếu ngươi ý thức được chúng nhưng lại không thể ràng buộc bản thân, và ngươi nuôi những ý đồ đặc biệt mãnh liệt, muốn khiến mọi người tôn sùng hoặc đi theo mình, và khi không có ai đi theo và tôn sùng mình thì không cam tâm, trở nên đầy thù hận, muốn làm điều gì đó, và có thể không kiêng nể gì mà làm chứng cho bản thân và phô trương bản thân – thì ngươi chính là kẻ địch lại Đấng Christ. Các ngươi thuộc trường hợp nào? (Thưa, khi con ý thức được chúng, thì con có thể ràng buộc bản thân.) Ngươi dựa vào đâu để ràng buộc bản thân? (Thưa, con dựa vào chút nhận thức về Đức Chúa Trời và vào việc có lòng kính sợ Đức Chúa Trời.) Có lòng kính sợ Đức Chúa Trời thì có thể ràng buộc bản thân. Sự ràng buộc bản thân không đạt được bằng cách khắc chế hoặc cản trở bản thân, mà là kết quả đạt được thông qua việc hiểu lẽ thật và có thể kính sợ Đức Chúa Trời. Thông qua lý tính và nhận thức mà ràng buộc bản thân, đồng thời bởi vì có chút lòng kính sợ Đức Chúa Trời và sợ đắc tội với Ngài mà ràng buộc bản thân. Nếu lý tính không thể ràng buộc được ngươi, và ngươi cũng không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, nếu ngươi không cảm thấy xấu hổ khi làm chứng cho bản thân, và muốn gan lỳ làm vậy, không từ bỏ cho đến khi đạt được mục đích, thì tính chất của việc này sẽ khác – ngươi chính là kẻ địch lại Đấng Christ.

Những mánh khóe và biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ trong việc đề cao và làm chứng cho bản thân rất đa dạng. Có cái là trực tiếp đề cao và làm chứng cho bản thân, nói mình tốt như thế nào, lại có cái là tìm trăm phương ngàn kế để sử dụng cách nói khéo léo hoặc phương thức trá hình để khiến mọi người coi trọng họ và đạt được mục đích khiến mọi người ngưỡng vọng, tôn sùng và đi theo họ, thậm chí còn chiếm một địa vị trong lòng người – đây là tính chất của hành vi như vậy. Tâm tính đề cao và làm chứng cho bản thân của kẻ địch lại Đấng Christ khác so với của người bình thường về mặt tính chất, hậu quả gây ra, phương thức và phương pháp biểu hiện, cũng như ý định, mục đích. Ngoài ra, có phải những người đề cao và làm chứng cho bản thân chỉ đơn giản nói mình tốt như thế nào hay không? Có lúc, họ cũng nói về những mặt không tốt của mình, nhưng khi làm vậy, họ có thực sự mổ xẻ và cố gắng biết mình không? (Thưa, không.) Vậy làm sao để nhận ra rằng việc biết mình của họ không chân thật, mà thay vào đó bị uế tạp và có ý đồ? Làm thế nào để có thể nhìn thấu việc này? Điểm cốt lõi ở đây là đồng thời với việc cố gắng biết mình và phơi bày những nhược điểm, khuyết điểm, thiếu sót và tâm tính bại hoại của mình, họ cũng đang tìm những cái cớ và lý do để thoát tội. Họ trá hình nói với mọi người rằng: “Ai cũng có thể phạm sai lầm, đâu chỉ mình tôi. Các anh chị cũng đều có thể phạm sai lầm mà. Sai lầm tôi mắc phải có thể cho qua được; đó là một sai lầm nhỏ. Nếu các anh chị phạm phải cùng sai lầm này, thì nó còn nghiêm trọng hơn trường hợp của tôi nhiều, bởi vì các anh chị không phản tỉnh và mổ xẻ mình. Dù tôi phạm sai lầm, nhưng tôi còn tốt hơn các anh chị, tôi còn có lý tính và nhân cách hơn”. Khi mọi người nghe thấy vậy, họ liền nghĩ: “Anh nói rất phải. Anh hiểu rất nhiều lẽ thật và thực sự có vóc giạc. Khi phạm sai lầm, anh có thể phản tỉnh và mổ xẻ chính mình; anh tốt hơn chúng tôi nhiều. Nếu phạm sai lầm, chúng tôi không phản tỉnh và cố gắng biết mình; vì sợ xấu hổ, chúng tôi không dám mổ xẻ bản thân. Anh có vóc giạc và dũng khí lớn hơn chúng tôi”. Những người này phạm sai lầm, thế nhưng vẫn giành được sự coi trọng của người khác và tự ca ngợi mình – đây là tâm tính gì? Một số kẻ địch lại Đấng Christ đặc biệt giỏi giả vờ, lừa gạt mọi người và tạo hình tượng giả. Khi gặp người hiểu lẽ thật, họ bắt đầu nói về việc biết mình, cũng như nói rằng họ là ma quỷ, Sa-tan, nhân tính họ không tốt, và họ đáng bị rủa sả. Giả sử ngươi hỏi họ: “Anh nói rằng anh là ma quỷ, Sa-tan, vậy anh đã phạm phải những việc ác nào?”. Họ sẽ nói: “Tôi không làm gì cả, nhưng tôi là ma quỷ. Và không những là ma quỷ, tôi còn là Sa-tan nữa!”. Ngươi lại hỏi họ: “Anh nói rằng anh là ma quỷ, Sa-tan, vậy anh đã phạm phải những việc ác nào của ma quỷ, Sa-tan, và anh đã chống đối Đức Chúa Trời như thế nào? Anh có thể nói sự thật về những việc ác anh đã làm không?”. Họ sẽ nói: “Tôi không làm gì ác cả!”. Rồi ngươi ép thêm và hỏi: “Nếu anh không làm gì ác cả, vậy tại sao anh lại nói anh là ma quỷ, Sa-tan? Anh nói thế để cố đạt được điều gì?”. Khi ngươi nghiêm túc với họ như vậy, họ sẽ không có gì để nói. Thực ra họ đã làm nhiều việc xấu, nhưng họ sẽ tuyệt đối không nói sự thật với ngươi. Họ sẽ chỉ nói chút lời khoác lác, tuôn ra chút đạo lý để nói suông về việc biết mình. Khi nói đến việc cụ thể họ lôi kéo người, lừa gạt người, dùng người dựa trên tình cảm, không xem trọng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, đi ngược lại sự sắp xếp công tác, lừa gạt Bề trên, giấu giếm các anh chị em như thế nào, và đã gây ra bao nhiêu thiệt hại cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thì họ sẽ không nói một lời nào về những sự thật này. Đây có phải là thực sự biết mình không? (Thưa, không.) Khi họ nói rằng họ là ma quỷ, Sa-tan, chẳng phải họ đang giả vờ biết mình để đề cao và làm chứng cho bản thân sao? Đó chẳng phải là thủ đoạn họ sử dụng sao? (Thưa, phải.) Người bình thường không thể nhìn thấu thủ đoạn này. Có những lãnh đạo bị cách chức và không lâu sau được bầu lại, khi ngươi hỏi lý do, thì một số người nói: “Lãnh đạo đó có tố chất tốt. Anh ấy biết mình là ma quỷ, Sa-tan. Làm gì có ai có tầm nhận thức như vậy? Chỉ những người thực sự mưu cầu lẽ thật mới có tầm nhận thức đó. Không ai trong chúng tôi có thể có được sự biết mình đó; người bình thường không có vóc giạc đó. Vì lẽ đó mà mọi người lại chọn anh ấy”. Chuyện gì đang diễn ra ở đây? Những người này đã bị mê hoặc. Người lãnh đạo này biết rằng họ là ma quỷ, Sa-tan, nhưng họ vẫn được mọi người chọn, vậy thì việc họ nói rằng họ là ma quỷ, Sa-tan có ảnh hưởng và hậu quả gì đối với mọi người? (Thưa, nó khiến mọi người coi trọng họ.) Đúng vậy, nó khiến mọi người coi trọng họ hơn. Những người ngoại đạo gọi thủ đoạn này là “lùi một bước, tiến ba bước”. Có nghĩa là để khiến cho mọi người coi trọng họ, đầu tiên họ sẽ nói những điều không tốt về bản thân để người khác cho rằng họ có thể cởi mở và biết mình, rằng họ có chiều sâu và sự thấu suốt, cũng như hiểu biết sâu sắc, và như vậy, mọi người sẽ càng tôn sùng họ hơn. Và kết quả của việc mọi người càng tôn sùng họ hơn là gì? Khi lại đến thời điểm chọn lãnh đạo, họ vẫn được xem là người hoàn hảo cho vai trò đó. Thủ đoạn này chẳng phải rất cao thâm sao? Nếu họ không nói về việc biết mình như thế này và không nói rằng họ là ma quỷ, Sa-tan, mà thay vào đó chỉ tiêu cực, thì khi người khác thấy thế, họ sẽ nói: “Anh vừa bị thay thế và mất địa vị đã trở nên tiêu cực rồi. Anh từng dạy chúng tôi không được tiêu cực, và bây giờ sự tiêu cực của anh còn nghiêm trọng hơn của chúng tôi nữa. Chúng tôi sẽ không bầu anh”. Sẽ không ai coi trọng lãnh đạo này. Mặc dù mọi người vẫn không phân định được họ, nhưng ít nhất mọi người cũng sẽ không chọn họ làm lãnh đạo lần nữa, và người này sẽ không đạt được mục đích khiến người khác coi trọng mình. Nhưng người lãnh đạo này lại chủ động, nói rằng: “Tôi là ma quỷ, Sa-tan; cầu đức chúa trời rủa sả tôi và đày tôi xuống mười tám tầng địa ngục, đời đời không được đầu thai!”. Nghe thấy thế, một số người cảm thấy thương cảm cho anh ta và nói: “Lãnh đạo của chúng ta đã chịu khổ quá nhiều. Ôi, oan uổng cho anh ấy quá! Nếu Đức Chúa Trời không cho anh ấy làm lãnh đạo, thì chúng ta sẽ bầu chọn anh ấy”. Mọi người đều ủng hộ người lãnh đạo này ở mức độ nào đó, vậy chẳng phải họ đã bị mê hoặc sao? Ý đồ ban đầu của lời họ đã được kiểm chứng, chứng thực rằng họ thực sự đang mê hoặc mọi người theo cách này. Có lúc Sa-tan mê hoặc con người bằng cách đề cao và làm chứng cho bản thân, và có lúc nó có thể thừa nhận sai lầm một cách lòng vòng khi không còn lựa chọn nào khác, nhưng tất cả chỉ là bề ngoài, và mục đích của nó là để có được sự đồng tình và thông cảm của mọi người. Thậm chí nó còn nói: “Không ai hoàn hảo cả. Ai cũng có tâm tính bại hoại, và ai cũng có thể phạm sai lầm. Chỉ cần có thể sửa chữa sai lầm thì chính là người tốt”. Khi nghe thấy vậy, mọi người sẽ cảm thấy đúng, và tiếp tục tôn sùng cũng như đi theo Sa-tan. Thủ đoạn của Sa-tan là chủ động thừa nhận sai lầm của nó, và tán dương, nâng cao vị trí của nó trong lòng mọi người một cách trá hình để mọi người tiếp nhận mọi thứ về nó – thậm chí cả những sai lầm của nó – và sau đó tha thứ cho những lỗi lầm này, dần dần quên đi, và cuối cùng hoàn toàn tiếp nhận Sa-tan, trở nên trung thành với nó đến chết, không bao giờ rời bỏ hay từ bỏ nó, và đi theo nó đến cùng. Đây chẳng phải là thủ đoạn làm việc của Sa-tan sao? Đây chính là cách Sa-tan làm việc, và kẻ địch lại Đấng Christ cũng sử dụng dạng thủ đoạn này mà làm việc để thỏa mãn dã tâm và mục đích khiến mọi người tôn sùng và đi theo họ. So với hậu quả của việc Sa-tan mê hoặc và làm bại hoại con người, thì hậu quả mà việc này dẫn đến là cùng một loại, không khác gì cả.

Có những người, khi nói về việc biết mình thì tự họa mình như một mớ hỗn độn, một kẻ chẳng ra gì, thậm chí còn nói rằng họ là ma quỷ và Sa-tan, rằng họ đáng bị rủa sả, và nếu có bị Đức Chúa Trời đào thải, họ cũng không oán trách. Tuy nhiên, những người này không thực sự nhận thức được thực chất bản tính hoặc những tâm tính bại hoại của mình, và không thể nói ra được bất cứ điều gì về tình trạng thực sự của mình. Thay vào đó, họ muốn dùng hình tượng giả để mê hoặc người khác, sử dụng những phương thức và thủ đoạn chủ động thừa nhận sai lầm và “lùi để tiến” hòng che mắt và lừa gạt mọi người, sau đó khiến mọi người nghĩ tốt về họ. Đây chính là cách làm của kẻ địch lại Đấng Christ. Lần sau khi gặp phải người như thế này, các ngươi nên đối đãi với họ như thế nào? (Thưa, hỏi kỹ chi tiết.) Đúng vậy, ngươi phải học cách truy cứu vấn đề và hỏi kỹ chi tiết. Và ngươi phải truy cứu đến mức độ nào? Hãy truy cứu cho đến khi họ xin tha và nói: “Tôi sẽ không bao giờ mê hoặc các anh chị em lần nữa. Dù các anh chị em có chọn tôi làm lãnh đạo, tôi cũng sẽ không nhận vai trò đó”. Hãy nói với họ rằng: “Chúng tôi sẽ không bao giờ bị anh mê hoặc hay là chọn anh làm lãnh đạo lần nữa, nên đừng có nằm mơ nữa!”. Nói vậy được không? Tất cả những ai nói về chuyện biết mình mà nói theo kiểu khoa trương, thậm chí còn rủa sả mình, mà không có điều gì trong đó nghe thật cả, thì đều là người giả thuộc linh và đạo đức giả, và hết thảy những lời của họ đều là mê hoặc người. Trong lời nói của những người như thế có một đặc điểm và vài chi tiết mà ngươi phải phân định được. Ví dụ: nói Ta nghe, nếu yêu cầu người ta viết lời thề cho việc trông giữ của lễ, thì câu đầu tiên của lời thề nên là gì? Người có lý tính và nhân tính sẽ viết gì? Họ sẽ sử dụng những giọng điệu và cách diễn đạt nào để đứng đúng vị trí và bày tỏ thái độ của mình? Khi người bình thường nói, mọi người đều có thể cảm nhận được rằng họ đang nói bình thường, nhưng những hạng tham vọng cùng một giuộc với kẻ ác hoặc kẻ địch lại Đấng Christ thì khi nói có một giọng điệu khác với người bình thường. Chẳng hạn như họ nói: “Tôi, Nguyễn Văn A, nếu biển thủ dù chỉ một đồng của lễ của đức chúa trời, thì hãy cho tôi chết tức tưởi – ra đường bị xe đâm chết!”. Đây là dạng giọng điệu gì? Họ bắt đầu với từ “tôi” mang giọng điệu phách lối nhất – trong chữ nghĩa họ dùng, có thể thấy ra được xuất phát điểm cho giọng điệu và cách nói của họ. Từ đầu tiên là “tôi” – họ dùng giọng điệu phách lối nhất và tông cao như vậy – đó chẳng phải là một lời thề phách lối sao? Dạng lời thề này gọi là gì? Gọi là phách lối và đạo đức giả. Viết lời thề với sự ngạo mạn như thế – đây là dạng tâm tính gì? Đây là một lời thề, vậy ngươi đang thề với ai? Ngươi đang thề với Đức Chúa Trời, vậy trong trường hợp này, người bình thường nên nói thế nào? Nên nói một cách khiêm tốn, đứng đúng vị trí của mình, cầu nguyện với Đức Chúa Trời và nói lời từ trong lòng mình. Đừng có nói phách lối, cũng đừng ngạo mạn. Dạng người này ngay cả khi lập lời thề mà cũng ngạo mạn – tâm tính Sa-tan của họ quá nghiêm trọng rồi! Khó mà nói được lời thề của họ là thật hay giả. Ý họ là: “Anh không tin tôi chứ gì? Anh sợ tôi lợi dụng nhà đức chúa trời, sợ tôi ăn cắp của lễ chứ gì? Anh sử dụng tôi nhưng lại không tin tôi, yêu cầu tôi thề – vậy thì tôi sẽ thề, cứ nhìn xem tôi có dám thề không! Tôi không tin tôi lại có thể làm chuyện như thế”. Đây là dạng thái độ gì? Đây là ngạo mạn và không biết kiêng nể gì. Thậm chí họ còn cả gan kêu gào với Đức Chúa Trời, sử dụng lời thề để phân bua cho mình và mê hoặc người khác. Đây có phải là kính sợ Đức Chúa Trời không? Một chút ngoan đạo cũng không có. Dạng người này chính là Sa-tan và kẻ địch lại Đấng Christ; đây là cách nói chuyện của kẻ địch lại Đấng Christ. Nói lời thề với ý kêu gào – đây là dạng tâm tính gì? Dạng người này còn có thể được cứu rỗi không? Các ngươi đã từng gặp dạng người này chưa? Các ngươi không biết cách phân định những biểu hiện, sự bộc lộ hoặc tâm tính này của họ, phải không? Có những người thậm chí còn cho rằng dạng người này tư duy rõ ràng, có hiểu biết thuộc linh, trung thực và trung thành với Đức Chúa Trời. Đó chẳng phải là ngu ngốc sao? Đó chẳng phải là không biết phân định sao? Có thể thấy được hành vi và tâm tính tồi tệ này trong chữ nghĩa và cách diễn đạt lời thề của họ, nhưng mọi người vẫn nghĩ rằng kẻ địch lại Đấng Christ không tệ. Những người này có hiểu được lẽ thật không? Xem ra hết thảy những gì các ngươi hiểu được đều là đạo lý, các ngươi chỉ có thể nói đạo lý và nói suông, khi nói đến những sự việc và vấn đề cụ thể thì các ngươi không phân định được. Sau này, nếu gặp phải những sự việc kiểu này, liệu các ngươi có phân định được không? (Thưa, có.) Những người viết những lời thề như vậy đều là súc sinh, đều không có nhân tính. Các ngươi đã từng thấy dạng lời thề này chưa? Các ngươi có từng viết lời thề như thế này không? (Thưa, có.) Nó có cùng giọng điệu và cùng mở đầu như thế này không? (Thưa, nó không trực tiếp như vậy.) Vậy tính chất có giống không? (Thưa, có.) Tính chất giống nhau. Nói lời thề đâu phải giống như ra chiến trường mà phải cần có tinh thần hy sinh anh dũng. Đâu cần dạng tinh thần đó. Khi tuyên thề với Đức Chúa Trời, ngươi phải suy xét cho kỹ, hiểu được tại sao ngươi cần viết lời thề này, ngươi đang tuyên thề và cam kết với ai. Điều Đức Chúa Trời muốn là thái độ của con người, chứ không phải là một dạng tinh thần. Tinh thần đó của ngươi là ngạo mạn, là kêu gào; nó là một biểu hiện của tâm tính kiêu ngạo của Sa-tan. Nó không phải là lòng ngoan đạo, không phải là một biểu hiện mà loài thọ tạo nên có, càng không phải là vị trí mà loài thọ tạo nên đứng. Chẳng phải những người có biểu hiện này đã bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa anh hùng dân tộc sao? Nó có liên quan đến cái này không? Con người đã bị đầu độc quá sâu – hễ viết lời thề hay lời hứa là liền nghĩ đến hết thảy những danh nhân qua các thời đại trung thành với đất nước và nhân dân. Những danh nhân đó là một phần của băng đảng Sa-tan, họ không từ thủ đoạn nào để làm nổi bật và làm chứng cho chính mình, để chiếm vị trí trong lòng người và để lại thanh danh cho mình, hầu cho họ có thể đi vào lịch sử và lưu danh thiên cổ. Các thế hệ sau đánh giá đây là ngu trung với đất nước; ngươi có nghĩ họ thực sự ngu không? Thực ra, bây giờ nhìn vào, thì cái ngu này là gì? Nó là cách làm gian trá và tà ác nhất, trong đó có ý đồ cá nhân. Nó không phải là ngu, càng không phải là trung – mà là tà ác.

