Cách mưu cầu lẽ thật (1)

Chúng ta đã thông công về chủ đề cách mưu cầu lẽ thật này một thời gian rất dài rồi, mọi nội dung thông công đều liên quan đến một phương diện thực hành trong cách mưu cầu lẽ thật – đó là buông bỏ. Nghĩa là những nội dung đã thông công đều nói đến những thứ con người nên buông bỏ trong quá trình tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật, cũng là những thứ con người nên buông bỏ trong cuộc sống của họ và trên con đường cuộc đời họ đi, chúng chính là một vài thứ ảnh hưởng đến việc mưu cầu lẽ thật của người ta. Vậy mục đầu tiên trong nội dung về buông bỏ là gì? (Thưa, buông bỏ các loại cảm xúc tiêu cực của con người.) Còn mục nội dung thứ hai? (Thưa, buông bỏ những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn của con người.) Mục thứ nhất trong nội dung về buông bỏ là buông bỏ các loại cảm xúc tiêu cực, mục thứ hai là buông bỏ những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn của con người. Trong mỗi một mục đều bao gồm nhiều chủ đề nhỏ và nhiều nội dung chi tiết, phải không? (Thưa, phải.) Bất kể nội dung thông công là gì, bất kể các thể loại và hạng mục trong những nội dung này là gì, cũng bất kể có nêu ra bao nhiêu ví dụ, vạch rõ bao nhiêu tình trạng và bao nhiêu thực chất vấn đề, thì tóm lại, mọi nội dung chúng ta đã thông công này đều liên quan đến các loại vấn đề mà người ta gặp phải trong quá trình tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật hoặc trong đời sống hiện thực, cũng như liên quan đến con đường thực hành mà người ta nên lựa chọn và nguyên tắc lẽ thật mà người ta nên tuân thủ khi gặp phải với những vấn đề này. Nội dung đủ mọi phương diện có liên quan những vấn đề này đều không trống rỗng, cũng không phải chỉ tồn tại trong tư tưởng hay trong thế giới tinh thần của con người, thay vào đó, chúng tồn tại trong đời sống hiện thực của con người. Cho nên, nếu ngươi sẵn lòng mưu cầu lẽ thật, thì bất kể gặp phải vấn đề về phương diện nào, Ta đều hy vọng ngươi có thể tìm kiếm lẽ thật và tìm được nguyên tắc lẽ thật tương ứng để làm nền tảng và tìm được con đường thực hành, nhờ đó khi gặp phải những vấn đề này thì ngươi có con đường để đi. Đây chính là một mục đích cơ bản khi thông công toàn bộ nội dung này. Tuy rằng những lẽ thật này đã được thông công xong, nhưng nếu người ta muốn bước vào những thực tế lẽ thật này thì vẫn cần một khoảng thời gian. Người ta nên bắt đầu từ việc thông công những lẽ thật này, lấy nguyên tắc lẽ thật về đủ mọi phương diện làm nền tảng, thay đổi quan điểm nhìn nhận của mình về đủ mọi loại chuyện, cũng như thay đổi thái độ sống và phương thức sinh tồn của mình. Như vậy, trong quá trình tin Đức Chúa Trời hoặc trong quá trình sinh sống và sinh tồn, người ta sẽ thông qua việc tiếp nhận những nguyên tắc lẽ thật này mà không biết từ lúc nào đạt đến việc thay đổi các loại tư tưởng và quan điểm sai lầm hoặc những thái độ sinh tồn và phương thức sinh tồn vốn có và cổ hủ đến từ Sa-tan, nhờ đó mà thoát khỏi tâm tính bại hoại. Cho nên, những lời chúng ta đã thông công trước đây hoặc sẽ thông công sau này đều không phải là một loại tri thức hay là một loại học thuật, đương nhiên cũng không phải một loại lý luận. Thay vào đó, chúng được dùng để chỉ đạo, chỉ dẫn và giúp đỡ người ta giải quyết các loại vấn đề nan giải và các loại khó khăn mà họ gặp phải trong cuộc sống thường nhật. Khi ngươi gặp phải vấn đề về một phương diện nào đó, hoặc khi ngươi gặp phải một hoàn cảnh, một con người, sự việc, sự vật nào đó, ngươi có thể tìm những tiêu chuẩn lẽ thật mà ngươi nên tuân thủ và thực hành từ những nội dung đã thông công này, để từ đó ngươi có thể hành động với lẽ thật làm nền tảng và tiêu chuẩn, chứ không phải thực hành theo tâm tính bại hoại và những quan điểm sai lầm, cổ hủ của ngươi. Mục đích của việc người ta tin Đức Chúa Trời là để mưu cầu lẽ thật, nhưng mục đích của việc mưu cầu lẽ thật không phải là để lấp đầy hay thay đổi cuộc sống trống rỗng của người ta, cũng không phải để làm phong phú thế giới tinh thần của người ta, vậy mục đích của việc mưu cầu lẽ thật là gì? Đối với con người, mục đích là để thoát khỏi tâm tính bại hoại hòng đạt đến sự cứu rỗi, đương nhiên thoát khỏi tâm tính bại hoại cũng là để đạt đến việc thuận phục Đức Chúa Trời, kính sợ Ngài và lánh khỏi điều ác. Nhưng đối với Đức Chúa Trời, mục đích và ý nghĩa việc con người mưu cầu lẽ thật không phải chỉ bình thường như vậy, không chỉ là chuyện một người nào đó có thể được cứu rỗi. Thay vào đó, đây là chuyện Đức Chúa Trời có thể thu phục một người không còn bị tâm tính bại hoại của Sa-tan đùa bỡn nữa, đương nhiên cũng là để thu phục một loại người có thể tương hợp với Ngài, điều quan trọng hơn nữa là Đức Chúa Trời có thể thu phục từ trong nhân loại thọ tạo một loại người Ngài muốn mà có thể quản lý vạn vật và có thể trường tồn cùng với vạn vật. Ý nghĩa này không đơn giản chỉ là chuyện được cứu rỗi theo góc độ của con người. Cho nên, dù xét từ góc độ của con người hay từ góc độ của Đức Chúa Trời, thì việc mưu cầu lẽ thật đều rất quan trọng. Vì nó quan trọng như vậy, nên nội dung của một phương diện thực hành liên quan đến việc mưu cầu lẽ thật – “buông bỏ” – là vô cùng quan trọng đối với những ai muốn mưu cầu đạt được sự cứu rỗi. Bởi vì việc thực hành phương diện “buông bỏ” này quan trọng như vậy, nên các nguyên tắc lẽ thật liên quan đến việc “buông bỏ” cũng như các tình trạng, sự bộc lộ tâm tính bại hoại, tư tưởng và quan điểm bại hoại liên quan đến việc thực hành “buông bỏ” đã được vạch trần, chính là nội dung mà người ta cần phải nhận biết thấu đáo. Chỉ có thông qua việc kiểm điểm và nhận biết những tư tưởng, quan điểm sai lầm thường bộc lộ trong cuộc sống thường nhật, cũng như những tâm tính bại hoại và sự bộc lộ bại hoại của mình, người ta mới có thể đạt đến việc nhận biết bản thân, hiểu và tiếp nhận một phương diện lẽ thật nào đó, sau đó thực hành theo nguyên tắc lẽ thật tương ứng, như vậy người ta mới đạt được mục đích mưu cầu lẽ thật. Hai mục nội dung chính về “buông bỏ” nằm trong trong cách mưu cầu lẽ thật mà chúng ta đã thông công trong giai đoạn này, về cơ bản cũng khép lại. Mục đầu tiên là gì? Là buông bỏ các loại cảm xúc tiêu cực của con người. Mục thứ hai là gì? Là buông bỏ những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn của con người. Dù nội dung thông công về hai mục này rất nhiều, nhưng điều quan trọng hơn là ngươi cần hiểu được mỗi một nguyên tắc lẽ thật cụ thể liên quan đến những chủ đề này. Chỉ khi hiểu nguyên tắc lẽ thật rồi, người ta mới có thể làm người và hành động theo nguyên tắc lẽ thật trong cuộc sống thường nhật và trên con đường cuộc đời, dần dà bước vào thực tế lẽ thật, và từ trong quá trình mưu cầu lẽ thật mà dần dà có được kết quả trong việc hiểu và đạt được lẽ thật.

Hai mục nội dung về thực hành “buông bỏ” nằm trong cách mưu cầu lẽ thật mà chúng ta đã thông công lúc trước, có liên quan đến tâm tính bại hoại của con người và đủ loại tư tưởng, quan điểm của con người, cũng liên quan đến các vấn đề về nhiều mặt mà con người gặp phải trong cuộc sống thường nhật. Nhưng nội dung về “buông bỏ” này còn có một mục quan trọng hơn hoặc có thể nói là lớn hơn, cũng là nội dung mà chúng ta không thông công thì không được. Vậy đó là mục gì? Nó liên quan đến thái độ, tư tưởng và quan điểm của con người đối với Đức Chúa Trời, còn có nguyên tắc thực hành để con người đối đãi với Đức Chúa Trời trong cuộc sống thường nhật. Có thể nói rằng, mục này quan trọng hơn hai mục trước một chút. Bởi vì mục này trực tiếp liên quan đến thái độ, tư tưởng và quan điểm của người ta đối với Đức Chúa Trời, liên quan đến mối quan hệ giữa người ta và Đức Chúa Trời, cho nên mục này là mục cuối cùng chúng ta sẽ nói về “buông bỏ”, đương nhiên cũng là mục quan trọng nhất. Hai nội dung đã nói trước đây có một số chủ đề liên quan đến một vài thái độ và quan điểm của người ta đối với Đức Chúa Trời, hoặc liên quan đến mối quan hệ giữa người ta và Đức Chúa Trời, nhưng xét về góc độ của những nội dung đã thông công, về cơ bản chúng ta đứng ở góc độ của con người để mổ xẻ các vấn đề của con người – nghĩa là lấy đủ loại vấn đề khác nhau của con người làm bối cảnh để mổ xẻ các tâm tính bại hoại khác nhau hoặc các tư tưởng và quan điểm sai lầm của người ta. Nội dung chúng ta dự định thông công hôm nay có liên quan đến thái độ, tư tưởng và quan điểm của người ta đối với Đức Chúa Trời. Đây là những điều quan trọng nhất mà người ta phải buông bỏ trong quá trình mưu cầu lẽ thật. Mục này cũng không hẳn đơn giản, bởi vì dù là ai hay là loại người nào, thì khi đối đãi với Đức Chúa Trời, người ta không chỉ có một loại thái độ, cũng không chỉ có một loại tư tưởng và quan điểm, đương nhiên mối quan hệ giữa người ta và Đức Chúa Trời cũng không phải chỉ là một loại quan hệ, hoặc chỉ liên quan đến một loại tình trạng của người ta. Bởi vì người ta có đủ loại thái độ đối với Đức Chúa Trời, có đủ loại tư tưởng và quan điểm về thân phận, địa vị và hình tượng của Đức Chúa Trời, cùng nhiều lý do khác nữa, nên đủ loại quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời cũng nảy sinh. Vậy hôm nay chúng ta sẽ thông công một chút về mục này, xem thử giữa con người và Đức Chúa Trời rốt cuộc còn tồn tại những vấn đề nghiêm trọng nào hoặc những mâu thuẫn không thể hoà giải nào, và rốt cuộc người ta còn phải buông bỏ những gì. Sau khi hiểu rõ chuyện này, nếu ngươi là người mưu cầu lẽ thật, thì mối quan hệ giữa ngươi và Đức Chúa Trời sẽ được cải thiện, quan điểm của ngươi đối với Đức Chúa Trời sẽ dần có xu hướng đúng đắn, tích cực hoặc phù hợp với lẽ thật. Mục thứ ba của nội dung buông bỏ là buông bỏ những rào cản giữa mình và Đức Chúa Trời và sự thù địch đối với Ngài, đây là mục thứ ba của những điều mà người ta nên buông bỏ. Trước khi chính thức thông công chủ đề này, trước hết chúng ta cùng thảo luận sơ qua một chút về chuyện trong cuộc sống thường nhật có tồn tại những vấn đề nào liên quan đến rào cản giữa con người và Đức Chúa Trời cũng như sự thù địch của con người đối với Đức Chúa Trời. Ngoài một vài vấn đề chủ quan tự thân của người ta ra, chẳng phải còn tồn tại đủ loại vấn đề về cách người ta đối đãi với Đức Chúa Trời trong quá trình tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật sao? Khi tiếp cận các loại sự việc và sự vật, người ta có đủ loại tư tưởng, quan điểm sai lầm và nguyên tắc thực hành sai lầm, tương tự như vậy, khi đối đãi với Đức Chúa Trời, người ta cũng có đủ loại tư tưởng, quan điểm sai lầm và nguyên tắc thực hành sai lầm. Nếu như đối với đủ loại người, sự việc và sự vật, ngươi có thể đối đãi và thực hành theo nguyên tắc lẽ thật – nghĩa là ngươi nhận biết được tư tưởng và quan điểm sai lầm của mình đối với đủ loại con người, sự việc và sự vật, đồng thời cũng có thể sửa đổi và buông bỏ những tư tưởng và quan điểm sai lầm này, sau đó dựa vào tư tưởng và quan điểm đúng đắn mà Đức Chúa Trời đã nói cho con người để đối diện và giải quyết các loại vấn đề này – vậy thì nguyên tắc thực hành của ngươi khi đối đãi với các loại con người, sự việc và sự vật mới tương đối phù hợp với nguyên tắc lẽ thật. Đây có được xem là dấu hiệu rằng một người nào đó được cứu rỗi không? Bây giờ xem ra vẫn chưa thể xem là vậy. Nếu Ta không đề cập đến nội dung thông công hôm nay, thì người ta vẫn có thể cho rằng: “Đối với đủ mọi chuyện, tôi đều nhìn nhận và thực hành theo nguyên tắc lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời, vậy có lẽ tôi chính là người mưu cầu lẽ thật, là người đạt được kết quả trong việc mưu cầu lẽ thật, và cũng là người được cứu rỗi”. Thông qua chủ đề mà Ta đề cập hôm nay – nghĩa là xét từ các loại thái độ của con người đối với Đức Chúa Trời – thì ý nghĩ này có phù hợp với sự thật không? (Thưa, không phù hợp.) Rõ ràng là không phù hợp với sự thật. Có lẽ ngươi có nền tảng nhất định và thái độ tích cực nhất định trong cách đối đãi với đủ loại con người, sự việc và sự vật, nhưng giữa ngươi và Đức Chúa Trời vẫn tồn tại đủ loại rào cản, và thái độ của ngươi đối với Đức Chúa Trời trong đủ loại vấn đề vẫn là thù địch. Đây là vấn đề nghiêm trọng và là vấn đề lớn nhất. Biểu hiện đủ mọi mặt của ngươi trong thời gian đi theo Đức Chúa Trời và làm bổn phận khiến cho người ta thấy ngươi có vẻ đàng hoàng, bề ngoài có vẻ cũng phù hợp với lẽ thật và các nguyên tắc. Tuy nhiên, trong lòng ngươi lại tồn tại rất nhiều quan niệm về Đức Chúa Trời, tồn tại những rào cản giữa ngươi và Đức Chúa Trời, thậm chí lúc gặp phải nhiều vấn đề, ngươi vẫn có thái độ thù địch đối với Đức Chúa Trời. Vậy thì những vấn đề này rất nghiêm trọng. Nếu trong lòng ngươi tồn tại những vấn đề này, thì đâu thể chứng tỏ ngươi là một người được cứu rỗi. Bởi vì vẫn còn rất nhiều rào cản giữa ngươi và Đức Chúa Trời, trong những vấn đề then chốt và trọng đại, ngươi vẫn có thái độ thù địch với Đức Chúa Trời, vậy ngươi chẳng những không phải là người được cứu rỗi, mà ngược lại còn đang gặp nguy hiểm. Ngay cả khi ngươi cho rằng lúc gặp rất nhiều chuyện trong cuộc sống, ngươi đều có thể làm theo nguyên tắc lẽ thật, hơn nữa cũng làm tương đối phù hợp với lẽ thật, nhưng có thể nói đây chỉ là một hiện tượng bề ngoài, không thể chứng thực rằng ngươi đã được cứu rỗi. Điều này là bởi quan hệ giữa ngươi và Đức Chúa Trời vẫn chưa đạt đến sự tương hợp, ngươi vẫn chưa thuận phục và kính sợ Đức Chúa Trời. Do đó, mỗi khi gặp phải các loại sự việc thì những hành vi bên ngoài hoặc tư tưởng, quan điểm của ngươi chỉ có thể cho thấy ngươi đang tuân thủ những đạo lý, khẩu hiệu và quy định mà ngươi cho là đúng trong những chuyện này, chứ không phải là đang tuân thủ nguyên tắc lẽ thật. Chuyện này có thể có chút quan hệ biện chứng, nghe có vẻ rất phức tạp, nhưng sau khi chúng ta đã thông công về nội dung cụ thể của chủ đề buông bỏ những rào cản giữa mình và Đức Chúa Trời và sự thù địch đối với Ngài, nếu người ta kiểm điểm cho kỹ, thì họ sẽ hiểu được lời Ta nói có ý gì.

Trước khi chính thức thông công về chủ đề buông bỏ những rào cản giữa mình và Đức Chúa Trời và sự thù địch đối với Ngài, trước hết chúng ta hãy thảo luận một chút về những rào cản nào tồn tại giữa con người và Đức Chúa Trời. Có những rào cản nào giữa Đức Chúa Trời và có những sự thù địch nào đối với Ngài, mà ngươi có thể cảm nhận và ý thức được trong cuộc sống thường nhật của mình, hoặc phát sinh nơi những người khác? Chắc chắn có những biểu hiện này, mỗi ngày chúng đều xảy ra quanh người ta, cũng xảy ra nơi ngươi, cho nên, về những vấn đề này, ngươi đâu cần phí nhiều công sức suy nghĩ, cứ mở miệng là có thể nói ra ngay. Có phải vậy không? (Thưa, phải.) Vậy giữa con người và Đức Chúa Trời rốt cuộc có những rào cản nào? Trước hết, hãy nói xem từ “rào cản” bao quát những gì. Trong đó có mâu thuẫn, sự không phục, có quan niệm, hiểu lầm, v.v… phải vậy không? Các ngươi nói thêm đi. (Thưa, lúc bị tỏ lộ hoặc tỉa sửa khi làm bổn phận, người ta sẽ nảy sinh một vài sự hiểu lầm và đề phòng đối với Đức Chúa Trời, cảm thấy làm bổn phận càng quan trọng thì càng nhanh bị tỏ lộ. Do đó, trong lòng họ sẽ có một vài rào cản với Đức Chúa Trời, không thể thản nhiên vô tư tiếp nhận một vài bổn phận và sự uỷ thác.) Vậy rào cản trong chuyện này là gì? (Thưa, là sự đề phòng và hiểu lầm.) Là sự đề phòng và hiểu lầm, đây là một dạng rào cản. Ai nói tiếp nữa đi. Những người còn lại không có rào cản với Đức Chúa Trời sao? Trong lòng đã thanh sạch và thánh khiết rồi sao? Chưa bao giờ có bất kỳ ý nghĩ phản diện hay tiêu cực nào về Đức Chúa Trời sao? (Thưa Đức Chúa Trời, con xin nói một chút. Mỗi khi hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt cho con tương đối thuận lợi, thì mối quan hệ giữa con và Đức Chúa Trời dường như vẫn tương đối bình thường. Nhưng một khi gặp nghịch cảnh hoặc gặp chuyện không phù hợp với quan niệm của con, thì con sẽ suy đoán xem Đức Chúa Trời sẽ làm gì, tiếp theo con sẽ gặp phải những gì, kết quả sau này sẽ là gì. Con sẽ suy nghĩ rất nhiều, thậm chí còn buông lời oán trách, trong lòng thì xét đoán và hiểu lầm Đức Chúa Trời, lúc đó lòng con cũng sẽ đóng chặt. Con xin nói thêm một chuyện mà con thấy. Đó là có người khi gặp phải một vài hoàn cảnh không hợp ý thì trong lòng họ sẽ nảy sinh sự chống đối, sau đó họ sẽ nói: “Tại sao Đức Chúa Trời lại để cho tôi gặp phải hoàn cảnh như vậy? Còn người khác thì không?”. Họ không thể thuận phục hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt, còn nảy sinh mâu thuẫn với Ngài.) Trong hai chuyện mà ngươi nói, chuyện đầu là giữa người ta và Đức Chúa Trời có rào cản, do phản xạ có điều kiện trong một loại hoàn cảnh nhất định mà người ta sẽ nảy sinh rào cản, sự đề phòng và hiểu lầm với Đức Chúa Trời, còn chuyện sau là trong lòng người ta không phục nên mới nảy sinh sự thù địch đối với Đức Chúa Trời. Còn ai nói thêm gì nữa không. (Thưa, mỗi khi bị Bề trên tỉa sửa và tỏ lộ rằng tố chất của con kém, thì con sẽ quy định bản thân và cảm thấy mình không thể được cứu rỗi, nên dù muốn mưu cầu lẽ thật thì con cũng không có tinh thần để mưu cầu, đây là một dạng hiểu lầm Đức Chúa Trời. Ngoài ra, có vài anh chị em khi bị ốm đau và đối mặt với cái chết, họ sẽ cảm thấy: “Lúc trước mình đã vì Đức Chúa Trời mà bôn ba và dâng mình, chẳng lẽ Ngài không ghi nhớ sao?”. Trong lòng họ sẽ nói lý lẽ, kêu gào và đối đầu với Đức Chúa Trời. Dạng tình trạng này cũng rất phổ biến.) Về phương diện rào cản giữa người ta và Đức Chúa Trời, cũng như sự thù địch của họ đối với Ngài, thì vấn đề mà phần lớn mọi người bộc lộ ra về cơ bản là sự đề phòng và hiểu lầm, còn có sự bất mãn và không phục mà người ta bộc lộ ra khi gặp phải một vài chuyện nào đó, nói cách khác là họ thù địch Đức Chúa Trời. Về cơ bản là những thứ này. Ngoài những vấn đề mà các ngươi đã thông công ra thì trên thực tế, đủ loại vấn đề về thái độ trong lòng con người đối với Đức Chúa Trời còn vượt xa hơn thế nhiều. Có những vấn đề mà các ngươi không ý thức được. Một mặt là vì khi trải qua các loại hoàn cảnh, người ta không kiểm điểm xem nơi bản thân mình tồn tại những vấn đề nào. Mặt khác, người ta chưa bao giờ suy ngẫm cho kỹ về chuyện mối quan hệ giữa họ và Đức Chúa Trời rốt cuộc là thế nào, hoặc chuyện con người nên có thái độ và quan điểm như thế nào đối với Đức Chúa Trời mới là đúng đắn. Vì vậy, dựa vào đủ loại biểu hiện của người ta và những trạng thái thực sự tồn tại trong người ta hiện nay, hôm nay chúng ta sẽ thông công cụ thể một lượt về các loại biểu hiện của rào cản giữa con người và Đức Chúa Trời và sự thù địch của con người đối với Đức Chúa Trời. Thông công về đủ loại biểu hiện này là để khiến cho người ta có thể chủ động buông bỏ những rào cản giữa mình với Đức Chúa Trời và sự thù địch đối với Ngài mỗi khi chúng nảy sinh nơi họ trong cuộc sống thường nhật, đạt được mối quan hệ hòa hợp với Đức Chúa Trời, và cuối cùng đạt đến hoàn toàn tương hợp với Đức Chúa Trời. Như vậy, người ta sẽ loại bỏ hoàn toàn những rào cản và sự thù địch đối với Đức Chúa Trời, đạt đến việc có lòng kính sợ và thực sự thuận phục Đức Chúa Trời. Đây mới là quan hệ bình thường giữa con người và Đức Chúa Trời, và người như vậy mới là loài thọ tạo chân chính.

