Mục 9. Họ thực hiện bổn phận của mình chỉ để làm bản thân nổi bật và thỏa mãn những lợi ích, dã tâm của riêng mình; họ không bao giờ xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và thậm chí bán rẻ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, đem lợi ích của nhà Đức Chúa Trời đổi lấy vinh quang cá nhân (Phần 1)
Phần bổ sung: Lẽ thật là gì
Hôm nay chúng ta vẫn tiếp tục thông công về nội dung lần trước, chủ đề thông công lần trước là gì? (Thưa, “nằm gai nếm mật” không phải là lẽ thật.) Vậy trước đây, các ngươi có nghĩ nó là lẽ thật không? Trước đây, trong tiềm thức, con người cho rằng nó là lẽ thật, ít nhất thì nó cũng tương đối tích cực, cổ vũ ý chí, có thể khích lệ con người tích cực và hướng thượng hơn. Xét từ tầng ý nghĩa này, con người cho rằng nó tương đối tiệm cận lẽ thật và những điều tích cực. Cho nên trong tiềm thức của rất nhiều người, họ cho rằng “nằm gai nếm mật” là một câu nói khá tích cực, ít nhất nó là một cụm từ mang nghĩa tốt, không phải nghĩa xấu, có vai trò hỗ trợ đối với cuộc sống và cách làm người của con người. Nhưng sau khi được thông công, chúng ta đã thấy được rằng chuyện không phải là như vậy, rằng vấn đề trong chuyện này rất lớn. Các ngươi có tìm thêm những diễn đạt tương tự, có liên quan và có tác dụng tương tự như câu này, cũng là những câu mà trong tiềm thức, con người cho là tương đối tích cực, tương đối tốt, và mang chúng ra để mổ xẻ hay không? (Thưa, chúng con chưa tìm.) Các ngươi nói xem, câu “học một biết mười” dùng ở đây có thích hợp không? (Thưa, thích hợp.) Câu này hẳn là có thể ứng dụng được vào khía cạnh tìm kiếm và thực hành lẽ thật. Lần trước chúng ta đã thông công về “nằm gai nếm mật”, vậy còn có những câu nào giống “nằm gai nếm mật” không? Còn những câu nào đại khái là có ý nghĩa tương tự hoặc có tác dụng tương tự? Các ngươi cứ việc căn cứ theo cách của Ta mà mổ xẻ những câu “như nằm gai nếm mật”, mọi người cùng nhau thông công, sau đó đạt được một số nhận thức mới. Khi đạt đến việc nhìn thấu chỗ sai lầm của nó, thì ngươi sẽ vứt bỏ được những câu này. Sau này trên con đường thực hành lẽ thật và mưu cầu lẽ thật, ngươi sẽ hoàn toàn căn cứ vào lời Đức Chúa Trời.
Chúng ta sẽ tiếp tục chủ đề đã thông công hai lần trước, đó là chủ đề gì? (Thưa, lẽ thật là gì.) Đúng vậy, lẽ thật là gì. Vậy rốt cuộc lẽ thật là gì? (Thưa, lẽ thật là tiêu chí cho cách hành xử, hành động và sự thờ phượng Đức Chúa Trời của con người.) Xem ra, các ngươi đã ghi nhớ câu này về mặt lý thuyết và định nghĩa. Vậy thông qua hai lần thông công trước, hiện tại trong sâu thẳm nội tâm, định nghĩa, nhận thức và lĩnh hội của các ngươi về lẽ thật so với trước kia có gì khác biệt hay không? (Thưa, có sự khác biệt.) Sự khác biệt này rốt cuộc nằm ở đâu? Tuy rằng trong thời gian ngắn, các ngươi có thể sẽ không có nhận thức từ trải nghiệm thực tế, nhưng ít nhất các ngươi sẽ có một vài nhận thức về mặt cảm tính. Hãy căn cứ vào trải nghiệm, nhận thức, sự lý giải của chính mình mà nói thử xem. (Thưa, trước đây con cũng biết khi gặp chuyện thì phải thực hành dựa theo lẽ thật của lời Đức Chúa Trời, nhưng chẳng bao giờ thực hành được. Giống như bình thường con dễ bộc lộ sự nóng nảy, tuy rằng đọc lời Đức Chúa Trời và biết được rằng bộc lộ sự nóng nảy là không đúng, và cũng biết yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người, nhưng con vẫn cứ bộc lộ, mãi vẫn không tìm được căn nguyên. Lần trước, sau khi nghe Đức Chúa Trời thông công, con mới hiểu được, nhiều lúc con người bộc lộ sự bại hoại là vì chịu tư tưởng của Sa-tan chi phối, con bộc lộ sự nóng nảy là bởi vì trong con có lô-gic của Sa-tan, “Người không phạm ta thì ta không phạm người. Người mà phạm ta chắc chắn ta phải phạm người”. Con cho rằng lời này là đúng, con làm như vậy là phòng vệ chính đáng. Vì chịu ảnh hưởng của loại quan điểm và tư tưởng Sa-tan này cho nên con không thực hành được lẽ thật. Thực ra, những thứ của Sa-tan nhìn bề ngoài thì có vẻ đúng đắn, nhưng trên thực tế thì ý nghĩa truyền tải của chúng đều trái ngược với yêu cầu của lời Đức Chúa Trời, chúng là sai lầm. Chỉ có lời Đức Chúa Trời mới là lẽ thật, và làm theo lời Đức Chúa Trời thì mới hoàn toàn đúng đắn.) Rất tốt. Có ai bổ sung thêm không nào? (Thưa, con muốn bổ sung một chút. Trước đây, con cũng biết khi gặp chuyện thì phải tìm kiếm lẽ thật và thực hành lẽ thật, nhưng vẫn còn chút mơ hồ, không biết cụ thể nên thực hành như thế nào. Sau khi nghe Đức Chúa Trời thông công thì con cảm thấy lẽ thật rất thực tế, liên quan đến mọi mặt trong cuộc sống. Giống như một số ví dụ mà Đức Chúa Trời đưa ra, sau khi đến các nước phương Tây, người Trung Quốc cũng học uống cà phê, đây không phải là vấn đề trong cách làm, mà là vấn đề trong quan điểm và tư tưởng của con người, và nó có liên quan đến lẽ thật. Còn nữa, thông qua việc Đức Chúa Trời mổ xẻ những tục ngữ, thành ngữ mà một số người cho là đúng, con cảm thấy nên kiểm điểm những hành vi, cách làm trông như thể đúng đắn này của bản thân, xem những ý định, tư tưởng và quan điểm đằng sau những hành vi này rốt cuộc là gì, xem cả việc dựa vào những thứ này mà sống thì rốt cuộc sẽ sống thể hiện ra cái gì. Hiện tại khi gặp chuyện, con đã có cảm giác cụ thể hơn về cách tìm kiếm lẽ thật và thực hành lẽ thật, chứ không phải trừu tượng như vậy nữa.) Xem ra thông qua hai lần thông công này, đa số đã có một nhận thức cơ bản về chuyện lẽ thật là gì và về một số chủ đề liên quan đến lẽ thật. Từ sâu thẳm nội tâm, họ đã bắt đầu nghĩ lại xem những gì mình làm rốt cuộc có liên quan đến lẽ thật hay không, nghĩ lại xem trong những điều mình giữ vững và nghe được khi tin Đức Chúa Trời, rốt cuộc điều nào là lẽ thật, điều nào không phải là lẽ thật, những gì mình cho là đúng rốt cuộc có phải lẽ thật hay không và có quan hệ gì với lẽ thật. Sau khi nghĩ lại, con người sẽ có thể xác định rốt cuộc lẽ thật là gì, rốt cuộc điều nào là lẽ thật, điều nào không phải lẽ thật. Sau nhiều năm nghe giảng đạo và ăn uống nhiều lời Đức Chúa Trời như vậy, hầu hết mọi người đều thu hoạch được một vài điều, đều có thể thấy rõ một sự thật rằng: Lời Đức Chúa Trời đích xác là lẽ thật, yêu cầu của Ngài chính là lẽ thật, và những gì đến từ Đức Chúa Trời đều là lẽ thật. Những người thật lòng tin Đức Chúa Trời thì trong lòng đều đã thừa nhận và tiếp nhận sự thật này, nhưng trong cuộc sống hiện thực, họ vẫn có thể thường xuyên vô thức nói ra những lời không liên quan đến lẽ thật hoặc trái ngược với lẽ thật. Có một số người còn có thể xem những gì con người cho là đúng, là tốt như lẽ thật, nhất là họ không phân định được những luận điệu sai lầm và lời của quỷ – những lời vốn tưởng đúng mà lại sai phát xuất từ Sa-tan, không những trong lòng họ đã sớm tiếp nhận chúng, mà còn có thể xem chúng như những điều tích cực. Ví dụ như, “Mắt đền mắt, răng đền răng”, “Gậy ông đập lưng ông”, “Khôn ngoan bảo vệ mình, chỉ cầu không phạm lỗi”, “Người không phạm ta thì ta không phạm người”, v.v.. Rất nhiều triết lý Sa-tan đều được con người xem là lẽ thật để tuân thủ, trở thành phương châm của cuộc đời họ, và trong lòng, họ còn cảm thấy vô cùng đắc ý về việc này. Cho đến sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, họ mới nhận biết được những thứ đến từ Sa-tan này thực ra không phải là lẽ thật, mà là tà thuyết và luận điệu sai lầm, tưởng đúng mà lại sai, mê hoặc con người. Những thứ này từ đâu đến? Có cái đến từ sự giáo dục của trường học, được học từ sách giáo khoa, có cái đến từ sự giáo dục của gia đình, có cái đến từ sự hun đúc của xã hội, tóm lại đều đến từ văn hóa truyền thống, đều bắt nguồn từ sự giáo dục của Sa-tan. Những thứ này có liên quan đến lẽ thật không? Về căn bản, chúng không có liên quan gì đến lẽ thật. Nhưng con người lại không biết phân định chúng, còn xem chúng như là lẽ thật, vấn đề này có phải quá nghiêm trọng hay không? Xem những thứ này của Sa-tan là lẽ thật thì hậu quả là gì? Con người tuân thủ chúng thì có thể thoát khỏi tâm tính bại hoại không? Con người tuân thủ chúng thì có thể đạt đến việc sống thể hiện ra nhân tính bình thường không? Con người tuân thủ chúng thì có thể sống theo lương tâm và lý trí không? Có thể đạt được tiêu chuẩn của lương tâm và lý trí không? Con người tuân thủ chúng thì có thể được Đức Chúa Trời khen ngợi không? Con người không thể đạt đến tất cả những điều này. Nếu không thể đạt đến, vậy những thứ con người tuân thủ rốt cuộc có phải là lẽ thật hay không? Chúng có thể làm sự sống của con người không? Con người xem những thứ tiêu cực như triết lý xử thế, con đường sinh tồn, quy tắc sinh tồn, thậm chí là truyền thống văn hóa, v.v. mà họ cho là đúng, là tốt, như là lẽ thật để tuân thủ, hậu quả của chuyện này là gì? Nhân loại tuân thủ những thứ này hàng ngàn năm, vậy họ có biến đổi chút nào không? Hiện trạng của nhân loại có đổi mới chút nào không? Nhân loại bại hoại chẳng phải càng ngày càng tà ác, càng ngày càng chống đối Đức Chúa Trời sao? Mỗi lần công tác, Đức Chúa Trời đều bày tỏ không ít lẽ thật, con người đều có thể thấy được rằng những lẽ thật này có thẩm quyền, có quyền năng. Vậy tại sao nhân loại vẫn có thể phủ nhận và chống đối Đức Chúa Trời? Tại sao vẫn không thể tiếp nhận và thuận phục Ngài? Điều này đủ để chứng tỏ rằng nhân loại đã bị Sa-tan làm bại hoại quá sâu sắc, rằng nhân loại bại hoại tràn ngập tâm tính Sa-tan, đều chán ghét lẽ thật, thù hận lẽ thật, không hề tiếp nhận lẽ thật. Căn nguyên của vấn đề này chính là do nhân loại tiếp nhận quá nhiều triết lý và tri thức của Sa-tan, đã bị thấm nhuần đủ loại tư tưởng và quan điểm của Sa-tan vào trong sâu thẳm tâm linh mình, và như vậy, họ đã nảy sinh tâm tính chán ghét và thù hận lẽ thật. Khi nhìn vào nhiều người tin Đức Chúa Trời, chúng ta có thể thấy được rằng, dù con người thừa nhận rằng lời Đức Chúa Trời có thẩm quyền và quyền năng, nhưng họ lại không tiếp nhận lẽ thật. Nói cách khác, trong khi con người ăn uống lời Đức Chúa Trời, mặc dù ngoài miệng thừa nhận “Lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, lẽ thật là chí cao vô thượng, lẽ thật ở trong lòng chúng ta, chúng ta lấy việc mưu cầu lẽ thật làm mục tiêu sinh tồn”, nhưng trong đời sống hiện thực, họ vẫn sống dựa vào danh ngôn và triết lý của Sa-tan, gạt lời Đức Chúa Trời và lẽ thật sang một bên mà tuân thủ và thực hành những thứ như tri thức thần học, đạo lý thuộc linh của con người như là lẽ thật. Đây có phải là tình trạng thực tế của hầu hết những người tin Đức Chúa Trời hay không? (Thưa, phải.) Nếu ngươi tiếp tục tuân thủ như vậy, và không căn cứ vào lời Đức Chúa Trời mà mổ xẻ và nhận thức những thứ thâm căn cố đế từ văn hóa truyền thống của Sa-tan, không thể phân định chúng, nhìn thấu chúng, vứt bỏ chúng từ tận gốc rễ thì kết quả sẽ là gì? Có một kết quả chắc chắn, đó là con người tin Đức Chúa Trời nhiều năm nhưng không biết lẽ thật là gì, không biết nên đi con đường nào, và cuối cùng trong miệng mỗi người đều có một bộ đạo lý thuộc linh và lý luận thần học. Ngoài miệng thì họ nói rất dễ nghe, toàn là đạo lý phù hợp với lẽ thật, nhưng trên thực tế thì những việc con người họ làm ra và sống thể hiện ra lại là thứ Pha-ri-si giả hình chính gốc. Hậu quả như vậy là gì? Không còn nghi ngờ gì nữa, hậu quả là họ bị Đức Chúa Trời định tội, bị Ngài nguyền rủa. Những người tin Đức Chúa Trời nhưng lại không tiếp nhận lẽ thật thì là người Pha-ri-si, vĩnh viễn không thể nào được Đức Chúa Trời khen ngợi.
Ví dụ như trong vấn đề giáo dục con cái, có người thấy con cái không nghe lời, không chuyên tâm vào việc chính đáng, liền nói: “Cổ nhân nói rất hay, ‘nuôi không dạy, lỗi của cha’”. Họ sẽ không xử lý chuyện này dựa theo lời Đức Chúa Trời. Trong lòng họ chỉ có lời của con người, không có lời Đức Chúa Trời, vậy họ có thực tế lẽ thật hay không? Họ không có. Tuy rằng họ tin Đức Chúa Trời, cũng hiểu được một vài lẽ thật, thì đáng ra họ phải biết dùng lẽ thật mà giáo dục con cái để làm tròn trách nhiệm của người cha, nhưng họ lại không thực hành như vậy. Khi nhìn thấy con cái đi vào con đường sai lầm thì câu mà họ thốt lên lại là: “Nuôi không dạy, lỗi của cha”. Đây là câu nói gì? Là danh ngôn của ai? (Thưa, là danh ngôn của Sa-tan.) Đức Chúa Trời có phán câu này không? (Thưa, không có.) Vậy câu này từ đâu ra? (Thưa, từ Sa-tan.) Nó đến từ Sa-tan, từ thế gian này. Con người “mưu cầu” lẽ thật, “yêu thích” lẽ thật, “tôn cao” lẽ thật như vậy, cớ sao đến lúc gặp chuyện lại nói ra một câu thuộc về Sa-tan? Họ còn cảm thấy đây là lời nghiêm nghĩa chính, “Anh xem, tôi kính sợ, tôn sùng lẽ thật và Đức Chúa Trời biết bao, hễ mở miệng là nói câu ‘nuôi không dạy, lỗi của cha’, đây đúng là lẽ thật vĩ đại biết bao! Nếu không tin Đức Chúa Trời, liệu tôi có thể nói ra lời này không?”. Đây có phải là giả mạo không? (Thưa, phải.) Vậy đây có phải là lẽ thật không? (Thưa, không phải.) “Nuôi không dạy, lỗi của cha”, câu này là sao? Sai ở chỗ nào? Ý của câu này là nếu con cái không nghe lời hoặc không hiểu chuyện thì đó là trách nhiệm của người cha, tức là cha mẹ không giáo dục tốt. Trên thực tế có phải như vậy hay không? (Thưa, không phải.) Có những bậc cha mẹ sống ngay thẳng thật thà, nhưng con trai lại là lưu manh, con gái lại là kỹ nữ. Người làm cha tức giận nói: “Nuôi không dạy, lỗi của cha, là tôi chiều hư nó rồi!”, lời này có đúng hay không? (Thưa, không đúng.) Vậy nó sai ở chỗ nào? Nếu ngươi có thể hiểu được chỗ sai của lời này thì chứng tỏ ngươi hiểu lẽ thật, hiểu được vấn đề trong chuyện này sai ở chỗ nào. Còn nếu ngươi không hiểu lẽ thật trong chuyện này thì ngươi sẽ không nói rõ được. Hiện tại, sau khi đã nghe giải thích và định nghĩa về lẽ thật, có thể các ngươi sẽ cảm thấy, “Lời này không đúng, lời này thuộc về thế gian, chúng ta tin Đức Chúa Trời thì không nói như vậy”. Ngươi chỉ đổi một cách nói khác chứ không có nghĩa là ngươi hiểu lẽ thật, thực ra ngươi không biết câu “nuôi không dạy, lỗi của cha” sai ở chỗ nào. Khi gặp phải chuyện như vậy, ngươi nên nói thế nào để phù hợp với lẽ thật? Ngươi phải làm như thế nào mới là làm việc theo nguyên tắc lẽ thật? Trước tiên, hãy nói một chút về việc nên lý giải và giải thích lời này như thế nào cho đúng. Lời Đức Chúa Trời nói gì? Lời Đức Chúa Trời có nói gì cụ thể về chuyện này không? Đức Chúa Trời bày tỏ nhiều lẽ thật như vậy, đều là để cho con người tiếp nhận làm sự sống. Vậy thì trong việc giáo dục con cái, chẳng lẽ con người không nên dùng lời Đức Chúa Trời để dạy dỗ chúng sao? Lời Đức Chúa Trời là nói với toàn nhân loại, bất kể người lớn trẻ nhỏ, nam nữ già trẻ đều nên tiếp nhận, chỉ có lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, có thể làm sự sống của con người, chỉ có lời Đức Chúa Trời mới có thể dẫn dắt con người bước vào con đường nhân sinh đúng đắn, làm người tin Đức Chúa Trời thì nên nhìn thấu được chuyện này. Vậy ngươi giải thích thế nào về chuyện “nuôi không dạy, lỗi của cha”? (Thưa, một người đi con đường thế nào là do thực chất bản tính của họ quyết định, ngoài ra, chuyện kiếp này họ sẽ chịu trừng phạt như thế nào hoặc được chúc phúc ra sao có liên quan đến kiếp trước của họ. Cho nên câu “Con cái không đi theo con đường đúng đắn là do cha mẹ không giáo dục tốt”, câu này không có căn cứ, và hoàn toàn chối bỏ sự thật rằng Đức Chúa Trời tể trị số phận của nhân loại.) Theo những gì ngươi nói, việc con cái không đi con đường đúng đắn thì có liên quan đến sự tể trị của Đức Chúa Trời sao? Đức Chúa Trời cho phép con người có sự lựa chọn của riêng mình, để con người lựa chọn đi con đường đúng đắn, nhưng con người có bản tính của Sa-tan, đều có sự lựa chọn của riêng mình, đều chọn con đường mình thích, không sẵn lòng thuận phục sự tể trị của Đức Chúa Trời. Nếu như điều ngươi nói phù hợp với lẽ thật, vậy ngươi nên giải thích rõ ràng về chuyện này để khiến cho người ta tin phục mới được.
Tiếp theo, chúng ta sẽ thông công câu “Nuôi không dạy, lỗi của cha”. Trước hết phải làm sáng tỏ một điểm, đó là: câu “Việc con cái không đi con đường đúng đắn thì có liên quan nhất định với cha mẹ” là không đúng. Cho dù họ là ai đi nữa, họ là loại người nào thì sẽ đi con đường đó, chuyện này có phải là chắc chắn hay không? (Thưa, phải.) Con đường mà một người đi sẽ xác định họ là ai. Họ đi con đường nào, làm loại người nào, đó là chuyện của bản thân họ, là tiền định sẵn, là trời sinh, có liên quan đến bản tính. Vậy sự giáo dục của cha mẹ thì có tác dụng gì? Nó quản được bản tính con người hay không? (Thưa, không thể.) Sự giáo dục của cha mẹ không quản được bản tính con người, không giải quyết được vấn đề con đường mà họ lựa chọn. Cha mẹ chỉ có thể dạy dỗ điều gì? Những hành vi đơn giản trong cuộc sống thường nhật của con cái, một số tư tưởng khá đơn giản và đạo lý làm người, những điều này có chút liên quan đến cha mẹ. Khi con cái chưa thành niên, cha mẹ làm tròn trách nhiệm nên làm, đó là giáo dục chúng đi theo con đường đúng đắn, chăm chỉ học tập, cố gắng sau này lớn lên có thể trở nên xuất chúng, đừng làm chuyện xấu, đừng làm người xấu. Ngoài ra, cha mẹ còn quy phạm hành vi của con cái, dạy chúng nói năng lễ phép, biết chào hỏi người lớn, dạy một số thứ có liên quan đến hành vi, đây là trách nhiệm mà cha mẹ nên làm. Chăm sóc sinh hoạt của con cái, giáo dục cho con cái một số đạo lý làm người cơ bản, đây là những thứ mà cha mẹ có thể ảnh hưởng tới được, còn tính cách của chúng thì cha mẹ không giáo dục được. Có cha mẹ tính cách chậm chạp, làm gì cũng từ từ, mà tính cách của đứa con lại vô cùng vội vàng hấp tấp, ngồi yên một chút cũng không được, 14, 15 tuổi đã tự mình ra ngoài làm việc, chuyện gì cũng tự mình làm chủ, không cần cha mẹ, rất độc lập. Đây là những thứ do cha mẹ giáo dục sao? Không phải. Cho nên, tính cách, tâm tính của một người, thậm chí đến cả thực chất và cả con đường họ lựa chọn trong tương lai, những thứ này không có chút liên quan nào với cha mẹ. Có vài người phản bác, nói rằng: “Sao lại không có chút liên quan nào? Một số người có gia đình thuộc dòng dõi thi thư, nhà có gia thế. Chẳng hạn như, thế hệ trước học vẽ tranh, thế hệ sau cũng học vẽ tranh, thế hệ sau nữa vẫn tiếp tục học vẽ tranh, điều này đã nghiệm chứng tính đúng đắn của câu nói ‘Nuôi không dạy, lỗi của cha’”. Câu này có đúng hay không? (Thưa, không đúng.) Dùng ví dụ này để nói rõ vấn đề này thì không đúng, không chính xác, bởi vì đó là hai chuyện khác nhau. Gia thế chỉ có thể ảnh hưởng đến một khía cạnh về kỹ năng, cũng có thể hoàn cảnh gia đình của họ dẫn đến việc ai cũng học cùng một thứ, nhìn bề ngoài là đứa con cũng lựa chọn cái này, nhưng về căn nguyên thì đều là do sự tiền định của Đức Chúa Trời. Sao họ lại đầu thai vào gia đình này, chẳng phải đó là chuyện mà Đức Chúa Trời tể trị sao? Cha mẹ chỉ chịu trách nhiệm nuôi dạy con cái nên người, con cái chỉ chịu ảnh hưởng của cha mẹ về hành vi bên ngoài và thói quen sinh hoạt, nhưng sau khi nó lớn lên, mục tiêu mưu cầu và số phận cả đời của nó không liên quan gì đến cha mẹ. Có cha mẹ là nông dân bình thường và an phận, nhưng con cái của họ có thể làm quan, có thể làm nên sự nghiệp lớn. Có cha mẹ, một người là luật sư, một người là bác sĩ, đều có bản lĩnh, nhưng sinh ra đứa con không có tiền đồ, không ai muốn thuê nó làm việc. Đó là do sự giáo dục của cha mẹ sao? Khi người cha làm luật sư, lẽ nào họ ít dạy dỗ, ít ảnh hưởng lên con cái sao? Chắc chắn là không. Không có một người cha nào lại nói rằng: “Đời tôi đã phát đạt như vậy, tôi hy vọng tương lai con trai tôi không cần phát đạt như tôi, như vậy quá mệt mỏi, sau này làm kẻ chăn trâu là được rồi”. Họ chắc chắn phải giáo dục con trai học tập ở họ, sau này giống như họ. Sau khi giáo dục xong thì sao? Đứa nhỏ nên thế nào thì sẽ thế đó, số phận của nó nên là gì thì sẽ là vậy, không ai thay đổi được. Chúng ta có thể thấy được sự thật gì từ chuyện này? Con cái lựa chọn con đường như thế nào, việc này không liên quan chút gì đến cha mẹ. Có những bậc cha mẹ tin Đức Chúa Trời, dạy con cũng tin Đức Chúa Trời, nhưng nói thế nào con cũng không tin, cha mẹ cũng không còn cách nào. Có cha mẹ không tin Đức Chúa Trời thì con cái lại tự mình tin. Sau khi tin Đức Chúa Trời, người con đi theo Ngài, dâng mình cho Ngài, có thể tiếp nhận lẽ thật, được Ngài khen ngợi, số phận liền thay đổi. Đây là kết quả từ sự giáo dục của cha mẹ sao? Hoàn toàn không phải, điều này có liên quan đến sự tuyển chọn và dự định của Đức Chúa Trời. Câu nói “Nuôi không dạy, lỗi của cha” có vấn đề, mặc dù cha mẹ có trách nhiệm giáo dục con cái, nhưng người quyết định số phận của con cái không phải là cha mẹ, mà là do bản tính của con người quyết định. Giáo dục có thể giải quyết vấn đề bản tính của con người không? Nó hoàn toàn không thể giải quyết được. Con đường con người đi trong đời không phải do cha mẹ quyết định, mà là do Đức Chúa Trời tiền định sẵn. Tục ngữ có câu “Vận mệnh con người do Trời định”, lời này đều là kinh nghiệm của nhân loại đúc kết ra. Khi con người chưa thành niên, ngươi không thể nhìn thấy họ sẽ đi theo con đường nào. Một khi đã trưởng thành, có tư tưởng, biết suy nghĩ vấn đề, họ sẽ lựa chọn làm gì giữa nhóm người này. Có người nói muốn làm quan lớn, có người nói muốn làm luật sư, có người nói muốn làm nhà văn, mỗi người đều có lựa chọn riêng, đều có tư tưởng nhất định, không có ai nói, “Tôi chỉ chờ cha mẹ giáo dục thôi, cha mẹ giáo dục tôi thành cái gì thì tôi chính là cái đó”, không một ai ngốc như vậy. Sau khi trưởng thành, tư tưởng của con người bắt đầu sôi nổi, bắt đầu dần dần trở nên chín chắn, con đường và mục tiêu phía trước của họ càng ngày càng rõ ràng. Lúc này chuyện con người là loại người nào, là người trong cộng đồng nào, sẽ được hé mở và lộ ra từng chút một. Từ lúc này, tính cách của mỗi người sẽ dần dần được xác định rõ, tâm tính của họ cũng dần dần được xác định rõ, con đường mà họ mưu cầu, phương hướng cuộc đời, cộng đồng mà họ thuộc về, cũng dần dần được xác định rõ. Những chuyện này đều căn cứ vào điều gì? Suy cho cùng, đây chính là sự tiền định của Đức Chúa Trời, không liên quan đến cha mẹ. Bây giờ các ngươi đã thấy rõ được điểm này chưa? Vậy điều gì có liên quan đến cha mẹ? Tướng mạo, chiều cao, gen, còn vài bệnh di truyền nữa, những thứ này thì có một chút liên quan đến cha mẹ. Tại sao lại nói “một chút”? Bởi vì không phải 100% đều như vậy. Có gia tộc mỗi một thế hệ đều mắc một loại bệnh, nhưng đến thế hệ của người này thì không có, chuyện này là thế nào? Một vài người nói, “Đó là do tính cách của anh ấy tốt”. Đó là cách nghĩ của con người, nhưng căn nguyên nằm ở đâu? (Thưa, là sự tiền định của Đức Chúa Trời.) Đúng là như vậy. Vậy câu “nuôi không dạy, lỗi của cha” rốt cuộc có đúng hay không? (Thưa, không đúng.) Bây giờ các ngươi hiểu rõ rồi chứ? Không biết phân định thì không được, không có lẽ thật thì không nhìn thấu được chuyện gì cả.
Trong cuộc sống thường nhật, những quan điểm tưởng đúng mà lại sai đến từ Sa-tan này đều có nhiều trong đầu mỗi người. Chúng tồn tại và được chứa đựng ở đó, khi gặp chuyện thì sẽ bộc lộ ra. Có người nói: “Đàn ông tốt không đấu đá với phụ nữ, xem tôi cao thượng biết bao. Tôi là nam tử hán đại trượng phu, cô là nữ nhân chân yếu tay mềm, tôi không đấu với cô”. Họ xem lời này là gì? (Thưa, lẽ thật.) Họ xem nó là lẽ thật, là nguyên tắc thực hành lẽ thật. Còn có người thấy người khác tướng mạo thanh tú, giống như một chính nhân quân tử, nhưng làm việc lại lén la lén lút, luôn ngụy trang, chung sống với người khác vô cùng giả dối và nham hiểm, rất nhiều người không dò đoán được anh ta, thế là họ nói: “Tôi tin Đức Chúa Trời chỉ để làm người chính trực, lương thiện, thân thiện với người khác, không đối địch với người khác. Tục ngữ nói rất đúng, ‘Thà làm chân tiểu nhân còn hơn là ngụy quân tử’, có vài lời Đức Chúa Trời cũng có ý này”. Lời này thế nào? “Thà làm chân tiểu nhân còn hơn là ngụy quân tử”, ngươi xem, một khi gặp chuyện, những câu tục ngữ, ngạn ngữ, thành ngữ bên trong con người đều xuất hiện và tuôn ra cùng một lúc, không có một câu lẽ thật nào, cuối cùng họ còn nói “Cảm tạ Đức Chúa Trời đã khai sáng”. “Thà làm chân tiểu nhân còn hơn là ngụy quân tử”, câu này có đúng không? (Thưa, không đúng.) Các ngươi đều biết là không đúng, nhưng không đúng ở chỗ nào? Cái sai của ngụy quân tử chính là ở chữ “ngụy”, con người không ai muốn làm ngụy quân tử, họ chỉ muốn làm chân tiểu nhân. Con người tán thành chân tiểu nhân ở chỗ nào? Bởi vì họ chân thật, nên dù là tiểu nhân vẫn được mọi người đồng tình. Vậy các ngươi mong muốn làm gì, chân tiểu nhân hay là ngụy quân tử? (Thưa, con không muốn làm loại nào cả.) Tại sao không làm hai loại người này? (Thưa, hai loại người này đều không phù hợp với lẽ thật, trong lời Đức Chúa Trời không nói như vậy.) Đức Chúa Trời không bảo con người làm ngụy quân tử hay là chân tiểu nhân, vậy có thể tìm được căn cứ có liên quan hay không? (Thưa, Ngài muốn con người làm người trung thực.) Đức Chúa Trời muốn con người làm người trung thực, vậy sự khác biệt giữa người trung thực và chân tiểu nhân là gì? Từ “tiểu nhân” này không tốt, nhưng nó lại rất chân thật. Tại sao họ lại không tốt? Có thể nói rõ ràng hay không? Chân tiểu nhân, ngụy quân tử, căn cứ vào điều gì mà nói hai loại người này đều không phải thứ gì tốt đẹp? Tiểu nhân là gì? Tiểu nhân thường gắn liền với từ gì? (Thưa, đê tiện.) Đúng vậy, lời Đức Chúa Trời hình dung và định nghĩa đê tiện như thế nào? Lời Đức Chúa Trời định nghĩa “đê tiện” là từ tốt hay từ xấu? (Thưa, từ xấu.) Là từ xấu, bị Đức Chúa Trời định tội. Người làm việc đê tiện, có quan điểm đê tiện thì đều là tiểu nhân. Thông thường còn có một định nghĩa nữa về tâm tính, thực chất của tiểu nhân, đó là gì? Là ích kỷ, phải không? (Thưa, phải.) Loại người này ích kỷ, đê tiện, cho dù cái họ bộc lộ là chân thật, là tâm tính thật của họ, nhưng họ vốn là tiểu nhân thì vẫn là tiểu nhân. Ngụy quân tử giả dối tà ác, luôn ngụy trang bản thân, tạo hình tượng giả với người khác, để người khác nhìn thấy bộ mặt đẹp đẽ và thân thiện của họ, còn toàn bộ tâm tính, suy nghĩ và quan điểm thực sự của mình thì che đậy lại, không cho người khác nhìn thấy, khiến người khác không có cách nào hiểu được họ. Tâm tính của người như vậy là gì? (Thưa, là giả dối, tà ác.) Đúng là loại người tà ác. Cho nên bất luận là quân tử hay tiểu nhân, hai loại người này đều không phải là thứ tốt đẹp gì, một là xấu xa bề trong, một là xấu xa bề ngoài. Thực ra tâm tính của họ đều giống nhau, đều là tà ác, ích kỷ và giả dối như nhau. Hai loại người tà ác giả dối như vậy có phải là người mưu cầu làm người trung thực hay không? (Thưa, không phải.) Cho nên, bất luận ngươi làm loại người nào trong hai loại người này, đều không phải là người tốt hay người trung thực mà Đức Chúa Trời yêu cầu, đều là người mà Đức Chúa Trời ghê tởm, không phải là người mà Đức Chúa Trời yêu cầu trở thành. Vậy các ngươi nói xem, câu “Thà làm chân tiểu nhân còn hơn là ngụy quân tử” có phải là lẽ thật hay không? (Thưa, không phải.) Xét từ điểm này, lời này không phải là lẽ thật. Rất nhiều người đả kích, lên án ngụy quân tử để biến mình thành người tốt, họ nói “Thà làm chân tiểu nhân còn hơn là ngụy quân tử”, cứ như một kẻ tiểu nhân như họ “tiểu” đến mức trượng nghĩa, chân thật, giống như là một thế lực chính nghĩa vậy. Đã làm tiểu nhân thì còn trượng nghĩa gì chứ? Ngươi đáng bị định tội.
Trong lòng mỗi người đều có không ít lối diễn đạt và những thứ thuộc kiểu này, có rất nhiều người tuân thủ loại quan điểm này. Dù là văn hóa truyền thống, ngạn ngữ dân gian, gia huấn và gia quy của dòng họ, hay là chế độ pháp luật của một quốc gia, những thứ này thường được con người lưu truyền rất lâu, rất rộng trong xã hội, thậm chí được xem là điều tích cực để tuyên dương, được đề xướng một thời gian dài trong xã hội, trong nhân loại để giáo dục con người đời này qua đời khác. Có một vài lời được con người xem là một loại nguyên tắc thực hành, nguyên tắc sinh tồn ở sâu thẳm nội tâm mình. Có một vài lời thì con người chỉ đồng ý với quan điểm của nó nhưng chưa chắc sẵn lòng làm như vậy. Bất kể ngươi có sẵn lòng làm như vậy hay không thì thực ra trong sâu thẳm nội tâm, ngươi đã coi những lời này là nguyên tắc thực hành trong việc làm người. Tóm lại, những thứ này là trở ngại cực lớn, chỉ có hại, không có lợi đối với việc con người tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật. Ví dụ, người hiện đại thường nói về một chủ đề là, “Sự sống quý giá nhưng tình yêu còn quý giá hơn. Nếu muốn sự tự do, tôi có thể vứt bỏ cả hai thứ này”, câu nói này là một danh ngôn được ủng hộ và tôn sùng bởi những chí sĩ yêu nước thương dân mưu cầu tự do và muốn thoát khỏi chế độ phong kiến truyền thống ở phương Đông và phương Tây. Trọng tâm mà mọi người đang tìm kiếm ở đây là gì? Là sự sống? Hay là tình yêu? (Thưa, đều không phải, là tự do.) Đúng vậy, là tự do. Vậy những lời này có phải là lẽ thật hay không? Ý của lời này là, để mưu cầu tự do, con người có thể vứt bỏ tính mạng và cả tình yêu của mình. Tức là họ có thể vứt bỏ cả người mình yêu để chạy về phía sự tự do tốt đẹp kia. Đối với người đời, sự tự do này là gì? Làm thế nào để giải thích cái mà họ cho là tự do này? Phá vỡ truyền thống là một loại tự do, phá vỡ tập tục lâu đời là một loại tự do, phá vỡ đế chế phong kiến cũng là một loại tự do, còn gì nữa? (Thưa, không bị kiểm soát bởi một số chính quyền.) Còn có không bị cường quyền kiểm soát, không bị chính trị kiểm soát, đó là loại tự do mà họ mưu cầu. Vậy cái mà họ gọi là tự do có thực sự là tự do không? (Thưa, không phải.) Có sự tương đồng nào với sự tự do mà những người tin Đức Chúa Trời nói đến không? (Thưa, không có.) Trong lòng một vài người tin Đức Chúa Trời cũng có thể có quan điểm như vậy, “Tin Đức Chúa Trời thực sự tốt, tự do giải phóng, không nói về phong tục gì, cũng không đi theo những hình thức truyền thống kia, cưới hỏi hay tang lễ gì cũng không cần quan tâm. Tôi có thể buông bỏ mọi chuyện thế tục, thật sự quá tự do!”. Có phải là như vậy hay không? (Thưa, không phải.) Vậy rốt cuộc tự do là gì? Bây giờ các ngươi đã được tự do chưa? (Thưa, có một chút.) Vậy chút tự do này của các ngươi có được như thế nào? Tự do có nghĩa là gì? (Thưa, là hiểu lẽ thật, phá vỡ quyền thế hắc ám của Sa-tan.) Là phá vỡ quyền thế hắc ám của Sa-tan, bản thân cảm thấy có chút được giải phóng, cảm nhận được một chút tự do. Nhưng nếu Ta không mổ xẻ, thì các ngươi vẫn sẽ cảm thấy mình thực sự tự do rồi, nhưng thực ra không phải vậy. Sự tự do đích thực không phải là một loại tự do và giải phóng của xác thịt về mặt vật chất và mặt không gian như con người nghĩ. Mà là sau khi con người hiểu lẽ thật, trong lòng có quan điểm đúng đắn đối với các loại con người, sự việc, sự vật, và đối với thế giới, họ có thể mưu cầu mục tiêu và phương hướng cuộc đời đúng đắn, đạt đến mức không bị tư tưởng, quan điểm và quyền thế của Sa-tan kìm kẹp và tâm linh được giải phóng, đây mới là tự do đích thực.
Có một thanh niên ngoại đạo cho rằng mình thích tự do, thích bay khắp nơi như chim trời, sống cuộc sống tự do và không bị ràng buộc, cho nên hắn rất xem thường những quy củ và câu nói thối tha của gia tộc. Hắn thường nói với bạn bè: “Tuy tôi sinh ra trong một gia đình truyền thống nhất, gia tộc của tôi vô cùng lớn, có rất nhiều quy củ và truyền thống, thậm chí bây giờ có cả từ đường, bên trong bày bài vị từ đời này sang đời khác, nhưng đến đời mình, tôi đã phá vỡ những truyền thống này, không bị ảnh hưởng bởi những gia quy, gia phong và phong tục này. Mọi người thấy không, con người tôi vô cùng phi truyền thống”. Bạn bè nói: “Nhìn thấy mà, cậu cực kỳ phi truyền thống”. Từ đâu mà họ có thể thấy được? Hắn đeo khuyên trên đầu lưỡi, đeo khuyên mũi, xỏ bốn, năm lỗ trên hai lỗ tai, đeo khuyên cả trên rốn, còn xăm hình rắn trên cánh tay. Rắn không phải là vật may mắn đối với người Trung Quốc, vậy mà hắn phải xăm rắn lên người cho bằng được, người khác nhìn thấy đều sợ hãi. Đây có phải là phi truyền thống hay không? (Thưa, phải.) Hắn cực kỳ phi truyền thống, rồi còn nói chuyện với giọng điệu của người tiên phong. Ai nhìn thấy hắn cũng nói: “Thằng nhóc này đỉnh thật! Phi truyền thống, thật sự phi truyền thống!”. Hắn cho rằng sự phi truyền thống không thể chỉ được biểu hiện ở những mặt này, mà phải có một chút gì đó thực tại, khiến người ta có thể nhìn thấy dấu hiệu phi truyền thống của hắn nhiều hơn nữa. Thấy người bình thường đều tìm bạn gái là người Trung Quốc da vàng, thế là hắn cố tình tìm bạn gái là người ngoại quốc da trắng để mọi người càng cảm nhận được sự phi truyền thống của mình. Sau đó thì hắn học theo bạn gái mình trong mọi việc. Bạn gái nói gì thì hắn làm cái đó, bảo hắn làm thế nào thì hắn làm thế đó. Đến sinh nhật hắn, bạn gái mua cho hắn một món quà bí mật đựng trong một cái hộp lớn, hắn hí hửng và bắt đầu mở quà. Sau khi mở từng lớp bọc của hộp quà ra, hắn thấy bên trong là một chiếc mũ màu xanh lá cây. Người Trung Quốc đều biết điển tích “Mũ xanh” này phải không? Chuyện này chắc chắn là rất truyền thống. Lúc đó, hắn vừa thấy chiếc mũ thì liền nổi giận, nói: “Quà kiểu gì thế này? Em mua quà cho ai vậy?”. Cô bạn gái còn tưởng hắn sẽ vui vẻ, nhưng sao hắn lại tức giận như vậy chứ? Cô không ngờ được, cũng không hiểu được, nên cô nói: “Cái mũ màu xanh này không dễ mua đâu, anh đội lên đảm bảo rất đẹp”. Hắn nói: “Em biết cái mũ này nói lên điều gì không?”. Cô bạn gái nói: “Không phải chỉ là một cái mũ thôi sao? Mũ màu xanh nhìn rất đẹp”. Còn bắt hắn đội lên xem. Nhưng nói thế nào, hắn cũng không đội. Người phương Tây có biết điển tích “mũ xanh” không? (Thưa, không biết.) Vậy có nên nói cho rõ và bóc trần chuyện này không? Các ngươi đều không trả lời được, sao lại không dám nói rõ chuyện này? Chuyện này có gì to tát? Các ngươi cũng giống như thanh niên này, mang chiêu bài phi truyền thống, buông bỏ truyền thống, thoát khỏi quan niệm văn hóa truyền thống của Sa-tan để mưu cầu lẽ thật, mưu cầu tự do, nhưng lại bị kẹt sâu trong chiếc mũ xanh này. Thanh niên đó bị bạn gái bắt đội mũ xanh, nhưng có nói sao hắn cũng không chịu đội, cuối cùng hắn nói: “Em cứ bắt anh đội, anh đội vào sẽ bị người ta sỉ nhục!”. Đây là trọng tâm của vấn đề, chỗ tồn tại vấn đề, chính là truyền thống. Truyền thống này không phải là về màu sắc hay là về hình dáng của món đồ, mà là về sự ẩn dụ và quan điểm mà thứ này mang lại cho con người. Cái mũ xanh này rốt cuộc ẩn dụ điều gì? Nó đại diện cho cái gì? Người ta gán cái mác xấu cho chiếc mũ màu này, cho nên người ta tẩy chay nó. Tại sao ngươi tẩy chay nó? Tại sao không thể tiếp nhận đồ vật này? Bởi vì trong ngươi có một loại tư tưởng truyền thống. Bản thân loại tư tưởng truyền thống này không phải là lẽ thật, nó như một món đồ vật chất thôi, nhưng xã hội này, chủng tộc này đã vô thức biến nó thành một thứ tiêu cực. Ví dụ, con người ví màu trắng là biểu tượng của sự thánh khiết, màu đen là biểu tượng của sự hắc ám và tà ác, màu đỏ là biểu tượng của chuyện vui, đẫm máu hay là sự nồng nhiệt. Trước đây khi người Trung Quốc kết hôn, họ sẽ mặc quần áo màu đỏ, vì họ cho rằng đó là chuyện vui. Còn khi người phương Tây kết hôn, họ mặc quần áo màu trắng, xinh đẹp sạch sẽ, ẩn dụ của sự thánh khiết. Lý giải của họ đối với hôn nhân không giống nhau, một bên dùng màu đỏ để thể hiện, một bên dùng màu trắng để thể hiện, hai thứ này đều đại diện cho thái độ chúc phúc của con người đối với hôn nhân. Các dân tộc và chủng tộc khác nhau dùng cùng một thứ cho các mục đích khác nhau, bối cảnh văn hóa của họ nảy sinh như vậy. Sau khi bối cảnh văn hóa này nảy sinh, truyền thống văn hóa cũng theo đó mà nảy sinh. Như vậy, xã hội khác nhau, chủng tộc khác nhau thì sẽ nảy sinh phong tục khác nhau, phong tục như vậy sẽ ảnh hưởng đến người của chủng tộc này. Người Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi điển tích “mũ xanh” này, vậy kết quả của sự tiêm nhiễm này là gì? Đàn ông không thể đội mũ xanh, phụ nữ cũng vậy. Ngươi thấy phụ nữ có đội không? Thực ra thì văn hóa truyền thống này chỉ nói về nam giới, nghĩa là nam giới đội mũ xanh là biểu tượng không tốt, không liên quan đến nữ giới. Nhưng một khi văn hóa truyền thống này nảy sinh thì cho dù là trong bối cảnh nào, tất cả mọi người của chủng tộc này đều nảy sinh một dạng kỳ thị đối với đồ vật này. Sau khi nảy sinh một dạng kỳ thị như vậy, đồ vật này vô hình trung sẽ từ một thứ vật chất vô tội trở thành một thứ tiêu cực. Thực ra nó vô tội, căn bản là nó không có thuộc tính tích cực hay tiêu cực gì cả, nó chỉ là một thứ vật chất, một loại màu sắc, một đồ vật có hình dạng mà thôi, nhưng sau khi bị văn hóa truyền thống giải thích và ảnh hưởng như vậy, kết quả cuối cùng sẽ là gì? (Thưa, nó trở nên tiêu cực.) Nó trở thành tiêu cực. Sau khi nó trở thành tiêu cực, con người không thể đối xử, sử dụng những thứ này một cách thỏa đáng. Ngươi thấy đấy, trên thị trường Trung Quốc, các loại mũ có đủ loại màu sắc, đỏ, hồng, vàng, v.v. nhưng không có màu xanh lá. Con người bị ảnh hưởng, kìm kẹp bởi loại tư tưởng truyền thống này. Đây là ảnh hưởng mà một trong những sự việc của văn hóa truyền thống đã tạo ra cho con người.
Có một vài người tuy đã ra nước ngoài, tiếp xúc với một số nền văn hóa, truyền thống, quy củ và cả những thứ về phương diện vật chất như việc ăn, mặc, ở, đi lại của châu Âu và các quốc gia châu Á khác, cũng quen với một số luật lệ, thường thức của các quốc gia khác, nhưng lại rất khó rũ bỏ những truyền thống của nước mình. Mặc dù đã rời khỏi mảnh đất của mình, tiếp nhận những phương diện cuộc sống cơ bản của một quốc gia khác, thậm chí tiếp nhận cả pháp luật và chế độ của nước đó, nhưng mỗi ngày ngươi nghĩ gì, khi gặp chuyện thì đối mặt như thế nào, quan điểm của ngươi, góc độ ngươi đứng là gì, thì bản thân con người cũng không biết. Có người cho rằng: “Tôi ở phương Tây, vậy tôi có phải là người phương Tây hay không?”, “Tôi ở Nhật Bản, vậy tôi có phải là người Nhật Bản hay không?”. Có phải như vậy không? (Thưa, không phải.) Người Nhật nói: “Chúng tôi thích nhất là ăn sushi và mì udon, như vậy có phải là cao quý hay không?”. Người Hàn Quốc nói: “Chúng tôi thích ăn cơm, kim chi, dân tộc Đại Hàn chúng tôi có cao quý không nào? Người Trung Quốc các anh nói văn hóa của các anh lâu đời, hơn chúng tôi hàng ngàn năm, nhưng các anh cung kính với bậc trưởng bối có tốt bằng chúng tôi không? Có truyền thống như chúng tôi không? Có nhiều quy củ như chúng tôi không? Thời nay, các anh không bàn những điều này, các anh đều lạc hậu cả rồi. Chúng tôi mới là dân tộc truyền thống đích thực, văn hóa của chúng tôi mới là văn hóa đích thực!”. Họ cho rằng văn hóa truyền thống của họ cao, và sau đó tranh nhau tuyên bố nhiều thứ là di sản thế giới. Tranh nhau là thế nào? Các quốc gia, các chủng tộc cho tới các cộng đồng nhỏ đều cho rằng những đồ vật, quy củ, truyền thống, phong tục và tập tục mà tổ tiên mình để lại là tốt, là tích cực, là có thể để cho nhân loại này lưu truyền. Họ có tư tưởng và quan điểm như vậy, ngụ ý có phải là nói những thứ này chính là lẽ thật, chính là thứ tốt đẹp, tích cực, là thứ đáng được nhân loại kế thừa hay không? Vậy thứ kế thừa này có xung đột với tự do hay không? Chúng ta vừa mới đưa ra ví dụ về một chàng trai, hắn phá vỡ sự ràng buộc của gia tộc, trên người đeo kín khuyên và vòng, trên người toàn là hình xăm, còn tìm một cô bạn gái người nước ngoài. Dường như về bề ngoài, về xác thịt thì hắn đã không tuân thủ quy củ của gia tộc, cũng đã thoát khỏi truyền thống. Về hình thức và hành vi, thậm chí trong ý nguyện chủ quan, hắn đã thoát khỏi những thứ như gia tộc, truyền thống, phong tục. Nhưng một món quà sinh nhật đã tỏ lộ hắn, đã phủ nhận và lên án bốn chữ hắn tự nhận là “rất phi truyền thống”. Vậy người này rốt cuộc có truyền thống hay không? (Thưa, truyền thống.) Truyền thống rốt cuộc là tốt hay xấu? (Thưa, là xấu.) Vì vậy, bất luận ngươi nghĩ mình là truyền thống hay không truyền thống, bất luận ngươi thuộc chủng tộc nào, được xem là chủng tộc cao quý hay bình thường, thì những tư tưởng bên trong ngươi đều bị giam hãm. Bất luận ngươi mưu cầu và tôn sùng tự do đến mức nào, bất luận quyết tâm, nguyện vọng và chí hướng phá vỡ thế lực truyền thống và tập tục truyền thống gia tộc của ngươi lớn đến mức nào, bất luận hành động thực tế của ngươi khích lệ con người đến đâu, mạnh mẽ đến đâu, nhưng nếu con người không hiểu lẽ thật thì chỉ có thể luẩn quẩn trong học thuyết, luận điệu sai lầm mà Sa-tan tiêm nhiễm cho họ, không thoát ra được. Có người chịu ảnh hưởng của văn hóa truyền thống, có người chịu ảnh hưởng của một loại giáo dục tư tưởng, có người chịu ảnh hưởng của một loại thân phận và địa vị, còn có người chịu ảnh hưởng của một loại chủ nghĩa nào đó. Lấy những người làm chính trị làm ví dụ, chẳng hạn như những người tôn sùng chủ nghĩa cộng sản, họ bắt đầu từ một nhóm người vô sản, tiếp nhận tuyên ngôn và lý luận của chủ nghĩa cộng sản, phá vỡ truyền thống, phá vỡ đế chế phong kiến, phá vỡ một số tập tục cũ, sau đó tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa cộng sản, sau khi tiếp nhận những điều này họ được tự do hay là vẫn luôn bị hạn chế? (Thưa, họ vẫn luôn bị hạn chế.) Họ nghĩ rằng chuyển từ một thứ cũ sang một thứ mới, đó chính là đạt được tự do, cách nghĩ này có phải là sai lầm hay không? (Thưa, phải.) Là sai lầm. Cho dù con người chuyển từ cái cũ sang cái mới, nhưng chỉ cần nó không phải là lẽ thật thì con người mãi mãi bị mắc kẹt trong cái bẫy của Sa-tan, đó không phải là tự do đích thực. Có người hiến thân cho chủ nghĩa cộng sản, hiến thân vì một sự nghiệp nào đó, có người hiến thân vì một lời thề, có người hiến thân vì một câu lý luận, còn có người làm theo những câu như “Xả thân vì bạn bè”, “Trung thần không thờ hai vua”, “Quốc gia hữu nan, thất phu hữu trách”, những thứ này có phải là văn hóa truyền thống hay không? (Thưa, phải.) Những thứ này bề ngoài nhìn có vẻ rất tích cực, rất chính đáng, là những thứ vô cùng cao thượng, cao quý trong nhân loại, nhưng trên thực tế, từ một góc độ khác và dùng một phương thức khác, chúng giam hãm tâm hồn con người, hạn chế con người, khiến con người không thể đạt được tự do đích thực. Tuy nhiên, trước khi chưa hiểu lẽ thật, nhân loại chỉ có thể tiếp nhận bừa những thứ mà họ cho là tương đối tích cực này làm con đường sinh tồn của mình. Cho nên, con người đều tiếp nhận một cách tự nhiên những thứ được gọi là văn hóa truyền thống này, những thứ mà nhân loại cho là khá tốt đẹp trên thế giới. Sau khi tiếp nhận, họ sẽ cảm thấy mình sống có vốn liếng, có sức mạnh, có động lực. Ví dụ như, có người tiếp nhận sự định vị của xã hội này, nhân loại này đối với tri thức và bằng cấp, vậy sự định vị này là gì? (Thưa, tri thức cải biến vận mệnh.) (Thưa, muôn việc đều tầm thường, chỉ có đọc sách là cao cả.) Đối với những thứ này, sâu thẳm nội tâm con người đồng tình, tiếp nhận và tán thành. Cùng lúc với việc tiếp nhận và tán thành, họ bôn ba lăn lộn trong xã hội này càng lâu thì lại càng yêu quý những thứ này. Vì sao? Vì con người đều sống dựa vào những tri thức này, không có những tri thức và bằng cấp này thì người ta cảm thấy không đứng vững được trong xã hội, người khác sẽ ức hiếp ngươi, kỳ thị ngươi, cho nên ngươi sẽ bán mạng mà mưu cầu những thứ này. Trong xã hội, trong một chủng tộc, trong một nhóm người, bằng cấp của ngươi càng cao thì địa vị xã hội của ngươi càng cao, sự ngưỡng mộ và đãi ngộ của người khác đối với ngươi sẽ càng cao, càng tốt. Theo một nghĩa nào đó, bằng cấp quyết định địa vị xã hội của con người.
Trước đây có bảy, tám giáo sư đại học đến Bắc Kinh tu học, vào thời đó có thể vẫn chưa có dịch vụ xe đưa đón hay xe có tài xế riêng, nên khi đến Bắc Kinh thì họ phải ngồi xe buýt. Thực ra ở Bắc Kinh thì giáo sư giống như họ đầy nhan nhản, họ chẳng là gì ngoài một người dân bình thường, nhưng chính họ lại không biết. Vấn đề nghiêm trọng nằm ở đây, chuyện này xảy ra cũng là do vấn đề này. Đã xảy ra chuyện gì? Nhóm giáo sư này chờ xe ở trạm xe buýt, lúc họ chờ thì người đến càng ngày càng đông, người càng đông thì ai nấy đều sốt ruột. Sau khi xe đến, mọi người lại không đợi người trên xe xuống, người phía dưới cứ chen lên như ong vỡ tổ, xô đẩy lẫn nhau, còn la hét ầm ĩ, tình cảnh rất hỗn loạn. Những giáo sư này suy nghĩ một chút rồi nói: “Thì ra đồng bào ở Bắc Kinh đi làm bằng xe buýt mỗi ngày lại khó khăn đến như vậy. Chúng ta là giáo sư đại học thì nên thông cảm cho dân tình một chút, là phần tử trí thức cao cấp thì không được chấp nhặt với dân chúng, phải phát huy tinh thần của Lôi Phong. Hãy để họ lên chuyến xe này trước, chúng ta không nên chen lên nữa”. Họ ngầm đồng thuận với nhau và quyết định chờ chuyến xe tiếp theo. Kết quả đợi đến khi chuyến xe kế tiếp tới, vẫn có rất nhiều người và họ vẫn chen lên xe trong sự hỗn loạn như vậy, thế là họ trợn tròn mắt, chỉ có thể đứng đó nhìn xe vừa đầy người là chạy đi, còn họ lại không chen lên được. Mấy người họ lại thảo luận và nói: “Chúng ta không vội, nói gì thì nói, chúng ta cũng là phần tử trí thức cao cấp, không thể tranh giành việc lên xe với dân chúng. Chúng ta cứ từ từ đợi chuyến xe tiếp theo, nó có thể sẽ không có nhiều người như vậy”. Lúc đợi chuyến xe thứ ba, mấy giáo sư này có chút sốt ruột, có vài người nắm chặt tay mà nói: “Nếu chuyến xe này vẫn có nhiều người như vậy, thì chúng ta có nên chen lên không? Tôi thấy nếu không chen, có khi đến chuyến thứ năm, thứ sáu vẫn không lên được, hay là cứ chen lên đi!”. Những người khác lại bảo: “Phần tử trí thức cao cấp mà lại chen lấn trên xe buýt sao, như thế sẽ làm mất hình tượng! Lỡ có một ngày người ta biết được phần tử trí thức cao cấp như chúng ta từng chen lấn trên xe buýt, thì thật là mất mặt!”. Ý kiến của họ không được nhất trí cho lắm. Trong lúc họ thảo luận, người chờ xe lại nhiều lên, đến lúc này thì họ trở nên rất lo lắng, cũng không thảo luận nữa. Chờ đến khi xe tới, cửa xe vừa mở, có người còn chưa xuống xe là họ đã học đám người vừa nãy, cố hết sức chen lên. Có mấy người chen lên được, còn những người trí thức nho nhã, tức đám nho sĩ, thì không dứt khoát và liều mạng nên không chen lên được. Chuyện này nói đến đây thôi. Các ngươi nói xem, đây có phải là sự thật hay không? (Thưa, phải.) Những chuyện chen chúc lên xe buýt này quá phổ biến, những phần tử trí thức này quá giỏi giả vờ! Các ngươi nói xem, vấn đề ở đây là gì? Trước hết chúng ta hãy nói về việc những phần tử trí thức này đã tiếp nhận giáo dục bậc cao, làm giáo sư dạy dỗ người khác, trở thành phần tử trí thức cao cấp. Tức là nền giáo dục mà họ tiếp nhận và tri thức của họ cao hơn trình độ của người bình thường, đủ để họ làm thầy, làm người hướng dẫn và giáo dục con người, truyền thụ tri thức cho người khác, đó gọi là phần tử trí thức cao cấp. Vậy quan điểm và tư tưởng của những phần tử trí thức cao cấp này có vấn đề gì không? Chắc chắn là có vấn đề. Vậy vấn đề của họ nằm ở đâu? Chúng ta sẽ phân tích chuyện này. Họ tiếp nhận được nhiều tri thức như vậy, tiếp nhận nền giáo dục cao như vậy, thì tư tưởng của họ cứng nhắc hay tự do? (Thưa, cứng nhắc.) Sao các ngươi lại biết là cứng nhắc? Vấn đề của họ nằm ở đâu? Đầu tiên, họ tự xưng là phần tử trí thức cao cấp, lời này có vấn đề hay không? (Thưa, có.) Lời này có vấn đề. Sau đó họ nói: “Những phần tử trí thức cao cấp như chúng ta khi đi xe buýt không cần tranh giành, chen chúc với người khác để lên xe”, câu nói này có vấn đề hay không? (Thưa, có.) Đây là vấn đề thứ hai. Vấn đề thứ ba là họ nói: “Phần tử trí thức cao cấp như chúng ta có thể chờ chuyến xe tiếp theo”, câu này có vấn đề hay không? (Thưa, có.) Tất cả đều có vấn đề. Vậy thông qua ba vấn đề đó, các ngươi hãy mổ xẻ một chút, xem vấn đề ở đây rốt cuộc là gì. Nếu các ngươi nhìn thấu vấn đề ở đây, thì thứ nhất, các ngươi sẽ không sùng bái phần tử trí thức cao cấp nữa, thứ hai, các ngươi cũng sẽ không muốn làm phần tử trí thức cao cấp nữa.
Điều thứ nhất là gì? Đó là tự xưng mình là phần tử trí thức cao cấp. Lời này có vấn đề gì không? (Thưa, có.) Từ “tự xưng” không có vấn đề gì, nghĩa là tự phong mình là phần tử trí thức cao cấp. Vậy phần “mình là phần tử trí thức cao cấp” có vấn đề gì không? Trên thực tế, giáo sư đại học là phần tử trí thức cao cấp trong xã hội, nếu đây là sự thật, vậy tại sao nói lời này có vấn đề? (Thưa, họ nghĩ rằng sau khi học được tri thức thì họ cao hơn những người khác.) Nghĩ mình cao hơn những người khác, trong chuyện này chắc chắn có một loại tâm tính. (Thưa, họ cho rằng mình học nhiều tri thức thì cao hơn người khác, trên thực tế những thứ này không thể nào thay đổi tâm tính con người.) Ngươi nói đúng một phần, nhưng chưa nói thấu đáo. Ai nói nữa xem. (Thưa, Đức Chúa Trời, có phải họ tự cho mình là thanh cao hay không?) Lời này là đúng, nhưng vẫn chưa nói rõ được thực chất, hãy nói chi tiết hơn chút nữa. (Thưa, sau khi họ học được một ít tri thức thì cảm thấy mình cao thượng, cao quý hơn người khác, và không xem mình là một người bình thường nữa. Với người bình thường sống ở xã hội này thì việc chen chúc trên xe buýt là do hoàn cảnh cuộc sống hiện thực quyết định, là chuyện rất bình thường, nhưng sau khi họ xem mình rất cao quý, rất cao thượng, thì họ không thể làm một người bình thường nữa. Họ cảm thấy hành động của những người bình thường này tổn hại đến thân phận của họ, nên con cảm thấy đó là không bình thường.) Họ không bình thường. Họ tự xưng là phần tử trí thức cao cấp, hàm nghĩa ở đây chính là không bình thường, tức là trong nhân tính của họ có thứ gì đó méo mó, họ cảm thấy mình cao thượng hơn người khác, quý giá hơn người khác. Căn cứ của họ là gì? Đó là họ tiếp nhận quá nhiều sự giáo dục, bụng đầy chữ nghĩa, gặp ai họ cũng có thể nói mãi không hết chuyện, luôn có gì đó để truyền thụ cho người khác. Họ xem tri thức là gì? Họ xem nó như là tiêu chí để hành xử và hành động, tiêu chí của đạo đức. Họ cho rằng có tri thức thì nhân cách, nhân phẩm và thân phận của họ sẽ cao cả, quý giá và đáng giá, ngụ ý là phần tử trí thức cao cấp chính là thánh nhân. Có phải như vậy hay không? (Thưa, phải.) Ý của họ về cao cấp chính là như vậy, cho nên bảo họ chen chúc trên xe buýt thì họ sẽ không chen. Tại sao họ không chen? Họ bị chi phối bởi điều gì? Bị ràng buộc, kìm kẹp bởi điều gì? Họ cảm thấy việc chen chúc trên xe buýt làm tổn hại đến thân phận và hình tượng của họ. Họ cho rằng thân phận và hình tượng của họ đều là do những tri thức này ban cho, cho nên họ tự xưng là phần tử trí thức cao cấp. Nếu phân tích như vậy thì những lời họ nói có đáng ghê tởm hay không? Thật đáng ghê tởm. Họ còn khoe khoang khắp nơi rằng “Chúng tôi là phần tử trí thức cao cấp”, nhưng thực ra người khác cảm thấy họ cũng chỉ là một phần tử trí thức với bộ dạng nghèo nàn và ra vẻ, bị mọi người xem thường. Thế mà họ vẫn cho rằng mình vô cùng cao quý, như thế không phải phiền phức rồi sao? Họ cho rằng mình rất cao cả, thân phận rất cao quý, thậm chí muốn tự phong làm thánh nhân. Loại quan điểm này có phải đã trói buộc họ theo một cách nào đó không? Định vị của họ đối với tri thức là gì? Chính là, có tri thức thì nhân cách sẽ cao, con người sẽ trở nên tôn quý, cao quý, nên được người ta tôn trọng. Cho nên, họ khinh bỉ, lên án những hành vi khá bình thường mà người bình thường làm. Ví dụ, phần tử trí thức hắt xì một cái, sau khi hắt xì xong thì nhìn mọi người xung quanh, nhanh chóng nói xin lỗi, còn người thường hắt xì xong thì xem như không có chuyện gì. Thực ra, trong cuộc sống, nấc cụt, hắt hơi là chuyện rất bình thường, nhưng trong mắt những phần tử trí thức đó thì đây là một hành vi dung tục và thô bỉ, họ khinh bỉ và xem thường những thứ này. Họ nói: “Anh xem những người phàm phu tục tử không hiểu quy củ này kìa, hắt hơi cũng không ra hắt hơi, ngồi không ra ngồi, đứng không ra đứng, xe buýt đến thì chen chúc lên trên, cũng không biết khiêm nhường gì cả!”. Định vị của họ đối với tri thức chính là: tri thức là biểu tượng của thân phận, tri thức có thể thay đổi vận mệnh của con người, cũng có thể thay đổi thân phận và giá trị của con người.
Điều thứ hai là gì? (Thưa, phần tử trí thức cao cấp không thể nào chen chúc lên xe buýt với mọi người.) Họ không thể chen chúc lên xe với người khác. Chen chúc lên xe buýt chỉ là một trong những chuyện nhỏ mà họ gặp phải trong cuộc sống, chuyện này nói lên điều gì? Đó là họ cho rằng người có tri thức nhất định thì lời nói và cử chỉ chắc chắn phải nho nhã, hơn nữa còn phải phù hợp với thân phận. Ví dụ như đi đứng phải nhẹ nhàng, lúc tiếp xúc với người khác nhất định phải làm cho người ta cảm thấy rằng họ hòa nhã, dễ gần, đáng được tôn trọng, lời nói và cử chỉ của họ nhất định phải nho nhã, không thể giống như người thường. Họ nhất định phải làm cho người ta nhìn thấy mình có sự khác biệt với người bình thường, như thế mới cho thấy thân phận tôn quý và khác với người thường của họ. Từ sâu thẳm nội tâm, họ cho rằng người ở tầng thấp nhất trong xã hội, những người chưa từng được tiếp nhận sự giáo dục bậc cao, những người không có tri thức cao thâm, không có thân phận như phần tử trí thức cao cấp thì mới làm những chuyện tương tự như chuyện chen chúc lên xe buýt. Vậy những phần tử trí thức cao cấp này làm gì? Đứng trên bục giảng đạo lý, truyền thụ tri thức, giải thích thắc mắc cho người khác, đây là chức trách của họ, là thân phận, hình tượng của họ, cũng đại diện cho nghề nghiệp của họ. Họ chỉ có thể làm những việc này, còn những việc thường nhật tầm thường như dầu muối tương dấm trà của dân chúng thì không liên quan đến họ, họ là loại người thoát ly những “sở thích dung tục” này. Họ xác định tính chất của những việc thường nhật tầm thường như dầu muối tương dấm trà của dân chúng, thậm chí cả hành vi chen chúc trên xe buýt là gì? (Thưa, là dung tục.) Đúng vậy, là dung tục, thô bỉ, đây là định nghĩa trong sâu thẳm nội tâm họ đối với dân chúng thấp kém, bình thường hơn họ.
Hãy nói đến điều thứ ba. “Phần tử trí thức cao cấp như chúng ta có thể chờ chuyến xe tiếp theo”, đây là loại tinh thần gì? Đây có phải là tinh thần của Khổng Dung nhường lê trong văn hóa truyền thống không? Phần tử trí thức chịu ảnh hưởng vô cùng sâu sắc của văn hóa truyền thống. Họ không chỉ tiếp nhận văn hóa truyền thống, mà còn tiếp nhận rất nhiều tư tưởng và quan điểm của văn hóa truyền thống vào lòng và xem đó là những điều tích cực, thậm chí còn xem một số danh ngôn như phương châm sống, thế là họ bước vào con đường sai lầm trong cuộc đời. Văn hóa truyền thống được đại diện bởi học thuyết Nho gia. Học thuyết Nho gia có một bộ tư tưởng lý luận trọn vẹn, chủ yếu tuyên dương văn hóa đạo đức truyền thống, được giai cấp thống trị các triều đại tôn sùng. Khổng Tử, Mạnh Tử được họ tôn sùng như thánh nhân. Học thuyết Nho gia chủ trương rằng làm người thì phải tuân thủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dù gặp chuyện gì thì trước hết phải học cách bình tĩnh, nhẫn nhịn, có chuyện gì từ từ nói, không nên tranh giành, không nên cướp đoạt, phải học cách nhún nhường, đạt được sự tôn trọng của mọi người, như vậy thì làm người mới có khí phách. Những phần tử trí thức này đặt mình ở một vị trí cao hơn chúng sinh, tất cả mọi người trong mắt họ đều là đối tượng để họ nhẫn nhịn, bao dung. “Tác dụng” của tri thức này thật lớn! Loại người này có phải rất giống ngụy quân tử hay không? Người học nhiều tri thức thì sẽ trở thành ngụy quân tử. Dùng một từ để hình dung nhóm người nho nhã này, chính là tác phong nho nhã. Đối với những người nho nhã này, nguyên tắc để chung sống cùng nhau là gì? Đạo xử thế là gì? Ví dụ, người dân thường gọi người đàn ông họ Lý là “Lão Lý” hoặc “Tiểu Lý”, phần tử trí thức có gọi như vậy không? (Thưa, không.) Họ sẽ gọi là gì? (Thưa, Lý tiên sinh.) Nếu gặp một người phụ nữ, thì họ sẽ gọi là quý bà, quý cô, đặc biệt cung kính, đặc biệt phong độ, đúng như một quý ông. Họ thường học tập, bắt chước tác phong nho nhã mà những quý ông thể hiện. Vậy khi nói chuyện, trao đổi cùng nhau, họ dùng giọng điệu, cách nói gì? Biểu cảm của họ vô cùng điềm đạm, nói chuyện nhã nhặn súc tích, chỉ bày tỏ quan điểm của mình, cho dù biết rõ quan điểm của người khác không đúng thì họ cũng không nói ra, không ai làm tổn thương ai, hơn nữa họ nói chuyện cũng rất nhẹ nhàng, tựa như bông chạm vào bông, vô thưởng vô phạt, khiến người nghe đều cảm thấy ghê tởm, sốt ruột, tức giận. Thực ra, không có quan điểm của ai là rõ ràng, và cũng không ai phục ai. Loại người này rất giỏi ngụy trang, một chút chuyện nhỏ như vậy mà cũng ngụy trang, giấu giếm, ai cũng không nói rõ. Ở trước mặt dân chúng, họ phải tỏ ra dáng vẻ gì, giả bộ làm hình tượng gì? Họ phải cho dân chúng thấy mình là quân tử khiêm tốn. Là quân tử thì sẽ hơn người một bậc, là đối tượng mà mọi người tôn sùng, mọi người cảm thấy họ có cao kiến hơn người bình thường, hiểu chuyện hơn người bình thường, cho nên khi có việc, mọi người đều tìm đến họ để hỏi ý kiến. Thứ họ muốn chính là kết quả này, muốn được mọi người tôn sùng như thánh nhân.
Xét từ ba điều vừa mới mổ xẻ, những giáo sư này sau khi được gọi là “phần tử trí thức cao cấp” thì tư tưởng của họ được tự do hơn hay là bị giam hãm hơn? (Thưa, bị giam hãm.) Hẳn là bị giam hãm. Bị cái gì giam hãm? (Thưa, tri thức.) Tri thức là thứ thuộc nghề nghiệp của họ, nhưng thực ra tri thức không thực sự giam hãm họ, vậy thứ giam hãm họ là gì? Là thái độ của họ đối với tri thức, một số ảnh hưởng mà tri thức gây ra cho tư tưởng của họ và một số quan điểm mà nó tiêm nhiễm, đó là vấn đề. Cho nên, tri thức mà họ học càng cao thì họ càng cảm thấy thân phận, địa vị của mình không giống người thường, càng cảm thấy mình cao quý, vĩ đại, đồng thời tư tưởng của họ cũng sẽ càng bị giam hãm. Vậy xét từ điểm này, người học được càng nhiều tri thức thì có được tự do hay mất đi tự do? (Thưa, mất tự do.) Thực ra là mất tự do. Tri thức có ảnh hưởng đối với tư tưởng của con người và địa vị của con người trong xã hội, ảnh hưởng nó mang đến cho con người không phải là tích cực. Sẽ không bao giờ có chuyện ngươi càng học tri thức thì càng hiểu rõ nguyên tắc, phương hướng và mục tiêu nên có cho việc làm người. Ngược lại, ngươi càng mưu cầu tri thức, càng thông suốt tri thức thì cuối cùng ngươi càng xa rời tư tưởng và quan điểm nên có của nhân tính bình thường. Giống như đám phần tử trí thức tiếp nhận rất nhiều tri thức và giáo dục này, ngay cả một thường thức tối thiểu họ cũng không hiểu. Thường thức gì? Lúc nhiều người lên xe buýt thì phải chen chúc, không chen chúc là mãi mãi không lên được, một đạo lý đơn giản nhất như vậy mà họ cũng không biết. Ngươi nói xem họ thông minh hay là ngu ngốc? (Thưa, ngu ngốc.) Thực ra là một lũ ngốc. Dân chúng không tiếp nhận những tri thức cao cấp, giáo dục bậc cao này, cũng không có địa vị như vậy, nhưng họ hiểu được đạo lý này và nói, “Lúc lên xe buýt mà có nhiều người thì nhất định phải chen chúc, có bao nhiêu sức lực thì phải dùng hết bấy nhiêu. Chỉ cần thiếu một chút sức và não anh phản xạ chậm một bước thôi là có khả năng anh sẽ bị bỏ lại phía sau và phải ngồi chuyến xe tiếp theo”. Đây là một thường thức cuộc sống tối thiểu mà dân chúng biết rõ, nhưng đám phần tử trí thức này lại không hiểu, đợi hết chuyến này đến chuyến khác. Họ bị hạn chế bởi điều gì? Họ bị ràng buộc cứng nhắc bởi câu “Chúng ta là những phần tử trí thức cao cấp”, chuyện là như vậy. Vấn đề đời sống hiện thực đơn giản như vậy mà họ cũng không biết đối mặt như thế nào, xử lý như thế nào, đây là một lũ ngu ngốc! Tri thức mang lại điều gì cho con người? Nó khiến cho họ tách biệt với quần chúng bình thường, không biết con người nên sống như thế nào, không biết khi gặp chuyện trong đời sống hiện thực thì nên xử lý như thế nào. Họ dùng một lý luận cao siêu để xử lý vấn đề thường gặp nhất trong đời sống hiện thực của dân chúng, họ không biết sau khi xử lý như vậy sẽ xuất hiện hậu quả gì, có thể đến bây giờ họ cũng không hiểu. Cũng có thể đến lúc già họ mới có thể nghĩ thông về chuyện này, khi đó bản thân họ cũng không còn hào quang gì nữa, hưởng thụ sự vẻ vang của phần tử trí thức cao cấp cả đời cũng gần đủ rồi. Đến một ngày nào đó, khi nhớ tới lần ngồi xe buýt chật vật đó, đột nhiên họ sẽ phát hiện mình không còn cao quý nữa, cũng không còn cao cấp nữa. Họ cũng đột nhiên nhận ra “Sự nho nhã của bản thân có thể thành miếng ăn sao? Không phải mình cũng một ngày ba bữa giống như dân chúng sao? Mình cũng không khác gì người bình thường, đến lúc già không phải mình cũng còng lưng mà đi sao? Chẳng phải khi gặp chuyện nguy hiểm mình cũng sợ hãi, run rẩy, lo sợ sao? Khi đối mặt với cái chết của người thân hoặc có chuyện gì vui vẻ, thì chẳng phải là cái gì nên buồn thì buồn, nên vui thì vui sao? Không phải mình cũng sống như dân chúng sao? Mình không có gì là khác với người thường cả!”. Đến lúc đó, cho dù họ biết thì cũng đã muộn rồi. Đây chính là sự xấu xí được thể hiện ra bởi những người tiếp nhận những thứ được gọi là câu nói và quan điểm tích cực trong lúc không hiểu lẽ thật. Khi không hiểu rõ những quan điểm này có đúng đắn hay không, người ta thường xem những quan điểm và câu nói này là lẽ thật để tuân thủ, để vận dụng. Khi vận dụng thì người ta sẽ phải chịu đủ loại hậu quả, cũng sẽ phát sinh đủ loại trạng thái khó xử. Hậu quả mà việc này mang lại cho con người là gì? Trong lúc con người không ngừng truy tìm tự do, họ đồng thời cũng không ngừng rơi từ vòng xoáy này vào vòng xoáy khác, từ một loại giam hãm này rơi vào một loại giam hãm khác. Có phải vậy không? Cho nên khi con người không hiểu lẽ thật, bất luận ngươi tuân thủ một loại quan điểm, một loại văn hóa truyền thống, hay là một loại quy củ, chế độ hay lý luận gì, bất luận những thứ này tương đối lạc hậu hay tiên phong hơn, thời thượng hơn một chút trong xã hội, thì chúng vĩnh viễn không thể thay thế lẽ thật, bởi vì chúng không phải là lẽ thật. Bất kể ngươi tuân thủ chúng tốt đến mức nào, vận dụng chúng tốt đến mức nào, thì cuối cùng chúng chỉ có thể đưa ngươi rời xa lẽ thật, chứ không giúp ngươi đạt được lẽ thật. Ngươi càng tuân thủ những điều này, thì ngươi càng rời xa lẽ thật, càng đi ngược lại con đường của Đức Chúa Trời, đi ngược lại con đường của lẽ thật. Ngược lại, nếu ngươi có thể tích cực và chủ động buông bỏ những thứ và lý luận được gọi là tích cực này, lẽ thật giả này, thì tốc độ bước vào lẽ thật của ngươi sẽ nhanh hơn một chút. Như vậy, trong cuộc sống thường nhật, con người sẽ không dùng những thứ được gọi là văn hóa truyền thống này và những lẽ thật giả này để thay thế lẽ thật, thay thế lời Đức Chúa Trời để làm nguyên tắc thực hành, trạng thái khó xử này sẽ dần dần giảm bớt và dần dần được giải quyết.
Một số người cho rằng chỉ cần thoát khỏi văn hóa truyền thống của một gia tộc và của một quốc gia, rồi tiếp nhận một loại văn hóa truyền thống ngoại lai, dị tộc khác thì họ đã đạt được lẽ thật. Có người cho rằng mình đã thoát khỏi một loại văn hóa truyền thống cũ kỹ, tư tưởng quan điểm cũ kỹ, và tiếp nhận một loại tư tưởng tương đối tiên tiến và hiện đại hơn, như thế là họ đã đạt được lẽ thật. Giờ nhìn xem, những điều này là đúng hay sai? (Thưa, sai.) Tất cả đều sai. Con người cho rằng chỉ cần thoát khỏi những thứ cũ kỹ thì sẽ đạt được tự do, ngụ ý của đạt được tự do là gì? Chính là việc con người đạt được lẽ thật, có được cách sống đích thực mà con người nên có, con người cho rằng như vậy mới là có được chân đạo. Trên thực tế chuyện này là thật sao? Là đúng sao? Không phải. Bất luận nhân loại tiếp nhận văn hóa hiện đại, tiên tiến nào thì cuối cùng nó vẫn là văn hóa truyền thống, thực chất của nó là bất biến. Văn hóa truyền thống mãi là văn hóa truyền thống, bất kể có đứng vững trước thử thách của thời đại, đứng vững trước thử thách của sự thật, hay là được nhân loại tôn sùng, thì nó vẫn là văn hóa truyền thống. Tại sao những văn hóa truyền thống này không phải là lẽ thật? Suy cho cùng là vì những thứ này là tư tưởng được nảy sinh sau khi nhân loại bị Sa-tan làm bại hoại, không phải đến từ Đức Chúa Trời. Trong đó có trộn lẫn một số quan niệm và tưởng tượng của con người, càng là hậu quả của việc Sa-tan làm bại hoại nhân loại. Sa-tan lợi dụng tư tưởng và quan điểm, các loại câu nói và luận điệu của nhân loại bại hoại để trói buộc và làm bại hoại tư tưởng của con người. Nếu Sa-tan dùng những thứ rõ ràng là hoang đường, phi lý, sai lầm để mê hoặc con người thì con người sẽ có sự phân định. Họ sẽ có thể phân định phải trái, đúng sai, và dùng khả năng phân định này để phủ nhận và lên án chúng. Như vậy những học thuyết này sẽ không đứng vững được. Nhưng khi Sa-tan dùng một số tư tưởng và lý luận phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của con người, những thứ mà nó cho rằng có thể đứng vững được khi nói ra, để hun đúc, ảnh hưởng, tiêm nhiễm vào con người, thì nhân loại sẽ rất dễ bị nó mê hoặc. Những câu nói này cũng rất dễ được con người tiếp nhận, truyền bá, cứ như vậy kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác cho đến hiện tại. Ví dụ như giai thoại của một số nhân vật anh hùng Trung Quốc như Nhạc Phi, Dương gia tướng và cả câu chuyện yêu nước của Văn Thiên Tường, tại sao những tư tưởng này của họ có thể lưu truyền đến hiện tại? Nếu xét về phương diện con người, thời đại nào cũng có một nhóm người hay một người cai trị nào đó liên tục dùng những ví dụ này, dùng tư tưởng và tinh thần của những nhân vật này để dạy dỗ thế hệ này qua thế hệ khác, để thế hệ này qua thế hệ khác có thể tiếp nhận sự thống trị của họ một cách an phận và ngoan ngoãn, để họ có thể dùng những tư tưởng này mà cai trị thế hệ này qua thế hệ khác một cách dễ dàng, để sự cai trị của họ được vững chắc hơn. Thông qua việc nói về lòng ngu trung của Nhạc Phi và Dương gia tướng, về tinh thần yêu nước của Văn Thiên Tường và Khuất Nguyên, họ giáo dục dân chúng bị cai trị, để người ta biết một đạo lý là làm người thì phải trung thành, là điều mà một người có phẩm chất đạo đức cao nên có. Trung thành đến mức nào? “Vua xử bề tôi chết, bề tôi không thể không chết”, đến mức độ này, còn có “Trung thần không thờ hai vua”, đây cũng là thứ mà họ tôn sùng. Họ cũng tôn sùng những người yêu nước. Yêu nước là yêu ai? Yêu mảnh đất đó? Yêu nhân dân đó? Đất nước là gì? (Thưa, là người cai trị.) Người cai trị là người phát ngôn của đất nước. Nếu ngươi nói: “Tôi yêu nước thực ra chính là yêu quê hương tôi, yêu cha mẹ tôi. Tôi không thèm yêu những kẻ cai trị như các người đâu!” thì họ sẽ tức giận. Nếu ngươi nói “Yêu nước là yêu người cai trị từ sâu thẳm nội tâm”, thì họ sẽ chấp nhận và đồng ý cho ngươi yêu như vậy. Nếu ngươi nói cho minh bạch, cho rõ ràng rằng người ngươi yêu không phải là họ, thì họ sẽ không đồng ý nữa. Những người cai trị thế hệ này sang thế hệ khác, họ đại diện cho ai? (Thưa, cho Sa-tan.) Họ đại diện cho Sa-tan, và họ là đồng bọn của Sa-tan, thuộc về ma quỷ. Họ không thể giáo dục dân chúng thờ phượng Đức Chúa Trời, thờ phượng Đấng Tạo Hóa, họ không thể làm như vậy. Ngược lại, họ sẽ bảo dân chúng rằng người cai trị là thiên tử. Thiên tử là ý gì? Ông trời ban quyền lực cho một người, người này được gọi là “thiên tử”, hắn sẽ có quyền lực thống trị bách tính dưới gầm trời. Đây có phải là một loại tư tưởng mà người cai trị tiêm nhiễm cho dân chúng hay không? (Thưa, phải.) Một người trở thành thiên tử thì đó chính là trời định, người đó mang trên mình ý trời, dân chúng nên tiếp nhận sự cai trị của hắn vô điều kiện. Cho dù hắn có cai trị như thế nào thì họ đều nên tiếp nhận. Họ tiêm nhiễm cho con người một loại tư tưởng như vậy, khiến ngươi thừa nhận có ông trời, đồng thời khiến ngươi tiếp nhận việc hắn là thiên tử. Mục đích khiến ngươi tiếp nhận hắn là thiên tử là gì? Không phải là để ngươi thừa nhận có trời cao, có Đức Chúa Trời, có Đấng Tạo Hoá, mà là để ngươi tiếp nhận sự thật rằng hắn là thiên tử. Bởi vì hắn là thiên tử được sinh ra do ý trời, dân chúng nên tiếp nhận sự cai trị của hắn. Họ luôn tiêm nhiễm một loại tư tưởng như vậy. Những tư tưởng này đã nảy sinh từ lúc nhân loại sơ khai đến hiện tại. Khi mổ xẻ bất kỳ một từ ngữ hay thành ngữ chứa đựng điển tích, hay là những ngạn ngữ và tục ngữ dân gian hoàn toàn không chứa đựng điển tích nào, thì phía sau chúng luôn có sự trói buộc, mê hoặc của Sa-tan đối với nhân loại, cũng có định nghĩa sai lầm của nhân loại bại hoại đối với sự việc này. Định nghĩa sai lầm này có ảnh hưởng gì đến nhân loại sau này? Nó tốt đẹp, tích cực hay là tiêu cực? (Thưa, tiêu cực.) Về cơ bản là tiêu cực. Ví dụ như “nằm gai nếm mật”, “giấu tài giấu nghề”, “chịu đựng sỉ nhục và gánh vác trọng trách”, “không bao giờ bỏ cuộc”, và cả “dương đông kích tây”, những thứ này ảnh hưởng như thế nào đến nhân loại sau này? Sau khi tiếp nhận những văn hóa truyền thống này, con người từ thế hệ này sang thế hệ khác ngày càng rời xa Đức Chúa Trời, rời xa công tác tạo dựng con người, cứu rỗi con người và kế hoạch quản lý của Ngài. Sau khi nhân loại tiếp nhận những quan điểm sai lầm của văn hóa truyền thống này, họ ngày càng cảm thấy số phận của con người nên nằm trong tay mình, hạnh phúc phải dựa vào chính đôi tay mình để tạo dựng và cơ hội là dành cho những người có sự chuẩn bị, từ đó dẫn đến việc nhân loại càng ngày càng phủ nhận Đức Chúa Trời, phủ nhận sự tể trị của Ngài – mà sống dưới quyền thế của Sa-tan. Nếu so sánh điều mà người hiện đại thích nói với điều mà người của hai ngàn năm trước thích nói, thì nội hàm tư tưởng của chúng là giống nhau. Chỉ có điều con người ngày nay càng nói càng cụ thể, càng nói càng lộ liễu, không những phủ nhận sự tồn tại và sự tể trị của Đức Chúa Trời, mà mức độ chống đối, lên án Đức Chúa Trời của họ càng ngày càng nghiêm trọng.
Ví dụ như, cổ nhân có câu “quốc gia hữu nan, thất phu hữu trách” vẫn lưu truyền đến bây giờ, mọi người đều rất yêu thích câu này, nhất là những người yêu nước, họ xem những lời này như phương châm sống. Bây giờ các ngươi đã ra nước ngoài, nếu người khác bảo rằng một chuyện gì đó đã xảy ra ở Trung Quốc, vậy chuyện này có liên quan gì đến ngươi không? (Thưa, không liên quan.) Tại sao lại nói là không liên quan? Có người nói: “Tôi hận đất nước đó. Đất nước đó bây giờ là do Đảng Cộng sản tà ác cầm quyền. Đảng Cộng sản là ma quỷ Sa-tan, là kẻ cai trị độc tài, không liên quan đến tôi. Nó bách hại chúng tôi, không cho chúng tôi tin Đức Chúa Trời, tôi hận nó”. Nếu có một ngày đất nước này sắp diệt vong thì có lẽ trong lòng ngươi sẽ không có cảm giác gì. Nhưng khi ngươi nghe nói tỉnh của mình bị dân tộc khác xâm lược, chiếm đóng, ngươi sẽ cảm thấy giống như mình trở thành dân tị nạn, vô gia cư, thành trẻ lang thang. Ngươi khó chịu, cảm thấy mình không thể lá rụng về cội. Lá rụng về cội, đây lại là một tư tưởng truyền thống. Cho đến một ngày khác, ngươi đột nhiên nghe nói quê hương của mình, mảnh đất sinh ra ngươi, nuôi dưỡng ngươi bị dân tộc khác xâm chiếm. Con đường nhỏ mỗi ngày ngươi đi học bị dân tộc khác chiếm lĩnh. Nhà của ngươi và ruộng nương trong nhà đều bị chiếm, không còn phần của ngươi nữa. Mảnh đất nhỏ đã khắc sâu trong tâm trí ngươi, mảnh đất có quan hệ thân thiết nhất với ngươi đã không còn, người thân ở đó đều không còn. Khi đó ngươi sẽ nghĩ đến: “Không có nước thì không có nhà! Giờ đây mình đã thực sự trở thành dân tị nạn rồi, thực sự không có nhà để về, thành đứa trẻ lang thang rồi. Xem ra lời ‘Quốc gia hữu nan, thất phu hữu trách’ rất đúng!”. Đến lúc đó ngươi sẽ thay đổi. Vậy tại sao bây giờ ngươi không cảm thấy lời này là đúng? Đó là do bối cảnh và tiền đề của chuyện này, bởi vì đất nước này bách hại ngươi, mang đến cho ngươi quá nhiều đau khổ, nó không dung nạp ngươi nên ngươi hận nó. Thực ra, điều ngươi thực sự hận không phải là mảnh đất đó, điều ngươi hận là chính quyền Sa-tan bách hại ngươi. Ngươi không thừa nhận nó là đất nước, cho nên vào lúc người khác nói “Quốc gia hữu nan, thất phu hữu trách”, ngươi sẽ nói “Liên quan gì đến tôi”. Nhưng đến một ngày, mảnh đất sinh ra và nuôi dưỡng ngươi không còn thuộc về ngươi nữa, ngươi không có quê hương nữa, ngươi sẽ cảm thấy mình là một đứa trẻ lang thang, là một người không có quốc tịch, ngươi thật sự mất đi đất nước, khi đó ngươi sẽ cảm thấy đau lòng. Ngươi đau lòng cái gì? Cũng có thể bây giờ ngươi vẫn chưa cảm nhận được một cách sâu sắc, nhưng đến một ngày nào đó ngươi sẽ có những xúc cảm sâu sắc. Trong tình huống nào thì ngươi sẽ có những xúc cảm sâu sắc? Nếu việc đất nước diệt vong và ngươi thành dân mất nước cũng không đáng sợ thì điều đáng sợ là gì? Khi trở thành dân mất nước và bị người khác lăng nhục, chửi mắng, bị người khác kỳ thị, chà đạp, không có chỗ an cư, khi đó ngươi sẽ cho rằng “Có đất nước thật quý giá, không có đất nước thì con người không có mái nhà thực sự. Có đất nước thì mới có nhà. Cho nên tục ngữ nói rất đúng, ‘Quốc gia hữu nan, thất phu hữu trách’”. Từ “trách” trong “thất phu hữu trách” này là trách nhiệm vì điều gì? Vì sự an toàn của gia đình mình, để có thể bảo vệ gia đình mình. Khi nghĩ đến đây, đến chuyện khi bị kỳ thị ở nước khác, ở nơi đất khách quê người, thì ngươi cần có một nơi để quay về, ngươi cần có đất nước chống lưng cho sự tôn nghiêm và thể diện, thân phận và địa vị của ngươi, lúc đó ngươi sẽ có cảm nghĩ như thế nào? Ngươi sẽ cảm thấy “Khi một người ở nơi đất khách quê người thì cột chống vững chãi sau lưng họ là một tổ quốc vĩ đại!”, khi đó có phải nỗi lòng ngươi sẽ khác với hiện tại hay không? (Thưa, phải.) Hiện tại chỉ là do nhất thời tức giận nên ngươi mới nói rằng cho dù đất nước xảy ra chuyện gì thì cũng không liên quan đến mình. Nhưng nếu đến lúc đó mà ngươi vẫn có thể nói ra lời như vậy, thì ngươi phải có vóc giạc như thế nào? Trên thế giới này có một sự thật mà mỗi người có thể đều biết, đó là nếu không có tổ quốc hùng mạnh làm hậu thuẫn, thì ở nơi đất khách quê người, ngươi chắc chắn sẽ bị kỳ thị và bị ức hiếp. Vào khoảnh khắc mà ngươi thực sự cảm nhận được điều đó, yêu cầu đầu tiên của ngươi là gì? Có người nói: “Nếu tôi là người Do Thái hoặc là người Nhật thì tốt biết bao, không ai dám ức hiếp, đi đến quốc gia nào người ta cũng đều xem trọng. Sao tôi lại sinh ra ở Trung Quốc chứ? Đất nước vô năng, người Trung Quốc đi đến đâu cũng bị ức hiếp”. Nếu gặp phải chuyện như vậy, đầu tiên các ngươi sẽ nghĩ gì? (Thưa, chúng con tin Đức Chúa Trời, thuận phục sự sắp đặt và an bài của Ngài.) Lời này thì đúng, nhưng con người phải hiểu rõ bao nhiêu lẽ thật, phải trải nghiệm những gì, phải có bao nhiêu nhận thức trải nghiệm mới có thể nói ra những lời này và biến những lời này thành vóc giạc của bản thân? Khi gặp phải chuyện như vậy, ngươi phải có nhận thức, tư tưởng và trải nghiệm thực tế như thế nào thì mới có thể không yếu đuối? Cho dù người ta nhổ nước bọt lên ngươi, mắng ngươi là dân mất nước, ngươi cũng không khó chịu. Ngươi phải có vóc giạc như thế nào mới có thể không khó chịu, không bị những thứ này kìm kẹp? Bây giờ các ngươi đã có vóc giạc như vậy hay chưa? (Thưa, không có.) Bây giờ không có, vậy đến một ngày nào đó có thể có hay không? Để được như vậy thì phải trang bị những lẽ thật nào? Phải hiểu rõ những lẽ thật nào? Bây giờ có một số người vừa nghe nói người nhà ở Trung Quốc tin Đức Chúa Trời và bị bắt, thế là câu “Mọi sự đều nằm trong tay Đức Chúa Trời” mà họ hiểu được trong lòng đã biến thành đạo lý. Họ bị kìm kẹp bởi việc người nhà bị bắt, và không có tâm tư thực hiện bổn phận. Nếu nghe nói người thân đã chết, họ có thể ngất xỉu ngay tại chỗ. Nếu mảnh đất đó bị hủy diệt, mọi người ở đó đều chết, các ngươi cảm thấy thế nào? Những thứ truyền thống như nước, nhà, quê hương, tổ quốc, còn có một số tư tưởng và văn hóa truyền thống liên quan đến mấy chữ này, chúng có trọng lượng đến đâu trong sâu thẳm nội tâm các ngươi? Trong sự sống của ngươi, có phải nó vẫn đóng vai trò chủ đạo trong mọi hành động, mọi tư tưởng và hành vi của ngươi hay không? Nếu trong lòng ngươi vẫn bị những thứ truyền thống có liên quan đến mình, như đất nước, chủng tộc, dân tộc, gia tộc, quê hương, vùng đất, v.v. chiếm giữ, tức là những thứ này vẫn mang sắc thái văn hóa truyền thống nhất định trong lòng ngươi, vậy thì những bài giảng mà ngươi nghe, lẽ thật mà ngươi hiểu, đối với ngươi toàn là đạo lý. Ngươi nghe giảng nhiều như vậy nhưng lại không thể buông bỏ những thứ cơ bản nhất mà con người nên buông bỏ và nên cắt đứt, cũng không thể đối xử với chúng một cách đúng đắn. Vậy những lẽ thật mà ngươi hiểu được rốt cuộc là để giải quyết vấn đề gì?
Sau khi đến phương Tây, rất nhiều người Trung Quốc muốn tiêm nhiễm văn hóa truyền thống của mình, những thứ mình cho là đúng và tốt cho người phương Tây. Người phương Tây cũng không yếu thế, họ cho rằng văn hóa truyền thống của họ cũng rất lâu đời, ví dụ như La Mã cổ đại, Ai Cập cổ đại, Hy Lạp cổ đại, đều mang chữ “cổ đại”, văn hóa của họ đều hơn 3000 năm. Với con số này thì chắc chắn là có di sản văn hóa, và đối với nhân loại, những thứ được tạo ra từ di sản văn hóa này thì được cho là cái tinh hoa của cuộc sống nhân loại, là thứ tinh hoa nhất mà nhân loại này đúc kết từ cuộc sống, việc sinh tồn và việc làm người. Thứ tinh hoa nhất được nhân loại lưu truyền lại gọi là gì? Là văn hóa truyền thống. Người từ thế hệ này sang thế hệ khác đã kế thừa văn hóa truyền thống này. Trong lòng mỗi người, họ đều cho rằng đây là điều tốt nhất. Cho dù hiện tại con người có thể tuân giữ được chúng hay không, nói tóm lại, người của các chủng tộc đều xem nó là thứ tối thượng, là lẽ thật. Cho nên, trong mỗi một chủng tộc đều có một số thứ truyền thống, có thể đứng vững và có ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đối với chủng tộc này. Họ sẽ lấy ra so đo, so sánh với nhau, thậm chí muốn áp đảo đối phương. Ví dụ, người Trung Quốc nói: “Rượu trắng Trung Quốc của chúng tôi ngon, đủ độ!”. Người phương Tây nói: “Rượu trắng của các anh thì có là gì đâu. Nồng độ quá cao, uống là say, lại còn rất có hại cho gan. Người phương Tây chúng tôi uống rượu vang nồng độ thấp, ít tổn thương đến gan, lại còn giúp lưu thông máu”. Người Trung Quốc nói: “Rượu trắng của chúng tôi cũng giúp lưu thông máu, lại còn rất lợi hại, uống một hớp là sướng, mặt bừng bừng. Rượu vang của các anh không đủ mạnh, uống thế nào cũng không say. Anh xem, chúng tôi uống rượu thì có văn hóa rượu, uống trà thì có văn hóa trà”. Người phương Tây nói: “Chúng tôi uống trà cũng có văn hóa trà, uống cà phê có văn hóa cà phê, uống rượu cũng có văn hóa rượu. Bây giờ chúng tôi còn có văn hóa thức ăn nhanh”. Họ so bì lẫn nhau, không ai phục ai, không ai tiếp nhận ai. Ai cũng cho rằng mình là lẽ thật, nhưng trên thực tế thì không ai là lẽ thật. Người ngoại đạo thì không nói, đáng buồn nhất là ngay cả người tin Đức Chúa Trời, thậm chí người đã tiếp nhận giai đoạn công tác này được 20, 30 năm mà cũng không ý thức được rằng những thứ này căn bản không phải là lẽ thật. Có một số người nói: “Vậy nói rằng nó có liên quan đến lẽ thật thì có được hay không?”. Có liên quan cũng không được, nó không phải là lẽ thật, không liên quan gì đến lẽ thật. Nó và lẽ thật không giống nhau, không phải cùng một loại. Giống như đồng, dù mạ vàng có tốt hơn nữa, lau sáng hơn nữa thì nó vẫn là đồng, còn vàng không lau, không sáng, không bóng thì cũng là vàng, chúng không phải cùng một loại.
Có một số người nói: “Người được nền giáo dục văn hóa truyền thống tương đối tốt hun đúc, có phải sẽ dễ dàng tiếp nhận lẽ thật hay không?”. Không phải, đây là hai chuyện khác nhau. Chỉ là cách sống của họ có một chút khác biệt, nhưng thái độ tiếp nhận lẽ thật, các loại tư tưởng, quan điểm của con người và mức độ bại hoại của toàn thể nhân loại đều giống nhau. Khi bắt đầu phán dạy trong bước công tác ở thời kỳ sau rốt, bối cảnh và đối tượng mà lời Đức Chúa Trời hướng tới là người Trung Quốc. Ba mươi năm trôi qua, những lời này được truyền đến những nơi khác ở châu Á, còn đến cả châu Âu, châu Mỹ và các dân tộc khác. Bất luận là người da đen, người da trắng, người da nâu hay là người da vàng, sau khi xem xong đều nói: “Những lời này là nói về chúng ta”. Lời Đức Chúa Trời vạch rõ tâm tính bại hoại của toàn thể nhân loại, và rất ít người nói rằng “Những lời này là nói về người Trung Quốc các anh, là nói về tâm tính bại hoại của người Trung Quốc các anh, chúng tôi không có”, chỉ có một số ít người không có hiểu biết thuộc linh mới nói những lời như vậy. Trước đây, người Hàn Quốc có hiểu lầm như vậy, họ cho rằng người Hàn Quốc sống dưới chế độ xã hội tự do dân chủ, chịu ảnh hưởng của văn hóa Cơ Đốc giáo và văn hóa Hàn Quốc mấy nghìn năm thì dân tộc của họ tôn quý và cao thượng hơn người Trung Quốc. Sao họ lại nghĩ vậy? Bởi vì khi đến Hàn Quốc, rất nhiều người Trung Quốc đi đâu cũng làm mất vệ sinh và gây ồn ào, hiện tượng trộm cắp và các vụ án hình sự cũng tăng lên, dẫn đến một số ảnh hưởng không tốt cho bầu không khí xã hội của họ. Cho nên anh chị em Hàn Quốc cho rằng: “Người Trung Quốc là con cháu của con rồng lớn sắc đỏ, con cháu của Mô-áp, người Hàn Quốc chúng tôi sẽ không bị con rồng lớn sắc đỏ làm bại hoại”. Ngụ ý là gì? Chính là “Chúng tôi chưa bị con rồng lớn sắc đỏ làm bại hoại, nên chúng tôi không bại hoại sâu sắc như người Trung Quốc. Người Trung Quốc bại hoại hơn chúng tôi, chúng tôi tốt hơn người Trung Quốc”. Chữ “tốt” mà họ nói nghĩa là gì? (Thưa, hành vi tương đối tốt.) Một mặt là hành vi, mặt khác, từ sâu thẳm nội tâm, họ cho rằng văn hóa truyền thống mà Đại Hàn Dân Quốc tạo ra và tiếp nhận trong lịch sử từ trước đến nay đều là cao thượng, cao thượng hơn văn hóa, truyền thống của dân tộc Trung Hoa. Con người và chủng tộc được hun đúc bởi văn hóa truyền thống như vậy thì cao thượng hơn con người được hun đúc bởi văn hóa truyền thống Trung Quốc. Cho nên khi họ đọc lời Đức Chúa Trời, thấy Đức Chúa Trời phán “Đồ đê tiện các ngươi” thì cho rằng đó là nói người Trung Quốc. Các anh chị em Trung Quốc nói: “Đức Chúa Trời nói ‘các ngươi’ có nghĩa là nhân loại”. Họ nói: “Không đúng, Đức Chúa Trời nói ‘các ngươi’, không phải chỉ chúng tôi, ngụ ý của Đức Chúa Trời không bao gồm người Hàn Quốc”. Họ cho là như vậy. Tức là bất luận họ nhìn từ phương diện nào, thì quan điểm và góc độ nhìn nhận sự việc của họ không phải là đứng ở góc độ lẽ thật, lại càng không phải đứng ở góc độ khách quan, công bằng, mà là đứng trong bối cảnh một dân tộc, một loại văn hóa truyền thống để nhìn nhận vấn đề. Cho nên bất luận họ nhìn nhận như thế nào thì kết quả nhìn nhận cũng đi ngược với lẽ thật. Bởi vì dù họ nhìn nhận như thế nào thì xuất phát điểm của họ luôn là “Đại Hàn Dân Quốc chúng tôi cái gì cũng đúng, cái gì cũng là tiêu chuẩn, cái gì cũng là đúng đắn”. Họ nhìn nhận mọi sự, đánh giá mọi sự từ một góc độ và xuất phát điểm sai lầm. Vậy kết quả họ nhìn ra là đúng hay sai? (Thưa, sai.) Chắc chắn là sai. Vậy tiêu chuẩn dùng để đánh giá mọi sự phải là gì? (Thưa, lẽ thật.) Nên là lẽ thật, đó mới là tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn kia của họ vốn dĩ là sai trái, họ dùng góc độ và quan điểm sai lầm để đánh giá mọi sự, kết quả đánh giá đó chắc chắn là sai lầm, không công bằng, không đúng đắn, lại càng không khách quan. Cho nên họ rất khó tiếp nhận những sự vật, sự việc ngoại lai. Hơn nữa, tư tưởng của họ lại rất cực đoan, khép kín, hẹp hòi, thậm chí còn nóng nảy. Sự nóng nảy của họ đến từ cái gì? Nó đến từ việc, dù nói gì thì họ cũng nhắc đến “Đại Hàn Dân Quốc của chúng ta”, nhất định phải thêm chữ “Đại”. Thêm chữ “Đại” là ý gì? Chữ “Đại” này có phải đại diện cho sự cuồng vọng không? Ngươi đến các quốc gia trên thế giới hoặc là nhìn trên bản đồ xem Hàn Quốc rốt cuộc lớn cỡ nào. Nếu nó thật sự lớn hơn các quốc gia khác và thật sự có thể gọi là lớn thì gọi nó là “Đại” cũng được. Nhưng so với các quốc gia bình thường trên trái đất, Hàn Quốc cũng không lớn, vậy tại sao còn muốn xưng là “Đại” chứ? Ngoài ra, bất luận một đất nước là lớn hay nhỏ thì quy củ và văn hóa truyền thống nảy sinh ở đó đều không phải đến từ Đức Chúa Trời, và tuyệt đối không phải đến từ lẽ thật. Bởi vì mọi tư tưởng mà con người tiếp nhận trước khi tiếp nhận lẽ thật, tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời thì đều bắt nguồn từ Sa-tan. Những tư tưởng, quan điểm và văn hóa truyền thống mà Sa-tan tạo ra mang đến cho con người cái gì? Là sự mê hoặc, bại hoại, ràng buộc, trói buộc, dẫn đến tư tưởng của nhân loại bại hoại bị hẹp hòi, cực đoan, quan điểm nhìn nhận bị phiến diện, thiên vị, thậm chí vô lý, hoang đường. Đây chính là hậu quả của việc Sa-tan làm bại hoại nhân loại. Cho nên, có rất nhiều quốc gia, thậm chí người của một số dân tộc, khi nghe được câu “Đức Chúa Trời nhập thể ở Trung Quốc”, phản ứng đầu tiên của họ là gì? Là ba chữ – không thể nào! Vậy họ nghĩ nơi nào thì có thể? (Thưa, nước Y-sơ-ra-ên.) Đúng vậy, đó là Y-sơ-ra-ên. Con người thích nhất là đặt ra quy định, tuân theo quan niệm, cho rằng Y-sơ-ra-ên là nơi Đức Chúa Trời đã từng làm công tác, Ngài nên xuất hiện ở Y-sơ-ra-ên, hoặc là xuất hiện ở một đế quốc hùng mạnh nào đó mà họ tôn sùng, hoặc là xuất hiện ở một quốc gia văn minh cổ đại nào đó trong tưởng tượng và quan niệm của họ. Trung Quốc hoàn toàn không phải là quốc gia như vậy, cho nên họ rất khó tiếp nhận những lời chứng về Đức Chúa Trời nhập thể ở Trung Quốc, chỉ một điểm này cũng đủ để họ mất đi cơ hội được cứu rỗi lần này. Ai gây ra chuyện này? (Thưa, chính bản thân họ.) Bởi vì chính họ có quan niệm như vậy, và đã nảy sinh sự phản nghịch, còn không hề tìm kiếm lẽ thật để giải quyết. Kết quả là họ tự hại mình, làm mất đi cơ hội được cứu rỗi duy nhất này.
Khi không hiểu lẽ thật, con người nảy sinh ra rất nhiều tưởng tượng và quan niệm, thậm chí những thứ mà con người sùng bái đều rất vô lý, rất hoang đường. Một người phụ nữ Hàn Quốc ở Mỹ, cô ấy thích nước Mỹ, khi cô tiếp xúc với người Mỹ, một người Mỹ hỏi cô ấy: “Bây giờ sắp sang năm mới rồi, người Trung Quốc ăn gì vào năm mới?”. Cô ấy nói: “Tôi không phải người Trung Quốc, tôi là người Hàn Quốc”. Người Mỹ hỏi tiếp: “Người Hàn Quốc không phải cũng đón năm mới sao?”. Cô ấy trả lời: “Người Hàn Quốc chúng tôi không đón năm mới”. Người Mỹ kia liền nói: “Tôi tưởng người Hàn Quốc cũng đón năm mới giống như người Trung Quốc chứ”. Thế là cô ấy nói với giọng điệu rất tức giận: “Chúng tôi và người Trung Quốc không giống nhau! Anh nghĩ rằng chúng tôi đón năm mới phải không? Nói như thế là xúc phạm nghiêm trọng đến tôn nghiêm của người Hàn Quốc chúng tôi!”. Người Hàn Quốc thực sự không đón năm mới sao? (Thưa, có.) Trên thực tế, người Hàn Quốc cũng đón năm mới. Vậy tại sao cô ấy lại nói người Hàn Quốc không đón năm mới? Chúng ta hãy thảo luận một chút về chuyện này nhé. Rốt cuộc đón năm mới là đúng hay không đón năm mới là đúng? Các ngươi có thể nói rõ chuyện này hay không? Vốn dĩ đối với người nước ngoài mà nói, đón năm mới không phải là chuyện sỉ nhục gì, nó chỉ là nghi thức đặc biệt kỷ niệm một ngày quan trọng trong cuộc sống của con người. Đối với nhân loại sống trong thế giới văn hóa truyền thống này mà nói, việc đón năm mới không bị tính là chuyện sai lầm gì, cũng không phải là chuyện mất mặt gì. Vậy tại sao cô ấy không dám thừa nhận rằng mình cũng đón năm mới chứ? Bởi vì một khi cô ấy thừa nhận việc đón năm mới thì sẽ không thể Tây hóa nữa, sẽ bị gán mác là một người phương Đông truyền thống, mà cô thì không muốn để người khác nghĩ rằng mình là một phụ nữ phương Đông truyền thống. Cô muốn người ta nghĩ rằng mình không có truyền thống phương Đông, không hiểu truyền thống phương Đông, thậm chí hoàn toàn không biết gì về truyền thống phương Đông. Sau đó cô sẽ nói tiếng Anh lưu loát, nhuộm tóc vàng, đeo kính áp tròng màu xanh, mang quần áo và trang sức giống như người phương Tây, cũng phóng khoáng, tự do, độc lập, có kiến thức như phụ nữ phương Tây. Cô muốn người ta đối xử với mình như vậy. Cho nên dưới sự chi phối của loại tư tưởng này, khi gặp chuyện, phương thức làm việc của cô ấy căn cứ theo tư tưởng này. Khi có người hỏi rằng người Hàn Quốc có đón năm mới không, cô sẽ trả lời: “Người Hàn Quốc chúng tôi không đón năm mới”. Nếu như người bên cạnh nói: “Chúng ta rõ ràng là có đón năm mới mà, sao cô lại nói không?”. Cô ấy sẽ nói gì? “Anh ngốc à, nếu tôi nói có đón năm mới, chẳng phải họ sẽ biết tôi là một người Hàn Quốc truyền thống sao?”. Cô ấy muốn để người ta nghĩ rằng mình là người sinh ra và lớn lên ở Mỹ. Nếu ngươi hỏi cô ấy: “Cô sinh ra ở đây, vậy tổ tiên của cô ở đây mấy đời rồi?”. Cô ấy sẽ nói: “Tổ tiên chúng tôi sinh ra và lớn lên ở đây”. Cô ấy cho rằng đây là một loại biểu tượng cho thân phận và địa vị, cho nên cô không ngại nói dối, cũng không sợ bị người khác lật tẩy. Đây là loại tư tưởng gì? Chuyện này có đáng để nói dối không? Có đáng để mạo hiểm không? Không đáng. Chỉ một chuyện nhỏ như vậy mà lại có thể làm bại lộ một loại tư tưởng, quan điểm của con người. Loại tư tưởng, quan điểm nào bị bại lộ? Có cô bé người Trung Quốc rất xinh đẹp, nhưng cô nằng nặc phải nhuộm tóc thành màu vàng, uốn xoăn, đeo kính áp tròng với nhiều màu sắc khác nhau, nhận mình là người nước ngoài, người khác nhìn cô thì thấy rất khó chịu. Tại sao những người này nhất định phải làm loại người như vậy? Sau khi ăn mặc như vậy ở bên ngoài, huyết thống của họ có thay đổi không? Cho dù huyết thống của ngươi thay đổi, kiếp sau đầu thai làm người da trắng hoặc là người của dân tộc ngươi tôn trọng, thì sẽ thế nào? Các ngươi có thể nhìn thấu chuyện này hay không? Làm người mà nhất định phải có một loại phong cách, một loại khí chất, giả mạo một dân tộc, một chủng tộc mà mình sùng bái, sao lại như vậy? Có phải trong chuyện này có một loại tư tưởng chi phối hay không? Là tư tưởng nào đang chi phối? Giống như có người phụ nữ Hàn Quốc, người Mỹ hỏi cô có chơi bóng bàn hay không, cô nói: “Bóng bàn là gì? Chỉ có người Trung Quốc mới chơi thôi, chúng tôi chơi tennis và chơi gôn”. Khi một con người có thể hành xử và nói chuyện đến mức này, thì đây là loại người gì? Có phải là có chút ngụy trang hay không? Cái gì cũng ngụy trang, sống như vậy thật mệt mỏi! Các ngươi có thể làm người như vậy hay không? Có người Trung Quốc sống ở phương Tây mấy chục năm, sau khi trở về quê hương thì không biết nói tiếng Trung, đây có phải là chuyện xấu hay không? (Thưa, phải.) Có người nói: “Làm người không được quên gốc rễ, Đức Chúa Trời cũng nói không được quên gốc rễ. Đức Chúa Trời là gốc rễ của con người, con người là do Đức Chúa Trời tạo ra, mọi thứ của con người đều bắt nguồn từ Đức Chúa Trời. Con người là loài thọ tạo thì phải thờ phượng Đức Chúa Trời, đó chính là không quên gốc rễ”. Có phải vậy không? Ở đâu cũng có lẽ thật để tìm kiếm, nhưng con người không tìm kiếm lẽ thật, thứ con người tuân giữ đều là văn hóa truyền thống, phải không? Có một số người nói: “Chúng tôi không quên gốc rễ, chúng tôi đi đến đâu cũng thừa nhận mình là người Trung Quốc, cũng thừa nhận đất nước của mình nghèo, lạc hậu. Chúng tôi không lúc nào quên gốc rễ”. Như vậy đã đúng chưa? Tất cả những vấn đề này, một mặt là bởi vì sự ảnh hưởng và giáo dục của cái gọi là văn hóa truyền thống đối với nhân loại quá sâu sắc. Mặt khác, con người nghe giảng đạo nhiều năm như vậy, lại không nghiền ngẫm kỹ càng, không tìm kiếm rốt cuộc lẽ thật là gì, ngược lại, họ thường lấy những văn hóa truyền thống mà mình đang có hay đã học được – những thứ vào trong họ trước nên làm chủ, lấy những thứ mục nát đó ra để giả làm lẽ thật. Đây là phương diện thứ hai. Về phương diện thứ ba, sau khi nghe giảng đạo, con người không tìm kiếm lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời, mà dùng quan điểm truyền thống, dùng những tri thức học vấn đã biết trong quan niệm của con người để đánh giá lời Đức Chúa Trời. Cho nên cho tới bây giờ, tuy rằng con người nghe giảng đạo rất nhiều, nhưng lại truyền miệng cái gọi là nguyên tắc hành sự, cái gọi là nguyên tắc thực hiện bổn phận, phụng sự Đức Chúa Trời, cũng thường nói năng dựa vào một ít tri thức, ngạn ngữ, tục ngữ. Ví dụ, có người làm sai, lãnh đạo hội thánh hoặc là anh chị em tỉa sửa họ, thì họ nghĩ: “Hừ, ‘Giết người chẳng được ích gì’, ‘Chớ đánh kẻ đang cười’, tôi luôn mỉm cười, nhẫn nại tiếp nhận khuyết điểm này của mình, sao anh còn vạch trần mãi vậy?”. Bề ngoài họ rất khôn khéo lắng nghe, thuận phục, nhưng trên thực tế, từ sâu thẳm nội tâm, họ lại đối chọi, chống đối bằng quan niệm truyền thống. Lý do họ chống đối là gì? Đó là vì họ cho rằng những câu “Giết người chẳng được ích gì”, “Chớ đánh kẻ đang cười” mới hoàn toàn là lẽ thật, mới là đúng đắn, còn việc tỉa sửa và vạch trần mãi mà không có một chút tình cảm nào thì không đúng, không phải là lẽ thật.
Thông qua những nội dung thông công ở trên, các ngươi đã có nhận thức sâu sắc hơn về lẽ thật hay chưa? (Thưa, rồi.) Có một vài người nói: “Bị Ngài nói như vậy, chúng con cũng không biết nên tuân thủ những nguyên tắc nào trong quá trình thực hành nữa rồi. Không có văn hóa truyền thống, tri thức và quan niệm này, thì chúng con sống như thế nào? Làm việc như thế nào? Không có những thứ này chi phối, làm sao chúng con có thể mở miệng rao giảng lời Đức Chúa Trời? Không có những thứ này thì không phải sẽ không còn cơ sở để rao giảng lời Đức Chúa Trời sao? Vậy chúng con còn lại điều gì?”. Vậy thì Ta sẽ nói với họ, nếu ngươi thực sự không có những thứ này thì sẽ dễ dàng tìm kiếm lẽ thật, sẽ dễ dàng tiếp nhận lẽ thật và hướng về Đức Chúa Trời. Trước đây cứ mở miệng là ngươi sẽ nói đến các triết lý Sa-tan, các tri thức văn hóa, cái gì mà “Kẻ thức thời mới là tuấn kiệt”, “Chớ đánh kẻ đang cười”, “Giết người chẳng được ích gì” v.v.. Bây giờ hãy suy ngẫm một chút: “Không thể nói như vậy. Những thứ này đều không đúng, đều bị phủ nhận, bị lên án. Vậy mình nên nói gì đây? Hãy nhanh đọc lời Đức Chúa Trời một cách thật thà, quy củ, và tìm căn cứ trong lời Đức Chúa Trời”. Con người thực hiện bổn phận và đi theo Đức Chúa Trời, nhưng mở miệng ra thì toàn là những ngạn ngữ, tục ngữ và một vài thứ, một vài quan điểm mà văn hóa truyền thống mang lại cho con người. Không có ai gặp chuyện mà có thể hoàn toàn tôn cao và làm chứng cho Đức Chúa Trời, nói những câu như “Đức Chúa Trời nói thế này”, “Đức Chúa Trời nói thế kia”, không ai nói như vậy, không ai mở miệng là nói tới lời Đức Chúa Trời. Ngươi không thể cứ mở miệng là nói tới lời Đức Chúa Trời, nhưng cứ mở miệng là nói tới những tục ngữ kia, vậy thứ đầy dẫy trong lòng ngươi rốt cuộc là gì? Toàn là những thứ đến từ Sa-tan. Khi nhóm trưởng kiểm tra công việc của họ, thì họ nói: “Kiểm tra gì chứ? Dùng người thì không nghi, nghi người thì không dùng. Anh luôn nghi ngờ tôi, vậy anh dùng tôi để làm gì? Anh tìm người khác làm đi”. Họ cho rằng làm như vậy là đúng, lại còn không cho phép người khác giám sát và chỉ trích mình. Còn có người chịu khổ rất nhiều khi thực hiện bổn phận, nhưng bởi vì không tìm kiếm nguyên tắc mà đã làm gián đoạn và nhiễu loạn công tác, cuối cùng bị cách chức, còn bị tỉa sửa một trận. Nghe thấy một vài lời lên án, trong lòng họ liền không phục mà nghĩ rằng: “Tục ngữ có câu ‘Không có công lao cũng có khổ lao, không có khổ lao cũng đã chịu mệt’, tôi làm sai chút chuyện này thì có là gì?”. Bởi vì họ biết đến câu tục ngữ này trước và nó đã nắm thế chủ đạo trong họ, chi phối, ảnh hưởng đến tư tưởng của họ, khiến cho trong hoàn cảnh này và khi tình trạng này xảy ra, họ sẽ dùng câu này làm cơ sở để chống đối, không phục với cách nhà Đức Chúa Trời xử lý. Như vậy thì họ còn có thể thuận phục không? Họ còn dễ dàng tiếp nhận lẽ thật không? Cho dù bề ngoài họ có thuận phục thì cũng là bất đắc dĩ, do không còn cách nào khác. Tuy rằng bề ngoài họ không phản kháng, nhưng trong lòng vẫn chống đối. Đây có phải là thuận phục thực sự hay không? (Thưa, không phải.) Đây chỉ làm lấy lệ, chứ không phải thuận phục thực sự. Không có sự thuận phục nào ở đây, chỉ có nói lý lẽ, tiêu cực và đối kháng. Vậy việc nói lý lẽ, tiêu cực và đối kháng này nảy sinh như thế nào? Chính là do câu “Không có công lao cũng có khổ lao, không có khổ lao cũng đã chịu mệt” mà ra, câu nói này khiến họ nảy sinh loại tâm tính gì? Đó là tâm tính không phục, cương ngạnh, chống cự, nói lý lẽ. Khi Ta thông công như vậy, có phải các ngươi sẽ có nhận thức sâu sắc hơn về lẽ thật hay không? Hãy mổ xẻ, phân định những thứ tiêu cực này một cách thấu đáo, và đào chúng ra khỏi lòng mình, thì khi lại gặp chuyện, ngươi sẽ có thể tìm kiếm lẽ thật, thực hành lẽ thật. Bởi vì những thứ cũ kỹ đã bị vứt bỏ, chúng không thể khiến ngươi dựa vào chúng mà làm bổn phận, phụng sự và đi theo Đức Chúa Trời nữa. Những thứ đó không phải là nguyên tắc làm người của ngươi, không phải là nguyên tắc thực hiện bổn phận mà ngươi nên tuân thủ. Chúng đã bị phê phán, bị lên án rồi. Nếu ngươi lại dùng chúng, thì sâu thẳm nội tâm ngươi sẽ như thế nào? Còn có thể vui sướng như vậy không? Còn có thể tin tưởng rằng mình là cây ngay không sợ chết đứng như vậy không? Rõ ràng là không hề dễ. Nếu những thứ này thực sự bị loại bỏ khỏi ngươi, vậy ngươi nên tìm kiếm trong lời Đức Chúa Trời xem nguyên tắc đích thực và yêu cầu của Đức Chúa Trời rốt cuộc là gì. Còn có người nói “Làm việc không theo lệnh chủ, dốc sức cũng hoàn vô công”, lời này có đúng hay không? Chắc chắn là không đúng. Không đúng ở chỗ nào? Làm việc không theo lệnh chủ, vậy “chủ” là chỉ ai? Là chủ nhân, ông chủ, cấp trên. Bản thân từ “chủ” này đã không đúng, Đức Chúa Trời không phải là chủ nhân của ngươi, cũng không phải là ông chủ của ngươi, lại càng không phải là quản lý của ngươi, Ngài là Đức Chúa Trời của ngươi. Quản lý, ông chủ, cấp trên đều là đồng loại và ngang hàng với những con người khác. Thực chất của họ giống nhau, đều là nhân loại bại hoại. Ngươi nghe lời họ, nhận tiền của họ, họ bảo ngươi làm gì thì ngươi làm nấy, ngươi làm bao nhiêu việc họ trả ngươi bấy nhiêu tiền là xong. “Công” trong “Dốc sức cũng hoàn vô công” là chỉ cái gì? (Thưa, công lao.) Là công lao, thù lao. Tức là xuất phát điểm của ngươi khi làm việc là để nhận được thù lao, ở đây không cần có lòng trung thành, thuận phục, không cần tìm kiếm lẽ thật hay thờ phượng, không có những thứ này, nó chỉ là một loại giao dịch mà thôi. Đây chính là thứ bị phê phán và lên án khi tin Đức Chúa Trời, thực hiện bổn phận, mưu cầu lẽ thật. Nếu ngươi coi những lời “Làm việc không theo lệnh chủ, dốc sức cũng hoàn vô công” là lẽ thật thì hoàn toàn sai lầm. Ngươi cố khiến ai đó hiểu lẽ thật, nhưng họ phản ứng chậm chạp, không nhạy bén, bất luận ăn uống lời Đức Chúa Trời như thế nào cũng không hiểu được một vài lẽ thật, cũng không nhớ được một vài câu trong lời Đức Chúa Trời. Nhưng đối với những câu vè, ngạn ngữ, tục ngữ dân gian thường truyền và những câu dân chúng thường nói thì họ tiếp thu rất nhanh, bất kể người ngu ngốc cỡ nào cũng tiếp thu rất nhanh. Chuyện này là sao? Bất luận ngươi thuộc chủng tộc gì, màu da gì, suy cho cùng thì đều là nhân loại, là đồng loại, chỉ có Đức Chúa Trời và nhân loại mới là hai loại khác nhau, còn nhân loại với nhau thì mãi mãi là đồng loại. Cho nên, mỗi khi Đức Chúa Trời làm chuyện gì, toàn nhân loại đều không dễ dàng tiếp nhận. Còn trong nhân loại bất luận ai làm chuyện gì, bất luận là người có địa vị thấp kém cỡ nào làm chuyện gì đó, nếu phù hợp với quan niệm của mọi người thì mọi người có thể tiếp nhận rất nhanh. Bởi vì tư tưởng, quan điểm, cách tư duy, trình độ lĩnh hội và con đường của con người về cơ bản là giống nhau, tương tự nhau. Cho nên, một khi có người nói những lời mang tính quan niệm, không phù hợp với lẽ thật, thì sẽ có vài người tiếp nhận rất nhanh, chuyện là như vậy.
Lẽ thật là gì, những thứ nào không phải là lẽ thật nhưng lại mạo nhận là lẽ thật, có phải các ngươi gần như là hiểu được rồi không? Trong lòng ngươi còn những thứ nào cũng thuộc loại này? Bây giờ các ngươi sẽ không nói ra ngay được, vì chúng không phải là tri thức, không như sách vở có thể lật một cái là nhìn thấy. Chúng là những thứ mà khi gặp chuyện, ngươi sẽ không tự chủ được mà nói ra, một cách đặc biệt tự nhiên, dù ngươi có muốn khống chế cũng không được. Điều này chứng tỏ những thứ này đã trở thành sự sống của ngươi, ăn sâu vào xương tủy ngươi, khiến ngươi nghĩ cũng không nghĩ ra, nhưng không cho ngươi nói thì ngươi không chịu được. Khi ngươi gặp chuyện thì quan điểm lệch lạc này sẽ xuất hiện, đây là sự thật. Từ từ trải nghiệm đi, từ giờ trở đi ngươi hãy chú ý những gì người ta thường nói, những gì người ta cho là đúng. Trước đây, chúng ta có nhắc đến một số độc tố của con rồng lớn sắc đỏ và triết lý xử thế của Sa-tan. Những thứ đó dễ bị phân định khi xét về nghĩa đen của chúng, tức là con người vừa nhìn đã biết đây chắc chắn không phải lẽ thật, vừa nhìn đã biết chúng là độc tố của con rồng lớn sắc đỏ, có quỷ kế ở trong đó. Chúng ta có thể dễ dàng phân định những thứ này. Nếu bảo các ngươi mổ xẻ thì không chừng các ngươi gần như đều có thể làm được. Ngươi đã vứt bỏ những thứ rõ ràng thuộc về Sa-tan, nhưng trong ngươi vẫn có rất nhiều câu như “Chịu đựng sỉ nhục và gánh vác trọng trách”, “Nằm gai nếm mật”, “Chớ đánh kẻ đang cười”, “Đắc đạo thì nhiều người giúp, thất đạo thì ít người giúp”, “Quân tử thì không ăn xin”. Từ trong sâu thẳm nội tâm, các ngươi có lẽ vẫn duyệt chúng, cảm thấy “Đây là bảo bối. Tôn nghiêm làm người cả đời này của tôi đều nằm ở những lời này”. Những thứ này còn chưa được khai quật cho hết. Đợi đến khi chúng bị khai quật triệt để và ngươi có sự phân định đối với chúng, thì sau này khi những thứ văn hóa truyền thống này xuất hiện, bất luận là theo phản ứng tự nhiên hay phản xạ có điều kiện khách quan, ngươi lập tức có thể ý thức được đây là thứ sai lầm, tuyệt đối không phải lẽ thật. Khi đó mức độ nhận biết và công nhận của ngươi đối với lẽ thật sẽ cao hơn hiện tại. Cao hơn hiện tại là có ý gì? Có nghĩa là ngươi đã có vóc giạc nhất định, năng lực phân định của ngươi đã được nâng cao, sự lĩnh hội và nhận thức của ngươi đối với lẽ thật sâu sắc hơn hiện tại, ngươi sẽ cảm nhận được rốt cuộc lẽ thật là gì. Hiện tại ngươi có thể cho rằng “Mọi văn hóa truyền thống xuất phát từ Sa-tan, từ bối cảnh văn hóa của các dân tộc trên thế giới này, thì đều không đúng”. Đây là cách nói chung chung, còn cụ thể cái nào không đúng, không đúng ở chỗ nào, thì có lẽ ngươi vẫn chưa biết. Như vậy thì ngươi phải mổ xẻ, nhận biết từng cái một, sau đó đạt đến mức có thể buông bỏ chúng, lên án chúng, hoàn toàn cắt đứt với chúng, không sống dựa vào chúng, thay vào đó là sống dựa vào lời Đức Chúa Trời. Hiện tại có lẽ các ngươi chỉ theo ý nguyện chủ quan mà biết được rằng những ngạn ngữ, tục ngữ, danh ngôn chí lý và lời nói thường được rao truyền này căn bản không liên quan đến lời Đức Chúa Trời, không phải là lẽ thật, nhưng khi gặp chuyện ngươi vẫn vô thức dùng những lời này làm căn cứ để lên án người khác, ràng buộc bản thân, dẫn dắt hành vi của mình. Chúng kiềm chế và sắp xếp tư tưởng và quan điểm của ngươi, như thế sẽ rất phiền phức, sẽ ảnh hưởng đến việc ngươi bước vào lẽ thật. Đến một ngày, tuy những thứ đến từ Sa-tan này vẫn có thể xuất hiện trong lòng ngươi, nhưng ngươi có thể phân định chúng, không sống dựa vào chúng, và ngươi có thể thực hành theo nguyên tắc lẽ thật, lúc đó ngươi sẽ thực sự có vóc giạc. Hiện tại ngươi có vóc giạc này không? Vẫn chưa có. Nếu có một câu nói mà các ngươi công nhận là đúng, cũng có thể trong lời Đức Chúa Trời cũng có câu nói tương tự, nhưng cách nói hoàn toàn không giống nhau, thì có lẽ ngươi sẽ mắc sai lầm mà cho rằng câu nói này cũng là lẽ thật và giống lời Đức Chúa Trời. Nếu ngươi vẫn không nhìn thấu những chuyện này, vẫn giữ vững lời nói của con người mà không muốn từ bỏ, thì câu nói này sẽ ảnh hưởng đến việc ngươi bước vào lẽ thật, bởi vì câu nói này không phải là lời Đức Chúa Trời, nó không thay thế được lẽ thật.
Hiện tại Ta luôn thông công về chuyện lẽ thật là gì, có nghĩa là Ta muốn nghiêm túc với các ngươi. Muốn cho các ngươi hiểu lẽ thật thì nhất định phải đem các loại tư tưởng, quan điểm, hành vi tốt, lòng tốt của con người, và cả một vài câu nói đúng đắn mà con người dựa vào để sinh tồn, những cách làm phù hợp với lẽ thường, cùng với một vài tư tưởng, quan điểm của văn hóa truyền thống, phải lấy những thứ này ra mổ xẻ, phân định, xem rốt cuộc chúng có phù hợp với lẽ thật hay không, rốt cuộc có liên quan đến lẽ thật hay không. Nếu ngươi cho rằng chúng là lẽ thật, thì căn cứ của ngươi là gì? Nếu ngươi căn cứ vào lý luận, học thuyết của Sa-tan để xác định tính chất chúng là lẽ thật, thì ngươi thuộc về Sa-tan. Nếu những thứ này không phù hợp với lẽ thật, thì chúng bắt nguồn từ Sa-tan, cho nên cần phải mổ xẻ xem thực chất của chúng rốt cuộc là gì. Nhất là, ngươi nên có nhận thức và thái độ đúng đắn đối với rất nhiều câu nói, quan điểm truyền miệng, truyền đời trong văn hóa truyền thống. Như vậy con người mới có thể thực sự hiểu được, nhận biết được rốt cuộc lẽ thật là gì, cũng có thể thực sự hiểu được yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người rốt cuộc là gì, hiểu được câu “Mọi lời Đức Chúa Trời nói đều là lẽ thật” rốt cuộc là ý gì. Đồng thời, việc này cũng giúp con người biết được rằng, nếu nhân loại có những quan điểm và câu nói được cho là phù hợp với đạo đức luân lý, phù hợp với nhân tính, với đạo lý đối nhân xử thế, hay có những quan điểm, tư tưởng, câu nói mà họ dựa vào để sinh tồn, vậy thì tại sao Đức Chúa Trời còn muốn bày tỏ lẽ thật để cứu rỗi con người. Hơn nữa Đức Chúa Trời nói rằng chỉ có lẽ thật mới có thể cứu rỗi con người, chỉ có lẽ thật mới có thể biến đổi con người. Tại sao Đức Chúa Trời lại nói như vậy? Rõ ràng là trong chuyện này có lẽ thật để tìm kiếm. Một điều tối thiểu chính là những tư tưởng, quan điểm và câu nói mà những người này dựa vào để sinh tồn là đến từ nhân loại bại hoại, do nhân loại bại hoại tổng kết ra, thuộc về quan niệm và tưởng tượng của con người, chúng không hề liên quan gì đến lẽ thật. Hơn nữa, những thứ này về thực chất là chống đối, đối địch với lẽ thật, chúng không thay thế được lẽ thật, lại càng không phải là lẽ thật, mãi mãi cũng không phải là lẽ thật. Đối với Đức Chúa Trời, những thứ này đã bị xác định là sai lầm, bị lên án, căn bản không phải là lẽ thật. Hơn nữa, việc Đức Chúa Trời làm việc và bày tỏ lẽ thật căn bản không liên quan gì đến những thứ này. Nói cách khác, lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ không hề có chút quan hệ nào với đạo lý đối nhân xử thế của nhân loại bại hoại, với văn hóa truyền thống, tư tưởng, quan điểm và hành vi tốt của con người, cũng không liên quan gì đến định nghĩa của con người về đạo đức, tôn nghiêm và những điều tích cực. Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật, là bày tỏ tâm tính và thực chất của Ngài; chứ không phải dựa trên sự tổng kết của nhân loại về vô số thứ mà họ cho là những điều tích cực và câu nói tích cực. Lời Đức Chúa Trời là lời Đức Chúa Trời; lời Đức Chúa Trời chính là lẽ thật, là cơ sở và quy tắc sinh tồn duy nhất của nhân loại, còn tất cả những cái gọi là tín điều phát xuất từ con người đều là sai lầm, hoang đường, và bị Đức Chúa Trời lên án. Chúng không được Ngài chấp thuận, càng không phải là nguồn gốc hoặc cơ sở cho những lời Ngài phán. Đức Chúa Trời bày tỏ tâm tính và thực chất của Ngài thông qua lời Ngài. Vì Đức Chúa Trời có thực chất của Đức Chúa Trời, và Ngài là thực tế của tất cả những điều tích cực, nên mọi lời Ngài bày tỏ đều là lẽ thật. Bất kể nhân loại bại hoại này định vị hoặc định nghĩa lời Đức Chúa Trời như thế nào, nhìn nhận và nhận biết như thế nào, thì lời Đức Chúa Trời vĩnh viễn là lẽ thật, và đây là sự thật không bao giờ thay đổi. Cho dù có bao nhiêu lời Đức Chúa Trời đã được phán ra, và cho dù nhân loại tà ác, bại hoại này lên án và loại bỏ như thế nào, thì có một sự thật vĩnh viễn không thay đổi: lời Đức Chúa Trời vĩnh viễn là lẽ thật và con người vĩnh viễn không thể thay đổi điều này. Cuối cùng, con người đều phải thừa nhận rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, và văn hóa truyền thống, cũng như kiến thức khoa học mà nhân loại tôn sùng không bao giờ có thể trở thành những điều tích cực, không bao giờ có thể trở thành lẽ thật. Tuyệt đối là vậy. Văn hóa truyền thống và con đường sinh tồn của nhân loại sẽ không trở thành lẽ thật vì những thay đổi theo thời gian hay thời gian trôi qua, và lời của Đức Chúa Trời cũng sẽ không vì bị nhân loại lên án và quên lãng mà trở thành lời của con người. Lẽ thật luôn là lẽ thật; thực chất này sẽ không bao giờ thay đổi. Trong chuyện này có sự thật nào? Chính là sự thật rằng mọi tục ngữ mà nhân loại tổng kết đều đến từ Sa-tan, là tưởng tượng và quan niệm của con người, hoặc là phát sinh từ huyết khí của con người và những tâm tính bại hoại của con người, chúng không liên quan chút nào đến những điều tích cực. Trong khi đó, lời Đức Chúa Trời là sự bày tỏ thực chất và thân phận của Đức Chúa Trời. Vì lý do gì mà Ngài bày tỏ những lời này? Tại sao Ta nói những lời này là lẽ thật? Bởi vì mọi quy tắc, quy luật, căn nguyên, thực chất, chân tướng và bí ẩn của vạn vật đều do Đức Chúa Trời tể trị, đều nằm trong tay Ngài. Do đó, chỉ Đức Chúa Trời mới biết các quy luật, chân tướng, sự thật và bí ẩn của vạn vật. Đức Chúa Trời biết nguồn gốc của vạn vật, và Đức Chúa Trời biết chính xác căn nguyên của vạn vật là gì. Chỉ có lời Đức Chúa Trời mới là định nghĩa chính xác nhất về vạn vật, và chỉ có lời Đức Chúa Trời mới là tiêu chuẩn và nguyên tắc cho cuộc sống của con người, mới là lẽ thật và tiêu chí để con người có thể dựa vào đó mà sinh tồn. Trong khi đó, những quy tắc, lý luận của Sa-tan mà nhân loại dựa vào để sinh tồn sau khi bị Sa-tan làm bại hoại, một mặt đi ngược với sự thật là Đức Chúa Trời tể trị vạn vật, mặt khác cũng đi ngược với sự thật rằng Đức Chúa Trời tể trị quy tắc và quy luật của vạn vật. Mọi loại lý luận thuộc về Sa-tan của con người đều nảy sinh từ quan niệm và tưởng tượng của con người, cũng là đến từ Sa-tan. Vai trò của Sa-tan là gì? Trước hết, Sa-tan giả mạo lẽ thật. Thứ hai, nó quấy nhiễu, phá hoại và chà đạp mọi quy luật và quy tắc mà Đức Chúa Trời tạo ra cho vạn vật. Cho nên, những gì đến từ Sa-tan rất tương xứng với thực chất của nó, tràn đầy những dụng tâm tà ác, giả mạo, ngụy trang và dã tâm không bao giờ thay đổi của Sa-tan. Đối với những triết lý, lý luận đến từ Sa-tan này, bất luận nhân loại bại hoại có thể phân định được hay không, bất luận có bao nhiêu người ca tụng, tán dương, chạy theo những thứ này, bất luận nhân loại bại hoại có ngưỡng mộ, sùng bái, rao giảng về chúng trong bao nhiêu năm tháng, chúng cũng sẽ không trở thành lẽ thật. Bởi vì thực chất, căn nguyên, ngọn nguồn của chúng là Sa-tan, là Sa-tan đối địch với Đức Chúa Trời, đối địch với lẽ thật. Cho nên những thứ này mãi mãi sẽ không trở thành lẽ thật, chúng mãi mãi là những điều tiêu cực. Khi không có lẽ thật để đối chiếu, có lẽ nó có thể giả mạo là lương thiện, là tích cực, nhưng khi dùng lẽ thật để vạch trần và mổ xẻ, thì chúng không phải là không có kẽ hở, và không thể đứng vững. Chúng là thứ bị lên án, bị vứt bỏ rất nhanh. Lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ hoàn toàn phù hợp với nhu cầu nhân tính bình thường của nhân loại do Đức Chúa Trời tạo ra, nhưng thứ Sa-tan tiêm nhiễm cho con người hoàn toàn trái ngược với nhu cầu nhân tính bình thường của nhân loại. Nó khiến một người bình thường trở nên không bình thường, trở nên cực đoan, hẹp hòi, cuồng vọng, ngu xuẩn, tà ác, cương ngạnh, hung ác, thậm chí ngông cuồng tự đại. Nghiêm trọng đến một mức nhất định thì tinh thần con người thất thường, ngay cả mình là ai cũng không biết, không muốn làm người bình thường, thông thường, mà cứ đòi làm siêu nhân, dị nhân, làm nhân loại cao cấp. Chúng bóp méo nhân tính của con người, bóp méo bản năng của con người. Lẽ thật khiến con người càng theo bản năng mà dựa vào quy luật, quy tắc của nhân tính bình thường và cả mọi quy luật mà Đức Chúa Trời định ra để tồn tại. Còn những cái gọi là tục ngữ, câu nói mê hoặc con người này thì hoàn toàn khiến con người đi ngược lại với bản năng của mình, khiến họ chạy khỏi quy tắc mà Đức Chúa Trời tiền định và đặt ra, thậm chí khiến họ thoát khỏi quỹ đạo của nhân tính bình thường để làm một vài chuyện cực đoan, chuyện mà người bình thường không nên làm, cũng không nên nghĩ tới. Những quy tắc của Sa-tan này không chỉ bóp méo nhân tính của con người, mà còn khiến con người đánh mất nhân tính bình thường và bản năng của nhân tính bình thường. Ví dụ, quy tắc của Sa-tan nói rằng “Vận mệnh nằm trong tay ta”, “Hạnh phúc được tạo ra bởi đôi tay con người”, điều này đi ngược lại với sự tể trị của Đức Chúa Trời và bản năng của con người. Khi cơ thể, bản năng của con người đã đến giới hạn, hoặc khi số phận đã đến thời điểm quan trọng, con người mà dựa vào những quy luật đến từ Sa-tan thì không thể chống đỡ nổi. Hầu hết mọi người đều cảm thấy áp lực vượt quá giới hạn, vượt quá phạm vi mà tinh thần có thể chịu đựng, có những người đến cuối cùng đã bị tâm thần phân liệt. Hiện tại, người tham gia thi đại học đều phải chịu áp lực nặng nề của kỳ thi đại học. Tình trạng sức khoẻ và tố chất tâm lý của mỗi người đều không giống nhau. Có người có thể thích ứng với chế độ như vậy, có người không thích ứng được, cuối cùng có người bị trầm cảm, có người bị tâm thần phân liệt, thậm chí nhảy lầu tự tử, chuyện gì cũng có. Những hậu quả này là do cái gì gây nên? Chính là do Sa-tan mê hoặc con người, khiến con người mưu cầu danh lợi, hãm hại tất cả mọi người. Nếu con người có thể sống thuận theo tự nhiên dựa vào các quy luật mà Đức Chúa Trời đã đặt ra, sống theo cách mà Đức Chúa Trời đã tiền định sẵn cho con người, có thể đọc lời Đức Chúa Trời và sống trước mặt Đức Chúa Trời, thì tinh thần họ có bị thất thường hay không? Con người có phải chịu áp lực lớn như vậy không? Chắc chắn là không. Đức Chúa Trời công tác là để con người hiểu lẽ thật, có thể rũ bỏ tâm tính bại hoại, có thể thuận phục sự tể trị và an bài của Ngài, như vậy con người có thể sống trước mặt Ngài, không có áp lực, chỉ có đạt được sự tự do và giải phóng. Nhân loại là do Đức Chúa Trời tạo ra, chỉ có Đức Chúa Trời biết được bản năng của con người, biết mọi thứ của con người, Đức Chúa Trời sẽ dùng những quy luật mà Ngài đặt ra để dẫn dắt con người, chu cấp cho nhu cầu của con người. Còn Sa-tan thì hoàn toàn không thể làm thế. Nó khiến con người đi ngược với tất cả những điều này, khiến con người làm siêu nhân, làm người tài giỏi. Đây có phải là đùa giỡn với con người hay không? Thực ra, con người đều là người bình thường, thông thường, làm sao có thể làm siêu nhân, dị nhân chứ? Đó không phải là chà đạp con người sao? Dù ngươi vật lộn như thế nào, dã tâm dục vọng của ngươi có lớn hơn đi nữa, thì cũng không thể trở thành siêu nhân, dị nhân. Dù ngươi chà đạp chính mình đến nỗi không ra hình dạng con người thì cũng không có cách nào trở thành siêu nhân, dị nhân. Nghề nghiệp mà con người nên làm cả đời đều là do Đức Chúa Trời tiền định sẵn. Ngươi không sinh tồn theo quy tắc, quy luật do Đức Chúa Trời tạo ra, thay vào đó lại lựa chọn lời của quỷ mê hoặc con người từ Sa-tan để mưu cầu làm siêu nhân, dị nhân, thì ngươi phải chịu sự giày vò và phải chết. Khi ngươi lựa chọn việc tiếp nhận sự tàn phá, giày vò và làm bại hoại của Sa-tan, vậy thứ mà ngươi phải nhận lấy gọi là gieo gió gặt bão, đáng đời, là ngươi nguyện ý mà thôi. Có người tham gia thi đại học, lần một thi không đậu thì thi lần hai, lần ba, kết quả mãi vẫn không thi đậu thì phát bệnh điên. Chuyện này có phải do họ tự làm tự chịu không? Tại sao ngươi phải tham gia thi đại học? Không phải là vì để nên người xuất chúng, rạng danh tiên tổ sao? Ngươi vứt bỏ hai mục tiêu nên người xuất chúng và rạng danh tiên tổ này đi, đừng mưu cầu những thứ này, đổi lại một mục tiêu đúng đắn, như vậy chẳng phải sẽ không còn áp lực sao? Ngươi tiếp nhận sự bại hoại từ Sa-tan, ngươi tiếp nhận toàn bộ quan điểm tư tưởng của nó, vậy thì thân thể ngươi sẽ phải chịu đủ loại đau khổ, đây gọi là đáng đời! Hậu quả này là chính ngươi lựa chọn, là chính ngươi gây ra, không phải Đức Chúa Trời tiền định cho ngươi. Đức Chúa Trời không khiến ngươi sống như vậy. Lời Đức Chúa Trời đã nói rất rõ ràng, là ngươi không thực hành theo lời Ngài. Thân thể, sức mạnh ý chí, tố chất tâm lý của con người có sức chịu đựng có hạn, nhưng bản thân con người không cho là vậy, cũng không ý thức được, lại còn nói số phận nằm trong tay mình, cuối cùng cũng không thắng được số phận, bi thảm mà chết, vậy thì họ còn nắm số phận thế nào? Sa-tan dùng các loại tư tưởng sai lầm, các loại tà thuyết và luận điệu sai lầm để làm bại hoại con người. Bản thân con người không biết, còn cảm thấy rất tốt, cho rằng “Xã hội không ngừng tiến bộ, chúng ta nên bắt kịp thời đại, tiếp nhận những năng lượng tích cực”, đây toàn là lời của quỷ. Thế giới ma quỷ ngoại đạo làm gì có năng lượng tích cực chứ? Chúng đều là năng lượng tiêu cực, đều là u ác tính, đều là bom hẹn giờ. Nếu ngươi tiếp nhận vào thì phải chịu hậu quả xấu của nó, sẽ bị Sa-tan đày đọa, giết hại. Không mưu cầu lẽ thật thì kết cục sẽ như thế. Ngươi đi theo Sa-tan thì còn có thể có kết quả tốt sao? Sa-tan đầu độc ngươi và tiêm nhiễm độc tố cho ngươi. Đức Chúa Trời cứu ngươi, Sa-tan hại ngươi. Đức Chúa Trời chữa bệnh cho ngươi, Sa-tan truyền chất độc cho ngươi đổ bệnh. Ngươi tiếp nhận chất độc của Sa-tan càng nhiều thì càng khó tiếp nhận lẽ thật, chuyện chính là như vậy. Mối thông công về chủ đề lẽ thật là gì sẽ dừng lại ở đây. Tiếp theo chúng ta sẽ thông công một chủ đề khác.
Mổ xẻ việc những kẻ địch lại Đấng Christ thực hiện bổn phận của mình chỉ để làm bản thân nổi bật và thỏa mãn những lợi ích, dã tâm của riêng mình; không bao giờ xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và thậm chí bán rẻ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, đem lợi ích của nhà Đức Chúa Trời đổi lấy vinh quang cá nhân
I. Lợi ích của Đức Chúa Trời là gì và lợi ích của con người là gì
Lần này chúng ta sẽ thông công điều thứ 9 trong các biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ – đó là thực hiện bổn phận của mình chỉ để làm bản thân nổi bật và thỏa mãn những lợi ích, dã tâm của riêng mình; không bao giờ xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và thậm chí bán rẻ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, đem lợi ích của nhà Đức Chúa Trời đổi lấy vinh quang cá nhân. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường nhấn mạnh những lợi ích của Đức Chúa Trời và nhà Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, một số người thường có xu hướng không xem xét lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, mà làm việc gì cũng xoay quanh lợi ích của mình và đặc biệt ích kỷ. Hơn nữa, trong khi xử lý các sự vụ, họ thường bảo vệ lợi ích của riêng mình mà làm tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thậm chí sẽ vòng vo đưa ra những yêu cầu với nhà Đức Chúa Trời để thỏa mãn những dục vọng cá nhân. Từ khóa ở đây là gì? Cái gì được chủ yếu nói đến ở đây? (Thưa, lợi ích.) “Lợi ích” nghĩa là gì? Nó bao gồm những gì? Đối với con người, lợi ích của con người là gì? Lợi ích của con người bao gồm những gì? Địa vị, danh tiếng và những thứ liên quan đến lợi ích vật chất. Chẳng hạn, khi một người mê hoặc người khác khiến người khác ngưỡng mộ và tôn sùng họ, thì họ đang mưu cầu lợi ích về mặt tinh thần; cũng có những lợi ích vật chất, chẳng hạn như những điều mà con người mưu cầu bằng cách lợi dụng người khác, thu lợi cho bản thân, hoặc coi đồ vật của nhà Đức Chúa Trời như đồ của mình. Những kẻ địch lại Đấng Christ luôn chỉ tìm kiếm lợi ích mà thôi. Bất kể họ đang mưu cầu lợi ích tinh thần hay vật chất, những kẻ địch lại Đấng Christ đều tham lam vô độ, và họ sẽ cố giành lấy tất cả những điều này cho riêng mình. Những vấn đề liên quan đến lợi ích của một người tiết lộ về họ nhiều nhất. Lợi ích có mối liên hệ mật thiết với cuộc sống của mỗi người, và mọi thứ mà một người tiếp xúc mỗi một ngày đều liên quan đến lợi ích của họ. Ví dụ, khi ngươi nói điều gì đó hoặc bàn luận về một sự việc, thì những lợi ích nào có liên quan? Khi hai người bàn luận về một sự việc, vấn đề là phải xem ai có thể nói hùng hồn và ai không thể, cũng như người nào được ngưỡng mộ và người nào bị coi thường, còn phải xem những cách nói khác nhau sẽ dẫn đến những hậu quả khác nhau như thế nào. Như vậy có phải là sẽ liên quan đến lợi ích không? Vậy khi gặp phải chuyện như thế này, con người sẽ làm như thế nào? Con người sẽ tích cực biểu hiện, vắt óc suy nghĩ xem phải sắp xếp câu chữ như thế nào để có thể nói một cách rõ ràng, để ngôn ngữ mình diễn đạt ra được đẹp đẽ hơn, dễ lọt tai người nghe. Hơn nữa, họ còn phải chú ý đến việc trình bày có lớp lang, để lại ấn tượng sâu sắc hơn cho người nghe. Dùng phương thức này, dùng tài ăn nói, đầu óc và cả tri thức của bản thân để chiếm lấy thiện cảm và ấn tượng sâu sắc của người khác đối với họ, đây là một loại lợi ích. Việc con người mưu cầu lợi ích còn liên quan đến những khía cạnh nào? Lúc làm việc, trong đầu con người không ngừng đánh giá, tính toán, cân nhắc, vắt óc suy nghĩ làm thế nào thì có lợi hoặc không có lợi cho bản thân, làm thế nào thì có thể đạt được lợi ích lớn hơn nữa, làm thế nào để ít nhất không mất đi lợi ích, làm thế nào mới có thể khiến mình đạt được vinh dự lớn nhất và đãi ngộ vật chất tốt nhất, có thể khiến mình trở thành người được lợi lớn nhất. Đây là hai phương diện lợi ích mà con người phải tranh giành khi gặp một chuyện gì đó. Con người mưu cầu lợi ích thì không có gì khác ngoài việc chú trọng hai phương diện này: Một mặt, đạt được lợi ích vật chất, ít nhất là không chịu thiệt, còn chiếm được lợi; ngoài ra, về mặt tinh thần, khiến người ta coi trọng, thán phục và chiếm được lòng người. Có lúc để đạt được quyền lực, địa vị, họ còn có thể vứt bỏ lợi ích vật chất, tức là chịu chút thiệt thòi nhỏ, sau đó chiếm được cái lợi lớn hơn nữa. Tóm lại, những thứ liên quan đến danh vọng, địa vị, vinh dự và cả vật chất của con người thì đều thuộc về phạm trù lợi ích của con người, đều là lợi ích mà con người mưu cầu.
Tính chất của việc con người mưu cầu những lợi ích này rốt cuộc là gì? Tại sao con người phải mưu cầu những thứ này? Mưu cầu những thứ này có chính đáng không? Có hợp lý không? Có phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người không? Đây có phải là yêu cầu và tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời đối với một loài thọ tạo không? Trong lời Đức Chúa Trời có đề cập đến: “Các ngươi nên mưu cầu lợi ích của bản thân và khiến lợi ích đó đạt đến mức tối đa, không cần vì tin Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận mà vứt bỏ lợi ích của bản thân. Các ngươi nên yêu quý địa vị, danh vọng và quyền lực trong tay mình, bảo vệ những thứ này bằng mọi giá. Nếu Đức Chúa Trời ban cho ngươi một địa vị, ngươi nên yêu quý nó và biến nó thành sự vinh hiển thay vì nỗi nhục của mình, đây là sự ủy thác của Đức Chúa Trời dành cho ngươi” hay không? Đức Chúa Trời có phán như vậy không? (Thưa, không.) Nếu như những điều này không có trong lời Đức Chúa Trời, vậy trong lòng Ngài yêu cầu như thế nào đối với loài thọ tạo? Đức Chúa Trời yêu cầu con người nhìn nhận lợi ích như thế nào? Một mặt, Ngài muốn con người từ bỏ lợi ích, đó là nói một cách chung chung. Mặt khác, Đức Chúa Trời còn ban cho con người con đường thực hành thích hợp ở nhiều khía cạnh hơn nữa, cho con người biết phải xử sự thế nào thì mới đi theo được con đường mà họ nên đi, cách thực hành nào mới là việc mà một loài thọ tạo nên làm, họ nên có thái độ, quan điểm như thế nào đối với vật chất và danh lợi, và cách họ nên lựa chọn. Không cần nói cũng biết, mặc dù trong lời Đức Chúa Trời không trực tiếp nói cho con người biết nên nhìn nhận lợi ích như thế nào, nhưng trong từng câu chữ của lời Đức Chúa Trời cũng biểu đạt được quan điểm của Ngài đối với lợi ích của nhân loại bại hoại rốt cuộc là gì. Và Ngài phán rất rõ ràng, để con người buông bỏ quan điểm của bản thân, làm việc theo nguyên tắc lẽ thật, hành xử như một loài thọ tạo, giữ vững cương vị của mình. Trong lòng Đức Chúa Trời, Ngài khiến con người làm như vậy là cố ý lấy đi lợi ích của con người hay sao? Chắc chắn là không phải. Có vài người nói: “Trong hội thánh, mọi người luôn nói đến lợi ích của nhà đức chúa trời, lợi ích của hội thánh, sao không có ai nói đến lợi ích của con người chúng ta? Lợi ích của con người chúng ta thì ai cho? Chúng ta cũng phải có chút nhân quyền chứ? Cũng phải cho chúng ta chút lợi ích chứ, sao không để lại cho chúng ta một chút? Sao lại toàn là của đức chúa trời? Có phải ngài cũng ích kỷ hay không?”. Nói lời này là quá phản nghịch, là đại nghịch bất đạo. Lời này sai trái rành rành, người có nhân tính chắc chắn không thể nói như vậy, chỉ có ma quỷ thì lời phản nghịch nào cũng dám nói. Còn có người nói: “Đức chúa trời không cho con người suy nghĩ về lợi ích cá nhân, ngài luôn nói rằng không nên mưu tính vì bản thân. Con người muốn nên người xuất chúng bằng cách làm chút chuyện gì đó để có chút thành tựu và khiến người khác sùng bái mình, thì đức chúa trời nói đó là dã tâm. Con người muốn tranh giành chút lợi ích cho mình, ăn chút đồ ngon, sống những ngày vui vẻ, tham hưởng sự an nhàn xác thịt, sống một cách vẻ vang giữa mọi người, thì đức chúa trời bảo rằng như vậy là con người đang thỏa mãn lợi ích của mình, và họ phải buông bỏ việc này. Nếu cái gì cũng buông bỏ, vậy chúng ta làm sao để có thể sống cho tốt hơn đây?”. Con người không hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, luôn có sự chống đối với yêu cầu của Ngài và luôn nảy sinh tranh chấp với Ngài trong những chuyện này. Giống như có cha mẹ vì nuôi dạy con cái mà làm lụng vất vả nửa đời người, mệt đến mức sinh bệnh. Cha mẹ lo lắng rằng sức khỏe suy sụp thì con cái sẽ không còn chỗ dựa, cho nên họ đã mua chút thực phẩm chức năng để dùng, con cái lại không hiểu chuyện, nhìn thấy liền nói: “Đã nhiều năm con không mua quần áo mới, sao cha còn mua thực phẩm chức năng? Cha nên để dành tiền cho con học đại học”. Có phải lời này sẽ khiến cha mẹ đau lòng hay không? Cha mẹ làm tất cả những việc này không phải vì lợi ích của mình, không phải tham hưởng an nhàn xác thịt, muốn mình sống thoải mái hơn một chút, lâu hơn một chút, về sau hưởng phúc của con cái. Họ làm thế đều không phải vì những điều này, vậy thì vì điều gì? Họ vì con cái. Con cái đã không hiểu lại còn trách cứ cha mẹ, có phải đây là đại nghịch bất đạo hay không? (Thưa, phải.) Con cái không hiểu tấm lòng của cha mẹ, vì vậy chúng có thể nảy sinh xung đột với cha mẹ, thậm chí nảy sinh tranh chấp, khiến cha mẹ đau lòng. Vậy các ngươi có hiểu tấm lòng của Đức Chúa Trời hay không? Chuyện này liên quan đến việc hiểu lẽ thật. Tại sao cách con người thỏa mãn lợi ích và dã tâm của mình lại bị Đức Chúa Trời định tội? Chẳng lẽ là do Ngài ích kỷ? Chẳng lẽ Đức Chúa Trời không muốn con người mưu cầu lợi ích cá nhân là để khiến họ trở nên bần cùng, đáng thương? (Thưa, không phải.) Chắc chắn là không phải. Đức Chúa Trời hy vọng con người được tốt đẹp, Ngài đến làm công tác cứu rỗi con người chính là ban phúc cho nhân loại, là để đưa con người vào đích đến tốt đẹp. Mọi việc Đức Chúa Trời làm đều là để con người đạt được lẽ thật, đạt được sự sống, dễ có tư cách được Đức Chúa Trời hứa hẹn và chúc phúc. Nhưng con người đã bị Sa-tan làm bại hoại sâu sắc, ai cũng có tâm tính bại hoại và phải chịu nhiều đau khổ thì mới có thể đạt được lẽ thật và sự sống. Nếu như con người đều mưu cầu lợi ích cá nhân, đều muốn sống những ngày vui vẻ, thỏa mãn dục vọng xa xỉ của xác thịt, nhưng lại không bỏ công sức vào việc mưu cầu lẽ thật, vậy hậu quả là gì? Họ sẽ không có cách nào đạt được lẽ thật, không có cách nào được làm tinh sạch và đạt đến sự cứu rỗi. Hậu quả của việc không đạt đến sự cứu rỗi là gì? Là tất cả đều phải chết trong thảm họa. Vậy bây giờ là lúc để tham hưởng sự hưởng thụ xác thịt sao? Không phải, ai không đạt được lẽ thật thì đều phải chết. Cho nên, khi Đức Chúa Trời yêu cầu con người từ bỏ lợi ích xác thịt để mưu cầu lẽ thật, đó là Ngài nghĩ cho con người, nghĩ cho sự sống của con người, nghĩ cho sự cứu rỗi của con người. Một khi con người đạt được lẽ thật và được cứu rỗi thì lời hứa và phúc lành của Đức Chúa Trời sẽ đến bất cứ lúc nào. Phúc phần mà Đức Chúa Trời ban cho con người thì lớn hơn mấy trăm lần, mấy ngàn lần so với sự hưởng thụ xác thịt mà con người tưởng tượng, sao họ lại không nhìn thấy chứ? Có phải họ mù hết rồi không? Vậy tại sao Đức Chúa Trời luôn bảo con người buông bỏ lợi ích của mình, bảo vệ lợi ích của Đức Chúa Trời, lợi ích của nhà Đức Chúa Trời? Ai có thể giải thích chuyện này? (Thưa, Đức Chúa Trời bảo con người từ bỏ lợi ích cá nhân là vì con người đã bị Sa-tan làm bại hoại, lợi ích của con người không phù hợp với lẽ thật. Đức Chúa Trời bảo con người bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời là đang dạy con người cách làm người. Cũng là vì những công tác mà Đức Chúa Trời làm là để cứu rỗi con người, nếu như con người không biết bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời thì họ không xứng đáng được gọi là người.) Lời này có chút gì đó thực tế. (Thưa, con muốn bổ sung một chút. Con rất coi trọng danh lợi và địa vị, cảm thấy mình có chút ân tứ, nên được đề bạt làm người phụ trách, nhưng mỗi lần bầu cử đều không trúng cử. Thế là trong lòng con oán trách Đức Chúa Trời, vì sao chút nguyện vọng nhỏ nhoi này Đức Chúa Trời cũng không thỏa mãn cho con? Sau khi trải nghiệm vài lần thất bại, con lại đọc lời Đức Chúa Trời để phản tỉnh, thấy được mình nhiều khi vì mưu cầu danh lợi, địa vị mà ghen ghét, tranh chấp, không phối hợp hài hòa với anh chị em. Không những bản thân không tiến bộ về sự sống, mà con còn gây ra một vài tổn thất cho công tác của nhà Đức Chúa Trời. Con nhận thức được rằng việc mưu cầu danh lợi và mưu cầu lợi ích cá nhân không phải là nhân sinh quan và mục tiêu mưu cầu đúng đắn, mà là quan điểm sai lầm do Sa-tan tiêm nhiễm để mê hoặc con người, mưu cầu như vậy là rất nguy hiểm. Việc Đức Chúa Trời không để cho con người mưu cầu danh lợi, địa vị không phải là cố ý gây khó dễ cho họ, cũng không phải cố ý muốn làm khó họ, mà lý do là vì con đường này rất nguy hiểm. Mưu cầu như vậy thì đến cuối cùng cũng không thu hoạch được gì.) Người này nói “không thu hoạch được gì” “rất nguy hiểm”, vậy các ngươi nói xem “nguy hiểm” là chỉ điều gì? Thật sự chỉ là không thu hoạch được gì, chỉ vậy thôi sao? Đây là con đường gì? (Thưa, con đường diệt vong.) Sự mưu cầu này là con đường chống lại Đức Chúa Trời, không phải là mưu cầu lẽ thật, mà là mưu cầu địa vị và danh vọng, đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ. Bất luận ngươi cảm thấy nguyện vọng, chí hướng của mình có chính đáng đến đâu, thì điều mà Đức Chúa Trời muốn không phải là vậy, không phải là sự mưu cầu như vậy. Ngài không bảo con người mưu cầu như vậy, nếu ngươi vẫn khư khư cố chấp, vậy kết quả cuối cùng của ngươi sẽ không chỉ là không thu hoạch được gì, mà là bước vào con đường chống đối Đức Chúa Trời. Nguy hiểm nằm ở chỗ nào? Ngươi sẽ chống đối Đức Chúa Trời, kêu gào, đối kháng với Ngài, đứng ở phía đối lập với Ngài, và kết quả chính là sự diệt vong. Các ngươi còn bổ sung gì nữa không? (Thưa Đức Chúa Trời, con muốn bổ sung một chút. Vừa rồi Ngài hỏi, tại sao Ngài không để con người bảo vệ lợi ích của bản thân mà lại bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời? Điều con lĩnh hội được là, vốn dĩ Đức Chúa Trời sáng tạo mọi sự, mọi sự đều bắt nguồn từ Đức Chúa Trời, mọi sự Ngài tạo ra đều là vì con người. Bất kể Đức Chúa Trời làm gì, bao gồm việc Ngài đã hai lần nhập thể để làm tất cả những công tác này, bao gồm tất cả công tác xây dựng hội thánh hiện tại, thực ra đều là vì cứu rỗi con người. Con người tin Đức Chúa Trời, đã sống đời sống hội thánh, có thể làm tròn bổn phận của mình thì sẽ có con đường được cứu rỗi. Vì vậy, Đức Chúa Trời muốn chúng con buông bỏ lợi ích cá nhân không phải là tước đoạt. Bảo vệ lợi ích của Đức Chúa Trời và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, cuối cùng người được hưởng lợi vẫn là con người.) Rất tốt. Ý nghĩa đại khái của điều mà các ngươi thông công về cơ bản là đúng. Có người nói về chút thể nghiệm và lĩnh hội ít ỏi của mình, có người nói một chút từ góc độ lý luận. Về cơ bản, những gì mà con người lý giải được đều hơi thiên về ý này, rằng lợi ích của Đức Chúa Trời là chính đáng, còn lợi ích của con người là không chính đáng, rằng lợi ích của Đức Chúa Trời mới gọi là lợi ích, còn lợi ích của con người thì không nên tồn tại. Nhất là, con người không nên hưởng thụ cụm từ, cách nói và sự thật về “lợi ích của con người”, còn lợi ích của Đức Chúa Trời là tối thượng, nên được bảo vệ. Về cơ bản, đây là những thứ mà con người lý giải được. Nghĩa là con người nên có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của Đức Chúa Trời, cũng nên nhìn nhận một cách đúng đắn về lợi ích của Ngài. Lợi ích của con người thì nên bị coi thường, bị tước đoạt, bởi vì đây không phải là thứ vẻ vang gì. Nhìn từ góc độ của con người, bởi vì từ gốc rễ, con người đã có tâm tính bại hoại, và bên trong họ đã bị uế tạp bởi tâm tính bại hoại, nên mọi lợi ích của con người, bất luận là từ góc độ nào đi chăng nữa, bất luận là hữu hình hay là vô hình, đều bị quy vào phạm trù không chính đáng. Cho nên bất kể con người có buông bỏ hay không, về mặt chủ quan, con người đã nhận thức được rằng nên buông bỏ lợi ích của mình, nên tranh đấu và bảo vệ lợi ích của Đức Chúa Trời. Đây là điểm đã được nhất trí. Nếu đã đạt được sự nhất trí, vậy chúng ta sẽ thông công một chút xem rốt cuộc lợi ích của Đức Chúa Trời là gì.
Rốt cuộc lợi ích của Đức Chúa Trời là gì? Lợi ích của Đức Chúa Trời, của nhà Đức Chúa Trời, của hội thánh, những điều này có thể nói là ngang bằng nhau hay không? “Đức Chúa Trời” có thể nói là một cách xưng hô, cũng là một đại từ chỉ thực chất của Đức Chúa Trời. Thế còn “nhà Đức Chúa Trời” và “hội thánh”? Phạm trù của nhà Đức Chúa Trời tương đối lớn, hội thánh thì cụ thể hơn một chút. Lợi ích của Đức Chúa Trời, của nhà Đức Chúa Trời, của hội thánh, có thể ngang bằng nhau hay không? (Thưa, không thể.) Có vài người nói không thể, vậy rốt cuộc là có thể hay không? Sắc lệnh quản trị của nhà Đức Chúa Trời, của hội thánh, và sắc lệnh quản trị do Đức Chúa Trời ban hành, có phải là cùng một điều hay không? (Thưa, phải.) Là cùng một điều. Nếu từ góc độ này mà nói, lợi ích của cả ba đối tượng này có thể ngang bằng nhau. Có Đức Chúa Trời, có dân được Đức Chúa Trời chọn, mới tạo ra nhà Đức Chúa Trời, có những người này trong nhà Đức Chúa Trời mới tạo ra hội thánh. Hội thánh là “đơn vị trực thuộc” cụ thể hơn của nhà Đức Chúa Trời, nhà Đức Chúa Trời thì rộng hơn một chút, hội thánh thì cụ thể hơn một chút. Vậy lợi ích của Đức Chúa Trời, của nhà Đức Chúa Trời, của hội thánh có ngang bằng nhau hay không? Các ngươi nói xem, có nên ngang bằng hay không? Các ngươi không biết sao? Vậy trước hết hãy thử cho chúng bằng nhau để có thể phân tích một chút. Ví dụ như, vinh quang của Đức Chúa Trời là lợi ích của Đức Chúa Trời, nếu nói thành vinh quang của nhà Đức Chúa Trời thì có được không? (Thưa, không được.) Nói như thế là không được. Nhà Đức Chúa Trời là một danh xưng không đại diện cho thực chất của Đức Chúa Trời. Nếu như nói vinh quang của Ngài chính là vinh quang của hội thánh, thì có được không? (Thưa, không được.) Rõ ràng là không được. Nói đến vinh quang của hội thánh thì đó chính là vinh quang của tất cả anh chị em. Chứ nói nó ngang bằng với vinh quang của Đức Chúa Trời thì không được, con người gánh không nổi vinh quang này, nhà Đức Chúa Trời hay hội thánh cũng gánh không nổi. Từ góc độ này mà nói, lợi ích của Đức Chúa Trời, của nhà Đức Chúa Trời và lợi ích của hội thánh có thể ngang bằng nhau hay không? (Thưa, không thể.) Không thể. Vậy từ một góc độ khác mà nói, một phần công tác của Đức Chúa Trời, một phần công tác của nhà Đức Chúa Trời và một phần công tác của hội thánh, ba phần này có thể ngang bằng nhau hay không? Ví dụ như, Đức Chúa Trời bảo con người rao truyền phúc âm, lan truyền lời Đức Chúa Trời, đây là tâm ý của Ngài, đồng thời cũng là sự ủy thác Đức Chúa Trời giao cho con người, khi sự ủy thác này được ban hành đến nhà Đức Chúa Trời, công tác này có thể ngang bằng với công tác mà Đức Chúa Trời muốn làm hay không? Sự ủy thác của Đức Chúa Trời cũng là một phần công tác của Ngài, và phần cụ thể này có thể ngang bằng với công tác mà Đức Chúa Trời muốn làm. Vậy khi sự uỷ thác này lại được ban hành đến hội thánh thì sao, nó có thể ngang bằng với công tác của Đức Chúa Trời hay không? (Thưa, có thể.) Có thể. Hai ví dụ này, một cái liên quan đến một phần thực chất của Đức Chúa Trời, nghĩa là Đức Chúa Trời, nhà Đức Chúa Trời, hội thánh không thể ngang bằng nhau. Ví dụ kia liên quan đến công tác của Đức Chúa Trời, sự uỷ thác của Ngài, cụ thể hơn là yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với mỗi người, điều này thì có thể ngang bằng. Nếu liên quan đến vinh quang, thân phận, thực chất và lời chứng của Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời, nhà Đức Chúa Trời và hội thánh có thể ngang bằng nhau hay không? (Thưa, không thể.) Nhà Đức Chúa Trời và hội thánh không thể có lời chứng và vinh quang này, không thể ngang bằng với Đức Chúa Trời. Nhưng nếu liên quan đến một hạng mục công tác cụ thể, một sự ủy thác nào đó, thì ba đối tượng này có thể ngang bằng. Trước đây chúng ta đã thông công về lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và lợi ích của hội thánh, đã nói nhiều về phương diện này, vậy hôm nay chúng ta sẽ chú trọng thông công xem lợi ích của Đức Chúa Trời rốt cuộc là gì, rốt cuộc có những điều gì mà con người chưa biết và cho tới bây giờ chưa từng nghĩ tới, cùng những thứ thuộc về lợi ích của Đức Chúa Trời có quan hệ mật thiết với Ngài. Bất luận là danh từ, câu nói, hay là thứ gì đó liên quan đến thực chất và thân phận của Đức Chúa Trời, vậy cái nào là lợi ích của Đức Chúa Trời? (Thưa, vinh quang của Đức Chúa Trời.) Chắc chắn là vinh quang của Đức Chúa Trời, lời chứng mà Ngài đạt được từ con người. Còn gì nữa? Công tác của Đức Chúa Trời, kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời, danh của Đức Chúa Trời, lời chứng, thân phận và địa vị của Ngài, tất cả những điều này. Đối với Đức Chúa Trời mà nói, điều quý giá nhất mà Ngài cần bảo vệ là gì? Là danh của Ngài, sự vinh quang, lời chứng, hay là thân phận, địa vị của Ngài? Rốt cuộc là gì? Kế hoạch quản lý để cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời là điều quý giá nhất mà Ngài muốn bảo vệ. Kế hoạch quản lý sáu ngàn năm của Đức Chúa Trời chính là toàn bộ công tác mà Đức Chúa Trời phải làm trong khoảng thời gian sáu ngàn năm này, đối với Ngài mà nói đây là điều quan trọng nhất. Có thể nói, đây là lợi ích của Đức Chúa Trời mà nhân loại thọ tạo có thể nhìn thấy được. Lợi ích của Đức Chúa Trời mà con người đại khái có thể lý giải được và nên lý giải được, về cơ bản có thể dừng lại ở đây. Tiếp theo, chúng ta sẽ nói về lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Trong lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, ngoài việc bảo vệ danh của Đức Chúa Trời, vinh quang của Đức Chúa Trời, lời chứng của Đức Chúa Trời và sự ủy thác mà Đức Chúa Trời giao cho nhân loại, thì con người nên bảo vệ điều gì? (Thưa, kế hoạch quản lý của Ngài.) Đúng vậy, sự uỷ thác lớn nhất của Đức Chúa Trời giao cho nhân loại chính là lợi ích lớn nhất của nhà Đức Chúa Trời, vậy lợi ích này là gì? Đó là kế hoạch quản lý sáu ngàn năm của Đức Chúa Trời được thực hiện giữa nhân loại, và chuyện này tất nhiên sẽ bao gồm đủ mọi phương diện. Vậy nó bao gồm những gì? Bao gồm cả việc xây dựng và hình thành hội thánh, việc sản sinh ra những lãnh đạo và người làm công các cấp trong hội thánh, để có thể làm cho các hạng mục công tác của hội thánh và công tác mở rộng phúc âm của Đức Chúa Trời được thông suốt, không bị cản trở, điều này liên quan đến lợi ích của hội thánh. Đây là điều quan trọng nhất trong những lợi ích của Đức Chúa Trời, của nhà Đức Chúa Trời và của hội thánh mà chúng ta thường nói. Công tác của Đức Chúa Trời được mở rộng, kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời được thông suốt, tâm ý và ý chỉ của Đức Chúa Trời được thông suốt giữa mọi người, lời Đức Chúa Trời có thể được mở rộng, truyền bá và phổ biến rộng rãi hơn giữa con người, để càng có nhiều người đến trước mặt Đức Chúa Trời hơn, đó là tôn chỉ và cốt lõi của mọi công tác mà Đức Chúa Trời làm. Vì vậy, chỉ cần liên quan đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và lợi ích của hội thánh thì chắc chắn liên quan đến ý chỉ của Đức Chúa Trời và kế hoạch quản lý của Ngài. Nói cụ thể thì chính là liên quan đến việc công tác của Đức Chúa Trời ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn có đạt được thông suốt, được mở rộng hay không, có được triển khai và tiến hành thuận lợi giữa nhân loại hay không. Nếu tất cả những điều này tiến triển bình thường, thì lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và của hội thánh được đảm bảo, vinh quang và lời chứng của Đức Chúa Trời được đảm bảo. Nếu công tác của Đức Chúa Trời trong nhà Đức Chúa Trời và trong hội thánh bị cản trở, không được thông suốt, suôn sẻ, nếu tâm ý của Ngài và công tác mà Ngài muốn làm bị cản trở, thì lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và của hội thánh chắc chắn bị tổn hại rất lớn – những chuyện này đều có liên đới. Nói cách khác, khi lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và của hội thánh bị tổn hại cực lớn hoặc bị cản trở, thì kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời chắc chắn bị cản trở rất nhiều, và lợi ích của Đức Chúa Trời cũng bị tổn hại rất nhiều.
Chúng ta đã thông công xong về chuyện lợi ích của Đức Chúa Trời là gì, tiếp theo chúng ta sẽ nói xem cái gì là lợi ích của con người. Khi nãy chúng ta vừa nói một chút về lợi ích của con người, từ định nghĩa về lợi ích của con người, bây giờ chúng ta sẽ nói một chút xem tính chất của nó là gì, rồi mới xác định tính chất cho nó. Tại sao Đức Chúa Trời bảo con người buông bỏ lợi ích của họ, chẳng lẽ con người không có quyền lợi này sao? Chẳng lẽ Đức Chúa Trời không ban cho con người quyền lợi này? Chẳng lẽ con người không xứng đáng để có những quyền lợi này? Chuyện có phải như vậy hay không? Thông qua mấy hạng mục lợi ích của con người mà chúng ta vừa nói đến, thì con người mưu cầu lợi ích là vì cái gì? (Thưa, vì bản thân.) Vì bản thân là cách nói chung chung thôi, bản thân là ai? (Thưa, là Sa-tan.) Nếu con người hiểu lẽ thật và có thể sống dựa vào lẽ thật thì con người sẽ đạt đến sự thay đổi trong tâm tính và được cứu rỗi. Còn khi con người chỉ mưu cầu điều mình muốn, thì sự mưu cầu này có tương hợp với Đức Chúa Trời không? Nhưng khi con người chưa trải qua sự thay đổi, chưa được cứu rỗi, thì thứ mà con người mưu cầu không gì khác ngoài danh lợi, đủ mọi khía cạnh đều liên quan đến xác thịt, hoàn toàn đối địch và chống lại lẽ thật, hoàn toàn đi ngược lại lẽ thật, vô cùng tương phản với lẽ thật. Nếu một người nào đó nói họ yêu thích lẽ thật và mưu cầu lẽ thật, nhưng mục tiêu mưu cầu của họ thực chất là để làm bản thân nổi bật, để hiển lộ bản thân hòng khiến cho người khác coi trọng và để đạt được lợi ích cá nhân, thì họ thực hiện bổn phận không phải vì vâng phục và làm hài lòng Đức Chúa Trời, mà là vì danh lợi và địa vị, vậy sự mưu cầu này là không chính đáng. Như vậy, những gì họ đang làm gây cản trở hay có tác dụng thúc đẩy đối với công tác của hội thánh? Rõ ràng là cản trở, không phải tác dụng thúc đẩy. Có một số người lấy danh nghĩa làm công tác hội thánh để mưu cầu danh lợi và địa vị cá nhân, làm việc kinh doanh cá nhân, tạo ra đoàn thể nhỏ hay tiểu vương quốc của mình, người như vậy mà đang thực hiện bổn phận sao? Công tác mà họ đang làm về thực chất là gây gián đoạn, quấy nhiễu và phá hoại công tác của hội thánh. Việc họ mưu cầu danh lợi và địa vị gây ra hậu quả gì? Đầu tiên là ảnh hưởng đến việc ăn uống lời Đức Chúa Trời một cách bình thường và việc hiểu lẽ thật của dân được Đức Chúa Trời chọn, gây trì hoãn lối vào sự sống của họ, cản trở họ bước vào quỹ đạo đúng trong việc tin Đức Chúa Trời, đưa họ đi vào con đường sai lầm, như thế chính là hãm hại và hủy hoại dân được Đức Chúa Trời chọn. Vậy cuối cùng việc này gây ra điều gì cho công tác của hội thánh? Là quấy nhiễu, phá hoại và phá hủy. Đây chính là hậu quả mà người mưu cầu danh lợi và địa vị gây ra. Họ thực hiện bổn phận như vậy thì có thể định nghĩa là họ đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ không? Đức Chúa Trời bảo con người buông bỏ danh lợi và địa vị, đây không phải là không cho con người quyền tự do lựa chọn, mà là bởi vì trong khi con người đang mưu cầu danh lợi và địa vị thì họ cũng đang làm gián đoạn, nhiễu loạn công tác của hội thánh và lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn, thậm chí có thể ảnh hưởng đến việc ăn uống lời Đức Chúa Trời, hiểu lẽ thật và đạt đến được Đức Chúa Trời cứu rỗi của nhiều người hơn nữa, đây là sự thật không thể phủ nhận. Khi con người mưu cầu danh lợi và địa vị, họ tuyệt đối sẽ không mưu cầu lẽ thật, tuyệt đối sẽ không trung thành làm tốt bổn phận, mà chỉ có thể nói năng và làm việc vì danh lợi và địa vị, mọi công tác mà họ làm cũng không ngoại lệ, cũng là vì danh lợi và địa vị. Loại hành vi và cách làm này chắc chắn là đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, tức là làm gián đoạn và nhiễu loạn công tác của Đức Chúa Trời, tạo thành đủ loại hậu quả cản trở sự mở rộng phúc âm của vương quốc, cản trở ý chỉ của Đức Chúa Trời được tiến hành thông suốt trong hội thánh. Cho nên có thể xác định rằng con đường mà người mưu cầu danh lợi và địa vị đi chính là con đường chống lại Đức Chúa Trời, chính là cố ý chống đối Đức Chúa Trời, nói ngược lại với Đức Chúa Trời, là phối hợp với Sa-tan mà chống đối và đối lập với Đức Chúa Trời. Đây chính là tính chất trong việc mưu cầu danh lợi và địa vị của con người. Việc con người mưu cầu lợi ích của mình sai ở chỗ mục tiêu mưu cầu là thuộc về Sa-tan, là tà ác, là không chính nghĩa. Khi con người mưu cầu lợi ích cá nhân như danh lợi và địa vị, họ vô thức trở thành công cụ của Sa-tan, trở thành phát ngôn cho Sa-tan, càng trở thành hiện thân của Sa-tan. Họ đóng một vai phản diện trong hội thánh. Công dụng của họ là làm nhiễu loạn và phá hoại công tác của hội thánh, đời sống hội thánh bình thường cũng như sự mưu cầu bình thường của dân được Đức Chúa Trời chọn; họ có một tác động phản diện và tiêu cực. Khi ai đó mưu cầu lẽ thật, họ có thể quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, và lưu tâm đến gánh trọng trách của Đức Chúa Trời. Khi thực hiện bổn phận của mình, họ giữ vững công việc của hội thánh về mọi mặt. Họ có thể tôn cao Đức Chúa Trời và chứng thực cho Đức Chúa Trời, họ đem lại lợi ích cho các anh chị em, và hỗ trợ, chu cấp cho các anh chị em, giúp cho Đức Chúa Trời đạt được sự vinh hiển và chứng ngôn. Việc này đã làm cho Sa-tan nhục nhã. Nhờ vào sự mưu cầu của họ, Đức Chúa Trời có được một loài thọ tạo thực sự có khả năng kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, có thể thờ phượng Đức Chúa Trời. Cũng nhờ vào sự mưu cầu của họ, ý chỉ của Đức Chúa Trời được thực hiện, và công tác của Đức Chúa Trời có thể tiến triển. Trong mắt Đức Chúa Trời, việc mưu cầu như vậy là tích cực, là quang minh. Sự mưu cầu như vậy có lợi ích cực lớn cho những người được Đức Chúa Trời chọn, cũng như hoàn toàn có lợi cho công tác của hội thánh, có tác dụng thúc đẩy mọi việc. Đây là điều được Đức Chúa Trời khen ngợi.
Tiếp theo, chúng ta sẽ thông công về lợi ích của Đức Chúa Trời, lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và lợi ích của hội thánh. Giờ chưa nói về việc giữa ba lợi ích này có thể có điều gì chung hay không, nghĩa là khi nói đến một loại lợi ích, thì liệu nó có thể ngang bằng với hai loại còn lại không. Hãy nói về lợi ích của Đức Chúa Trời trước. Vừa rồi chúng ta nói rằng lợi ích của Đức Chúa Trời bao gồm sự vinh quang, lời chứng, và danh của Đức Chúa Trời, quan trọng nhất là kế hoạch quản lý và sự mở rộng công tác của Ngài, đối với Đức Chúa Trời đây là điều lớn nhất và quan trọng nhất. Tạm thời chúng ta không đề cập đến vinh quang, danh và lời chứng của Đức Chúa Trời, những điều này khá xa xôi với con người. Trước hết hãy nói về công tác của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời rốt cuộc đang làm công tác gì? Nội dung công tác của Đức Chúa Trời là gì? Tính chất của những công tác mà Ngài làm này là gì? Công tác của Ngài đem lại điều gì cho nhân loại? Rốt cuộc chúng có ảnh hưởng gì đối với nhân loại? Trước tiên chúng ta sẽ nói về mấy điều này. Vậy công tác mà Đức Chúa Trời làm rốt cuộc là gì? (Thưa, là cứu rỗi nhân loại.) Chủ đề này không thể thay đổi, tôn chỉ của công tác cũng không thể thay đổi, đó là cứu rỗi nhân loại đã bị Sa-tan làm bại hoại sâu sắc dưới quyền thế của nó. Công tác này là để cứu rỗi một nhóm người bị Sa-tan làm bại hoại đến nỗi không còn hình dạng con người, một nhóm người tràn ngập tâm tính bại hoại của Sa-tan và tâm tính chống đối Đức Chúa Trời, khiến họ trở nên có hình dạng con người, khiến họ hiểu lẽ thật, hiểu được cái gì là chính nghĩa, cái gì là phi chính nghĩa, cái gì là điều tích cực, cái gì là điều tiêu cực, hiểu được con người nên sống như thế nào mới là sống thể hiện ra hình tượng của con người đích thực, nên đứng ở vị trí nào mới là vị trí được Đức Chúa Trời tiền định sẵn cho con người. Đây là những nội dung cơ bản trong công tác của Đức Chúa Trời, và các ngươi đều đã biết về mặt lý luận. Nếu thật sự hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời thì ngươi nên biết rằng Ngài phán xét con người rốt cuộc là để định tội, hủy diệt con người hay là để làm tinh sạch và hoàn thiện họ, nên biết Đức Chúa Trời phán xét và hành phạt con người là đẩy con người vào chỗ chết hay là cứu rỗi và đưa họ vào ánh sáng. Chúng ta đều có thể thấy, Đức Chúa Trời bày tỏ nhiều lẽ thật như vậy, vạch rõ các loại tình trạng bại hoại của con người, sửa chữa những lệch lạc và quan niệm của con người trong việc tin Đức Chúa Trời, dẫn dắt con người hiểu được lẽ thật và sống dựa vào lời Đức Chúa Trời, sống thể hiện ra hình tượng giống con người đích thực. Trong số dân được Đức Chúa Trời chọn, một số người đã đạt được vài kết quả như vậy. Đức Chúa Trời vạch rõ tâm tính kiêu ngạo của con người, ngăn cản họ làm siêu nhân, vĩ nhân, để họ có thể làm loài thọ tạo chân chính, làm người có lương tâm và lý trí. Đức Chúa Trời vạch rõ thực chất giả hình của người Pha-ri-si, cho con người thấy được bộ mặt giả hình của người Pha-ri-si, đưa con người vào thực tế lẽ thật của lời Đức Chúa Trời. Ngài vạch rõ sự vô lý của văn hóa truyền thống, sự trói buộc và hãm hại của nó đối với con người, để con người thoát khỏi sự trói buộc của văn hóa truyền thống, có thể tiếp nhận lẽ thật và dựa vào lời Đức Chúa Trời mà sống… Tất cả những điều này đều có thể quy kết thành một điều: Đức Chúa Trời làm công tác cứu rỗi con người là để đưa con người từ trào lưu của thế giới tà ác trở về nhà Đức Chúa Trời, sau đó hết lòng dạy dỗ, chu cấp lẽ thật và sự sống cho con người, khiến con người hiểu được, nhận biết được thế nào là nguyên tắc làm người chân chính và nên làm người như thế nào, từ đó thoát khỏi trào lưu tà ác của Sa-tan, thoát khỏi những tổn hại mà đủ loại triết lý và độc tố của Sa-tan gây ra cho họ. Từ đầu cho đến bây giờ, Đức Chúa Trời đã công tác ở đủ mọi khía cạnh, từ công tác ở Thời đại Luật pháp, rồi công tác ở Thời đại Ân điển, cho đến công tác phán xét mà Ngài đang làm ở thời kỳ sau rốt. Các ngươi đã biết rõ về ba bước công tác này, vậy thực chất của công tác kế hoạch quản lý sáu ngàn năm của Đức Chúa Trời rốt cuộc là gì? Nó được xác định tính chất như thế nào? (Thưa, đây là sự nghiệp chính nghĩa nhất giữa nhân loại.) Đúng vậy, công tác quản lý và cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời kéo dài đến sáu ngàn năm. Trong sáu ngàn năm này, Đức Chúa Trời không nề hà phiền toái mà nhẫn nại, chờ đợi, phán lời và dẫn dắt nhân loại cho tới bây giờ. Ngài không hề từ bỏ, công tác mà Đức Chúa Trời thực hiện ở giữa nhân loại là sự nghiệp chính nghĩa nhất. Xét về tính chất công tác mà Đức Chúa Trời làm, thì có phải lợi ích của Đức Chúa Trời là chính nghĩa nhất và chính đáng nhất không? (Thưa, phải.) Nếu lợi ích của Đức Chúa Trời được bảo đảm, nhân loại sẽ thế nào? Nhân loại có thể tiếp tục sống tốt, sống thể hiện ra hình tượng giống con người, sống trong quy luật của vạn vật do Đức Chúa Trời ấn định, hưởng thụ tất cả những gì Ngài ban cho nhân loại, và nhân loại sẽ trở thành chủ nhân đích thực của vạn vật. Các ngươi nên thấy được rằng, lợi ích lớn nhất trong công tác quản lý của Đức Chúa Trời cuối cùng là thuộc về con người, vậy có phải công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời là sự nghiệp chính nghĩa nhất giữa nhân loại hay không? Chuyện này là không thể phủ nhận, không thể nghi ngờ, đây là sự nghiệp chính nghĩa nhất. Cho nên, nếu một người vì lợi ích của mình mà không ngại làm tổn hại lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, không ngại cản trở sự mở rộng công tác của Đức Chúa Trời thì đây là loại người gì? Đây rõ ràng là ác đồ, là ma quỷ. Đối với nhân loại, Đức Chúa Trời chỉ chu cấp chứ không đòi hỏi. Trong khi Đức Chúa Trời làm công tác có lợi ích lớn nhất cho nhân loại, thực hiện sự nghiệp chính nghĩa nhất thì con người không những không cảm kích, không cảm tạ, cũng không biết báo đáp, ngược lại còn làm gián đoạn, nhiễu loạn và phá hoại công tác của Đức Chúa Trời, mưu cầu lợi ích cá nhân, người như vậy thì không có chút lương tâm và lý trí nào, còn xứng đáng được gọi là con người sao? Đây chính là ma quỷ và Sa-tan chính hiệu! Đức Chúa Trời làm như vậy mà còn không cảm động được con người, thì con người còn có trái tim không? Không có. Không có trái tim tức là không có lương tâm, người như vậy không có tri giác của lương tâm. Trong nhân tính mà thiếu lương tâm, thì đây không phải là con người, mà là súc vật, ma quỷ, Sa-tan, rõ ràng là như vậy. Vì muốn cho con người được cứu rỗi mà Đức Chúa Trời không tiếc trả bất cứ giá nào, không ngại phiền toái mà làm công tác, bất luận con người hiểu lầm hay nghi ngờ như thế nào, Ngài vẫn nhẫn nại, tiếp tục chu cấp cho con người, hết lần này đến lần khác nói về đủ mọi khía cạnh của lẽ thật, để cho con người hiểu từng chút một, khiến họ nghĩ lại và kiểm điểm, để họ có thể lý giải và hiểu được tấm lòng của Đức Chúa Trời. Khi người ta nghe thấy những lời này của Đức Chúa Trời, thì lúc ấy cũng cảm động mà rơi nước mắt, nhưng khi ngoảnh đầu quay đi thì chẳng những không quan tâm đến tâm ý của Ngài, mà còn mưu cầu lợi ích của mình như thường, mưu cầu được phúc như thường. Các ngươi nói xem, dạng người như vậy có phải là không có lương tâm và lý trí hay không? Người như vậy thiếu thứ gì nhất? Thứ họ thiếu nhất là lương tâm và lý trí, là nhân tính. Đức Chúa Trời vô cùng nhẫn nại và nhận hết đau khổ để đến công tác và cứu rỗi con người, vậy mà con người còn hiểu lầm Ngài, luôn đối chọi với Ngài, luôn bảo vệ lợi ích của mình mà không quan tâm đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Họ luôn muốn mình sống trong vẻ vang, nhưng lại không muốn cống hiến cho vinh quang của Đức Chúa Trời, làm như thế thì còn có chút nhân tính nào không? Mặc dù con người luôn miệng kêu là phải làm chứng cho Đức Chúa Trời, nhưng trong lòng lại nghĩ: “Đây là công tác tôi đã làm và đã đạt được kết quả, tôi cũng đã nỗ lực và trả giá, tại sao không làm chứng cho tôi?”. Con người luôn muốn được chia một phần vinh quang và lời chứng của Đức Chúa Trời, nhưng họ có xứng đáng không? Hai chữ “vinh quang” không thuộc về con người, chỉ có thể thuộc về Đức Chúa Trời, thuộc về Đấng Tạo Hóa, chứ không liên quan gì đến nhân loại thọ tạo. Cho dù con người đã ra sức, đã phối hợp, thì đó cũng là dưới sự dẫn dắt và công tác của Đức Thánh Linh, nếu không có Đức Thánh Linh làm việc, con người có thể làm gì chứ? Hai chữ “làm chứng” này cũng không thuộc về con người. Cho dù là động từ “làm chứng” hay danh từ “lời chứng” thì bản thân hai chữ này đều không liên quan gì đến nhân loại thọ tạo, chỉ có Đấng Tạo Hóa mới xứng đáng được con người làm chứng, xứng đáng có được lời chứng của con người. Chuyện này được quyết định bởi thân phận, địa vị và thực chất của Đức Chúa Trời, cũng bởi vì tất cả những gì Đức Chúa Trời làm đều là do Ngài đánh đổi, nên Ngài xứng đáng có được. Điều con người có thể làm được thì quá hữu hạn, và đều là kết quả từ việc được Đức Thánh Linh khai sáng, dẫn dắt và hướng dẫn. Với bản tính của con người, khi hiểu được một chút lẽ thật và có thể làm được chút công tác thì họ liền kiêu ngạo, nếu không có sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời đi kèm, thì không ai có thể đạt đến việc thuận phục và làm chứng cho Đức Chúa Trời. Nhờ sự tiền định của Đức Chúa Trời, con người có chút ân tứ hoặc sở trường, học được chút kỹ thuật nghiệp vụ, có chút khôn lanh, thế là họ xem mình là không ai sánh bằng, luôn muốn chia phần vinh quang và lời chứng của Đức Chúa Trời với Ngài, đây có phải là không có lý trí hay không? Họ thật không có lý trí, đứng sai chỗ, không coi mình là con người mà coi mình là loài khác, coi mình là siêu nhân. Con người không biết mình có thực chất và thân phận gì, nên đứng ở vị trí nào, tức là không tự mình biết mình. Sự khiêm nhường của con người không phải là do hạ mình, mà con người vốn dĩ hèn mọn và ti tiện, sự khiêm nhường của Đức Chúa Trời mới là do hạ mình. Nếu nói con người hèn mọn là còn đề cao họ, thực ra là ti tiện mới đúng. Con người luôn muốn tranh giành danh lợi và địa vị, tranh giành dân của Đức Chúa Trời với Ngài, như thế chính là đảm nhận vai trò Sa-tan, là bản tính của Sa-tan. Họ thật sự là hậu duệ của Sa-tan, không sai chút nào. Nếu như Đức Chúa Trời ban cho con người chút thẩm quyền và năng lực, con người cũng sẽ làm dấu kỳ và phép lạ, sẽ làm một số chuyện phi thường, cứ cho là họ làm đúng theo yêu cầu của Đức Chúa Trời và làm giống y hệt Ngài, nhưng con người có thể vượt qua Đức Chúa Trời không? Không bao giờ. Bản lĩnh của Sa-tan, của thiên sứ trưởng không hơn con người sao? Chúng luôn muốn vượt qua Đức Chúa Trời, nhưng kết quả cuối cùng là gì? Cuối cùng vẫn phải xuống vực sâu không đáy. Đức Chúa Trời vĩnh viễn là hiện thân của chính nghĩa, còn Sa-tan, ma quỷ và thiên sứ trưởng luôn là hiện thân của tà ác và đại diện cho lực lượng tà ác. Đức Chúa Trời mãi mãi chính nghĩa, sự thật này là điều không thể thay đổi. Đây là khía cạnh siêu phàm và phi thường của Đức Chúa Trời. Cho dù nhân loại nhận được toàn bộ lẽ thật của Đức Chúa Trời từ Ngài, thì họ cũng chỉ là một loài thọ tạo nhỏ bé, không thể vượt qua Đức Chúa Trời. Đó là sự khác biệt giữa con người và Đức Chúa Trời. Con người chỉ có thể sinh tồn một cách có trật tự trong mọi quy luật và quy tắc do Đức Chúa Trời đặt ra, cũng chỉ có thể quản lý mọi thứ mà Đức Chúa Trời tạo ra trong các quy luật và quy tắc này. Con người không thể sáng tạo bất kỳ sinh vật gì, cũng không thể thay đổi số phận của nhân loại, đây là sự thật. Sự thật này nói lên điều gì? Đó là dù Đức Chúa Trời ban cho nhân loại bao nhiêu thẩm quyền, tài cán, cuối cùng cũng không ai có thể vượt qua thẩm quyền của Đức Chúa Trời. Bất luận trải qua bao nhiêu năm, bao nhiêu đời, hay bất luận nhân loại có bao nhiêu người, thì nhân loại vĩnh viễn chỉ có thể sinh tồn dưới thẩm quyền và sự tể trị của Đức Chúa Trời. Đây là sự thật không bao giờ thay đổi, vĩnh viễn sẽ không thay đổi!
Nghe xong những điều này, các ngươi cảm thấy thế nào? Có người nói: “Trước kia trong ý thức của mình, con có nghĩ đến những chuyện này. Nhưng chẳng biết từ lúc nào, con cảm thấy bản lĩnh của mình dần dần lớn lên, tăng lên theo tuổi tác, tư tưởng cũng gần như trưởng thành, cũng có thể suy nghĩ rất chu toàn về rất nhiều vấn đề. Khi nghe nhiều lời Đức Chúa Trời hơn, con cũng có thể hiểu được một chút ý tứ của Ngài. Thế là con cảm thấy mình lớn mạnh, không cần Đức Chúa Trời tể trị nữa. Không biết từ lúc nào, con cảm thấy mình giỏi rồi, đạt được Đức Chúa Trời rồi”. Thứ cảm giác này có tốt hay không? (Thưa, không tốt.) Sao lại không tốt? Đó không phải là dấu hiệu tốt. Vậy dấu hiệu tốt là gì? Đó là khi con người càng sống càng cảm thấy, “Con người như bụi đất, không bằng con kiến. Bất luận con người lớn mạnh như thế nào, có tôn nghiêm như thế nào, hiểu được bao nhiêu đạo lý, tư tưởng trưởng thành cỡ nào, thì con người cũng không vượt qua được sự tể trị của Đức Chúa Trời”. Con người càng sống càng có thể cảm nhận được sự vĩ đại và toàn năng trong thẩm quyền của Đức Chúa Trời, càng sống càng cảm thấy con người nhỏ bé và Đức Chúa Trời là không thể dò lường. Tâm tình như vậy mới là bình thường. Các ngươi hiện tại có tình trạng như vậy hay không? Vẫn chưa, phải không? Các ngươi vẫn thường xuyên vật lộn, vẫn quanh quẩn bên bờ vực lợi ích, thậm chí có lúc còn phát ra một vài tín hiệu nho nhỏ, nói rằng: “Sao Đức Chúa Trời không chia sẻ một ít lợi ích của Ngài với con? Sao Ngài không khen ngợi con? Sao Ngài không để những người xung quanh coi trọng con một chút? Sao không để người ta làm chứng cho con? Con cũng đã trả giá, có công lao. Đức Chúa Trời sẽ ban thưởng cho con như thế nào đây?”. Các ngươi thường đắm chìm trong một loại tâm thái tự mãn, đắc chí, thường không biết mình là ai, thường cảm thấy bản thân đã ổn rồi. Tình trạng này là không bình thường, đây không phải là sự tiến bộ của sự sống. Đây gọi là gì? Tâm tính bại hoại lại bành trướng nữa rồi. Có những người thật thà và khiêm tốn hơn khi không có công lao, nhưng khi làm được chút việc lớn và có chút công lao, thì họ liền cảm thấy mình có vốn liếng. Khi nhìn thấy những người xung quanh mình, họ suy nghĩ: “Sao các anh không báo cáo về công lao của tôi? Các anh làm chứng cho danh của Đức Chúa Trời và thực chất của Ngài, vậy cớ sao không giới thiệu tôi chứ? Cho dù không làm chứng cho tôi thì giới thiệu một chút cũng được mà. Tôi, một người chị em tên này tuổi nọ, đã tin Đức Chúa Trời 25 năm, đến nay đã 45 tuổi, vẫn chưa kết hôn, độc thân một mình, ngoan đạo, và nhiệt tình mưu cầu. Vì là trụ cột của hội thánh mà tôi đã nhiều lần bị chính phủ Trung Cộng phát lệnh truy nã, lùng bắt, nên phải lẩn trốn khắp nơi. Tôi đã lưu lạc qua hơn 10 tỉnh, rồi ra nước ngoài. Từ đó về sau tôi vẫn đảm nhiệm vị trí người phụ trách công tác quan trọng trong nhà Đức Chúa Trời. Trong thời gian này tôi đã đưa ra rất nhiều kiến nghị, phương pháp và ý tưởng mang tính xây dựng cho một công tác nào đó của nhà Đức Chúa Trời, đã có những cống hiến không thể phai mờ đối với việc thúc đẩy công tác của hội thánh và mở rộng phúc âm của vương quốc. Tại sao không giới thiệu tôi như vậy? Tại sao Đức Chúa Trời không ban cho tôi những hoàn cảnh và trường hợp để tôi phát huy chút tài năng cá nhân của mình, để mọi người có thể hiểu và biết về tôi? Tại sao Đức Chúa Trời luôn áp chế chúng tôi? Nhà Đức Chúa Trời cũng đâu có tự do lắm, đâu có thoải mái, giải phóng, vui vẻ lắm!”. Cô này còn muốn thoải mái, giải phóng và vui vẻ hơn nữa. Làm sao có thể thoải mái, giải phóng và vui vẻ hơn nữa đây? Đưa ngươi lên vị trí số một trong bảng xếp hạng chăng? Sau khi đưa ngươi lên vị trí đó thì giới thiệu qua một lượt: Người này là danh y trên thế giới, đoạt được giải nhất danh y quốc gia, sau đó được ghi danh trong “Bách khoa toàn thư về danh y trên thế giới”, đã hoàn thành quá nhiều bài luận văn, sau khi đến nhà Đức Chúa Trời vẫn là trụ cột, nhân tài, bây giờ lại làm lãnh đạo cấp cao. Có phải như vậy thì cô sẽ vui mừng hay không? Cô sẽ cảm thấy: “Tôi là nhân tài, trước đây tôi là người nổi tiếng, đến nhà Đức Chúa Trời vẫn là người nổi tiếng. Là vàng thì đi đến đâu cũng tỏa sáng, không ai che lại được. Tài cán này của tôi phải được phô ra! Mặc dù Đức Chúa Trời không làm chứng, nhưng những sự thật này đã làm chứng vang dội cho tôi rồi”. Ý nghĩ này như thế nào? Nếu ngươi còn chưa buông bỏ được việc mưu cầu danh lợi một ngày nào, vậy thì ngươi vẫn bị danh lợi, địa vị trói buộc, không thể đạt được sự thoải mái, vui vẻ thực sự. Chỉ cần ngươi vẫn còn bị xiềng xích của danh lợi trói buộc, hạn chế, ràng buộc, thì ngươi sẽ không thể tiến lên phía trước trong việc mưu cầu lẽ thật, chỉ có thể dậm chân tại chỗ. Có người nói: “Liệu con có tụt lùi hay không?”. Thực ra chỉ cần không tiến lên thì chính là dậm chân tại chỗ, là đang tụt lùi. Điều này cho thấy thực chất bản tính của ngươi chính là thứ này. Bất kể ngươi tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm thì cũng không bao giờ có tiến bộ. Cho dù ngươi tin đến cuối cùng thì vẫn có thể làm rất nhiều việc ác. Có thể nói một cách chắc chắn rằng ngươi sẽ bị tỏ lộ. Người như vậy một khi có hoàn cảnh thích hợp, một khi có địa vị thì sẽ bộc lộ dã tâm của mình. Thực ra khi không có hoàn cảnh thích hợp và không có địa vị thì họ sẽ không có dã tâm sao? Họ vẫn sẽ có dã tâm. Họ chính là thứ này, là thực chất này, dã tâm của họ không che đậy được. Một khi có hoàn cảnh thích hợp, nó lập tức sẽ “bùng nổ”, có muốn kiềm chế cũng không được, và họ sẽ bắt đầu làm điều ác, sẽ hoàn toàn bộc lộ ra thứ xấu xí của ma quỷ. Đây là trường hợp bị tỏ lộ. Ngươi phải lĩnh hội chữ “tỏ lộ” như vậy. Không phải là Đức Chúa Trời tỏ lộ ngươi, mà là Đức Chúa Trời cho ngươi một cơ hội để rèn luyện, nhưng ngươi lại không biết tốt xấu mà còn biểu diễn ra. Vậy ngươi bị tỏ lộ thì có đáng đời hay không? Đây là lựa chọn của chính ngươi, không phải Đức Chúa Trời cố ý muốn tỏ lộ và đào thải ngươi, mà là ý định và dã tâm của ngươi tỏ lộ chính ngươi. Ngươi oán trách ai bây giờ?
Có phải chúng ta đã thông công khá đủ về khía cạnh lẽ thật liên quan đến lợi ích của con người và lợi ích của Đức Chúa Trời rồi không? Lợi ích của con người là gì? Chính là những thứ mà con người mưu cầu, bao gồm danh lợi và địa vị, dã tâm và dục vọng được phúc, cả thể diện và hư vinh, gia đình và người thân, cũng như lợi ích vật chất của con người, v.v.. Thực chất lợi ích của con người là ích kỷ và đê tiện, là tà ác, thuộc về Sa-tan, đi ngược lại với lẽ thật, gây gián đoạn, nhiễu loạn và phá hoại công tác của nhà Đức Chúa Trời. Còn lợi ích của Đức Chúa Trời là sự nghiệp cứu rỗi nhân loại chính nghĩa nhất, đại diện cho tình yêu thương và công tác của Đức Chúa Trời, đại diện cho sự thánh khiết và công chính của Ngài. Cho nên, Đức Chúa Trời bảo vệ lợi ích của mình là chính đáng, là đang bảo vệ một sự nghiệp chính nghĩa, không phải là Đức Chúa Trời ích kỷ muốn bảo vệ tôn nghiêm của mình. Đó là chính nghĩa, chính đáng, là đem lại lợi ích không đo lường nổi đối với nhân loại mà Đức Chúa Trời cứu rỗi. Chỉ khi Đức Chúa Trời bảo vệ lợi ích của Ngài, nhân loại mới có thể được cứu rỗi, mới có thể đạt được lợi ích lớn hơn nữa từ đó, đạt được lẽ thật, đường đi và sự sống, cuối cùng trở thành loài thọ tạo đích thực sống trong mọi quy luật và quy tắc mà Đức Chúa Trời ấn định, sống giữa vạn vật được tạo sẵn mà Đức Chúa Trời ban cho con người. Chỉ có như thế thì nhân loại mới có thể đạt được hạnh phúc, đạt được cuộc sống tốt đẹp đích thực. Có phải mọi việc Đức Chúa Trời làm là sự nghiệp chính nghĩa không? Quá chính nghĩa! Những công tác, sự quản lý của Đức Chúa Trời, và tất cả những công tác trong hội thánh liên quan đến việc Đức Chúa Trời cứu rỗi nhân loại, chẳng hạn như rao truyền phúc âm, làm phim, viết bài về lời chứng, làm video, dịch lời Đức Chúa Trời, và duy trì trật tự bình thường của đời sống hội thánh, những công tác này đều rất quan trọng và phải được bảo đảm. Còn có khía cạnh trong việc bảo đảm cuộc sống của dân được Đức Chúa Trời chọn – những người thực hiện bổn phận. Tuy rằng đây là công tác cơ bản nhất, tương tự công tác hậu cần, dường như không liên quan nhiều đến công tác chủ yếu của nhà Đức Chúa Trời, nhưng nó cũng rất quan trọng và cũng cần phải được đề cập một chút ở đây. Những chuyện ăn, mặc, ngủ, đi lại bình thường, là điều mà Đức Chúa Trời chuẩn bị sẵn cho con người, cũng là nhu cầu xác thịt chính đáng nhất mà trong nhân tính bình thường nên có. Đức Chúa Trời sẽ không lấy đi những nhu cầu, mà sẽ bảo vệ chúng. Đối với những thứ Ngài muốn bảo vệ, nếu như ngươi luôn gây nhiễu loạn và gián đoạn, luôn phá đám, luôn xem thường, luôn có quan niệm và ý kiến đối với chúng, vậy thì ngươi luôn nói ngược lại và đối lập với Đức Chúa Trời. Ngươi không xem công tác và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời là trọng yếu, luôn muốn phá đám, phá hoại, hoặc là luôn muốn kiếm lợi, gian dối, chiếm đoạt từ đó. Vậy Đức Chúa Trời có nổi giận với ngươi hay không? (Thưa, có.) Hậu quả của việc Đức Chúa Trời nổi giận là gì? (Thưa, chúng con sẽ bị trừng phạt.) Đó là điều chắc chắn, Ngài sẽ không tha thứ cho ngươi, chắc chắn là không! Bởi vì việc ngươi làm là phá hủy và phá hoại công tác của hội thánh, là xung đột với công tác và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Đó là việc đại ác, là đứng ra đối đầu với Ngài, xúc phạm trực tiếp đến tâm tính của Ngài. Như thế thì làm sao Ngài có thể không nổi giận với ngươi cho được? Nếu như có một vài người vì tố chất kém mà không đảm đương nổi công tác, trong lúc vô ý mà làm những việc gây nhiễu loạn và gián đoạn thì chuyện này còn có thể tha thứ. Nhưng nếu như ngươi vì lợi ích cá nhân mà đố kỵ, tranh chấp, cố ý làm những việc gây gián đoạn, nhiễu loạn và phá hoại công tác của nhà Đức Chúa Trời, thì đây là đã biết rõ mà còn cố ý vi phạm, là xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời, Ngài sẽ tha cho ngươi sao? Trong công tác của kế hoạch quản lý sáu ngàn năm của mình, toàn bộ tâm huyết của Đức Chúa Trời chính là ở đây. Nếu ngươi đối kháng với Ngài, cố ý làm tổn hại lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, cố ý dùng việc gây tổn hại cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời làm cái giá để mưu cầu lợi ích cá nhân, mưu cầu danh vọng và địa vị cá nhân, không ngại phá hủy công tác của hội thánh, khiến cho công tác của nhà Đức Chúa Trời bị cản trở, phá hoại, thậm chí khiến cho vật chất, tiền tài của nhà Đức Chúa Trời bị tổn thất rất lớn, thì các ngươi nói xem, người như vậy có nên tha thứ hay không? (Thưa, không nên.) Các ngươi đều nói không thể tha thứ, vậy Đức Chúa Trời có giận dữ với loại người này hay không? Chắc chắn là có. Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật và cứu rỗi con người, thực hiện công tác lớn lao như vậy, Ngài vì nó mà bỏ ra toàn bộ tâm huyết và sự trả giá của mình, Đức Chúa Trời xem sự nghiệp chính nghĩa nhất này là trọng yếu như vậy. Toàn bộ tâm huyết và sự trả giá của Ngài đặt trên những người mà Ngài muốn cứu rỗi, mọi kỳ vọng của Ngài cũng đặt trên những người này. Thành quả và vinh quang mà Ngài muốn kế hoạch quản lý sáu ngàn năm cuối cùng đạt được, toàn bộ phải thành hiện thực trên những người này. Nếu có người đứng ra đối đầu, đối kháng với Ngài, quấy nhiễu và phá hoại kết quả của chuyện này, thì Đức Chúa Trời có tha thứ cho hắn hay không? (Thưa, không.) Đó không phải là xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời sao? Ngươi luôn miệng nói đi theo Đức Chúa Trời, mưu cầu được cứu rỗi, tiếp nhận sự dò xét và dẫn dắt của Ngài, tiếp nhận và thuận phục sự phán xét và hình phạt của Ngài. Nhưng trong khi nói những lời này, ngươi lại gây gián đoạn, nhiễu loạn và phá hoại các công tác của hội thánh, bởi vì ngươi gây gián đoạn, nhiễu loạn và phá hoại, bởi vì ngươi sơ suất hoặc xao lãng nhiệm vụ, hoặc bởi vì ham muốn ích kỷ của ngươi, vì mưu cầu lợi ích của bản thân ngươi mà làm tổn hại đến lợi ích nhà Đức Chúa Trời, lợi ích của hội thánh, v.v., thậm chí làm cho công tác của nhà Đức Chúa Trời bị nhiễu loạn và phá hoại nghiêm trọng, vậy trong sổ sinh mệnh của ngươi, Đức Chúa Trời nên cân nhắc kết cục của ngươi như thế nào? Ngài sẽ xác định tính chất của ngươi như thế nào? Công bằng mà nói thì ngươi đáng bị trừng phạt, cái này gọi là đúng người đúng tội. Hiện tại các ngươi hiểu được gì rồi? Lợi ích của con người là gì? (Thưa, là tà ác.) Thực ra lợi ích của con người đều là dục vọng xa xỉ, nói trắng ra đều là cám dỗ, đều là giả tạo, đều là mồi nhử để Sa-tan cám dỗ con người. Mưu cầu danh lợi, địa vị và lợi ích chính là phối hợp với Sa-tan làm điều ác, là đối kháng với Đức Chúa Trời. Vì muốn ngăn cản công tác của Đức Chúa Trời mà Sa-tan dựng lên đủ loại hoàn cảnh để thử thách, quấy nhiễu, mê hoặc con người, cản trở con người đi theo Đức Chúa Trời, khiến họ không thể thuận phục Ngài, ngược lại còn phối hợp với Sa-tan, đi theo Sa-tan, cố ý đứng lên gây nhiễu loạn và phá hoại công tác của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời thông công lẽ thật như thế nào, họ cũng không tỉnh ngộ. Nhà Đức Chúa Trời tỉa sửa như thế nào, họ cũng không tiếp nhận lẽ thật. Họ không có chút thuận phục nào với Đức Chúa Trời, thay vào đó là khư khư cố chấp, hoành hành ngang ngược. Kết quả là họ gây nhiễu loạn và phá hoại công tác của hội thánh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tiến triển của đủ mọi công tác của hội thánh, khiến lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn cũng chịu tổn thất rất lớn. Tội ác này quá lớn, những người như vậy chắc chắn phải chịu sự trừng phạt của Đức Chúa Trời.
Bây giờ, trong lòng các ngươi, công tác nào trong hội thánh là quan trọng nhất và liên quan đến việc mở rộng kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời? (Thưa, là rao truyền phúc âm.) Công tác phúc âm là một công tác lớn. Công tác của Đức Chúa Trời, đối với Đức Chúa Trời thì gọi là công tác, đối với con người thì gọi là bổn phận. Ngoài công tác phúc âm, còn có công tác điện ảnh, công tác phiên dịch, thánh ca và các loại công tác văn tự. Hiện tại, hầu hết những người thực hiện bổn phận toàn thời gian đều làm những việc liên quan đến những công tác này. Các ngươi nói xem, có thể bỏ đi mảng nào trong những công tác này? Có người nói: “Âm nhạc chỉ là những nốt nhạc, con thấy những thứ đó không quan trọng, lời Đức Chúa Trời không có những giai điệu kia vẫn có thể được truyền bá và mở rộng như thường, vẫn có thể khiến người ta đến trước mặt Đức Chúa Trời”. Nói như vậy có đúng hay không? (Thưa, không đúng.) Tại sao lại không đúng? Các loại tác phẩm điện ảnh mà không có âm nhạc thì có được không? (Thưa, không được.) Ngoài nhu cầu ca hát nội bộ của hội thánh, tất cả những thứ như phim ảnh, MV, hợp xướng, kịch sân khấu, bao gồm cả video đọc diễn cảm lời Đức Chúa Trời, v.v. đều cần âm nhạc. Mặc dù nhìn bề ngoài, âm nhạc chỉ là những nốt nhạc, nhưng sau khi con người nghe thấy thứ âm nhạc này, hiệu quả truyền bá lời Đức Chúa Trời sẽ tốt hơn, có tác dụng thúc đẩy sự mở rộng của phúc âm. Cho nên đây là thứ không thể thiếu. Khi ngươi ngẫu hứng trò chuyện mà có nhạc nền thì hiệu quả sẽ khác đi, đúng không? Cho nên bổn phận này rất quan trọng. Một vài người nói: “Vậy công tác video của chúng tôi có quan trọng không?”, các ngươi nói xem công tác video có quan trọng không? (Thưa, quan trọng.) Ví dụ, chúng ta không thể dùng những cảnh quay thực tế để thay thế phần lớn hình ảnh được sản xuất với kỹ xảo đặc biệt, và cũng không thể nào quay ra như vậy được, đây chính là nghệ thuật hiện đại. Có một số người nói: “Nhà Đức Chúa Trời mà cũng nói về nghệ thuật hiện đại. Đây chẳng phải cũng là theo kịp thời đại sao?”. Cái gì mà theo kịp thời đại, đây gọi là lợi dụng sự phục vụ của Sa-tan, đương nhiên không phải lợi dụng sự phục vụ của anh chị em. Nói cách khác, các ngươi có thể học một số nghiệp vụ về khía cạnh kỹ thuật, nghệ thuật, dùng những tri thức nghiệp vụ này vào công tác mở rộng phúc âm, truyền bá lời Đức Chúa Trời, như vậy những gì ngươi học được sẽ hữu dụng. Ngươi có thể học được nó, đó là sự ân đãi của Đức Chúa Trời, ngươi có thể làm tròn bổn phận này thì ngươi sẽ có phúc lành. Đây có phải là phúc phần của ngươi hay không? (Thưa, phải.) Cho nên, học cái gì không quan trọng, quan trọng là xem ngươi có dùng vào bổn phận hay không. Còn có một vài người nói rằng: “Công tác văn tự của chúng con thì không bao giờ có ai biết đến, cũng không có ai nhắc tới chúng con, càng không có bao nhiêu người có thể nhìn thấy chúng con. Chúng con trở thành những người có cũng được mà không có cũng không sao”. Đây là những người nhìn không thấu sự tình. Con người không nhìn thấy ngươi, nhưng Đức Chúa Trời có thể nhìn thấy ngươi. Ngài đang dò xét, dẫn dắt ngươi, đang chúc phúc cho ngươi, tại sao ngươi không cảm nhận được điều đó? Con người có nhìn thấy ngươi không, có nhắc tới ngươi không, việc này có quan trọng không? Có lẽ thật nào mà các ngươi không được chu cấp không? Có lần thông công và giảng đạo nào mà thiếu các ngươi không? Thực ra, công tác văn tự không yêu cầu kỹ thuật cao, không cần tăng cường quá nhiều về phương diện nghiệp vụ, nhưng có một thứ không thể thiếu đó là phải hiểu lẽ thật thì mới được, không hiểu lẽ thật thì không viết ra được gì cả. Ngươi có kiến thức viết lách, biết quy tắc ngôn ngữ, tổ chức ngôn ngữ, cũng biết viết ra cấu trúc, ý tưởng của một tác phẩm, nhưng bản thân cấu trúc vẫn chưa phải là một bài văn. Bên trong bài viết cần có nội dung, nội dung rốt cuộc viết cái gì, viết như thế nào mới có thể đạt đến hiệu quả làm chứng cho Đức Chúa Trời, đây là điều các ngươi nên bước vào. Nếu chỉ dừng lại trên cơ sở làm chứng cho lời Đức Chúa Trời và truyền bá bước công tác này của Ngài, thì vóc giạc của các ngươi sẽ không bao giờ trưởng thành. Nếu ngoài việc có thể đạt đến việc làm chứng cho công tác mới của Đức Chúa Trời, phản bác lại quan niệm của con người, thông công những lẽ thật về phương diện khải tượng, các ngươi còn có thể thông công một vài lẽ thật về phương diện lối vào sự sống, dùng một số sự thật, câu chuyện, một số tình tiết mô tả tương đối tỉ mỉ để biểu đạt các loại tình trạng trong sâu thẳm nội tâm con người, từ đó khiến con người nhận biết được sự bại hoại của mình, cũng khiến con người hiểu được yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người là gì, tâm ý của Đức Chúa Trời là gì, còn nhận biết được vấn đề quan trọng nhất, rốt cuộc lẽ thật là gì, con đường mà con người nên đi là gì, con đường sai lầm mà con người hiện tại đang đi là sai ở đâu, Đức Chúa Trời yêu cầu con người làm loại người gì, đi con đường nào – nếu có thể từng bước tiến về phương diện này, thì bổn phận của các ngươi thực hiện sẽ rất có giá trị. Nhưng khó là khó ở chỗ này, đây là chỗ khó nhất. Lối vào sự sống của con người không phải là chuyện ngày một ngày hai, rất nhiều chuyện từ lúc bắt đầu nói cho đến lúc con người có ý thức thì phải mất một hai năm, từ ý thức mơ hồ đến ý thức rõ ràng phải mất hai đến ba năm, ba đến năm năm, từ ý thức rõ ràng đến ý thức được tính chất của việc này mất hai, ba năm, rồi đến biết tính nghiêm trọng của vấn đề này lại phải hai, ba năm nữa. Người tê dại và có tố chất kém thì chỉ có thể đến mức này. Người có tố chất tốt, nhạy bén và tinh thần minh mẫn một chút thì biết chủ động tìm kiếm lẽ thật là gì, lại phải mất hai ba năm… Chẳng biết từ lúc nào, một đời người đã trôi qua. Lối vào sự sống sẽ chậm rãi như vậy! Tốc độ con người lý giải và ghi nhớ lẽ thật thì nhanh hơn nhiều so với nhận biết và trải nghiệm lẽ thật. Lời này là có ý gì? Nghĩa là trải nghiệm và nhận thức mãi mãi chậm rãi, bởi vì đó là sự sống, còn lý giải và ghi nhớ thì chỉ cần đầu óc. Người có trí nhớ tốt, năng lực lý giải mạnh, có chút tố chất lại có chút trình độ văn hóa thì có thể đạt được rất nhanh. Nhưng lý giải được rồi thì có nhận thức sao? Không phải, lý giải được rồi thì chỉ dừng lại ở chỗ biết chuyện này là như thế nào, chỉ thế thôi, nhưng đến lúc làm việc thì vẫn không ổn. Sao lại không ổn? Nhiều lúc gặp chuyện thì đạo lý ngươi hiểu lại không dùng được, không liên quan. Kết quả là ngươi sẽ thất bại vài lần, chịu không ít hao tổn, đi không ít đường vòng, tiếp nhận bao nhiêu là sự phán xét, hành phạt và tỉa sửa mới hiểu được lẽ thật, mới có thể thực hành và trải nghiệm lời của Đức Chúa Trời trong các loại sự việc mình gặp phải. Thoáng một cái đã bao nhiêu năm trôi qua, có thể trên khuôn mặt của ngươi đã toàn là nếp nhăn. Có phải như vậy là rất chậm rãi hay không? Sự tiến bộ của sự sống con người là chuyện rất chậm rãi, bởi vì lẽ thật mà con người hiểu được liên quan đến thực chất bản tính của con người, liên quan đến sự sinh tồn của con người, liên quan đến việc con người sống dựa vào cái gì. Chuyện này liên quan đến sự biến đổi tâm tính, liên quan đến sự thay đổi sự sống. Sao sự sống của ngươi có thể dễ dàng trở thành một loại sự sống khác như vậy? Một mặt phải cần công tác của Đức Chúa Trời, đồng thời còn cần chính con người chủ động phối hợp, hơn nữa phải có sự thử luyện của hoàn cảnh bên ngoài, còn có sự mưu cầu cá nhân của ngươi. Ngoài ra, ngươi phải có đủ tố chất, phải có sức hiểu biết, sau đó Đức Chúa Trời khai sáng dẫn dắt thêm cho ngươi, còn cho ngươi một vài hình phạt, sự phán xét và tỉa sửa, anh chị em sẽ chỉ trích ngươi, và ngươi còn phải mưu cầu cao hơn nữa, như thế mới có thể đào thải những thứ thuộc về Sa-tan ra ngoài – chỉ như thế thì những điều tích cực thuộc về lẽ thật này mới có thể tiến vào từng chút từng chút. Có người nói: “Con người hiểu được lẽ thật thì sự sống sẽ thay đổi”. Lời này có đúng không? (Thưa, không đúng.) Không đúng ở chỗ nào? Hiểu lẽ thật không có nghĩa là có lẽ thật, ngươi hiểu rồi thì đó cũng không phải là sự sống của ngươi. Ngươi nghe thấy lẽ thật, lý giải được và hiểu được, nhưng lẽ thật có thể tồn tại trong lòng ngươi được bao lâu? Cũng có thể một tháng sau, những lời ngươi cho là then chốt nhất sẽ biến mất, một chút cũng không còn. Khi nghe lại những lời này, ngươi sẽ cảm thấy như chưa từng nghe qua. Tuy nhiên, nếu như ngươi có vóc giạc sự sống như vậy, thì ngươi không cần nghe đi nghe lại. Còn nếu không có thì ngươi phải nghe. Nếu không nghe thì những thứ ngươi hiểu sẽ càng ngày càng ít, càng mất dần đi, dần dần ngươi sẽ giống như người không tin. Cho nên, ngươi phải luôn nghe và đọc lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Ít đọc, ít nghe thì đều không được. Các ngươi đều thể nghiệm và lĩnh hội sâu sắc về điều này rồi, có phải không? (Thưa, phải.) Có khi hai, ba ngày không hát thánh ca, không cầu nguyện với Đức Chúa Trời thì ngươi sẽ cảm thấy trong lòng trống rỗng, không chạm đến được Đức Chúa Trời, thế là ngươi sẽ suy nghĩ xem nên đi đâu tản bộ cho khuây khỏa. Kết quả càng khuây khỏa càng mất tập trung, hễ đến hội thánh để thông công lẽ thật với anh chị em thì ngươi lại cảm thấy xa lạ, hễ nói đến công tác của hội thánh thì cảm thấy những lời này rất gượng gạo. Trong vòng hai, ba ngày thì ngươi đã thay đổi rồi, giống như trở thành một người khác, ngay cả chính ngươi cũng cảm thấy không nhận ra chính mình nữa, chuyện này là thế nào? Ngươi đừng tưởng rằng mình nghe giảng đạo nhiều thì có lẽ thật làm sự sống, thì đạt được lẽ thật, ngươi còn kém xa mức đó lắm! Ngươi cũng đừng tưởng rằng ngươi viết một bài làm chứng, có trải nghiệm như vậy, thì ngươi là người đã được cứu rỗi, chuyện đó còn lâu mới đến! Đó chỉ là một đoạn ngắn trong trải nghiệm sự sống dài đằng đẵng của ngươi, đoạn ngắn này cũng có thể chỉ là tâm trạng nhất thời, cảm giác nhất thời, nguyện vọng và chí hướng nhất thời mà thôi. Đến một ngày khi ngươi yếu đuối, khi ngươi quay đầu lại lắng nghe những lời chứng mà ngươi đã từng làm, những lời thề mà ngươi đã từng nói, những nhận thức mà ngươi đã từng có, ngươi sẽ cảm thấy xa lạ và nói rằng: “Đó là tôi sao? Tôi có vóc giạc lớn như vậy sao? Sao tôi lại không biết? Đó không phải là tôi, phải không?”. Lúc đó ngươi sẽ phát giác ra rằng sự sống của ngươi vẫn chưa thay đổi. Sự sống chưa thay đổi là nói đến điều gì? Chính là tâm tính vẫn chưa có sự biến đổi. Khi ngươi phát hiện mình đã từng làm chứng và lúc ấy cảm thấy mình đã rất có vóc giạc, thế mà vẫn có thể trở nên tiêu cực như bây giờ, thì ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Có phải sẽ cảm thấy sự biến đổi tâm tính là quá khó hay không? Lẽ thật được nhào nặn vào trong con người không phải là chuyện một sớm một chiều. Khi thật sự đạt được lẽ thật làm sự sống thì con người sẽ có phúc lành, sẽ sống khác đi, không phải giống như bây giờ, không phải là thường bộc lộ tâm tính bại hoại, mà thay vào đó là có thể tuyệt đối thuận phục Đức Chúa Trời, có thể trung thành thực hiện bổn phận, con người sẽ hoàn toàn thay đổi.
Bởi vì nhân loại bại hoại quá sâu sắc, cho nên việc tiếp nhận lẽ thật không phải là chuyện dễ dàng. Bởi vì lẽ thật quá quý giá, nên Đức Chúa Trời càng không dễ nhào nặn lẽ thật vào trong con người. Giá trị, ý nghĩa của lẽ thật và các phương diện của lẽ thật có giá trị rất cao và rất có ý nghĩa đối với con người, nhưng bởi vì nhân loại bị Sa-tan làm bại hoại quá sâu sắc, bên trong con người có quá nhiều thứ thuộc về Sa-tan, khiến việc nhào nặn lẽ thật vào trong con người để trở thành sự sống không phải là chuyện dễ dàng. Vậy, nói như thế thì có phải là không thể nhào nặn lẽ thật vào trong con người hay không? Không phải, có thể nhào nặn vào, nhưng con người phải có thái độ và quan điểm đúng đắn, phải đi đúng con đường. Khó thực hiện không có nghĩa là không thực hiện được. Giống như hai giai đoạn công tác trước của Đức Chúa Trời, Ngài không làm công tác hoàn thiện, cũng không bày tỏ những lẽ thật này, không nói những lời này, nhưng cũng có người được hoàn thiện, cũng có người đạt đến việc nhận biết Đức Chúa Trời. Nhìn vào sự thật này thì việc lẽ thật được nhào nặn vào trong con người là khả thi, không phải không thể thực hiện được, mà là có thể đạt đến, chỉ là phải xem con người có mưu cầu lẽ thật hay không. Vậy nên mưu cầu như thế nào? Cách đơn giản nhất chính là mỗi ngày đọc lời Đức Chúa Trời, học thuộc phần kinh điển trong lời Đức Chúa Trời, mỗi ngày nghiền ngẫm một đoạn trong lời Đức Chúa Trời, cầu nguyện-đọc và thông công nhiều lần ngay trong những lời Đức Chúa Trời đó. Một khi ngươi đã cầu nguyện-đọc và hiểu được những quan điểm và câu nói mà lời Đức Chúa Trời muốn chỉ dạy cho ngươi, cùng với thái độ đối đãi với các loại con người, sự việc, sự vật, để chúng đi vào lòng mình, thì chẳng biết từ lúc nào, khi gặp phải các sự việc khác nhau, ngươi sẽ sống thể hiện ra được các tư tưởng, quan điểm tích cực và các nguyên tắc thực hành. Hiện tại, các ngươi vẫn chưa đạt đến trình độ này. Ngươi thấy Gióp làm được những gì? Gióp làm gì khi các con của ông đang tiệc tùng? Ông đã đến trước mặt Đức Chúa Trời để cầu nguyện và dâng của lễ vì con cái của mình, ông đã không rời xa Đức Chúa Trời. Nói cách khác, việc gì có thể khiến lòng ngươi rời xa Đức Chúa Trời thì ngươi nên tránh làm; những lời nào có thể khiến lòng ngươi rời xa Đức Chúa Trời thì ngươi đừng nói; những thứ gì có thể khiến ngươi rời xa Đức Chúa Trời, có thể khiến ngươi nảy sinh quan niệm, nghi ngờ đối với Đức Chúa Trời thì ngươi tránh xem; những người nào có thể khiến ngươi tiêu cực, sa ngã và phóng túng, có thể khiến ngươi nảy sinh hoài nghi, chống đối và rời xa Đức Chúa Trời thì ngươi không nên tiếp xúc, nên tránh xa người như vậy một chút; những người nào có thể gây dựng cho ngươi, giúp đỡ và chu cấp cho ngươi, thì ngươi hãy thân cận người đó; những việc gì có thể khiến ngươi có ác cảm, chán ghét hoặc không thích lẽ thật, thì đừng làm. Ngươi phải hiểu rõ những điều này trong lòng, đừng sống bừa, nghĩ rằng “Sống đến ngày nào hay ngày đó, sống thành dạng gì thì cứ như vậy, mọi sự đều thuận theo tự nhiên, do Đức Chúa Trời sắp đặt”. Đức Chúa Trời an bài sẵn hoàn cảnh cho ngươi, cũng cho ngươi ý chí tự do để lựa chọn, thế nhưng ngươi không phối hợp. Ngươi luôn chủ động tiếp xúc với những người yêu thích thế tục, thường buông thả xác thịt, không có lòng trung thành đối với bổn phận, không chịu trách nhiệm. Nếu ngươi luôn chơi cùng những người đó, thì kết quả và kết cục cuối cùng là gì? Rảnh rỗi thì những người đó sẽ bàn chuyện ăn nhậu chơi bời, thường nói chuyện miệng lưỡi thị phi. Ngươi gặp phải cám dỗ như vậy mà không thoát ra, còn ham mê những chuyện này, chuyên môn lêu lổng với người như vậy. Vậy thì ngươi sẽ gặp nguy hiểm, vì đâu đâu cũng là cám dỗ! Người thông minh nhìn thấy cám dỗ như vậy thì sẽ tránh xa, trong lòng họ hiểu rõ: “Mình không có vóc giạc này, mình không nghe, mình cũng không muốn để ý. Những người này không mưu cầu lẽ thật, không yêu thích lẽ thật, mình phải né tránh. Mình nên tìm một chỗ yên tĩnh, tự mình đọc lời Đức Chúa Trời, tĩnh tâm lại, nghiền ngẫm, đi tới trước mặt Đức Chúa Trời”. Tất cả những nguyên tắc và mục đích này chính là: Thứ nhất, không được rời xa lời Đức Chúa Trời; thứ hai, trong lòng không được rời xa Ngài. Như vậy, ngươi sẽ thường sống trước mặt Đức Chúa Trời với cơ sở hiểu lẽ thật là gì. Một mặt, Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ ngươi để ngươi không rơi vào cám dỗ, mặt khác, Ngài sẽ đặc biệt ân đãi ngươi, cho ngươi hiểu nên làm sao để thực hành lẽ thật, cho ngươi có ánh sáng và sự khai sáng về các hạng mục lẽ thật. Đức Chúa Trời sẽ hướng dẫn để ngươi cố gắng không phạm sai lầm trong bổn phận mình thực hiện, thường có thể làm đúng và có thể biết nguyên tắc. Như vậy chẳng phải là ngươi sẽ được bảo vệ rồi sao? Đương nhiên, được bảo vệ không phải là mục tiêu lớn nhất và tối hậu, vậy mục tiêu tối hậu là gì? Chính là để ngươi có thể học được bài học từ các loại con người, sự việc, sự vật, hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời, nhận biết công tác của Ngài, đạt đến việc thực thành theo nguyên tắc mà Đức Chúa Trời yêu cầu. Như vậy thì sự sống và vóc giạc của ngươi mới có thể không ngừng tiến bộ, chứ không phải dậm chân tại chỗ. Nếu ngươi luôn bận rộn làm sự vụ mà không chú trọng thực hành lẽ thật trong khi thực hiện bổn phận, không chú trọng giải quyết những khó khăn của lối vào sự sống, thì sự sống của ngươi sẽ không tiến bộ. Lối vào sự sống là điều đạt được từ việc thực hiện bổn phận, rời xa việc thực hiện bổn phận, rời xa lời Đức Chúa Trời thì không có sự tiến bộ trong sự sống. Có người thấy người khác buôn chuyện thì xen vào, nghe ngóng, luôn làm người nhiều chuyện, luôn thích chuyện thị phi, Đức Chúa Trời không thích người như vậy. Vậy Ngài thích loại người nào? Người có thể an tĩnh lòng mình. An tĩnh để làm gì? Để làm một tượng gỗ và không nghĩ gì cả sao? Không phải, là an tĩnh cầu nguyện trước mặt Đức Chúa Trời, tìm kiếm tâm ý của Ngài, xin Ngài bảo vệ và khai sáng. Ngoài ra, nếu không hiểu phương diện lẽ thật nào thì ngươi phải tìm kiếm để được khai sáng, soi sáng phương diện lẽ thật đó, đạt đến việc hiểu cho thông suốt, hoặc tìm kiếm để giải quyết bất kỳ phương diện nào trong công tác mà ngươi đang gặp nhiều vấn đề, và đạt được sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Khi an tĩnh trước mặt Đức Chúa Trời thì có quá nhiều bài tập, có quá nhiều việc cần phải làm, chứ không phải nhàn rỗi không có việc gì thì đến chỗ Đức Chúa Trời báo cáo có mặt, “Thưa Đức Chúa Trời, con ở đây, trong lòng con có Ngài, xin Ngài ở cùng con, đừng để con rơi vào cám dỗ!”. Làm cho có và qua quýt với Đức Chúa Trời như thế thì không phải là người thực sự tin Ngài. Đức Chúa Trời sẽ không ban lẽ thật cho người như vậy. Người mà Đức Chúa Trời muốn ban lẽ thật trước hết phải có những gì? Phải có một tấm lòng khao khát chính nghĩa và một tấm lòng thành khẩn. Tấm lòng thành khẩn của ngươi nói lên điều gì? Nó chứng tỏ ngươi thực sự yêu thích lẽ thật. Ngươi luôn qua quýt với Đức Chúa Trời, không hề thật lòng chút nào, chuyện gì cũng muốn tự mình làm chủ, luôn muốn đến trước mặt Đức Chúa Trời báo cáo có mặt, chào hỏi xong rồi tự mình định đoạt, tự mình làm việc. Công tác của Đức Chúa Trời đã được giao phó cho ngươi, thế mà cuối cùng ở chỗ ngươi, nó lại không liên quan đến Đức Chúa Trời, không liên quan đến lẽ thật, cái này gọi là gì? Gọi là chống đối Đức Chúa Trời, làm việc kinh doanh riêng. Như vậy thì Đức Chúa Trời có thể khai sáng cho ngươi không? Không thể. Các ngươi có nắm được con đường mưu cầu lẽ thật và hiểu lẽ thật không? Ngươi phải thường xuyên đến trước mặt Đức Chúa Trời, an tĩnh lòng mình mà tìm kiếm lẽ thật, cầu nguyện với Đức Chúa Trời, ngươi phải học cách an tĩnh. An tĩnh không phải là đầu óc không có gì, mà là trong lòng có sự thỉnh cầu, có suy nghĩ, có gánh nặng, có lòng khao khát chân thành mà đến trước mặt Đức Chúa Trời, có sự khao khát đối với lẽ thật và tâm ý của Đức Chúa Trời, có gánh nặng đối với bổn phận và công tác mà bản thân gánh vác. Đó là điều ngươi nên có khi đến trước mặt Đức Chúa Trời và an tĩnh.
Ta vừa mới thông công rằng mọi công tác của hội thánh đều liên quan trực tiếp đến công tác mở rộng phúc âm của vương quốc Đức Chúa Trời. Nhất là công tác rao truyền phúc âm và các công tác liên quan đến nghiệp vụ, chúng đều có liên hệ quan trọng và không thể tách rời với công tác mở rộng phúc âm. Vậy nên, nếu liên quan đến công tác mở rộng phúc âm thì sẽ liên quan đến lợi ích của Đức Chúa Trời và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Nếu có thể lĩnh hội một cách đúng đắn về công tác mở rộng phúc âm thì con người nên tiếp cận một cách đúng đắn với bổn phận mà mình thực hiện và bổn phận mà người khác thực hiện. Làm thế nào để tiếp cận một cách đúng đắn? Ngươi phải nỗ lực hết sức mình, làm theo yêu cầu của Đức Chúa Trời, ít nhất không được có hành vi và cách làm cố ý phá hoại, quấy nhiễu, không được biết sai mà vẫn cố vi phạm. Nếu biết rõ đây là gây nhiễu loạn và gián đoạn cho công tác của hội thánh mà vẫn khăng khăng làm như vậy, ai khuyên cũng không được, thì đây chính là hành ác, là tự tìm đến chỗ chết, là ma quỷ hiện hình. Lúc này, hãy nhanh chóng để cho anh chị em phân định, sau đó thanh trừ kẻ ác ra khỏi hội thánh. Nếu như người hành ác là nhất thời hồ đồ chứ không phải là cố ý hành ác, thì chúng ta nên xử lý chuyện này như thế nào? Có phải nên dạy dỗ và giúp đỡ người đó hay không? Nếu dạy dỗ mà hắn vẫn không nghe thì nên làm sao? Thì anh chị em cùng nhau chỉ trích hắn. Nếu như hắn đảm nhiệm được công tác này nhưng lại không làm hết sức mình và tạm thời không ai có thể thay thế hắn, mọi người vẫn muốn để hắn làm, thì phải làm sao? Thì mọi người cùng nhau đứng lên tỉa sửa hắn, cảnh cáo hắn rằng: “Đức Chúa Trời đề cao anh, để cho anh thực hiện bổn phận này, nếu không cố làm mà lại quấy nhiễu và mặc kệ, thì anh thật không có lương tâm và không thích hợp thực hiện bổn phận”. Làm như vậy có tốt hay không? Nếu ai đó có thể thay thế hắn thì hãy tống cổ hắn đi. Các ngươi có dám làm như vậy không? Đa số là không dám. Trong chuyện bảo vệ công tác của hội thánh, rất nhiều người không dám đứng ra bảo vệ chính nghĩa, đó có phải là không dám giữ vững lẽ thật hay không? Có người làm rùa rụt cổ, nhìn thấy công tác của hội thánh bị nhiễu loạn và gián đoạn thì họ cũng thờ ơ, giống như việc này không liên quan đến họ, nên họ dùng thái độ bàng quan. Nhưng nếu có người chỉ trích rằng họ không nên như vậy, hoặc khinh bỉ họ, coi thường họ, thì họ sẽ cáu lên, thầm nghĩ: “Anh là cái thá gì? Dựa vào cái gì mà chỉ trích tôi? Dựa vào cái gì mà khinh thường tôi? Chuyện này chúng ta phải nói cho rõ ràng”. Họ để bụng chuyện này, và đặt nặng nó, họ thấy nếu mình không nói gì hay không tỏ thái độ gì thì không được. Công tác của hội thánh bị cản trở, quấy nhiễu và phá hoại, thì họ không có cảm giác gì, ngược lại còn bàng quan. Đây là loại người gì? (Thưa, người ích kỷ và đê tiện.) Chỉ là ích kỷ và đê tiện thôi sao? Vấn đề này có thể rất nghiêm trọng, chỉ dùng một câu để tóm tắt thì không hết. Chỉ có thể nói người như vậy thì không có nhân tính, tuyệt đối không phải người tốt. Trên thực tế, kẻ địch lại Đấng Christ làm như vậy, lãnh đạo giả đương nhiên cũng không phải là ngoại lệ. Kẻ địch lại Đấng Christ không có khái niệm gì về lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, công tác của hội thánh bị cản trở thì chúng không nhìn ra, có người quấy nhiễu công tác của hội thánh đến mức nát bét, rối tung, chúng nhìn thấy cũng coi như không có gì xảy ra, chỉ nói qua loa hời hợt vài câu đơn giản, khuyên nhủ một chút là coi như xong chuyện, chẳng hề thấy tức giận gì. Người như vậy có tinh thần chính nghĩa hay không? Đây là loại người gì? Người như vậy là ăn cây táo rào cây sung, chính là phản đồ! Là cặn bã!
Vừa rồi Ta đã nói khái quát tổng thể về chủ đề lợi ích của con người là gì, thực chất lợi ích của con người là gì, vì sao con người mưu cầu lợi ích cá nhân, việc mưu cầu lợi ích cá nhân của con người có tính chất gì, và lợi ích của Đức Chúa Trời có tính chất gì, được định nghĩa như thế nào. Lợi ích của Đức Chúa Trời là sự nghiệp chính nghĩa nhất, nên nhìn nhận như vậy. Đức Chúa Trời muốn bảo vệ lợi ích của Ngài thì đó tuyệt đối không phải là ích kỷ, cũng không phải chỉ vì bảo vệ tôn nghiêm và vinh quang của Ngài, mà là muốn bảo vệ tiến độ và thành quả công tác của Ngài, bảo vệ một sự nghiệp chính nghĩa. Đây là hành vi và cách làm chính nghĩa nhất, chính đáng nhất, và đây là hành động của Đức Chúa Trời. Nhân loại thọ tạo không nên có bất kỳ quan niệm nào đối với hành động này của Đức Chúa Trời, càng không nên có bất kỳ chỉ trích và xét đoán nào. Vậy có thể nói rằng lợi ích của Đức Chúa Trời cao hơn tất cả không? (Thưa, có thể.) Có phải nói lời này là ích kỷ không? (Thưa, không phải.) Dựa trên cơ sở rằng con người hiểu lẽ thật về phương diện này, thì lời này đứng vững được, không phải là cố ý thiên vị. Đây không phải thiên vị, mà là chính đáng. “Họ không bao giờ xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và thậm chí bán rẻ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, đem lợi ích của nhà Đức Chúa Trời đổi lấy vinh quang cá nhân”, đây là thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ. Thái độ và cách làm của họ đối với lợi ích chính là mang tính chất này, không bao giờ suy nghĩ đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. “Không bao giờ” nghĩa là gì? Nghĩa là căn bản họ đã không muốn, cũng không có khái niệm này, họ chỉ nghĩ đến lợi ích của chính mình, chính là ý này. Chuyện này nghiêm trọng tới mức nào? Đến mức bán rẻ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, dùng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời để đổi lấy vinh quang cá nhân, lợi ích cá nhân. Lợi ích của họ là tối thượng, có thể thay thế lợi ích của Đức Chúa Trời. Bất luận lợi ích của họ tà ác cỡ nào, bất chính và tiêu cực đến đâu, họ đều muốn tranh giành, không tiếc hy sinh bất kỳ ai, không tiếc bất kỳ giá nào, đều phải đoạt được và tranh giành lợi ích của chính mình. Đây là hành vi gì? (Thưa, là của kẻ địch lại Đấng Christ.) Là hành vi của kẻ địch lại Đấng Christ, là chuyện Sa-tan làm. Sa-tan thống trị nhân loại này, thống trị một đất nước, một dân tộc, không tiếc hy sinh bao nhiêu mạng sống để đổi lấy sự thống trị vững chắc của nó. Lợi ích của nó là gì? Là quyền thế và địa vị thống trị. Vậy nó làm thế nào để đạt được địa vị thống trị, làm thế nào để củng cố sự thống trị này? (Thưa, nó không tiếc bất kỳ giá nào.) Nó không tiếc bất kỳ giá nào, tức là nó không quan tâm cách làm hay thủ đoạn của nó bề ngoài là chính đáng hay không chính đáng. Nó tàn sát, trấn áp, dùng đủ cách cương nhu, cả những cách như cưỡng bức hay dụ dỗ, không tiếc hy sinh mạng sống của bất kỳ ai, không tiếc mạng sống của bao nhiêu người để đổi lấy sự vững chắc cho địa vị của chúng, đổi lấy quyền lực trong tay chúng, đây là hành vi của Sa-tan. Kẻ địch lại Đấng Christ cũng làm như vậy.
Những lời thông công hôm nay có hợp thị hiếu của các ngươi không? (Thưa, hôm nay sau khi nghe xong, con có thu hoạch không nhỏ, đặc biệt là sự mổ xẻ đối với tri thức và phần tử trí thức đã đánh động con rất nhiều. Trước đây con không đồng ý lắm với những lời bảo rằng phần tử trí thức không có hiểu biết thuộc linh. Nhưng trong khoảng thời gian này, thông qua việc Đức Chúa Trời mổ xẻ về tri thức, con dần dần có thể đối chiếu với bản thân, thấy mình nhiều lúc không lĩnh hội được lời Đức Chúa Trời, nghe không hiểu, khi nhìn nhận về con người và sự việc thì đều dùng quan điểm của tri thức để nhìn và phân tích, dẫn đến lĩnh hội sai lầm. Đây chính là không có hiểu biết thuộc linh. Hiện tại, con đã có thể nhìn thấu một chút về thực chất của phần tử trí thức.) Hôm nay khi nói đến phần tử trí thức, Ta tuyệt đối không phải là nhắm vào cá nhân nào cả. Nhưng nếu như các ngươi có thể đối chiếu với chính mình thì quả là chuyện tốt, như vậy là có hy vọng xoay chuyển và bước vào. Các ngươi hãy mưu cầu thật tốt, từ việc không hiểu và không lý giải được lẽ thật, dần dần đạt đến việc hiểu một vài lẽ thật đơn giản, riêng biệt, không quá sâu sắc, rồi sẽ đạt đến mức hiểu lẽ thật chứ không phải hiểu câu chữ và đạo lý, như vậy ngươi dần dần sẽ có hiểu biết thuộc linh. Nếu cứ suy nghĩ về lẽ thật, suy nghĩ về thực tế thì ngươi sẽ dần dần hiểu được lẽ thật. Còn nếu luôn phân tích theo đạo lý, dùng lô-gic và đầu óc để phân tích, thì thứ ngươi hiểu chính là đạo lý, là lý luận, chúng mãi mãi không thể trở thành lẽ thật. Ngươi sẽ mãi mãi dừng lại ở mức cơ sở đạo lý. Chuyện có phải như vậy hay không? (Thưa, phải.) Có người nói: “Có những lời Đức Chúa Trời, tại sao tôi đọc không hiểu nhỉ? Dùng văn phạm, cấu trúc của bài văn để đánh giá, tại sao vẫn không dễ hiểu, không dễ tiếp nhận đối với con người nhỉ?”. Các ngươi giải thích vấn đề này như thế nào? Bây giờ các ngươi có thể hiểu chưa? Ta sẽ giải thích cho các ngươi. Từ khi có nhân loại, Đức Chúa Trời đã bắt đầu phán lời với nhân loại. Mỗi một câu nói, mỗi một đoạn lời của Đức Chúa Trời chỉ là ngôn ngữ mà thôi, không phải bài văn. Hôm nay Ta nói chuyện ở đây, là đang làm văn, làm báo cáo hay là đang trò chuyện? (Thưa, trò chuyện.) Ta đang trò chuyện với các ngươi, nói về lẽ thật, nói về chủ đề mà các ngươi cần. Ta đang nói chuyện, không phải đang làm văn. Cho nên, các ngươi phải hiểu được bài văn là gì, nói chuyện là gì, hai cái này có sự khác biệt. Mấy yếu tố cần thiết cho bài văn là những phương diện kiến thức đến từ con người. Đức Chúa Trời nói chuyện thì không cần tuân thủ những điều này, Ngài chỉ cần nói rõ ràng lẽ thật mà Ngài muốn nói, con người có thể nghe hiểu lẽ thật là đủ rồi, thậm chí không cần dùng đến các dấu câu. Con người đã phát minh ra dấu câu, phát minh ra văn chương, cũng phát minh ra ngữ pháp, phát minh ra những yếu tố cần thiết cho bài văn, những thứ này đều thuộc về phạm trù tri thức, Đức Chúa Trời không cần tuân thủ những điều này. Ngoài ra, ngôn ngữ là đến từ Đức Chúa Trời, đó là những điều tích cực. Cho nên, bất luận Đức Chúa Trời nói gì thì cũng đúng cả, không cần ngươi truy cứu vấn đề ngữ pháp, hoặc là đối chiếu, mổ xẻ vấn đề về ngữ pháp. Ngươi chỉ cần từ trong bài này, trong đoạn này, trong câu này của Đức Chúa Trời mà hiểu tâm ý của Ngài là gì, lẽ thật là gì, nguyên tắc lẽ thật mà Ngài yêu cầu con người là gì, con đường thực hành mà Đức Chúa Trời chỉ cho con người là gì, như vậy là đủ. Đây là lý trí mà loài thọ tạo như con người nên có. Đức Chúa Trời nói chuyện và làm việc không cần phải tuân theo quy định cứng nhắc mà con người đặt ra, cả những quy định trong tri thức và những thứ thuần tri thức này cũng không cần phải được tuân thủ. Đức Chúa Trời đã phán rất nhiều lời, bất luận Ngài phán điều gì thì chúng cũng đều là lẽ thật. Người có hiểu biết thuộc linh và người có trải nghiệm thì càng đọc lời Đức Chúa Trời càng cảm thấy rằng lời Đức Chúa Trời đều là lẽ thật. Lẽ thật trong đó là gì thì cần con người nghiền ngẫm, tìm kiếm và trải nghiệm. Đức Chúa Trời nói chuyện với nhân loại, ngươi hãy nhớ kỹ, là Đức Chúa Trời nói chuyện. Theo cách nói thông tục, “nói chuyện” là tán gẫu, kể chuyện. Thực chất bên trong những điều Ngài muốn nói là gì? Là tâm ý của Ngài, là lẽ thật và yêu cầu của Ngài đối với con người, nội dung chính là những điều này. Tính chất của việc nói chuyện là dùng cách thức trò chuyện để bày tỏ nỗi lòng, mặt đối mặt mà nói cho rõ ràng, cho hiểu, có lúc dùng một ít khẩu ngữ, tiếng địa phương, có lúc cũng dùng một ít ngôn ngữ văn chương. Làm văn thì cần phải có đoạn mở bài trước, thân bài là sự phát triển, trải nghiệm của sự việc, sau đó là cao trào, kết quả, phải hoàn toàn dựa theo định dạng này mà viết thì mới là một bài văn, rồi giáo viên mới có thể phê duyệt cho ngươi, chấm điểm là trung bình, tốt hoặc xuất sắc. Ngươi có thể chấm điểm cho lời của Đức Chúa Trời như vậy không? Có người nói “Bài này hay, ngữ pháp tốt, được diễn đạt bằng ngôn ngữ thần tính, hoàn toàn phù hợp với kết cấu của một bài văn. Còn bài kia thì không hay lắm, có chút rời rạc, kết cấu không tốt lắm, có vài lời không hợp với ngữ pháp, thậm chí có vài từ có vẻ không được dùng đúng chỗ cho lắm”, nhìn nhận như vậy có ổn hay không? (Thưa, không ổn.) Nhìn nhận như vậy là lệch lạc, và ngươi sẽ vĩnh viễn không đạt được lẽ thật. Ngươi phải học cách hiểu ngụ ý trong lời Đức Chúa Trời để thấy được yêu cầu của Ngài đối với ngươi là gì, lẽ thật trong đó là gì, làm như vậy mới là thông minh. Ngay cả những điều này mà ngươi cũng không biết nhìn nhận như thế nào, còn suốt ngày nói rằng: “Sao lời Đức Chúa Trời không phải là một bài văn? Lời Đức Chúa Trời nên giống như một bài diễn thuyết, Ngài nên xuất khẩu thành văn”. Ta không làm như vậy, làm như vậy mệt mỏi lắm, các ngươi nghe cũng mệt mà người nói cũng mệt. Ngươi thấy đấy, Đức Chúa Trời phán từ trên trời, nói với Gióp, với Phi-e-rơ, với Môi-se và Giô-na đi. Lời Ngài có đơn giản và rõ ràng không? Ngươi chẳng thấy có gì là siêu phàm, trừu tượng, vĩ đại và câu chữ nghiêm ngặt cả. Ngươi xem, khi Sa-tan thử thách Gióp, Đức Chúa Trời nói với Sa-tan rằng: “Ngươi có nhìn thấy Gióp, tôi tớ của Ta chăng; nơi thế gian chẳng có người nào giống như nó, vốn trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Ðức Chúa Trời, và lánh khỏi điều ác?” (Gióp 1:8), “Người ở trong tay ngươi; nhưng chỉ hãy giữ mạng sống người” (Gióp 2:6). Lời Đức Chúa Trời tuy đơn giản nhưng lại súc tích, nói ra sự việc vô cùng rõ ràng. Đó là tâm tính và thực chất của Ngài. Đức Chúa Trời không cố làm ra vẻ huyền bí. Sự vĩ đại, siêu phàm, tôn quý, thẩm quyền và quyền năng của Ngài không phải giả vờ. Tại sao lại nói không phải là giả vờ? Vì khi nói chuyện với một người nào đó, Ngài không ra vẻ, không ngụy trang thành một hình tượng cao lớn, nói những lời khiến người ta nghe không hiểu. Sa-tan mới làm như vậy, Đức Chúa Trời thì không làm như vậy, một khi đã nói thì Ngài sẽ khiến ngươi hiểu. Nếu ngươi là đứa trẻ thì Ngài sẽ dùng lời mà đứa trẻ có thể nghe hiểu để nói với ngươi. Nếu ngươi là người già thì Ngài sẽ dùng cách nói của người già để nói với ngươi. Nếu ngươi là đàn ông thì Ngài sẽ dùng ngôn ngữ mà đàn ông quen dùng để nói với ngươi. Nếu ngươi là nhân loại bại hoại thì Ngài sẽ dùng phương thức và kết cấu ngôn ngữ mà nhân loại bại hoại có thể nghe hiểu để nói với ngươi. Phương thức nói chuyện của Đức Chúa Trời rất đa dạng, có lúc nói đùa, có lúc nói ngược, có lúc châm biếm, có lúc mổ xẻ, có lúc nghiêm khắc, có lúc nhẹ nhàng, có lúc khiến ngươi cảm động, có lúc tỉa sửa xong mới vỗ về… Tất cả những công tác của Đức Chúa Trời và những lẽ thật mà Ngài bày tỏ đều không cứng nhắc, mà chúng đều sống động. Đức Chúa Trời là nguồn nước sự sống, ngọn nguồn lẽ thật là Ngài. Ngài nói gì cũng được, trong đó đều có lẽ thật, bất luận là Ngài dùng cách nào. Nếu như một người luôn nảy sinh quan niệm đối với cách nói chuyện và kết cấu ngôn ngữ của lời Đức Chúa Trời, luôn nghiên cứu, luôn hoài nghi, trong lòng luôn cảm thấy khó chịu, cảm thấy “Đức chúa trời mà tôi tin chẳng giống đức chúa trời chút nào, sao ngài lại như vậy? Tôi không muốn tiếp nhận. Nếu tôi tiếp nhận ngài thì quá mất mặt, thà tôi tin vào ai đó còn hơn”, thì đó là loại người gì? (Thưa, người không tin.) Đó là những người không tin. Đa số những người không tin là ai? Là người không có hiểu biết thuộc linh. Khi người không có hiểu biết thuộc linh nhìn thấy lời Đức Chúa Trời, họ sẽ trố mắt ra mà nghiên cứu. Kết quả vẫn là nghiên cứu không ra, thế là họ liền suy nghĩ: “Nếu đây là chân đạo, tin như vậy rốt cuộc có thể được phúc hay không? Nhiều người đều tin như vậy, nếu không tin thì chẳng phải mình sẽ xuống địa ngục sao?”, họ vẫn nuôi lòng dạ hẹp hòi. Họ sẽ không ngẫm nghĩ rằng: “Ai cũng nói trong lời Đức Chúa Trời có lẽ thật, vậy lẽ thật là gì? Sao mình lại không nhìn thấy? Mình phải đọc và nghe thêm mới được”. Đến một ngày nào đó, cuối cùng họ cũng “nghe hiểu” được rằng “Những thứ mà những lời này vạch rõ đều là tình hình thực tế, là lẽ thật, là ngôn ngữ rất phổ thông, bình thường, rất đại chúng. Trong giới tri thức, những lời này có lẽ sẽ bị coi thường, kỳ thị, bị xem là những lời bình thường nhất, có những lời còn nhạt nhẽo. Một số từ mà phần tử trí thức cao cấp trong ngành tri thức không thèm dùng đến lại được thốt ra từ miệng của đức chúa trời. Thật không thể tưởng tượng nổi, không nên như vậy chứ?”. Việc luôn nghiên cứu như vậy sẽ dẫn đến kết quả gì? Ngươi sẽ cảm thấy mình mạnh hơn Đức Chúa Trời, ngược lại Ngài nên tin ngươi, đề cao ngươi mới đúng. Như vậy chẳng phải là phiền phức rồi sao? Đây chính là người không có hiểu biết thuộc linh, thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời mãi mãi là đứng ở phía đối lập để nghiên cứu Ngài, vừa nghiên cứu vừa chống đối, vừa chống đối vừa nghĩ rằng: “Ngài không phải là đức chúa trời thì hơn, bởi vì ngài nhỏ bé như vậy, ngài không giống đức chúa trời. Nếu ngài là đức chúa trời thì trong lòng tôi sẽ không thoải mái. Tôi khinh thường ngài, nghiên cứu ngài, phân tích ngài đến mức ngài không phải đức chúa trời, mọi người không tin ngài nữa, thì tôi sẽ vui mừng. Nếu tìm được một vị đức chúa trời cao lớn để tin thì tôi mới an tâm”. Đây gọi là người không tin. Đa số những người không tin đều không có hiểu biết thuộc linh, họ vĩnh viễn sẽ không hiểu được lẽ thật, không đạt được lẽ thật từ những lời nói bình thường nhất của Đức Chúa Trời. Họ chỉ nghiên cứu, nghiên cứu tới nghiên cứu lui, không những không đạt được lẽ thật, mà còn làm trì hoãn đại sự được cứu rỗi của mình, còn tỏ lộ và đào thải chính mình. Hôm nay chúng ta thông công đến đây thôi. (Cảm tạ Đức Chúa Trời!) Tạm biệt!
Ngày 17 tháng 1 năm 2020