Chúng ta đã thông công rất nhiều về chủ đề kẻ địch lại Đấng Christ làm chứng cho mình. Còn vấn đề nào khác liên quan đến chủ đề này mà các ngươi vẫn chưa hiểu thấu không? Có những người làm chứng cho mình bằng ngôn ngữ, nói một số lời thể hiện bản thân, có những người thì dùng hành vi. Những biểu hiện của người dùng hành vi để làm chứng cho mình là gì? Bề ngoài, họ có một số hành vi khá hợp với quan niệm của mọi người, thu hút sự chú ý của mọi người và được mọi người xem là khá cao quý cũng như khá hợp với các tiêu chuẩn đạo đức. Những hành vi này khiến mọi người nghĩ rằng họ tôn quý, có nhân cách, rất yêu kính Đức Chúa Trời, rất ngoan đạo, rất có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, và là người mưu cầu lẽ thật. Họ thường thể hiện một số hành vi tốt bề ngoài để mê hoặc mọi người – chẳng phải nó cũng đầy mùi đề cao và làm chứng cho mình sao? Thông thường, người ta đề cao và làm chứng cho mình bằng lời, dùng lời nói rõ ràng để thể hiện họ khác người bình thường như thế nào và có những cao kiến hơn người như thế nào, để khiến mọi người coi trọng và ngưỡng vọng họ. Tuy nhiên, có một số phương thức không liên quan đến lời nói rõ ràng, mà thay vào đó người ta sử dụng những cách làm bên ngoài để làm chứng rằng họ hơn người. Những dạng cách làm này được suy tính kỹ lưỡng, kèm theo ý định, ý đồ nhất định, và đầy mục đích. Chúng được bao bọc, gia công để những gì mọi người thấy là một số hành vi và cách làm hợp với quan niệm của con người, cao quý, ngoan đạo và hợp với thể thống của thánh đồ, thậm chí còn đầy lòng yêu kính Đức Chúa Trời, kính sợ Đức Chúa Trời và hợp lẽ thật. Nó đạt được cùng một mục đích là đề cao và làm chứng cho chính họ, cũng như khiến mọi người coi trọng và tôn sùng họ. Các ngươi đã bao giờ gặp phải hoặc nhìn thấy những chuyện như thế này chưa? Bản thân các ngươi có những biểu hiện này không? Những điều này và chủ đề này mà Ta đang thảo luận có tách rời đời sống thực tế không? Trên thực tế là không. Ta sẽ cho một ví dụ rất đơn giản. Có những người, khi làm bổn phận, bề ngoài có vẻ vô cùng bận rộn; họ cố ý tiếp tục làm việc vào những lúc người khác ăn hoặc ngủ, còn khi người khác bắt đầu làm bổn phận, thì họ lại đi ăn hoặc ngủ. Mục đích của họ khi làm vậy là gì? Họ muốn thu hút sự chú ý và cho tất cả mọi người thấy rằng họ quá bận rộn làm bổn phận đến nỗi quên ăn, quên ngủ. Trong lòng họ còn nghĩ: “Các người thật chẳng mang gánh nặng gì cả. Ăn ngủ gì mà tích cực vậy? Đồ vô dụng! Nhìn tôi này, trong khi hết thảy các người ăn cơm thì tôi đang làm việc, ban đêm khi các người ngủ, tôi vẫn còn đang làm việc. Các người có thể chịu khổ như vậy được không? Tôi có thể chịu khổ như vậy; tôi làm gương bằng hành động”. Các ngươi nghĩ sao về kiểu hành vi và biểu hiện này? Chẳng phải những người này cố ý làm vậy sao? Có những người cố ý làm những việc này, và đây là dạng hành vi gì? Những người này muốn một mình một kiểu, khác với người thường và tỏ cho mọi người thấy rằng họ bận rộn làm bổn phận suốt đêm, rằng họ đặc biệt có khả năng chịu khổ. Như vậy, tất cả mọi người đều sẽ thương họ và cảm thông với họ, nghĩ rằng họ gánh trọng trách trên vai đến mức trăm công nghìn việc, lo toan đến quên ăn quên ngủ. Nếu họ không thể được cứu rỗi thì tất cả mọi người đều sẽ vì họ mà khẩn cầu Đức Chúa Trời, vì họ mà cầu xin Đức Chúa Trời và vì họ mà cầu nguyện. Khi làm vậy là họ đang dùng những hành vi và cách làm tốt hợp với quan niệm của con người, chẳng hạn như chịu khổ và trả giá, để che mắt mọi người, để lừa có được sự đồng tình và tán thưởng của mọi người. Và kết quả cuối cùng là gì? Ai tiếp xúc với họ và thấy họ trả giá cũng đều trăm miệng một lời: “Lãnh đạo của chúng ta thật xứng danh lãnh đạo nhất, có khả năng chịu khổ và trả giá nhất!”. Chẳng phải khi đó họ đã đạt được mục đích mê hoặc mọi người rồi sao? Rồi đến một ngày, nhà Đức Chúa Trời nói: “Lãnh đạo của các anh chị em không làm công việc thực tế. Họ bận rộn làm việc một cách mù quáng; họ làm xằng làm bậy và chuyên quyền độc đoán. Họ đã làm rối tinh rối mù công tác của hội thánh, việc nên làm thì không làm, chưa thực hiện công tác phúc âm hay công tác làm phim, và đời sống hội thánh cũng lộn xộn. Các anh chị em không hiểu được lẽ thật, không có lối vào sự sống và không thể viết bài làm chứng. Điều đáng thương nhất là thậm chí anh chị em còn không phân định được lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ. Dạng lãnh đạo này quá bất tài; họ chính là lãnh đạo giả nên bị cách chức để người khác lên thay!”. Trong những trường hợp này, có dễ cách chức họ và để người khác lên thay không? Có lẽ là không dễ. Vì các anh chị em đều tán thành và ủng hộ họ, nên ai mà cố thay thế lãnh đạo này, thì các anh chị em sẽ đệ đơn kháng nghị và gửi lời thỉnh cầu lên Bề trên để giữ họ lại. Tại sao lại có kết quả như vậy? Bởi vì kẻ lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ này sử dụng những hành vi tốt bề ngoài như chịu khổ và trả giá, cùng những lời êm tai để cảm hóa, mua chuộc và mê hoặc mọi người. Một khi họ đã sử dụng những hình tượng giả này để mê hoặc mọi người, thì tất cả mọi người đều sẽ nói cho họ và không thể rời bỏ họ. Những người này biết rõ rằng họ không làm nhiều công tác thực tế, không dẫn dắt dân được Đức Chúa Trời chọn hiểu lẽ thật và bước vào sự sống, nhưng vẫn ủng hộ, tán thành và đi theo họ, ngay cả khi điều đó nghĩa là sẽ không có được lẽ thật và sự sống, những người này cũng không quan tâm. Không chỉ có thế, do bị lãnh đạo này mê hoặc, những người này ai cũng tôn sùng họ, không chấp thuận bất kỳ lãnh đạo nào khác ngoài họ, thậm chí không còn muốn cả Đức Chúa Trời nữa. Chẳng phải họ đang xem lãnh đạo này là Đức Chúa Trời sao? Nếu nhà Đức Chúa Trời nói rằng người này không làm công việc thực tế và họ là lãnh đạo giả, là kẻ địch lại Đấng Christ, thì mọi người trong hội thánh của họ sẽ có thể kháng nghị và tạo phản. Nói Ta nghe, kẻ địch lại Đấng Christ này đã mê hoặc những người đó đến mức nào? Nếu đó là công tác của Đức Thánh Linh, thì tình trạng của mọi người chỉ có ngày càng tốt hơn, ngày càng hiểu được nhiều lẽ thật hơn, ngày càng thuận phục Đức Chúa Trời hơn, trong lòng có nhiều chỗ hơn cho Đức Chúa Trời và ngày càng có khả năng phân định lãnh đạo giả cũng như kẻ địch lại Đấng Christ. Từ góc độ này, trường hợp mà chúng ta vừa thảo luận hoàn toàn không phải là công tác của Đức Thánh Linh – chỉ những kẻ địch lại Đấng Christ và tà linh mới có thể mê hoặc mọi người đến mức như thế sau khi làm việc được một thời gian. Nhiều người đã bị những kẻ địch lại Đấng Christ này mê hoặc và khống chế, trong lòng chỉ có chỗ cho kẻ địch lại Đấng Christ, chứ không có chỗ cho Đức Chúa Trời. Đây chính là kết quả cuối cùng đạt được bởi việc kẻ địch lại Đấng Christ đề cao và làm chứng cho mình thông qua hành vi tốt bề ngoài. Họ dùng những hành vi tốt bề ngoài là chịu khổ và trả giá để đề cao và làm chứng cho mình, đó là một trong những thủ đoạn mà kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng để mê hoặc và khống chế mọi người. Bây giờ các ngươi đã thấy rõ vấn đề này rồi, phải không? Chẳng phải việc kẻ địch lại Đấng Christ sử dụng những hành vi tốt bề ngoài là chịu khổ và trả giá để mê hoặc mọi người là rất giảo hoạt và nham hiểm sao? Và chẳng phải có lúc các ngươi cũng làm những chuyện này sao? Có những người, buổi tối uống cà phê để nâng cao tinh thần, chuẩn bị thức khuya làm bổn phận. Các anh chị em lo lắng cho sức khỏe của họ và nấu canh gà cho họ. Ăn canh gà xong, những người này nói: “Tạ ơn đức chúa trời! Con đã được hưởng ân điển của đức chúa trời. Con không xứng đáng. Bây giờ ăn xong canh gà này, con phải làm bổn phận năng suất hơn!”. Trên thực tế, họ tiếp tục làm bổn phận như bình thường, mà không hề nâng cao năng suất gì cả. Chẳng phải họ đang giả vờ sao? Họ đang giả vờ, và loại hành vi này cũng là đề cao và làm chứng cho mình một cách trá hình; kết quả đạt được là khiến mọi người tán thành họ, coi trọng họ và một lòng một dạ đi theo họ. Nếu người ta có dạng tâm thái này, thì chẳng phải họ đã quên Đức Chúa Trời rồi sao? Họ không còn có Đức Chúa Trời trong lòng nữa, vậy ai là người họ nghĩ đến ngày đêm? Đó chính là “người lãnh đạo tốt” của họ, “người thân yêu” của họ. Có những kẻ địch lại Đấng Christ bề ngoài rất yêu thương hầu hết mọi người, và họ sử dụng những kỹ xảo khi nói chuyện, để mọi người thấy họ đầy yêu thương và sẵn lòng gần gũi họ. Hễ ai gần gũi và tiếp xúc với họ là họ mặt mày tươi cười, nói chuyện bằng giọng điệu rất nhẹ nhàng. Ngay cả khi họ thấy một số anh chị em vô nguyên tắc trong hành động, dẫn đến tổn hại cho lợi ích của hội thánh, họ cũng không tỉa sửa người ta chút nào, mà chỉ khuyến khích và an ủi, dỗ dành người ta làm bổn phận – họ dỗ dành, dỗ dành mọi người cho đến khi đưa được tất cả mọi người đến trước mặt mình. Mọi người dần dần bị những kẻ địch lại Đấng Christ này cảm hóa, ai cũng rất tán thành lòng yêu thương của họ và gọi họ là người yêu kính Đức Chúa Trời. Cuối cùng, tất cả mọi người đều tôn sùng họ, làm gì cũng tìm họ thông công, trong lòng có gì đều tâm sự với họ, đến độ thậm chí họ còn không cầu nguyện với Đức Chúa Trời hay tìm kiếm lẽ thật trong lời Ngài nữa. Những người này chẳng phải đã bị những kẻ địch lại Đấng Christ này mê hoặc sao? Đây cũng là một phương thức mà kẻ địch lại Đấng Christ dùng để mê hoặc mọi người. Khi các ngươi có những hành vi và cách làm này, hoặc nuôi những ý định này, các ngươi có ý thức được rằng làm như vậy là có vấn đề không? Và khi ý thức được, ngươi có thể thay đổi được phương hướng hành động của mình không? Khi ý thức được và kiểm điểm ra rằng hành vi, cách làm hoặc ý định của mình có vấn đề, mà ngươi có thể phản tỉnh và cảm thấy thực sự ân hận, thì chứng tỏ ngươi đã quay đầu. Nếu ngươi ý thức được những vấn đề của mình nhưng cứ mặc kệ và hành động theo ý đồ của chính mình, ngày càng lún sâu hơn cho đến mức độ không còn có thể tự thoát ra được, thì ngươi chưa quay đầu và ngươi có ý đồ đối đầu với Đức Chúa Trời, đề cao và làm chứng cho mình và rời khỏi con đường thật. Đây là tâm tính gì? Đó chính là tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ. Nó có nghiêm trọng không? (Thưa, có.) Nghiêm trọng như thế nào? Kết quả của việc người ta dùng những thủ đoạn nham hiểm và giả dối, dùng việc chịu khổ và trả giá để mê hoặc mọi người, cố khiến mọi người tôn thờ và đi theo mình, cũng giống như của người công khai đề cao và làm chứng cho mình – đều cùng một tính chất. Bất kể ngươi sử dụng phương thức nào để đề cao và làm chứng cho mình, dù nó là lời nói rõ ràng hay một số hành vi tốt khá rõ ràng, thì tính chất đều giống nhau. Nó có tính chất địch lại Đấng Christ và tính chất tranh đoạt với Đức Chúa Trời để giành lấy dân được Ngài chọn. Bất kể biểu hiện của ngươi thuộc dạng nào hay ngươi sử dụng phương thức nào, chỉ cần ý đồ của ngươi không thay đổi và gây ra hậu quả như nhau, thì tính chất đều giống nhau. Có thể thấy rõ rằng những kẻ địch lại Đấng Christ rất giảo hoạt, và không yêu hay mưu cầu lẽ thật. Tuy nhiên, họ có thể sử dụng việc chịu khổ và trả giá như một thủ đoạn để mê hoặc mọi người – đây chính là sự tà ác của kẻ địch lại Đấng Christ.

Có những người nói một số lời lẽ quái gở và luận điệu trừu tượng để khiến mọi người nghĩ rằng họ có tri thức, có học vấn, rằng hành động của họ rất có chiều sâu, từ đó đạt được mục đích khiến mọi người tôn sùng họ. Nghĩa là họ luôn muốn tham gia và nêu ý kiến trong mọi việc, ngay cả khi tất cả mọi người đều đã ra quyết định cuối cùng rồi mà họ không hài lòng, thì họ sẽ nói vài lời ba hoa phách lối để thể hiện bản thân. Đây chẳng phải là một phương thức đề cao và làm chứng cho mình sao? Có những việc mà thực ra mọi người đều đã bàn luận xong xuôi, hội ý với nhau, tìm thấy các nguyên tắc và quyết định kế hoạch hành động, nhưng họ lại không chấp thuận quyết định và chọc gậy bánh xe một cách vô lý, nói rằng: “Như thế không được. Các anh chị em chưa suy xét toàn diện việc này. Ngoài khía cạnh chúng ta vừa nói đến, tôi còn nghĩ đến một khía cạnh khác nữa”. Thực ra khía cạnh mà họ nghĩ đến chỉ là một lời lẽ quái gở nào đó; họ chỉ đang bới lông tìm vết. Họ biết rõ rằng mình đang bới lông tìm vết và làm khó người khác, nhưng vẫn làm. Mục đích của họ ở đây là gì? Đó là để cho mọi người thấy rằng họ khác với người thường, cao minh hơn người khác. Ý họ là: “Hóa ra trình của hết thảy các người chỉ đến đây thôi sao? Tôi phải cho các người thấy tôi ở trình cao hơn”. Bình thường, ai nói gì họ cũng không để ý, nhưng hễ sắp có chuyện gì đó quan trọng, là họ bắt đầu gây rối. Dạng người này gọi là gì? Nói thông tục thì họ được gọi là kẻ sinh sự, đồ đểu cáng. Cách tiếp cận thông thường của kẻ sinh sự là gì? Họ thích nói năng phách lối và có một số cách làm tà môn, lươn lẹo. Nếu ngươi bảo họ trình bày một phương án thực hành đúng đắn, họ sẽ không thể lập ra được, và nếu ngươi yêu cầu họ làm việc gì nghiêm túc, họ sẽ không thể làm được. Họ chỉ làm những chuyện tà môn, họ luôn muốn cho mọi người “kinh ngạc” và thể hiện bản lĩnh của mình. Có câu nói gì nhỉ? “Bà già tô son để cho bạn có cái mà nhìn”. Điều đó có nghĩa là họ luôn muốn thể hiện khả năng, bất kể có thể hiện bản thân tốt hay không, thì họ cũng muốn cho mọi người biết rằng: “Tôi nổi trội hơn mấy người. Mấy người đều chẳng ra gì, mấy người đều là phàm nhân, đều bình thường. Tôi mới là siêu phàm, thoát tục. Tôi sẽ chia sẻ ý kiến để làm các người kinh ngạc, để các người thấy tôi có phải là cao nhân hay không”. Chẳng phải đây là gây rối sao? Họ đang cố ý gây rối. Đây là dạng hành vi gì? Họ đang gây nhiễu loạn và gián đoạn. Ý họ là: tôi chưa thể hiện được sự cao minh trong việc này, nên mặc kệ lợi ích của ai bị tổn hại, mặc kệ sự trả giá của ai bị phí phạm, tôi cũng sẽ phá cho đến khi ai cũng cho rằng tôi cao siêu, tài giỏi và có năng lực. Chỉ khi đó tôi mới cho qua việc này. Những kẻ xấu xa như thế này có tồn tại không? Các ngươi có từng làm những chuyện này không? (Thưa, có. Có lúc mọi người đã bàn bạc xong xuôi về một việc và tìm được phương án thích hợp, nhưng vì họ không thông báo cho con biết trong quá trình ra quyết định, nên con cố tình tìm sai sót trong đó.) Khi làm vậy, trong lòng ngươi có biết rõ làm vậy là đúng hay sai không? Ngươi có biết tính chất của vấn đề này là nghiêm trọng và là gây nhiễu loạn, gián đoạn không? (Thưa, lúc đó con không ý thức được, nhưng thông qua việc bị các anh chị em tỉa sửa nghiêm khắc, và bằng cách ăn uống những lời phán xét và hành phạt của Đức Chúa Trời, con mới thấy rằng tính chất vấn đề này nghiêm trọng, rằng nó đang gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh, cũng như là một dạng hành vi Sa-tan.) Ngươi đã nhận ra mức độ nghiêm trọng của việc này, vậy sau đó, khi những chuyện tương tự xảy đến, ngươi có thể thay đổi một chút và có chút bước vào trong cách làm của mình không? (Thưa, có. Khi con bộc lộ những tâm tư ý niệm như thế, con đã ý thức được rằng đó là tâm tính Sa-tan, rằng con không thể làm như vậy, và con đã có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời, cũng như chống lại những tâm tư, ý niệm sai lầm đó một cách có ý thức.) Ngươi đã có thể thay đổi phần nào. Khi có những vấn đề bại hoại như thế, ngươi phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, phải ràng buộc bản thân và cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Khi ngươi nghĩ rằng người khác nhìn ngươi với con mắt khinh thường, rằng họ không xem trọng ngươi, không coi ngươi ra gì, và kết quả là ngươi muốn gây nhiễu loạn, khi có suy nghĩ này, ngươi phải ý thức được rằng nó không đến từ nhân tính bình thường, mà từ tâm tính Sa-tan, và rằng nếu cứ tiếp tục như vậy, thì ngươi sẽ gặp rắc rối và có thể xúc phạm tâm tính Đức Chúa Trời. Đầu tiên, ngươi phải biết ràng buộc bản thân, sau đó đến trước Đức Chúa Trời, cầu nguyện với Ngài và quay đầu. Khi con người sống trong tâm tư của chính mình, trong những tâm tính bại hoại của mình, thì trong mọi việc họ làm, chẳng có gì là hợp lẽ thật và có thể làm thỏa lòng Đức Chúa Trời; mà chỉ toàn là đối địch với Ngài. Bây giờ các ngươi đã có thể thừa nhận được sự thật này rồi, phải không? Việc luôn muốn tranh danh đoạt lợi, và không ngần ngại gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh để có được danh tiếng và địa vị, là những biểu hiện rõ ràng nhất của kẻ địch lại Đấng Christ. Thực ra, tất cả mọi người đều có những biểu hiện này, nhưng nếu ngươi có thể nhận ra và thừa nhận nó, sau đó quay đầu, có thái độ thực sự hối cải trước Đức Chúa Trời, và thay đổi cách tiếp cận, hành vi cũng như tâm tính của mình, thì ngươi chính là người đang mưu cầu lẽ thật. Nếu ngươi không thừa nhận những vấn đề thực tế này, thì chắc chắn ngươi cũng không có thái độ ăn năn, và ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật. Nếu ngươi nhất quyết đi con đường địch lại Đấng Christ và đi theo con đường này đến tận cùng, đồng thời ngươi vẫn cho rằng đây không phải là vấn đề cũng không sẵn lòng hối cải, nhất quyết hành động kiểu này và tranh danh đoạt lợi với các lãnh đạo và người làm công, cứ phải nổi trội hơn người, khác với người thường và bất kể giữa nhóm người nào cũng phải hơn người, thì ngươi gặp phiền phức rồi! Nếu ngươi một mực theo đuổi danh vọng và địa vị, có chết cũng không chịu hối cải, thì ngươi chính là kẻ địch lại Đấng Christ và cuối cùng ắt bị trừng phạt. Lời Đức Chúa Trời, lẽ thật, lương tâm và lý trí không có tác dụng đối với ngươi, và ngươi chắc chắn sẽ có cái kết của kẻ địch lại Đấng Christ. Ngươi không thể được cứu rỗi, và ngươi hết thuốc chữa rồi! Liệu con người có thể được cứu rỗi, dấn bước trên con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác hay không, phụ thuộc vào việc liệu họ có những biểu hiện hối cải thực sự sau khi biết mình hay không, còn phải xem thái độ của họ đối với lẽ thật, và con đường họ chọn. Nếu ngươi không từ bỏ con đường địch lại Đấng Christ, mà thay vào đó chọn thỏa mãn dã tâm, dục vọng của bản thân, trơ tráo đi ngược lại lẽ thật và đối đầu với Đức Chúa Trời, thì ngươi hết thuốc chữa rồi. Nếu ai đó phạm việc ác lớn đến đâu hay đã làm bao nhiêu việc ác, mà vẫn không biết sợ, cũng chẳng cảm thấy tội lỗi, lại còn không ngừng nói lý lẽ cho mình, mà không cảm thấy một chút ân hận nào, thì đó chính là kẻ địch lại Đấng Christ chính hiệu và là ma quỷ. Nếu ai đó chỉ có những biểu hiện khác nhau của kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng có thể thừa nhận sai lầm, quay đầu và có lòng ân hận, thì tính chất của nó khác so với kẻ địch lại Đấng Christ và hoàn toàn là chuyện khác. Cho nên, mấu chốt của việc người ta có thể được cứu rỗi hay không nằm ở chỗ họ có thể phản tỉnh bản thân hay không, có lòng hối cải hay không, và có thể dấn bước trên con đường mưu cầu lẽ thật hay không.