Về chuyện buông bỏ những rào cản giữa mình và Đức Chúa Trời và sự thù địch đối với Ngài thì thứ đầu tiên mà con người nên buông bỏ chính là quan niệm và tưởng tượng của họ. Đây có phải là một mục nội dung rất quan trọng không? (Thưa, phải.) Có phải nơi mỗi người đều tồn tại quan niệm và tưởng tượng về Đức Chúa Trời không? (Thưa, phải.) Không một ai sống trong môi trường chân không, hay là robot. Ai cũng có có ý chí tự do, có đủ loại tư tưởng và quan điểm tiếp nhận từ thế giới bên ngoài, đương nhiên ai cũng có đủ loại quan niệm và tưởng tượng về Đức Chúa Trời nảy sinh từ trong ý nguyện chủ quan dựa trên nhu cầu, sở thích và dục vọng của bản thân. Nếu đã gọi là quan niệm và tưởng tượng thì chắc chắn chúng không phù hợp với lẽ thật, cũng không phù hợp với sự thật, ít nhất là không phù hợp với tâm ý, thân phận và thực chất của Đức Chúa Trời. Cho nên, những quan niệm và tưởng tượng này là thứ chính yếu đầu tiên mà người ta nên buông bỏ. Vậy nội dung liên quan đến quan niệm và tưởng tượng về Đức Chúa Trời chủ yếu bao gồm những gì? Bao gồm những quan niệm vốn có của người ta về Đức Chúa Trời trước khi họ tin Ngài, một mặt là vậy. Mặt khác, có người sau khi tin Đức Chúa Trời thì nảy sinh quan niệm mới về Đức Chúa Trời, và chúng là những quan niệm và tưởng tượng cụ thể hơn, hiện thực hơn. Trước khi tin Đức Chúa Trời, trong lòng người ta tràn đầy tưởng tượng về Ngài, cũng có thể nói những tưởng tượng này là một dạng quan niệm chung của toàn nhân loại. Giống như người Trung Quốc dù không tin Đức Chúa Trời, nhưng gọi Đức Chúa Trời là Ông Trời, còn người phương Tây – vốn có đông người tin Đức Chúa Trời hơn – thì gọi Đức Chúa Trời là Thượng Đế. Có rất nhiều người tuy không tin Đức Chúa Trời, nhưng đa số họ đều tin rằng có Đức Chúa Trời và họ tràn đầy tưởng tượng về Đức Chúa Trời, cho rằng Đức Chúa Trời hiện hữu giữa vạn vật và vượt trên vạn vật, cho rằng Ngài hiện diện khắp nơi, việc gì cũng làm được và thần thông quảng đại. Vậy vị Đức Chúa Trời này rốt cuộc là ai? Không một ai biết, người ta chỉ biết rằng Đức Chúa Trời là Đấng vĩ đại nhất và cai quản hết thảy. Vậy hình tượng cụ thể của Đức Chúa Trời như thế nào? Trong đầu mỗi người đều có tướng mạo và hình tượng về Đức Chúa Trời do chính họ tưởng tượng và quy định. Trước đây chúng ta đã nói qua những quan niệm và tưởng tượng chung của toàn nhân loại về Đức Chúa Trời, nhưng đó không phải là nội dung chính mà chúng ta muốn thông công hôm nay. Nội dung chúng ta thông công hôm nay là các loại quan niệm và tưởng tượng khác nhau mang tính chống đối Đức Chúa Trời và không phù hợp với thực chất của Đức Chúa Trời mà người ta nên buông bỏ, vốn nằm trong đủ loại quan niệm và tưởng tượng có liên quan đến rào cản giữa con người và Đức Chúa Trời cũng như sự thù địch của họ đối với Ngài. Còn những quan niệm và tưởng tượng trống rỗng, hư vô, mờ ảo thì chúng ta sẽ không nói đến. Có thể nói, với vóc giạc hiện tại của các ngươi thì những thứ này về cơ bản không phải là vấn đề gì, chúng sẽ không ảnh hưởng việc các ngươi mưu cầu lẽ thật, càng không ảnh hưởng đến việc các ngươi đi theo Đức Chúa Trời, cho dù trong lòng một vài người vẫn có một vài tưởng tượng mờ ảo nhưng nó cũng không ảnh hưởng việc người ta đi theo Đức Chúa Trời, cho nên đó cũng không phải là vấn đề gì lớn. Những quan niệm và tưởng tượng của con người mà chúng ta sẽ thông công liên quan đến thái độ của người ta đối với Đức Chúa Trời trong cuộc sống thường nhật, cũng liên quan việc làm bổn phận của người ta và con đường mà người ta đi, đương nhiên càng liên quan đến việc mưu cầu của họ. Trong các loại quan niệm và tưởng tượng của con người về Đức Chúa Trời, điều đầu tiên phải kể đến là con người có rất nhiều quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời, chúng cũng thực tế hơn nhiều so với các loại tưởng tượng của người ngoại đạo về Đức Chúa Trời, chúng không trống rỗng cũng chẳng kỳ ảo. Chúng là những thứ luôn tồn tại trong lòng mỗi một người trong quá trình họ đi theo Đức Chúa Trời, nghĩa là người ta tràn đầy rất nhiều quan niệm và tưởng tượng kỳ ảo và không phù hợp thực tế về công tác của Đức Chúa Trời. Chẳng hạn như, người ta tưởng tượng công tác của Đức Chúa Trời đầy những phép lạ và dấu kỳ mà con người không lường trước được hoặc không thể với tới. Đương nhiên, trong số đó, quan niệm và tưởng tượng lớn nhất của con người là cho rằng công tác của Đức Chúa Trời có thể làm người ta được trở nên trọn vẹn trong chớp mắt, hoặc là Đức Chúa Trời phán một lời, thực hiện một dấu kỳ và phép lạ thì sẽ ngay lập tức khiến người ta biến đổi, trở nên một người thoát khỏi cuộc sống xác thịt, thoát khỏi đủ loại khó khăn thực tế của xác thịt. Theo họ tưởng tượng, người này sẽ không ăn không uống, không có nhu cầu của xác thịt giống như robot, hơn nữa tư tưởng cũng thuần khiết hơn, không có tư tâm hay tạp niệm, bên trong thì đặc biệt thánh khiết. Họ tưởng tượng rằng để đạt được như vậy thì không cần mưu cầu lẽ thật, cũng không cần quanh năm suốt tháng thông công lẽ thật hay là tiếp nhận sự tỉa sửa, mà chỉ cần Đức Chúa Trời phán một câu là có thể thành sự, bởi vì Đức Chúa Trời đã phán thì sẽ thành, lệnh Ngài đã ban thì sẽ đứng vững. Nhất là khi vừa mới tiếp nhận giai đoạn thứ ba trong công tác của Đức Chúa Trời, người ta càng tràn đầy đủ loại quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời. Có vài người vừa nghe nói: “Công tác của Đức Chúa Trời sắp kết thúc rồi”, dù không biết chính xác năm nào, tháng nào, ngày nào sẽ kết thúc, nhưng trong lòng họ vẫn lo lắng, thậm chí bỏ cả công việc và gia đình. Có nông dân không cày cấy nữa, có người không nuôi bò, nuôi dê nữa, thậm chí có một người còn bán cả nhà đất, bán cả xe, tiền gửi trong ngân hàng cũng rút ra hết, gom góp của cải, đeo hết vàng bạc châu báu lên mình, sẵn sàng đi theo Đức Chúa Trời. Bởi vì người ta cho rằng công tác của Đức Chúa Trời sắp kết thúc rồi thì họ cũng không cần sống cuộc sống này nữa, người ta cho rằng Đức Chúa Trời phá vỡ gia đình và hôn nhân rồi thì họ nên buông bỏ hôn nhân, công việc và tiền đồ, vứt bỏ hết thảy những thứ khoái lạc trên thế gian để đi theo Ngài. Khi có người hỏi: “Anh vác hành lý và đưa cả gia đình đi đâu vậy?”. Họ nói: “Đi đến thiên quốc”. Người ta hỏi tiếp: “Thiên quốc ở đâu?”, thì họ nói: “Tôi vẫn chưa biết, Đức Chúa Trời dẫn đi đến đâu thì tôi đến đó”. Bất kể người ta nhất thời bốc đồng hay là đã có suy nghĩ chín chắn, thì tóm lại những biểu hiện này tỏ lộ một sự thật, đó là con người có quá nhiều tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời. Người ta không biết Đức Chúa Trời muốn làm công tác cứu rỗi con người như thế nào, sau khi được Đức Chúa Trời cứu rỗi thì con người thì sẽ có cảm giác ra sao, sẽ sống trong trạng thái và hoàn cảnh như thế nào, những chuyện này họ đều không biết. Còn chuyện tâm ý của Đức Chúa Trời rốt cuộc là gì, kết quả mà Ngài muốn đạt được khi làm công tác trên con người là gì, những điều này người ta cũng không biết. Vậy họ biết cái gì? Họ chỉ ghi nhớ một câu: Ngày của Đức Chúa Trời đã gần kề, tai họa sắp giáng xuống, công tác của Đức Chúa Trời sắp kết thúc rồi, phải bỏ lại hết thảy và đi theo Đức Chúa Trời. Đây là nguồn gốc và căn cứ để nảy sinh mọi quan niệm và tưởng tượng của con người, thông qua những quan niệm và tưởng tượng này, người ta sẽ đưa ra đủ loại lựa chọn và quyết định. Họ đưa ra lựa chọn và quyết định gì? Họ lựa chọn vứt bỏ thế gian, vứt bỏ chuyện học hành, nghề nghiệp, hôn nhân, gia đình, thậm chí là vứt bỏ tình thân xác thịt, v.v… sau khi đã buông bỏ hết thảy những thứ này, họ chờ đợi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc. Mục đích của họ khi chờ đợi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc là gì? Chính là để được cất lên và đi theo Đức Chúa Trời. Vậy rốt cuộc là được cất lên đâu? Họ nghĩ rằng, bất kể cụ thể được cất lên chỗ nào, bất kể cụ thể là ngày nào, thì tóm lại cũng sẽ không xuống địa ngục. Dù không phải là thiên đường, thì ít nhất cũng là đi lên chỗ cao hơn; dù không phải thiên đường hay là một vương quốc hữu hình, nhưng họ đi theo Đức Chúa Trời thì chắc chắn không sai, Ngài ở chỗ nào thì có khả năng người ta sẽ được cất lên chỗ đó. Những quan niệm và tưởng tượng này của con người tuy rất viên mãn, nhưng liệu chúng có thể thành hiện thực được không? Đến bây giờ, thời khắc kết thúc công tác của Đức Chúa Trời mà người ta chờ đợi đã đến chưa? (Thưa, vẫn chưa.) Vậy công tác của Đức Chúa Trời vẫn chưa kết thúc, liệu người ta có thất vọng, có lo lắng không? Có hối hận không? Có vài người thất vọng, phải không? Có vài người khi làm bổn phận mà gặp khó khăn thì trở nên tiêu cực, hoặc khi cuộc sống gia đình gặp hoạn nạn hay là bị bách hại đến mức cùng đường, thì bắt đầu hối hận. Đương nhiên, có vài người cũng không dễ dàng gì mới chịu đựng được đến tận bây giờ, nhưng trong lòng họ thực sự rất lo lắng. Họ lo lắng chuyện gì? “Sao công tác của Đức Chúa Trời còn chưa kết thúc? Công tác của Đức Chúa Trời còn kéo dài bao lâu nữa? Mình có nên về nhà để tiếp tục sống đời mình không? Có nên quay lại làm việc, tìm kiếm tiền đồ nơi thế gian không? Có nên mua lại nhà không? Đức Chúa Trời chẳng trả lời cho người ta, cũng không cho người ta câu trả lời tường tận! Khi nào công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, Đức Chúa Trời còn thực hiện những công tác nào, có phải Ngài nên nói cho người ta biết trước những chuyện này để người ta có sự chuẩn bị hay không? Nhưng Đức Chúa Trời chẳng nói gì về những chuyện này với con người, Ngài cứ mãi bày tỏ lẽ thật, thông công lẽ thật, và nói về việc được cứu rỗi, nhưng chẳng bao giờ nói chút gì về những chuyện sau này hoặc tương lai, không nói về chuyện khi nào thì nhân loại bước vào đích đến tốt đẹp, khi nào thì cuộc sống xác thịt kết thúc. Ngài cứ để người ta phải chờ đợi vô thời hạn.” Người ta không nhận biết được công tác của Ðức Chúa Trời. Nói cụ thể hơn là, người ta không hiểu rõ những chuyện như Ðức Chúa Trời cứu rỗi con người như thế nào, dùng những phương thức nào để cứu rỗi con người, trong công tác của Đức Chúa Trời, Ngài thực hiện những công tác cụ thể nào để làm cho con người đạt được sự cứu rỗi, v.v.. Thay vào đó, người ta luôn sống trong quan niệm và tưởng tượng của mình, coi công tác của Đức Chúa Trời là một loại hình thức hoặc là một loại ma thuật huyền bí, như thể công tác của Đức Chúa Trời chỉ mang tính hùng hồn, chứ chẳng có nội dung cụ thể gì cả – nghĩa là Đức Chúa Trời chỉ cần phán một câu, lời Ngài đã phán thì sẽ thành, lệnh Ngài đã ban thì sẽ đứng vững, sau đó con người đều được thay đổi, đều trở nên giống như những gì được tiên tri trong sách Khải Huyền, đều thành thánh nhân và trở nên thánh khiết. Bất kể người ta có những ý nghĩ trống rỗng, kỳ ảo – cụ thể hay không cụ thể – nào về công tác của Đức Chúa Trời, thì tóm lại, người ta vẫn tràn đầy quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời, họ luôn sống trong quan niệm và tưởng tượng trống rỗng mà tiếp cận công tác của Đức Chúa Trời, tiếp cận mỗi một công tác và lời nói cụ thể để cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời. Đương nhiên, càng có nhiều người hơn nữa chỉ có duy nhất một quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời, đó là khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc thì người ta sẽ khổ tận cam lai, chỉ cần có thể chờ đợi đến lúc công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, thì lúc đó ai còn sót lại sẽ là người thắng, mọi sự người ta đã vứt bỏ và dâng hiến, mọi đau khổ đã chịu và cái giá đã trả của người ta đều đáng giá. Xét từ điểm này có thể thấy, một mặt là người ta tràn đầy đủ loại tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời, mặt khác, khi tin Đức Chúa Trời, không phải người ta đang mưu cầu lẽ thật, mà đức tin của người ta có chút tính chất đặt cược – họ đem mạng sống và toàn bộ tài sản của mình ra đặt cược, đem tiền đồ, hôn nhân và hết thảy những gì mình có ra đặt cược, cho rằng chỉ cần chịu đựng cho đến khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc là được, chỉ cần đến lúc Đức Chúa Trời tuyên bố công tác kết thúc mà mình vẫn còn sống là mình thắng rồi, tất cả những gì mình đã đặt cược đều được nhận về đủ. Có phải người ta nghĩ như vậy không? (Thưa, phải.) Chúng ta cũng đã nói nhiều rồi, vậy quan niệm và tưởng tượng chủ yếu của con người về công tác của Đức Chúa Trời là gì? (Thưa, người ta cho rằng công tác của Đức Chúa Trời tràn đầy những phép lạ, một câu nói của Đức Chúa Trời có thể làm tinh sạch người ta, và người ta không cần trả bất kỳ giá nào, cũng không cần mưu cầu lẽ thật, mà vẫn có thể vào thiên quốc.) Đây là quan niệm và tưởng tượng của người ta về công tác của Đức Chúa Trời. Còn có những quan niệm và tưởng tượng nào nữa không? (Thưa, người ta không biết khi làm công tác trên con người rốt cuộc Đức Chúa Trời muốn đạt đến kết quả gì, họ cho rằng chỉ cần chịu đựng đến khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc thì sẽ có hy vọng vào thiên quốc.) Đây cũng là một loại quan niệm và tưởng tượng, người ta cho rằng công tác của Đức Chúa Trời là một dạng hình thức, một dạng quá trình. Còn gì nữa không? (Thưa, người ta tin Đức Chúa Trời không phải để mưu cầu lẽ thật, thay vào đó, đức tin của họ có chút tính chất đặt cược.) Đây là quan niệm và tưởng tượng sao? Đây là thực chất trong việc tin Đức Chúa Trời của người ta và thực chất trong việc mưu cầu của họ. Vậy quan niệm và tưởng tượng trong chuyện này là gì? Có phải người ta cảm thấy đi theo Đức Chúa Trời thì chỉ cần vứt bỏ hết thảy và làm bổn phận, sau đó sẽ được biến đổi, như kiểu ảo thuật, phải không? (Thưa, phải.) Suy nghĩ của người ta đặc biệt trống rỗng, siêu nhiên và kỳ ảo. Người ta cho rằng không cần tiếp nhận hình phạt, sự phán xét hay sự tỉa sửa, cũng không cần tiếp nhận sự cung ứng từ lời Đức Chúa Trời, cứ như vậy mà đi theo Ngài, được bảo làm bổn phận gì thì làm bổn phận nấy, chỉ cần đi theo đến cùng thì sẽ được biến đổi, cuối cùng khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc thì sẽ được vào thiên quốc. Đây có phải là quan niệm và tưởng tượng của con người không? (Thưa, phải.)

Con người tràn ngập đủ loại quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời. Nội dung chúng ta vừa mới thông công liên quan đến quan niệm của con người về những ngày công tác của Đức Chúa Trời. Ngoài những quan niệm này ra, còn có một dạng quan niệm và tưởng tượng nữa, đó chính là khi người ta gặp phải một vài khó khăn thực sự thì trong ý nguyện chủ quan, họ thường hy vọng Đức Chúa Trời có thể khiến não họ nhảy số nhanh, nảy ra sáng kiến hay mà không cần phải thường xuyên ăn uống lời Đức Chúa Trời, trang bị lẽ thật, hay nắm vững các nguyên tắc lẽ thật, họ còn hy vọng Đức Chúa Trời có thể giúp họ giải quyết bất kỳ chuyện lớn nhỏ gì họ gặp phải trong cuộc sống thường nhật. Sự lĩnh hội và hiểu biết của con người về công tác của Đức Chúa Trời đặc biệt kỳ ảo và trống rỗng, họ cũng tràn ngập quan niệm và tưởng tượng về cách thức Đức Chúa Trời cứu rỗi con người. Người ta không muốn tìm kiếm các phương diện lẽ thật từ trong công tác của Đức Chúa Trời, hoặc xử lý mọi chuyện một cách thực tế theo nguyên tắc lẽ thật. Ngược lại, họ luôn hy vọng khi họ gặp phải đủ loại chuyện thì Đức Chúa Trời có thể khiến cho họ có sự sáng và sự mặc khải như Ngài đã mặc khải cho các tiên tri, khiến họ có sự khôn ngoan, năng lực và biện pháp xử lý đủ loại sự việc gặp phải trong cuộc sống thực tế, mà không cần họ cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật, cũng không cần ăn uống lời Đức Chúa Trời, như thể họ sống trong thế giới phép thuật vậy. Dựa vào tưởng tượng của mình, người ta cho rằng sau khi tin Đức Chúa Trời họ sẽ trở nên thông minh lanh lợi, thậm chí có những người còn cho rằng sau khi tin Đức Chúa Trời họ sẽ trở nên xinh đẹp hơn, không còn gặp các loại khó khăn và vấn đề về xác thịt, không còn bị tâm tính bại hoại cản trở, cũng không còn khó khăn gì trong cuộc sống thực tế. Họ cho rằng chỉ cần có ý nguyện muốn đạt đến việc làm hài lòng Đức Chúa Trời thì Ngài sẽ ban thêm sức mạnh cho họ, sẽ tạo ra một hoàn cảnh tốt và ưu việt, để hết thảy những điều này đều trở thành hiện thực, để cho lý tưởng và nguyện vọng của họ đều có thể được thực hiện, nhất là khi họ gặp phải những chuyện mà tố chất và bản năng của họ không với tới nổi thì Đức Chúa Trời lại càng phải dang tay ra trợ giúp họ, để họ có thể làm được những chuyện mà họ muốn làm một cách khéo léo hoặc dễ dàng. Còn có những người có tố chất kém và năng lực nghiệp vụ kém trong mọi phương diện thì nghĩ rằng chỉ cần Đức Chúa Trời thực hiện một dấu kỳ và phép lạ là sẽ có thể làm cho tố chất của họ trong phút chốc trở nên tốt hơn, trong phút chốc trở nên thông minh. Họ cho rằng với Đức Chúa Trời, không có chuyện gì khó làm cả, những chuyện họ không đạt đến được thì Ngài đều có thể giúp họ đạt đến, những vấn đề họ không khắc phục được hoặc với không tới, thì Đức Chúa Trời đều có thể giúp họ giải quyết. Tóm lại, người ta có rất nhiều quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời, một mặt, người ta tràn ngập các loại tưởng tượng về thời gian công tác của Đức Chúa Trời, họ cũng vì các loại tưởng tượng này mà hành động và trả giá đủ kiểu. Đồng thời, người ta cũng tràn ngập đủ loại quan niệm và tưởng tượng về các loại khó khăn và vấn đề mà bản thân gặp phải, thậm chí là về tâm tính bại hoại của mình. Phần lớn những quan niệm và tưởng tượng này đều trống rỗng, kỳ ảo và không phù hợp với thực tế, thậm chí là vượt quá tố chất, trí óc và phạm vi bản năng của con người. Ngươi ta thường hy vọng Đức Chúa Trời sẽ không làm việc dựa trên những khó khăn thực tế của con người, cũng không dựa trên tố chất, trí óc và bản năng của con người, thay vào đó, Ngài làm cho họ có thể vượt quá hết thảy những điều này, vượt quá nhân tính bình thường của con người, vượt quá tố chất và bản năng của con người để làm một vài chuyện. Người ta tràn ngập quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời, mà những tưởng tượng này lại đặc biệt siêu nhiên. Những quan niệm và tưởng tượng này hoàn toàn mâu thuẫn và đối nghịch với những lẽ thật mà Đức Chúa Trời đã bày tỏ. Người ta không tự nhủ rằng, nếu Đức Chúa Trời làm những chuyện siêu nhiên này, vậy tại sao Ngài còn phán nhiều lời và cung ứng cho con người nhiều lẽ thật đến vậy? Ngài đâu cần phải làm như vậy. Lý do mà công tác của Đức Chúa Trời thực tế như vậy là vì Đức Chúa Trời hy vọng đem mọi lời nói và lẽ thật của Ngài cung ứng cho con người và nhào nặn chúng vào trong con người, để cho con người sống theo những lời này và những lẽ thật này. Ý của Đức Chúa Trời không phải là để cho người ta vượt quá nhân tính bình thường của con người hay vượt quá bản năng của con người, nhưng là để họ dựa trên nền tảng nhân tính bình thường mà giữ vững nguyên tắc lẽ thật, giữ vững bổn phận và sự uỷ thác mà Đức Chúa Trời ban cho con người. Nhưng quan niệm và tưởng tượng của con người hoàn toàn trái ngược với công tác của Đức Chúa Trời, không phù hợp chút nào với phương thức làm công tác của Ngài, Đức Chúa Trời muốn làm công tác thực tế, nhưng tưởng tượng của con người về công tác của Ngài lại siêu nhiên, trống rỗng và không phù hợp với thực tế. Tất nhiên, có vài người còn hy vọng Đức Chúa Trời sẽ dùng một vài phương thức đặc biệt hơn để mặc khải, cung ứng, hỗ trợ và giúp đỡ họ, thậm chí là biến đổi họ, cho họ đạt được sự cứu rỗi. Ví dụ, có một vài người thường khi gặp chuyện thì không tìm kiếm câu trả lời và con đường thực hành từ lời Đức Chúa Trời, mà chỉ quỳ xuống nhắm mắt cầu nguyện, khi cầu nguyện, họ cũng không tìm kiếm lẽ thật về vấn đề, rồi tìm lời Đức Chúa Trời tương ứng để giải quyết. Thay vào đó, họ hy vọng Đức Chúa Trời có thể mách bảo trong lòng họ nên làm như thế nào, hoặc là khai sáng họ bằng một câu nói, một ý tưởng hay một hình ảnh, hoặc là cho họ có được một chút sự sáng, một chút động lực, người ta muốn dùng phương thức như vậy để đạt đến việc hiểu lẽ thật. Đương nhiên, còn có một vài người áp dụng phương thức cực đoan hơn, chẳng hạn như khi gặp vấn đề, họ hy vọng Đức Chúa Trời có thể mặc khải cho họ một đoạn lời Đức Chúa Trời trong giấc mơ, nói cho họ biết có nên làm chuyện này chuyện kia không, nên làm như thế nào, hoặc có nên tới nơi này nơi nợ không, có nên rao truyền cho đối tượng phúc âm này kia không. Còn có vài người khi gặp khó khăn lớn thì hy vọng có thể mơ được giấc mơ lạ hoặc có được câu trả lời trong chiêm bao, còn hy vọng cùng anh chị em hoặc lãnh đạo hội thánh phân tích và giải mã giấc mơ đó của mình, họ cho rằng: “Đức Chúa Trời ban cho tôi giấc mơ lạ này là có ý gì? Ngài muốn tôi làm gì? Là Ngài bảo tôi đi hay không đi?”. Họ cho rằng công tác của Đức Chúa Trời là dùng những phương thức đặc biệt này để mặc khải, dẫn dắt, và cung ứng cho con người, khiến họ đạt được sự cứu rỗi. Đây có phải là quan niệm và tưởng tượng không? (Thưa, phải.) Còn có vài người khi gặp chuyện mà không biết làm thế nào, cầu nguyện với Đức Chúa Trời cũng chẳng nhận được câu trả lời, nên họ chỉ biết dùng cách tung đồng xu để ra quyết định. Chẳng hạn như khi sắp đến một nơi nào đó để rao truyền phúc âm, họ sẽ cầu nguyện với Đức Chúa Trời xem có nên đi hay không, nhưng nếu không nhận được câu trả lời thì họ làm sao? Họ sẽ dùng cách tung đồng xu để quyết định có nên đi hay không, nếu đồng xu rơi xuống đất mà mặt trước ngửa lên thì chứng tỏ Đức Chúa Trời muốn họ đi, còn nếu là mặt sau ngửa lên thì chứng tỏ Đức Chúa Trời không muốn họ đi. Họ tung ba lần như vậy, một lần mặt trước, hai lần mặt sau, “Hai hơn một, như vậy là Đức Chúa Trời không muốn để mình đi”, thế là họ không đi nữa. Họ chẳng những không đi mà còn cảm thấy yên tâm, thoải mái, cho rằng đây là ý của Đức Chúa Trời, “Mình phải theo sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời. Chuyện này do Đức Chúa Trời quyết định, không phải do mình quyết định. Mình thuận phục sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời thì không nên đi.” Vậy rốt cuộc có nên đi hay không? Dùng phương thức như vậy để tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời thì có chính xác không? Tuyệt đối không chính xác. Khi gặp phải chuyện như vậy thì nên dựa vào nguyên tắc và xem thử hoàn cảnh có cho phép hay không để ra quyết định, như vậy mới đúng đắn. Rao truyền phúc âm là bổn phận của ngươi, là nhiệm vụ của ngươi, là việc hôm nay ngươi cần phải làm, vì vậy ngươi nên đi, như vậy mới đúng. Nhưng người ta thường không dựa vào những tình hình thực tế này để lĩnh hội và hành động, mà lại thường dựa vào một vài quan niệm và tưởng tượng để tiếp cận những chuyện này, dùng một vài chước cách và phương thức bất thường để phán định những chuyện này, cuối cùng đưa ra một vài quyết định hoang đường và lệch lạc. Chuyện này có phải do quan niệm và tưởng tượng của con người gây ra không? (Thưa, phải.) Trong công tác của Đức Chúa Trời, khi Đức Chúa Trời chưa có lời phán rõ ràng nào nói cho người ta biết trong mỗi chuyện nên làm như thế nào hoặc nên tuân thủ những nguyên tắc nào, thì người ta phải tuân theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh và sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời dành cho con người trong hoàn cảnh thực tế. Đương nhiên, người ta cũng cần bàn luận cùng anh chị em hoặc cầu nguyện và tìm kiếm cách giải quyết cùng anh chị em, cuối cùng dựa vào tình hình thực tế để quyết định nên làm như thế nào với chuyện này. Nhưng nếu trong công tác của Đức Chúa Trời, khi Ngài đã có lời phán rõ ràng và chỉ thị rõ ràng nói cho con người biết nguyên tắc thực hành trong các loại chuyện khác nhau, thì những cách làm theo hình thức như trước đây có thể bị xoá bỏ, người ta không cần phải tuân thủ chúng nữa. Nếu người ta còn tiếp tục tuân thủ những cách làm đó thì sẽ làm chậm trễ công chuyện. Chẳng hạn như, khi gặp chuyện nên làm, mà người ta vẫn quỳ xuống và cầu nguyện rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, con có nên đi hay không? Nếu Ngài không muốn để con đi thì Ngài hãy tạo ra hoàn cảnh để ngăn cản con, còn nếu Ngài muốn để con đi thì xin Ngài làm làm cho chúng con được thuận lợi trong mọi chuyện”. Đây là cách làm rập khuôn hình thức, không phải là điều Đức Chúa Trời yêu cầu con người. Khi Đức Chúa Trời đã có những lời rõ ràng về yêu cầu và tiêu chuẩn của Ngài, thì con người không cần phải áp dụng những cách làm hình thức như tìm kiếm, cầu nguyện hay thăm dò gì nữa. Thay vào đó, một mặt họ phải hành động theo tình hình thực tế và hoàn cảnh thực tế, mặt khác, điều quan trọng nhất là họ phải hành động theo nguyên tắc lẽ thật, làm như vậy mới đúng. Mỗi ngày, chuyện gì nên làm thì từng bước mà làm, chuyện gì không nên làm thì đừng làm, chuyện nào cần xử lý gấp thì xử lý trước, chuyện nào có thể gác lại thì từ từ hẵng làm, cứ xử lý việc cấp bách trước. Đây có phải là nguyên tắc không? (Thưa, phải.) Đây chính là nguyên tắc. Hãy nhớ rằng, khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời để tìm kiếm và nắm bắt tâm ý của Ngài thì phải dựa vào lời Đức Chúa Trời, trong những trường hợp đặc biệt, nghĩa là khi chưa có chỉ thị và lời phán rõ ràng từ Đức Chúa Trời, người ta cũng nên biết rằng Đức Chúa Trời đã có lời phán và nguyên tắc thực hành rõ ràng về đủ mọi loại chuyện, trong trường hợp đó, người ta nên làm theo những nguyên tắc lẽ thật mà Đức Chúa Trời đã khuyên răn con người trước đó. Tuy nhiên, trong lòng người ta nảy sinh rất nhiều quan niệm và tưởng tượng hoang đường, ly kỳ và siêu nhiên về công tác của Đức Chúa Trời, khiến cho lời Đức Chúa Trời và đủ loại nguyên tắc lẽ thật trở thành vật trang trí và trở thành những đạo lý trống rỗng, không thể trở thành tiêu chuẩn làm việc hoặc con đường thực hành khi người ta gặp phải vấn đề. Đây là chuyện đáng buồn, nguyên nhân đều là vì con người nảy sinh quá nhiều quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời mà ra.

Người ta còn có một vài quan niệm và tưởng tượng hoang đường, ly kỳ và quái dị về công tác của Đức Chúa Trời, và chúng luôn tràn ngập trong cuộc sống thường nhật của họ. Chẳng hạn như, khi người ta sắp làm một việc mà họ nên làm nhất, thì lại xảy ra một chuyện mà họ cho rằng không nên xảy ra, ví dụ như điện thoại di động bị người khác giật trên đường đến chỗ để làm việc đó, hoặc trên đường đi thì xe bị hỏng hay là đi bộ bị ngã, hoặc là gặp phải những chuyện không thuận lợi khác. Những chuyện này có thể cho chúng ta thấy được điều gì? Cho thấy Đức Chúa Trời đang ngăn cản người ta làm việc này sao? Cho thấy họ làm việc này là không phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời sao? Cho thấy đây là việc không nên làm sao? Có nên lý giải và lĩnh hội như vậy không? (Thưa, không nên.) Nếu như việc này là việc quan trọng nhất mà ngươi cần làm trước mắt để thực hiện bổn phận, và ngươi đi làm việc này, thì cho dù trên đường ngươi gặp phải một vài trắc trở, khó khăn, thậm chí là gặp phải một vài chuyện mà người ta cho rằng không nên xảy ra, thì cũng không thể nói rằng bổn phận mà ngươi làm hay công tác mà ngươi thực hiện là những chuyện mà Đức Chúa Trời không vui thích, hoặc Ngài ngăn cản không cho ngươi làm – đây là quan niệm và tưởng tượng của con người. Nếu Đức Chúa Trời muốn cản trở ngươi, Ngài sẽ không dùng những phương thức này. Thay vào đó, Ngài sẽ trực tiếp sắp đặt một hoàn cảnh để ngươi tự nhiên không cần làm chuyện đó, nghĩa là Đức Chúa Trời khiến lòng ngươi biết rõ rằng hôm nay có một việc quan trọng hơn cần phải làm, còn chuyện kia phải xếp ở vị trí thứ hai hoặc thứ ba, bị hoãn lại để làm sau. Dựa vào tình hình thực tế, bất kể tính toán thế nào đi nữa, ngươi đều thấy hôm nay làm việc đó thì sẽ không thành. Đó là Đức Chúa Trời đang cản trở ngươi. Nhưng dù ngươi nghĩ thế nào, dù khi làm chuyện này có xảy ra trắc trở hay khó khăn gì, tóm lại việc hôm nay nên làm thì ngươi cứ làm. Nếu Đức Chúa Trời ngăn cản ngươi, Ngài sẽ dùng những phương thức thích hợp và thỏa đáng nhất để ngươi thuận theo tự nhiên mà từ bỏ việc đó – đây là phương thức công tác của Đức Chúa Trời. Phương thức công tác của Đức Chúa Trời là để người ta làm những việc người ta nên làm trong phạm vi bản năng nhân tính của con người. Một mặt, đây là thái độ mà người ta nên có. Mặt khác còn có yếu tố môi trường khách quan, nếu như hoàn cảnh cho phép thì chuyện này sẽ được hoàn thành, nếu như hoàn cảnh không cho phép thì người ta nên chờ đợi một chút. Mục đích của việc chờ đợi là để làm gì? Là để chờ đợi thời cơ và hoàn cảnh thích hợp mà Đức Chúa Trời đã an bài. Nếu như vẫn chưa có hoàn cảnh thích hợp và mọi chuyện liên tục không thuận lợi khi làm việc này, vậy thì không nên làm. Các ngươi hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Trong cuộc sống thường nhật của người ta, bất kể là việc liên quan đến phương diện nào, là việc lớn hay việc nhỏ, là việc cá nhân hay việc của hội thánh, thì khi làm những việc này, người ta cũng không cần cố nắm bắt những cảm giác trong tinh thần mình. Nếu như hôm nay ngươi cảm thấy tinh thần sa sút, trong lòng không muốn làm việc này, vậy ngươi hãy hỏi thử người cùng làm việc này với ngươi xem họ có sa sút tinh thần không. Nếu như người khác không sa sút tinh thần và trong lòng họ vẫn muốn làm việc này, nhưng ngươi cứ dựa vào cảm giác của mình để kết luận rằng không nên làm việc này, như vậy chẳng phải có hơi chủ quan hay sao? (Thưa, phải.) Cho nên, khi làm việc, ít nhất người ta phải hiểu được rằng không phải trong chuyện gì cũng cố nắm bắt cảm giác và dựa vào cảm giác. Ví dụ, khi ngươi sắp làm một việc gì đó, tự nhiên trong lòng ngươi có chút hốt hoảng, mắt giật liên tục, tai kêu lùng bùng, ngươi nói: “Mí mắt phải của tôi giật, có phải là có điềm không? Vậy tôi có nên làm việc này không?”. Có người liền trả lời: “Mắt trái giật là có tiền, mắt phải giật là có họa”, ngươi nghe xong thì không dám đi nữa. Bất kể con mắt nào của ngươi giật, nếu đây là việc đã được thống nhất rồi, mọi nhân tố để làm việc này và thiên thời địa lợi đều thích hợp, vậy thì ngươi nhất định phải làm việc này. Nếu như ngươi chỉ dựa vào việc một người nói mắt phải giật là có họa mà ngươi không đi nữa, như vậy có thích hợp không? (Thưa, không thích hợp.) Tại sao lại không thích hợp? Nếu như đó là chức trách của ngươi, là bổn phận của ngươi, và hôm nay hoàn cảnh khách quan cho phép, mọi điều kiện cũng cho phép, hơn nữa việc này cần phải làm gấp, vậy thì ngươi nên đi làm, mí mắt phải của ngươi giật thì có sao chứ? Cũng có thể xảy ra chút chuyện nhỏ và không quá thuận lợi, nhưng mọi việc vẫn được hoàn thành. Trừ khi Đức Chúa Trời ngăn cản, hoàn cảnh không cho phép, thì mới không thể đi làm việc này. Có người nói: “Mắt phải giật chắc chắn là có chuyện”, nhưng người khác lại nói: “Đây là việc đã được thống nhất rồi, nên làm đi”. Cuối cùng mọi người đi làm, nhưng không ngờ đang đi giữa đường thì xe hỏng. Các ngươi nói xem, nếu lúc lên đường mà có người giật mắt phải, thì mọi người có nên đi hay không? Để Ta xem các ngươi rốt cuộc có hiểu lẽ thật không. Trước hết hãy nói xem, nếu các ngươi vẫn tiếp tục đi làm việc này thì có đúng không? (Thưa, đúng.) Chắc chắn là đúng, không thể dựa vào việc mí mắt phải giật hoặc mí mắt trái giật để phán đoán xem có nên đi hay không. Đầu tiên, ngươi đi làm việc này là đúng. Vậy tại sao xe lại bị hỏng giữa đường? Đây có phải là Đức Chúa Trời cho phép hay không? Khó nói rõ, phải không? (Thưa, xe hỏng giữa đường có thể là do người ta bất cẩn mà ra, do họ đã không kiểm tra xe trước xem có vấn đề gì hay không.) Một nguyên nhân là vậy. Nếu loại trừ nguyên nhân này, thì chuyện xe hỏng giữa đường có phải là tình huống rất bình thường không? (Thưa, phải.) Ngươi mua một chiếc xe nội địa đã qua sử dụng, vốn dĩ chất lượng của nó đã không tốt, còn không được bảo dưỡng hay sửa chữa thích hợp, ngươi cứ như vậy mà lái, kết quả đang lái giữa đường thì xe hỏng. Nếu như xe hỏng nửa đường, thì có phải chuyện này chắc chắn sẽ không thành không? (Thưa, không chắc.) Xe hỏng, phải sửa một, hai tiếng đồng hồ mới xong. Khi ngươi đến nơi, anh chị em ở đó nói: “May mà bây giờ các anh mới đến. Người theo dõi vừa đi, nếu các anh đến sớm hơn hai tiếng, chắc chắn đã bị con rồng lớn sắc đỏ bắt rồi. Nguy hiểm quá!”. Ngươi xem, chuyện xấu lại biến thành chuyện tốt. Vậy đi làm việc này có đúng không? (Thưa, đúng.) Trong chuyện xe hỏng có ý tốt của Đức Chúa Trời không? (Thưa, có.) Vậy mí mắt phải giật là họa hay là phúc? (Thưa, chẳng phải họa, cũng chẳng phải phúc.) Họa hay phúc đều không ứng nghiệm. Nếu như câu chuyện chỉ dừng lại ở việc xe bị hỏng, có vẻ như câu nói “mắt phải giật là có họa” khá chính xác, chẳng phải xe đã hỏng thật sao? Nhưng xét theo kết quả cuối cùng, chuyện xe hỏng lại trở thành chuyện tốt. Nếu như xe không hỏng, hôm nay mọi người đến đó thì sẽ gặp chuyện, chẳng những việc không thành mà người còn bị bắt, nhưng nhờ xe hỏng giữa đường, mất hai tiếng sửa chữa, khi đến nơi thì nguy hiểm cũng vừa qua đi, mọi người thoát khỏi hiểm cảnh, đây chính là sự bảo vệ của Đức Chúa Trời! Ngươi xem, nếu như chỉ nhìn vào chuyện chiếc xe bị hỏng, thì như thể Đức Chúa Trời đang ngăn cản không cho ngươi đi, nhưng thực ra sau khi chiếc xe được sửa chữa xong và đi tới nơi thuận lợi thì ngươi mới biết chuyện gì đã xảy ra. Trong suốt toàn bộ quá trình đó, các ngươi nhìn nhận như thế nào về nguyên tắc và phương thức làm chuyện này của Đức Chúa Trời? Con người nên có nhận thức như thế nào về công tác của Đức Chúa Trời? Tổng kết lại thì trong chuyện này có những lẽ thật mà các ngươi có thể tìm kiếm, để Ta xem các ngươi có tìm kiếm được không. (Thưa Ðức Chúa Trời, con hiểu rằng bất kể người ta gặp chuyện tốt hay chuyện xấu, thì đều có ý tốt của Ðức Chúa Trời trong đó.) Một mặt là như vậy. (Thưa, còn có một mặt nữa, công tác của Đức Chúa Trời không siêu nhiên, không kỳ ảo, mà rất thực tế.) Đúng rồi, chút nhận thức này rất tốt. Đức Chúa Trời làm công tác thực tế, không kỳ ảo, cũng chẳng siêu nhiên, người nào có nhân tính bình thường đều có thể cảm nhận được, có thể thể nghiệm và lĩnh hội được, đây cũng là điều mà con người có thể với tới. Đây có phải là nhận thức mà người ta nên có về công tác của Đức Chúa Trời không? (Thưa, phải.) Ngoài nhận thức này ra, con người còn nên có những nhận thức nào nữa? Đó là nên nhận biết rằng Đức Chúa Trời tể trị hết thảy. Trong công tác của Đức Chúa Trời, mỗi một chuyện cụ thể mà Đức Chúa Trời làm đều cho người ta thấy rằng việc Ngài làm rất thực tế. Lúc mới bắt đầu, khi mọi người chuẩn bị lên đường, thì có vài người bàn bạc có nên đi hay không. Đức Chúa Trời cũng không ngăn cản hay khiến ngươi buồn nôn, ói mửa hoặc đau bụng. Ngài không ngăn cản cũng không thúc giục ngươi đi. Chuyện này có phải rất thực tế không? Ngài để cho mọi người tự bàn bạc với nhau, có vài người nói mí mắt phải của mình bị giật, có vài người lại nói trong lòng thấy không thoải mái, nhưng bất kể ngươi dựa vào cảm giác, tâm trạng, hay là tưởng tượng siêu nhiên, thì cuối cùng chuyện gì nên đi ngươi vẫn phải đi, Đức Chúa Trời không ngăn cản gì hết. Đức Chúa Trời làm công tác như vậy có phải rất thực tế không? (Thưa, phải.) Việc Đức Chúa Trời làm không hề trống rỗng, Ngài cho phép con người có đủ mọi loại biểu hiện đó, thậm chí có vài người còn bị giật mí mắt. Ngươi nói xem, liệu Đức Chúa Trời có thể ngăn cản hay khống chế chuyện mí mắt người ta giật không? Nếu Ngài muốn khống chế chuyện này thì chẳng phải là quá dễ dàng sao? Nhưng Ngài có làm vậy không? (Thưa, không.) Ngài không làm như vậy, không quản chuyện này, mà để ngươi tự do, mí mắt ngươi muốn giật thì cứ giật, cuối cùng mọi người vẫn xuất phát, tất cả đều rất thực tế. Nhưng nơi họ muốn đến đang gặp chuyện chẳng lành, Đức Chúa Trời sẽ không vì các ngươi sắp tới nơi đó mà loại bỏ nguy hiểm này, Ngài không làm như vậy, có chuyện xấu nên xảy ra thì nó vẫn phải xảy ra. Nhưng Đức Chúa Trời đã làm một việc rất khéo léo, đó là làm cho xe của ngươi bị hỏng giữa đường, trong lúc đợi xe được sửa xong thì nguy hiểm cũng đã qua, đây chính là sự bảo vệ của Đức Chúa Trời. Ngươi xem, chỉ cần một chút chênh lệch về thời gian mà Đức Chúa Trời đã khéo léo giúp ngươi tránh khỏi nguy hiểm. Mỗi một chuyện mà Đức Chúa Trời làm đều thực tế như vậy, phải không? (Thưa, phải.) Đây là làm cho ngươi thấy một cách thực tế rằng những việc Đức Chúa Trời làm không hề trống rỗng hay siêu nhiên, mỗi một chuyện xảy ra đều tự nhiên và tất yếu, nhưng trong đó có sự toàn năng của Đức Chúa Trời. Suốt toàn bộ chuyện này, dù người ta tưởng tượng như thế nào, cho dù khó khăn, nhược điểm và vấn đề của người ta là gì, cho dù quan điểm mà mọi người cùng nhau thảo luận là đúng hay sai, thì đều không ảnh hưởng đến diễn biến và kết quả tất yếu của sự việc. Chuyện gì nên xảy ra thì đều xảy ra, sự cố nào nên xảy đến thì vẫn xảy đến, xe nên hỏng thì vẫn phải hỏng, quan điểm của mọi người cũng bị tỏ lộ, nhưng kết quả cuối cùng của sự việc vẫn xảy ra theo phương thức mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt, theo sự tiền định và tể trị của Ngài. Đây có phải là sự toàn năng của Đức Chúa Trời không? (Thưa, phải.)? Hết thảy những chuyện đã xảy ra này đều rất thực tế và bình thường, giống như mọi chuyện xảy ra hàng ngày trong cuộc sống thường nhật của người ta, chúng xảy ra một cách tự nhiên, không hề siêu nhiên, kỳ ảo hay trống rỗng. Cho nên, trong chuyện này, người ta nên nhận thức được rằng Đức Chúa Trời làm công tác rất thực tế và Ngài tể trị hết thảy. Vậy người ta nên thực hành như thế nào? Đầu tiên người ta phải hiểu được bất kể gặp phải chuyện gì, mình nên tuân thủ những nguyên tắc nào. Nếu người ta chỉ dựa vào cảm giác của con người thì không đáng tin cậy. Người ta không nên dựa vào cảm giác siêu nhiên, cũng không nên suy đoán dựa vào tưởng tượng trống rỗng. Thay vào đó, người ta nên dựa vào hoàn cảnh thực tế và bổn phận nên làm để làm những việc mình nên làm. Ngoài ra, điều quan trọng nhất là phải dựa vào nguyên tắc lẽ thật mà làm những việc con người nên làm. Như vậy có phải sẽ dễ hơn nhiều không? (Thưa, phải.) Vì vậy, bất kể gặp phải những vấn đề gì, bất kể công tác của Đức Chúa Trời đang tiến triển đến giai đoạn nào, ngươi cũng không cần phải dựa vào cảm giác, không cần coi ngày, đương nhiên càng không cần phải xem những điềm trên trời hoặc nghe lời tiên tri nào, ngươi nên làm việc gì thì cứ làm việc đó. Có một vài người thích xem những điềm trên trời hoặc coi ngày, họ nói: “Ngày mai là ngày xấu, mình ra ngoài rồi lỡ mọi việc không thuận lợi thì sao? Con rồng lớn sắc đỏ có tiến hành bắt bớ không? Sao sáng sớm hôm nay, mình vừa bước chân ra ngoài thì có con quạ đen kêu ở cửa? Nghe nói có người tối hôm qua ra ngoài nhìn thấy một con mèo đen. Đây đều là điềm xấu! Phải làm sao đây? Có phải có nguy hiểm gì sắp xảy ra không?”. Về chuyện hoàn cảnh như thế nào là hoàn cảnh nguy hiểm, hoàn cảnh như thế nào là tương đối an toàn, ngươi có nhân tính bình thường, có tư duy bình thường của con người thì nên biết phán đoán, nên biết dựa vào tình hình thực tế mà đối đãi và xử lý những chuyện đó, chứ đâu cần phải nhìn vào những thứ mê tín đó. Về chuyện mỗi ngày nên làm gì, không nên làm gì, một mặt ngươi phải biết lấy những lời Đức Chúa Trời đã phán rõ để làm nguyên tắc lẽ thật, mặt khác, nếu ngươi có nhân tính bình thường, có lương tâm và lý trí, thì ngươi chỉ cần dựa vào sự sắp xếp và dẫn dắt của hoàn cảnh thực tế, dựa vào nhu cầu thực tế của nhân tính bình thường và trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân mà làm những việc nên làm hằng ngày, như vậy là được rồi. Nếu người ta tiếp cận cuộc sống thường nhật mỗi ngày của họ như vậy, thì chẳng phải cuộc sống sẽ đơn giản hơn nhiều sao? (Thưa, phải.)

Mặc dù công tác của Đức Chúa Trời toàn năng và kỳ diệu, lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và sự sống, nhưng không phải trong một sớm một chiều là có thể làm cho người ta được hoàn thiện và biến đổi. Có vài người thường dựa vào quan niệm và tưởng tượng mà nói: “Tôi tin Đức Chúa Trời đã nhiều năm như vậy, tại sao vẫn chưa biến đổi, tại sao vẫn chưa đạt đến thánh khiết? Tại sao trong lòng tôi vẫn yêu thích thế gian? Tại sao tôi vẫn còn ham mê hư vinh như vậy? Tại sao tôi vẫn có dục vọng dâm tà như vậy? Trước đây tôi thích xem một vài video hoặc chương trình giải trí của thế giới ngoại đạo. Từ khi tin Đức Chúa Trời đến nay, tôi ăn uống lời Đức Chúa Trời đã nhiều năm, đã làm bổn phận, vứt bỏ và dâng mình cho Đức Chúa Trời cũng đã nhiều năm, cũng cảm thấy trong lòng đã buông bỏ được những thứ đó rồi, tại sao bây giờ tôi vẫn thỉnh thoảng muốn xem những thứ đó?”. Chúng có phải là một vài quan niệm của con người không? Nhất là khi có một vài người tin Đức Chúa Trời thì luôn mưu cầu điều gì đó để kỷ luật thân thể, không ham muốn hưởng thụ xác thịt, chịu khổ và chịu khó hơn nữa, còn có thể vượt qua nhiều khó khăn về xác thịt. Nhưng dù mưu cầu thế nào, họ vẫn cảm thấy mình thường bị những dục vọng xa xỉ của xác thịt, sự tham hưởng an nhàn và sự lười biếng khống chế, nên họ thường xuyên tiêu cực, mất đi đức tin nơi Đức Chúa Trời, và cảm thấy rằng: “Công tác của Đức Chúa Trời đã tiến triển đến giai đoạn này rồi, sao mình vẫn kém cỏi và thường xuyên tiêu cực như vậy?”. Đôi khi, đạt được chút thành quả trong việc gì đó và có được sự công nhận từ mọi người, họ lại cảm thấy dễ chịu trong lòng, cảm thấy: “Mình vẫn còn hy vọng được cứu rỗi, công tác của Đức Chúa Trời và lời Đức Chúa Trời thật tuyệt vời, công tác của Ngài thực sự có thể biến đổi con người”. Nhưng sau một thời gian, họ lại cảm thấy mình vẫn còn nhớ người nhà, nhất là có lúc còn nhớ nhung người mình từng yêu, vẫn lưu luyến cuộc sống nơi thế gian, còn đặc biệt nhớ những ngày tháng vẻ vang của mình nơi thế gian, thế là họ cảm thấy: “Sao mình còn có thể nhớ đến những chuyện đó chứ? Sao mình vẫn chưa buông bỏ những hưởng thụ về xác thịt, sao mình vẫn chưa được biệt riêng ra thánh? Sao mình vẫn chưa biến đổi?”. Thế là trong lòng họ lại thấy khó chịu. Họ thường quanh quẩn trong những tư tưởng và quan điểm này, tình trạng thì lúc tốt lúc xấu, lúc yếu đuối lúc mạnh mẽ, lúc tiêu cực lúc tích cực. Họ thường dựa vào những biểu hiện trong cuộc sống thường nhật của mình để quy định số phận của mình. Lúc nào ở trong tình trạng tốt thì họ cho rằng mình là đối tượng được cứu rỗi, còn nếu tình trạng không tốt thì họ cho rằng mình đã không còn hy vọng được cứu rỗi, vô phương cứu chữa rồi. Họ không rơi vào thái cực này, thì cũng rơi vào thái cực khác. Lúc tình trạng tốt thì họ cảm thấy mình như thánh nhân, gần gũi khăng khít với Đức Chúa Trời, không có bất kỳ rào cản nào, cảm giác Đức Chúa Trời ở ngay bên cạnh. Còn khi tình trạng không tốt thì họ lại cảm thấy mình như rơi xuống 18 tầng địa ngục, không nhìn thấy Đức Chúa Trời nữa, cũng không chạm được đến Ngài, cảm giác Ngài cách mình rất xa. Chuyện này là sao? Tại sao lại có những tình trạng này? Những tình trạng này có bình thường không? (Thưa, không bình thường.) Khi họ ở trong tình trạng tốt, hội thánh sắp xếp làm gì thì họ làm nấy, gặp khó khăn gì cũng có thể vượt qua, khổ nhọc nào cũng có thể chịu đựng, cái giá nào cũng có thể trả. Họ cảm thấy mình là người có thể thuận phục Đức Chúa Trời nhất, mình là người mưu cầu lẽ thật nhất trong nhà Đức Chúa Trời, không có khó khăn gì có thể làm khó được họ. Họ làm bổn phận cũng rất nỗ lực, chịu bỏ công sức. Khi thông công với người khác, họ nói bao nhiêu cũng không cảm thấy mệt mỏi, ít ăn lại ăn một bữa, ngủ ít đi hai, ba tiếng cũng không sao. Họ sẵn lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời, dâng hiến cả đời này cho Đức Chúa Trời. Thế là họ cảm thấy mình đã có biến đổi. Họ không còn nhớ người nhà, không còn nhớ nhung người mình từng yêu, cũng không còn luyến tiếc hào quang và vinh dự mà mình từng có trên thế gian nữa. Họ vứt hết vào gió mây, chỉ muốn một lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời, giữ vững nguyên tắc, ai gây nhiễu loạn và gián đoạn thì tỉa sửa người đó, thay nhà Đức Chúa Trời bảo vệ lẽ phải, đứng vững về phía chính nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà Đức Chúa Trời và xây dựng hình tượng “thẩm phán” nghiêm minh của mình. Biểu hiện nhất thời của họ cũng không tệ. Nhưng nói không chừng sẽ có lúc họ bộc lộ tâm tính bại hoại hoặc là làm sai chuyện gì đó, khi đó họ sẽ trở nên tiêu cực, yếu đuối, cảm thấy: “Đức Chúa Trời tỏ lộ mình, vậy là Ngài không yêu thích mình rồi”, từ đó về sau tinh thần họ sa sút, cảm thấy bản thân chẳng là gì, việc gì cũng không làm được, còn lòng ích kỷ, có dục vọng dâm tà, thường nhớ nhung người mình từng yêu, từng thích, còn thường tiêu cực và yếu đuối, đến nỗi chống đối với Đức Chúa Trời và không thực hành được lẽ thật, dù đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm như vậy mà họ cũng không có sự biến đổi gì, thế là họ nghĩ: “Chẳng phải mình tiêu tùng rồi sao?”. Họ cho rằng mình không có cơ hội được cứu rỗi, hoàn toàn hết hy vọng. Lúc vui thì họ vui đến bất tận, lúc khổ thì họ khổ đến vô cùng, luôn là hai thái cực, không rơi vào thái cực này cũng rơi vào thái cực khác, vậy chuyện này là sao? Cho dù những biểu hiện của các loại tình trạng này là tích cực hay chán nản, thì tóm lại đều chỉ là một loại vấn đề, nghĩa là họ tràn ngập quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời, luôn dựa vào tâm trạng của mình, dựa vào những biểu hiện và bộc lộ của mình trong một giai đoạn nào đó để quy định và xác định tính chất mình, đồng thời cũng quy định công tác của Đức Chúa Trời, quy định những kết quả sẽ đạt được khi Đức Chúa Trời làm công tác trên con người, cũng như mục đích và mục tiêu đạt được khi Ngài làm công tác trên con người. Đây có phải là căn nguyên của vấn đề không? (Thưa, phải.) Khi tích cực, người ta thường cầu nguyện trước mặt Đức Chúa Trời, khóc lóc giàn giụa, bày tỏ ý chí, nguyện dâng trọn đời mình cho Đức Chúa Trời mà không mong cầu điều gì khác, sẵn lòng đi theo Đức Chúa Trời và dâng mình cho Đức Chúa Trời. Một khi cầu nguyện và lập quyết chí như vậy họ sẽ cảm thấy mọi khó khăn đều không còn là khó khăn nữa. Họ cảm động đến rơi nước mắt, trong lòng còn cho rằng đây chính là Đức Thánh Linh đang làm họ cảm động: “Đức Thánh Linh đã làm mình cảm động, hẳn là Đức Chúa Trời yêu thương mình lắm! Ngài không rời bỏ mình!”. Ngươi xem, tự họ cầu nguyện đến rơi nước mắt, còn nói là được Đức Thánh Linh làm cảm động, đây có phải là ảo tưởng không? (Thưa, phải.) Thực ra, do ngươi tự cảm thấy mình tốt đẹp nên mới cảm động, chính ý chí, lý tưởng, mong muốn và hành vi của ngươi làm ngươi cảm động, chứ không phải do Đức Thánh Linh làm ngươi cảm động. Tại sao lại nói là tự ngươi làm ngươi cảm động? Vì ngươi có quá nhiều quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời, chúng lại quá lệch lạc, ngươi nói xem, Đức Chúa Trời có thể làm ngươi cảm động không? Đức Chúa Trời liệu có thể làm một người đang ở trong tình trạng cực đoan như ngươi được cảm động để khiến ngươi càng thêm cực đoan không? Nếu Đức Chúa Trời làm ngươi cảm động, thì chỉ có thể khiến ngươi càng thêm cực đoan, càng thêm đề cao bản thân, thấy cảm động vì chỉnh bản thân mình, và càng muốn lập quyết chí: “Mình phải ngủ ít đi, chịu khổ nhiều hơn, dù thức ăn ngon hay dở, mình đều ăn được, ăn gì cũng được, có lợi cho sức khỏe hay không, mình cũng không quan tâm. Mình chỉ muốn khắc chế những sở thích của xác thịt cũ, phải chuyên trị những tật xấu của xác thịt cũ, phải làm cho xác thịt chịu khổ nhiều hơn, không thể để cho nó thoải mái. Nếu xác thịt thoải mái thì mình sẽ không yêu kính Đức Chúa Trời nữa, nếu xác thịt thoải mái, có lẽ mình sẽ tham hưởng sự an nhàn xác thịt mà không cố gắng làm bổn phận”. Nếu đây là Đức Thánh Linh làm cho cảm động, thì ngươi sẽ lại tiếp tục đi vào con đường cực đoan này, hơn nữa sẽ càng thêm tin lầm rằng mình đã chiến thắng xác thịt, đã chiến thắng Sa-tan, và đã được cứu rỗi. Vì vậy, Ta nói cho ngươi biết, đây không phải là được Đức Thánh Linh làm cho cảm động, mà là tự ngươi làm cho ngươi cảm động. Có phải các ngươi thường xuyên thấy cảm động vì chính bản thân mình không? (Thưa, phải.) Ngươi bị ý chí chịu khổ và dâng mình cho Đức Chúa Trời của mình làm cho cảm động, trong lòng còn sẵn sàng chịu khổ vì Đức Chúa Trời, chịu bao nhiêu khổ cũng sẵn lòng, dù chết cũng sẵn lòng, thế là nước mắt ngươi lại lưng tròng. Thực ra, Đức Chúa Trời không hề cảm động vì sự cảm động của ngươi, cũng không cảm động trước ý chí của ngươi. Đây chẳng qua là ngươi nhất thời kích động, nhất thời nhiệt huyết sục sôi. Trong trường hợp này, có lẽ ngươi còn có thể cầu nguyện rằng: “Thưa Đức Chúa Trời, con sẵn lòng chết vì Ngài! Thưa Đức Chúa Trời, hôm nay con vì bận rộn làm bổn phận mà lỡ một bữa ăn, dù lỡ mười bữa ăn đi nữa, con cũng sẵn lòng! Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn nhờ lời từ miệng Đức Chúa Trời. Thưa Đức Chúa Trời, con sẵn lòng yêu kính Ngài suốt đời suốt kiếp, cho đến mãi mãi và không đời nào thay đổi!”. Những lời lẽ hùng hồn này của ngươi khiến ngươi cảm động mà khóc nức nở, nhưng thái độ của Đức Chúa Trời đối với ngươi vẫn không thay đổi. Tại sao? Bởi vì ngươi tự làm mình cảm động vì cơn kích động nhất thời, nước mắt của ngươi không phải là nước mắt của sự hối hận, cũng không phải nước mắt vì cảm thấy mình mắc nợ, vì thực sự nhận biết được bản thân, càng không phải là nước mắt đau buồn vì ngươi thấy mình không đạt đến việc thực hành lẽ thật và giữ vững nguyên tắc lẽ thật. Do đó, sự cảm động này của ngươi chỉ có thể làm ngươi cảm động, có lẽ cũng làm cho người khác cảm động, làm cho những người xung quanh ngươi cảm động, chứ Đức Chúa Trời thì không thấy cảm động gì. Cho nên, ngươi cảm động không có nghĩa là Đức Thánh Linh làm ngươi cảm động, mà là chính ngươi đang tự làm mình cảm động. Nước mắt của ngươi là do ngươi tự làm mình cảm động mà chảy ra. Những giọt nước mắt, những lời xúc động, và cả nhiệt huyết sục sôi của ngươi chỉ là một loại hiện tượng bề mặt và một loại hành vi, chứ không phải là sự thay đổi về thực chất và sự sống, không phải sự bộc lộ của việc có lẽ thật làm sự sống. Khi ngươi có lòng nhiệt thành và sự thôi thúc muốn chịu khổ để dâng mình cho Đức Chúa Trời, và chúng còn đặc biệt tích cực, thì lúc đó ngươi cảm thấy đó là Đức Thánh Linh đang làm cho cảm động, cảm thấy mình đã biến đổi, và cho rằng mình đối tượng được cứu rỗi, đó là một dạng quan niệm và tưởng tượng của ngươi về công tác của Đức Chúa Trời. Khi ngươi vì nhất thời thất bại hoặc vấp ngã, hoặc vì sự bại hoại và khuyết điểm của ngươi bị phơi bày, tỉa sửa và tỏ lộ, mà nảy sinh sự tiêu cực thì ngươi buồn bã và đau khổ, cảm thấy mình chưa có sự biến đổi, cũng không có hy vọng được cứu rỗi, đây cũng là một dạng quan niệm và tưởng tượng của ngươi về công tác của Đức Chúa Trời. Thực ra, từ góc nhìn của Đức Chúa Trời – dù ngươi tiêu cực hay tích cực, dù tình trạng của ngươi sa đọa hay sa sút đến mức nào – thì Ngài vẫn luôn nhìn nhận ngươi như thế nào? Vóc giạc của ngươi là gì thì nó sẽ là như vậy, Đức Chúa Trời sẽ dựa vào tình trạng thực tế, biểu hiện thực tế và vóc giạc thực tế của ngươi để xác định xem ngươi đã biến đổi được bao nhiêu và đã bước vào bao nhiêu thực tế lẽ thật. Còn sự suy sụp đến nỗi không gượng dậy được và chán nản đến cùng cực lúc này của ngươi không phải là tiêu chuẩn để Đức Chúa Trời nhìn nhận ngươi hoặc xác định vóc giạc thực tế của ngươi. Cho nên, cho dù ngươi tích cực hay tiêu cực, cho dù ngươi nhiệt huyết sục sôi hay là chán nản, thì cũng không ảnh hưởng đến việc Đức Chúa Trời phán xét và xác định tính chất ngươi. Chỉ có bản thân ngươi vì có quá nhiều quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời nên mới dựa vào những biểu hiện và bộc lộ nhất thời của mình để xác định tính chất bản thân một cách sai lầm – hoặc xác định tính chất mình là người như Phi-e-rơ, hoặc xác định tính chất mình là người không thể cứu chữa. Nhưng dù ngươi có quy định như thế nào, dù ngươi có cảm giác tốt xấu ra sao, thì đều là do ngươi nảy sinh những quan niệm và tưởng tượng về công tác của Đức Chúa Trời mà ra, những quan niệm và tưởng tượng này đều không phù hợp với sự định nghĩa cũng và quy định chính xác, thực tế của Đức Chúa Trời đối với một con người. Phải vậy không? (Thưa, phải.) Cho nên, dù là về biểu hiện và thực chất của mình hay là về việc xác định tính chất tối hậu của mình, thì người ta đều không thể dựa vào quan niệm và tưởng tượng của mình để quy định những chuyện này. Thay vào đó, họ nên đánh giá dựa theo những quy luật bình thường trong công tác Đức Chúa Trời, dựa theo kết quả thực tế mà Đức Chúa Trời muốn đạt được trong công tác của Ngài, hoặc là dựa vào những phương thức làm công tác của Ngài và những định nghĩa chính xác của Ngài về con người. Vậy những quan niệm và tưởng tượng chính của con người về công tác của Đức Chúa Trời là gì? Người ta cho rằng vóc giạc thực tế của mình được xác định theo biểu hiện nhất thời hoặc biểu hiện trong một giai đoạn nào đó của mình: Nếu trong khoảng thời gian này tình trạng của người ta tốt thì Đức Thánh Linh sẽ làm công tác trên họ, họ sẽ có sự biến đổi, sẽ có sự sống, vóc giạc cũng sẽ trưởng thành và có thể đạt được sự cứu rỗi; còn nếu trong khoảng thời gian đó, tình trạng của họ không tốt, không có đức tin thực sự nào nơi Đức Chúa Trời thì nghĩa là họ không có vóc giạc gì. Đây có phải là quan niệm và tưởng tượng của con người không? (Thưa, phải.) Quan niệm và tưởng tượng của con người về công tác của Đức Chúa Trời chính là công tác của Đức Chúa Trời không được thực hiện trên con người trong một thời gian dài và liên tục, mà là kiểu nhất thời khai sáng cho con người một chút, khiến con người biểu hiện ra một luồng sức mạnh mãnh liệt và sự kích động nhất thời. Còn có một dạng nữa, đó là người ta cho rằng công tác của Đức Chúa Trời là siêu nhiên và Ngài làm người ta cảm động để họ có thái độ tích cực có ý chí chịu khổ, có ý chí dâng mình cho Ngài, thế là họ sẽ có vóc giạc, sẽ thành người lấy lẽ thật của Đức Chúa Trời làm sự sống. Người ta cho rằng nếu vì một chuyện gì đó mà họ yếu đuối, thì Đức Chúa Trời đã quy định rằng họ đã thất bại và bị tỏ lộ, rồi họ sẽ bị Đức Chúa Trời định tội, đào thải và vứt bỏ. Đây chẳng phải là quan niệm và tưởng tượng của con người sao? (Thưa, phải.)

Những quan niệm và tưởng tượng của con người mà chúng ta vừa mới thông công là gì? (Thưa, quan niệm và tưởng tượng của con người về công tác của Đức Chúa Trời có vài dạng sau: Một là người ta cho rằng vóc giạc thực tế của một người được xác định theo biểu hiện trong một giai đoạn nào đó hoặc theo biểu hiện nhất thời của họ, còn cho rằng công tác mà Đức Chúa Trời thực hiện trên con người chỉ diễn ra nhất thời, chứ không phải diễn ra lâu dài và liên tục. Người ta còn cho rằng công tác của Đức Chúa Trời rất siêu nhiên, thường làm cho người ta cảm động, khi người ta được Đức Đức Thánh Linh làm cho cảm động nhất thời, thì họ cảm thấy mình sắp được hoàn thiện hoặc mình tiến gần hơn đến tiêu chuẩn của Phi-e-rơ, còn khi thất bại và yếu đuối thì họ quy định rằng mình đã bị đào thải.) Trong phương diện này, quan niệm và tưởng tượng của con người về công tác của Đức Chúa Trời là gì? Đó chính là người ta cho rằng biểu hiện nhất thời nói lên vóc giạc thực tế họ, và Đức Chúa Trời dựa vào biểu hiện nhất thời để quy định họ. Người ta cho rằng Đức Chúa Trời thích nhìn thấy con người chịu khổ và trả giá, thích nhìn thấy con người thường cầu nguyện, lập quyết chí và cảm động đến mức nước mắt giàn giụa, họ còn cho rằng Đức Chúa Trời thích con người có thể vứt bỏ mọi thứ, dâng trọn bản thân và chăm chỉ làm công tác, có thể vượt qua các loại khó khăn của xác thịt. Người ta cho rằng bất kể hành động của mình có nguyên tắc hay không, có phù hợp với lẽ thật hay không, chỉ cần khi làm bổn phận thì thường xuyên trả giá, quên ăn quên ngủ, thức khuya dậy sớm, đi sớm về khuya thì Đức Chúa Trời sẽ thích. Ngụ ý chính là dù Đức Chúa Trời làm công tác gì hay phán bao nhiêu lời, thì Ngài cũng chỉ hy vọng con người có thể trả giá và chịu khổ vì Ngài, không ăn ngon mặc đẹp, cũng không thể có thời gian tự do, mỗi ngày ngoài làm bổn phận ra thì còn phải cầu nguyện, lập quyết chí, bày tỏ ý chí, hạ quyết tâm và thề thốt. Có vài người cho rằng Đức Chúa Trời chỉ thích trói buộc lòng người và trói buộc tay chân con người, không để con người được tự do giải phóng, khiến họ bị ức chế và không được giải phóng, không có sự tự do trong cuộc sống của nhân tính bình thường. Có phải người ta nghĩ như vậy không? (Thưa, phải.) Người ta còn nghĩ gì nữa? Người ta nghĩ Đức Chúa Trời không cho phép con người thất bại, cũng không cho phép con người bộc lộ sự yếu đuối, bại hoại hay khuyết điểm của mình. Người ta còn cho rằng nếu muốn được cứu rỗi và được hoàn thiện, thì trong quá trình làm bổn phận, họ không được có bất kỳ sự yếu đuối nào, không được có bất kỳ nhu cầu, khuyết điểm hay tật xấu nào của nhân tính bình thường, càng không được bộc lộ bất kỳ tâm tính bại hoại nào. Đây có phải là quan niệm và tưởng tượng của con người không? (Thưa, phải.) Trong quan niệm và tưởng tượng của mình, người ta cho rằng, dưới sự dẫn dắt của công tác Đức Chúa Trời, họ phải thường xuyên giữ vững một tấm lòng trẻ trung, giữ vững sự nhiệt thành, luôn tràn đầy sự nhiệt tình và có thái độ nghiêm túc đối với công tác, lúc nào cũng phải căng mình lên, không được lơi lỏng. Chẳng phải mọi người đều nghĩ như vậy sao? Đây là quan niệm và tưởng tượng của con người, hay là yêu cầu thực sự của Đức Chúa Trời đối với con người? (Thưa, là quan niệm và tưởng tượng của con người.) Người ta cho rằng một khi họ có chút yếu đuối hoặc tiêu cực, xác thịt gặp chút khó khăn, có vài khuyết điểm hoặc tật xấu trong nhân tính, hoặc là có sự bộc lộ tâm tính bại hoại, thỉnh thoảng còn tham muốn sự an nhàn của xác thịt, thì Đức Chúa Trời sẽ không muốn họ nữa, sẽ không phán với họ và không làm công tác trên họ nữa, họ sẽ bị đào thải, không có hy vọng được cứu rỗi nữa. Sự thật là vậy sao? (Thưa, không phải.) Chẳng phải đây là quan niệm và tưởng tượng của con người sao? (Thưa, phải.) Trong quan niệm và tưởng tượng của con người, họ cho rằng: một mặt, Đức Chúa Trời thích những người lúc nào cũng tràn đầy sự nhiệt tình, có nhiệt huyết sục sôi đối với công tác, mặt khác, Đức Chúa Trời không thích sự tiêu cực của con người và không cho con người bộc lộ sự yếu đuối. Ngụ ý chẳng phải là người ta cho rằng Đức Chúa Trời thích các tu sĩ khổ hạnh sao? Cả đời sống cuộc sống nghèo khốn, không màng thế sự, ngày ngày đều đọc lời Đức Chúa Trời bên ánh đèn dầu leo lắt, sớm tối đều phải cầu nguyện, một ngày ba bữa ăn đều phải cảm tạ Đức Chúa Trời, không được có các nhu cầu khác nhau của nhân tính bình thường, người ta cho rằng như vậy mới được gọi là trung thành tuyệt đối với Đức Chúa Trời, trung thành tuyệt đối với công tác, và chỉ người giữ được sự nhiệt thành như vậy mới là người Đức Chúa Trời yêu thích và là người mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi và hoàn thiện. Bởi vì người ta có những quan niệm và tưởng tượng này, cho nên có vài người thỉnh thoảng chỉ nhớ người nhà một chút thì trong lòng đã thấy bị quở trách gấp bội, thỉnh thoảng tán gẫu một chút cũng cảm thấy trong lòng bất an, cho rằng Đức Chúa Trời sẽ quở trách họ. Có vài cô gái trẻ thỉnh thoảng trang điểm một chút, mặc đẹp một chút hoặc mặc quần áo hơi theo mốt, cũng cảm thấy cả người không được tự nhiên, nghĩ rằng: “Mình ăn mặc như vậy có phải là không đứng đắn lắm không? Có phải hơi phóng đãng không?”. Thực ra, họ cũng không mặc gì quá lố lăng hay phơi bày da thịt, nhưng họ lại cảm thấy như vậy là phóng đãng: “Đức Chúa Trời đang quở trách bên trong mình. Ngài không thích mình làm như vậy”. Ngươi cho rằng Đức Chúa Trời không thích, vậy tại sao ngươi không mặc áo cà sa hay mặc áo đạo sĩ đi? Như vậy sẽ “tao nhã”, sẽ “đứng đắn” biết bao! Như vậy chẳng phải sẽ không còn phóng đãng nữa sao? Có vài người thỉnh thoảng ham mê chút hư vinh hoặc thỉnh thoảng thể hiện bản thân, thì nội thấy bị quở trách, họ sẽ bất an và cảm thấy “Đức Chúa Trời không yêu thích mình nữa, Ngài không muốn mình nữa rồi”. Thậm chí có vài người còn quy định bản thân không được chải tóc, không được trang điểm, không được soi gương, quy định mình một tháng hoặc nửa năm tắm một lần, nếu chưa đến một tháng hoặc nửa năm mà đã tắm rửa, thì đó chính là điều mà Đức Chúa Trời ghê tởm, chắc chắn mình sẽ không thể được cứu rỗi. Họ quy định bản thân buổi sáng phải thức dậy trước năm giờ, trễ nửa tiếng thì đồng nghĩa với tham hưởng an nhàn, không phải là người yêu kính Đức Chúa Trời, buổi tối thì sau 12 giờ khuya mới được nghỉ ngơi, nếu sớm hơn 12 giờ khuya thì không phải là người trung thành làm bổn phận. Những người này đã đặt ra rất nhiều quy định khuôn phép cứng ngắc cho hành vi, sinh hoạt thường nhật và nhu cầu cuộc sống của mình. Họ không tìm kiếm xem yêu cầu của Đức Chúa Trời là gì, cũng không tìm hiểu xem quan điểm và thái độ của Đức Chúa Trời đối với những chuyện này là gì. Thay vào đó, họ hoàn toàn đơn phương cho rằng, trong công tác của Đức Chúa Trời, Ngài không cho phép con người có những biểu hiện này, một khi con người có những biểu hiện này thì đó chính là việc đại nghịch bất đạo và họ chính là người bị Đức Chúa Trời ghê tởm, do đó không thể được cứu rỗi. Người ta thường vì một vài chuyện vụn vặt không đáng nhắc tới, chẳng hạn như nói sai một câu, dùng sai một từ, hoặc là ăn nhiều đồ ăn vặt một chút, thỉnh thoảng xem video giải trí gì đó, mà cảm thấy: “Không xong rồi, thế là đại nghịch bất đạo! Không ngờ mình vẫn còn dạng biểu hiện và sở thích như vậy, mình còn không biết mình vẫn còn những vấn đề này. Như thế này là không ổn. Mình phải phản tỉnh sâu sắc, mổ xẻ bản thân tận sâu trong tâm hồn, phải làm một cuộc cách mạng, không thể bỏ qua chuyện này được!”. Con người xem những vấn đề không liên quan gì đến nguyên tắc lẽ thật này vô cùng quan trọng, nhưng chúng đều là quan niệm và tưởng tượng của con người, là những thứ mà Đức Chúa Trời ghê tởm. Ngài không muốn nhìn thấy người ta bộc lộ những biểu hiện này. Vậy trong phương diện này, lẽ thật mà người ta nên hiểu là gì? Các nguyên tắc mà họ nên tuân thủ là gì? Nếu những vấn đề này là quan niệm và tưởng tượng của con người, vậy chúng chắc chắn không phải là nguyên tắc mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người, chắc chắn không liên quan gì đến yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người. Nếu đã là quan niệm và tưởng tượng, thì chúng chính là những thứ do con người tự suy diễn và thêu dệt trong đầu mình mà ra, tóm lại chúng xuất phát từ đầu óc con người, chẳng liên quan gì đến những thực tế lẽ thật mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người phải có. Bất kể người ta tuân thủ những quan niệm và tưởng tượng này như thế nào, chỉ cần chúng không liên quan gì đến lẽ thật, thì ngươi tuân thủ cũng chỉ uổng công. Dù ngươi tuân thủ chúng thì cũng không phải là ngươi đang tuân thủ nguyên tắc lẽ thật, Đức Chúa Trời cũng sẽ không ghi nhớ. Nhất là có vài người thỉnh thoảng bộc lộ chút sở thích và thói quen xác thịt của mình thì trong lòng lại cảm thấy bất an vô cùng, thấy bị khiển trách gấp bội, vậy sự bất an và khiển trách này đến từ đâu? Có phải là do Đức Thánh Linh làm cho cảm động không? (Thưa, không phải, mà vì người ta có quan niệm và tưởng tượng về Đức Chúa Trời, nên họ mới có cảm giác bất an.) Cơ sở cho những cảm giác này chính là quan niệm và tưởng tượng của con người, chứ không phải là lẽ thật. Có người động một chút là cảm thấy trong lòng bị quở trách và bất an, vội vàng đi cầu nguyện và nhận tội, vội vàng hối cải. Ngươi hối hận cái gì? Những việc ngươi đã làm đó là biểu hiện thường thấy trong cuộc sống, không phải là phạm tội, càng không phải phạm tội lớn, đừng có chuyện bé xé ra to! Nếu ngươi cho rằng việc đó không đúng thì ngươi có thể không làm, nhưng ngươi không làm cũng không có nghĩa là ngươi đang tuân thủ nguyên tắc lẽ thật, ngươi bất an cũng không có nghĩa là ngươi làm trái với nguyên tắc lẽ thật. Vậy tại sao ngươi lại hối cải? Tại sao ngươi xoay chuyển? Có phải vì quan niệm và tưởng tượng của ngươi khiến ngươi lầm tưởng rằng đó là một hành vi không nên có, hay là ngươi cho rằng hành vi của ngươi làm trái với lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật? Nếu là làm trái với nguyên tắc lẽ thật và ngươi thực sự cảm thấy bất an, thì ngươi hãy nhanh chóng xoay chuyển và hối cải với Đức Chúa Trời, sự bất an này ít nhất cũng là sự khiển trách của lương tâm trong nhân tính. Nếu chỉ vì làm trái với quan niệm và tưởng tượng của mình mà làm ngươi cảm thấy bất an, như vậy có phải là đắm chìm trong cảm xúc hão huyền không? (Thưa, phải.) Đây hoàn toàn là đắm chìm trong cảm xúc hão huyền, là việc dư thừa. Ngươi đi theo kẻ địch lại Đấng Christ, sao lại không cảm thấy bất an? Sao lại không thấy bị quở trách? Khi ngươi nhìn thấy kẻ ác gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh, làm tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, mà ngươi không đứng lên ngăn chặn, thì ngươi có cảm thấy bất an không? Khi ngươi nói năng và hành động trái với nguyên tắc lẽ thật và chỉ dựa vào ý riêng, thì ngươi có cảm thấy bất an không? Nếu trong những chuyện này, ngươi làm trái với nguyên tắc lẽ thật mà trong lòng ngươi lại chưa từng cảm thấy bất an, thì ngay cả nhân tính hay lương tâm, ngươi đều không có. Nếu có lương tâm, ngươi sẽ vì chuyện gì mà cảm thấy bất an? Ngươi bất an hoàn toàn là do ngươi đắm chìm trong cảm xúc hão huyền, là quan niệm và tưởng tượng của chính ngươi đang giày vò ngươi và khiến ngươi nảy sinh sự bất an – làm vậy chẳng ích gì cả. Nếu ngươi ở trong quan niệm và tưởng tượng của mình mà tin Đức Chúa Trời, thì kết quả cuối cùng sẽ là gì? Ngươi chỉ có thể ngày càng giả hình, ngày càng giống người Pha-ri-si, chỉ có thể ngày càng xa rời lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật, không thể nào bước vào thực tế lẽ thật. Ngươi còn luôn tự cảm thấy mình tốt, nhưng rốt cuộc ngươi tốt ở chỗ nào? Bên trong con người ngươi tràn ngập quan niệm và tưởng tượng, mỗi một chuyện mà ngươi cảm giác được đều không liên quan gì đến lẽ thật. Những cảm giác được cảm động, bị quở trách, thấy mắc nợ và hối hận của ngươi, cả sự hối cải mà ngươi cho rằng mình nên có, những lời thề và quyết chí ngươi đã lập, tất cả đều có liên quan đến quan niệm và tưởng tượng của ngươi. Những thứ này được xây dựng trên nền tảng quan niệm và tưởng tượng của ngươi, chẳng liên quan gì đến lẽ thật. Cho nên, trong bất kỳ chuyện gì ngươi làm – cho dù là chịu khổ và trả giá hay là dâng hiến và dâng trọn thân mình, dù ngươi bỏ ra cái gì đi nữa – chỉ cần nó không liên quan đến lẽ thật, thì đều là uổng công. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.)

Sau khi chúng ta đã thông công và mổ xẻ những quan niệm và tưởng tượng này của con người về công tác của Đức Chúa Trời, vậy về cách nhìn nhận những biểu hiện như khi làm bổn phận, người ta có chịu khổ, trả giá và chịu sự ràng buộc không, có thích ăn ngon, mặc đẹp không, v.v., cũng như về chuyện nguyên tắc mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người là gì và kết quả mà Đức Chúa Trời muốn đạt được trên con người thông qua công tác của Ngài rốt cuộc là gì, có phải các ngươi đã hiểu rõ hơn một chút rồi không? Kết quả mà Đức Chúa Trời muốn đạt được trên con người không phải là lúc nào cũng nhìn thấy sự nhiệt tình của ngươi trong công tác. Nghĩa là không phải Ngài muốn nhìn thấy nhiệt tâm hay ý chí trả giá và chịu khổ của ngươi. Trong mắt Đức Chúa Trời, nếu ngươi không hiểu lẽ thật, thì những biểu hiện này chỉ là sự kích động nhất thời của ngươi, nói cách khác đó là nhiệt tâm của ngươi. Nhiệt tâm thực chất là gì? Nó chính là huyết khí của ngươi, nói cụ thể hơn thì đó chính là hành động theo cảm tính. Điều Đức Chúa Trời muốn không phải là nhiệt tâm, những hành động theo cảm tính hay sự kích động nhất thời của con người, hoặc là trạng thái nhiệt tình này của con người, vậy điều Đức Chúa Trời muốn là gì? (Thưa, Ngài muốn con người có thể hiểu lẽ thật.) Ít nhất, Ngài muốn ngươi có thể yêu thích và hiểu lẽ thật, khi gặp phải đủ loại chuyện thì không tuân thủ một dạng quy định, một dạng hình thức hoặc một dạng hành vi nào đó, mà phải tuân thủ nguyên tắc lẽ thật, Ngài còn muốn trong bổn phận và mọi việc làm, ngươi đều có thể tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, thực hành theo nguyên tắc lẽ thật, biến lời Đức Chúa Trời và lẽ thật thành thực tế của ngươi – đây chính là kết quả mà công tác của Đức Chúa Trời muốn đạt được. Còn về cuộc sống cá nhân của ngươi, ngươi muốn ngủ sớm dậy sớm hay là ngủ muộn dậy muộn, ngươi có ân tứ hay tài ăn nói thế nào, thì đều chẳng là gì với Đức Chúa Trời. Dù ngươi có ý chí chịu khổ hay không, đã trả giá bao nhiêu, thì Ngài cũng không xem trọng. Có vài người nói: “Tôi vì tin Đức Chúa Trời mà ba năm, năm năm rồi chưa mua quần áo đẹp, mười năm rồi cũng chưa bước vào tiệm cắt tóc”. Dù ngươi cả đời không ăn ngon, mặc đẹp, còn chịu rất nhiều khổ sở, vậy thì đã sao? Đây là điều Đức Chúa Trời muốn sao? Ngài giảng đạo và thông công để cung ứng cho con người vô số lẽ thật, mục đích cuối cùng là khiến ngươi trở thành một tu sĩ khổ hạnh sao? Là khiến ngươi trở thành một kẻ đáng thương, một tên ăn mày hoặc một loại tuổi trẻ nổi giận sao? Không phải, điều Đức Chúa Trời muốn làm là nhào nặn lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật vào trong con người. Cho nên, có rất nhiều người cho rằng Đức Chúa Trời thích nhìn thấy con người chịu khổ và trả giá nhiều hơn trong cuộc sống thường nhật, muốn nhìn thấy con người sống cực kỳ tiết kiệm, chịu đựng gian khổ và giản dị, đặc biệt có ý chí và lý tưởng, đặc biệt nhiệt tình, hoặc là sống đặc biệt có chừng mực, an phận và có khuôn phép – những thứ này đều là quan niệm và tưởng tượng của con người về công tác của Đức Chúa Trời. Cho dù cả đời ngươi quanh năm suốt tháng mỗi ngày chỉ ăn một bữa cơm, chỉ ngủ ba tiếng, không được ăn ngon, không được mặc đẹp, chỉ làm những chuyện ngươi cho là nên làm, chịu vô số khổ sở và lập vô số quyết chí, như cách mà các ngươi hay nói là “giữ mãi tấm lòng son”, cứ thế mà chịu khổ và dâng mình cho Đức Chúa Trời, dâng hiến cả đời cho Đức Chúa Trời, nhưng lại chưa bao giờ bỏ công sức vào lời Đức Chúa Trời hay lẽ thật, làm việc gì cũng không tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, vậy thì ngươi chắc chắn sẽ là đối tượng bị vứt bỏ. Ngươi muốn đạt được sự cứu rỗi thông qua việc chịu khổ và trả giá, thông qua việc giữ mãi tấm lòng son, cả đời dâng mình cho Đức Chúa Trời và dâng hết mọi sự mình có cho Ngài, thì đó chỉ là một giấc mơ đẹp của ngươi, là hy vọng hão huyền. Nếu cả đời ngươi chỉ ăn cháo ngô, bánh ngô, chưa bao giờ ăn đồ ngon, cũng chưa bao giờ hưởng thụ những thứ tốt, thì cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đức Chúa Trời không bao giờ nhìn vào hành vi của một con người, cũng không nhìn xem bề ngoài họ tuân thủ khuôn phép gì hay là cuộc sống bề ngoài của họ có giản dị không. Điều mà Đức Chúa Trời muốn nhìn thấy là con đường mà ngươi đi, nguyên tắc mà ngươi tuân thủ trong mỗi chuyện ngươi gặp phải, và liệu ngươi có tuân thủ nguyên tắc lẽ thật khi xử lý vấn đề hay không. Nếu ngươi không tuân thủ nguyên tắc lẽ thật, thì những quy định cứng nhắc và những khuôn phép mà ngươi tuân thủ có tốt đến đâu cũng vô ích. Chuyện này chỉ có thể cho thấy ngươi là một người đang sống trong quan niệm và tưởng tượng, sống trong nguyện vọng tốt đẹp đơn phương hão huyền, chứ chẳng liên quan gì đến công tác của Đức Chúa Trời, cũng không liên quan đến bất kỳ phương thức làm công tác cứu rỗi nào mà Ngài làm trên con người – ngươi là một người xa rời công tác của Đức Chúa Trời. Do đó, nếu muốn đạt đến có thu hoạch từ công tác của Đức Chúa Trời, thì đầu tiên ngươi phải bỏ công sức vào lẽ thật, không được làm bất kỳ việc gì hoặc bỏ bất kỳ công sức nào vào quan niệm và tưởng tượng của mình nữa, làm vậy hoàn toàn vô ích. Có vài người hỏi Ta: “Ngài thấy con để tóc dài hay tóc ngắn thì đoan trang, đứng đắn hơn?”. Ta hỏi lại họ: “Vậy ngươi thích để tóc dài hay để tóc ngắn?”. Họ nói: “Con thích để tóc dài. Nhưng con nghĩ tóc dài không đoan trang, đứng đắn, không phải là điều mà Ngài thích”. Ta nói: “Đức Chúa Trời nói lời này khi nào vậy? Điều này có liên quan đến lẽ thật không?”. Còn có vài người hỏi: “Con có thể ăn đồ ăn vặt không?”. Ta nói: “Ăn đồ ăn vặt có phải là nhu cầu của nhân tính bình thường không? Đức Chúa Trời có quy định không được ăn thứ đó không? Ngài có định tội không?”. Họ trả lời: “Con nghĩ Đức Chúa Trời sẽ định tội, bởi vì ăn vặt là buông thả”. Buông thả là gì? Nếu ngươi cho rằng ăn đồ ăn vặt là buông thả, vậy không ăn vặt là không buông thả sao? Không ăn vặt có thể nói lên rằng ngươi là người hiểu và thực hành lẽ thật sao? Ta nói như vậy, các ngươi đã hiểu rồi phải không? (Thưa, phải.) Quan niệm và tưởng tượng không phải là lẽ thật, cũng không liên quan gì đến lẽ thật. Nếu ngươi thông minh thì hãy nhanh kiểm điểm xem mình vẫn có những quan niệm và tưởng tượng nào, vẫn có những cách làm, tư tưởng và quan điểm nào của người Pha-ri-si, rồi mau chóng buông bỏ chúng đi. Mục đích của việc buông bỏ không phải là để ngươi buông thả và phóng túng, mà là để khiến ngươi đến trước mặt Đức Chúa Trời hầu tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, đạt đến có lẽ thật làm sự sống. Đức Chúa Trời đâu muốn nhìn thấy ngươi làm ăn xin và sống một cuộc sống khổ hạnh. Có vài người còn nói: “Đức Chúa Trời không thích người ta làm ăn xin, vậy có phải Ngài thích người ta làm người giàu không?”. Đức Chúa Trời cũng không thích con người làm người giàu. Có vài người nói: “Chuyện Đức Chúa Trời thích xác thịt của người ta chịu khổ là quan niệm và tưởng tượng của con người. Vậy nếu Ngài không thích con người chịu khổ, thì có phải Ngài thích người ta được sung sướng hay không?”. Sai rồi, đây cũng là quan niệm và tưởng tượng của ngươi mà thôi. Vậy như thế nào mới đúng? (Thưa, Đức Chúa Trời thích người ta dù gặp phải bất kỳ chuyện gì cũng có thể đến trước mặt Đức Chúa Trời mà tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật.) Bất kỳ lúc nào cũng không được quên nguyên tắc lẽ thật. Có vài người nói: “Đức Chúa Trời thích người ta lập quyết chí trước mặt Ngài, thích người ta có ý chí chịu khổ”. Còn có người nói: “Đức Chúa Trời không thích những người không sẵn lòng chịu khổ”. Nói như vậy có đúng không? Câu nào đúng, câu nào sai? (Thưa, cả hai đều sai.) Có vài người vì địa vị và danh lợi của mình mà gắng sức chịu khổ, ý chí chịu khổ cũng rất mạnh, những biểu hiện này có phải là thứ mà Đức Chúa Trời thích không? (Thưa, không phải.) Có vài người khi gặp chuyện cá nhân bắt buộc phải chịu khổ thì không sẵn lòng chịu khổ, nhưng lại sẵn lòng chịu khổ để làm bổn phận và vì lẽ thật, cũng sẵn lòng chịu chút khổ để hành động theo nguyên tắc lẽ thật, vậy loại biểu hiện nào tốt hơn? (Thưa, chịu khổ vì nguyên tắc lẽ thật.) Từ những chuyện này, chúng ta có thể thấy được điều gì? Đó là hành động theo nguyên tắc lẽ thật và thực hành lẽ thật là đúng. Bất kể liên quan đến chuyện làm bổn phận hay chuyện về cuộc sống cá nhân, việc người ta có chịu khổ hay không đâu phải là tiêu chuẩn hay nguyên tắc. Mà nguyên tắc là gì? Nguyên tắc là yêu cầu của Đức Chúa Trời, là lời Đức Chúa Trời, là lẽ thật. Khi ngươi thực hành theo nguyên tắc lẽ thật, cho dù trong chuyện này ngươi chưa chịu khổ, thì những gì ngươi đang làm là đúng, thậm chí còn được Ðức Chúa Trời khen ngợi. Nếu ngươi không hành động theo nguyên tắc lẽ thật, cho dù trong chuyện này ngươi đã chịu rất nhiều khổ sở và nhục nhã thì cũng vô ích, Đức Chúa Trời cũng không khen ngợi. Giống như có vài người sau khi nghe xong một câu của kẻ địch lại Đấng Christ thì tuân lệnh làm theo, họ thực hiện công tác theo sở thích của kẻ địch lại Đấng Christ, nói thật nhiều, chịu khổ thật nhiều, bận rộn đến quên cả trời đất, dến mức thân thể mệt mỏi và sức khoẻ suy sụp, liệu Đức Chúa Trời có khen ngợi chuyện này không? Ngài có ghi nhớ không? (Thưa, Ngài không khen ngợi, cũng không ghi nhớ.) Vậy thái độ của Ngài là gì? (Thưa, Đức Chúa Trời ghê tởm những người như vậy.) Đức Chúa Trời đã nói gì? Ngài nói: “Hỡi kẻ làm gian ác, hãy lui ra khỏi Ta!”. Đây có phải là thái độ của Đức Chúa Trời không? (Thưa, phải.) Cho dù ngươi lấy bao nhiêu cái khổ đã chịu hay bao nhiêu cái giá đã trả để khoe khoang công lao của mình, thì Đức Chúa Trời đều không nhìn đến. Đức Chúa Trời chỉ nhìn xem ngươi có làm những việc đó theo nguyên tắc lẽ thật không, có đang tuân theo lời Đức Chúa Trời không, Ngài dùng nguyên tắc này để đánh giá. Nếu ngươi không tuân theo lời Đức Chúa Trời mà làm theo ý mình, thì ngươi có chịu bao nhiêu khổ và trả bao nhiêu giá cũng đều là công dã tràng, Đức Chúa Trời chẳng những không ghi nhớ mà còn định tội ngươi. Đây có phải là tự chuốc lấy diệt vong hay không? (Thưa, phải.) Người như vậy cuối cùng bị đào thải thì có đáng đời không? (Thưa, có.) Đức Chúa Trời đã phán hàng ngàn hàng vạn lời và nói cho ngươi biết nguyên tắc lẽ thật, mà ngươi không nghe. Ngươi luôn có ý riêng, vọng tưởng dùng quan niệm và tưởng tượng của mình mà thay thế lẽ thật để từ đó được Đức Chúa Trời khen ngợi, vào vương quốc, được phúc và được ban thưởng, như vậy chẳng phải là tự tìm đường chết sao? Đây chẳng phải là loại người như Phao-lô sao? (Thưa, phải.) Cho nên, nếu muốn buông bỏ rào cản giữa mình và Đức Chúa Trời cùng sự thù địch đối với Ngài, thì người ta nên có nhận thức chính xác về công tác của Đức Chúa Trời. Người ta không nên dựa vào quan niệm và tưởng tượng mà suy đoán về Đức Chúa Trời, đánh giá công tác của Ngài, hoặc đánh giá hành vi và cách làm của mình, sau đó dựa vào quan niệm và tưởng tượng của mình để xử lý mọi chuyện. Làm như vậy thì kết quả cuối cùng chính là tốn công vô ích, trong trường hợp nghiêm trọng thì còn có thể gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác hội thánh, xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời và bị trừng phạt. Cho nên, khi tiếp cận công tác của Đức Chúa Trời, người ta nên buông bỏ các loại quan niệm và tưởng tượng của mình về Đức Chúa Trời. Nghĩa là người ta nên kiểm điểm, mổ xẻ quan niệm và tưởng tượng của mình sau đó buông bỏ chúng, đi tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời và lẽ thật, dùng nguyên tắc lẽ thật để thay thế quan niệm và tưởng tượng, cùng những nguyên tắc và suy nghĩ sai lầm của mình. Như vậy ngươi mới có thể đi lên con đường được cứu rỗi, bằng không, ngươi có muốn được cứu rỗi thì đó cũng là chuyện không thể nào xảy ra, khỏi cần bàn đến! Đây là một dạng quan niệm và tưởng tượng của con người về công tác của Đức Chúa Trời, chúng ta thông công đến đây thôi.

Người ta còn có một dạng quan niệm và tưởng tượng nữa về công tác của Đức Chúa Trời, đó là trong cuộc sống thường nhật, khi người ta trở nên yếu đuối, khi họ nảy sinh đủ loại phản nghịch với Đức Chúa Trời, hoặc khi họ làm một vài chuyện phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời, thì trong quan niệm và tưởng tượng của mình, họ cho rằng mình nên bị sửa dạy, sửa phạt, thậm chí là bị trừng phạt, nguyền rủa, v.v… Ví dụ như, có lúc họ nói sai gì đó hoặc bộc lộ một vài quan niệm, hoặc có một vài ý nghĩ, thấy không phục về một chuyện nào đó, sau một thời gian, họ cảm thấy: “Mình đã bộc lộ sự phản nghịch và phản bội, nhưng tại sao vẫn chưa bị sửa dạy? Lưỡi mình không phồng rộp lên, buổi tối ngủ cũng không gặp ác mộng, trong lòng cũng không cảm thấy bất an, chuyện này là sao? Tại sao mình chưa cảm giác được công tác của Đức Thánh Linh?”. Trong quan niệm và tưởng tượng, người ta cho rằng vì Đức Chúa Trời đến cứu rỗi con người, thì công tác của Ngài ngoài chinh phục con người ra còn phải biến đổi và làm tinh sạch con người, phải thay đổi đủ loại tư tưởng và quan điểm không phù hợp với lẽ thật của con người, vì vậy mà họ cho rằng nếu trong tư tưởng của người ta có một vài thứ không phù hợp với lẽ thật hoặc một vài thứ ô uế, bẩn thỉu và tà ác thì người ta nên bị sửa dạy, sửa phạt, thậm chí là bị trừng phạt, họ cho rằng: “Nếu không thường xuyên bị sửa dạy, thì làm sao người ta thay đổi được? Làm sao người ta thánh khiết được?”. Vậy quan niệm và tưởng tượng của con người trong chuyện này là gì? Là cho rằng người ta nên thường xuyên bị sửa dạy, quở trách, sửa phạt và trừng phạt, thậm chí là bị hành phạt và phán xét, như vậy người ta mới có thể đạt đến sự thay đổi trong tâm tính. Tuy nhiên, trong cuộc sống thường nhật, khi bộc lộ những sự ô uế, tà ác và bại hoại này, thì người ta bộc lộ một cách rất tự nhiên, chính họ cũng có thể cảm nhận được, thậm chí còn cảm thấy sống như vậy cũng bình an, chẳng có cảm giác bị sửa phạt hay trừng phạt gì, và người ta thấy như vậy là không bình thường. Người ta cảm thấy nếu bản thân đã bộc lộ sự bại hoại thì ít nhất phải cảm thấy bị quở trách, hoặc là bị bệnh, hoặc là miệng phồng rộp, lúc ăn cơm sẽ bị nghẹn hoặc cắn phải lưỡi, nếu xem những thứ không nên xem thì mắt sẽ sưng đỏ. Các ngươi nói xem, Ðức Chúa Trời có làm những chuyện này không? (Thưa, không làm.) Là tuyệt đối không làm sao? (Thưa, khi người ta không hiểu lẽ thật, Đức Chúa Trời có thể sẽ dựa vào vóc giạc của họ mà sửa dạy và quở trách, để họ có thể phản tỉnh bản thân và bước vào lẽ thật. Nhưng khi người ta đã hiểu lẽ thật, trong lòng họ cũng biết rõ những chuyện mình làm là sai, trong trường hợp này, Đức Chúa Trời tuyệt đối sẽ không sửa dạy, bởi vì Ngài hy vọng người ta có thể tìm kiếm lẽ thật, dùng lời Đức Chúa Trời và lẽ thật để đánh giá mọi chuyện mình làm.) Thông công rất hay. Trong quan niệm và tưởng tượng, người ta còn cho rằng khi họ bộc lộ sự bại hoại và phản nghịch thì Đức Chúa Trời nên sửa dạy họ, nhất là khi kẻ ác làm việc ác thì sự trừng phạt của Đức Chúa Trời phải giáng xuống ngay lập tức, để cho kẻ ác buộc phải bị trừng phạt. Nhưng trong cuộc sống hiện thực, những trường hợp bị trừng phạt như vậy rất hiếm khi xảy ra. Một mặt, khi người ta bộc lộ đủ loại sự bại hoại và phản nghịch thì không bị sửa dạy hay sửa phạt, mặt khác, khi kẻ ác làm việc ác cũng không bị trừng phạt. Lúc đó, nơi sâu thẳm nội tâm người ta sẽ có một vài quan niệm về công tác của Đức Chúa Trời, thậm chí có một vài người sẽ mất đi đức tin, sẽ dựa vào những chuyện bề ngoài này để đánh giá công tác của Đức Chúa Trời, còn nảy sinh một vài sự xét đoán về công tác của Ngài. Đây có phải là quan niệm và tưởng tượng của người ta không? Khi người ta bộc lộ sự bại hoại và phản nghịch, Đức Chúa Trời buộc phải sửa dạy, hành phạt và phán xét họ sao? (Thưa, không.) Có vài người nói: “Đức Chúa Trời cứu rỗi con người thì phải cứu rỗi cho triệt để. Mục đích Đức Chúa Trời làm công tác là gì? Chẳng phải là để làm tinh sạch con người sao? Vậy khi người ta bộc lộ sự bại hoại và phản nghịch thì Đức Chúa Trời nên sửa dạy và quở trách, đó mới là có trách nhiệm với người ta. Đức Chúa Trời mà không làm như vậy thì chẳng khác nào không quan tâm đến con người, không thực sự yêu thương và thương xót con người”. Có phải người ta nghĩ như vậy không? (Thưa, phải.) Lẽ thật mà chúng ta nên hiểu ở đây là gì? Sửa dạy, sửa phạt và trừng phạt có phải là quá trình tất yếu để con người hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật không? Đó có phải là phương tiện và phương thức cần thiết để Đức Chúa Trời cứu rỗi và biến đổi con người không? Có vài người nghĩ không ra, họ cho rằng: “Nếu Đức Chúa Trời thực sự tồn tại và Ngài làm công tác để cứu rỗi con người, vậy khi con người bộc lộ sự bại hoại hoặc là phản nghịch Ngài, tại sao Ngài không sửa dạy? Kẻ ác làm việc ác, tại sao Ngài không trừng phạt?”. Việc Đức Chúa Trời không sửa dạy người ta hoặc không trừng phạt khi kẻ ác làm việc ác, có phải sẽ khiến cho một vài người nảy sinh nghi ngờ về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời và kết quả công tác của Ngài không? Nếu thường xuyên sửa dạy và trừng phạt có thể thay thế cho việc con người tìm kiếm lẽ thật hoặc có thể khiến con người bước vào thực tế lẽ thật, vậy thì sửa dạy và trừng phạt sẽ trở thành phương thức chính, thậm chí là trở thành một phương tiện cần thiết, trong công tác cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời. Nhưng với mức độ bại hoại hiện tại của con người, liệu bản tính Sa-tan của người ta có thể thay đổi ngay lập tức thông qua sự sửa dạy và trừng phạt của Đức Chúa Trời không? Người ta có thể ngay lập tức có sự hối cải thực sự không? Có thể ngay lập tức bước vào thực tế lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Đây là chuyện người ta không đạt đến được. Cho nên, trong giai đoạn công tác này của Đức Chúa Trời, trong khi Ngài bày tỏ lẽ thật để cung ứng sự sống cho con người, thì ngoài công tác khai sáng và hướng dẫn con người của Đức Thánh Linh ra, Đức Chúa Trời không làm những chuyện siêu nhiên, nghĩa là những chuyện sửa phạt, sửa dạy hay trừng phạt con người cũng rất hiếm khi có. Những chuyện sửa phạt, sửa dạy và trừng phạt này không chiếm vai trò chủ đạo trong công tác của Đức Chúa Trời, nhưng vẫn có. Nghĩa là trên một vài người đặc thù, trong một vài chuyện hay hoàn cảnh đặc thù, để có một vài kết quả đặc thù hoặc vì một vài nguyên nhân đặc thù, mà Đức Chúa Trời sẽ làm công tác sửa dạy, sửa phạt hoặc trừng phạt. Nhưng nhìn chung, trong giai đoạn công tác này của Đức Chúa Trời, phương thức công tác chủ yếu của Ngài là phán lời và bày tỏ lẽ thật để cung ứng cho con người những gì họ cần trên con đường mưu cầu lẽ thật, mục đích là để con người hiểu được nguyên tắc lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật. Sau khi Đức Chúa Trời bày tỏ vô số lẽ thật, những công tác như sửa dạy, sửa phạt hay thậm chí là trừng phạt mà Ngài đã từng làm trước đây cũng ít đi nhiều. Do đó, điều mà người ta nên chú trọng hơn chính là các nguyên tắc lẽ thật mà họ nên thực hành khi gặp phải chuyện gì đó trong cuộc sống thường nhật, thay vì chú trọng vào những phương thức và cách làm của Đức Chúa Trời như là trong chuyện nào đó, Ngài có sửa dạy ngươi không, có cản trở ngươi không, có tạo thuận lợi cho ngươi không, v.v... Nói Đức Chúa Trời hiếm khi dùng những phương thức như sửa dạy, sửa phạt và trừng phạt, thì không phải là Ngài không dùng, mà là hiếm khi dùng. Hiếm khi dùng nghĩa là gì? Nghĩa là thỉnh thoảng trong một vài trường hợp đặc biệt, Ngài sẽ dùng những phương thức sửa dạy, sửa phạt hoặc trừng phạt để làm một vài công tác hỗ trợ cho con người hiểu lẽ thật và thực hành theo nguyên tắc lẽ thật – một cách nhẹ nhàng, mang tính đại diện hoặc tượng trưng. Nói cách khác, Ngài dùng những phương thức này để hỗ trợ con người bước vào nguyên tắc lẽ thật, chỉ thế thôi. Vậy tại sao khi làm công tác, Đức Chúa Trời không dùng phương thức này một cách rộng rãi? Tại sao Ngài không chủ yếu công tác theo những phương thức này? Một mặt là vì trong giai đoạn công tác này, Đức Chúa Trời đã đem các lẽ thật khác nhau mà con người cần hiểu nói cho họ biết và cung ứng cho họ rồi, nên con người đều đã nghe qua những lẽ thật này, cũng đã lĩnh hội và biết về chúng trong phạm vi họ có thể lĩnh hội. Đây là một nguyên nhân. Nguyên nhân khác là về yếu tố chủ quan của con người. Nếu người ta có lương tâm của nhân tính bình thường, và dưới tác động của lương tâm, người ta sẽ đánh giá xem tâm tính bại hoại mà mình đã bộc lộ hoặc cách làm, tư tưởng và quan điểm của mình là tích cực hay tiêu cực. Trong người ta, ít nhất cũng có một tiêu chuẩn của lương tâm để đánh giá tất cả những chuyện này. Nếu ngươi dùng lương tâm để đánh giá chuyện gì đó và thấy nó là tích cực, thì đó là chuyện ngươi nên làm, dù ngươi làm chậm một chút hay trễ một chút cũng không cần tự trách mình. Nếu ngươi dùng lương tâm để đánh giá chuyện gì đó và thấy nó là tiêu cực, là chuyện không nên làm, thì ngươi nên kiềm chế, đừng nói, đừng làm chuyện đó. Nhưng nếu ngươi không có cảm giác của lương tâm và lý trí, thì ngươi không phải là con người. Ngay cả lương tâm và lý trí mà ngươi cũng không có, thì ngươi không thể đánh giá được chuyện nào đó là đúng hay sai, là tích cực hay tiêu cực, do đó dù Đức Chúa Trời sửa dạy hay trừng phạt ngươi thì cũng không có ý nghĩa gì cả. Nói cách khác, Đức Chúa Trời không làm công tác trên những người mà lương tâm đã không còn tác dụng, Ngài không cứu rỗi những người như vậy. Không cứu rỗi còn có nghĩa là gì? Là ngay cả việc sửa dạy Ngài cũng không muốn làm, Ngài không sửa dạy, cũng không sửa phạt họ. Có vài người hỏi: “Nếu có người làm việc ác, thì Đức Chúa Trời có trừng phạt họ không?”. Ngài sẽ không trực tiếp trừng phạt, bởi vì hội thánh có sắc lệnh quản trị rồi. Nếu họ là những kẻ ác gây nhiễu loạn và gián đoạn, thì thanh trừ hoặc khai trừ họ là xong, kể không đủ điều kiện để bị thanh trừ hoặc khai trừ, thì cũng phải đẩy họ sang nhóm B. Nếu có người phung phí của lễ của Đức Chúa Trời thì càng nghiêm trọng hơn nữa, những thứ cần hoàn trả thì họ phải hoàn trả, nhưng sau khi hoàn trả xong, họ vẫn phải bị xử lý thoả đáng. Đây là nguyên tắc làm công tác của Đức Chúa Trời và là nguyên tắc Ngài đối đãi với con người, các ngươi thấy có đơn giản không? (Thưa, đơn giản.) Ngươi còn cho rằng Đức Chúa Trời đã chọn ngươi thì phải làm cho ngươi nên hoàn thiện, phải làm mãi cho đến khi nào được mới thôi, hay không? Cách này chỉ áp dụng cho người có lương tâm và lý trí, có thể mưu cầu lẽ thật – chỉ áp dụng với người có thể được cứu rỗi mà thôi. Còn đối với người ngay cả cảm giác của lương tâm cũng không có, thì chỉ cần dựa vào sắc lệnh quản trị của hội thánh để đối đãi và xử lý họ là được, chứ Đức Chúa Trời không sửa dạy họ. Sửa dạy họ thì có ích gì chứ? Sửa dạy người không có nhân tính bình thường và không có lương tâm, thì chẳng khác nào ép vịt leo sào, ép bò leo cây, chẳng khác nào ném trân châu cho lợn, đưa của thánh cho kẻ không tinh sạch ăn – Đức Chúa Trời không thể nào làm như vậy. Cho nên, trong chuyện này, ngươi không được cho rằng: “Mình là đối tượng được Đức Chúa Trời chọn lựa, là chiên của Đức Chúa Trời, cho dù mình phạm sai lầm hay làm việc ác thì ngài cũng sẽ không vứt bỏ mình”. Câu nói này không đứng vững được, vì ngươi là chiên hay là sói thì khó mà nói lắm. Làm thế nào để đánh giá ngươi có phải là chiên của Đức Chúa Trời hay không? Vậy thì phải xem khi làm những chuyện trái với nhân tính và trái với lương tâm, ngươi có cảm giác gì không, lương tâm ngươi có bị quở trách, bị khiển trách không. Nếu bị khiển trách, ngươi sẽ quay đầu, dù không hiểu lẽ thật, ngươi cũng có thể làm theo tiêu chuẩn của lương tâm, ít nhất là có thể làm những chuyện phù hợp với nhân tính bình thường. Nếu ngươi có biểu hiện như vậy thì ngươi là chiên của Đức Chúa Trời. Nếu gặp phải một chuyện trái với lương tâm của nhân tính bình thường, trái với đạo nghĩa, mà ngươi chẳng có chút tinh thần chính nghĩa nào, đối với những việc ác mình đã làm hoặc chuyện kẻ ác gây nhiễu loạn và gián đoạn, ngươi không thấy ghê tởm cũng không căm ghét, lương tâm của ngươi cũng không có bất kỳ sự khiển trách nào, vậy thì ngươi không phải là chiên của Đức Chúa Trời, ngươi là sói, là súc sinh, là ma quỷ. Ngươi là chiên của Đức Chúa Trời hay là sói thì cứ dùng tiêu chuẩn này để đánh giá là biết. Nếu ngươi không phải là chiên của Đức Chúa Trời, mà vẫn luôn đánh giá công tác của Đức Chúa Trời bằng cách nghĩ, quan niệm và tưởng tượng rằng: “Mình đã bộc lộ sự bại hoại và phản nghịch mà Đức Chúa Trời cũng không sửa dạy mình, đáng lẽ Đức Chúa Trời nên sửa dạy mình mới đúng”, thì ngươi thật ngu xuẩn. Ngươi căn bản không phải là chiên của Đức Chúa Trời và Ngài cũng không có ý định cứu rỗi ngươi, vậy ngươi còn có tư cách gì để đánh giá và xét đoán công tác của Đức Chúa Trời không? Ngươi không ngu xuẩn thì là gì? Bây giờ, ngươi đã biết cách đánh giá chuyện này chưa? (Thưa, bây giờ đã biết rồi.)

Tiêu chuẩn cho việc có lương tâm là gì? Làm thế nào để đánh giá người ta có lương tâm hay không? (Thưa, là dựa vào chuyện khi thấy kẻ ác làm việc ác hoặc thấy những chuyện gây tổn hại lợi ích của nhà Ðức Chúa Trời, thì trong lòng người ta có tinh thần chính nghĩa không, có thể căm ghét những chuyện đó không. Nếu trong lòng họ không có bất kỳ tri giác nào, thì họ là người không có lương tâm. Còn nữa, nếu trong lòng người ta cũng không có tri giác gì đối với những việc ác mà họ đã làm hay đối với một vài chuyện rõ ràng là họ làm trái với nguyên tắc, thì người như vậy cũng không có lương tâm.) Không có lương tâm thì không phải là con người, Ðức Chúa Trời còn cứu rỗi người như vậy sao? Ngài không cứu rỗi, vậy Ngài vẫn sửa dạy ngươi sao? Thực ra sửa dạy và sửa phạt chiếm một phần rất nhỏ trong công tác của Đức Chúa Trời. Ta nói “rất nhỏ” nghĩa là Đức Chúa Trời rất hiếm khi dùng, nhưng sửa dạy hay sửa phạt vẫn là một phần trong công tác của Ngài. Nếu ngay cả lương tâm và lý trí mà ngươi cũng không có, vậy Đức Chúa Trời sửa dạy ngươi thì có tác dụng gì không? Nếu ngươi không có bất kỳ tinh thần chính nghĩa nào, thì khi ngươi gặp chuyện tà ác, trái với lẽ thật, trái với đạo nghĩa, thậm chí là trái với lương tâm, mà ngươi không có cảm giác gì, không căm ghét chúng, không đứng về phía Đức Chúa Trời để bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, cũng không thể đứng ra nói một lời để bảo vệ công tác của hội thánh – ngay cả một lời công bằng ngươi cũng không nói ra được – vậy thì ngươi không phải là con người. Đã không phải là con người, mà ngươi còn ôm mộng cao vời là Đức Chúa Trời sẽ sửa dạy ngươi, vậy thì ngươi quá đề cao bản thân mình và không xem mình là người ngoài rồi! Có vài người nói: “Nếu người ta không phải là chiên của Đức Chúa Trời mà là sói, thì Ngài sẽ không sửa dạy. Vậy nếu người ta là chiên của Ngài, thì Ngài có sửa dạy không?”. Trong những trường hợp đặc biệt, thỉnh thoảng Đức Chúa Trời sẽ sửa dạy và chịu trách nhiệm về ngươi. Kể cả trong trường hợp ngươi tê dại không biết gì, Đức Chúa Trời cũng sẽ nhắc nhở ngươi, sửa dạy ngươi và quở trách ngươi. Công tác của Đức Chúa Trời được làm vừa đủ và dừng ngang đó thôi. Tại sao dừng lại ở mức vừa đủ? Bởi vì nếu ngươi có lương tâm thì khi Đức Chúa Trời quở trách ngươi như vậy, lương tâm của ngươi sẽ rất nhanh chóng có tri giác, ngươi sẽ tự trách mình và cảm thấy mình mắc nợ Đức Chúa Trời, ngươi sẽ hối hận, buồn bã, đau khổ, và sẽ có thể quay đầu, cuối cùng là có thể tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật và thực hành theo lẽ thật, đây là kết quả mà Đức Chúa Trời muốn. Nếu ngươi có lương tâm nhạy bén và hiểu rất nhiều lẽ thật, thì dù Đức Chúa Trời không sửa dạy, sửa phạt, hay nhắc nhở, ngươi vẫn có thể nhận ra vấn đề, lương tâm của ngươi vẫn có tri giác và có thể cảm thấy bị quở trách và khiển trách, như vậy thì càng tốt, không cần Đức Chúa Trời phải ra tay sửa dạy. Ngay cả khi Đức Chúa Trời không sửa dạy, nhưng lương tâm của ngươi đặc biệt nhạy bén, cảm thấy bị khiển trách, ân hận và buồn bã, thấy mình mắc nợ Đức Chúa Trời, có lỗi với Ngài, khiến Ngài thất vọng và không thỏa lòng Ngài, thì ngươi có thể chủ động tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật và làm theo yêu cầu của Đức Chúa Trời. Đây chính là tác dụng của lương tâm trong nhân tính bình thường trên con người, cũng là tác dụng nó nên có trên con người. Cho nên, chuyện người nào đó có phải là chiên của Đức Chúa Trời hay không, có thể được cứu rỗi hay không, thì phải xem người đó có nhân tính bình thường hay không, có lương tâm hay không. Đây là điểm rất quan trọng và then chốt. Nếu ngươi nói ngươi hiểu rất nhiều lẽ thật, vậy khi bản thân ngươi phản nghịch hoặc khi ngươi gặp kẻ ác làm việc ác, thì những lẽ thật mà ngươi hiểu có phát huy tác dụng không? Có phát huy tác dụng giám sát và khơi gợi cho ngươi không, có làm cho lương tâm ngươi bị quở trách không? Nếu như ngươi không có tri giác của lương tâm, vậy ngươi chính là người không có lương tâm và nhân tính bình thường, những lẽ thật mà ngươi hiểu cũng chỉ là đạo lý chứ không phải lẽ thật. Nếu chỉ hiểu đạo lý thì ngươi không thể đưa lẽ thật vào thực hành, và ngươi không phải là người được cứu rỗi. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Vậy nên, trong công tác của Đức Chúa Trời, khi liên quan đến một vài phương thức làm việc cơ bản nhất của Ngài, thì người ta cũng không nên dựa vào quan niệm và tưởng tượng của mình mà quy định. Cho dù ngươi đã tiếp nhận hay là chưa từng tiếp nhận sự sửa dạy, sửa phạt và trừng phạt của Đức Chúa Trời, thì điều đó cũng không nói lên được ngươi hiểu bao nhiêu nguyên tắc lẽ thật, cũng không nói lên được ngươi có phải là đối tượng được Đức Chúa Trời lựa chọn hay không. Cũng có thể ngươi tin Đức Chúa Trời đã nhiều năm và tiếp nhận vô số lần sửa dạy và sửa phạt, nhưng ngươi chưa bao giờ hành động theo nguyên tắc lẽ thật – nếu là như vậy thì cuối cùng ngươi không được cứu rỗi cũng là do ngươi tự chuốc lấy thôi, ngươi đáng bị như vậy. Cũng có thể ngươi tin Đức Chúa Trời mà hiếm khi nhận sự sửa dạy và trừng phạt, nhưng vì lương tâm mà ngươi thường cảm thấy bị khiển trách và quở trách, khi mắc phải vi phạm, ngươi cũng biết hối hận và quay đầu, có thể tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, thực hành lẽ thật và hành động theo nguyên tắc lẽ thật – nếu là như vậy thì ngươi cũng là người được cứu rỗi. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Ta đã nói đến hai trường hợp, cụ thể là gì? (Thưa, một trường hợp là khi người ta đã nhận rất nhiều sự sửa dạy và trừng phạt, nhưng cuối cùng vẫn không thể hành động theo nguyên tắc lẽ thật và không đạt được lẽ thật, nên không được cứu rỗi, đây là do họ tự mình chuốc lấy. Trường hợp còn lại là khi có vài người không cần nhận nhiều sự sửa dạy, sửa phạt của Đức Chúa Trời, mà vẫn thể dùng lương tâm để ràng buộc bản thân, mỗi khi làm trái nguyên tắc hoặc bộc lộ sự phản nghịch thì họ cảm thấy sự khiển trách của lương tâm, có thể chủ động tìm kiếm lẽ thật và hành động theo nguyên tắc lẽ thật, ít nhất họ có thể làm một vài chuyện tích cực, như vậy thì họ cũng là người được cứu rỗi. Đó là hai trường hợp mà Đức Chúa Trời vừa nói tới.) Có thể hành động theo nguyên tắc lẽ thật hay không chính là tiêu chuẩn để đánh giá hai loại người này. Có vài người không thể hành động theo nguyên tắc lẽ thật, cho dù hiểu bao nhiêu đạo lý, cho dù đã tiếp bao nhiêu sự sửa dạy và trừng phạt, thì họ cũng không phải là đối tượng được cứu rỗi. Nhưng cũng có một vài người rất hiếm khi bị Đức Chúa Trời sửa dạy và trừng phạt hoặc sửa phạt và quở trách, nhưng họ thường có thể phản tỉnh bản thân, khi làm những chuyện trái nguyên tắc hay bản thân bộc lộ sự phản nghịch, thì họ có thể cảm nhận được sự khiển trách và quở trách của lương tâm, sau đó nảy sinh lòng hối hận và có thể chủ động thực hành theo nguyên tắc lẽ thật. Mặc dù hiếm khi nhận sự sửa dạy và sửa phạt từ Đức Chúa Trời, nhưng loại người này cũng là đối tượng được cứu rỗi. Sự sửa dạy và trừng phạt Ta nói đến ở đây không liên quan gì đến hình phạt và sự phán xét của lời Đức Chúa Trời, mà chỉ là sự sửa dạy và trừng phạt mà người ta nghĩ ra trong quan niệm và tưởng tượng của mình thôi. Trong quan niệm và tưởng tượng, người ta cho rằng nếu thường xuyên nhận sự sửa dạy và trừng phạt thì nghĩa là họ đã có lời chứng trải nghiệm và là người thuộc linh. Người ta còn thường gắn việc bị sửa dạy và trừng phạt với công tác của Đức Thánh Linh, cho rằng mình đã được nhập vào dòng chảy của Đức Thánh Linh. Có vài người thường nói: “Tôi không làm tốt bổn phận, thế là lại bị tỉa sửa. Giờ miệng tôi phồng rộp, tôi đổ bệnh, đây là Đức Chúa Trời đang sửa dạy tôi”. Có rất nhiều người thường xuyên thông công về những trải nghiệm này, nhưng ngươi nên xem biểu hiện của họ khi gặp chuyện là gì – xem khi làm sai chuyện gì đó thì họ có cảm thấy sự khiển trách của lương tâm không, xem khi gặp kẻ ác làm việc ác hoặc khi gặp chuyện tà ác thì họ có thể đứng ra giữ vững nguyên tắc lẽ thật và bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời không. Nếu không làm được thì những người này không có lương tâm, họ không phải là con người! Ngoài miệng thì họ nói rất êm tai, có nhiều lời chứng trải nghiệm rất viên mãn, như thể Đức Chúa Trời ân đãi họ rất nhiều, đã làm biết bao công tác trên người họ, đã phán biết bao lời với họ, có vẻ như họ đã được cứu rỗi rồi. Nhưng trong cuộc sống thường nhật, khi gặp phải vấn đề liên quan đến nguyên tắc, họ chẳng bao giờ giữ vững nguyên tắc lẽ thật, luôn làm rùa rụt cổ và trốn tránh vấn đề. Mỗi lần bảo họ nói chuyện và bày tỏ rõ quan điểm, lập trường của mình, thì họ lại bỏ dở, giả vờ hồ đồ, im thin thít. Họ không hề giữ vững nguyên tắc lẽ thật, cũng không thực hành lẽ thật. Đây là loại người gì? Là loại người giả hình. Khi chăm tưới và giúp đỡ người khác, họ có thể giảng lý luận thuộc linh có bài có bản, một khi giảng thì kéo dài mấy tiếng đồng hồ, khiến người ta cảm động đến rơi nước mắt, nhưng khi hành động thì họ chẳng bao giờ thực hành lẽ thật, họ chính là người Pha-ri-si. Họ giảng bao nhiêu trải nghiệm giả thuộc linh và đạo lý giả thuộc linh, giảng bao nhiêu lời trống rỗng và khoác lác thì lương tâm họ cũng chẳng có sự quở trách; khi gặp bất kỳ chuyện gì mang tính nguyên tắc hoặc chuyện lớn phải phân rõ đúng sai, họ đều không đứng về phía lẽ thật và không giữ vững nguyên tắc lẽ thật, lương tâm họ cũng không có chút quở trách nào, sau đó họ còn có thể trâng tráo khoác lác rằng mình đã bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời như thế nào, còn có thể nói ra rất nhiều đạo lý dễ nghe: đây chính là giả hình và không có tri giác của lương tâm. Biết bao lần họ không thực hành lẽ thật, biết bao lần họ làm trái lẽ thật, biết bao lần họ lừa bịp và mê hoặc người khác, thế mà lương tâm họ đều không có sự quở trách, còn có thể mặt dày khoe khoang bản thân – đây chính là không có nhân tính! Họ cứ đi khắp nơi giả danh lừa bịp như vậy mà không biết thẹn, họ không thực hành lẽ thật mà còn muốn tâng bốc mình là người thuộc linh, là người được Đức Chúa Trời cứu rỗi và hoàn thiện, là người yêu kính Đức Chúa Trời nhất – đây chính là người không có tri giác của lương tâm, và họ không phải là người được cứu rỗi. Người được cứu rỗi mà có thể không có nhân tính bình thường và tri giác của lương tâm sao? Có vài người cũng cảm thấy mình không quá yêu thích lẽ thật, khi gặp những vấn đề liên quan đến nguyên tắc lẽ thật và vấn đề lớn cần phân rõ đúng sai thì họ chỉ biết làm người dễ dãi và ba phải, cũng chẳng bao giờ có thể giữ vững nguyên tắc lẽ thật, vì vậy mà trong lòng họ thấy bị quở trách và họ thường xuyên cầu nguyện trước mặt Đức Chúa Trời, cảm thấy mình mắc nợ Ngài. Mặc dù họ thường xuyên yếu đuối và không thể phá vỡ cửa ải này, nhưng trong lòng họ biết rõ mình không giữ vững lẽ thật và chính nghĩa, không đứng vững làm chứng cho Đức Chúa Trời, bản thân chỉ là một người dễ dãi, nên họ cũng ngại không dám nói mình có những lời chứng gì. Điều này là bởi bản thân họ không giữ vững nguyên tắc lẽ thật và không có lời chứng trải nghiệm thực sự gì, bởi bản thân họ bần cùng và đui mù, cũng chưa từng đáp ứng được yêu cầu của Đức Chúa Trời, trong lòng họ biết rõ những điều đó, và lương tâm họ cũng vì vậy mà thường xuyên bị khiển trách, cảm thấy mình mắc nợ Đức Chúa Trời, cũng rất buồn bã trong lòng. Nhưng những người như vậy vẫn có hy vọng và cơ hội được cứu rỗi. Ngược lại, những người bề ngoài có vẻ rất hiểu lẽ thật, có thể chăm tưới, cung ứng và giúp đỡ người khác, nhưng khi gặp vấn đề liên quan đến nguyên tắc lẽ thật hoặc chuyện lớn cần phân rõ đúng sai thì họ không bao giờ đứng về phía Đức Chúa Trời, không bao giờ giữ vững nguyên tắc lẽ thật, thế mà còn muốn tâng bốc mình là người thuộc linh, là người yêu kính Đức Chúa Trời, là người trung thành với Ngài, người như vậy thì gặp phiền phức rồi. Họ không dám đối mặt với hiện thực, cũng không dám giải quyết những vấn đề thực tế, không dám bày tỏ lập trường về những chuyện lớn, không dám giữ vững nguyên tắc lẽ thật một cách công khai thẳng thắn, thế mà đợi đến khi chuyện đã qua đi họ vẫn có thể trâng tráo khoác lác mình là người thuộc linh, còn nói mình yêu kính Đức Chúa Trời nhất và biết nắm bắt tâm ý Đức Chúa Trời nhất. Người như vậy tuyệt đối không có tri giác của lương tâm. Người không có tri giác của lương tâm thì có thể giữ vững nguyên tắc lẽ thật không? Họ có dám công khai bày tỏ lập trường và đứng về phía Đức Chúa Trời để xử lý kẻ ác không? Đây là chuyện không thể nào xảy ra, người như vậy rất khó thực hành ra lẽ thật.

Nếu có lương tâm của nhân tính bình thường, thì người ta sẽ chuẩn hóa tư tưởng, lời nói và hành động của mình. “Chuẩn hóa” là gì? Nghĩa là khi tư tưởng và hành vi của ngươi vượt quá tiêu chuẩn của nhân tính bình thường, thì lương tâm của ngươi sẽ phán xét rằng ngươi nghĩ như vậy là không đúng, làm như vậy là không tốt, thế là ngươi sẽ đỏ mặt, trong lòng sẽ bất an và bị quở trách. Sau khi có những cảm giác này, tư tưởng và hành vi của ngươi sẽ được ràng buộc đến một mức độ nhất định, ràng buộc đến một mức độ nhất định thì sẽ chuẩn hóa được hành vi của ngươi, có thể giúp ngươi tránh làm những chuyện rõ ràng trái với nguyên tắc lẽ thật, tránh làm những chuyện trái với lương tâm và đạo nghĩa. Nhưng nếu ngươi không có tiêu chuẩn của lương tâm, thì khi hành động, ngươi sẽ không có bất kỳ tiêu chuẩn nào chuẩn hóa và ràng buộc tư tưởng và hành vi của ngươi, khi đó, ngươi sẽ mặc sức bay nhảy, nghĩ đến đâu làm đến đó, muốn làm như thế nào thì làm như thế đó, làm thế nào có lợi, có ích cho mình thì làm. Trong trường hợp không có bất kỳ sự ràng buộc nào, thì tư tưởng và hành vi của ngươi sẽ khuếch đại lên rất nhiều. Khuếch đại lên rất nhiều nghĩa là gì? Nghĩa là không có bất kỳ quy chuẩn nào. Cũng giống như người ngoại đạo chuyên lừa gạt người khác vậy, họ không có tri giác của lương tâm, họ lừa ngươi một ngàn đồng mà chẳng thấy khó chịu, lừa ngươi đến mức nhà tan cửa nát, cũng chẳng thấy khó chịu, kể cả khi ngươi quỳ xuống cầu xin thì họ cũng chẳng thèm để ý đến ngươi, người như vậy đúng là kẻ đại gian ác. Tại sao họ có thể làm việc ác đến mức độ này? Chính là bởi vì họ không có tri giác của lương tâm, không có sự ràng buộc của lương tâm, cho nên họ có thể ác đến mức độ này, trở thành kẻ mang tội ác tày trời. Do đó, có lương tâm của nhân tính bình thường là điều rất quan trọng. Nếu người ta muốn giữ vững nguyên tắc lẽ thật thì trước hết phải dựa trên tiền đề là có tri giác của lương tâm. Khi đã có tri giác của lương tâm và có liêm sỉ, thì hành vi của ngươi mới có thể được chuẩn hóa, ngươi mới có cơ hội đi lên con đường tìm kiếm và thực hành lẽ thật. Nếu không có tri giác của lương tâm chuẩn hóa ngươi, thì ngươi sẽ không có cơ hội đi lên con đường mưu cầu lẽ thật. Cho nên, chỉ khi dựa trên cơ sở là có tri giác của lương tâm, người ta mới có cơ hội được dẫn lên con đường thực hành lẽ thật và giữ vững nguyên tắc lẽ thật, nhưng đó cũng chỉ là có cơ hội mà thôi. Ta nói “chỉ là có cơ hội” là bởi vì kể cả khi tư tưởng và hành vi của người ta được chuẩn hóa bởi tri giác của lương tâm, thì người ta vẫn có thể làm trái nguyên tắc lẽ thật hoặc không làm theo nguyên tắc lẽ thật, mà đi con đường trung dung, không giữ vững nguyên tắc lẽ thật nhưng cũng không cấu kết với kẻ ác. Nói cách khác, dưới tác dụng của lương tâm, những người tương đối tốt có thể đạt đến việc thực hành lẽ thật và giữ vững nguyên tắc lẽ thật, còn người có tố chất kém hơn một chút thì ít ra có thể tránh bị kẻ ác khống chế và uy hiếp, có thể không đi theo kẻ ác mà làm việc ác – như vậy là suýt soát đạt đến giới hạn chót theo tiêu chuẩn của lương tâm. Dù ngươi không thực hành lẽ thật, nhưng ngươi cũng không làm việc ác. Người như vậy ít ra còn có thể được gọi là người có lương tâm, mặc dù không thực hành lẽ thật nhưng họ có thể bảo đảm không làm việc ác, đây chính là tác dụng của lương tâm trên con người. Với những người yêu thích lẽ thật, một trong những tác dụng có lợi nhất của lương tâm là nó có cơ hội chuẩn hóa lời nói và hành vi của ngươi, có thể dẫn ngươi lên con đường thực hành lẽ thật và giữ vững nguyên tắc lẽ thật. Cho nên, đối với mỗi một người, lương tâm là một phần rất quan trọng trong nhân tính, là một phần không thể thiếu của con người. Vậy lương tâm có nghĩa là gì? Sau này có dịp chúng ta sẽ nói chi tiết hơn, hôm nay chỉ nói đơn giản một chút thôi. Lương tâm là nói đến tấm lòng lương thiện và tinh thần chính nghĩa của con người, đây là hai điều cơ bản nhất. Nếu ngươi có hai điều này, ngươi chính là người có lương tâm; nếu ngươi không có cả hai điều này, thì ngươi là người không có lương tâm. Người không có lương tâm là người không có nhân tính bình thường, không có nhân tính bình thường nghĩa là không có tinh thần chính nghĩa, cũng không lương thiện. Không có tinh thần chính nghĩa là gì? Là lươn lẹo và tà ác. Không lương thiện nghĩa là gì? Là độc ác, hung ác và tà ác. Người có đủ những tâm tính này chính là người không có nhân tính, thế nên việc ác gì họ cũng có thể làm, bởi vì họ không có lương tâm của nhân tính bình thường, cũng không có cả hai thực chất là tinh thần chính nghĩa và sự lương thiện vốn có trong lương tâm của nhân tính bình thường. Họ không có liêm sỉ, đặc biệt lươn lẹo, cũng đặc biệt hung ác và độc ác, cho nên việc ác gì họ cũng có thể làm. Nghĩa là cho dù làm việc tà ác và độc ác đến đâu, họ cũng không có cảm giác gì, trong lòng không thấy khó chịu cũng không bị quở trách. Tại sao việc ác gì họ cũng có thể làm được? Bởi vì tâm địa của họ không lương thiện và họ không có thực chất của nhân tính, cho dù làm việc ác gì, họ đều cảm thấy đó là việc đương nhiên phải làm, không cảm thấy việc đó là ác. Chẳng hạn như, ngươi là người có tri giác của lương tâm, ngươi mắng chửi người ta một câu hoặc công kích người ta một câu thì trong lòng thấy không chịu nổi, cảm thấy: “Mình chửi vài câu là được rồi. Mình chửi người ta thì trong lòng người ta cũng rất khó chịu! Nếu người ta chửi mình như vậy, thì mình cũng không vui, cho nên mình mắng vài câu để hả giận là được rồi”, rồi ngươi dừng lại ngang đó thôi. Nhưng kẻ ác thì không nghĩ như vậy, họ cảm thấy: “Chửi mày như vậy là nhẹ nhất rồi, tao còn muốn đánh mày, còn muốn khiến mày nhà tan cửa nát, khiến cho con cháu mày sau này không được sống yên ổn! Tao làm việc ác, việc xấu gì với mày cũng là việc nên làm. Chỉ cần để mày gặp báo ứng và tao có thể hả giận, thì chuyện gì tao cũng làm!”. Cũng có thể họ không chửi ngươi, nhưng họ sẽ ra tay làm việc ác với ngươi luôn và trả thù ngươi – như vậy chính là ác. Người không có tri giác của lương tâm chính là như vậy, họ có thể làm ra đủ mọi việc ác.

Trong đủ loại quan niệm và tưởng tượng của người ta về công tác của Đức Chúa Trời, những cái mà con người có thể ý thức được chủ yếu là những quan niệm liên quan đến những phương diện như sửa dạy, sửa phạt và trừng phạt mà họ thường nói đến. Một mặt, chúng ta đã thông công về những quan niệm và tưởng tượng mà người ta nảy sinh trong công tác của Đức Chúa Trời, mặt khác, người ta cũng nên biết phương thức Đức Chúa Trời làm công tác trên con người rất đa dạng. Tùy vào các thời đại khác nhau khi Đức Chúa Trời làm công tác, tùy vào những tiêu chuẩn khác nhau mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người, đương nhiên cũng tùy vào các kết quả khác nhau mà Đức Chúa Trời muốn đạt được nơi con người khi công tác, còn tùy vào các đối tượng khác nhau trong công tác của Đức Chúa Trời và thực chất bản tính khác nhau của người ta, mà Đức Chúa Trời áp dụng những phương thức khác nhau, và làm công tác trên con người bằng nhiều phương thức đa dạng. Sự sửa dạy, sửa phạt và trừng phạt chỉ là một phần rất nhỏ trong công tác của Đức Chúa Trời, chứ không phải là phương thức chính trong công tác của Đức Chúa Trời. Bởi vì trong giai đoạn công tác thứ ba, Đức Chúa Trời đã bày tỏ số lượng lớn lẽ thật để cung ứng cho con người và để đạt đến kết quả là cứu rỗi con người, cho nên những công tác sửa dạy, sửa phạt, thậm chí là trừng phạt mà Đức Chúa Trời đã thực hiện trên con người là rất ít. Hơn nữa, dựa vào những đối tượng khác nhau trong công tác của Ngài, Đức Chúa Trời làm những chuyện này cũng dựa theo nguyên tắc tương ứng, phân chia theo đối tượng và các tình huống khác nhau. Như vậy, nói tương đối thì Đức Chúa Trời hiếm khi sửa dạy, sửa phạt và trừng phạt con người. Cho nên, người ta không nên tồn giữ những quan niệm và tưởng tượng trước đây về công tác của Đức Chúa Trời, và khi Đức Chúa Trời đã bày tỏ số lượng lớn những lời và lẽ thật thì người ta cũng không thể tiếp tục dựa dẫm vào sự sửa dạy, sửa phạt hoặc trừng phạt của Đức Chúa Trời, bị động để Đức Chúa Trời thúc giục họ thực hành lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật, đây là ý nghĩ mà người ta không nên có. Ý nghĩ chính xác mà người ta nên có chính là: không được dựa dẫm một cách bị động vào sự sửa dạy, sửa phạt hay trừng phạt của Đức Chúa Trời để khiến mình hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời hoặc đến trước mặt Đức Chúa Trời, mà thay vào đó phải tích cực và chủ động hơn trong việc đến trước mặt Đức Chúa Trời để tìm kiếm tâm ý của Ngài và nguyên tắc lẽ thật. Bất kể là lúc nào, lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật đều là phương hướng để ngươi tiến tới, là nguyên tắc và con đường mà ngươi nên giữ vững và thực hành nhất trong cuộc sống thường nhật hoặc trên con đường sinh tồn của ngươi, còn sự sửa dạy, sửa phạt hoặc trừng phạt của Đức Chúa Trời chỉ là phương thức công tác được Ngài biểu hiện ra trong một vài trường hợp đặc biệt hoặc trong những trường hợp mà Đức Chúa Trời cho rằng cần phải làm. Về phần con người, họ không nên chờ đợi hoặc bị động cầu xin rằng: “Đức Chúa Trời nên sửa dạy, sửa phạt và trừng phạt con, để con có thể trở nên yêu thích lẽ thật và có thể bước vào nguyên tắc lẽ thật”. Đây là ý nghĩ sai lầm, cũng là ý nghĩ mà người ta không nên có. Có người nghe nói rằng người không có lương tâm là súc sinh và không thể được cứu rỗi, thì liền lo lắng: “Không được cứu rỗi thì phiền phức rồi. Mình không có tri giác của lương tâm trong nhân tính bình thường, vậy mình thà để Đức Chúa Trời sửa dạy và trừng phạt mình, để thay thế cho lương tâm của nhân tính bình thường”. Như vậy có phải là ý hay không? Là một loài thọ tạo, là một thành viên bình thường trong nhân loại bại hoại, nếu ngươi thực sự cho rằng mình không có nhân tính bình thường gì, cũng không có lương tâm của nhân tính bình thường, và ngươi cảm nhận sâu sắc nỗi đau của chuyện đó, chỉ mong sự sửa dạy, sửa phạt và trừng phạt của Đức Chúa Trời không rời xa ngươi, để nhờ đó ngươi có thể được biến đổi và cuối cùng được sống sót – nếu ngươi thực sự có ý chí như vậy, đó có lẽ cũng là chuyện tốt, là một tia hy vọng dành cho ngươi. Nhưng nếu như ngươi không có ý chí như vậy, thì Ta nói cho ngươi biết: Nếu ngươi không có tri giác của lương tâm trong nhân tính bình thường, thì ngươi đang ở trong tình trạng rất nguy hiểm. Ngay cả khi thỉnh thoảng ngươi nhận được sự sửa dạy, sửa phạt và trừng phạt của Đức Chúa Trời, thì đó cũng là điều mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi. Ngài làm những chuyện này và dùng những phương thức này để nhắc nhở và cảnh báo ngươi, mục đích là để ngươi bớt làm việc ác và bớt bị trừng phạt, Đức Chúa Trời đã giữ thể diện cho ngươi đủ rồi, ngươi nên cảm tạ sự ân đãi phá lệ của Ngài, đừng có không biết điều. Trong trường hợp bình thường, Đức Chúa Trời sẽ không làm bất kỳ công tác nào hoặc dùng bất kỳ phương thức công tác nào trên một người không có lương tâm và lý trí. Nếu ngươi đã nhận sự sửa dạy, sửa phạt hoặc trừng phạt từ Đức Chúa Trời, dù là loại nào đi nữa, dù nhẹ hay nặng hơn một chút, thì ngươi cũng nên cảm tạ hết thảy mọi sự đến từ Đức Chúa Trời. Nói theo cách thông tục thì đây là Đức Chúa Trời xem trọng ngươi, nâng cao ngươi, Ngài tuyệt đối không thù hằn ngươi hoặc định tội ngươi, ngươi nên đón nhận từ Đức Chúa Trời. Nếu ngoài sự cung ứng lẽ thật, mà ngươi thực sự có cơ hội được nhận sự sửa dạy, sửa phạt hoặc trừng phạt của Đức Chúa Trời, thì chứng tỏ Ngài vẫn đối đãi với ngươi như loài thọ tạo, như một thành viên trong nhân loại bại hoại. Ngươi nên cảm tạ Đức Chúa Trời, nên lĩnh hội một cách đúng đắn, thuận phục sự sửa dạy, sửa phạt và trừng phạt của Đức Chúa Trời. Ngươi không nên vì chuyện này mà có thái độ thù địch với Ngài, cũng không nên vì thế mà thêm phản nghịch Ngài. Cho dù đã nhận sự sửa dạy ở mức độ nào hay bị trừng phạt nghiêm trọng đến đâu, ngươi cũng nên nhanh chóng thuận phục Đức Chúa Trời và tạ ơn Ngài, tạ ơn vì Ngài đã nhắc nhở và cảnh báo cho ngươi, tạ ơn vì Ngài đã ban cho ngươi cơ hội lần này và cho ngươi có cơ hội tiếp nhận hết thảy những điều này từ Ngài. Điều này cũng có thể chứng tỏ ngươi vẫn còn mối quan hệ với Đức Chúa Trời, chưa hoàn toàn đoạn tuyệt. Trong công tác quản lý nhân loại và trong quá trình cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời, trong lòng Ngài vẫn còn có ngươi, ít nhất trong mắt ngài vẫn nhìn thấy ngươi – khi nhìn thấy sự phản nghịch và bại hoại của ngươi, Ngài vẫn có tâm tư để sửa dạy, sửa phạt và trừng phạt ngươi, điều đó chứng tỏ Đức Chúa Trời vẫn chưa hoàn toàn vứt bỏ ngươi, đối với ngươi mà nói, đây là điều may mắn, cũng là tin mừng cho ngươi. Cho nên, dù ngươi gặp phải chút đau đớn khi chịu sửa dạy hay sửa phạt, ngươi cũng nên nhanh chóng đến trước mặt Đức Chúa Trời. Đến trước mặt Ngài không phải để ngươi cúi đầu xưng thần với Ngài, cũng không phải để ngươi cảm thấy Ngài đáng sợ và đáng nể, mà là để hiểu rõ ngươi nên làm như thế nào thì Đức Chúa Trời mới vui lòng, phải làm thế nào thì Ngài mới không nổi giận với ngươi, và phải làm như thế nào mới có thể làm tiêu tan cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời. Điều tối thiểu nhất là, trong phạm vi mà tố chất ngươi có thể đạt đến, ngươi nên cố gắng hết sức để thực hành những nguyên tắc lẽ thật mà Đức Chúa Trời đã nói với ngươi, đừng để Ngài nổi giận với ngươi một lần nữa. Nếu như Đức Chúa Trời hết lần này đến lần khác nổi giận với ngươi, mà ngươi vẫn cứ tê dại vô cảm, vẫn cứng đầu cứng cổ và cương ngạnh thù địch và đối kháng đến cùng với Đức Chúa Trời, vậy thì cuối cùng chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ vứt bỏ ngươi. Khi Đức Chúa Trời không còn sửa dạy, sửa phạt hay trừng phạt gì ngươi nữa, thì đó cũng là lúc Ngài vứt bỏ ngươi. Khi Đức Chúa Trời vứt bỏ ngươi, thì Ngài sẽ không nhắc nhở ngươi nữa, mà sẽ loại bỏ ngươi khỏi tầm mắt Ngài, chuyển ngươi đến một nơi nào đó ngoài hội thánh, đến nơi xa trung tâm công tác của Đức Chúa Trời, ít nhất là Ngài sẽ làm sao để khỏi nhìn thấy ngươi trong thời gian Ngài công tác – Đức Chúa Trời không muốn nhìn thấy ngươi nữa. Nếu ngươi làm việc ác đến mức độ này, nếu ngươi đã đi đến nước này, thì ngươi sẽ không có hy vọng được cứu rỗi nữa. Các ngươi hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.)

Mối thông công hôm nay liên quan đến chủ đề buông bỏ những rào cản giữa mình và Đức Chúa Trời, cùng sự thù địch đối với Ngài. Dù là vạch trần quan niệm và tưởng tượng của người ta đối với Đức Chúa Trời, hay vạch trần thái độ của người ta khi đối đãi với Đức Chúa Trời, hay là thông công về chuyện công tác của Đức Chúa Trời rốt cuộc được thực hiện trên con người như thế nào và bằng phương thức gì, tóm lại điều cuối cùng Ta muốn nói cho con người biết là: Quan điểm đúng đắn nhất mà người ta nên có đối với công tác của Đức Chúa Trời chính là tiếp nhận và thuận phục sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, tiếp nhận mọi lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật mà Đức Chúa Trời đã cung ứng cho con người, chứ không phải rời xa Đức Chúa Trời. Khi làm việc gì, người ta nên tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật và thực hành theo nguyên tắc lẽ thật, nên mưu cầu bước vào thực tế lẽ thật, chứ không phải bỏ công sức vào các hành vi bề ngoài hay là vào việc chịu khổ, trả giá bề ngoài, càng không phải là xoay quanh và làm quá lên những quan niệm và tưởng tượng của con người. Nói đi nói lại, cuối cùng vẫn là bất kể quan niệm và tưởng tượng của ngươi đối với Đức Chúa Trời là gì, thì kết quả mà công tác của Đức Chúa Trời muốn đạt được chính là nhào nặn lời Đức Chúa Trời và lẽ thật vào bên trong con người, làm cho họ mỗi khi gặp mọi chuyện trong cuộc sống thường nhật hoặc trên con đường sinh tồn thì đều có nguyên tắc lẽ thật để tuân theo, cũng có thể giữ vững nguyên tắc lẽ thật này – đây là kết quả mà công tác của Đức Chúa Trời muốn đạt được. Kết quả cuối cùng mà công tác của Đức Chúa Trời đạt được chính là lẽ thật trở thành thực tế và sự sống của con người, chứ không phải Đức Chúa Trời hoàn thành tất cả những chuyện này theo quan niệm và tưởng tượng của con người. Các ngươi đã hiểu rồi phải không? Có phải những chủ đề này đã được thông công tương đối đầy đủ rồi không? (Thưa, phải.) Vậy hôm nay thông công đến đây thôi. Tạm biệt!

Ngày 8 tháng 7 năm 2023

Tiếp theo: 

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con và hát những bài ca mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 6) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 7) Tôi đã quay về với Đức Chúa Trời Toàn Năng như thế nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger