Sự khác biệt giữa những lời hợp lẽ thật của những người được Đức Chúa Trời sử dụng và những lời của chính Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời có liên quan:
Lời của Ta là lẽ thật mãi mãi bất biến. Ta là nguồn chu cấp sự sống cho con người và là kim chỉ nam duy nhất cho nhân loại. Giá trị và ý nghĩa của lời Ta không được xác định bởi việc chúng có được nhân loại thừa nhận hoặc chấp nhận hay không, mà bởi chính thực chất của những lời ấy. Ngay cả khi không một người nào trên trái đất này có thể tiếp nhận lời Ta, thì giá trị của lời Ta và sự hữu ích của chúng đối với nhân loại là vô giá đối với bất kỳ con người nào. Vì thế, khi đối mặt với nhiều kẻ dấy loạn chống đối, bẻ bác, hoặc hoàn toàn khinh thường lời Ta, lập trường của Ta chỉ thế này: Hãy để thời gian và sự thật làm bằng chứng cho Ta và cho thấy rằng lời Ta là lẽ thật, đường đi, và sự sống. Hãy để chúng cho thấy rằng tất cả những gì Ta đã phán là đúng, rằng đó là điều mà con người nên được trang bị và, hơn thế nữa, là những điều mà con người nên chấp nhận. Ta sẽ cho tất cả những ai theo Ta biết sự thật này: Những người không thể chấp nhận hoàn toàn lời Ta, những người không thể thực hành lời Ta, những người không thể tìm thấy mục đích trong lời Ta, và những người không thể nhận lãnh sự cứu rỗi nhờ lời Ta, là những người đã bị lời Ta lên án và, hơn thế nữa, đã đánh mất sự cứu rỗi của Ta, và cây gậy của Ta sẽ không bao giờ trật khỏi họ.
– Các ngươi phải xem xét những việc làm của mình, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Dù những lời Đức Chúa Trời phán nhìn bề ngoài là đơn giản hay sâu sắc, tất cả đều là lẽ thật không thể thiếu đối với con người khi họ bước vào sự sống; chúng là nguồn nước hằng sống cho phép họ sống sót trong cả linh hồn lẫn xác thịt. Chúng cung cấp những gì con người cần để tiếp tục sống; những nguyên tắc và tín điều để sống cuộc sống hàng ngày; con đường, mục tiêu, và phương hướng mà con người phải vượt qua để nhận lãnh sự cứu rỗi; mọi lẽ thật mà con người phải sở hữu như một hữu thể thọ tạo trước Đức Chúa Trời; và mọi lẽ thật về cách con người vâng lời và thờ phượng Đức Chúa Trời. Chúng là sự đảm bảo cho sự sống còn của con người, chúng là bánh hàng ngày của con người, và chúng cũng là chỗ dựa vững chắc cho phép con người mạnh mẽ và đứng vững. Chúng phong phú trong thực tế lẽ thật về nhân tính bình thường bởi vì nó được sống theo bởi loài người thọ tạo, phong phú trong lẽ thật mà nhân loại dùng để thoát khỏi sự bại hoại và tránh được những mưu chước của Sa-tan, phong phú trong sự dạy dỗ, thúc giục, khích lệ, và an ủi không mệt mỏi mà Đấng Tạo Hóa ban cho loài người thọ tạo. Chúng là ngọn hải đăng hướng dẫn và khai sáng cho con người hiểu mọi điều tích cực, là sự bảo đảm rằng con người sẽ sống thể hiện ra và sở hữu được tất cả mọi điều công chính và thiện lành, là tiêu chuẩn mà qua đó mọi con người, sự vật và sự việc đều được đo lường, và cũng là kim chỉ nam để đưa con người đến sự cứu rỗi và con đường của sự sáng.