Mục 4, đề cao và làm chứng cho mình là một cách làm nhất quán của kẻ địch lại Đấng Christ. Với những thủ đoạn, phương thức và phương pháp rõ ràng mà kẻ địch lại Đấng Christ dùng để đề cao và làm chứng cho mình, thì các ngươi có thể phân định được, nhưng với những hành vi và biểu hiện khó thấy hơn, các ngươi có thể phân định được không? Với những chuyện rõ ràng như dùng lời lẽ để đề cao và làm chứng cho mình, thì bản thân các ngươi cũng có những bộc lộ này, đồng thời cũng thấy chúng nơi những người khác, và các ngươi có thể phân định được. Nhưng nếu không dùng ngôn ngữ mà chỉ có những biểu hiện về hành vi, thì liệu các ngươi còn có thể phân định được không? Có thể nói rằng hầu hết mọi người đều không phân định được. Vậy thì hành vi kẻ địch lại Đấng Christ đề cao và làm chứng cho mình có những đặc điểm gì? Hành vi của họ chắc chắn là hợp với những quan niệm, tưởng tượng, đạo đức, lương tâm và tình cảm của con người. Còn gì nữa? (Thưa, nó giành được sự tán thành và tôn sùng của mọi người.) Nó giành được sự tán thành và tôn sùng; đây là hậu quả mà nó đạt được. Nếu nhìn từ góc độ hậu quả, thì hành vi này thực sự có tính chất mê hoặc. Từ góc độ tính chất của hành động này, nó vô cùng có chủ đích. Chẳng hạn như có những người, khi đổ bệnh, nếu muốn mê hoặc mọi người và khiến mọi người coi trọng mình, thì họ sẽ uống thuốc trước mặt mọi người hay là khi xung quanh không có ai? (Thưa, trước mặt mọi người.) Chẳng phải có ý đồ hay sao? Vì vậy mới nói rằng họ vô cùng có chủ đích. Khi uống thuốc như vậy, mục đích thực sự của họ là gì? Khi làm vậy, họ muốn nhận công và nói với ngươi rằng: “Nhìn này, tôi làm bổn phận mệt đến phát bệnh, vậy mà vẫn không oán trách hay nhỏ một giọt nước mắt nào. Tôi đang chữa bệnh, đang phải uống thuốc, mà vẫn có thể kiên trì làm bổn phận”. Trên thực tế, chưa chắc họ đã mắc bệnh này do làm bổn phận mệt mỏi hoặc sau khi bắt đầu tin Đức Chúa Trời mới mắc bệnh. Họ chỉ đang sử dụng đủ kiểu hành vi để truyền một thông điệp đến mọi người, rằng họ đang chịu khổ và trả giá, họ đã chịu khổ quá nhiều trong môi trường này mà không một lời oán trách, vẫn có thể làm bổn phận chủ động và tích cực như vậy, rằng họ có ý chí chịu khổ. Như vậy vô hình trung là đang nói với mọi người điều gì? Rằng lòng trung thành của họ với Đức Chúa Trời là không thể nghi ngờ. Điều họ muốn thể hiện là họ trung thành và sẵn lòng trả giá. Đây chẳng phải là đề cao bản thân một cách trá hình sao? Nếu có lý trí, họ sẽ không mang chuyện này ra, họ sẽ cầu nguyện với Đức Chúa Trời khi xung quanh không có ai, bày tỏ quyết tâm hoặc cố gắng biết mình, hoặc chỉ đơn giản là uống thuốc bình thường. Tóm lại, họ sẽ không dùng những hành vi bề ngoài để nói với mọi người rằng họ đang chịu khổ, họ đang trung thành làm bổn phận và họ nên được thưởng. Họ sẽ không nuôi những ý định này. Tuy nhiên, nếu họ hành động theo cách đặc biệt phô bày, muốn khiến cho mọi người coi trọng và khen ngợi mình, thì việc này rất có chủ đích. Và mục đích của họ là gì? Đó là thông qua thông điệp họ truyền tới mọi người mà đạt được kết quả là đề cao và làm chứng cho mình. Nếu họ trung thành, Đức Chúa Trời sẽ biết, vậy tại sao họ phải khoe khoang với người khác và để cho mọi người khác biết. Mục đích của họ khi để cho người khác biết là gì? Chính là để khiến người khác coi trọng họ. Nếu không có mục đích này, thì họ sẽ hành động vô ý, và những người khác sẽ không thấy họ làm những chuyện này. Nếu rất có chủ đích, họ sẽ đo lường quy mô hành động của mình, để tâm và bỏ công sức vào thời gian và địa điểm, đợi cho đến khi tất cả mọi người đều có mặt để nhờ ai đó mang thuốc cho mình, gióng trống khua chiêng về việc đó. Trong việc này có một mục đích rất rõ ràng. Nếu không có mục đích này, thì họ sẽ đợi cho đến khi không có ai xung quanh để uống thuốc. Sự sẵn lòng chịu khổ và trả giá của ngươi liên quan đến mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời, ngươi không cần phải làm rõ cho người khác biết. Làm rõ cho người khác thì họ có thể cho ngươi cái gì? Ngoài việc có được sự đồng tình và khen ngợi của họ, ngươi có thể nhận được gì khác từ họ không? Không gì cả. Khi ngươi chịu khổ một chút và trả giá một chút trong khi làm bổn phận, thì một mặt, đó là những việc mà ngươi nên làm, ngươi cam tâm tình nguyện làm, và ngươi đang làm bổn phận của chính mình. Mặt khác, đó là những biểu hiện mà con người thọ tạo nên có với Đấng Tạo Hóa, vậy tại sao ngươi phải cho thiên hạ thấy làm gì? Khi ngươi cho thiên hạ thấy, chúng trở nên đáng kinh tởm; tính chất của hành vi như thế biến thành gì? Biến thành đề cao và làm chứng cho mình và mê hoặc người khác – tính chất đã thay đổi rồi. Chẳng hạn như có những người luôn gãi đầu trước mặt người khác, và khi có người hỏi về chuyện đó thì họ nói: “Hơn 10 ngày rồi tôi chưa gội đầu – tôi gặp đối tượng phúc âm hết ngày này qua ngày khác. Hôm trước tôi cố gắng thu xếp chút thời gian gội đầu, thì một đối tượng phúc âm đến tìm hiểu và tôi lại không rời đi được”. Thực ra họ chủ định không gội đầu để cho mọi người cảm thấy họ rất bận rộn làm bổn phận. Đây gọi là làm màu. Mục đích của họ khi làm màu là gì? Đó là để khiến mọi người coi trọng họ, và tính chất của hành vi này chính là đề cao và làm chứng cho mình. Ngay cả với một chuyện nhỏ như vậy mà họ cũng không bỏ qua, vẫn muốn quan trọng hóa, biến nó thành một dạng tài nguyên giá trị để lợi dụng, để thể hiện bản thân, thỏa mãn dã tâm, dục vọng của mình, cũng như đạt được mục đích khiến mọi người coi trọng và tôn sùng mình. Làm vậy chẳng đáng xấu hổ sao? Thật đáng xấu hổ và đáng kinh tởm. Hết thảy những việc này đến từ đâu? Chúng đến từ tâm tính bại hoại của Sa-tan, trong đó có sự giả vờ, giả dối, tà ác và dã tâm. Những người như vậy luôn nghĩ về thể diện, địa vị và danh tiếng của mình. Chuyện gì họ cũng không bỏ qua, luôn nghĩ đủ cách để biến những thứ đó thành vốn liếng, thành tài nguyên mà họ có thể sử dụng để khiến mọi người coi trọng và tôn sùng họ. Cuối cùng, khi đã đạt được mục đích, họ lại hành động như thể chuyện đó chẳng là gì. Khi thể hiện như thể chuyện đó chẳng là gì là họ đang tạo hình tượng giả mà thôi, thực ra bên trong họ đang thầm ăn mừng, thầm đắc ý. Như vậy chẳng phải càng đáng kinh tởm hơn sao? Rõ ràng là họ đã có địa vị rất cao, được mọi người coi trọng, ngưỡng vọng, vâng lời và đi theo, nhưng bề ngoài, họ vẫn giả vờ không thích địa vị. Như vậy càng giả tạo. Cuối cùng, tất cả mọi người đều bị họ mê hoặc và nói rằng họ trời sinh không có dã tâm, rằng họ là con người của hành động. Thực ra, một thử nghiệm nhỏ cũng có thể tỏ lộ chuyện này: nếu bị tước bỏ địa vị, họ sẽ lập tức ngừng làm bổn phận. Sẽ nhanh như vậy đấy; chỉ một chuyện nhỏ cũng sẽ tỏ lộ được dã tâm của họ. Đó chính là những hành vi và cách làm, cũng như những tình trạng xấu xí mà tâm tính bại hoại của Sa-tan gây ra trong con người. Từ những biểu hiện này, có thể thấy rằng con người thích địa vị và muốn chiếm một địa vị trong lòng người khác. Họ muốn chiếm hữu lòng người khác, lôi kéo người khác, khiến người khác tôn sùng, ngưỡng vọng và thậm chí đi theo họ, từ đó thay thế địa vị của Đức Chúa Trời trong lòng người khác. Đây là điều mà bẩm sinh ai cũng có. Nó chứng thực điều gì? Rằng trong sự sống của con người, thứ khống chế họ là tâm tính của Sa-tan. Trong nhân loại bại hoại, không có một người nào mà không thích địa vị cả – ngay cả những kẻ ngu cũng muốn làm quan, ngay cả những kẻ đần cũng muốn quản lý người khác. Ai cũng thích địa vị, ai cũng làm việc vì địa vị và tranh đoạt địa vị với Đức Chúa Trời. Ai cũng có những dạng hành vi và cách làm này, cũng như dạng tâm tính này. Cho nên, khi vạch trần việc đề cao và làm chứng cho mình của kẻ địch lại Đấng Christ, chúng ta cũng đang vạch rõ những tâm tính bại hoại của mọi con người. Mục đích của việc vạch rõ là gì? Đó là để khiến mọi người nhận thức được rằng những hành vi và biểu hiện đề cao và làm chứng cho mình này không phải là những gì nhân tính bình thường nên có, mà là sự bộc lộ của những tâm tính bại hoại, và là những thứ tiêu cực, đáng ghét. Bất kể những thủ đoạn đề cao và làm chứng cho mình của ngươi cao tay đến đâu, bất kể những hành động của ngươi kín đáo đến mức nào, thì đều không phải là thứ mà nhân tính bình thường nên có, hết thảy đều bị Đức Chúa Trời ghét bỏ, định tội và rủa sả. Cho nên, hết thảy mọi người đều nên từ bỏ những cách làm này. Đề cao và làm chứng cho mình không phải là một bản năng mà Đức Chúa Trời tạo dựng cho con người – mà là một trong những sự bộc lộ điển hình nhất của tâm tính bại hoại của Sa-tan, và càng là một trong những tâm tính và cách làm điển hình nhất, cụ thể nhất của thực chất bại hoại của Sa-tan.

Trong việc nhận thức được những biểu hiện khác nhau của việc đề cao và làm chứng cho mình, dù là những cách nói và cách làm rõ ràng hay là kín đáo hơn, thì thông công bằng một số ví dụ cụ thể có giúp ích cho các ngươi không? (Thưa, có giúp ích.) Giúp ích như thế nào? Nó có thể giúp con người phân định bản thân và người khác. Những tình trạng, biểu hiện và sự bộc lộ mà Ta đang nói đến này đều là những điều thường thấy nơi các ngươi, và các ngươi nên đối chiếu chúng với tình trạng của mình, nhận thức được rốt cuộc mình là gì, rốt cuộc thì sự sống mà mình phụ thuộc và dựa vào để tồn tại là gì, rốt cuộc thì trong đó chứa đựng những gì, rốt cuộc thì những tâm tính này chi phối con người làm những chuyện gì, và khiến con người sống thể hiện ra những điều gì. Thông qua việc nhận thức được những hành vi, biểu hiện, cách làm và tâm tính cụ thể này, con người có thể dần dần mổ xẻ và biết mình, biết thực chất của mình, và bản tính đối địch Đức Chúa Trời của mình, từ đó buông bỏ những cách làm này, đến trước Đức Chúa Trời và thực sự quay đầu, dựa theo lẽ thật mà thực hành và sống thể hiện ra. Có những người nói: “Vì đề cao và làm chứng cho mình là cách làm không hợp lẽ thật và thuộc về Sa-tan, thuộc về kẻ địch lại Đấng Christ, vậy nếu con không nói hoặc làm gì cả, thì chẳng phải nghĩa là con không đề cao và làm chứng cho mình sao?”. Nói vậy không đúng. Vậy làm thế nào để không đề cao và làm chứng cho chính mình? Cùng một sự việc, nếu ngươi thể hiện và làm chứng cho mình thì sẽ đem lại hậu quả là khiến một số người coi trọng và sùng bái ngươi. Nhưng nếu ngươi mở lòng bộc bạch để nhận biết bản thân, thì tính chất sẽ khác, tình hình thực tế có phải như vậy hay không? Mở lòng bộc bạch và nói về việc nhận biết bản thân, đây là điều mà nhân tính bình thường nên có, là điều tích cực. Nếu thực sự nhận biết được bản thân, nói một cách chuẩn xác và chân thực về tình trạng của mình, không sai chút nào, hoàn toàn là nhận thức căn cứ vào lời Đức Chúa Trời mà nói ra, mọi người nghe xong thì đều được gây dựng, được ích lợi, hơn nữa còn làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời, làm vinh hiển Ngài, đây chính là làm chứng cho Đức Chúa Trời. Nếu như mượn việc mở lòng bộc bạch mà nói rất nhiều về ưu điểm của mình, về việc bản thân chịu khổ và trả giá như thế nào, đứng vững làm chứng như thế nào, thì hậu quả sẽ là khiến người ta coi trọng và sùng bái ngươi, vậy thì đây chính là đang làm chứng cho chính mình. Ngươi cần phải biết phân định sự khác biệt giữa hai điều này. Ví dụ như, nói về chuyện khi gặp phải thử luyện, mình đã yếu đuối và tiêu cực như thế nào, sau đó đã cầu nguyện và tìm kiếm lẽ thật, cuối cùng hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời, rồi có đức tin, đứng vững làm chứng, đây chính là tôn cao và làm chứng cho Đức Chúa Trời, tuyệt đối không phải thể hiện và làm chứng cho chính mình. Cho nên, rốt cuộc có phải thể hiện và làm chứng cho chính mình hay không, chủ yếu phải xem điều họ nói có phải là trải nghiệm thực sự hay không, có thể đạt đến hiệu quả làm chứng cho Đức Chúa Trời hay không, ngoài ra còn phải xem mục đích, ý định của việc nói về lời chứng trải nghiệm, như vậy thì sẽ dễ dàng phân định. Nếu ý định khi nói lời chứng là đúng đắn, thì cho dù có người coi trọng và sùng bái ngươi, chuyện đó cũng không thành vấn đề. Còn khi ý định không đúng, cho dù không có ai coi trọng và sùng bái ngươi, đó vẫn sẽ là vấn đề, nếu có người coi trọng và sùng bái, thì càng là vấn đề. Cho nên, để xác định có phải là đề cao và làm chứng cho bản thân hay không, thì không thể chỉ nhìn từ hậu quả để phân định, mà chủ yếu là nhìn vào ý định, căn cứ vào ý định để phân định thì mới chuẩn xác, nếu như chỉ căn cứ vào hậu quả để phân định thì dễ đổ oan cho người tốt. Có những người chia sẻ lời chứng vô cùng chân thực, được một vài người coi trọng và sùng bái, ngươi có thể nói rằng họ làm như vậy là đang làm chứng cho chính mình không? Không thể nói như vậy, không có vấn đề gì với người chia sẻ lời chứng. Lời chứng họ chia sẻ, bổn phận họ thực hiện là có ích lợi cho người khác, chỉ có người ngu muội, vô tri và lĩnh hội một cách lệch lạc mới sùng bái con người. Khi phân định người nào đó có phải là đề cao và làm chứng cho chính mình hay không, thì mấu chốt là phải xem ý định bên trong người chia sẻ lời chứng là gì. Nếu có ý định để cho mọi người nhìn thấy sự bộc lộ bại hoại của mình, nhìn thấy mình chuyển biến như thế nào, từ đó mà có được lợi ích, thì lời ngươi nói ra là thành khẩn, chân thực, phù hợp với sự thật. Ý định như vậy là đúng đắn, không phải là thể hiện và làm chứng cho chính mình. Nếu ý định là để cho mọi người nhìn thấy ngươi có trải nghiệm thực sự, thấy ngươi có biến đổi và có thực tế lẽ thật, rồi có thể coi trọng và sùng bái ngươi, vậy thì ý định này là sai trái, chính là đang thể hiện và làm chứng cho chính mình. Nếu lời chứng trải nghiệm ngươi chia sẻ là giả, là thêm mắm dặm muối, muốn che mắt người khác, không để người khác nhìn thấy tình trạng thực sự của ngươi, không để cho ý định, sự bại hoại hoặc sự yếu đuối, tiêu cực của ngươi bị bại lộ trước mặt người khác, thì những lời nói đó chính là đang lừa gạt, mê hoặc con người, là lời chứng giả mạo, là lừa gạt Đức Chúa Trời và làm ô danh Ngài, là điều mà Đức Chúa Trời thù ghét nhất. Những loại tình trạng này đều có khác biệt rõ ràng, đều là căn cứ vào ý định để phân định. Nếu có thể phân định được người khác, ngươi sẽ có thể nhìn thấu được tình trạng của họ, như thế, ngươi sẽ phân định được chính mình, cũng như có thể nhìn thấu được tình trạng của mình.

Sau khi nghe giảng đạo nhiều như vậy rồi, có những người vẫn tiếp tục đề cao và làm chứng cho mình như trước. Các ngươi nên đối đãi với những người như vậy thế nào? Hãy biết phân định họ, vạch trần họ và giữ khoảng cách với họ. Nếu lời họ có giá trị tham khảo, thì ngươi có thể tiếp thu, nhưng nếu lời họ không có giá trị tham khảo gì cả, thì ngươi nên vứt bỏ và đừng để bị ảnh hưởng bởi chúng. Nếu người đang nói đến là lãnh đạo, thì hãy vạch trần họ, tố giác họ, từ bỏ họ và không chấp nhận sự lãnh đạo của họ. Hãy nói rằng: “Anh luôn đề cao và làm chứng cho mình, anh luôn khiến chúng tôi tê liệt và khống chế chúng tôi, mê hoặc chúng tôi. Chúng tôi đều ngày càng xa rời Đức Chúa Trời, thậm chí còn không có Đức Chúa Trời trong lòng – chỉ có anh. Bây giờ chúng tôi sẽ đứng lên và từ bỏ anh”. Các ngươi phải làm như vậy, các ngươi phải giám sát lẫn nhau, giám sát chính mình lẫn người khác. Chẳng phải các ngươi thường xuyên gãi đầu trước mặt người khác, hoặc nói với mọi người rằng mình đã bỏ vài bữa trong khi thực ra ăn không ít đồ ăn vặt sau lưng họ sao? Đôi lúc, khi hoàn cảnh không cho phép, thì việc người ta không tắm trong một tháng, hoặc bỏ tắm hay bỏ gội đầu vì quá bận rộn với công việc, là chuyện bình thường. Đây đều là những chuyện bình thường, là những cái giá mà con người nên trả. Nó chẳng đáng để tính đến – đừng chuyện bé xé ra to. Nếu ai đó thực sự chuyện bé xé ra to đối với những chuyện như vậy, cố tình gãi đầu trước mặt người khác và nói chưa gội đầu vài ngày, cố tình uống thuốc trước mặt người khác, hoặc giả vờ kiệt sức và sức khỏe rất kém, thì tất cả mọi người nên đứng lên vạch trần họ và tỏ thái độ ác cảm với họ. Như vậy, những kẻ vô liêm sỉ này mới có thể bị hạn chế. Họ đang đạo đức giả, họ đang làm màu cho người khác thấy, thế mà lại cố gắng khiến mọi người bày tỏ sự khen ngợi hành vi của họ, nhìn họ với con mắt ngưỡng mộ, thán phục và tán thưởng. Chẳng phải họ đang lừa mọi người sao? Những cách làm này giống như khi những người Pha-ri-si cầm Kinh Thánh và cầu nguyện ở ngã tư đường, chẳng khác gì cả. Hễ có người nói đến việc người Pha-ri-si cầm Kinh Thánh đứng ở ngã tư mà đọc Kinh Thánh hoặc cầu nguyện, thì những người này liền nghĩ: “Thật quá ô nhục. Mình sẽ không bao giờ làm chuyện như thế”. Nhưng họ lại cố tình uống thuốc hoặc gãi đầu trước mặt người khác, mà không ý thức được rằng những gì họ đang làm có cùng tính chất. Họ không thể nhìn thấu điều này. Sau này mà gặp những chuyện như thế, các ngươi phải học cách phân định và vạch trần những người như vậy, vạch trần mọi sự đạo đức giả của họ – khi đó họ mới không dám hành động theo kiểu đó. Các ngươi phải tạo chút áp lực cho họ, và để cho họ cảm thấy những cách làm, hành vi và tâm tính như thế là đáng xấu hổ, ai cũng ghê tởm. Nếu con người còn ghê tởm như vậy, thì Đức Chúa Trời có ghê tởm không? Ngài còn ghê tởm hơn. Ngươi vốn chẳng là gì. Dù ngươi không đề cao và làm chứng cho mình thì cũng đủ đáng thương hại rồi, nên nếu ngươi đáng thương hại như thế mà vẫn đề cao và làm chứng cho mình, thì chẳng phải sẽ khiến mọi người kinh tởm sao? Ngươi chưa bao giờ trung thành thực hiện bổn phận, chưa bao giờ hành động có nguyên tắc, và chưa đáp ứng được yêu cầu của Đức Chúa Trời trong bất kỳ khía cạnh nào. Như vậy là phiền phức to rồi, nếu ngươi còn đề cao và làm chứng cho mình nữa, thì chẳng phải mọi thứ sẽ càng khó khăn hơn cho ngươi sao? Ngươi sẽ càng xa yêu cầu của Đức Chúa Trời và càng cách xa việc đạt đến tiêu chuẩn được cứu rỗi.

Nói Ta nghe, tính chất của vấn đề đề cao và làm chứng cho mình là gì? Sa-tan đã làm bại hoại con người đến mức độ như thế; chẳng phải nhân tính và lý trí của họ không còn bình thường nữa sao? Khi làm bổn phận, các ngươi có những biểu hiện của việc đề cao và làm chứng cho mình không? Ai có thể nói nào? (Thưa, con đã từng có biểu hiện như thế. Khi làm bổn phận cho đến đêm khuya, con sẽ gửi một tin nhắn vào nhóm họp để người khác biết giờ này con vẫn chưa ngủ và để họ nghĩ rằng con có thể chịu khổ và trả giá. Bản thân con đã làm việc đó, con cũng thường thấy những người khác cũng làm như vậy.) Xem ra có nhiều người như vậy, không phải số ít. Làm chuyện như vậy chẳng phải là quá dư thừa sao? Thật quá ngu xuẩn! Còn ai khác muốn nói không? (Thưa, con đã từng có biểu hiện như thế. Khi thấy một số vấn đề tồn tại trong công tác của hội thánh, thì con sẽ bắt tay vào giải quyết, tạo hình tượng giả như thể con rất nhiệt huyết, nhưng đa phần sau khi nói xong, con không thực sự làm gì cả. Việc con làm không tiến triển và không năng suất, cuối cùng vấn đề vẫn chưa được giải quyết và việc đó bị để tồn đọng. Con sử dụng sự nhiệt huyết bề ngoài của mình để đánh lừa mọi người và che đậy chân tướng rằng con không thực hành lẽ thật.) Ngươi đang nói suông, mạnh miệng và không có hành động thực sự nào. Ngươi để cho mọi người thấy khí thế của mình, như thể ngươi đang thực hành lẽ thật, nhưng đến lúc làm, ngươi lại không làm cho đến nơi đến chốn mà chỉ hô khẩu hiệu. Cuối cùng, đầu voi đuôi chuột, ngươi để cho việc đó dang dở. Biểu hiện như thế cũng mang tính chất mê hoặc. Và sau này, khi chuyện tương tự xảy đến, liệu ngươi có biết phân định trong chuyện này không? (Thưa, bây giờ con đã biết phân định phần nào.) Vậy ngươi có phương hướng để xoay chuyển không? Nếu chuyện như vậy xảy đến lần nữa, ngươi có thể làm theo hai bước: bước thứ nhất là đánh giá xem liệu ngươi có thể thực sự làm tốt chuyện này không. Nếu có thể thì ngươi nên bắt tay vào làm một cách nghiêm túc và thực tế. Bước thứ hai là cầu nguyện trước Đức Chúa Trời và xin Ngài dẫn dắt ngươi nên làm thế nào, và khi làm, ngươi cũng cần tiếp nhận sự giám sát của mọi người, đồng thời quyết tâm hợp tác và phối hợp với mọi người để hoàn thành việc này. Nếu ngươi học cách làm việc theo từng bước và làm việc cho đến nơi đến chốn, thì ngươi sẽ giải quyết được vấn đề này. Khi làm việc gì đó, nếu ngươi luôn nói suông, mạnh miệng, ba hoa, chỉ làm chiếu lệ bề ngoài và không hề thực tế, thì ngươi là kẻ vô lại. Xét việc ngươi có thể thấy ra vấn đề trong công tác của hội thánh và có thể đề xuất cách giải quyết vấn đề, chứng tỏ ngươi có lẽ có tiềm năng và năng lực công tác để làm tốt việc này. Chỉ có điều là tâm tính ngươi có vấn đề – ngươi hành động nóng nảy, không sẵn lòng trả giá và chỉ chú trọng hô khẩu hiệu suông. Một khi phát hiện được vấn đề, đầu tiên hãy nhìn xem ngươi có thể giải quyết được hay không, và nếu ngươi có thể giải quyết, thì hãy gánh vác nhiệm vụ này và gánh vác cho tới cùng, làm cho xong việc, làm tốt và làm hết trách nhiệm của mình, cũng như giải trình với Đức Chúa Trời. Đây chính là làm bổn phận, là làm việc và làm người cho đến nơi đến chốn. Nếu ngươi không thể giải quyết được vấn đề này, thì hãy phản ánh với lãnh đạo, xem ai là người phù hợp nhất để làm việc này. Đầu tiên, ngươi phải làm hết trách nhiệm của mình; như vậy, ngươi mới giữ vững bổn phận và đứng đúng vị trí. Sau khi phát hiện vấn đề, nếu ngươi không thể giải quyết, nhưng có thể phản ánh, thì ngươi đã làm tròn trách nhiệm đầu tiên của mình. Nếu ngươi cảm thấy đây là bổn phận mình nên làm và mình có thể làm được, thì ngươi nên tìm kiếm sự trợ giúp của các anh chị em, đầu tiên là thông công về các nguyên tắc và lập kế hoạch, sau đó phối hợp hài hòa với nhau để hoàn thành việc này. Đây là trách nhiệm thứ hai của ngươi. Nếu ngươi có thể gánh vác cả hai trách nhiệm này, thì ngươi sẽ làm tốt bổn phận của mình và là một loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn. Bổn phận của con người không gì khác ngoài hai khía cạnh này. Nếu ngươi có thể gánh vác những việc mà ngươi thấy được và làm được, làm tốt bổn phận của mình, thì ngươi hợp tâm ý của Đức Chúa Trời rồi.

Còn biểu hiện nào khác của việc đề cao và làm chứng cho mình không? (Thưa, gần đây con có biểu hiện như thế. Trong khi làm bổn phận, con bận rộn cả ngày, và có một số vấn đề trong hội thánh mà con chưa giải quyết được một cách thực tế, mà thay vào đó chỉ làm qua loa cho xong. Nhưng một số người thấy ngày nào con cũng bận rộn làm bổn phận, nên xem trọng và thán phục con. Hành vi này cũng có yếu tố đề cao và làm chứng cho mình, đúng không ạ? Con không thể nhìn thấu được việc này và luôn cảm thấy bị kìm kẹp một chút.) Đây có phải là làm chứng cho mình không? Nếu ngươi bận rộn làm bổn phận, có thể chịu khổ và không oán trách, và dân được Đức Chúa Trời chọn coi trọng, thán phục ngươi, thì đó là chuyện bình thường và không phải là do ngươi làm chứng cho mình mà ra. Nếu ngươi chỉ bận rộn làm bổn phận và không khoe khoang hay thể hiện bản thân, cũng không nói mãi về những trải nghiệm chịu khổ của mình, thì điều này không liên quan đến việc làm chứng cho mình. Mặc dù nhiều người bề ngoài trông có vẻ bận rộn khi làm bổn phận, nhưng trên thực tế, họ không mang lại thành quả nào, cũng không giải quyết được vấn đề gì. Đức Chúa Trời có khen ngợi những người bận rộn kiểu đó không? Nếu ngươi bận rộn cả ngày với những vấn đề đơn giản mà người lĩnh hội lẽ thật và nắm được nguyên tắc có thể giải quyết trong vòng hai giờ, lại còn cảm thấy rất mệt nhọc, cảm thấy mình đã chịu khổ quá nhiều, thì đây không phải là đang tự làm mình bận rộn đôn đáo và vô ích sao? Người làm bổn phận kiểu này thì có được Đức Chúa Trời khen ngợi không? (Thưa, không.) Ngươi đang làm việc với năng suất quá kém! Đối với chuyện này, ngươi phải tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật. Có lúc người ta có rất nhiều việc phải làm và thực sự bận rộn, đó là chuyện bình thường; nhưng có lúc họ không có nhiều việc để làm, mà vẫn bận rộn. Nguyên nhân là gì? Một nguyên nhân là do công việc của ngươi không được lập kế hoạch và sắp xếp hợp lý. Ngươi phải nắm được những công tác chính yếu trong chức trách của mình, lập kế hoạch và sắp xếp chúng hợp lý, đồng thời nâng cao năng suất làm bổn phận. Bận rộn đôn đáo và vô ích sẽ không được Đức Chúa Trời khen ngợi. Một trường hợp khác là khi ngươi có ý định khiến mọi người cảm thấy ngươi bận rộn, và ngươi sử dụng phương thức này cũng như hình tượng giả để đánh lừa người khác. Có những lãnh đạo và người làm công, mỗi khi nhóm họp, đều không giải quyết vấn đề thực tế, mà thay vào đó đưa ra những bình luận vô bổ, đi lạc đề không ngừng và nói mãi mà chưa đến điểm chính. Kiểu bận rộn không phấn đấu hướng tới năng suất hoặc tiến độ này gọi là tự làm mình bận rộn vô ích. Và đây là kiểu thái độ gì? Đó là làm công tác theo kiểu cho có, qua loa chiếu lệ, giết thời gian và cuối cùng vẫn cho rằng: “Dù người khác nghĩ gì hay Đức Chúa Trời nghĩ gì đi nữa, thì cũng chỉ cần lương tâm mình bình an là được. Ít nhất mình cũng không ăn không ngồi rồi, ít nhất mình cũng không ăn cơm chùa”. Bề ngoài, có vẻ như ngươi không ăn không ngồi rồi, ngươi không ăn cơm chùa, hàng ngày ngươi không tham gia nhóm họp thì cũng làm bổn phận, và mọi việc ngươi làm đều liên quan đến công tác của hội thánh, nhưng trên thực tế, nơi sâu thẳm nội tâm ngươi biết rằng những việc ngươi đang làm không hề hữu ích hoặc có giá trị gì cả, rằng ngươi đang làm cho có. Như vậy là có vấn đề. Vậy ngươi đang làm bổn phận tốt đến đâu? Ngươi biết rất rõ rằng ngươi có vấn đề, nhưng lại không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết – đây chính là qua loa chiếu lệ, tê liệt và cương ngạnh. Hậu quả của việc qua loa chiếu lệ và câu thời gian khi làm bổn phận là gì? Chắc chắn ngươi sẽ không được Đức Chúa Trời khen ngợi, bởi vì ngươi làm việc không có nguyên tắc hoặc năng suất, và làm bổn phận như thế này chỉ là đem sức lực phục vụ. Nếu ngươi bị tỉa sửa và được giúp đỡ, nhưng vẫn không hối cải, thậm chí còn oán trách, tiêu cực và chểnh mảng trong khi làm việc, thì ngươi chỉ có thể bị đào thải. Cho nên, nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật để giải quyết vấn đề qua loa chiếu lệ, thì dù ngươi làm bổn phận trong bao lâu cũng vô ích, và ngươi sẽ không đạt tiêu chuẩn làm bổn phận với lòng trung thành. Vấn đề này đáng để phản tỉnh. Đức Chúa Trời yêu cầu con người làm việc có nguyên tắc, thực hành lẽ thật và làm người trung thực. Nếu có thể bước vào những lẽ thật này, thì sẽ làm bổn phận có kết quả và ít ra cũng có thể làm việc có nguyên tắc. Căn bản và mấu chốt để nâng cao năng suất nằm ở chỗ này. Nếu không có các nguyên tắc lẽ thật, thì dù có bận rộn thực hiện bổn phận đến đâu và dù làm việc bao lâu mỗi ngày, cũng sẽ không có kết quả thực sự. Khi đánh giá việc con người có làm bổn phận với lòng trung thành hay không, Đức Chúa Trời không nhìn vào việc họ làm bổn phận trong bao lâu, mà nhìn vào những kết quả thực tế và năng suất làm việc của họ, cũng như việc họ có làm việc có nguyên tắc và hợp lẽ thật hay không. Nói một cách đơn giản, Ngài nhìn vào việc con người có lời chứng trải nghiệm thực sự và lối vào sự sống khi làm bổn phận hay không. Nếu không có bất kỳ thực tế lẽ thật nào, thì con người chỉ là người đem sức lực phục vụ, nhưng nếu họ có thể thực hành lẽ thật và làm việc có nguyên tắc, thì đó là dấu hiệu cho thấy họ đang thực hiện bổn phận như dân của Đức Chúa Trời. Thông qua so sánh này, có thể hiểu rằng chỉ những người làm bổn phận đạt tiêu chuẩn mới có thể được coi là dân của Đức Chúa Trời. Những người làm bổn phận không đạt tiêu chuẩn, luôn qua loa chiếu lệ, chỉ là người đem sức lực phục vụ. Nếu có thể đi đến chỗ hiểu được lẽ thật và làm việc có nguyên tắc, thì làm bất kỳ bổn phận nào cũng sẽ không thành vấn đề, và chỉ cần tìm tòi một thời gian thì cuối cùng sẽ có thể đạt đến làm bổn phận đạt tiêu chuẩn. Đối với những người quá kém về tố chất hoặc luôn qua loa chiếu lệ, thì sẽ khó đáp ứng yêu cầu, và việc làm bổn phận của họ chẳng qua chỉ là đem sức lực phục vụ. Đối với những người hồ đồ, những người ngu dốt và những người có nhân tính quá xấu, không chuyên tâm vào việc chính đáng, không tiếp nhận lẽ thật dù được thông công thế nào đi nữa, lại còn tiếp tục làm xằng làm bậy, thì chỉ có thể bị đào thải, để cho họ muốn tin Đức Chúa Trời thế nào thì tin. Vì vậy, nếu làm bổn phận mà không có nguyên tắc, mỗi ngày bận rộn đôn đáo và vô ích, thì phải khẩn trương tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chuyện này và đạt đến làm việc có nguyên tắc. Mỗi ngày nên có thể làm bổn phận một cách bình thường và không được thấy mình làm việc lâu giờ là đã hài lòng, quan trọng là phải năng suất và có được thành phẩm – chỉ những người như thế mới là người được Đức Chúa Trời khen ngợi và trung thành làm bổn phận.

Ngày nay, có nhiều người đi theo Đức Chúa Trời và đang thực hiện bổn phận của mình, nhưng có một bộ phận không bao giờ mưu cầu lẽ thật, khi thực hiện bổn phận thì luôn tùy ý làm bậy, làm theo ý mình, muốn làm sao thì làm vậy. Họ không phạm sai lầm lớn, nhưng không ngừng phạm những sai lầm nhỏ, ngày nào trông cũng có vẻ bận rộn, nhưng trên thực tế thì không làm bao nhiêu việc chính đáng và đang sống cho qua ngày. Cũng có thể nói rằng họ chỉ làm công việc của mình để kiếm sống. Những người như thế chẳng phải gặp nguy hiểm sao? Nếu luôn tiếp cận bổn phận của mình và sự ủy thác của Đức Chúa Trời với thái độ khinh mạn như vậy, thì hậu quả sẽ như thế nào? Làm công tác không hiệu quả và bị tước bổn phận là hậu quả nhẹ – nếu làm đủ loại việc ác thì nên bị thanh lọc, và Đức Chúa Trời sẽ giao một kẻ như vậy cho Sa-tan. Bị giao cho Sa-tan nghĩa là gì? Nghĩa là Đức Chúa Trời sẽ mặc kệ họ, Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi họ, và họ sẽ bắt đầu đi sai đường để rồi bị trừng phạt. Các ngươi hiểu được chuyện này, phải không? Bây giờ là thời điểm Đức Chúa Trời tỏ lộ con người, và nếu ngươi nhất thời không đi đúng đường, thì Đức Chúa Trời sẽ mượn hoàn cảnh thực tế để cho ngươi cơ hội nhận thức được vấn đề của mình. Nhưng một khi ngươi biết rằng Đức Chúa Trời đã cho ngươi chút thời gian để phản tỉnh, đang cho ngươi một cơ hội cuối cùng, mà ngươi vẫn không quay đầu, vẫn ngoan cố làm bổn phận qua loa chiếu lệ, thì Đức Chúa Trời sẽ hành động. Khi hủy diệt thành Ni-ni-ve, Đức Chúa Trời có làm ngay không? Không. Khi Đức Chúa Trời hành động, bước đầu tiên của Ngài là gì? Đầu tiên, Ngài thông báo cho Giô-na, và phán bảo rõ ràng với ông về toàn bộ tiến trình sẽ như thế nào và ý của Ngài là gì. Sau đó, Giô-na đến thành Ni-ni-ve và đi khắp quanh thành, thông báo rằng: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-ve sẽ bị đổ xuống!” (Giô-na 3:4). Thông điệp này đã đến tai hết thảy mọi người; đàn ông, đàn bà, người trẻ, người già, và dân chúng từ mọi ngành nghề xã hội đều nghe tin – mọi nhà đều hay biết, ngay cả nhà vua cũng nghe tin. Tại sao Đức Chúa Trời lại hành động như vậy? Nhìn vào việc này, có thể thấy rằng dù Đức Chúa Trời cứu rỗi, tỏ lộ hay trừng phạt con người, thì cách Ngài đối đãi con người đều có trình tự và nguyên tắc. Ngài không hành động tùy hứng, thấy ai không vừa mắt liền lập tức tiêu diệt. Mà thay vào đó, Ngài để chút độ chênh về thời gian. Khi để chút độ chênh về thời gian này, mục đích của Ngài là gì? (Thưa, đó là để cho con người hối cải.) Đó là để cho dân Ni-ni-ve biết Ngài định làm gì và để cho họ phản tỉnh, từng chút hiểu được tâm ý của Ngài và dần dần bắt đầu quay đầu. Có quá trình để con người nhận ra được điều này, và 40 ngày này chính là thời gian Đức Chúa Trời cho con người để quay đầu. Nếu sau 40 ngày mà họ vẫn không quay đầu và không nhận tội với Ngài, thì Ngài sẽ hoàn thành việc này theo những gì Ngài đã phán. Đó là bởi Đức Chúa Trời đã phán tất tính, đã tính tất thành – những lời này không có gì sai. Vậy thì khi nhận được tin này, phản ứng của dân Ni-ni-ve là gì? Họ có lập tức quấn bao gai và ngồi trong tro không? Không, chuyện này có một quá trình. Lúc đầu, mọi người có thể nghi ngờ: “Đức Chúa Trời định hủy diệt chúng ta, Ngài thực sự phán như vậy sao? Chúng ta đã làm gì?”. Sau đó, mọi nhà đều báo tin cho nhau và cùng nhau bàn luận về việc này. Họ cảm thấy nguy cơ đã đến và họ đang đứng trước ngã rẽ sinh tử tồn vong. Vậy thì họ nên làm gì? Họ nên nhận tội và hối cải, hay hoài nghi và phản kháng? Nếu họ thực sự chọn cách hoài nghi và phản kháng, thì hậu quả sẽ là họ bị hủy diệt sau 40 ngày, nhưng nếu họ nhận tội và quay đầu, thì họ vẫn còn đường sống. Sau khi bàn luận về việc này ở mọi tầng lớp trong nhiều ngày, một bộ phận cực nhỏ người dân đã có thể có thái độ nhận tội và quay đầu. Họ đã có thể quỳ lạy, hiến tế hoặc thể hiện một số hành vi và biểu hiện tốt. Nhưng có một nhân vật quan trọng nhất đã cứu sống thành này – đó là ai? Đó chính là vua Ni-ni-ve. Ông đã ra lệnh cho cả nước, từ nhà vua cho đến tận dân thường dưới đáy xã hội, đều phải quấn bao gai và ngồi trong tro để nhận tội và hối cải với Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Sau khi một lệnh như vậy được ban hành, liệu có bất kỳ ai trong thành dám không làm không? Vua có dạng quyền lực này. Nếu ông sử dụng quyền lực trong tay để làm những việc xấu, thì người dân cả nước đã phải chịu đại họa, nhưng thay vào đó, ông đã sử dụng quyền lực này để làm những việc tốt, những việc thờ phượng Đức Chúa Trời và quay trở lại với Ngài, và thành phố được tồn tại, người dân cả nước đã được cứu sống và có hy vọng được xá tội. Chẳng phải điều này được quyết định chỉ bởi một suy nghĩ của vị vua này sao? Nếu ông nói: “Dù các ngươi có sẵn lòng hối cải hay không, ta cũng sẽ không hối cải; các ngươi muốn làm gì thì làm. Ta không tin vào những chuyện như thế, ta cũng chưa làm gì ác cả. Ta còn có địa vị nữa, Đức Chúa Trời làm gì được ta? Ngài có thể truất ngôi của ta không? Nếu thành này bị hủy diệt thì cứ để vậy đi. Không có những dân chúng này, ta vẫn là vua như trước!”. Nếu ông có ý nghĩ và tư tưởng như thế thì sao? Thì số dân chúng được cứu rỗi sẽ ít hơn nhiều, và cuối cùng Đức Chúa Trời có thể chọn lọc đưa ra khỏi đó những người sẵn lòng hối cải. Sau khi Ngài đưa họ ra, những người thà chết cũng không hối cải sẽ bị hủy diệt cùng thành, và tất nhiên vua cũng nằm trong số đó. Còn đối với những người sẵn lòng hối cải, họ sẽ có thể tiếp tục sống sau khi được Đức Chúa Trời đưa ra khỏi thành. Nhưng điều tuyệt vời nhất ở đây là vua Ni-ni-ve đã có thể đi đầu trong việc quấn bao gai và ngồi trong tro, đồng thời lệnh cho dân chúng trong thành, dù là đàn bà hay đàn ông, trẻ hay già – bất kể là ai, bất kể quan lại cấp cao đến đâu hay người dân thấp cổ bé họng thế nào – từ quý tộc cho đến dân thường, tất cả đều phải quấn bao gai và ngồi trong tro, quỳ lạy trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời, phủ phục và nhận tội, tỏ thái độ quay đầu, rời bỏ con đường ác và vứt bỏ việc ác trong tay, hối cải với Đức Chúa Trời và cầu xin Ngài không hủy diệt họ. Vua Ni-ni-ve đi đầu bằng việc hối cải và nhận tội với Đức Chúa Trời, và nhờ thế mà cứu được toàn bộ dân chúng trong thành, nhiều người được lợi cùng ông. Bằng cách đi đầu trong việc làm này, quyền lực của ông đã có giá trị. Việc vị vua này dẫn dắt dân mình quay trở lại trước Đức Chúa Trời là điều mà Đức Chúa Trời ghi nhớ.

Việc thông công về nội dung kẻ địch lại Đấng Christ đề cao và làm chứng cho mình chi tiết như vậy thì có ích lợi gì cho các ngươi không? Thông công lặp đi lặp lại nhiều lần như thế này, đưa ra ví dụ, kể câu chuyện, sử dụng các phương thức và từ ngữ khác nhau để mô tả và định nghĩa – nếu người ta vẫn không hiểu, thì họ thực sự không có hiểu biết thuộc linh rồi, và những người như thế này vô phương cứu vãn. Mục đích của việc thông công chi tiết như vậy là gì? Đó là để đảm bảo rằng sau khi người ta nghe những lời này, những gì họ hiểu và tiếp nhận không phải là đạo lý, không phải là nghĩa đen, cũng không phải là một câu nói nào đó, mà là tình hình thực tế, cũng như một số lẽ thật và nguyên tắc liên quan đến thực chất của con người, sự sinh tồn và cuộc sống của họ. Nếu các ngươi có thể dùng những câu nói hoặc những ví dụ mà Ta nói đến này để đối chiếu với tình trạng thực tế của mình hoặc những điều mình bộc lộ trong cuộc sống, thì các ngươi có thể hiểu được lẽ thật và là người có hiểu biết thuộc linh. Có thể đối chiếu nghĩa là kết nối được mỗi ví dụ và sự việc được nói đến với tình trạng của ngươi, kết nối được những khía cạnh lẽ thật đang được thông công với tình trạng và những sự bộc lộ của ngươi. Nếu ngươi biết cách kết nối và vận dụng chúng, thì ngươi có hiểu biết thuộc linh, có hy vọng bước vào thực tế lẽ thật, và có thể hiểu lẽ thật. Nếu dù có nói gì, ngươi cũng không hiểu được, không đối chiếu được với bản thân, nghe cái gì cũng không thấy chúng có liên quan đến những gì mình bộc lộ, đến thực chất bản tính của chính mình, không kết hợp được chúng, thì ngươi dốt đặc cán mai và không thể tiếp thu được gì vào đầu; ngươi không có hiểu biết thuộc linh. Những người không có hiểu biết thuộc linh như thế chỉ phù hợp để đem sức lực phục vụ và không thể bước vào thực tế lẽ thật. Con người muốn được cứu rỗi thì phải bước vào thực tế lẽ thật, muốn bước vào thực tế lẽ thật thì phải hiểu được những lời này, hiểu được những câu chuyện và tình tiết này mà Ta nói đến, cũng như mỗi sự tình, mỗi loại bộc lộ, và thực chất, biểu hiện, tình trạng của mỗi loại người là gì, đồng thời đạt đến có thể đối chiếu chúng với bản thân. Chỉ như vậy mới có thể hiểu được lẽ thật; nếu không đạt đến điểm này thì không có cách nào hiểu được lẽ thật. Cũng giống như khi người ta nuôi gà – nếu nuôi gà được nửa năm mà gà vẫn chưa đẻ trứng, thì có thể nói con gà này không đẻ trứng không? (Thưa, không.) Nếu người chủ nuôi con gà này đã ba năm và cho nó ăn ngũ cốc, rau xanh, nhưng dù cho ăn gì, nó vẫn không đẻ trứng, thì có thể nói con gà này không đẻ trứng không? (Thưa, có.) Vậy thì đối với con người, có những người, dù nghe giảng đạo thế nào, dù được thông công về lẽ thật thế nào, họ cũng không hiểu được. Đây chính là người không có hiểu biết thuộc linh. Lại có loại người, nghe xong thì có thể hiểu được, nhưng lại không đưa vào thực hành, không quay đầu. Loại người này coi như xong và cũng giống như dân thành Sô-đôm – chắc chắn phải chịu số phận là đối tượng bị hủy diệt. Những kẻ địch lại Đấng Christ thuộc loại người này; dù ngươi có thông công về lẽ thật thế nào đi nữa, họ cũng sẽ không quay đầu. Đây có phải chỉ là tâm tính cương ngạnh không? (Thưa, không.) Họ có thực chất bản tính đối địch với Đức Chúa Trời và thù hằn lẽ thật, loại người này thì khỏi nói đến chuyện hiểu được lẽ thật. Họ biến lẽ thật thành kẻ thù, căm thù lẽ thật và Đức Chúa Trời, thù hằn những điều tích cực, cho nên khi ngươi thông công về lẽ thật, họ không xem đó là lẽ thật, mà như một kiểu lý luận, học thuật hoặc đạo lý. Sau khi nghe thông công, họ trang bị cho lòng mình để sau đó có thể thể hiện và giành được lợi ích, địa vị và danh lợi cho chính mình. Đây chính là mục đích của họ. Dù ngươi thông công về lẽ thật như thế nào, dù ngươi có nói những ví dụ gì, cũng không thể cảm hóa được họ, và ngươi không thể xoay chuyển được ý đồ hay thay đổi được phương thức làm việc của họ. Họ là người không mưu cầu lẽ thật. Những người sau khi nghe không tiếp nhận và thực hành lẽ thật, thì không thể được lẽ thật thay đổi, và Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi những người như thế. Những người kiểu này về cơ bản có thể được xác định tính chất là người thù hằn lẽ thật, nói cụ thể hơn một chút, họ là kẻ địch lại Đấng Christ. Đây chính là sự khác biệt giữa kẻ địch lại Đấng Christ và người bình thường.