– Lời tựa, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời
Lời nói của Ta đại diện cho hữu thể của Ta, nhưng những gì Ta nói vượt tầm con người. Những gì Ta nói không phải là những gì con người trải nghiệm, và không phải là thứ con người có thể nhìn thấy, cũng chẳng phải thứ con người có thể chạm vào, mà là những gì về Ta. Một số người chỉ thừa nhận những gì Ta thông công là những gì Ta đã trải nghiệm, nhưng họ không nhận ra đó là sự bày tỏ trực tiếp của Thần. Dĩ nhiên, những gì Ta nói là những gì Ta đã trải nghiệm. Chính Ta đã thực hiện công tác quản lý trong sáu ngàn năm. Ta đã trải nghiệm mọi thứ từ buổi đầu tạo dựng nhân loại cho đến nay; làm sao Ta không thể thảo luận về điều đó được? Khi nói về bản tính con người, Ta đã thấy rõ; Ta đã quan sát nó từ lâu. Làm sao Ta không thể nói rõ về nó được? Vì Ta đã thấy rõ bản chất của con người, nên Ta đủ tư cách để hành phạt con người và phán xét họ, bởi vì hết thảy con người đều đến từ Ta nhưng đã bị Sa-tan làm cho bại hoại. Dĩ nhiên, Ta cũng đủ tư cách để đánh giá công tác Ta đã thực hiện. Mặc dù công tác này không được thực hiện bởi xác thịt của Ta, nhưng đó là sự bày tỏ trực tiếp của Thần, là những gì Ta có và những gì về Ta. Vì thế, Ta đủ tư cách để bày tỏ về điều đó và làm công việc Ta phải làm. Những gì mọi người nói là những gì họ đã trải nghiệm. Đó là những gì họ đã nhìn thấy, những gì tâm trí của họ có thể đạt tới, và những gì các giác quan của họ có thể cảm nhận được. Đó là những gì họ có thể thông công. Những lời do xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời phán là sự bày tỏ trực tiếp của Thần và chúng bày tỏ về công tác đã được thực hiện bởi Thần, điều mà xác thịt chưa từng trải nghiệm hay nhìn thấy, thế nhưng Ngài vẫn bày tỏ hữu thể của Ngài, bởi vì thực chất của xác thịt là Thần, và Ngài bày tỏ công tác của Thần. Đó là công tác đã được Thần thực hiện, mặc dù nó vượt tầm xác thịt. Sau khi nhập thể, thông qua sự bày tỏ của xác thịt, Ngài khiến mọi người có thể biết được hữu thể của Đức Chúa Trời và cho phép mọi người thấy được tâm tính của Đức Chúa Trời và công tác Ngài đã làm. Công việc của con người cho mọi người sự rõ ràng hơn về những gì họ nên bước vào và những gì họ nên hiểu; nó liên quan đến việc dẫn dắt mọi người hiểu và trải nghiệm lẽ thật. Công việc của con người là hỗ trợ mọi người; công tác của Đức Chúa Trời là mở ra những con đường mới và những kỷ nguyên mới cho nhân loại, và mặc khải cho con người những điều người phàm không hay biết, giúp họ biết được tâm tính của Ngài. Công tác của Đức Chúa Trời là dẫn dắt toàn bộ nhân loại.
– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Những điều Đức Chúa Trời trực tiếp bày tỏ là lẽ thật. Bất cứ điều gì phát sinh từ sự khai sáng của Đức Thánh Linh chỉ là phù hợp với lẽ thật, vì Đức Thánh Linh khai sáng mọi người dựa trên vóc giạc của họ và không thể bày tỏ trực tiếp lẽ thật với con người. Đây là điều ngươi phải hiểu. Và khi dựa trên những lời của lẽ thật, mọi người thu được những sự thông sáng và kiến thức từ trải nghiệm, thì liệu những sự thông sáng và kiến thức ấy có được tính là lẽ thật không? Cùng lắm, đây chỉ là một chút kiến thức về lẽ thật. Những lời được khai sáng bởi Đức Thánh Linh không đại diện cho lời Đức Chúa Trời, chúng không đại diện cho lẽ thật, chúng không thuộc về lẽ thật; chúng chỉ là một chút kiến thức về lẽ thật, một chút khai sáng của Đức Thánh Linh mà thôi. Nếu người ta thu được một vài kiến thức về lẽ thật rồi đem cung cấp cho người khác, thì đó cũng là cung cấp kiến thức và kinh nghiệm cá nhân. Họ không cung cấp cho mọi người lẽ thật. Có thể nói đây là thông công về lẽ thật – cách gọi thích hợp cho việc này. Bởi vì đây không phải là một vấn đề đơn giản và hầu hết mọi người không thể nhìn thấu hết được, nên các ngươi phải hiểu cho rõ; đó không chỉ là vấn đề diễn đạt chính xác hay ngươi chỉ cần hiểu một số diễn giải là xong. Ngươi có thể đã đạt được những điều nhất định từ lẽ thật, những điều con người nên sở hữu, nhưng điều đó không có nghĩa là ngươi đã đạt được lẽ thật. Và có thể ngươi còn đạt được những điều khác nữa từ lẽ thật, nhưng điều này không có nghĩa là giờ đây ngươi đã sở hữu sự sống của lẽ thật, càng không thể nói ngươi thuộc về lẽ thật – tuyệt đối không. Ngươi chỉ đơn giản đã thu được một thứ bổ dưỡng từ lẽ thật để nuôi dưỡng sự sống của ngươi, để có thứ gì đó trong ngươi, thứ gì đó ngươi nên sở hữu, để tin vào Đức Chúa Trời và làm thỏa lòng Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời dùng lẽ thật để chu cấp cho con người, cho phép họ thông qua lẽ thật làm thỏa lòng Ngài và hợp lòng Ngài. Cuối cùng, ngay cả khi người ta đã hoàn toàn đáp ứng ý muốn của Đức Chúa Trời, thì vẫn không thể nói là họ thuộc về lẽ thật, càng không thể nói có sự sống của lẽ thật trong họ. … Mọi người đều trải nghiệm lẽ thật, nhưng mỗi người trải nghiệm trong hoàn cảnh khác nhau, và mọi người đều thu được điều gì đó khác nhau. Thế nhưng ngay cả khi gộp lại kiến thức của họ, thì họ cũng vẫn không đủ khả năng diễn tả hết một lẽ thật nào. Lẽ thật sâu thẳm như vậy đấy! Tại sao lại nói những thứ ngươi thu được và kiến thức của ngươi không thể đại diện cho lẽ thật? Ngươi thông công kiến thức của mình với người khác, và họ chỉ mất khoảng hai hay ba ngày suy ngẫm trước khi cảm nghiệm hết được kiến thức đó. Nhưng mọi người có thể cả đời vẫn không thể cảm nghiệm hết lẽ thật; ngay cả khi gộp lại những gì mỗi người đã trải nghiệm, cũng vẫn không thể cảm nghiệm hết được lẽ thật. Bởi vậy có thể thấy lẽ thật vô cùng sâu thẳm. Lẽ thật không thể được diễn tả hết bằng lời. Nói theo ngôn ngữ của con người, lẽ thật là bản chất thật của loài người. Con người sẽ không bao giờ có thể cảm nghiệm hết lẽ thật. Con người nên sống theo lẽ thật. Chỉ một lẽ thật cũng có thể duy trì sự sống của toàn nhân loại trong nhiều nghìn năm.
Trích từ “Ngươi có biết lẽ thật thực sự là gì không?” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt
Lẽ thật là sự sống của chính Đức Chúa Trời; lẽ thật đại diện cho tâm tính của Ngài, bản chất của Ngài và mọi thứ trong Ngài. Nếu ngươi nói rằng có một chút trải nghiệm nghĩa là có lẽ thật, thế thì ngươi có thể đại diện cho tâm tính của Đức Chúa Trời không? Ngươi có thể có chút trải nghiệm hoặc sự sáng liên quan đến một khía cạnh hoặc một mặt nào đó của một lẽ thật, nhưng ngươi không thể cung cấp nó cho người khác đời đời, vì vậy sự sáng này ngươi có được không phải là lẽ thật; nó chỉ đơn thuần là một mức độ nhất định mà mọi người có thể đạt được. Nó chỉ đơn giản là sự trải nghiệm đúng đắn và sự hiểu biết đúng đắn mà một người nên có: vài trải nghiệm nghiệm thực tế và sự hiểu biết về lẽ thật. Sự sáng, khai sáng và hiểu biết thực nghiệm này không bao giờ có thể thay thế cho lẽ thật; ngay cả khi hết thảy mọi người đã hoàn toàn trải nghiệm lẽ thật này và tập hợp hết thảy những sự hiểu biết thực nghiệm của họ, thì điều đó vẫn không thể thay thế cho lẽ thật đó. Như đã được phán trong quá khứ: “Ta tổng kết phần này bằng một câu cách ngôn cho thế giới loài người: Trong số loài người, không có ai yêu Ta”. Đây là một tuyên bố về lẽ thật; đó là bản chất đích thực của sự sống. Đây là điều sâu sắc nhất; đây là một sự thể hiện của chính Đức Chúa Trời. Ngươi có thể tiếp tục trải nghiệm nó, và nếu ngươi trải nghiệm nó trong ba năm thì ngươi sẽ có một sự hiểu biết nông cạn về nó; nếu ngươi trải nghiệm nó trong bảy hoặc tám năm thì ngươi sẽ càng hiểu về nó hơn – nhưng bất kỳ sự hiểu biết nào ngươi có được cũng sẽ không bao giờ có thể thay thế cho tuyên bố đó về lẽ thật. Một người khác, sau khi trải nghiệm nó trong một vài năm, có thể hiểu được một chút, sau đó hiểu biết sâu sắc hơn một chút sau khi trải nghiệm nó trong mười năm, và sau đó hiểu thêm chút nữa sau khi trải nghiệm nó suốt đời – nhưng nếu cả ngươi và người đó kết hợp những gì cả hai ngươi đã hiểu được, mặc dù thế – cho dù cả hai ngươi có hiểu biết bao nhiêu, trải nghiệm bao nhiêu, thông sáng bao nhiêu, bao nhiêu sự sáng, hoặc bao nhiêu ví dụ mà cả hai có – thì hết thảy những điều đó vẫn không thể thay thế cho tuyên bố đó về lẽ thật. Điều Ta muốn nói qua việc này là gì? Nói cách khác, cuộc sống của con người sẽ luôn luôn là cuộc sống của con người, và cho dù sự hiểu biết của ngươi có phù hợp với lẽ thật, ý định của Đức Chúa Trời và các yêu cầu của Ngài đến đâu, thì điều đó cũng sẽ không bao giờ có thể thay thế cho lẽ thật. Nói rằng mọi người đã có được lẽ thật có nghĩa là họ có một chút hiện thực, rằng họ đã có được một chút hiểu biết về lẽ thật, rằng họ đã có được phần nào lối vào hiện thực lời Đức Chúa Trời, rằng họ đã có một số kinh nghiệm thực tế với họ và họ đi đúng hướng trong đức tin của họ vào Đức Chúa Trời. Chỉ cần một tuyên bố từ Đức Chúa Trời là đủ để một người trải nghiệm cả đời; ngay cả khi mọi người trải nghiệm nó trong nhiều kiếp hoặc thậm chí vài thiên niên kỷ, họ vẫn sẽ không thể trải nghiệm hoàn toàn và triệt để chỉ một lẽ thật…
…Nếu ngươi có một chút trải nghiệm với lời Đức Chúa Trời, và đang sống theo sự hiểu biết của ngươi về lẽ thật, thì lời Đức Chúa Trời trở thành sự sống của ngươi. Tuy nhiên, ngươi vẫn không thể nói rằng lẽ thật là sự sống của ngươi hoặc rằng những gì ngươi đang thể hiện là lẽ thật; nếu đây là quan niệm của ngươi, thì ngươi sai. Nếu ngươi có một chút trải nghiệm về một khía cạnh của lẽ thật, thì chính điều này có thể đại diện cho lẽ thật không? Tuyệt đối không thể. Ngươi có thể giải thích cặn kẽ lẽ thật không? Ngươi có thể khám phá ra tâm tính của Đức Chúa Trời và bản chất của Ngài từ lẽ thật không? Ngươi không thể. Mọi người đều có trải nghiệm với chỉ một khía cạnh và phạm vi của lẽ thật; bằng cách trải nghiệm lẽ thật trong phạm vi giới hạn của mình, ngươi không thể chạm đến hết thảy vô vàn khía cạnh của lẽ thật. Mọi người có thể sống bày tỏ ra nghĩa ban đầu của lẽ thật không? Chút ít trải nghiệm của ngươi lên đến bao nhiêu? Một hạt cát trên bãi biển; một giọt nước giữa đại dương. Do đó, cho dù sự hiểu biết đó và những cảm nhận mà ngươi có được từ những trải nghiệm của ngươi có tể quý giá đến mức nào, thì chúng vẫn không thể được xem là lẽ thật. Nguồn gốc của lẽ thật và ý nghĩa của lẽ thật bao hàm một phạm vi rất rộng. Không gì có thể mâu thuẫn với nó. Một số người nói: “Kiến thức từ kinh nghiệm của tôi sẽ không bao giờ bị mâu thuẫn chứ?” Dĩ nhiên là không. Sự hiểu biết thật sự đến từ kinh nghiệm của ngươi về lời Đức Chúa Trời thì phù hợp với lẽ thật – làm sao có thể mâu thuẫn được? Lẽ thật có thể là cuộc sống của ngươi trong bất kỳ môi trường nào. Nó có thể cho ngươi một con đường, và nó có thể cho phép ngươi sinh tồn. Tuy nhiên, những điều con người có và sự sáng mà họ đã đạt được chỉ phù hợp cho bản thân họ hay một số người khác trong một phạm vi nhất định, nhưng sẽ không phù hợp trong phạm vi khác. Cho dù kinh nghiệm của một người sâu sắc đến đâu, nó vẫn rất hạn chế, và trải nghiệm của họ sẽ không bao giờ đạt đến phạm vi của lẽ thật. Sự sáng của một người và sự hiểu biết của một người không bao giờ có thể so sánh được với lẽ thật.
Trích từ “Ngươi có biết lẽ thật thực sự là gì không?” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt
Ngoài các sách tiên tri, đa phần Cựu Ước là bản ghi chép lịch sử. Một số thư tín của Tân Ước đến từ những kinh nghiệm của con người, và một số đến từ sự khai sáng của Đức Thánh Linh; chẳng hạn, các thư tín của Phao-lô phát xuất từ công việc của một con người, tất cả chúng đều là kết quả của sự khai sáng của Đức Thánh Linh, và chúng đã được viết cho các hội thánh và là những lời khuyên bảo, khích lệ cho các anh chị em trong các hội thánh. Chúng không phải là những lời do Đức Thánh Linh phán – Phao-lô không thể phán nhân danh Đức Thánh Linh, và ông cũng không phải là một tiên tri, lại càng không nhìn thấy những khải tượng mà Giăng đã trông thấy. Các thư tín của ông được viết cho các hội thánh Ê-phê-sô, Phi-la-đen-phi, Ga-la-ti, và các hội thánh khác. Và do đó, các thư tín của Phao-lô trong Tân Ước là các thư tín mà Phao-lô đã viết cho các hội thánh, chứ không phải là những sự soi dẫn từ Đức Thánh Linh, chúng cũng không phải là những lời phán trực tiếp của Đức Thánh Linh. Chúng chỉ đơn thuần là những lời khuyên bảo, an ủi và khích lệ mà ông đã viết cho các hội thánh trong suốt quá trình công tác của mình. Vì vậy, chúng cũng là một bản ghi chép về nhiều công việc của Phao-lô thời đó. Chúng đã được viết cho tất cả những người là các anh chị em trong Chúa, để cho các anh chị em trong các hội thánh thời đó sẽ làm theo lời khuyên của ông và tuân theo con đường ăn năn của Đức Chúa Jêsus. Phao-lô đã không hề nói rằng, dù là các hội thánh thời đó hay trong tương lai, tất cả đều phải ăn uống những điều ông đã viết, ông cũng không nói rằng mọi lời của ông đều đến từ Đức Chúa Trời. Dựa trên hoàn cảnh của hội thánh lúc bấy giờ, ông chỉ đơn giản tương giao với các anh chị em, khuyên bảo họ, và truyền cảm hứng cho niềm tin trong họ, và ông chỉ đơn giản rao giảng hoặc nhắc nhở mọi người và khuyên bảo họ. Những lời của ông dựa trên trọng trách của bản thân ông, và ông đã hỗ trợ mọi người thông qua những lời này. Ông đã làm công việc của một sứ đồ của các hội thánh thời đó, ông là một cộng sự được Đức Chúa Jêsus sử dụng, và do đó ông phải nhận lãnh trách nhiệm đối với các hội thánh, và phải gánh vác công tác của các hội thánh, ông phải tìm hiểu tình trạng của các anh chị em – và vì điều này, ông đã viết các thư tín cho tất cả các anh chị em trong Chúa. Tất cả những gì ông nói mang tính khai trí và tích cực đối với mọi người thì đều đúng, nhưng nó không đại diện cho những lời phán của Đức Thánh Linh, và nó không thể đại diện cho Đức Chúa Trời. Thật là một cách hiểu cực kỳ tệ hại, và là một sự báng bổ vô cùng, khi mọi người xem các bản ghi chép về những kinh nghiệm của một con người và các thư tín của một con người là những lời Đức Thánh Linh phán với các hội thánh! Điều đó đặc biệt đúng khi nói đến các thư tín Phao-lô đã viết cho các hội thánh, vì các thư tín của ông được viết cho các anh chị em dựa trên hoàn cảnh và tình hình của mỗi hội thánh vào thời điểm đó, và để khuyên bảo các anh chị em trong Chúa, hầu cho họ có thể nhận được ân điển của Đức Chúa Jêsus. Các thư tín của ông là để thúc đẩy các anh chị em vào lúc đó. Có thể nói rằng đây là trọng trách của bản thân ông, và cũng là trọng trách được Đức Thánh Linh đặt lên vai ông; xét cho cùng, ông là một sứ đồ đã dẫn dắt các hội thánh thời đó, người đã viết thư tín cho các hội thánh và khuyên bảo họ – đó là trách nhiệm của ông. Thân phận của ông chỉ đơn thuần là một sứ đồ đang làm việc, và ông chỉ đơn thuần là một sứ đồ được Đức Chúa Trời phái đến; ông không phải là một tiên tri hoặc một nhà tiên báo. Đối với ông, công việc của bản thân và đời sống của các anh chị em là quan trọng nhất. Vì thế, ông không thể phán dạy nhân danh Đức Thánh Linh. Những lời của ông không phải là những lời của Đức Thánh Linh, càng không thể nói là những lời của Đức Chúa Trời, vì Phao-lô chỉ là một vật thọ tạo của Đức Chúa Trời không hơn, và chắc chắn không phải là sự nhập thể của Đức Chúa Trời. Thân phận của ông không giống với thân phận của Jêsus. Những lời của Jêsus là những lời của Đức Thánh Linh, chúng là những lời của Đức Chúa Trời, vì thân phận của Ngài là của Đấng Christ – Con của Đức Chúa Trời. Làm sao Phao-lô có thể sánh ngang với Ngài được? Nếu mọi người xem các thư tín hoặc những lời giống của Phao-lô là những lời phán của Đức Thánh Linh và tôn thờ chúng như Đức Chúa Trời, thì chỉ có thể nói rằng họ quá bừa bãi. Nói gay gắt hơn, đây chẳng phải đơn giản là báng bổ sao? Làm sao một con người lại có thể phán nhân danh Đức Chúa Trời được? Và làm sao mọi người có thể cúi lạy trước những bản ghi chép về các thư tín của con người và những lời con người nói như thể chúng là sách thánh, hay sách Trời được? Những lời của Đức Chúa Trời có thể được thốt ra tùy tiện bởi một con người hay sao? Làm sao một con người có thể phán nhân danh Đức Chúa Trời được? Vậy thì ngươi nói sao – có thể nào các thư tín mà ông đã viết cho các hội thánh không bị nhiễm những ý tưởng riêng của ông không? Làm sao chúng không bị nhiễm những quan niệm của con người được? Ông đã viết thư tín cho các hội thánh dựa trên những kinh nghiệm cá nhân của mình và kiến thức của riêng mình. Chẳng hạn, Phao-lô viết một thư tín cho các hội thánh Ga-la-ti, trong đó chứa một quan điểm nhất định, và Phi-e-rơ viết một thư tín khác, trong đó có một quan điểm khác. Ai trong số họ đến từ Đức Thánh Linh? Không ai dám nói chắc. Vì vậy, chỉ có thể nói rằng cả hai người họ đều mang trọng trách với các hội thánh, nhưng những bức thư của họ thể hiện vóc giạc của họ, chúng đại diện cho sự cung cấp và hỗ trợ của họ cho các anh chị em, trọng trách của họ đối với các hội thánh, và chúng chỉ đại diện cho công việc của con người – chúng không hoàn toàn đến từ Đức Thánh Linh. Nếu ngươi nói rằng các thư tín của ông là lời của Đức Thánh Linh, thì ngươi thật ngớ ngẩn, và ngươi đang phạm tội báng bổ! Các thư tín của Phao-lô và các thư tín khác trong Tân Ước tương đương với ký sự của các nhân vật thuộc linh gần đây hơn: Chúng ngang tầm với các sách của Nghê Thác Thanh hoặc những kinh nghiệm của Lawrence, v.v. Chỉ là những cuốn sách của các nhân vật thuộc linh gần đây không được biên soạn vào trong Tân Ước, nhưng bản chất của những người này là như nhau: Họ là những người được Đức Thánh Linh sử dụng trong một thời kỳ nhất định, và họ không thể đại diện trực tiếp cho Đức Chúa Trời.
– Xét về Kinh Thánh (3), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Những đường lối thực hành và kiến thức của con người về lẽ thật đều khả dụng trong một phạm vi nhất định. Ngươi không thể nói rằng con đường mà con người bước đi hoàn toàn là ý muốn của Đức Thánh Linh, bởi vì con người chỉ có thể được khai sáng bởi Đức Thánh Linh, và không thể hoàn toàn được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Những thứ con người có thể trải nghiệm đều nằm trong phạm vi nhân tính bình thường và không thể vượt quá phạm vi của những tư tưởng trong tâm trí con người bình thường. Tất cả những người có thể sống trọn thực tế lẽ thật đều trải nghiệm nội trong phạm vi này. Khi họ trải nghiệm lẽ thật, đó luôn là một trải nghiệm của đời sống con người bình thường được Đức Thánh Linh khai sáng; đó không phải một cách trải nghiệm lệch lạc với đời sống con người bình thường. Họ trải nghiệm lẽ thật được khai sáng bởi Đức Thánh Linh trên cơ sở sống cuộc sống con người của họ. Hơn nữa, lẽ thật này khác nhau ở mỗi người, và chiều sâu của nó liên quan đến trạng thái của người đó. Một người chỉ có thể nói rằng con đường họ đi là cuộc sống con người bình thường của một người theo đuổi lẽ thật, và có thể gọi là con đường được đi bởi một người bình thường được Đức Thánh Linh khai sáng. Một người không thể nói rằng con đường họ đi là con đường Đức Thánh Linh đi. Trong trải nghiệm bình thường của con người, bởi vì những người theo đuổi không giống nhau, nên công tác của Đức Thánh Linh cũng không giống nhau. Thêm vào đó, bởi vì môi trường con người trải nghiệm và phạm vi trải nghiệm của họ không giống nhau, và bởi sự pha trộn của tâm trí và tư tưởng họ, nên trải nghiệm của họ bị pha trộn ở các mức độ khác nhau. Mỗi người hiểu về lẽ thật tùy theo điều kiện cá nhân khác nhau của họ. Hiểu biết của họ về ý nghĩa thật sự của lẽ thật không đầy đủ và chỉ là một hoặc một vài phương diện. Phạm vi lẽ thật mà con người trải nghiệm khác nhau ở mỗi người, phù hợp với điều kiện của mỗi người. Theo cách này, kiến thức về cùng một lẽ thật, được bày tỏ bởi những người khác nhau thì không giống nhau. Điều này có nghĩa là kinh nghiệm của con người luôn có những hạn chế và không thể đại diện trọn vẹn cho ý muốn của Đức Thánh Linh, cũng như không thể coi công việc của con người là công tác của Đức Chúa Trời, ngay cả khi những gì con người bày tỏ rất gần với ý muốn của Đức Chúa Trời, và ngay cả khi kinh nghiệm của con người rất gần với công tác hoàn thiện mà Đức Thánh Linh thực hiện. Con người chỉ có thể là tôi tớ của Đức Chúa Trời, thực hiện các công việc Đức Chúa Trời giao phó cho họ. Con người chỉ có thể bày tỏ kiến thức do Đức Thánh Linh khai sáng và những lẽ thật đạt được từ những trải nghiệm cá nhân của họ. Con người không đủ tư cách và không đáp ứng các điều kiện để làm phương tiện bày tỏ của Đức Thánh Linh. Họ không được quyền nói rằng công việc của họ là công tác của Đức Chúa Trời.
– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Sự thông công của con người khác với lời Đức Chúa Trời. Những gì mọi người thông công truyền tải những sự thông sáng và kinh nghiệm cá nhân của họ, bày tỏ những sự thông sáng và kinh nghiệm của họ trên cơ sở công tác của Đức Chúa Trời. Trách nhiệm của họ là phải tìm ra được, sau khi Đức Chúa Trời làm việc hay phán dạy, những gì trong đó mà họ phải thực hành hay bước vào, và sau đó truyền đạt lại cho các môn đệ. Do đó, công việc của con người đại diện cho sự bước vào và thực hành của họ. Dĩ nhiên, những công việc như thế này bị pha trộn với những bài học và kinh nghiệm của con người hoặc một số tư tưởng của họ. Bất kể Đức Thánh Linh làm việc như thế nào, dù là trên con người hay trong Đức Chúa Trời nhập thể, thì những cộng sự luôn bày tỏ họ là gì. Mặc dù chính là Đức Thánh Linh làm việc, nhưng công việc được đặt trên cơ sở những gì con người vốn có, bởi vì Đức Thánh Linh không làm việc gì mà không có cơ sở. Nói cách khác, công việc không đến từ hư vô, mà luôn được thực hiện phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế. Chỉ bằng cách này, tâm tính của con người mới có thể được chuyển hóa và những quan niệm cùng tư tưởng cũ kỹ của họ mới có thể được thay đổi. Những gì con người bày tỏ là những gì họ nhìn thấy, cảm nghiệm, có thể tưởng tượng, và có thể đạt được bằng suy nghĩ của con người, cho dù đó có là học thuyết hay những quan niệm. Công việc của con người không thể vượt quá phạm vi kinh nghiệm của con người, những gì con người thấy, những gì con người có thể tưởng tượng hay nghĩ ra, bất kể quy mô của công việc đó thế nào. Tất cả những gì Đức Chúa Trời bày tỏ là những gì về chính Ngài, và điều này không thể đạt được bởi con người – nghĩa là vượt quá tầm suy nghĩ của con người. Ngài bày tỏ công tác dẫn dắt toàn nhân loại của Ngài, và điều này không liên quan đến các chi tiết trong kinh nghiệm của con người, mà thay vào đó, liên quan đến kế hoạch quản lý của riêng Ngài. Những gì con người bày tỏ là kinh nghiệm của họ, trong khi những gì Đức Chúa Trời bày tỏ là hữu thể của Ngài, đó là tâm tính cố hữu của Ngài, vượt tầm con người. Kinh nghiệm của con người là sự thông sáng và kiến thức có được dựa trên sự bày tỏ của Đức Chúa Trời về hữu thể của Ngài. Sự thông sáng và kiến thức như thế gọi là hữu thể của con người, và cơ sở cho sự bày tỏ chúng là tâm tính và tố chất vốn có của con người – đây là lí do vì sao chúng cũng được gọi là hữu thể của con người. Con người có thể thông công những gì họ trải nghiệm và nhìn thấy. Không ai có thể thông công những gì họ chưa từng trải nghiệm, chưa từng nhìn thấy, hay tư duy của họ không thể đạt tới, những thứ họ không có bên trong mình. Nếu những gì con người bày tỏ không phải từ kinh nghiệm của họ, thì đó là trí tưởng tượng của họ hoặc là giáo lý. Nói đơn giản là không có hiện thực trong lời họ. Nếu ngươi chưa từng tiếp xúc với những thứ trong xã hội, thì ngươi không thể nào thông công rõ ràng về các mối quan hệ xã hội phức tạp. Nếu ngươi không có gia đình mà người khác lại nói về những chuyện gia đình, thì ngươi sẽ không hiểu phần lớn những gì họ nói. Vì thế, những gì con người thông công và công việc họ làm đại diện cho hữu thể nội tại của họ.
– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời của Đức Chúa Trời không thể nói là lời của con người, và càng không thể nói lời của con người là lời của Đức Chúa Trời. Người được Đức Chúa Trời sử dụng không phải là Đức Chúa Trời nhập thể, và Đức Chúa Trời nhập thể không phải là người được Đức Chúa Trời sử dụng. Ở đây có một sự khác biệt về bản chất. Có lẽ, sau khi đọc những lời này, ngươi sẽ không công nhận chúng là lời của Đức Chúa Trời, mà chỉ là sự khai sáng mà con người đã đạt được. Nếu thế, ngươi đã bị sự thiếu hiểu biết làm cho đui mù. Làm sao lời của Đức Chúa Trời có thể giống với sự khai sáng mà con người đã đạt được? Lời của Đức Chúa Trời nhập thể mở ra một thời đại mới, dẫn dắt toàn bộ nhân loại, tiết lộ những lẽ mầu nhiệm, và cho con người thấy phương hướng họ sẽ đi trong thời đại mới. Sự khai sáng mà con người đạt được chỉ là những hướng dẫn đơn giản để thực hành hay có được kiến thức. Nó không thể dẫn dắt toàn nhân loại vào một thời đại mới hay tiết lộ những lẽ mầu nhiệm về chính Đức Chúa Trời. Xét cho cùng, Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, và con người là con người. Đức Chúa Trời có thực chất của Đức Chúa Trời, và con người có thực chất của con người. Nếu con người xem lời Đức Chúa Trời phán là sự khai sáng đơn giản bởi Đức Thánh Linh, và xem lời của các sứ đồ và nhà tiên tri là những lời do đích thân Đức Chúa Trời phán, thì đó sẽ là sai lầm của con người. Bất kể thế nào, ngươi đừng bao giờ lẫn lộn đúng sai, biến cao thành thấp, hay nhầm sâu thành nông; bất kể thế nào, ngươi đừng bao giờ cố tình bác bỏ những gì mình biết là lẽ thật. Tất cả những ai tin rằng có một Đức Chúa Trời đều nên tìm hiểu vấn đề từ quan điểm đúng, và chấp nhận công tác mới của Đức Chúa Trời cùng những lời mới của Ngài từ góc độ là vật thọ tạo của Ngài; nếu không, họ sẽ bị Đức Chúa Trời loại bỏ.
– Lời tựa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?