Một số người có tâm tính của kẻ địch lại Đấng Christ, và thường bộc lộ một vài tâm tính bại hoại nhất định, nhưng khi có những bộc lộ đó, họ cũng có thể phản tỉnh và biết mình, có thể tiếp nhận và thực hành lẽ thật, sau một thời gian, có thể thấy sự thay đổi nơi họ. Họ là những đối tượng có thể được cứu rỗi. Có những người, bên ngoài có vẻ có thể vứt bỏ, dâng mình, chịu khổ và trả giá, nhưng trong thực chất bản tính, họ lại chán ghét lẽ thật và thù hận lẽ thật. Khi ngươi thông công về lẽ thật với họ, họ chán ghét và chống đối. Trong các buổi nhóm họp và nghe giảng đạo, họ buồn ngủ và ngủ gật. Họ thấy nhàm chán, và dù có hiểu được những gì đang nghe, họ cũng không đưa vào thực hành. Lại có những người, có vẻ nghiêm túc nghe giảng, nhưng lòng họ không khao khát lẽ thật, và thái độ của họ đối với lời Đức Chúa Trời là xem đó như một dạng tri thức hoặc lý luận thuộc linh mà đánh giá. Vì thế, bất kể đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, đọc bao nhiêu lời Đức Chúa Trời, hay nghe bao nhiêu bài giảng đạo, họ cũng không có sự thay đổi nào trong quan điểm mưu cầu địa vị và xem trọng quyền lực, hoặc trong thái độ chán ghét lẽ thật, thù hận lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời của họ. Họ chính là kẻ địch lại Đấng Christ điển hình. Nếu ngươi vạch trần họ, nói rằng: “Những gì anh đang làm là cố lung lạc lòng người, và khi anh đề cao và làm chứng cho mình, là anh đang mê hoặc mọi người và tranh giành địa vị với Đức Chúa Trời. Đó là những hành động của Sa-tan và kẻ địch lại Đấng Christ”, thì họ có thể tiếp nhận sự lên án như vậy không? Chắc chắn là không. Họ nghĩ gì? “Tôi làm như vậy là phải, tôi cứ làm như vậy đấy. Dù anh có lên án tôi thế nào, dù anh có nói gì hay điều anh nói có vẻ đúng ra sao, tôi cũng sẽ không từ bỏ cách làm này, nguyện vọng này và sự mưu cầu này đâu”. Vậy thì xác định rồi: đây chính là kẻ địch lại Đấng Christ. Ngươi có nói gì cũng không thể thay đổi được quan điểm, ý định, ý đồ, dã tâm hay dục vọng của họ. Đây chính là thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ điển hình; không ai có thể thay đổi được họ. Dù người ta thông công về lẽ thật với họ thế nào, hay sử dụng ngôn từ hoặc lời lẽ nào, bất kể thời gian, không gian hay bối cảnh, cũng không gì có thể thay đổi được họ. Dù hoàn cảnh của họ thay đổi thế nào, dù những con người, sự việc và sự vật xung quanh họ thay đổi thế nào, dù thời đại thay đổi ra sao, hay những dấu kỳ, phép lạ Đức Chúa Trời bày tỏ vĩ đại thế nào, hoặc thậm chí dù Đức Chúa Trời có trừng phạt họ thế nào đi nữa, thì quan điểm nhìn nhận mọi sự và ý đồ của họ cũng sẽ không bao giờ thay đổi, dã tâm, dục vọng tranh đoạt quyền lực của họ sẽ không bao giờ thay đổi. Cách đối nhân xử thế của họ với người khác sẽ không bao giờ thay đổi, thái độ thù hận lẽ thật và Đức Chúa Trời của họ cũng vậy. Khi người khác chỉ ra những gì họ đang làm là đề cao và làm chứng cho mình và cố mê hoặc mọi người, thì họ thay đổi cách nói chuyện sao cho người khác không thể nhìn ra vấn đề và không thể phân định được. Họ dùng một phương thức giảo hoạt hơn nữa để tiếp tục làm việc quản lý riêng của mình, đạt được mục đích nắm quyền và khống chế dân được Đức Chúa Trời chọn. Đây chính là biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ, cũng là do thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ mà ra. Đức Chúa Trời có phán rằng Ngài muốn trừng phạt họ, nói cho họ biết kết cục của mình, biết họ sẽ bị rủa sả, thì có thể thay đổi được thực chất của họ không? Có thể thay đổi được thái độ của họ đối với lẽ thật không? Có thể thay đổi sự yêu thích danh lợi và địa vị của họ không? Không thể. Thay đổi một người đã bị Sa-tan làm cho bại hoại thành một người có nhân tính bình thường, có thể thờ phượng Đức Chúa Trời, chính là việc mà Đức Chúa Trời làm, và là việc có thể đạt được. Còn biến ma quỷ, biến những kẻ đội lốt người mang thực chất của Sa-tan và thù địch với Đức Chúa Trời, thành một con người bình thường, thì có thể làm được không? Không thể. Đức Chúa Trời không làm công tác như thế. Nhân loại mà Đức Chúa Trời cứu rỗi không bao gồm dạng người này. Trong mắt Đức Chúa Trời quy định dạng người này là gì? Họ thuộc về Sa-tan, không phải là dân được Đức Chúa Trời chọn hay đối tượng được cứu rỗi. Đức Chúa Trời không muốn dạng người này. Bất kể họ đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, đã chịu bao nhiêu khổ, hoặc đã làm những việc gì, thì ý đồ của họ vẫn không thay đổi. Họ không từ bỏ dã tâm và dục vọng của mình, càng không từ bỏ ý định và dục vọng tranh đoạt con người và địa vị với Đức Chúa Trời. Dạng người này chính là kẻ địch lại Đấng Christ đích thực.

Có những người nói: “Chẳng phải việc kẻ địch lại Đấng Christ có thể hành ác và chống đối Đức Chúa Trời chỉ là nhất thời hồ đồ sao? Nếu Đức Chúa Trời tỏ chút dấu kỳ, phép lạ hoặc trừng phạt họ một chút, để họ có thể trông thấy Đức Chúa Trời, thì chẳng phải họ có thể thừa nhận và thuận phục Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải khi đó họ có thể tiếp nhận và thừa nhận rằng Đức Chúa Trời là lẽ thật, sẽ không tranh giành địa vị với Đức Chúa Trời nữa sao? Chẳng phải là họ không có đức tin do chưa chứng kiến Đức Chúa Trời tỏ bất kỳ dấu kỳ, phép lạ nào, hoặc chưa nhìn thấy linh thể của Đức Chúa Trời, nên họ rất yếu đuối, vì thế bị Sa-tan lừa gạt sao?”. Không phải vậy. Những dã tâm, dục vọng và thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ thì tách biệt và hoàn toàn khác biệt so với người nhất thời bị lừa gạt, ngu muội và không hiểu được lẽ thật. Kẻ địch lại Đấng Christ sinh ra đã có bản tính Sa-tan và chán ghét lẽ thật, thù hận lẽ thật. Họ chính là những Sa-tan không đội trời chung với Đức Chúa Trời, chống đối Đức Chúa Trời và tranh giành với Ngài đến cùng, họ là những Sa-tan sống đội lốt người. Loại người này được xác định là kẻ địch lại Đấng Christ theo thực chất bản tính của họ, vậy trong nhà Đức Chúa Trời, họ có thể đóng vai trò nào và có thể làm những việc gì? Họ làm gián đoạn, nhiễu loạn, phá hủy và phá hoại công tác của Đức Chúa Trời. Những người này không thể kìm nổi việc làm những chuyện đó trong nhà Đức Chúa Trời. Họ là thứ như vậy, họ có bản tính Sa-tan, cũng giống như sói lẻn vào giữa bầy cừu, chăm chăm nuốt chửng cừu – họ chỉ có một mục đích duy nhất đó. Nói từ góc độ khác, tại sao Đức Chúa Trời lại để cho những người này xuất hiện trong nhà Ngài? Đó là để dân được Đức Chúa Trời chọn có thể phát triển khả năng phân định. Chưa ai thấy ma quỷ và Sa-tan trông như thế nào, thực chất trong hành động của nó là gì, những bộc lộ cụ thể của nó là gì, hay nó mê hoặc con người và chống đối Đức Chúa Trời trên thế gian như thế nào. Khi nói đến ma quỷ và Sa-tan, họ cảm thấy trừu tượng và trống rỗng, không đủ cụ thể. Họ hỏi: “Sa-tan ở đâu?”. Đáp: “Ở giữa không trung”. “Vậy thì Sa-tan to lớn thế nào? Cụ thể nó làm những phép lạ nào? Cụ thể nó đối đầu Đức Chúa Trời như thế nào? Thực chất bản tính của nó là gì?”. Họ cảm thấy tất cả đều rất trừu tượng, mơ hồ và trống rỗng. Tuy nhiên, thông qua những biểu hiện và sự bộc lộ của kẻ địch lại Đấng Christ, con người có thể đối chiếu những điều này với những gì Sa-tan làm và thực chất bản tính của Sa-tan, nhờ đó tất cả trở nên cụ thể và không còn trừu tượng hay trống rỗng nữa. Một khi tất cả đã trở nên cụ thể, con người có thể nghe nó nói, nhìn thấy hành vi của nó và để tâm phân định được thực chất bản tính của nó. Bằng cách này, chẳng phải khi đó họ sẽ cảm thấy thực chất của ma quỷ và Sa-tan mà Đức Chúa Trời nói trở nên cụ thể và chân thực hơn, và có thể có sự đối chiếu thực tế sao? Có những người, vóc giạc còn non nớt và chưa hiểu được lẽ thật, do chút ngu muội nhất thời, họ bị kẻ địch lại Đấng Christ lừa gạt và mê hoặc, thế là họ bỏ đi trong khoảng một năm. Khi trở lại nhà Đức Chúa Trời, họ biết rằng đi theo Sa-tan cảm giác không dễ chịu. Những người này, khi mới bắt đầu đi theo kẻ địch lại Đấng Christ thì cảm thấy có đủ lý do và vô cùng tự tin, nói rằng: “Bề trên không muốn chúng tôi đi theo kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng chúng tôi vẫn cứ đi, một ngày nào đó, chúng tôi sẽ được chứng minh là đúng!”. Kết quả là sau một thời gian, họ cảm thấy họ đã đánh mất công tác của Đức Thánh Linh và không thể cảm nhận được bất kỳ ấn chứng nào trong lòng. Cảm giác như Đức Chúa Trời không còn ở với họ, cảm giác như đức tin của họ đã mất ý nghĩa và không còn phương hướng, dần dần họ ngày càng phân định được rõ hơn về kẻ địch lại Đấng Christ. Trước đây, họ tưởng rằng kẻ địch lại Đấng Christ thực sự hiểu được lẽ thật, và đi theo chúng thì họ không sai được, nhưng giờ đây họ thấy kẻ địch lại Đấng Christ có những vấn đề nghiêm trọng, kẻ địch lại Đấng Christ nói như thể hiểu được lẽ thật, nhưng lại không bao giờ thực hành lẽ thật – đây là sự thật. Họ thấy rằng họ đã đi theo kẻ địch lại Đấng Christ trong một thời gian dài như thế mà chưa đạt được chút lẽ thật nào, và thực sự rất nguy hiểm nếu tiếp tục đi theo kẻ địch lại Đấng Christ, vì thế họ cảm thấy hối hận, từ bỏ kẻ địch lại Đấng Christ và sẵn lòng quay trở lại nhà Đức Chúa Trời. Sau khi nhà Đức Chúa Trời thu nhận lại những người như thế, thì họ được yêu cầu thuật lại chi tiết trải nghiệm của mình, và họ nói: “Kẻ địch lại Đấng Christ đó rất giỏi mê hoặc người. Khi đó, dù tôi có nghĩ về họ thế nào đi nữa, họ cũng có vẻ đúng đắn, nhưng kết quả là đi theo họ trong hơn một năm mà tôi không đạt được gì, không hiểu được chút lẽ thật nào và không hề có một chút thực tế lẽ thật nào cả, lại còn lãng phí thời gian quý báu. Tôi thực sự đã chịu quá nhiều tổn hại!”. Trải nghiệm thất bại này trở thành ký ức sâu sắc nhất của họ. Sau khi trở lại nhà Đức Chúa Trời, càng nghe giảng đạo, họ càng hiểu được lẽ thật và lòng càng sáng hơn. Khi họ nhớ lại quãng thời gian đi theo kẻ địch lại Đấng Christ đó và thấy mình chịu tổn hại như thế nào, họ dần cảm thấy rằng kẻ địch lại Đấng Christ đích thực là Sa-tan và căn bản không có lẽ thật, rằng chỉ có Đức Chúa Trời là lẽ thật, và lần sau họ không dám đi theo một con người khác nữa. Khi lại đến lúc bầu chọn lãnh đạo, họ bỏ phiếu rất cẩn thận, nghĩ rằng: “Nếu mình bỏ phiếu cho người này người kia, thì rất có thể một kẻ địch lại Đấng Christ sẽ được chọn. Nếu mình không bỏ phiếu cho người này người kia, thì có lẽ kẻ địch lại Đấng Christ sẽ không được chọn. Mình phải cẩn thận và đánh giá người theo nguyên tắc”. Chẳng phải giờ đây hành động của họ đã có nguyên tắc và tiêu chuẩn sao? (Thưa, phải.) Đó là điều tốt. Có những người bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và nói: “Tại sao việc này lại xảy đến với chúng ta? Chúng ta đã bị Đức Chúa Trời gạt bỏ sao? Ngài không quan tâm đến chúng ta nữa sao?”. Trong dạng tình huống như vậy, nếu Đức Chúa Trời bảo ngươi không đi theo kẻ địch lại Đấng Christ, ngươi có đồng ý không? Không, ngươi sẽ không đồng ý. Ngươi sẽ vẫn nhất quyết đi theo họ, và Đức Chúa Trời chỉ có thể để cho ngươi làm vậy, rồi dùng sự thật dạy ngươi một bài học. Sau khi đi theo kẻ địch lại Đấng Christ một thời gian, đột nhiên ngươi thức tỉnh và thấy mình đã chịu tổn hại trong sự sống, chỉ khi đó, ngươi mới cảm thấy ân hận và sẵn lòng từ bỏ kẻ địch lại Đấng Christ, một lần nữa trở về trước Đức Chúa Trời. May cho ngươi, Đức Chúa Trời đầy lòng khoan dung và thương xót, và Ngài vẫn còn muốn ngươi. Nếu không thì ngươi hoàn toàn tiêu tùng, ngươi sẽ không còn cơ hội nào để được cứu rỗi – đi theo kẻ địch lại Đấng Christ không có cái kết tốt đẹp.

Ngươi phải thấy rõ và xác định rõ ràng kẻ địch lại Đấng Christ. Ngươi phải biết cách phân định những biểu hiện khác nhau của kẻ địch lại Đấng Christ, và đồng thời ngươi nên biết rõ rằng có nhiều điểm chung giữa thực chất bản tính của ngươi và của kẻ địch lại Đấng Christ. Đó là bởi vì hết thảy các ngươi đều thuộc về nhân loại đã bị Sa-tan làm bại hoại, và điểm khác biệt duy nhất là kẻ địch lại Đấng Christ hoàn toàn bị Sa-tan khống chế, chúng đã trở thành đồng lõa của Sa-tan và thay mặt nó nói chuyện. Ngươi cũng thuộc về nhân loại bại hoại, nhưng ngươi có thể tiếp nhận lẽ thật và có hy vọng được cứu rỗi. Tuy nhiên, có nhiều điểm chung trong thực chất của ngươi và của kẻ địch lại Đấng Christ, cách làm và ý đồ cũng giống nhau. Chỉ là một khi đã nghe lẽ thật và nghe giảng đạo rồi, ngươi có thể quay đầu, và việc có thể quay đầu quyết định việc ngươi có hy vọng được cứu rỗi – đây chính là sự khác biệt giữa ngươi và kẻ địch lại Đấng Christ. Do đó, trong khi Ta vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ, ngươi cũng nên đối chiếu và nhận thức giữa mình và kẻ địch lại Đấng Christ có những điểm chung nào, có những biểu hiện, tâm tính và khía cạnh thực chất nào giống nhau. Khi làm vậy, chẳng phải ngươi sẽ có thể biết mình rõ hơn sao? Nếu ngươi luôn cảm thấy chống đối, cho rằng mình không phải là kẻ địch lại Đấng Christ, cảm thấy hết sức thù hận kẻ địch lại Đấng Christ và không sẵn lòng đối chiếu như vậy, cũng không sẵn lòng phản tỉnh bản thân và biết mình đang đi theo con đường nào, thì hậu quả sẽ là gì? Ngươi có tâm tính Sa-tan, nên rất dễ trở thành kẻ địch lại Đấng Christ. Đó là bởi vì không có kẻ địch lại Đấng Christ nào chủ đích mưu cầu trở thành kẻ địch lại Đấng Christ cả; mà đó là bởi họ không mưu cầu lẽ thật, nên thuận theo tự nhiên mà họ đi theo con đường địch lại Đấng Christ. Chẳng phải hết thảy những người trong giới tôn giáo không yêu thích lẽ thật đều là kẻ địch lại Đấng Christ sao? Những người không phản tỉnh và nhận thức được thực chất bản tính của mình, lại theo quan niệm và tưởng tượng của mình mà tin Đức Chúa Trời, từng người một đều là kẻ địch lại Đấng Christ. Một khi ngươi đã bước lên con đường địch lại Đấng Christ, một khi ngươi có địa vị, kết hợp với việc ngươi có chút ân tứ và học vấn, được mọi người khâm phục, thì khi thời gian làm công tác tăng lên, ngươi sẽ có vị trí trong lòng mọi người. Khi công tác ngươi chịu trách nhiệm ngày càng lớn, ngươi dần lãnh đạo ngày càng nhiều người hơn, ngày càng có nhiều vốn liếng hơn, thì ngươi sẽ trở thành một Phao-lô chính hiệu. Điều này tùy thuộc vào ngươi sao? Ngươi không có kế hoạch đi theo con đường này, nhưng làm sao ngươi lại vô thức bước lên con đường địch lại Đấng Christ? Một nguyên nhân quan trọng là nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật, thì chắc chắn ngươi sẽ mưu cầu địa vị, danh vọng, ngươi sẽ tiến hành việc làm ăn riêng, cho đến khi, cuối cùng, tự lúc nào không hay, ngươi đi theo con đường địch lại Đấng Christ. Nếu người đi theo con đường địch lại Đấng Christ không kịp thời quay đầu, thì khi có được địa vị, họ rất dễ trở thành kẻ địch lại Đấng Christ – kết quả này là không tránh khỏi. Nếu không thể thấy rõ chuyện này, thì họ gặp nguy hiểm rồi, bởi vì ai cũng có tâm tính bại hoại và ai cũng thích thú danh vọng, địa vị; nếu không yêu lẽ thật, thì họ rất dễ sa ngã do danh tiếng, địa vị. Không có sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, ai cũng sẽ đi theo con đường địch lại Đấng Christ và sa ngã do danh tiếng, địa vị, đây là điều không ai phủ nhận được. Ngươi nói: “Con chỉ thỉnh thoảng mới có những bộc lộ này, đó chỉ là những biểu hiện nhất thời. Dù con có cùng thực chất như kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng con vẫn khác kẻ địch lại Đấng Christ vì con không có những dã tâm lớn như họ. Ngoài ra, trong khi làm bổn phận, con cũng không ngừng phản tỉnh, ân hận và tìm kiếm lẽ thật, đồng thời hành động theo các nguyên tắc lẽ thật. Xét về hành vi thì con không phải là kẻ địch lại Đấng Christ và con không muốn làm kẻ địch lại Đấng Christ, do đó con không thể nào trở thành kẻ địch lại Đấng Christ được”. Có thể trước mắt, ngươi không phải là kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng liệu ngươi có thể đảm bảo mình sẽ không đi theo con đường địch lại Đấng Christ và trở thành kẻ địch lại Đấng Christ không? Ngươi có thể đảm bảo điều đó không? Không, ngươi không thể. Vậy thì làm sao để ngươi có thể đảm bảo điều đó? Cách duy nhất là mưu cầu lẽ thật. Vậy thì nên mưu cầu lẽ thật như thế nào? Ngươi có con đường hay chưa? Đầu tiên, ngươi phải thừa nhận sự thật rằng ngươi có cùng thực chất tâm tính như kẻ địch lại Đấng Christ. Mặc dù hiện giờ ngươi không phải là kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng đối với ngươi, điều gì là chí mạng và nguy hiểm nhất? Đó chính là việc ngươi có cùng thực chất bản tính như kẻ địch lại Đấng Christ. Đây có phải là một điều tốt đối với ngươi không? (Thưa, không.) Chắc chắn là không rồi. Đây là điều chí mạng đối với ngươi. Cho nên, trong khi nghe những bài giảng đạo vạch trần những biểu hiện khác nhau của kẻ địch lại Đấng Christ, đừng nghĩ rằng những điều này không liên quan gì đến ngươi; đây là thái độ sai lầm. Vậy thì ngươi nên có thái độ như thế nào để tiếp nhận những sự thật và biểu hiện này? Hãy đối chiếu với bản thân, thừa nhận rằng mình có thực chất bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ, sau đó kiểm điểm bản thân để tìm ra những biểu hiện và sự bộc lộ nào của mình là hoàn toàn giống hệt với của kẻ địch lại Đấng Christ. Đầu tiên, hãy thừa nhận sự thật này – đừng cố ngụy trang hay tạo vỏ bọc cho mình. Con đường ngươi đi là con đường địch lại Đấng Christ, vì vậy nói ngươi là kẻ địch lại Đấng Christ là phù hợp với sự thật; chỉ là nhà Đức Chúa Trời chưa xác định ngươi là như vậy và đang cho ngươi cơ hội hối cải, vậy thôi. Ngươi hiểu được không? Đầu tiên, hãy tiếp nhận và thừa nhận sự thật này, sau đó điều ngươi phải làm là đến trước Đức Chúa Trời và xin Ngài sửa dạy ngươi và ràng buộc ngươi. Đừng rời khỏi ánh sáng từ sự hiện diện của Đức Chúa Trời, đừng rời khỏi sự bảo vệ của Ngài. Như vậy, khi hành động, ngươi sẽ được lương tâm và lý trí của mình ràng buộc, và ngươi cũng sẽ có lời Đức Chúa Trời soi sáng cho ngươi, dẫn dắt ngươi và đồng thời ràng buộc ngươi. Ngoài ra, ngươi sẽ có công tác của Đức Thánh Linh chỉ dẫn ngươi, sắp xếp những con người, sự việc và sự vật xung quanh ngươi để cảnh báo và sửa dạy ngươi. Đức Chúa Trời cảnh báo ngươi bằng cách nào? Đức Chúa Trời làm việc theo nhiều cách. Đôi khi, Đức Chúa Trời sẽ khiến ngươi có một cảm giác rõ ràng trong lòng, cho phép ngươi ý thức rõ rằng mình cần được ràng buộc, mình không thể hành động tùy ý được, nếu hành động sai thì sẽ làm ô danh Đức Chúa Trời cũng như tự bêu xấu mình, và thế là ngươi thu bớt lại. Đó chẳng phải là Đức Chúa Trời đang bảo vệ ngươi sao? Đây là một cách. Có lúc Đức Chúa Trời sẽ quở trách từ bên trong ngươi và đưa ra những lời rõ ràng với ngươi để nói với ngươi rằng làm như thế là đáng xấu hổ và khiến Ngài ghê tởm, rằng làm vậy thì đáng bị rủa sả, nghĩa là Ngài dùng những lời rõ ràng để quở trách ngươi, khiến ngươi đối chiếu với bản thân. Khi quở trách ngươi như thế, mục đích của Đức Chúa Trời là gì? Ngài làm vậy để khiến lương tâm ngươi có cảm giác gì đó, và khi ngươi có cảm giác gì đó, ngươi sẽ suy xét về ảnh hưởng, hậu quả và liêm sỉ của chính mình, ngươi sẽ có chút thu bớt trong hành động và cách làm của mình. Một khi đã có nhiều thể nghiệm như vậy, ngươi sẽ thấy rằng mặc dù những tâm tính bại hoại này đã bén rễ trong con người, nhưng khi con người có thể tiếp nhận lẽ thật và thấy rõ sự thật về những tâm tính bại hoại của chính mình, thì họ có thể chống lại xác thịt một cách có ý thức; khi con người trở nên có thể đưa lẽ thật vào thực hành, thì tâm tính Sa-tan của họ được làm tinh sạch và thay đổi. Tâm tính Sa-tan của con người không phải là không thể phá vỡ hay không thể thay đổi – khi ngươi trở nên có thể tiếp nhận lẽ thật và đưa lẽ thật vào thực hành, thì tâm tính Sa-tan của ngươi sẽ tự nhiên bị công phá và thay thế. Một khi đã nếm trải vị ngọt của việc đưa lẽ thật vào thực hành, ngươi sẽ nghĩ: “Trước đây mình thật không biết xấu hổ. Dù lời nói của mình có trơ tráo đến đâu hay mình đã đề cao bản thân để được người khác tôn sùng như thế nào, mình cũng không cảm thấy xấu hổ, sau đó cũng chẳng có chút tri giác nào. Giờ đây mình cảm thấy rằng hành động như vậy là sai trái, mất mặt, và mình cảm thấy như mọi con mắt đang đổ dồn về mình”. Đây chính là việc làm của Đức Chúa Trời. Ngài cho ngươi một cảm giác, và ngươi sẽ cảm thấy như thể ngươi đang tự trách mình, sau đó ngươi sẽ không hành ác hay bám vào con đường của chính mình nữa. Tự lúc nào không hay, những cách làm mang tính đề cao và làm chứng cho mình của ngươi ngày càng giảm bớt, ngươi ngày càng thu bớt lại, và ngày càng cảm thấy rằng khi hành động như vậy, lòng ngươi thanh thản, lương tâm bình an – đây chính là sống trong sự sáng, và không còn cần phải lo sốt vó hay dùng những lời nói dối hoặc êm tai để ngụy trang cho mình nữa. Trước đây, ngươi nói dối và duy trì những lời nói dối hàng ngày để bảo vệ thể diện của mình. Mỗi lần nói dối, sau đó ngươi lại phải tiếp tục duy trì lời nói dối đó, rất sợ có thể bị lộ. Kết quả là ngươi ngày càng nói dối nhiều hơn, và về sau phải dốc hết tâm tư, vắt hết óc để duy trì những lời nói dối của mình; ngươi đang sống một cuộc sống không ra người, cũng chẳng ra quỷ, thật vô cùng mệt mỏi! Giờ đây ngươi đang mưu cầu trở thành người trung thực, và ngươi có thể cởi mở lòng mình, nói những điều thật. Ngươi không cần phải nói dối và duy trì những lời nói dối của mình mỗi ngày nữa, cũng không còn bị những lời nói dối kìm kẹp, ngươi ít khổ sở hơn nhiều, sống ngày càng nhẹ nhàng, tự do và giải phóng, và nơi sâu thẳm nội tâm, ngươi tận hưởng cảm giác bình an, vui sướng – đây là ngươi đang nếm trải vị ngọt của cuộc sống này. Và trong khi nếm trải vị ngọt của cuộc sống này, thế giới nội tâm của ngươi không còn giả dối, tà ác hay dối trá nữa. Thay vào đó, giờ đây ngươi sẵn lòng đến trước Đức Chúa Trời, khi có chuyện thì cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật, khi có chuyện thì có thể thảo luận với người khác, không tự làm theo chủ trương của mình và không còn chuyên quyền độc đoán nữa. Ngươi ngày càng cảm thấy rằng phương thức và phương pháp làm việc trước đây của mình thật đê tiện và ngươi không muốn làm như vậy nữa. Thay vào đó, hễ cách nào hợp lẽ thật, hợp lý trí và hợp tâm ý Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ làm; phương thức và phương pháp làm việc của ngươi đã thay đổi. Khi ngươi có thể đạt được những điều này, thì chẳng phải điều đó đồng nghĩa ngươi đã rời khỏi con đường địch lại Đấng Christ sao? Và khi ngươi đã rời khỏi con đường địch lại Đấng Christ, chẳng phải điều đó đồng nghĩa ngươi đã bước lên con đường được cứu rỗi sao? Khi ngươi đã bước lên con đường được cứu rỗi và thường đến trước Đức Chúa Trời, thì thái độ, ý định, quan điểm, mục tiêu và phương hướng cuộc đời của ngươi không còn đối nghịch Đức Chúa Trời nữa, ngươi bắt đầu yêu những điều tích cực, và ngươi bắt đầu yêu sự công bằng, công chính và lẽ thật. Khi điều này xảy ra, nội tâm và tư tưởng của ngươi bắt đầu có chuyển biến. Khi ngươi đã bước lên con đường được cứu rỗi, liệu ngươi còn có thể trở thành kẻ địch lại Đấng Christ được nữa không? Liệu ngươi còn có thể chống đối Đức Chúa Trời một cách chủ ý được nữa không? Không, ngươi không thể, và bây giờ ngươi đã thoát khỏi nguy hiểm. Chỉ bằng cách bước vào trạng thái này, con người mới đi đúng hướng trong đức tin nơi Đức Chúa Trời, và chỉ bằng cách tìm kiếm và tiếp nhận lẽ thật như vậy, họ mới có thể thoát khỏi những phiền nhiễu, khống chế và quấy nhiễu gây ra bởi bản tính Sa-tan và bản tính kẻ địch lại Đấng Christ của mình. Giờ đây ngươi đã bước lên con đường nhân sinh đúng đắn là mưu cầu lẽ thật chưa? Nếu chưa, thì hãy khẩn trương dốc sức. Nếu không thể bước lên con đường mưu cầu lẽ thật, ngươi sẽ vẫn sống trong nguy hiểm – tất cả những người bước đi con đường địch lại Đấng Christ đều có nguy cơ bị đào thải bất cứ lúc nào.

Hầu hết mọi người, trong khi thực hiện bổn phận, đều đang đánh trận với tâm tính địch lại Đấng Christ của chính mình, vì tranh đoạt danh tiếng, địa vị, tiền bạc và lợi ích mà kiệt quệ rã rời, mệt mỏi về tinh thần và thể xác. Vậy khi nào có thể giải quyết được vấn đề này? Chỉ bằng cách mưu cầu lẽ thật và có thể tiếp nhận lẽ thật, ngươi mới có thể dần dần thoát khỏi sự kìm kẹp và trói buộc của thực chất bản tính địch lại Đấng Christ của mình, đồng thời làm cho tâm tính Sa-tan của mình dần dần suy yếu và biến mất. Làm vậy, ngươi mới có hy vọng thoát khỏi quyền thế của Sa-tan. Các ngươi đã từng vì những chuyện này mà âm thầm khóc lóc, cảm thấy mình không bao giờ có thể thay đổi, không bao giờ có thể yêu lẽ thật và không bao giờ có thể làm việc theo các nguyên tắc lẽ thật, hận mình đến mức muốn tự tát vào mặt mình và khóc lóc đắng cay chưa? Các ngươi có nhiều lần làm vậy không? Ai mà chưa nhiều lần làm vậy, thì chẳng phải bị tê liệt sao? Người như vậy không bao giờ có thể nhận thức được rằng mình bại hoại, mà vẫn cảm thấy mình làm việc tốt, mình có tố chất và tài cán, mình hiểu được rất nhiều lẽ thật và có thể làm việc theo nguyên tắc trong rất nhiều chuyện, trong lòng cảm thấy rất yên ổn – người như vậy bị tê liệt, họ tự cho mình là tốt lành, và như thế là rất nguy hiểm! Bây giờ các ngươi có thể thực sự cảm thấy vóc giạc của mình quá nhỏ bé, mình còn cách rất xa việc thoát khỏi những tâm tính bại hoại và vẫn còn trong vùng nguy hiểm không? Những người không mưu cầu lẽ thật không có cảm giác này, những người không có công tác của Đức Thánh Linh cũng vậy. Đa số mọi người đều mơ mơ hồ hồ, lộn xộn hồ đồ, cho rằng chỉ cần làm bổn phận theo trình tự và không hành ác, thì không phải là đang đi theo con đường địch lại Đấng Christ, chỉ cần không làm đủ loại việc ác thì không phải là kẻ địch lại Đấng Christ. Do vậy, đa phần họ ở trong tình trạng tê liệt, thường dương dương tự đắc, cảm thấy mình không tệ và sẽ sớm được cứu rỗi, rằng con đường địch lại Đấng Christ không liên quan gì đến họ. Có thể dùng những lời cầu nguyện hàng ngày của các ngươi để đánh giá xem liệu ngươi có đang ở trong tình trạng này hay không. Mỗi ngày, khi đến trước Đức Chúa Trời, các ngươi cầu nguyện điều gì? Nếu mỗi ngày ngươi nói: “Thưa Đức Chúa Trời, con yêu kính Ngài! Thưa Đức Chúa Trời, con sẵn lòng thuận phục Ngài! Thưa Đức Chúa Trời, con sẵn lòng hoàn thành sự ủy thác Ngài giao! Con có thể trung thành thực hiện bổn phận, con có ý chí làm thỏa lòng Ngài và được Ngài hoàn thiện. Dù con có những biểu hiện nào của kẻ địch lại Đấng Christ hay con biết mình ít đến đâu, Ngài vẫn yêu thương con và mong muốn cứu rỗi con”, thì đây là biểu hiện gì? Đây gọi là tê liệt, ngươi chỉ thể hiện quyết tâm, chứ không nhận thức chút gì về thực chất bản tính của chính mình. Ngươi đang ở trong giai đoạn nhiệt tâm, và còn rất xa việc có thực tế lẽ thật. Mất bao lâu các ngươi mới có thể nói một lời cầu nguyện chân thật, nói nỗi lòng mình với Đức Chúa Trời, kể với Ngài tình hình thực tế của mình, cảm thấy bình an và vui sướng trong lòng, và cảm thấy mình đang thực sự sống trước mặt Đức Chúa Trời? Nói Ta nghe, mất bao lâu các ngươi mới có thể một lần làm được điều đó? Một tháng, hai tháng, sáu tháng hay một năm? Nếu các ngươi chưa bao giờ nói một lời cầu nguyện chân thật nào, mà vẫn cầu nguyện như người trong giới tôn giáo, luôn nói rằng mình yêu kính Đức Chúa Trời, luôn thể hiện quyết tâm, luôn nói những câu rập khuôn, thì các ngươi còn thiếu quá nhiều và không có chút thực tế lẽ thật nào. Thông thường, những người tin Đức Chúa Trời được ba hoặc năm năm thì khi đến trước mặt Đức Chúa Trời, họ sẽ không nói những lời ấu trĩ, vô tri như thế, bởi vì họ chắc chắn họ sẽ đi theo Đức Chúa Trời, họ cũng có đức tin, và họ đã hiểu rõ những lẽ thật về khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời, tâm ý của Đức Chúa Trời, kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời và tôn chỉ công tác của Đức Chúa Trời. Khi đến trước Đức Chúa Trời, họ chủ yếu cầu nguyện những điều gì? Một là biết mình, hai là nói một số lời chân thực: Thưa Đức Chúa Trời, hôm nay con có chút khó khăn, con đã làm một chuyện mắc nợ với Ngài, con còn thiếu sót trong một việc, và con xin Ngài bảo vệ con, dẫn dắt, khai sáng và soi sáng cho con. Người này bắt đầu nói một số điều khá chân thực liên quan đến thực tế lẽ thật, và họ không còn nói những câu thể hiện ý chí và khẩu hiệu mà những người tín hữu mới đầy nhiệt tâm hay nói. Tại sao họ không nói những điều đó? Họ cảm thấy nói những điều như vậy chẳng ích gì, những điều như vậy không thể đáp ứng được nhu cầu trong sâu thẳm nội tâm họ về lẽ thật hay nhu cầu bước vào sự sống của họ. Dù ngươi đã tin Đức Chúa Trời được bao nhiêu năm, dù ngươi làm chiếu lệ hay thật lòng đến trước Đức Chúa Trời khi cầu nguyện với Ngài, thì trong mười ngày, có bao nhiêu ngày ngươi nói những lời nói suông và câu cửa miệng đó? Ai đó có thể nói một ngày, vậy còn chín ngày khác họ cầu nguyện điều gì? Nếu những lời cầu nguyện của họ liên quan đến bổn phận và lối vào sự sống của họ thì còn được, điều đó cho thấy rằng họ đang có chút gánh vác đối với lẽ thật, đối với lời Đức Chúa Trời và đối với bổn phận của chính mình, rằng họ không còn quá tê liệt nữa. “Họ không còn quá tê liệt nữa” nghĩa là gì? Chính là khi nói đến những chuyện liên quan đến các tâm tính bại hoại và tình trạng khác nhau của con người, thì khi nghe xong, họ có cảm giác, có ý thức, cũng có thể hiểu được. Mức độ hiểu và lĩnh hội của họ vừa đủ, và bất kể những chuyện này được giải thích thế nào, họ cũng hiểu được và gần như đạt đồng bộ được với chúng – điều này cho thấy họ đã có chút vóc giạc. Người tê liệt có những biểu hiện nào? Ngày nào họ cũng sống như vậy, không phấn đấu, không tiến bộ, và đó là lý do tại sao khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, họ cứ nói mãi những lời lẽ nhàm tai tầm thường đó. Họ không hiểu gì về lối vào sự sống, cũng không có hiểu biết thuộc linh, không có cảm giác, nghe bao nhiêu bài giảng cũng không có phản ứng gì, bất kể được thông công về lẽ thật thế nào, họ cũng cảm thấy như tất cả đều cùng một điệu, tất cả đều cùng một ý. Vậy thì họ có gì để nói với Đức Chúa Trời chứ? Điều người ta sẽ cầu nguyện và nói khi đến trước mặt Đức Chúa Trời tùy thuộc vào chuyện trong lòng họ có những lời nào muốn nói với Đức Chúa Trời và họ cảm thấy nhất định phải nói những điều đó với Đức Chúa Trời. Ít nhất trong lòng ngươi phải nhận biết các yêu cầu của Đức Chúa Trời, những khó khăn mình gặp phải và làm sao để đáp ứng các yêu cầu của Đức Chúa Trời. Nếu trong lòng ngươi không có gì, chỉ biết nói một vài lời êm tai, một vài khẩu hiệu, đạo lý, và chỉ làm chiếu lệ, thì đó không phải là cầu nguyện. Nếu ngươi thề non hẹn biển ngần ấy năm qua, nhưng lại chưa làm được việc thật nào, và cuối cùng ngươi vẫn có thể phản bội Đức Chúa Trời, phủ nhận Đức Chúa Trời và bỏ ngang bất cứ lúc nào, thì đây chính là không có vóc giạc. Hiện tại khi đến trước mặt Đức Chúa Trời mà cầu nguyện, nếu đa phần các ngươi có thể duy trì mối quan hệ với Đức Chúa Trời trong những chuyện liên quan đến yêu cầu của Đức Chúa Trời cũng như sự thay đổi tâm tính của chính mình, thì mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời đã được thiết lập và ngươi sẽ không đi theo con đường địch lại Đấng Christ, cũng nghĩa là ngươi sẽ có thể đi đúng hướng trong đức tin nơi Đức Chúa Trời.

Bây giờ các ngươi đã rõ về các biểu hiện khác nhau của việc kẻ địch lại Đấng Christ đề cao và làm chứng cho mình, cũng như những định nghĩa về tính chất của hành vi như vậy chưa? Có sự khác biệt nào giữa biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ và biểu hiện của tâm tính bại hoại của người bình thường không? Khi thực sự gặp chuyện, các ngươi có thể so sánh được không? Liệu các ngươi có thể xem biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ là biểu hiện của người bại hoại bình thường, và ngược lại không? Phân biệt hai điều này như thế nào? Đánh giá tâm tính của người ta thông qua những biểu hiện và sự bộc lộ nhất quán của họ, và đánh giá thực chất của họ từ tâm tính họ là cách chuẩn xác để xác định họ. Kẻ địch lại Đấng Christ không tiếp nhận lẽ thật hay tôn cao Đức Chúa Trời; mà chỉ toàn đề cao và làm chứng cho mình. Biểu hiện này vô cùng rõ ràng, nổi bật, và nó hoàn toàn do bản tính Sa-tan của họ chi phối. Mặc dù người bình thường cũng đề cao và làm chứng cho mình, nhưng khi ngươi thông công về lẽ thật với họ, thì họ có thể tiếp nhận và thừa nhận rằng Đức Chúa Trời là lẽ thật, họ có thể tiếp nhận lẽ thật, chỉ là sự thay đổi diễn ra không nhanh lắm, cũng không dễ dàng lắm đối với họ – đây chính là sự khác biệt giữa kẻ địch lại Đấng Christ và người bình thường. Bây giờ nói vậy rồi thì đã dễ phân biệt giữa họ chưa? Kẻ địch lại Đấng Christ có một đặc điểm: khi họ không yêu lẽ thật hoặc phủ nhận lẽ thật, họ có phủ nhận trực tiếp không? (Thưa, không.) Họ sử dụng phương thức nào để phủ nhận lẽ thật sao cho ngươi thấy rằng họ không thừa nhận lẽ thật? Họ sẽ dùng cách ngụy biện để phản bác ngươi, nói rằng những điều ngươi đang thông công không phải là lẽ thật, chỉ những điều họ thông công mới là lẽ thật. Chẳng hạn như họ làm chứng cho bản thân mà có người vạch trần họ, sau đó họ có những biểu hiện nào để người khác khẳng định rằng họ không yêu lẽ thật, không tiếp nhận lẽ thật? Ngụy biện và bào chữa là một biểu hiện, một biểu hiện khác là che đậy chân tướng sự thật, và chân tướng đó chính là ý đồ của họ. Ý đồ của họ là làm chứng cho mình để được người khác coi trọng. Họ sẽ không để ngươi biết được ý đồ của họ; họ chỉ nói những lời giả dối và êm tai, ngụy biện, lừa gạt ngươi, khiến ngươi hồ đồ, để cuối cùng ngươi nói rằng không phải họ đang làm chứng cho mình, vậy là họ đạt được mục đích rồi. Họ nói những lời giả dối và êm tai, ngụy biện, lừa gạt mọi người, họ không thừa nhận rằng họ đang làm chứng cho mình, họ không tiếp nhận việc ngươi vạch trần họ, cũng không tiếp nhận sự chỉ trích của ngươi, càng không tiếp nhận việc bị xác định tính chất trong sự thật này. Họ hoàn toàn không tiếp nhận, thậm chí còn nghĩ ra lý do, nói rằng: “Đó không phải là tôi làm chứng cho mình. Tôi nói vậy là có lý do và bối cảnh. Trong tình huống đó mà nói ra vài lời không thích hợp là chuyện hoàn toàn bình thường, đâu có phải là vấn đề. Như thế mà xem là làm chứng cho mình sao? Hơn nữa, tôi đã làm biết bao công tác này, và dù không có công lao gì, nhưng tôi cũng đã chịu khổ để làm. Nếu một số người có coi trọng và tôn sùng tôi thì cũng đâu phải là chuyện to tát gì”. Họ không nghĩ một hành vi đáng xấu hổ như thế, một hành động đáng kinh tởm như thế là chuyện to tát gì – đây có phải là thái độ tiếp nhận lẽ thật không? Họ không cảm thấy xấu hổ vì những việc ác này, lại còn cảm thấy mình không tệ – đây chính là thực chất của kẻ ác. Kẻ địch lại Đấng Christ cho rằng việc đề cao và làm chứng cho mình là hoàn toàn chính đáng và là việc họ nên làm. Họ nghĩ: “Tôi làm việc đó bởi vì tôi có bản lĩnh đó – những người khác có xứng đáng để làm không? Tôi đã có được sự ủng hộ của mọi người, tôi đã bỏ bao công sức để làm công tác hội thánh, tôi đã lập biết bao công lớn cho nhà đức chúa trời và chịu bao rủi ro! Nếu không cho tôi phần thưởng, không cho tôi lợi ích, thì có công bằng không? Chẳng phải đức chúa trời công chính sao? Chẳng phải ngài báo ứng mỗi người dựa trên hành động của họ sao? Vậy thì chẳng phải tôi xứng đáng với sự ủng hộ của mọi người vì đã lập ngần ấy công lớn và chịu ngần ấy rủi ro sao?”. Họ cho rằng họ thực hiện bổn phận thì phải nhận được thù lao, và thù lao tối thiểu là phải có được sự ủng hộ của mọi người và có thể tận hưởng sự ủng hộ, vinh dự và phúc lợi mà họ xứng đáng được hưởng. Đây có phải là thái độ tiếp nhận lẽ thật không? (Thưa, không.) Vậy lẽ thật ở đây là gì? Chẳng hạn ngươi nói với họ: “Dù có chịu khổ bao nhiêu thì cũng là con người thọ tạo, và con người nên chịu khổ bởi vì họ có những tâm tính bại hoại. Chịu khổ trong khi làm bổn phận chỉ là một cách chịu khổ. Dù có tài năng thế nào hay ân tứ gì, chúng ta cũng không nên đòi thù lao nào hay cố gắng giao dịch với Đức Chúa Trời”. Đây chẳng phải là lẽ thật sao? Đây là lẽ thật cơ bản nhất mà loài thọ tạo nên hiểu được. Nhưng có thể tìm thấy lẽ thật này trong triết lý xử thế và trong tư tưởng, quan điểm của họ không? (Thưa, không.) Khi nghe lẽ thật này, họ có tiếp nhận không? Không, họ không tiếp nhận. Thái độ của họ là gì? Họ cho rằng ở trong nhà Đức Chúa Trời cũng giống như trong thế tục, bỏ công lao thì phải có thù lao, không thể làm bổn phận không công, và nếu chịu chút rủi ro thì họ nên nhận được phúc lợi và ân điển mà họ xứng đáng nhận được. Thực hiện bổn phận là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi một con người, không có chuyện thù lao trong đó. Kẻ địch lại Đấng Christ có tiếp nhận lẽ thật này không? Thái độ của họ là gì? Họ xem thường và chống đối, nói rằng: “Mấy tên ngốc các người, thế mà cũng tiếp nhận! Đó mà là lẽ thật sao? Đó không phải lẽ thật, chỉ là lừa bịp mọi người. Người người công bằng, người người bình đẳng – đó mới là lẽ thật!”. Câu nói này là gì? Đây là lô-gic, tà thuyết và lý lẽ sai trái của Sa-tan. Và họ có thể mê hoặc những người không hiểu lẽ thật được không? Những người đó, họ có thể mê hoặc quá dễ dàng! Có những người yếu đuối, không hiểu được những lẽ thật liên quan đến việc thực hiện bổn phận, lại thiếu tố chất và năng lực lĩnh hội, bản thân cũng không có nhiều đức tin, và khi nghe những điều như thế, họ cảm thấy hoàn toàn có lý, họ nghĩ: “Đúng thật. Làm sao mình lại có thể ngu như thế? Hôm nay, cuối cùng mình cũng gặp được người hiểu chuyện. Những điều họ nói là đúng!”. Những người này chỉ nghe và tiếp nhận những điều nghe có vẻ có đạo lý và hợp quan niệm của con người; họ không tiếp cận lời Đức Chúa Trời theo nguyên tắc rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật. Dù lời Đức Chúa Trời có hợp với tình cảm của con người, với tư duy và lô-gic của con người, với phong tục tập quán hay văn hóa truyền thống của con người hay không, thì lời Đức Chúa Trời vẫn là ván đã đóng thuyền, và từng câu từng chữ, từ đầu đến cuối, đều là lẽ thật. Lời Đức Chúa Trời không cần ai chất vấn hay phân tích, và bất kể hết thảy nhân loại cho rằng lời Ngài đúng hay sai, hay liệu bất kỳ ai có thể tiếp nhận hay không, thì lời Đức Chúa Trời vẫn đời đời là lẽ thật. Lời Đức Chúa Trời không cần trải qua thử thách của thời gian, cũng không cần được nhân loại ấn chứng thông qua trải nghiệm – lời Đức Chúa Trời là lẽ thật. Kẻ địch lại Đấng Christ có cho là như vậy hay không? Họ cho rằng: “Đức chúa trời phải hợp lý chứ! Sự công chính của đức chúa trời nghĩa là gì? Chẳng phải nghĩa là những người chịu khổ nhiều và có nhiều năng lực nên nhận thưởng nhiều, còn những người chịu khổ ít và không có năng lực lắm, không có đóng góp gì, thì nên nhận thưởng ít sao?”. Đức Chúa Trời có phán vậy không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời không phán vậy. Đức Chúa Trời phán gì? Đức Chúa Trời phán rằng thực hiện bổn phận là thiên chức của mỗi một con người, thực hiện bổn phận thì có nguyên tắc của việc thực hiện bổn phận, và mọi người đều nên thực hiện bổn phận theo các nguyên tắc lẽ thật, đó chính là những việc mà loài thọ tạo phải làm. Ở đây có đề cập gì đến thù lao không? Có đề cập gì đến phần thưởng không? (Thưa, không.) Không đề cập gì đến thù lao hay phần thưởng cả – đó là nghĩa vụ. “Nghĩa vụ” nghĩa là gì? Nghĩa vụ là điều mà con người phải làm, không thể lấy công lao mà đòi thù lao. Đức Chúa Trời không bao giờ quy định rằng ai thực hiện bổn phận nhiều nên được ban thưởng nhiều, ai thực hiện bổn phận ít hoặc chẳng ra sao nên được ban thưởng ít – Đức Chúa Trời không hề phán như vậy. Vậy Đức Chúa Trời phán gì? Đức Chúa Trời phán rằng thực hiện bổn phận là thiên chức của mỗi một người và đó là điều mà loài thọ tạo nên làm – đây là lẽ thật. Kẻ địch lại Đấng Christ có hiểu điều này như vậy không? Họ đối đãi với những lời này của Đức Chúa Trời như thế nào? Họ sẽ đối đãi theo cách khác. Đứng trên phương diện lợi ích của bản thân, họ sẽ có sự diễn giải sai về lời Đức Chúa Trời. Nói một cách chính xác thì những gì họ làm là xuyên tạc lời Đức Chúa Trời, sử dụng những phương thức và cách hiểu riêng của họ để biến lời Đức Chúa Trời và lẽ thật thành một câu nói khác. Và tính chất của câu nói khác này là gì? Nó có lợi cho họ, nó có thể mê hoặc mọi người, và nó có thể kích động, lôi kéo mọi người. Họ biến lời Đức Chúa Trời thành cách nói của họ, như thể đó là những lẽ thật mà họ đang bày tỏ, và sau khi Đức Chúa Trời phán điều gì, họ phải thay đổi cách Đức Chúa Trời phán và nguyên tắc của lời Đức Chúa Trời thành cách riêng của họ. Sau khi họ biến lẽ thật thành cách riêng của họ, đó có còn là lẽ thật nữa không? Không – mà là ngụy biện và tà thuyết. Các ngươi đã có thể phân định được chuyện này chưa? (Thưa rồi, một chút.) Sau khi nghe giảng đạo nhiều như vậy, một số người đã có được chút phân định. Vậy thực chất của việc kẻ địch lại Đấng Christ phản đối và phủ nhận lẽ thật là gì? (Thưa, đó là xuyên tạc và diễn giải sai lời Đức Chúa Trời.) Và khi xuyên tạc, diễn giải sai lời Đức Chúa Trời, ý định của họ là gì? Đó là để mọi người không tiếp nhận lẽ thật, mà thay vào đó tiếp nhận những ngụy biện và tà thuyết của họ. Họ bóp méo lẽ thật theo tư duy và lô-gic, lợi ích, quan điểm, và quan niệm của mình. Điều đó về sau có lợi cho họ, và họ cũng có thể kích động, mê hoặc một số người ngu muội vô tri, không hiểu lẽ thật. Lời của họ, ngươi mới nghe thì có vẻ đúng, nhưng nếu phân tích kỹ, ngươi sẽ thấy những dã tâm cùng quỷ kế của Sa-tan trong đó. Những dã tâm và quỷ kế của họ có mục đích gì? Mục đích là để có lợi cho bản thân họ, để khiến những cách làm và hành vi của họ có thể đứng vững, để khiến mọi người đánh giá tốt về họ, để thay đổi hành vi xấu và ác của họ thành hành vi và cách làm chính đáng, hợp lẽ thật. Như thế thì mọi người sẽ không cự tuyệt họ, và Đức Chúa Trời sẽ không định tội họ. Có lẽ họ có thể mê hoặc người khác để không bị người ta cự tuyệt, nhưng liệu họ có thể khiến Đức Chúa Trời không định tội họ được không? Liệu con người có thể thay đổi được thực chất của Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Đây chính là chỗ ngu xuẩn nhất của kẻ địch lại Đấng Christ. Họ muốn sử dụng ba tấc lưỡi và “bộ óc thông minh” của mình để nghĩ ra đủ loại ngụy biện và tà thuyết hòng xuyên tạc lẽ thật để lời họ có thể đứng vững, thông qua đó bác bỏ lời phán của Đức Chúa Trời và phủ nhận sự tồn tại của lẽ thật – chẳng phải như vậy là họ suy nghĩ sai lầm sao? Họ có thể đạt được mục đích của mình không? (Thưa, không thể.) Có những người hỏi khi kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc một số người, thì phải làm sao? Nếu những người như thế thực sự bị mê hoặc và không thể quay đầu, thì điều đó có nghĩa là họ đã bị tỏ lộ và đào thải, như vậy là đáng đời. Đây là số người khó thoát; số họ phải chết, và Đức Chúa Trời không bao giờ có ý định cứu rỗi những người như họ. Họ trà trộn vào hội thánh, đem sức lực phục vụ một chút và hưởng chút ân điển, khi Đức Chúa Trời không còn muốn họ nữa thì Ngài giao họ cho Sa-tan. Bỗng nhiên họ nghe thấy một tà thuyết và lý lẽ sai trái, nghe xong, họ vỗ tay tán thưởng, và thế là họ bỏ đi theo Sa-tan. Đây gọi là gì? Đây là lợi dụng Sa-tan để phục vụ. Có một câu trong Sách Khải Huyền nói rằng: “Kẻ nào không công bình, cứ không công bình nữa; kẻ nào ô uế, cứ còn ô uế nữa; kẻ nào công bình, cứ làm điều công bình nữa; kẻ nào là thánh, cứ làm nên thánh nữa!” (Khải Huyền 22:11). Điều này có nghĩa là con người đang được phân chia theo loại. Đối với những người đi theo kẻ địch lại Đấng Christ đó, đây có phải chỉ là sự bất cẩn nhất thời không? Có phải là do Đức Chúa Trời không trông chừng không? Đây gọi là đáng chết! Sau khi tiếp xúc với những người như thế một thời gian, ngươi sẽ phát hiện ra rằng họ không xứng đáng được cứu rỗi – họ quá đê tiện! Xét về phẩm chất nhân tính và việc mưu cầu lẽ thật của họ, thì bản tính của họ là tà ác và chán ghét lẽ thật, họ không xứng đáng được cứu rỗi, không xứng đáng được thừa hưởng ân điển lớn lao như thế từ Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời không cho họ ân điển này, thì đơn giản là họ sẽ không nhận được, vì thế cách chuẩn xác nhất để khái quát về họ trong hai chữ là “đáng chết”.

Đề cao và làm chứng cho mình là biểu hiện chủ yếu nhất của kẻ địch lại Đấng Christ, và việc xác định thực chất của họ theo biểu hiện này là rất phù hợp và cụ thể – chứ không phải sáo rỗng. Bằng cách nhìn vào ý đồ, dã tâm, sự bộc lộ thực chất của họ, cũng như mục đích xuyên suốt trong việc làm của họ, có thể thấy rằng việc đề cao và làm chứng cho mình là một biểu hiện đặc trưng của kẻ địch lại Đấng Christ. Có kẻ địch lại Đấng Christ nào mà không bao giờ đề cao và làm chứng cho mình không? (Thưa, không.) Tại sao không? Bởi vì dã tâm và dục vọng của họ quá lớn, không khống chế nổi. Bất kể sống trong tập thể nào, nếu không ai đề cao và tôn sùng họ, họ liền cảm thấy như cuộc sống không còn giá trị hay ý nghĩa, chính vì thế họ rất hào hứng đề cao và làm chứng cho mình để đạt được mục đích. Họ sống để nên người xuất chúng, và cần được mọi người tôn sùng, đi theo, ngay cả khi những người đó giống như lũ ruồi nhặng khó chịu, tởm lợm hay toán ăn xin, họ cũng không bận tâm. Chỉ cần có người tôn sùng, đi theo họ, là họ cảm thấy yên tâm thoải mái. Nếu họ có thể nhận được những tràng pháo tay cuồng nhiệt từ người hâm mộ như ngôi sao ca nhạc, thì họ sẽ ở trên chín tầng mây, họ thích tận hưởng điều đó – đây chính là bản tính của kẻ địch lại Đấng Christ. Dù dạng người nào đi theo hay tôn sùng họ, kẻ địch lại Đấng Christ đều thích hết. Dù những người đi theo họ có thuộc dạng đê tiện và đáng kinh tởm nhất, dù có là súc sinh đi nữa, chỉ cần những người đó có thể đề cao và thỏa mãn dã tâm, dục vọng về địa vị của họ, thì kẻ địch lại Đấng Christ đều không chê. Vậy kẻ địch lại Đấng Christ có thể khống chế bản thân đừng đề cao, làm chứng cho mình và khoe khoang bản thân khắp nơi được không? (Thưa, không.) Đó là thực chất của họ. Các ngươi nói xem, dạng người nào là người thực sự đi theo Đức Chúa Trời? Trong nhân loại, có một loại người mà Đức Chúa Trời muốn tuyển chọn và cứu rỗi, và những người này có lương tâm, lý trí và liêm sỉ ở mức tối thiểu nhất. Những người khá hơn một chút thì có thể yêu lẽ thật, yêu những điều tích cực và yêu sự công bằng, công chính của Đức Chúa Trời; họ có thể căm ghét sự tà ác và cảm thấy bất bình khi nhìn thấy những điều phi nghĩa hoặc tà ác, và ngay cả khi không thể làm gì đối với những điều này, họ vẫn căm ghét chúng – những người Đức Chúa Trời muốn tối thiểu là những người như vậy. Còn những người không có nhân tính và thực chất này thì Đức Chúa Trời không muốn họ, họ có nói nhiều như thế nào về sự tốt lành hay vĩ đại của Đức Chúa Trời đi nữa thì Ngài cũng không muốn họ. Chẳng hạn như những người Pha-ri-si trong tôn giáo tôn cao Đức Chúa Trời và làm chứng cho Đức Chúa Trời bằng những lý luận suông và lời lẽ hời hợt rập hoài một điệu, ngay cả sau hai ngàn năm, họ vẫn nói không chán. Giờ đây Đức Chúa Trời đang bày tỏ rất nhiều lẽ thật, nhưng họ lại không thể nhìn thấy, họ phớt lờ, thậm chí một số người còn lên án và báng bổ. Điều đó hoàn toàn tỏ lộ họ, và từ lâu Đức Chúa Trời đã định nghĩa họ là những người Pha-ri-si đạo đức giả, hết thảy họ đều thuộc bè lũ Sa-tan; Đức Chúa Trời đã định rõ họ là ma quỷ và Sa-tan, là loài heo chó. Khi kẻ địch lại Đấng Christ đến trong một nhóm người như thế và thấy rất ít người có thể hiểu lẽ thật, không ai có sự phân định hay bản lĩnh gì, họ liền vội tranh thủ cơ hội này để thể hiện. Có những người khoe khoang rằng họ đã từng được nhận vào hai trường đại học đẳng cấp thế giới cùng lúc, nhưng cuối cùng không đi vì họ bắt đầu tin Đức Chúa Trời và tiếp nhận sự ủy thác của Ngài. Sau khi nghe họ nói vậy, một số người bắt đầu đặc biệt coi trọng họ. Nếu ngươi không hiểu được lẽ thật, nếu những điều ngươi yêu thích và thế giới quan của ngươi giống của người thế tục, thì ngươi sẽ tôn sùng những người như thế này, và đó là lý do tại sao khi kẻ địch lại Đấng Christ nói những điều như thế này, ngươi sẽ bị họ mê hoặc và đánh lừa. Những kẻ địch lại Đấng Christ đề cao bản thân một cách trá hình như vậy, và những người ngu muội, không biết phân định đó bị họ mê hoặc. Cuối cùng, kẻ địch lại Đấng Christ cảm thấy rất hả hê, nghĩ rằng thủ hạ của mình người nào cũng đều không tầm thường, trong khi trên thực tế, đó đều là một đám hồ đồ, một lũ phế vật. Những ai không có năng lực lĩnh hội lẽ thật đều có thể bị Sa-tan và kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc. Khi nghe Sa-tan và kẻ địch lại Đấng Christ nói, họ cảm thấy thực sự hợp tâm tư và thị hiếu của bản thân, nên họ thích nghe. Họ không thể sử dụng tư duy bình thường để phán đoán, cũng không tìm người hiểu được lẽ thật để giúp họ phân định những chuyện như thế; chỉ cần họ thấy những điều mình đang nghe có vẻ có đạo lý thì họ sẽ sẵn lòng tiếp nhận, vì thế họ bị mê hoặc tự lúc nào không hay. Những người có năng lực lĩnh hội lẽ thật và biết phân định, khi nghe kẻ địch lại Đấng Christ nói, sẽ biết rằng người này đang cố gắng mê hoặc người khác và họ sẽ cự tuyệt. Những người hồ đồ không biết phân định đó sẽ cảm thấy kẻ địch lại Đấng Christ có học vấn, có tố chất tốt và có tiền đồ. Họ sẽ nhìn nhận mọi sự như vậy, và bị hiện tượng bề ngoài nào đó mê hoặc; họ sẽ không biết các nguyên tắc lẽ thật là gì, và họ sẽ bỏ đi theo Sa-tan. Chẳng phải những người như thế do ngu muội và vô tri mà đưa mình đến chỗ diệt vong sao? Chính là như vậy. Nếu ngươi biết phân định những biểu hiện khác nhau của việc kẻ địch lại Đấng Christ thường xuyên đề cao và làm chứng cho mình, hoặc những cách khác nhau khi họ làm điều đó, và ngươi có thể phán đoán mục đích cũng như ý đồ trong lời họ, thì ngươi sẽ dễ dàng nhìn thấu được thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ, sau đó có thể lập tức cự tuyệt và nguyền rủa họ, không bao giờ gặp lại. Tại sao ngươi làm vậy? Bởi vì khi nhìn kẻ địch lại Đấng Christ nói năng, làm việc, ngươi sẽ ghê tởm và căm ghét họ, ngươi sẽ cảm thấy kinh tởm như thể đang nhìn ruồi nhặng và cần xua đuổi chúng đi càng sớm càng tốt. Vì thế, một khi đã phân định được những cách làm và hành vi của kẻ địch lại Đấng Christ, ngươi nên lập tức vạch trần họ để những người khác có thể phân định họ, sau đó khai trừ họ khỏi hội thánh theo nguyên tắc. Các ngươi có dám làm vậy không? Nếu dân được Đức Chúa Trời chọn có thể làm vậy, thì điều đó cho thấy họ đã trưởng thành về vóc giạc và có thể quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời cũng như bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời. Khi dân được Đức Chúa Trời chọn hiểu được lẽ thật và biết phân định, thì những kẻ địch lại Đấng Christ sẽ không còn có chỗ đứng trong hội thánh hoặc nhà Đức Chúa Trời nữa.

Bất kể dịp gì, chỉ cần kẻ địch lại Đấng Christ có cơ hội, là họ thể hiện và làm chứng cho mình, và chỉ cần có người tôn sùng họ, nhìn họ với ánh mắt thán phục, ngưỡng mộ và kính trọng, là họ vui vẻ – không quan tâm những người đó là ai. Họ có tiêu chuẩn yêu cầu đối với những người đi theo, tôn sùng và ngưỡng vọng họ không? (Thưa, không.) Bất kể những người đó là kẻ ngu, kẻ thiểu năng trí tuệ, kẻ ác hay kẻ chẳng tin, bất kể là dạng người gì, thậm chí kể cả những người nên bị thanh trừ và đào thải, chỉ cần những người đó có thể đi theo, tôn sùng và đề cao họ, thì kẻ địch lại Đấng Christ đều tiếp nhận, họ rất thích những người đó, lung lạc những người đó về phe mình và bảo vệ những người đó. Kẻ địch lại Đấng Christ xem những người đó như con chiên của họ, như tài sản riêng của họ, và không cho phép bất kỳ ai khác được điều chuyển, vạch trần hay xử lý những người đó. Bất kể những người đó a dua tâng bốc, xun xoe lấy lòng kẻ địch lại Đấng Christ ra sao, bất kể họ nói những điều đáng kinh tởm thế nào, kẻ địch lại Đấng Christ cũng đều vui thích; chỉ cần những người đó tán dương họ là được. Mọi điều kẻ địch lại Đấng Christ nói và làm đều là để người khác coi trọng họ, thích họ và đi theo họ, bất kể những người đi theo họ làm bao nhiêu chuyện xấu, kẻ địch lại Đấng Christ cũng sẽ không truy cứu, và bất kể nhân tính của những người đó nham hiểm, ác độc thế nào, họ cũng không ghét bỏ. Chỉ cần những người đó đi theo và tôn sùng họ là kẻ địch lại Đấng Christ thích, chỉ cần những người đó có thể duy trì quyền thế và địa vị của kẻ địch lại Đấng Christ, không chống lại hay đối lập với họ, là kẻ địch lại Đấng Christ cảm thấy vô cùng hài lòng – kẻ địch lại Đấng Christ là như vậy. Trái lại, kẻ địch lại Đấng Christ đối xử thế nào với những người luôn vạch trần họ, cản trở họ đề cao và làm chứng cho mình, khinh bỉ họ vì làm điều đó, cũng như những người thông công về lẽ thật với họ, có thể nhìn thấu thực chất vấn đề của họ và thực sự phân định được họ? Họ lập tức thẹn quá hóa giận, và họ đề phòng, bài xích, đả kích những người đó, cuối cùng nghĩ trăm phương ngàn kế để cô lập những người có thể phân định và phản đối họ. Nguyên nhân đằng sau việc họ làm vậy là gì? Đó là bởi vì khi đang đề cao và làm chứng cho mình, họ luôn nghĩ rằng những người đó thật chướng mắt, là cái gai trong mắt, và những người đó sẽ phân định, từ bỏ họ, vạch trần họ, làm hỏng chuyện tốt của họ. Chỉ cần nhìn thấy những người đó, kẻ địch lại Đấng Christ sẽ cảm thấy bất an trong lòng và luôn muốn xử lý những người đó, nghĩ rằng chỉ cần họ có thể xử lý những người đó, thì khi họ đề cao và làm chứng cho mình lần nữa, sẽ không còn ai vạch trần hay cản trở họ, và họ sẽ có thể hành ác không chút e dè. Đây chính là nguyên tắc hành động của kẻ địch lại Đấng Christ. Bất kể những người tán dương, khen ngợi hay đề cao họ là dạng người gì, bất kể những gì những người đó nói có phù hợp với sự thật hay không, ngay cả khi họ đang nói dối, thì kẻ địch lại Đấng Christ cũng sẵn lòng tiếp nhận, họ sẽ thích nghe, và từ tận đáy lòng họ sẽ thích những người đó. Họ không quan tâm những người đó có vấn đề gì, và dù có phát hiện ra vấn đề nơi những người đó, họ cũng sẽ che giấu, bao che và không hé răng nửa lời. Chỉ cần kẻ địch lại Đấng Christ có những người đó bên cạnh, đi theo và tán dương họ, là họ cảm thấy vui thích. Đây chính là cách làm của kẻ địch lại Đấng Christ. Các ngươi có thể làm những chuyện mà kẻ địch lại Đấng Christ làm này không? Chẳng hạn như giả sử các ngươi là lãnh đạo và người làm công trong hội thánh, những người có địa vị và thân phận trong dân được Đức Chúa Trời chọn. Nếu các anh chị em coi trọng ngươi, tán dương ngươi, nịnh hót ngươi và thường xuyên khen ngợi ngươi, nói rằng ngươi giảng đạo hay, ngoại hình cũng đẹp, rằng đối với họ, ngươi là lãnh đạo tốt nhất, thì ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Ngươi có thể phân định được ý định đằng sau lời họ không? Ngươi có thể từ bỏ và tránh xa những người như thế không? Nếu không thì ngươi rơi vào nguy hiểm rồi. Ngươi biết rõ rằng ngoại hình mình không ra gì, cũng không thể thông công về thực tế lẽ thật, mà ngươi vẫn cảm thấy vui mừng khi nghe người ta tán dương mình như vậy, và luôn muốn gần gũi, đề bạt những người như thế, chẳng phải như vậy là ngươi gặp phiền phức rồi sao? Như vậy là ngươi gặp nguy hiểm rồi.

Khi các lãnh đạo và người làm công đang làm việc, có lúc họ được Đức Thánh Linh khai sáng và soi sáng, họ có thể nói về một số trải nghiệm thực sự, tự nhiên sẽ có những người coi trọng và tôn sùng họ, tự nhiên sẽ có những người đi theo họ như hình với bóng – những lúc như thế, họ nên tiếp cận những chuyện này như thế nào? Ai cũng có những điều mình thích, ai cũng có lòng tham hư vinh; nếu nghe ai đó nói một cách tán thành và tâng bốc mình, thì sẽ rất thích. Đây là cảm giác bình thường và không phải là vấn đề lớn. Tuy nhiên, nếu họ đề bạt và trọng dụng người có thể hết lời tán dương họ, a dua nịnh hót họ, thì như vậy là nguy hiểm rồi. Đó là bởi vì những người thích a dua nịnh hót và khen ngợi người khác hết thảy đều vô cùng khéo đưa đẩy và giả dối, họ không phải là người trung thực hay chân thật. Ngay khi những người như thế có địa vị, họ sẽ không mang lại lợi ích cho lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn hay công tác của hội thánh. Những người này gian xảo, và họ dễ phá hoại nhất. Những người tương đối chính trực sẽ không bao giờ hết lời tán dương người khác. Ngay cả khi trong lòng họ tán thành ngươi, họ cũng sẽ không nói ra, và nếu họ phát hiện thấy ngươi có khuyết điểm hoặc làm điều gì sai trái, thì họ sẽ chỉ ra cho ngươi. Nhưng một số người không thích người ngay thẳng, và khi bị ai đó chỉ ra khuyết điểm hoặc trách cứ, họ sẽ chèn ép và bài xích người đó, thậm chí còn chộp lấy những khuyết điểm và điểm yếu của người đó để liên tục xét đoán và lên án người ta. Khi làm vậy, chẳng phải họ đang chèn ép và làm hại người tốt sao? Làm những chuyện như thế này và bức hại những người tốt như vậy, chính là điều mà Đức Chúa Trời ghê tởm nhất. Bức hại người tốt là việc làm thất đức! Và nếu người nào bức hại rất nhiều người tốt, thì đó là ma quỷ. Các lãnh đạo và người làm công nên đối xử công bằng và yêu thương với tất cả mọi người, đồng thời nên làm việc theo nguyên tắc. Nhất là khi ngươi có những người nịnh nọt và tâng bốc ngươi, xoay quanh ngươi, thì ngươi cũng phải đối đãi họ một cách đúng đắn, trợ giúp họ bằng tình yêu thương, và làm sao để họ lo làm việc chính của mình và không học cái kiểu a dua nịnh hót của người ngoại đạo; hãy nói rõ lập trường và quan điểm của ngươi, khiến họ cảm thấy bẽ mặt và hổ thẹn để không bao giờ làm vậy nữa. Nếu ngươi có thể giữ vững nguyên tắc và đối đãi công bằng với người khác, thì chẳng phải những tên hề đê tiện và loại Sa-tan này sẽ cảm thấy xấu hổ sao? Làm như thế sẽ khiến Sa-tan hổ thẹn và làm thỏa lòng Đức Chúa Trời. Những người thích a dua nịnh nọt người khác tin rằng các lãnh đạo và người làm công ai cũng yêu thích người a dua nịnh nọt họ, và hễ ai nói gì tán dương hoặc lấy lòng họ, thì lòng tham hư vinh và địa vị của họ sẽ được thỏa mãn. Những người yêu lẽ thật thì không thích cái kiểu này, trong lòng đặc biệt ghê tởm, kinh tởm cái kiểu này. Chỉ lãnh đạo giả mới thích cái kiểu này. Nhà Đức Chúa Trời có thể không ca ngợi hay khen ngợi họ, nhưng nếu dân được Đức Chúa Trời chọn ca ngợi và khen ngợi họ, thì họ cảm thấy rất thỏa mãn và vô cùng thích thú, cuối cùng họ cũng có được chút an ủi từ đó. Kẻ địch lại Đấng Christ càng thích cái kiểu này hơn nữa, và điều họ thích nhất là khi những người như thế này gần gũi họ, xoay quanh họ. Như vậy chẳng phải phiền phức rồi sao? Kẻ địch lại Đấng Christ chính là như thế; họ thích có người ca ngợi và khen ngợi họ, tôn sùng và đi theo họ, còn người mưu cầu lẽ thật và tương đối chính trực thì không thích cái kiểu như vậy. Ngươi phải gần gũi những người có thể nói thật với ngươi; có những người này bên cạnh thì vô cùng ích lợi cho ngươi. Nhất là những người mà khi phát hiện vấn đề ở ngươi thì dám trách cứ ngươi, vạch trần ngươi, có những người tốt như vậy xung quanh thì ngươi có thể tránh khỏi lạc lối. Họ không quan tâm địa vị của ngươi là gì, hễ phát hiện thấy ngươi làm chuyện gì đi ngược lại nguyên tắc lẽ thật, là họ liền trách cứ và vạch trần ngươi nếu cần. Chỉ những người như vậy mới là người chính trực, người có tinh thần chính nghĩa, và dù họ có vạch trần, chỉ trích ngươi thế nào đi nữa, cũng đều giúp ích cho ngươi, cũng đều là giám sát, đốc thúc ngươi. Ngươi phải gần gũi những người như thế; có những người như thế ở bên cạnh trợ giúp thì ngươi sẽ tương đối an toàn hơn nhiều – đây chính là có sự bảo vệ của Đức Chúa Trời. Có những người hiểu lẽ thật và giữ vững nguyên tắc ở bên cạnh giám sát ngươi mỗi ngày là vô cùng ích lợi cho ngươi thực hiện tốt bổn phận và công tác của mình. Ngươi phải tuyệt đối không được để những người khéo đưa đẩy, giả dối, a dua tâng bốc và nịnh hót làm trợ thủ cho mình; có những người như thế bám lấy ngươi giống như có ruồi nhặng hôi thối trên người, ngươi sẽ tiếp xúc với rất nhiều vi khuẩn, vi-rút. Những người như thế dễ quấy nhiễu ngươi và ảnh hưởng đến công tác của ngươi, họ có thể khiến ngươi sa vào cám dỗ và lạc lối, và họ có thể mang đến tai họa, tai ương cho ngươi. Ngươi phải tránh xa họ, càng xa càng tốt, nếu ngươi có thể phân định được rằng họ có thực chất của kẻ chẳng tin và khiến họ bị thanh trừ khỏi hội thánh, thì càng tốt. Một khi người chính trực mưu cầu lẽ thật thấy ngươi có vấn đề, thì bất kể địa vị của ngươi là gì, bất kể ngươi sẽ đối xử với họ ra sao, ngay cả khi ngươi sẽ cách chức họ, thì họ cũng sẽ nói thật với ngươi. Họ sẽ không bao giờ cố gắng che đậy hay ngập ngừng ấp úng. Có thêm nhiều người như thế này quanh mình thì có ích biết bao! Khi ngươi làm chuyện gì đi ngược lại nguyên tắc, họ có thể vạch trần ngươi, nêu ý kiến về vấn đề của ngươi, và chỉ ra những vấn đề, thiếu sót của ngươi một cách thẳng thắn, trung thực; họ sẽ không cố giúp ngươi giữ thể diện, thậm chí còn không cho ngươi cơ hội tránh mất mặt trước nhiều người. Ngươi nên đối đãi với những người như vậy thế nào? Trừng trị họ hay gần gũi họ? (Thưa, gần gũi họ.) Đúng vậy. Ngươi nên mở lòng và thông công với họ rằng: “Vấn đề mà anh đã chỉ ra cho tôi là đúng. Lúc đó, lòng tôi còn ham hư vinh và địa vị. Tôi cảm thấy mình đã làm lãnh đạo nhiều năm như vậy, mà không những anh không giữ thể diện cho tôi, lại còn chỉ ra những vấn đề của tôi trước mặt rất nhiều người, nên tôi không tiếp nhận được. Nhưng giờ đây, tôi thấy những việc mình làm quả thực là không phù hợp với nguyên tắc và lẽ thật, tôi không nên làm vậy. Vị trí lãnh đạo thì có gì chứ? Chẳng phải đó chỉ là bổn phận thôi sao? Chúng ta đều đang thực hiện bổn phận, đều bình đẳng về địa vị. Chỉ khác ở chỗ tôi gánh nhiều trách nhiệm hơn một chút, vậy thôi. Nếu sau này anh phát hiện ra bất kỳ vấn đề nào, thì cái gì nên nói, anh cứ việc nói, không có chuyện ân oán cá nhân nào giữa chúng ta đâu. Nếu có khác biệt trong cách lĩnh hội lẽ thật, thì chúng ta có thể thông công cùng nhau. Trong nhà Đức Chúa Trời, cũng như trước Đức Chúa Trời và lẽ thật, chúng ta sẽ đoàn kết, không chia rẽ”. Đây là thái độ thực hành và yêu lẽ thật. Nếu muốn tránh xa con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, ngươi nên làm gì? Ngươi nên chủ động gần gũi với những người yêu lẽ thật, những người chính trực, ngươi nên gần gũi những người mà khi phát hiện ra vấn đề của ngươi, có thể chỉ ra vấn đề, có thể nói thật và chỉ trích ngươi, nhất là những người mà khi phát hiện ra vấn đề của ngươi thì có thể tỉa sửa ngươi – đó là những người ích lợi cho ngươi nhất, và ngươi nên trân quý họ. Nếu bài xích và từ bỏ những người tốt như thế, ngươi sẽ đánh mất sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, và tai họa sẽ dần đến với ngươi. Khi gần gũi những người tốt và những người hiểu lẽ thật, ngươi sẽ có được sự bình an và niềm vui, cũng như tránh xa tai họa. Khi gần gũi những kẻ tiểu nhân, những kẻ vô liêm sỉ và những kẻ xu nịnh thì ngươi sẽ lâm nguy. Không những ngươi dễ bị lừa bịp, lừa gạt, mà tai họa còn có thể ập đến với ngươi bất cứ lúc nào. Ngươi phải biết loại người nào có thể ích lợi cho ngươi nhất – đó chính là những người có thể nhắc nhở ngươi khi ngươi làm sai, hoặc khi ngươi đề cao, làm chứng cho chính mình và mê hoặc người khác, đó là những người có ích lợi cho ngươi nhất. Gần gũi những người như thế là con đường đúng đắn để đi. Các ngươi có thể làm được như vậy không? Nếu ai nói gì làm tổn hại sĩ diện của ngươi, làm ngươi oán giận cả đời, và nói rằng: “Tại sao anh lại vạch trần tôi? Tôi chưa bao giờ bạc đãi anh. Tại sao anh lại luôn gây khó dễ cho tôi?”, và ngươi ôm hận trong lòng, bắt đầu có khoảng cách với người đó, trong lòng luôn nghĩ: “Tôi là lãnh đạo, tôi có thân phận và địa vị này, tôi sẽ không cho phép anh nói kiểu đó”, thì đây là dạng biểu hiện gì? Đây là không tiếp nhận lẽ thật, lại còn phân cao thấp với người khác, có chút bất chấp lý lẽ. Chẳng phải đây là lòng tham địa vị của ngươi đang hoành hành sao? Điều này cho thấy những tâm tính bại hoại của ngươi quá nghiêm trọng. Những người luôn có lòng tham địa vị là người có tâm tính địch lại Đấng Christ nghiêm trọng. Nếu còn có thể hành ác, thì họ sẽ rất nhanh bị tỏ lộ và đào thải. Việc con người có thể cự tuyệt và không tiếp nhận lẽ thật là rất nguy hiểm! Luôn có lòng tranh đoạt địa vị và luôn muốn tham hưởng lợi ích của địa vị là dấu hiệu nguy hiểm. Khi lòng người ta luôn bị địa vị kìm kẹp, họ còn có thể thực hành lẽ thật và làm việc theo nguyên tắc được không? Nếu người ta không thể thực hành lẽ thật, luôn hành động vì danh lợi, địa vị, và luôn lợi dụng quyền lực của mình để làm việc gì đó, thì chẳng phải họ là một kẻ địch lại Đấng Christ rành rành đang hiện nguyên hình sao?

Những biểu hiện như đề cao và làm chứng cho mình là những biểu hiện thường thấy nhất của kẻ địch lại Đấng Christ. Dù là trong cuộc sống thường ngày, trong cách họ đối nhân xử thế, hay trong đời sống hội thánh, luôn có thể thấy được những biểu hiện này, bởi vì những biểu hiện này là sự bộc lộ của những tâm tính bại hoại. Chẳng hạn như các lẽ thật về cách tiếp cận bổn phận, cách đối đãi phân định người khác là những lẽ thật mà chúng ta đã nói đến khi thông công. Có phải là các ngươi biết những biểu hiện cụ thể của những điều này trong cuộc sống thường nhật của mình, nhưng không thể cảm nhận được đó là vấn đề không? Hay là các ngươi chưa bắt đầu bước vào dựa trên những vấn đề cụ thể này? Nếu các ngươi chưa bắt đầu với phương diện tâm tính, hoặc đôi khi bộc lộ những biểu hiện này nhưng lại không biết đó có phải là vấn đề tâm tính hay không, vì thế không để ý, thì các ngươi còn cách rất xa sự thay đổi tâm tính. Nếu ngươi không ý thức được rằng những biểu hiện này là ngươi đang đề cao và làm chứng cho mình, nếu ngươi không biết rằng những biểu hiện này là do tâm tính bại hoại của ngươi chi phối, và ngươi xem chúng như một dạng tính cách, một cách làm hoặc nhận thức bẩm sinh, thì ngươi đã xem nhẹ chúng, và không xem chúng là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại và thực chất bại hoại của mình, vậy thì ngươi sẽ khó mà thay đổi tâm tính bại hoại có liên quan. Cái mà con người có thể ý thức được là liên quan đến tâm tính, dù là cách làm hay tình trạng của họ, dù là hành vi bề ngoài hay lời lẽ và câu nói của họ, dù là tư tưởng, quan điểm hay sự lĩnh hội của họ về chuyện gì đó, chỉ cần nó liên quan đến thực chất tâm tính, thì họ nên luôn xem nó là một sự thể hiện hoặc bộc lộ của thực chất bản tính của con người. Như vậy, chẳng phải nhận thức của họ sẽ rộng mở hơn sao? Họ sẽ không chỉ nhận thức những chuyện lớn, như việc mình chống đối Đức Chúa Trời, không yêu lẽ thật, tham địa vị, hoặc dùng lời lẽ mà mê hoặc mọi người, mà họ còn nhận thức được mọi chuyện, từ những chuyện nhỏ như một vài tâm tư, ý niệm và ý định, cho đến những chuyện lớn như luận điệu hoặc câu nói. Ta vừa đề cập đến tổng cộng sáu điều, trong đó có tư tưởng, quan điểm, cũng như sự lĩnh hội của con người về chuyện gì đó. Tư tưởng và quan điểm là những thứ tồn tại trong ý thức và tư tưởng của con người; sự lĩnh hội là điều người ta đã nhận thức được rồi và có thể hình thành những câu chữ và câu nói cụ thể về nó; rồi có hành vi và ngôn ngữ. Tổng cộng có bốn điều này. Còn có câu nói và luận điệu. Câu nói và luận điệu đối lập với điều gì? (Thưa, ý định và tâm tư, ý niệm.) Tâm tư, ý niệm là những điều khá mơ hồ, vô thức nảy sinh trong tâm trí. Chúng chưa được định nghĩa rốt cuộc là đúng hay sai, chỉ là trong suy nghĩ, và chúng chưa thành hình trong ngươi, trong khi luận điệu nêu ra thì đã thành hình. Tổng cộng có ba nhóm và sáu điều. Hãy xem sáu điều này là con đường để mổ xẻ thực chất các tâm tính bại hoại của các ngươi và đạt được sự thay đổi tâm tính, từ nay trở đi hãy bắt đầu nhận thức những tâm tính bại hoại và thực chất bại hoại của chính mình từ sáu điều này, có như vậy ngươi mới có thể thực sự biết mình.

Sau khi nghe nội dung thông công hôm nay, các ngươi có cần chút thời gian để hấp thụ những gì mình nghe không? Khi nhóm họp cùng nhau, các ngươi có thể thông công về một chút sự sáng hoặc đối chiếu với bản thân dựa trên cơ sở này không? Đây là điều mấu chốt và hữu ích nhất cho các ngươi. Khi nhóm họp cùng nhau, các ngươi cần thông công, trao đổi ý kiến và thảo luận về những trải nghiệm và lĩnh hội của mình – như vậy là hiệu quả nhất. Trước đây, chúng ta luôn sử dụng từ “suy ngẫm”, thông tục gọi là “nhai lại”. Nó có nghĩa là đọc nhiều hơn, cầu nguyện-đọc nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn và tìm kiếm nhiều hơn, để lấy những gì ngươi hiểu được lúc đang nghe, cũng như những gì ngươi chưa hiểu được và xem là đạo lý, những điểm quan trọng, những điểm mà mọi người đều hiểu lầm và những điểm ngươi chưa hiểu ra được, rồi tập trung vào tất cả những điều đó khi thông công – “nhai lại” nghĩa là vậy. Như vậy, ngươi sẽ ngày càng hiểu rõ ràng và chuẩn xác về chi tiết những lẽ thật này, những điểm khác biệt khác nhau giữa các lẽ thật và các định nghĩa của mỗi lẽ thật. Các ngươi cảm thấy những lẽ thật khác nhau mà mình hiểu được và thực hành trong những năm gần đây trở nên mơ hồ hơn hay rõ ràng hơn trước? (Thưa, rõ ràng hơn.) Và trong những năm qua, đã có sự thay đổi lớn nào trong con đường tin Đức Chúa Trời của các ngươi, phương hướng làm người, cũng như ý định, động cơ và nguồn gốc đằng sau việc thực hiện bổn phận của các ngươi chưa? (Thưa, sau khi trải qua một số sự sửa phạt và sửa dạy của Đức Chúa Trời, đồng thời ăn uống lời Đức Chúa Trời, con cảm thấy đã có chút thay đổi.) Có sự thay đổi là đúng, nó phải như thế. Có những người đến tận bây giờ vẫn còn thờ ơ và không hề thay đổi chút nào sau khi nghe bao nhiêu bài giảng như vậy. Trong sâu thẳm nội tâm họ không xúc động, nghĩa là không buổi nhóm họp hay thông công nào có thể thay đổi được phương hướng họ đang đi – họ quá tê liệt, ngớ ngẩn! Giờ đây con đường được cứu rỗi nên ngày càng rõ ràng hơn, và những người có trải nghiệm đều thấy rất minh bạch, rất rõ ràng những phương thức cũng như mục đích Đức Chúa Trời cứu rỗi con người. Sau khi tin Đức Chúa Trời trong ngần ấy năm qua, nếu ngươi vẫn không biết Đức Chúa Trời cứu rỗi con người như thế nào và Ngài làm tinh sạch họ khỏi sự bại hoại ra sao, thì điều đó cho thấy ngươi không hiểu lẽ thật chút nào, cũng không có chút nhận thức nào về công tác của Đức Chúa Trời. Những người như thế chẳng phải đều hồ đồ trong đức tin sao?

Ngày 20 tháng 3 năm 2019

Trước: Mục 3. Họ loại trừ và tấn công những ai mưu cầu lẽ thật

Tiếp theo: Mục 5. Họ mê hoặc, lôi kéo, đe dọa và khống chế mọi người

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger