Cách mưu cầu lẽ thật (12)

Lần trước, chúng ta đã thông công về chủ đề nào? Chúng ta đã thông công về một vài biểu hiện cụ thể của ba phương diện là điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại, đồng thời thông qua đó mà phân biệt những biểu hiện cụ thể này thuộc về phương diện nào trong ba phương diện này. Nếu trong cuộc sống thường nhật mà các ngươi thấy được những biểu hiện đã được thông công, thì có thể xác định tính chất và phân loại chúng – xem chúng thuộc về điều kiện bẩm sinh, nhân tính hay là tâm tính bại hoại. Còn về những biểu hiện chưa được thông công thì các ngươi có biết dựa vào những nguyên tắc này hoặc dựa vào thực chất mà chúng biểu hiện ra để phân loại hay không? (Thưa, chúng con cảm thấy mình đã khá hơn trước đây, giờ chúng con đã có thể ngẫm nghĩ về phương diện này, nhưng chúng con vẫn chưa hoàn toàn đạt đến mức độ biết phân định.) Các ngươi đại khái có thể phân định được những biểu hiện đã được thông công, còn những biểu hiện chưa được thông công và không có liên quan gì đến những biểu hiện đã được thông công trước đây, thì các ngươi không biết liệu mình có thể phân định được chúng hay không. (Thưa, đúng là vậy.) Lần trước, chúng ta đã thông công về mấy biểu hiện là hứng thú, sở thích và sở trường nằm trong điều kiện bẩm sinh, cũng đã thông công về một vài vấn đề liên quan đến mấy phương diện này được biểu hiện nơi con người. Đương nhiên, chúng ta cũng đã thông công về thái độ và con đường thực hành mà người ta nên có về những vấn đề này, cả những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với những người có hứng thú, sở thích và sở trường. Thông công về những điều này chủ yếu là để nói cho con người biết những tư tưởng và quan điểm nên có, cùng với con đường thực hành nên hiểu có liên quan đến hứng thú, sở thích và sở trường, cũng để nói cho con người biết tâm ý và yêu cầu của Đức Chúa Trời về những phương diện này mà con người nên hiểu. Đối với những vấn đề về hứng thú, sở thích và sở trường, chúng ta chỉ mới thông công chung chung một lượt, chứ chưa thông công cụ thể về những tư tưởng, quan điểm sai lầm và con đường thực hành sai lầm mà người ta có về những chuyện này, chưa thông công về những sự lý giải sai lầm của người ta đối với những yêu cầu của Đức Chúa Trời về phương diện này. Vậy chúng ta sẽ dựa trên những vấn đề này của con người mà thông công cụ thể một lượt về những vấn đề cụ thể mà con người nên hiểu trong phương diện hứng thú, sở thích và sở trường.

Các ngươi có phát hiện được mình có những nhận thức sai lầm hoặc sự lĩnh hội lệch lạc nào về mấy phương diện hứng thú, sở thích và sở trường không? Đối với đa số vấn đề, có phải là Ta thông công đến đâu thì các ngươi chỉ hiểu đến đó, sau đó không suy ngẫm, cũng không đối chiếu với bản thân, nhưng lại cảm thấy cái gì mình cũng hiểu rồi, xem vấn đề này rất đơn giản hay không? Vậy trước hết, hãy nghĩ về câu hỏi này: hứng thú và sở thích có khác biệt với sở trường không? (Thưa, có.) Có khác biệt gì? Nếu ngươi có thể thấy ra được sự khác biệt, vậy thì chúng khác biệt ở phương diện nào? (Thưa, hứng thú và sở thích chỉ có nghĩa là người ta tương đối thích một sự vật nào đó, chứ không nhất định là họ có sở trường trong lĩnh vực đó.) Những điểm khác biệt chính đã được nói ra rồi, về cơ bản là vậy. Xét từ góc độ nhân tính, thì hứng thú và sở thích là nói đến chuyện một người nào đó có hứng thú, sẵn lòng xem hoặc sẵn lòng làm một nghiệp vụ hoặc một loại sự vật nào đó. Nghĩa là thị hiếu của người này tương đối thiên về những sự vật mà họ thấy hứng thú và đam mê. Đối với phương diện kỹ thuật nghiệp vụ này, họ không chỉ thích một chút, mà là rất hứng thú, vượt quá mức độ thích hoặc yêu thích đối với những điều thông thường – như vậy chính là hứng thú và sở thích. Nhưng xét theo tố chất của họ, thì chưa chắc họ đã giỏi, có thể làm tốt, hoặc có thể làm đến mức độ nào đó dạng nghiệp vụ hoặc sự vật mà họ thấy hứng thú và đam mê. Do đó, hứng thú và sở thích chính là chuyện mà người ta thấy hứng thú, là chuyện mà người ta yêu thích, là chuyện người ta sẵn lòng tiếp xúc thường xuyên trong cuộc sống thường nhật, sẵn lòng bỏ ra thời gian và sinh lực để quan tâm và làm. Nhưng người ta có thể làm chuyện này đến mức độ nào, thì tùy vào tố chất của họ, tùy xem họ có giỏi việc đó không. Nếu có việc gì đó mà họ đặc biệt thấy hứng thú, đặc biệt đam mê, đồng thời đó cũng là việc mà họ giỏi, thì với nền tảng là thấy hứng thú và đam mê, họ có thể làm việc đó rất tốt, đạt được thành quả lớn, thành tựu lớn. Nói cách khác, họ giỏi về hứng thú và sở thích này ở mức độ vượt quá người thường, ngộ tính, tốc độ học tập và tốc độ nắm bắt nguyên tắc của họ trong lĩnh vực này vượt quá người thường. Nếu có dạng biểu hiện này thì được gọi là có sở trường. Nghĩa là người khác có lẽ cần được đào tạo, giáo dục, học tri thức và thực hành một cách chính quy trong thời gian dài về nghiệp vụ, còn được những chuyên gia về nghiệp vụ hướng dẫn, dẫn dắt, kiểm định, hệ thống hóa, chỉ bảo, v.v., thì mới có thể đọc lập làm tốt được một việc gì đó. Nhưng loại người có sở trường về cơ bản không trải qua sự đào tạo chuyên nghiệp hoặc việc học tập có hệ thống, mà đã có phần nào ngộ tính về nghiệp vụ kỹ thuật mà họ giỏi. Họ có một vài sự lĩnh hội thực tế, có kinh nghiệm thực tiễn hoặc có một vài thành tựu cá nhân trong lĩnh vực này. Khi được trải qua sự huấn luyện và đào tạo chuyên nghiệp, sở trường của họ trong lĩnh vực này sẽ có thể được nâng lên một tầm cao hơn. Tóm lại, có sở trường nghĩa là người đó rất giỏi trong việc mà họ thấy hứng thú và đam mê, đến mức vượt quá người thường. “Giỏi” nghĩa là gì? (Thưa, là có sở trường trong lĩnh vực nào đó, tương đối hiểu rõ chuyện đó, khi làm thì tương đối rất thuận tay.) Giỏi không chỉ có nghĩa là hiểu rõ chuyện gì đó, mà nghĩa là người đó bẩm sinh có tư chất nổi bật, thiên tư tương đối cao trong lĩnh vực đó. Không cần người khác chỉ vẻ, tự họ có thể ngộ ra được một vài điều mà người khác không lĩnh hội được. Nếu còn được huấn luyện chính quy hoặc được danh sư chỉ bảo, thì họ sẽ làm tốt hơn nữa trong lĩnh vực này. Nói về sở trường, thì nghĩa là người ta đặc biệt xuất sắc trong một hứng thú hoặc sở thích nào đó. Trong lĩnh vực này, bẩm sinh họ đã có tư chất đặc biệt cao, năng lực lĩnh hội, ngộ tính và năng lực học tập đặc biệt mạnh, nắm bắt đặc biệt nhanh, rõ ràng giỏi hơn người thường – như vậy gọi là có sở trường.

Các ngươi đã hiểu sở trường là gì rồi, vậy tiếp theo chúng ta sẽ nói về hứng thú và sở thích. Hứng thú và sở thích thì có khác biệt gì với sở trường? Hứng thú và sở thích có tương đương với sở trường không? (Thưa, không.) Tại sao lại không tương đương với sở trường? (Thưa, bởi vì có những việc người ta thấy hứng thú nhưng không nhất định là có thể làm tốt, cũng không nhất định là giỏi, hơn nữa cũng không nhất định là sẽ lĩnh hội nhanh.) Hứng thú và sở thích nghĩa là ngươi thích một chuyện gì đó, nhưng nó có phải là sở trường của ngươi hay không thì còn phải xem năng lực lĩnh hội, năng lực học tập và ngộ tính của ngươi về lĩnh vực này thế nào, tư chất bẩm sinh của ngươi trong lĩnh vực này ra sao, bẩm sinh có giỏi về lĩnh vực này không. Nếu ngươi giỏi, thì đó chính là sở trường của ngươi, còn nếu ngươi không giỏi thì đó chỉ là ý thích cá nhân – đối với chuyện này, ngươi có hứng thú, nhưng tố chất lại kém, tư chất bẩm sinh cũng không ổn. Nghĩa là đối với chuyện mà ngươi có hứng thú và yêu thích, ngươi lại không có năng lực lĩnh hội gì, rất kém, làm rất vụng về, chẳng có hiệu suất, cũng chẳng thấy được thành quả gì. Vậy thì lĩnh vực này không phải là sở trường của ngươi, mà nó chỉ dừng lại ở tầm mức hứng thú và sở thích của ngươi thôi. Tại sao nó chỉ là hứng thú và sở thích, chứ không phải là sở trường của ngươi? Bởi vì ngươi không giỏi chuyện này. Chẳng hạn như, có người nói “Tôi thích hát”, thích đến mức độ nào? Mới sáng sớm mở mắt dậy, họ đã mở nhạc đang thịnh hành, dạng ca khúc nào cũng nghe, nhạc nước ngoài, opera, hý khúc cũng nghe, hễ cái gì thuộc về âm nhạc, họ đều thích nghe. Họ cũng muốn hát, nhưng lại có một vấn đề lớn – bẩm sinh họ hát cứ lạc điệu hoặc là không có sở trường trong lĩnh vực này. Còn có người học hát mấy năm mà vẫn không nắm được kỹ thuật, không biết hát thế nào cho dễ nghe nhất, hát thế nào để làm người ta cảm động, cũng không biết hát thế nào thì có thể đạt được kết quả tốt. Mặc dù từ nhỏ họ đã thích hát, nó là một hứng thú và sở thích của họ, nhưng vì giới hạn của điều kiện bẩm sinh cá nhân, nên hứng thú và sở thích của họ chỉ có thể là một dạng hứng thú và sở thích, chứ không phải là sở trường. Chẳng hạn như, người giỏi hát mà học một bài thánh ca thì chỉ cần hát tầm ba lần là đã có thể hát được giai điệu chính, hát bốn năm lần thì về cơ bản đã có thể hát được cả bài hoàn chỉnh. Tuy nhiên, loại người người thích nghe hát mà không giỏi hát thì nghe ba lần rồi vẫn không thể nhớ được giai điệu chung của bài, nghe năm lần cũng chẳng hát được, lại còn luôn phải nhìn vào lời nhạc hoặc bản nhạc. Đến lúc chính thức hát thì họ không cảm được bài hát, không tìm được vị trí đặt giọng, không nhớ được ca từ, có lúc thậm chí còn hát lạc điệu. Hơn nữa, khi hát những ca khúc tương đối trữ tình thì họ chẳng bao giờ kiểm soát tốt được sự vận dụng cảm xúc. Người khác nói họ hát khó nghe, nghe chẳng thích thú gì, nhưng họ không nản lòng, không từ bỏ, vẫn cứ kiên trì học hát. Đương nhiên, hát là chuyện tự do cá nhân, cũng là quyền cá nhân, chẳng có ai hạn chế họ cả. Nhưng điều chúng ta thông công hôm nay là sự khác biệt giữa hứng thú và sở thích so với sở trường. Xét từ những biểu hiện này, thì hứng thú và sở thích của họ chẳng phải là thứ họ giỏi. Vậy tại sao lại phải thông công cho rõ chuyện này? Chính là để làm cho mọi người hiểu được rằng hứng thú và sở thích của ngươi không tương đương với sở trường của ngươi. Nếu xét từ mọi phương diện trong điều kiện bẩm sinh của ngươi, mà ngươi không giỏi trong lĩnh vực nào đó, thì cho dù đó là hứng thú và sở thích của ngươi, nhưng sự hạn chế trong điều kiện bẩm sinh của ngươi đã quyết định rằng hứng thú và sở thích của ngươi không phải là sở trường của ngươi. Mặc dù ngươi rất thích chuyện này, thậm chí yêu nó như mạng sống của mình, nhưng thật không may, chỉ là nó không phải sở trường của ngươi. Chẳng hạn như, có những người rất thích nhảy múa, mỗi khi nghe tiếng nhạc là thân thể họ liền đong đưa theo nhịp điệu và giai điệu, trong lòng rất sung sướng. Nhưng bẩm sinh tướng mạo họ không đẹp, dáng người không cao, tứ chi cũng không dài lắm, thân hình không thanh tú lắm. Nhìn chung, khi họ nhảy thì không được đẹp mắt cho lắm. Nhưng họ thích nhảy, lại còn thỉnh thoảng nhảy một cách say sưa ở nơi công cộng hoặc bên vệ đường, người đi đường nhìn thấy thì đều tức cười, nhưng họ cứ nhảy như chẳng có ai ở đó, ai thấy thế nào cũng mặc, như thế trong lòng họ chẳng ý thức được gì. Họ si mê đến mức độ như vậy đấy. Mặc dù họ cảm thấy bản thân nhảy đẹp lắm, nhưng thực ra họ đâu có giỏi. Họ chẳng nắm được tinh túy của việc nhảy, cũng chẳng biết chọn động tác nào là thích hợp, động tác nào là đẹp, động tác nào tương đối có thể diễn đạt các phương diện tình cảm trong nhân tính. Nghĩa là họ không hiểu lắm về rất nhiều chuyện liên quan đến vũ đạo. Ngay cả khi đã được giáo viên chuyên nghiệp hướng dẫn, đã được đào tạo ở trường lớp chuyên nghiệp, nhưng về mặt tố chất bẩm sinh, thì họ không giỏi, không thể ngộ ra được tinh túy của việc nhảy múa. Do đó, xét về điều kiện bẩm sinh đủ mọi mặt của họ, thì việc nhảy múa mà họ thích không phải là cái mà họ giỏi. Cho dù họ rất thích, cũng rất say mê, thường ngưỡng mộ những tư thế và trạng thái nhảy múa của mình khi ở trước máy quay hoặc trước gương, nhưng xét từ tình hình thực tế thì họ không giỏi việc nhảy múa. Nói cách khác, việc nhảy múa chỉ là hứng thú và sở thích của họ, chứ không phải là sở trường của họ.

Có những người rất thích văn học. Họ thích viết văn, ngâm thơ viết thơ, thích các diễn đàn văn học, cũng thích đọc tiểu thuyết và đủ loại tác phẩm văn học, từ nước ngoài cho đến trong nước, từ hiện đại cho đến cổ điển, họ đều thích cả. Họ thích các loại từ ngữ, các loại phong cách ngôn ngữ mà tác giả vận dụng trong tác phẩm, họ cũng thích các loại tư tưởng mà tác giả diễn đạt trong tác phẩm. Đấy chẳng phải là hứng thú và sở thích của họ sao? (Thưa, phải.) Quá rõ ràng đấy là hứng thú và sở thích của họ. Một người thích cái gì, thấy hứng thú với cái gì trong tư tưởng và trong lòng, thì đó thứ bẩm sinh, không phải là điều người ta học lấy về sau, càng không phải là cái mà cha mẹ hoặc gia đình bồi dưỡng. Có những người thích văn học, đã đọc qua rất nhiều tác phẩm văn học. Có những người đã học văn học một cách có hệ thống ở đại học. Thậm chí có người còn làm giảng viên khoa văn chuyên nghiệp, hoặc làm công việc hay nghề nghiệp liên quan đến văn học, thậm chí là làm những nghề này trong thời gian dài. Phần lớn thời gian trong đời của họ đều được dành để liên hệ với những chuyện liên quan đến hứng thú và sở thích của họ, gần như mỗi ngày sống của họ đều gắn liền với văn học mà họ hứng thú và đam mê. Nhưng hứng thú và sở thích của họ thực sự là sở trường của họ sao? Không hẳn, phải xem liệu họ có những thứ liên quan đến tri thức, đến tư tưởng và quan điểm trong lĩnh vực văn học cao hơn người thường và khác với người thường hay không. Nếu những gì họ nắm bắt và lĩnh hội được về văn học chỉ là những thứ sách vở, hoặc chỉ là một vài thứ thường thức mà ai cũng có thể học được và nắm bắt được, thì như vậy không được tính là sở trường. Chẳng hạn như, ngươi bảo họ viết một bài văn, thì họ viết mà không có lỗi ngữ pháp, dấu câu chuẩn cả, phân đoạn rất đúng, kết cấu tổng thể bài văn cũng rất tốt, thậm chí trong bài văn còn có rất nhiều từ ngữ bay bướm. Nhưng có một điều này, đó là khi liên quan đến việc diễn đạt một dạng sự vật, một dạng quan điểm, một dạng tình tiết, thì họ không có phương thức diễn đạt độc đáo, cũng không có phương thức diễn đạt sao cho đầy tính nghệ thuật và khéo léo, trong tác phẩm của họ chẳng hề thấy có những điều này. Nghĩa là, bài văn họ viết nhìn vào thì rất chỉnh chu, đặc biệt chuyên nghiệp, dùng từ cũng rất trau chuốt, nhưng trong tác phẩm lại thiếu phương thức diễn đạt tư tưởng, quan điểm, hiện tượng hay tình tiết mà một người giỏi làm việc trong ngành văn học nên có. Những bài văn họ viết đa số đều tương đối xoàng xĩnh, về bố cục hoặc hình thức diễn đạt tư tưởng thì đặc biệt máy móc, cứng nhắc, giáo điều, chẳng mới mẻ, chẳng độc đáo, chẳng có trí tuệ, chẳng khéo léo, tao nhã thì càng khỏi nói đến. Hiện tượng này cho thấy điều gì? (Thưa, cho thấy họ không giỏi viết văn, không có tư chất trong lĩnh vực này.) Họ không giỏi viết văn, không biết dựa vào bối cảnh lúc đó của sự vật hoặc dựa vào nguyên mẫu của câu chuyện mà sáng tác loại chuyên như vậy. Cuối cùng, người khác đọc bài họ viết, đọc tác phẩm văn học của họ thì lúc nào cũng thấy nghìn bài một điệu, đều theo một mô thức mà thôi. Tại sao lại nói là nghìn bài một điệu? Vì nhìn tổng thể thì bài văn của họ rất chỉnh chu, rất đúng quy phạm, rất chuyên nghiệp, về những thứ liên quan đến tri thức thì người thường cũng không tìm ra được khuyết điểm nào, thậm chí kết cấu các bài về cơ bản luôn nhất quán. Mặc dù họ có thể học được nhiều dạng tác phẩm văn học, bao gồm cả thơ ca, tản văn, văn tường thuật của nước ngoài, họ đều có thể học được, nhưng họ chẳng bao giờ biết biến tấu, chẳng biết vận chúng vào việc sáng tác văn học của mình. Chuyện này là vì trình độ và tài nghệ văn học của họ mãi mãi chỉ dừng ở tầm mức hứng thú và sở thích, mãi mãi không đạt đến sở trường. Cũng có khả năng tri thức văn học của họ rất cao, nhưng họ lại chẳng có biệt tài gì về văn học. Nghĩa là về văn học, họ chẳng có sự sáng tạo nào, cũng không thể có tác phẩm tiêu biểu cho bản thân, chẳng có tư tưởng và quan điểm độc đáo hay phương thức diễn đạt độc đáo. Điều này chứng tỏ văn học không phải là sở trường của họ. Họ có tri thức và thường thức về văn học chỉ là vì họ có hứng thú và sở thích trong lĩnh vực này, nhưng họ không có sở trường về văn học. Ngươi xem, có rất nhiều người đọc sách, cũng đọc đủ loại tác phẩm văn học, có rất nhiều người tự cho mình là người mê văn học, người sáng tác văn học, nhưng trong những người làm công việc sáng tác văn học đó, có bao nhiêu người thực sự có tác phẩm của mình? Có bao nhiêu người viết ra được tác phẩm văn học có thể đứng vững qua sự kiểm tra của thời gian, có thể trở thành kinh điển? Rất ít, phải không nào? Đại đa số mọi người đều là bẩm sinh có chút hứng thú và sở thích đối với văn học, sau đó trải qua sự học tập, đào tạo và huấn luyện ở trường lớp chuyên nghiệp, rồi tình cờ làm công việc liên quan đến văn học. Mặc dù nói là làm công việc liên quan đến văn học, nghe có vẻ như hứng thú và sở thích này có thể đồng hành với họ cả đời, nhưng về chuyện trong thời gian làm công việc liên quan đến văn học, họ viết ra được bao nhiêu tác phẩm hoàn chỉnh, có bao nhiêu cống hiến, có bao nhiêu sự sáng tạo độc đáo, thì phải xem họ có sở trường về văn học hay không. Có rất nhiều người mặc dù làm nghề nghiệp họ thích và đam mê, nghề nghiệp đó cũng đem lại cho họ sinh kế hoặc một vài lợi ích, nhưng họ lại không có thành quả tốt trong nghề nghiệp này. Điều này đủ để chứng tỏ rằng nghề nghiệp họ thích và đam mê không phải là sở trường của họ. Mặt khác, lại có một số người, mặc dù không làm nghề nghiệp liên quan đến hứng thú và sở thích của mình, nhưng lại có thể làm ra một vài thành tựu thực sự, vì đó là sở trường của họ. Chẳng hạn như, có những nhà phát minh, những người có cống hiến kiệt xuất trong các ngành nghề khác nhau, những người có sáng tạo độc đáo trong các ngành nghề khác nhau, những nhân vật lãnh đạo trong các ngành nghề khác nhau, v.v.. Do đó, dựa vào những trường hợp này, thì người ta có hứng thú và sở thích không hẳn nghĩa là người ta có sở trường trong lĩnh vực đó. Nhưng có những người không biết phân định mối quan hệ giữa hứng thú và sở thích với sở trường. Họ cho rằng hứng thú và sở thích của mình chính là sở trường của mình, kết quả là họ làm công tác liên quan đến hứng thú và sở thích của mình bao nhiêu năm mà chẳng có thành quả gì. Sau khi rõ ràng những chuyện này rồi, người ta nên tiếp cận với hứng thú, sở thích và sở trường của mình như thế nào? Rất đơn giản thôi, nên tiếp cận một cách đúng đắn. Nếu nhà Đức Chúa Trời cần ngươi làm bổn phận trong lĩnh vực nào đó có liên quan đến nghiệp vụ, kỹ thuật, hoặc tài năng mà ngươi hứng thú và yêu thích, thì ngươi hãy tiếp cận chúng theo nguyên tắc của việc làm bổn phận, không từ chối, cũng không nói chuyện trên trời hay làm bừa. Nếu ngươi không giỏi, không làm được việc đó thì cũng đừng tiêu cực, đừng oán trách Đức Chúa Trời, mà hãy tiếp cận một cách đúng đắn. Tiếp cận một cách đúng đắn nghĩa là gì? Nghĩa là nếu ngươi cảm thấy hứng thú và sở thích này của ngươi là cái mà người khác không có, nhưng khi ngươi làm công tác đó thì chẳng bao giờ thỏa mãn được yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời, chẳng bao giờ đạt đến nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu, vậy thì ngươi làm được bao nhiêu cứ làm bấy nhiêu. Đức Chúa Trời không bao giờ bắt vịt leo sào, bắt bò trèo cây, ngươi có thể với tới chừng nào, gánh vác được bao nhiêu gánh nặng, thì Đức Chúa Trời biết cả rồi. Khi đã trải nghiệm thêm thì ngươi cũng sẽ biết. Cứ dựa vào tình hình thực tế, dựa vào điều kiện bẩm sinh của mình, thấy có thể làm được đến đâu thì làm đến đó, đừng tự làm khó mình. Nếu ngươi có thể đạt đến được mức độ nào đó thì đừng chừa sức, nếu ngươi không đạt đến được thì cũng đừng tiêu cực, đừng cố khoe tài – hãy tiếp cận một cách đúng đắn.

Các ngươi tin Đức Chúa Trời đã nhiều năm như vậy, đa số các ngươi đã làm bổn phận hơn ba năm – các ngươi làm bổn phận này ở nhà Đức Chúa Trời đâu phải mới một năm hai năm. Vậy đối với hạng mục bổn phận mình làm hoặc hạng mục công tác nghiệp vụ mình thực hiện, các ngươi có thể đạt được bao nhiêu, có thể làm đến mức nào, có thể phát huy chừng nào, phát huy đến mức nào – chẳng phải trong lòng các ngươi cũng biết rõ rồi sao? (Thưa, phải.) Về cơ bản, các ngươi đã biết rõ những chuyện này rồi. Có vài người hiện tại làm bổn phận nào đó mà vẫn chưa đạt đến trình độ thuần thục, là do họ luyện tập quá ít. Nhưng có một vài người làm hạng mục công tác này đã nhiều năm, luyện tập cũng rất nhiều rồi, mà vẫn không đạt đến nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu. Như vậy nghĩa là họ không quá giỏi trong lĩnh vực này. Mặc dù họ rất thích, rất đam mê làm bổn phận này, khi làm bổn phận này thì họ cũng cảm thấy rất vinh hạnh, rất hạnh phúc, nhưng đơn giản là họ không giỏi trong bổn phận này. Nhà Đức Chúa Trời yêu cầu gì, họ cũng với không tới. Cũng không phải là do họ phản nghịch và không chịu nghe lời, không phải vì họ không phối hợp, mà là vì điều kiện bẩm sinh của họ không đạt đến được, có giới hạn thôi. Vậy thì nên làm thế nào? Thì nên thuận theo tự nhiên, đừng tiêu cực, đừng yếu đuối, trong lòng cũng đừng oán trách, đừng chênh vênh. Có những người nói: “Con thích nhảy múa, nhưng bẩm sinh tay chân của con chẳng đồng điệu được với nhau, tướng mạo cũng không đẹp. Con muốn làm bổn phận nhảy múa nhưng cũng không làm được, vậy con nên làm gì đây? Con thực sự muốn nhảy múa”. Ngươi muốn nhảy múa thì đó là dục vọng cá nhân của ngươi, là cái ngươi thích, nhưng ngươi thích cái gì thì Đức Chúa Trời nhất định phải thỏa mãn cho ngươi sao? Đâu phải vậy. Nhà Đức Chúa Trời có nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu, có quy định của nhà Đức Chúa Trời. Chuyện chọn ai làm hạng mục công tác nào đều có nguyên tắc cả. Ngươi không được dựa vào dục vọng cá nhân, ý thích cá nhân, hay tâm trạng cá nhân mà cưỡng ép yêu cầu nhà Đức Chúa Trời phải thỏa mãn cho ngươi – làm vậy là không thích hợp. Nếu ngươi không thích hợp làm bổn phận trong lĩnh vực này, thì trong lòng ngươi hãy thầm chúc phúc cho những người có thể làm được bổn phận trong lĩnh vực này. Ngươi có thể làm được chút gì thì cứ làm chút đó, hoặc ngươi cũng có thể làm người công tác sau cánh gà âm thầm lặng lẽ, giúp hướng dẫn, kiểm định và giúp đỡ việc tập luyện tiền kỳ hoặc biên tập hậu kỳ cho các video vũ đạo, giúp tra tìm các loại tư liệu, hoặc giúp tìm kiếm lẽ thật. Công tác trong các lĩnh vực khác nhau mà ngươi có thể làm thì rất nhiều, phạm vi công tác nghiệp vụ có liên quan đến hứng thú và sở thích của ngươi thì rất rộng. Ngươi đâu nhất thiết phải là người lên màn ảnh, ngươi cũng có thể ở sau cánh gà làm bán thời gian hạng mục công tác này mà. Đây cũng là đang làm bổn phận. Làm như vậy, ngươi vừa thỏa mãn được nguyện vọng cá nhân, vừa đạt đến tiêu chuẩn và nguyên tắc là làm Đức Chúa Trời thỏa lòng thông qua việc làm bổn phận – vậy thì quá tốt rồi! Vậy chẳng phải là nhất cử lưỡng tiện sao? (Thưa, phải.) Bởi vì trong điều kiện bẩm sinh mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi không có sở trường về phương diện này, vậy ngươi không còn lựa chọn nào khác. Ngươi không thể vì bẩm sinh có khiếm khuyết trong lĩnh vực này và không thể đáp ứng tiêu chuẩn chọn nhân tài trong lĩnh vực này của nhà Đức Chúa Trời, mà kêu ca, oán trách, ghi hận, rồi không sẵn lòng làm bổn phận trong lĩnh vực này, ngay cả khi nhà Đức Chúa Trời yêu cầu mà ngươi cũng không làm – vậy thì không thích hợp. Đây không phải là thái độ đúng đắn khi làm bổn phận. Ngươi có thể làm gì thì cứ làm nấy, ngươi không được chỉ vì mình không thích hợp hoặc không giỏi việc gì đó mà không làm, ngay cả khi nhà Đức Chúa Trời yêu cầu mà cũng không làm. Vậy thì đâu phải ngươi đang làm bổn phận, mà là ngươi đang thỏa mãn dục vọng cá nhân, đang làm việc kinh doanh cá nhân. Ngươi đâu có làm bổn phận với thái độ thuận phục Đức Chúa Trời, với lòng thành và lòng trung thành với Đức Chúa Trời – như vậy là không thích hợp. Đây là điều mà ngươi ta nên hiểu. Một mặt, hãy lý giải cho đúng đắn về hứng thú, sở thích và sở trường. Mặt khác, còn cần tiếp cận một cách đúng đắn với hứng thú, sở thích và sở trường.

Có những người thích viết văn, thích làm những công tác liên quan đến văn học, luôn muốn chỉnh sửa và sắp xếp các bài viết, muốn ngày nào cũng có liên hệ với văn chương. Nhưng vì đủ loại nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách quan, mà họ không thích hợp để làm hạng mục công tác này. Một mặt là vì họ thiếu tri thức nền tảng về lĩnh vực văn chương, mặt khác, họ có tố chất kém và không có năng lực lĩnh hội. Do đó, dù đam mê văn học, nhưng họ rèn luyện mấy năm mà vẫn không đạt đến tiêu chuẩn có năng lực viết văn. Nhưng nhà Đức Chúa Trời lại yêu cầu người ta buộc phải có tố chất tối thiểu thì mới có thể làm công tác văn tự. Nếu tố chất của họ không thích hợp để làm công tác văn tự, thậm chí chất lượng việc chỉnh sửa và sắp xếp bài viết của họ cũng không đạt tiêu chuẩn, vậy thì họ chỉ có thể chọn bổn phận khác mà thôi. Cũng có thể để họ làm chút công tác sự vụ hoặc sưu tập chút tư liệu cũng được. Tóm lại, họ không làm được công tác văn tự mà trong lòng họ thích, ngay cả khi họ không bị đẩy ra khỏi công tác văn tự thì họ cũng chỉ là một vật trang trí, chẳng đem lại kết quả thực tế nào. Người ta lĩnh hội chuyện này như thế nào mới là thuần khiết? (Thưa, phải học cách thuận phục sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời, và phải có lý trí.) Đây là phương hướng chung, cụ thể nên thực hành như thế nào? Nếu người ta lệch lạc thì sẽ nói rằng: “Ai cũng nói hứng thú và sở thích là do Đức Chúa Trời ban cho, là điều kiện bẩm sinh. Bởi Đức Chúa Trời ban cho tôi hứng thú và sở thích này, thì chắc chắn ý của Đức Chúa Trời là tiền định cho tôi làm công tác có liên quan đến hứng thú và sở thích của tôi. Bởi vì đây là điều mà Đức Chúa Trời tiền định, vậy công tác có liên quan đến hứng thú và sở thích của tôi trong nhà Đức Chúa Trời thì nên để tôi làm, tôi nên có phần trong đó. Nếu không để tôi làm công tác này, thì đó là vấn đề của người ta, là người ta xem thường tôi, là lãnh đạo và người làm công không biết nhìn người. Tôi là thiên lý mã, mà ở đây chẳng có Bá Lạc nào! Tôi yêu thích văn học đến vậy, lại giỏi về văn học đến vậy, thì chỉnh sửa bài văn là việc quá dễ. Đẩy tôi đi rao truyền phúc âm, đẩy tôi đi làm việc tay chân thì chẳng phải là phí phạm tài năng sao? Vậy chẳng phải làm mai một nhân tài sao? Vậy chẳng phải là đem vàng chôn xuống đất sao? Tôi bó tay – ở dưới mái nhà thấp, không khỏi phải cúi đầu mà! Nhưng có một câu nói này: Là vàng thì sớm muộn gì cũng tỏa sáng. Cứ chờ đi – có khi đây là Đức Chúa Trời đang tinh luyện tôi, đang kiểm nghiệm tôi. Thế nào cũng có ngày tôi sẽ được làm công tác mà Đức Chúa Trời tiền định cho tôi, công tác liên quan đến hứng thú của tôi. Chuyện tốt thì chờ cũng đáng. Chờ đến khi các người bị đào thải hết, thì tôi mới được trổ tài, mới có đất dụng võ! Có câu: ‘Quân tử báo thù, mười năm chưa muộn’, ‘Núi xanh còn có đó, lo gì thiếu củi đốt’”. Quan điểm này thế nào? Không đúng, phải vậy không? Họ nghĩ thì hay ho lắm, lại còn tính chuyện lâu dài, nhưng họ có bản lĩnh thực sự không thì chưa biết. Có những người còn ấm ức, nói rằng: “Tôi bẩm sinh là người tài hoa về văn học, vậy mà bị đẩy đi làm việc tay chân, cả ngày dính dáng với bùn sình, chuyện này tôi biết kêu cầu ai chứ? Tôi chịu thôi – Đức Chúa Trời sắp đặt như vậy mà, tôi biết làm sao chứ?”. Thực ra, nhóm văn tự đã kiểm tra họ rồi, trình độ viết lách của họ không ổn, chẳng có nền tảng văn hóa gì, dấu chấm câu đều dùng sai. Câu nào cần được tách ra hoặc tạm dừng thì họ toàn dùng dấu phẩy. Như vậy mà họ còn cho rằng bản thân là thiên tài văn học, cho rằng để họ làm những việc ra sức là phí phạm tài năng. Trong lòng họ tràn đầy ấm ức: “Tôi bẩm sinh thích văn học, lúc nhỏ tôi mê xem sách truyện, lớn lên thì mê xem tác phẩm của danh nhân. Tôi đã đọc không ít các danh tác văn học trong và ngoài nước. Các loại hý kịch, tản văn, thơ ca, tác phẩm thuộc thể loại gì tôi cũng đều đọc qua không ít. Tôi mà làm công tác văn tự thì không thành vấn đề, tôi viết một bài văn là chuyện dễ như trở bàn tay. Thế mà anh xem đi, hiện tại tôi bị đẩy xuống làm việc ra sức mệt mỏi và bẩn thỉu này. Niềm yêu thích văn học cả nửa đời của tôi khi đến nhà Đức Chúa Trời thì bị gạt đi. Những tri thức tôi tích lũy cả đời chẳng được phát huy ở nhà Đức Chúa Trời, sự nghiệp văn học của tôi đến đây là kết thúc rồi! Tôi vốn cho rằng ở trong nhà Đức Chúa Trời thì lẽ thật nắm quyền, sự công bằng và công chính nắm quyền. Một đại tài tử, một người say mê văn học như tôi đây mà chẳng có đất dụng võ trên đời, chẳng có ai thèm để ý, chẳng có ai xem trọng. Tôi còn nghĩ rằng đến nhà Đức Chúa Trời thì tôi có thể phát huy chút sức lực còn lại của mình. Tôi mang một lòng nhiệt huyết đến đăng ký vào nhóm văn tự, kết quả lại không được chọn. Anh nhìn mà xem, hiện tại tôi đứng ở đây, có ai có thể thấy ra tôi là người say mê văn học, là người tài hoa về văn học chứ? Chút khí chất của tôi đều bị công việc mệt mỏi bẩn thỉu này làm mai một cả. Hiện tại, những gì miệng tôi nói ra toàn là tiếng địa phương, toàn là lời thô tục”. Trong lòng họ rất ấm ức, mặc dù ngoài miệng họ nói mình thuận phục sự sắp đặt của Đức Chúa Trời và nhà Đức Chúa Trời bảo làm gì thì họ sẽ làm nấy, nhưng trong lòng họ không xác định vị trí bản thân cho chuẩn, lầm tưởng hứng thú và sở thích của mình là sở trường và là thứ phù hợp để Đức Chúa Trời sử dụng, không tìm được vị trí của mình, không nhận rõ tình hình thực tế của mình, không biết tầm mình đến đâu, không biết hứng thú và sở thích của mình rốt cuộc có phải là cái mình giỏi không – đối với những chuyện này, họ đều không rõ, thế mà vẫn tự nhận mình là người tài hoa về văn học, thiếu chút nữa là tự nhận mình là đại văn hào luôn rồi. Kết quả cuối cùng thế nào? (Thưa, họ tràn đầy oán giận đối với sự sắp xếp của hội thánh, trong lòng chẳng sẵn lòng thuận phục.) Trong lòng họ luôn cảm thấy ấm ức, mặc dù khi làm bổn phận, họ cũng không lười biếng, cũng có thể làm việc chăm chỉ, miễn cưỡng thuận phục, nhưng vì trong lòng họ không xác định vị trí của mình cho chuẩn, nên cứ thấy mình bị xử tệ. Trong lòng họ thường lóe lên một câu này: “Trên đời này, thiên lý mã thường có, Bá Lạc mới không thường có”. Thiên lý mã là gì, Bá Lạc là gì chứ? Họ có chút hứng thú và sở thích với chuyện gì đó, về sau còn học tập chuyện đó một cách có hệ thống, thế là họ nghĩ trên đời không ai bằng mình rồi, cảm thấy mình là thiên lý mã, là nhân tài rồi. Vậy chẳng phải là không tự biết rõ mình sao? Họ chỉ tin rằng hứng thú và sở thích là cái mà Đức Chúa Trời ban cho, chứ không nhận ra Đức Chúa Trời ban cho họ tố chất như thế nào, không rõ rốt cuộc họ có giỏi trong chuyện mà họ thấy hứng thú và đam mê hay không, không rõ rốt cuộc họ có thể làm tốt, có thể đảm đương, có thể gánh vác nổi công tác hay bổn phận có liên quan đến hứng thú và sở thích của mình hay không – những điều này họ chẳng thấy rõ, cũng chẳng biết. Vậy chẳng phải rất phiền phức sao? (Thưa, phải.) Vì họ không nhận ra, cũng không tìm chuẩn được vị trí của mình, nên trong lòng họ rất ấm ức. Họ biểu hiện ra bề ngoài những điều gì? Họ thường thở ngắn thở dài, thường ở trước mặt Đức Chúa Trời mà bày tỏ ý chí, hy vọng có ngày Đức Chúa Trời có thể tạo cơ hội cho họ, có thể bất bình thay cho họ, kêu oan cho họ, cho họ được làm bổn phận có liên quan quan đến hứng thú và sở thích của mình như họ mong muốn. Ngươi xem, bài họ thường hát cũng là: “Con không nghĩ về con đường phía trước”. Tiếp theo là câu gì nào? (Thưa, là “Thiên chức của con chỉ là tuân theo ý chỉ của Đức Chúa Trời”.) Người ta thực sự có vóc giạc này, thực sự có thực tế này, thực sự có thể tuân theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, nên người ta hát bài này là hoàn toàn thích hợp, không có gì quá đáng, hoàn toàn thỏa đáng. Nhưng khi loại người này cũng đem bài này ra hát, thì tâm tình họ như thế nào? Họ đang hát dưới bối cảnh gì? (Thưa, khi họ đang oán trách và ấm ức.) Họ hát bài này có phải là đang oán trách không? (Thưa, phải.) Những gì họ hát toàn là oán trách, không phục, bất mãn, toàn là ai oán. Lúc ngươi nghe họ hát bài này chính là lúc họ đang phiền muộn nhất. Người Trung Quốc có câu gì nhỉ? “Đàn ông buồn thì hát, phụ nữ buồn thì khóc, bà lão buồn thì cứ lẩm ba lẩm bẩm”. Ngươi xem, các loại người khác nhau mà buồn thì phương thức diễn đạt cũng khác nhau. Có phụ nữ gặp dạng chuyện này thì cứ khóc, lúc nào cũng âm thầm gạt nước mắt, trong lòng không buông bỏ được chuyện này, mỗi lần nghĩ đến chuyện này là hai mắt đỏ hoe, trong lòng cảm thấy ấm ức và oan ức, không thể tiếp cận chuyện này một cách đúng đắn. Thực ra, chuyện này rất đơn giản, hứng thú, sở thích và sở trường vốn là hai chuyện khác nhau. Nếu ngươi có sở trường về phương diện nào đó, bất kể phương diện đó có phải là hứng thú và sở thích của ngươi hay không, thì ngươi rất thích hợp để làm công tác có liên quan đến sở trường đó. Nghĩa là về mặt tố chất, tài năng hoặc tư chất bẩm sinh, ngươi rất giỏi làm chuyện này và có thể làm tốt, vậy thì khi làm công tác này, ngươi sẽ có thể đạt được kết quả nhất định, tương đối thích hợp để làm. Nhưng nếu ngươi chỉ có hứng thú và sở thích trong lĩnh vực này, mà không có sở trường trong lĩnh vực này, vậy thì chưa chắc ngươi đã có thể làm tốt. Chuyện này đơn giản vậy thôi. Bởi vì người ta cố chấp và lệch lạc, lại thêm ngu muội và vô tri, nên mới dẫn đến chuyện khi không thể làm công tác mình cảm thấy hứng thú thì thoái chí nản lòng, chán nản, tiêu cực và oán trách, tràn đầy đủ loại cảm xúc tiêu cực. Do đó, điều rất cần thiết là người ta phải hiểu rõ tình hình thực tế của hứng thú, sở thích và sở trường của mình, sau khi hiểu rõ rồi thì phải tiếp cận chúng một cách đúng đắn, một mặt là vậy. Mặt khác, người ta phải thuận phục sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời, dựa theo nguyên tắc mà nhà Đức Chúa Trời yêu cầu mà làm tốt bổn phận của mình. Nếu nhà Đức Chúa Trời yêu cầu ngươi làm bổn phận trong lĩnh vực nào đó, mà ngươi lại không giỏi trong công tác này, chỉ hứng thú và đam mê lĩnh vực này, thích làm dạng công tác này mà thôi, nhưng theo tiêu chuẩn tối thiểu trong yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời thì ngươi vẫn vừa đủ khả năng đảm nhiệm, vậy thì ngươi nên thuận phục, nên nỗ lực phối hợp, đừng tìm đủ loại lý do khách quan để từ chối và khước từ. Đương nhiên, nếu vì sự hạn chế của điều kiện bẩm sinh trong các lĩnh vực khác nhau, hoặc vì một vài vấn đề thực tế nào đó, mà nhà Đức Chúa Trời không thể để ngươi làm bổn phận trong lĩnh vực này, thì ngươi cũng không nên oán trách, không nên tiêu cực hay yếu đuối. Ngươi có thể làm gì thì cứ làm nấy. Còn về hứng thú và sở thích của mình, thì ngươi cứ để lại mà dùng cho bản thân, người trong hội thánh sẽ không can thiệp, cũng sẽ không bãi bỏ quyền lợi của ngươi đối với những chuyện mà ngươi đam mê hoặc thấy thấy hứng thú, đây là chuyện riêng của ngươi. Nhưng nói đến bổn phận, thì đối với những vấn đề đủ mọi mặt liên quan đến hứng thú, sở thích và sở trường, ngươi phải phân biệt cho rõ và phải có thể tiếp cận một cách đúng đắn, đây là điều trọng yếu nhất. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.)

Rất nhiều người có hứng thú và sở thích trong lĩnh vực nào đó. Cũng có một số người chẳng có hứng thú và sở thích gì cả. Nghĩa là họ chẳng hứng thú hay đam mê đặc biệt gì đối với bất kỳ ngành nghề, nghiệp vụ, hoặc bất kỳ con người, sự việc, sự vật nào mà người ta thường tiếp xúc trong thế giới – họ chỉ là những người bình thường. Chẳng hạn như, có người hỏi họ có mê văn học không, bình thường có viết nhật ký hoặc viết văn không, thì họ nói: “Tôi chẳng mê, cũng chẳng giỏi. Tôi đọc hay viết một cái là đau đầu liền”. Bảo họ đọc một chút danh tác văn học là họ liền nhức cả đầu, trong lòng hoàn toàn không muốn làm. Thậm chí có người nói: “Lúc nào cũng vậy, tôi vừa đọc chữ là hai mắt mờ đi, đọc chữ làm tôi già đi, nên tôi chẳng thích văn học”. Ngươi hỏi họ có thích nhảy múa không, thì họ nói: “Nhảy múa không phải là việc chính đáng, là ăn không ngồi rồi, tôi chẳng thích nhảy múa”. Ngươi xem, họ không thích, lại còn tìm ra một vài lý do, nói làm vậy là không chuyên tâm vào việc chính đáng. Người ta nhảy múa để ngợi ca Đức Chúa Trời, đây là chuyện quá tích cực mà! Ca hát nhảy múa, đánh đàn chơi nhạc để ngợi ca Đức Chúa Trời là việc đã có thời xưa, là việc được Đức Chúa Trời khen ngợi, sao lại có thể là không chuyên tâm vào việc chính đáng chứ? Đối với họ, hễ không thích điều gì thì họ hạ thấp chúng, nói chúng là điều tiêu cực. Người ta nói: “Anh không thích nhảy múa, vậy anh có thích ca hát không?” “Ca hát gì chứ? Hễ tôi hát là lạc điệu, bản thân tôi nghe còn thấy khó chịu. Tôi chẳng thích hát. Bây giờ tin Đức Chúa Trời rồi, tôi mới học chút thánh ca về lời Đức Chúa Trời, thánh ca về trải nghiệm. Chứ trước khi tin Đức Chúa Trời, tôi chẳng bao giờ hát. Người khác hát, tôi cũng chẳng muốn nghe”. “Vậy lúc tâm trạng vui vẻ thì anh làm thế nào để diễn đạt?” “Tâm trạng vui vẻ thì tôi chợp mắt một lát”. “Vậy lúc gặp chuyện đau khổ, tâm trạng không vui, thì anh làm thế nào?” “Thì ăn vặt một chút, hoặc cứ chợp mắt một chút”. “Anh không thích ca hát, vậy anh có thích nghe nhạc không?” “Tôi chẳng có hứng thú đó, nghe cũng chẳng hiểu âm nhạc diễn đạt điều gì. Các anh nói âm nhạc diễn đạt hỷ nộ ai lạc của con người, diễn đạt tư tưởng và tình cảm của con người, nhưng mấy chuyện đó, tôi thì nghe chẳng ra, với chẳng tới. Âm nhạc là nghệ thuật thanh cao, người thấp kém và dung tục như tôi thì với không tới âm nhạc, cũng chẳng thích âm nhạc”. “Vậy anh có thích món ngon không?” “Tôi cũng chẳng thích món ngon, tôi ăn gì cũng được. Tôi bẩm sinh là người thô tục. Tôi ăn bánh ngô cũng được, bánh ngọt cũng được, món Tây món ta gì tôi cũng ăn được. Nếu đói mà không có thứ gì để ăn, thì tôi ăn cơm chó cũng được”. Người này thô như vậy thôi. Người ta hỏi một vài phụ nữ: “Chị có thích đồ trang điểm không?” thì họ nói: “Tôi chẳng hứng thú với đồ trang điểm. Trời sinh tôi thế nào thì tôi cứ thế ấy, ai thích nhìn thì nhìn, không muốn nhìn thì thôi!” Người ta hỏi một vài đàn ông: “Anh có thích đồ điện tử hoặc đồ cơ khí như xe cộ không?” thì họ nói “Thích mấy thứ đó thì có ích gì chứ? Hao tổn tinh thần, mệt mỏi đầu óc. Có thời gian thì chi bằng đi ngủ hoặc tán gẫu!” Họ chẳng thích thứ gì cả, chẳng có hứng thú và sở thích gì cả. Dù là sinh vật, đồ công nghệ, cao cấp hay phân khúc thấp, họ đều không thích. Người ta hỏi: “Những thứ này liên quan đến con người, bất kể chúng thanh cao hay dung tục, anh đều không thích. Vậy anh có thích các động vật nhỏ như mèo, chó, chim không?” “Cái đó tôi càng không thích. Động vật đâu biết nói chuyện với người, thích chúng thì có ích gì chứ?”. Có người hứng thú với chó, thường xuyên nói chuyện với chó, và chó còn có thể hiểu được tiếng người. Có người chẳng có sở thích gì, chẳng hứng thú với chuyện gì – có rất nhiều người như vậy. Có vài người nói: “Chúng ta bẩm sinh có chút hứng thú và sở thích cũng là do Đức Chúa Trời ban cho. Nhất là những người có sở trường trong lĩnh vực nào đó, những người bẩm sinh có tài cán đặc biệt lớn và nổi bật trong lĩnh vực này – đây đều là sự ân đãi của Đức Chúa Trời, là sự nâng cao của Đức Chúa Trời, là sự ưu ái của Đức Chúa Trời. Nhất là hôm nay, chúng ta được làm bổn phận có liên quan đến hứng thú, sở thích hoặc sở trường của mình trong nhà Đức Chúa Trời thì càng khiến thân phận của chúng ta trở nên tôn quý vô song và phi thường. Những người chẳng có sở thích hay sở trường gì thì chỉ có thể làm những việc tay chân nặng nhọc, những công tác chẳng yêu cầu về kỹ thuật, như tiếp đãi, nấu ăn, dọn dẹp vệ sinh, hoặc trồng rau, nuôi heo, nuôi gà. Vậy thì, xét về hứng thú, sở thích và sở trường, chẳng phải giữa người với người có phân cao thấp, sang hèn sao? Chẳng phải có sự khác biệt về đẳng cấp sao?”. Dạng quan điểm này có đúng đắn không? (Thưa, không đúng.) Ngươi xem, Đức Chúa Trời ban sở trường cho một vài người, tiền định một vài người có hứng thú và sở thích nào đó. Lại có những người mà Đức Chúa Trời không tiền định cho điều gì – không có sở trường gì, không biết hát, không biết nhảy, cũng không hiểu văn học, hoàn toàn mù tịt về bất kỳ phương diện kỹ thuật nghiệp vụ nào. Tình cờ, có một nhà tiếp đãi có nuôi hai con chó, cho nên để họ nuôi chó là thích hợp – đây là việc đơn giản nhất. Nhưng ngoài cho chó ăn ra, họ chẳng dắt chó đi dạo, cũng chẳng biết chăm sóc chó. Họ nuôi được một hai năm, thì chó còn chẳng xem họ là chủ, chẳng gần gũi với họ. Ngươi nói xem, đây là loại người gì? Loại người này so với người có hứng thú và sở thích hoặc là sở trường trong lĩnh vực nào đó thì có khác biệt gì? Rõ ràng, đây là hai loại người có khác biệt về mặt điều kiện bẩm sinh: Một loại sống rất có cảm giác ưu việt, sống cuộc đời rất phong phú và có ý nghĩa, loại kia thì rất trống rỗng, chẳng có cảm giác ưu việt gì. Vậy nếu phân biệt người với người theo sự khác biệt về địa vị và giá trị bản thân dựa trên nguyên tắc này thì có thích hợp không? (Thưa, không thích hợp.) Vậy dựa theo nguyên tắc nào để phân biệt thì thích hợp. Các ngươi nói xem, giữa người với người có sự khác biệt không? (Thưa, có.) Khác biệt ở chỗ nào? Nên phân biệt ra sao? Ít nhất, hãy xem liệu người ta có yêu thích lẽ thật không, dựa vào thái độ của họ đối với lẽ thật mà phân biệt thực chất của họ, cao quý hay thấp hèn, thuộc loại người nào. Về mặt lý luận, chẳng phải làm như vậy thì việc phân biệt sẽ rất đơn giản hay sao? (Thưa, phải.) Phân biệt người ta như thế có tốt không? (Thưa, tốt.) Nhưng phân biệt như thế có quá đơn giản không? Có một số người chẳng có sở trường bẩm sinh nào, cũng chẳng có hứng thú hay sở thích nào, họ là người rất xoàng xĩnh, rất đơn giản. Nhưng những người này lại yêu thích lẽ thật, hiểu lẽ thật, có trải nghiệm và nhận thức về lẽ thật, khi thông công lẽ thật thì có thể nói ra nhận thức về lời Đức Chúa Trời, về mặt lối vào sự sống cũng tốt hơn người thường, có thể giúp đỡ cho rất nhiều người. Vậy ngươi có thể nói loại người này thấp hèn, chẳng đáng một xu sao? (Thưa, không thể.) Về lý thuyết, phải dựa vào thái độ của người ta đối với lẽ thật mà phân biệt thực chất của người ta – cao quý hay thấp hèn, và thuộc loại nào. Nhưng cụ thể thì phân biệt như thế nào? Hôm nay chúng ta sẽ thông công về chuyện này.

Một người bẩm sinh có hứng thú, sở thích hay sở trường gì, thì đều là do Đức Chúa Trời tiền định. Đức Chúa Trời ban cho thì ngươi có, Đức Chúa Trời không ban cho thì ngươi không có – ngươi học cũng không được, bắt chước cũng không xong. Nhưng nếu ngươi có sở trường trong lĩnh vực nào đó, mà ngươi nói: “Làm bổn phận có liên quan đến sở trường này thật quá mệt mỏi, mình chẳng muốn sở trường này”, thì ngươi có không muốn cũng không bỏ nó đi được, người khác có muốn cướp nó của ngươi cũng không xong. Ngươi có thứ gì thì người khác đoạt cũng không được, ngươi không có thứ gì thì ngươi muốn cướp cũng không được, tranh cũng không xong – chuyện này liên quan đến sự tiền định của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, như đã nói, Đức Chúa Trời ban cho ngươi một hứng thú, sở thích hay sở trường nào đó, thì không có nghĩa là Đức Chúa Trời buộc phải để ngươi làm bổn phận hoặc công tác có liên quan đến hứng thú, sở thích hay sở trường của ngươi. Có người nói: “Bởi vì tôi không được cho làm bổn phận trong lĩnh vực này, làm công tác liên quan đến lĩnh vực này, vậy tại sao còn ban cho tôi hứng thú, sở thích hay sở trường này?” Đức Chúa Trời ban cho đại đa số người những hứng thú, sở thích hay sở trường nào đó dựa theo tình hình đủ mọi mặt của người ta. Đương nhiên trong chuyện này phải cân nhắc nhiều mặt: Một mặt là vì sinh kế và sự sinh tồn của người ta, mặt khác là để làm phong phú cuộc sống của người ta. Cuộc sống của người ta có lúc cần một hứng thú hay sở thích nào đó – để giải trí và tiêu khiển hoặc là để làm việc chính đáng nào đó – hầu cho cuộc sống con người của họ được đầy đủ. Đương nhiên, bất kể xét từ phương diện nào, trong chuyện Đức Chúa Trời ban cho đều có đạo lý, trong chuyện Đức Chúa Trời không ban cho cũng có đạo lý và lý do của Ngài. Cũng có khả năng cuộc sống con người của ngươi hoặc sự sinh tồn của ngươi không cần Đức Chúa Trời ban cho ngươi hứng thú, sở thích hay sở trường, ngươi có thể thông qua những con đường khác mà duy trì sinh kế hoặc làm cho cuộc sống con người của mình được đầy đủ và phong phú. Tóm lại, bất kể Đức Chúa Trời có ban hứng thú, sở thích hay sở trường cho con người hay không, thì đó đều không phải là vấn đề của con người. Ngay cả khi ngươi không có sở trường thì đó cũng không phải là khiếm khuyết trong nhân tính. Người ta nên lĩnh hội và tiếp cận chuyện này cho đúng đắn. Nếu ngươi có hứng thú, sở thích hay sở trường nào đó, thì ngươi nên trân quý nó và vận dụng nó một cách đúng đắn. Còn nếu ngươi không có, thì cũng đừng oán trách. Xét từ góc độ hứng thú, sở thích và sở trường, thì tình hình thực tế là vậy. Nhưng nó không cho thấy giá trị bản thân, địa vị hay thân phận của người ta như thế nào. Chuyện này nói cho con người điều gì? Là ngay cả khi Đức Chúa Trời ban cho ngươi một hứng thú, sở thích hay sở trường thanh cao, thì nó là tài sản tư hữu của ngươi, là điều kiện ưu việt của ngươi, nhưng nó cũng không đồng nghĩa với chuyện ngươi cao quý hơn bất kỳ ai, có ưu thế hơn bất kỳ ai, hoặc có đặc quyền làm bất kỳ việc gì. Bởi vì trong mắt Đức Chúa Trời, bất kể người ta có điều kiện bẩm sinh nào, thì người ta đều là một thành viên trong nhân loại bại hoại. Mặc dù trong điều kiện bẩm sinh không có thành phần bại hoại, nhưng người có điều kiện bẩm sinh đều đã bị Sa-tan làm bại hoại, đều sống theo tâm tính Sa-tan, thực chất sự sống của họ chính là tâm tính bại hoại của Sa-tan. Do đó, bất kể điều kiện bẩm sinh của ngươi là gì, có hứng thú, sở thích hoặc sở trường hay không, thì trong mắt Đức Chúa Trời, vì thực chất sự sống của các ngươi đều như nhau, cho nên giá trị bản thân của ngươi cũng bình đẳng với người khác. Người ta nên thấy cho rõ chuyện này: Ngay cả khi ngươi có điều kiện ưu việt hay ưu thế nào đó, nhưng về thực chất con người và tâm tính bại hoại, thì thực chất của mọi người đều tương đồng, người nào cũng như nhau. Mọi người đều cần trải qua sự phán xét và hành phạt của Đức Chúa Trời, đều là đối tượng mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi. Về thực chất sự sống của xác thịt, mọi người đều tương đồng với nhau. Nhưng xét từ góc độ khác, thì giữa người với người có sự khác biệt, và chúng ta phải thông công chi tiết về những khác biệt này. Làm sao để xác định những khác biệt này. Phải nhìn vào nguồn gốc của người ta. Nguồn gốc là nói đến điều gì? Nói đến người ta do thứ gì đầu thai – là dựa trên chuyện người ta đến như thế nào và đến từ đâu mà phân biệt. Nói chung, thì nhân loại này được chia thành ba loại: loại người thứ nhất là người do động vật đầu thai, loại người thứ hai là người do các loại ma quỷ đầu thai, loại người thứ ba là người do con người đầu thai. Ba loại này phân biệt mọi người từ căn nguyên. Sở dĩ có thể chúng có thể phân biệt được người ta là vì nguồn gốc của các loại người không giống nhau. Vậy làm sao biết được ai do động vật đầu thai, ai do ma quỷ đầu thai và ai do con người đầu thai? Thì phải nhìn vào những gì họ sống thể hiện ra và đặc trưng mà họ biểu hiện. Trước đây, trong văn học dân gian hoặc các kênh khác, các ngươi đã từng nghe qua dạng thông tin này chưa? (Thưa, có.) Vì vậy, chủ đề này không hoàn toàn xa lạ với các ngươi, phải không nào? (Thưa, phải.) Loại người do động vật đầu thai, loại người do ma quỷ đầu thai, và loại người do con người đầu thai, các ngươi muốn nghe về loại nào trước? (Thưa, loại thứ nhất.) Loại thứ nhất, người do động vật đầu thai. Các ngươi mà thực sự biết chân tướng chuyện này rồi, thì nó sẽ gây nên ảnh hưởng gì đối với cuộc sống của các ngươi không? Có đem lại phiền phức hay trở ngại gì không? (Thưa, có khả năng trong đầu chúng con sẽ nghĩ xem mình là do loại gì đầu thai.) Có những người, khi đã thực sự biết mình là loại người nào và đã đối chiếu bản thân với loại người nào đó rồi, nếu thực sự họ là do con người đầu thai, thì họ thấy mình quá may mắn, cảm thấy không tệ. Nhưng nếu họ không phải do con người đầu thai, thì chẳng phải họ sẽ cảm thấy khó chịu sao? (Thưa, phải.) Chuyện đó sẽ gây cho họ một vài khó khăn và sự khó chịu, phải vậy không? (Thưa, phải.) Bởi vì chuyện này có thể đem lại sự khó chịu và một vài khó khăn, vậy người ta biết hay không biết thì tốt hơn? (Thưa, con cảm thấy biết thì có lẽ tốt hơn.) Tốt ở chỗ nào? (Thưa, biết thì người ta có thể hiểu được lẽ thật về phương diện này, ngoài ra cũng có thể phân định một vài con người, sự việc và sự vật quanh mình.) Vậy thì chúng ta sẽ thông công về chuyện này.

Trước tiên, chúng ta hãy thông công về loại người do động vật đầu thai. Động vật đầu thai, nghe cái tên thì biết nghĩa là người này do động vật đầu thai chuyển thế mà đến trong đời. Phạm trù động vật thì rất rộng – chuyện có bao nhiêu loại động vật có thể đầu thai làm người thì không nằm trong phạm vi mà chúng ta muốn thông công. Tóm lại, có một loại người ở kiếp trước là động vật, nghĩa là thân phận vốn có hoặc phân loại thọ tạo của người này không phải là một thành viên trong nhân loại thọ tạo. Phân loại sinh vật ban đầu nhất và nguyên thủy nhất của họ là động vật. Do đó, trong mắt Đức Chúa Trời, thân phận của họ trong cõi sinh vật là động vật. Trong sự đầu thai lần này, họ làm người, nghĩa là động vật này không còn luân hồi chuyển thế giữa động vật với nhau nữa, mà đã đầu thai làm người, sinh ra vào giờ nào phút nào đó, trong gia đình nào đó, ở quốc gia nào đó. Động vật đầu thai trở thành một thành viên trong nhân loại, nghĩa là khi sinh ra thì họ là người, nhưng kiếp trước của họ không phải là người, mà là động vật. Trước đây, họ sinh tồn trong cõi động vật, luân hồi qua lại với động vật trong cõi động vật, nhưng trong lần chuyển thế này, họ không còn ở trong cõi động vật nữa, mà thân phận của họ đã chuyển đổi rồi, họ đã trở thành một thành viên trong nhân loại – đây gọi là động vật đầu thai làm người. Khi động vật đầu thai làm người, tướng mạo và bản năng của họ về cơ bản giống với bất kỳ con người nào trong nhân loại, nghĩa là họ hoàn toàn có đặc trưng của con người, có thể đứng thẳng mà đi, có nét mặt và tướng mạo của con người, có tư duy của con người, có bản năng của con người, có cuộc sống bình thường của con người, còn có năng lực ngôn ngữ đặc hữu của loài người, như vậy gọi là động vật đầu thai làm người rồi. Nghĩa là ngươi nhìn vào hình thái thể lý, diện mạo bên ngoài và đặc trưng sinh hoạt thể lý, thì chỉ có thể thấy được đặc trưng của loài người, chứ chẳng thấy được đặc trưng của động vật. Vậy làm thế nào có thể biết được họ là động vật đầu thai? Đây là vấn đề mà mọi người quan tâm nhất. Chuyện này đương nhiên có thể thấy ra được. Nếu giữa người do động vật đầu thai và người do con người đầu thai không có khác biệt gì, vậy thì loại người do động vật đầu thai chẳng có bất kỳ đặc trưng rõ rệt nào. Chính vì người do động vật đầu thai và con người chân chính do con người đầu thai có khác biệt rõ rệt, nên có thể nhìn ra được hai loại người này dựa trên đặc trưng của mỗi loại. Vậy loại người do động vật đầu thai thì có những đặc trưng nào? Đặc trưng thứ nhất chính là loại người này lĩnh hội lệch lạc, đặc trưng thứ hai là đặc biệt tê dại, đặc trưng thứ ba là đặc biệt hồ đồ, đặc trưng thứ tư là đặc biệt ngu ngốc. Xét từ bốn đặc trưng này là đủ để thấy ra sự khác biệt giữa người do động vật đầu thai và con người chân chính do con người đầu thai.

Đặc trưng thứ nhất của loại người do động vật đầu thai là lệch lạc. Trước hết, lệch lạc liên quan đến điều gì? Liên quan đến vấn đề về tư tưởng và quan điểm, liên quan đến năng lực nhận biết để nhìn nhận, lĩnh hội và lý giải sự vật. Loại người này không thể lĩnh hội đúng đắn bất kỳ sự vật nào, cũng không thể nhìn nhận đúng đắn bất kỳ sự vật nào. Họ nhìn nhận con người và sự việc, làm người và hành động đặc biệt hoang đường, cố chấp và lố bịch, hoàn toàn không tương hợp với tư duy của nhân tính bình thường cũng như tư tưởng và quan điểm nhìn nhận sự vật của nhân tính bình thường. Đương nhiên, loại người lệch lạc này mà lý giải lẽ thật và nhận thức lẽ thật thì còn chẳng thể tiệm cận nổi. Họ căn bản không với tới được lẽ thật, chuyện hiểu nguyên tắc lẽ thật thì càng khỏi nói đến. Quan điểm của họ đối với bất kỳ sự vật nào hay bất kỳ người nào cũng đều rất lệch lạc. Ngươi thông công cho họ rồi, thì họ hiểu được về mặt đạo lý, nhưng sau đó nhận thức của họ vẫn cứ lệch lạc. Ngươi lại nói cho rõ ràng hơn, cụ thể hơn, còn đưa ra vài ví dụ, lúc đó họ nghe thì hiểu, nhưng sau đó mà gặp cùng loại chuyện đó thì quan điểm của họ vẫn cứ lệch lạc như vậy, được thông công thế nào cũng không sửa đổi được. Hơn nữa, dạng trạng thái này – dạng phương thức lĩnh hội sự vật này – của họ cứ trơ trơ mãi như vậy, chẳng thể thay đổi được. Ai thông công lẽ thật cho họ cũng không thay đổi được họ, ngay cả Ta thông công và giảng đạo mà cũng không thể thay đổi được dạng tư tưởng và quan điểm lệch lạc này, dạng lĩnh hội lệch lạc này của họ. Loại người này rất phiền phức. Chẳng hạn như, họ làm một việc và làm sai, ngươi bảo họ: “Anh làm việc này không đúng, không phù hợp nguyên tắc, có sự lẫn tạp cá nhân rồi”, thì họ nói: “Tôi cũng đâu cố ý, tôi cũng đâu dự tính làm như vậy. Các anh đều giỏi cả, đều có lẽ thật, đều biết làm, vậy sao các anh không làm, mà lại bảo tôi làm? Các anh bảo tôi làm không đúng, vậy chẳng phải chỉ vì thấy tôi không vừa mắt sao? Các anh đều có nhân tính, chỉ có tôi chẳng có nhân tính, nên tôi sẽ xuống địa ngục, còn các anh đều lên thiên đàng cả!” Họ thậm chí còn nói một vài lý do để phân bua, biện bạch, tìm một vài cái cớ để thoái thác trách nhiệm. Họ sẽ không thừa nhận mình đã làm sai việc đó, cũng không có tâm thái đúng đắn, không thể hiện rằng sau này mình nhất định sửa đổi và biết sau này nên làm gì rồi. Họ sẽ không bao giờ nhận thức được như vậy, sẽ không bao giờ đứng ở góc độ của nhân tính mà lĩnh hội chuyện này một cách thuần khiết. Thậm chí, còn có những người, khi được chỉ ra vấn đề trong công tác và thông công lẽ thật cho, lại nói rằng: “Đây chẳng phải là anh xem thường tôi sao? Đây chẳng phải là anh thấy tôi không có trình độ văn hóa, là dân nông thôn sao? Đây chẳng phải là anh xem thân phận tôi thấp kém sao? Đức Chúa Trời chẳng bao giờ khinh tôi, anh dựa vào cái gì mà khinh tôi chứ!” Họ sẽ không bao giờ thừa nhận bản thân đã làm sai, rồi sau đó tìm kiếm lẽ thật, phản tỉnh và nhận biết bản thân đã sai ở đâu, tìm kiếm con đường thực hành đúng đắn để giải quyết. Tại sao họ sẽ không bao giờ làm vậy? Bởi vì họ đâu phải là con người, họ đâu có tư duy của con người bình thường, đâu thể dùng phương thức của con người bình thường mà tiếp cận sai lầm đã xảy ra này. Họ chẳng có thái độ mà người bình thường nên có đối với sai lầm. Các ngươi đã gặp qua loại người này chưa? Tốt nhất, hãy phản tỉnh bản thân một lượt, để xem lý trí của ngươi có bình thường hay không. Chẳng hạn như, họ vừa mới chùi nhà, nền nhà còn ướt, có người không biết mà đi qua nên bị ngã. Người đó đứng dậy bảo: “Anh chùi nhà mà không lau cho khô. Anh nên đặt một cái bảng để nhắc mọi người một tiếng chứ! May là tôi còn trẻ, ngã rồi còn đứng dậy được, lỡ như có người già bị trượt ngã, thì chẳng gãy xương à? Anh suy xét chuyện này chẳng chu đáo rồi!” Những lời này chính đáng không, có bình thường không? (Thưa, bình thường.) Họ làm việc đó mà không suy xét cho chu đáo, vậy thì lần sau cứ suy xét cho chu đáo đi. Vì đã có người bị ngã, nên rõ ràng họ đã làm sai. Đây là lầm lỗi, nhưng không có ai kết tội họ cả, họ chỉ cần sửa đổi là được. Nhưng họ lại không thể đứng ở góc độ của con người và dùng tư duy của con người mà suy xét và tiếp cận chuyện này một cách đúng đắn và có lý tính. Thay vào đó, họ quay ngược lại mà nói: “Sàn ướt mà anh không thấy à? Anh mù à? Anh trượt ngã là đáng! Anh có mắt mà không thấy, lại còn có thể trách tôi sao? Tôi mới chùi nhà nên dĩ nhiên là còn ướt, tại sao anh lại bước lên đó? Cũng đâu phải tôi bảo anh bước lên, anh ngã rồi thì cứ tự nhận đó là do anh đen đủi, chứ chuyện này chẳng liên quan gì đến tôi!” Đống lời này này có lý tính hay không? (Thưa, không có.) Chẳng có lý tính gì cả, nói kiểu thông tục thì là gì? Là bất chấp đạo lý. Ngươi chùi nhà mà không lau cho khô, dẫn đến có người bị ngã, mặc dù không đòi ngươi phải bày tỏ cảm giác tội lỗi và xin lỗi, nhưng ít nhất ngươi phải tiếp nhận lời nhắc nhở và chỉ ra vấn đề của người khác. Ngươi phải hỏi: “Anh có bị thương ở đâu không? Có cần đi bệnh viện để khám hoặc điều trị không? Tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm”. Như vậy mới là thái độ đúng đắn, như vậy mới là cách người ta đứng ở góc độ của nhân tính mà tiếp cận và suy xét một cách lý tính cái sai của mình. Nhưng loại người do động vật đầu thai đâu có nhân tính, lĩnh hội thì lệch lạc, họ sẽ chẳng bao giờ nói được lời như vậy, sẽ chẳng bao giờ suy xét vấn đề như vậy, lại còn muốn làm càn và bất chấp lý lẽ. Họ chùi nhà mà không lau cho khô, dẫn đến có người bị ngã, thì lần sau chỉ cần đừng làm như vậy, chú ý thêm một chút, sửa đổi lỗi lầm của mình, vậy là xong chuyện, làm vậy thì chuyện này sẽ được giải quyết. Đây là một chuyện quá đơn giản, chẳng ai nói tiếng nào, chẳng ai kết tội họ, họ cũng chẳng phải chịu trách nhiệm với luật pháp, thế mà họ chẳng tiếp nhận, còn nói: “Chỉ các anh tốt thôi, chỉ các anh có nhân tính thôi. Tôi là kẻ ác, tôi cố ý hại người, chẳng có ý tốt! Các anh đều lên thiên đàng, còn tôi thì xuống địa ngục!” Ngươi nói xem, người bình thường có thể nói ra đống lời đó không? (Thưa, không thể.) Chỉ có loại người do động vật đầu thai này lĩnh hội bất kỳ sự vật nào, và nhìn nhận bất kỳ sự vật nào cũng từ góc độ đặc biệt cực đoan, cố chấp và lố bịch. Vì một chút chuyện nhỏ hoặc chuyện rất chính đáng, mà họ lại có thể tuôn ra một đống lý lẽ càn rỡ và sai lầm, khiến người ta nghe xong thì chẳng biết nên khóc hay cười. Nếu bị tỉa sửa, họ sẽ có biểu hiện gì? Họ sẽ cực lực phân bua và biện bạch, nói bản thân làm như vậy cũng là có lý do, làm như vậy thì cũng đã chịu bao nhiêu khổ cực, họ nói ra một đống lý lẽ. Ngươi thông công với họ về lý do cần tỉa sửa họ, về chuyện khi làm sai thì nên sửa đổi và tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật thế nào, về chuyện nguyên tắc khi làm việc này là gì, thì họ nghe mà chẳng để vào tai câu nào, trong lòng còn nén giận, nén hận, nhẫn nhục chịu oan. Sau lưng, họ còn nói với người khác rằng: “Hừm! Vấn đề này tôi chưa suy xét đến thôi mà, tôi cũng đâu có ý đồ hay cố ý làm như vậy. Thế mà lại kết tội tôi, nói tôi gây nhiễu loạn và gián đoạn. Tôi mà ác đến vậy sao? Tôi mà là kẻ ác sao?”. Về chuyện liên quan đến nguyên tắc lẽ thật thì họ vĩnh viễn với không tới, nghe không hiểu, lại còn lĩnh hội đặc biệt lệch lạc, đặc biệt lố bịch. Bất kể nguyên tắc lẽ thật nào được thông công, hễ đến chỗ họ thì đều trở thành một câu nói, một cách làm, một hình thức, một dạng nghi thức và quy định. Đối với các nguyên tắc lẽ thật, họ không chỉ lĩnh hội phiến diện, mà còn lĩnh hội đặc biệt lố bịch và hoang đường. Nghĩa là cách lĩnh hội và của loại người này đối với lẽ thật đặc biệt vụng về và ngu xuẩn. Ngu xuẩn đến mức độ nào? Đến mức khiến người ta nhìn thấy thì đều chẳng cảm thấy đáng thương, mà lại thấy hoàn toàn đáng ghê tởm, chẳng biết nên khóc hay nên cười, chẳng biết nói gì luôn. Đã nói đến mức độ đó rồi, nói thêm gì nữa cũng là dư thừa, nói thêm nữa thì là ngu muội, không thể tiếp tục nói nguyên tắc lẽ thật với những người này được nữa. Họ xử lý bất kỳ chuyện gì, ngay cả một chuyện nhỏ nhất trong cuộc sống mà cũng bất thường, lố bịch và lệch lạc. Họ không thể nhìn nhận và xử lý chuyện trong phạm vi lý trí của nhân tính. Họ nhìn nhận chuyện gì cũng cố chấp như vậy, lố bịch như vậy. Họ nói ra cách nhìn nhận đối với chuyện gì đó, ngươi nghe thì đều thấy ghê tởm cả đời, đang ăn cơm mà nghe họ nói những chuyện đó thì đều có thể nôn cơm ra ngay. Ngươi nói xem, như vậy là lệch lạc đến mức độ nào rồi? Đây là một đặc trưng của loại người do động vật đầu thai – cố chấp và lố bịch. Cái cố chấp và lố bịch này, nếu xét từ góc độ của nhân tính, thì chủ yếu là họ không có tư duy bình thường của nhân tính, đối với bất kỳ vấn đề gì cũng không thể suy xét theo tư duy bình thường của nhân tính – họ quá cực đoan, quá lệch lạc, quá cố chấp. Ngươi thông công về lẽ thật thế nào, thông công về sự thật khách quan hay tình hình cụ thể thế nào, thì họ đều giữ chặt cái lý của mình mãi không buông. Họ cho rằng: “Tôi có cái lý của tôi, tôi không để anh nắm được thóp của tôi. Tôi cứ giữ chặt mãi không buông thì cái lý của tôi sẽ trở thành lẽ thật, anh nói gì cũng vô ích thôi!” Đây là một trong những đặc trưng của loại người do động vật đầu thai – lĩnh hội lệch lạc.

Một biểu hiện nữa của loại người do động vật đầu thai chính là đặc biệt tê dại khi đối diện với rất nhiều con người, sự việc và sự vật. Họ không chỉ nhìn nhận sự tình một cách cố chấp và lệch lạc, mà hơn nữa, họ hoàn toàn chẳng thấy ra được tính chất, thực chất hay căn nguyên của bất kỳ chuyện gì phát sinh, chẳng thấy ra được chuyện đó có thể đem lại ảnh hưởng, có thể tạo nên hậu quả gì. Nghĩa là khi có người nào đó nói ra một vài lời, làm ra một vài chuyện, để lộ manh mối hay dấu hiệu nào đó, thì họ đều không thấy được, cũng không biết, hệt như kẻ ngốc vậy. Chờ đến khi họ thấy ra được, thì chuyện đó cũng đã xong rồi, đã tạo nên hậu quả rồi. Họ nghe nhiều lẽ thật như vậy rồi, mà lại không biết, cũng không cảm nhận được người bên cạnh mình là loại người gì, có thực chất nào hoặc có thể làm ra việc gì. Có những người nói ra những lời rõ ràng là có vấn đề, vậy mà họ cũng không cảm nhận được. Chẳng hạn như, có người ba hoa bốc phét, phô trương và khoe khoang bản thân, đây rõ ràng là đang bộc lộ tâm tính kiêu ngạo, vậy mà họ lại không thấy ra vấn đề, còn cảm thấy người này có năng lực, còn khâm phục và ngưỡng vọng người này, thậm chí về sau còn muốn đi theo dạng người này. Đây chính là tê dại. Kẻ ác rành rành, việc ác rành rành, sự bộc lộ tâm tính bại hoại rành rành, chiều hướng phát triển rõ rành rành của chuyện nào đó – mọi điều này, họ đều không thấy được. Họ không biết thực chất của chuyện này là gì hay căn nguyên vấn đề là gì, mọi chuyện này họ đều không cảm nhận được, ngay cả ý thức cũng không có. Đây là người chết không có linh mà chúng ta thường nói đến. Loại người này càng không với tới những chuyện liên quan đến nguyên tắc lẽ thật. Ngươi nói cho họ biết chuyện này nên thực hành theo hạng mục nguyên tắc nào, thì họ nghe mà không hiểu. Họ chỉ ghi nhớ được nên tuân thủ quy định nào, còn nguyên tắc mà ngươi thông công thì họ nghe mà không hiểu, với mà không tới. Ngươi chỉ ra một tình trạng nào đó của họ, một biểu hiện trong sự bộc lộ tâm tính bại hoại của họ, thì họ cho rằng ngươi đang nói về người khác. Ngay cả khi ngoài miệng họ thừa nhận bản thân cũng có dạng tâm tính bại hoại này, nhưng họ không nhận ra được những lời nào mình nói, những việc nào mình làm ăn khớp với tình trạng hay biểu hiện này. Họ chẳng hiểu, cũng chẳng biết ngươi đang nói cái gì. Lúc thông công lẽ thật khi nhóm họp, người ta nói sang chủ đề tiếp theo rồi, mà họ vẫn cứ quay lại nói về chủ đề trước đó. Vậy chẳng phải là trì độn và tê dại sao? Họ theo không kịp lời người ta nói, không phải là tư duy của họ theo không kịp, mà là tố chất của họ đạt không đến, với không tới. Khi gặp kẻ ác muốn lừa họ, muốn đùa bỡn họ, trừng trị họ, thì họ đều không cảm nhận được, còn đối đãi với kẻ ác như anh chị em, qua lại rất thân thiết. Kết quả là đến khi bị kẻ ác hãm hại rồi, họ mới phát hiện ra mình đã bị lừa. Họ thầm nghĩ: “Mình ngốc quá, chẳng biết nhìn người, chẳng biết phân định người! Lần này mình đã rút ra được kinh nghiệm và bài học rồi, lần sau mình chẳng tin ai hết, chỉ tin bản thân thôi, đấy chính là trí tuệ tối cao!” Bị lừa một lần là họ cảm thấy bản thân đã phát triển kiến thức rồi, còn cảm thấy bản thân thông minh. Họ đi từ điểm cực đoan này đến điểm cực đoan khác. Loại người do động vật đầu thai thì tê dại với bất kỳ chuyện gì. Chẳng hạn như, có người này phụ trách chăn nuôi và trồng trọt. Một hôm nọ nhiệt độ giảm xuống, Ta bảo anh ta: “Tối nay sẽ giảm năm độ, chẳng phải nên chăm cho những loài thực vật và động vật không chịu được lạnh sao?”. Họ nghe xong thì nói: “Con có áo bông, tối nay đi ngủ còn có nệm, có chăn, sẽ không bị lạnh đâu”. Họ nghe mà có hiểu lời Ta nói có ý gì không? Nghe câu trả lời của họ, thì rõ là họ không hiểu rồi. Vậy chẳng phải là tê dại sao? (Thưa, phải.) Nếu Ta bảo họ: “Tối nay sẽ giảm năm độ. Hoa ở trong sân sẽ chết vì lạnh. Những con vật sợ lạnh và yếu sức thì nên được giữ trong chuồng. Nên treo màn trên cửa và bịt những chỗ hở trong chuồng”. Họ nghe xong thì ngẫm nghĩ: “Hóa ra Ngài nói về những con vật và cây cối. Vậy chẳng phải cứ đưa hoa vào nhà là xong sao? Nhưng vật nuôi thì nhiều quá, ngài cũng không nói con nào sợ lạnh, con nào không, con nào nên giữ trong chuồng, con nào không”. Ta không nói, vậy ngươi không biết dựa theo nguyên tắc mà hành động sao? Ngươi còn chẳng nhận ra được rằng mùa đông mà hoa để ngoài trời thì sẽ chết vì lạnh, Ta không sắp xếp ngươi làm thì ngươi không biết làm – đây là vấn đề gì? Đây chẳng phải là tê dại sao? (Thưa, phải.) Đây chính là tê dại. Chẳng hạn như, hôm nay trời nắng, áo quần được đem phơi ngoài sân cho khô, rồi có người nói: “Có vẻ buổi chiều sẽ có mưa, áo quần phơi ngoài sân có bị ướt không vậy?”. Lời này là có ý nhắc nhở một chút. Người có tư duy bình thường mà nghe xong lời đó thì sẽ ngẫm nghĩ: “Vậy mình phải chú ý một chút, khi nào trời âm u thì nhanh chóng đem cất áo quần đi”. Nhưng người không có tư duy của nhân tính bình thường thì không ý thức được chuyện này. Ngươi nói buổi chiều sẽ có mưa, họ nghe xong thì nghĩ bụng: “Nói câu này có ích gì chứ, chẳng liên quan gì đến mình. Mình ở trong nhà, mưa ngoài trời cũng đâu ướt đến mình. Còn nữa, trời muốn mưa, chẳng lẽ mình quản được à? Nói câu này với mình cũng vô ích!” Đơn giản là họ không nhận ra được tại sao người ta lại nói câu đó, nhắc chuyện đó với họ. Vậy nói thế nào thì họ mới biết? Phải nói với họ rằng: “Buổi chiều, tầm lúc mấy giờ, sẽ có mưa. Trước khi trời đổ mưa, anh thấy trời âm u thì nhanh cất áo quần đi. Anh mà không cất áo quần, để chúng bị ướt thì phải giặt lại đấy. Còn nữa, khi cất áo quần, thì nhìn xem trong sân có thứ gì sợ ẩm, sợ nước mưa, thì cũng cất luôn đi”. Ngươi phải dặn dò họ như vậy, nếu không dặn dò như vậy thì họ sẽ không nhận ra được là cần cất áo quần, cũng không nhận ra được cần cất những vật dụng sợ nước mưa khác, và họ sẽ không làm việc này. Tại sao vậy? Bởi vì họ quá tê dại, chẳng có tư duy của nhân tính bình thường, chẳng đạt đến tiêu chuẩn của nhân tính bình thường. Nghĩa là trí thông minh và tố chất của họ không đạt đến tiêu chuẩn của nhân tính bình thường. Loại người do động vật đầu thai chính là như vậy. Bảo họ làm một việc, thì Ta phải dặn dò mấy lần. Họ cũng đã làm việc đó mấy lần rồi, mà lần nào Ta cũng phải dặn dò, không dặn dò là họ sẽ không nhận ra được việc cần làm, cũng sẽ không làm được. Cho nên, lần nào gặp chuyện này thì ngươi đều phải dặn dò họ nên làm gì, làm thế nào, dặn dò họ từng bước trong trình tự thực hiện. Ngươi mà dặn thiếu một câu là họ sẽ không làm, thậm chí còn làm việc đó thành đống hỗn độn. Ngươi mà chỉ ra vấn đề của họ, thì họ sẽ nói cả đống lý lẽ lệch lạc, sẽ làm trò càn rỡ. Đây là biểu hiện của sự tê dại.

Đặc trưng tê dại của loại người do động vật đầu thai quá rõ ràng rồi. Chẳng hạn như, thông qua mối thông công về lẽ thật, họ hiểu được về mặt đạo lý cách phân định chuyện lãnh đạo hội thánh có làm công tác thực tế hay không, là lãnh đạo đạt tiêu chuẩn hay là lãnh đạo giả và kẻ địch lại Đấng Christ. Nhưng khi bảo họ phân định xem lãnh đạo hội thánh sở tại của mình là loại người gì, thì ngay cả khi đã thấy một vài biểu hiện của lãnh đạo hội thánh đó, họ cũng không biết nên phân định thế nào. Ngươi hỏi họ: “Lãnh đạo hội thánh các anh có làm công tác thực tế không?” thì họ trả lời: “Tôi thấy họ ngày nào cũng nhóm họp, rất tất bật lo liệu công chuyện, đã gửi sách cho các anh chị em, cũng đã nắm bắt về công tác rao truyền phúc âm rồi”. Ngươi hỏi tiếp: “Vậy họ làm công tác như thế nào? Họ có phải là người mưu cầu lẽ thật không?” thì họ trả lời: “Họ đã buông bỏ cả công việc lẫn gia đình. Cha mẹ đến thăm, mà họ bận làm bổn phận nên cũng chẳng có thời gian gặp mặt. Hẳn họ là người mưu cầu lẽ thật rồi”. Họ chỉ biết nhìn những biểu hiện bề ngoài này của lãnh đạo hội thánh, nhưng lãnh đạo này ở sau lưng người ta đã làm bao nhiêu việc ác, thì ngay cả khi nhìn thấy, họ cũng không phát hiện ra được đó là vấn đề, không biết đó là vấn đề. Bất kể trước mắt họ phát sinh bao nhiêu chuyện, có vẻ như họ chẳng thấy được gì, như thể họ chẳng sống trong nhân thế, mà đang sống ở một thế giới khác vậy. Chẳng phải dạng người này quá tê dại rồi sao? (Thưa, phải.) Đây chính là tê dại. Khi gặp phải người có công tác của tà linh, lúc nào cũng chú trọng mấy chuyện siêu nhiên, lúc nào cũng nói ra vài chuyện mình cảm giác được, lúc nào cũng nói những lời như: “Tôi nghe được âm thanh gì đó. Đức Chúa Trời đã khai sáng tôi, chỉ dẫn tôi, Đức Chúa Trời lại mặc khải gì đó trong tôi rồi”, thì họ sẽ cảm thấy: “Người ta thực sự yêu kính Đức Chúa Trời và được mặc khải cho. Sao mình chẳng được vậy nhỉ?”. Họ đơn giản không nhận ra được đó là công tác của tà linh. Mãi đến một ngày người đó phát điên, trước mặt mọi người mà lăn lộn ầm ĩ, cởi cả áo quần mà chạy rông trên đường, họ nhìn thấy cảnh đó thì mới biết đó là tà linh. Thực ra, trước khi phát điên, người đó đã có rất nhiều dấu hiệu rồi, căn cứ vào những biểu hiện này là đủ để xác định tính người đó có công tác của tà linh, và phải sớm bị xử lý bằng cách thanh trừ. Nhưng vì họ tê dại nên không thấy ra được, không nhận ra được dạng người này mà ở lại hội thánh thì sẽ gây ra hậu quả gì – như vậy chẳng phải sẽ dễ hình thành tai họa sao? Thậm chí có tà linh và ác quỷ đã đến mức độ làm tổn thương người khác, thế mà người tê dại cũng chẳng thấy ra người ta là thứ gì. Đã vậy họ còn cảm thấy người ta thực sự yêu kính Đức Chúa Trời, tràn đầy tinh thần, thường nửa đêm chưa ngủ để đọc lời Đức Chúa Trời và học thánh cả, mấy ngày không ăn không ngủ mà cũng chẳng thấy mệt. Rõ ràng đây là chuyện bất thường, thế mà họ lại nói đây là yêu kính Đức Chúa Trời – vậy chẳng phải là quá tê dại rồi sao? Người tê dại, một mặt không nhìn thấu sự việc, không biết nhìn xuyên qua hiện tượng bề ngoài để nhìn thấu thực chất vấn đề, như vậy thì rất khó để họ đạt đến việc xác định tính chất bất kỳ vấn đề nào một cách chính xác. Mặt khác, người tê dại không có phương thức tư duy bình thường hay năng lực nhận diện, do đó họ chẳng có tri giác gì về rất nhiều chuyện xảy ra quanh họ. Loại người này sinh sống ở nơi nào đó ba năm, năm năm rồi, ngươi mà hỏi họ: “Khí hậu ở nơi này có đặc trưng gì? Bốn mùa có đặc điểm gì? Chỗ này có thích hợp để người ta sống không?” thì họ chẳng trả lời được. Họ sẽ nói: “Đặc trưng khí hậu là gì vậy? Tôi chẳng hiểu. Đằng nào cứ đến tháng Tư thì hoa nở, đến tầm tháng Chín tháng Mười thì lá vàng, rồi bắt đầu rụng, đến mùa Đông thì có tuyết rơi”. Ngươi hỏi họ: “Vậy phong tục tập quán ở đây thế nào? Chế độ xã hội thế nào? Có hiện tượng kỳ thị chủng tộc không? Chính sách của chính phủ thế nào? Thái độ của họ đối với người từ nước ngoài đến thế nào?”, thì cái gì họ cũng không biết, trố mắt cứng lưỡi, chẳng nói ra được gì. Ngay cả chuyện quan trọng nhất, là chính phủ có thái độ thế nào đối với tôn giáo tín ngưỡng mà họ cũng không nói ra được gì, chỉ biết nói: “Đằng nào chúng tôi sống ở đây mà chính phủ cũng không kiếm chuyện”. Họ như tượng gỗ vậy, cái gì cũng chẳng biết, đây chính là quá tê dại rồi. Còn có một vài người nói rằng mình quá bận rộn làm bổn phận, chẳng có thời gian tổng kết những chuyện này, đây chẳng phải là viện cớ sao? (Thưa, phải.) Quá rõ ràng, đây là viện cớ. Những chuyện như vậy quá đơn giản, còn cần phải đặc biệt chú ý, ghi lại gì sao? Đâu cần. Nếu có tư duy của nhân tính bình thường, ngươi sống ở một nơi nào đó ba năm, thì về cơ bản đã nắm rõ gần như đầy đủ về đặc trưng khí hậu, phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt, môi trường về tín ngưỡng, chính sách của chính phủ và thái độ đối với người nước ngoài của chính phủ, đâu cần đặc biệt tìm hiểu, nắm bắt hay là thu thập những thông tin này, ngươi cứ vậy mà biết thôi. Hễ là người có tư duy của nhân tính bình thường thì rất tự nhiên sẽ có thể nắm bắt được những chuyện này. Nếu ngươi không nắm bắt được những vấn đề mà người bình thường đều có thể nắm bắt và thấy rõ, thì chuyện này cho thấy điều gì? Cho thấy ngươi không có tư duy và lý tính của nhân tính bình thường, không với tới tiêu chuẩn của nhân tính bình thường. Có một nguyên nhân căn bản dẫn đến chuyện loại người này không với tới nhân tính bình thường, chính là vì họ không phải do con người đầu thai, mà là do động vật đầu thai. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Nếu đặc trưng tê dại của ai đó quá rõ ràng, thì nó đã cho thấy quá rõ vấn đề rồi.

Từ những đặc trưng của loại người do động vật đầu thai mà chúng ta vừa mới thông công, các ngươi hiểu ra được gì? Các ngươi có phát hiện ra được một sự thật rằng nơi loại người này, hai đặc trưng lệch lạc và tê dại quá rõ ràng không? (Thưa, có.) Tại sao loại người này có hai biểu hiện này? Trong nhân tính của họ thiếu mất điều gì? (Thưa, tư duy bình thường.) Nói vậy là có chút xác đáng, nghĩa là họ không có trí thông minh của con người. Nhìn bề ngoài thì có vẻ loại người này có tố chất kém – kém đến mức nào? Họ vừa lệch lạc vừa tê dại, đối với một vài vấn đề mà nhân tính bình thường có thể thường xuyên đối diện và có thể giải quyết, xử lý một cách độc lập, thì họ đều với không tới và giải quyết không được, trông rất ấu trĩ, rất lố bịch, rất non nớt. Nghiêm trọng hơn nữa, có vài người không có năng lực sinh tồn độc lập, họ không nuôi sống nổi bản thân, khi ra ngoài làm việc hoặc làm bất kỳ công việc gì, họ đều không đảm đương nổi, họ đi đâu cũng bị ông chủ từ chối, không cần. Ngoài ra, điều chính yếu là, khi đối diện đủ mọi vấn đề tồn tại trong phạm vi cuộc sống của bản thân, chẳng hạn như những vấn đề thường gặp trong cuộc sống, thậm chí là một vài chuyện vặt vãnh, họ đều không xử lý tốt được. Họ xử lý một vài vấn đề đơn giản mà cũng chẳng ra gì, lúc nào cũng mù quáng tuân theo quy định. Cách thức và phương thức xử lý của họ đặc biệt ngu xuẩn và vụng về. Họ chẳng có phương thức và công cụ để xử lý thế sự của người trưởng thành. Như vậy thì quá rõ ràng là họ không có trí thông minh của con người. Chẳng hạn như, có người mắc bệnh gì đó, cơ thể luôn khó chịu, họ tra tìm thông tin thì thấy nói rằng đây có thể là bệnh nặng, bệnh nghiêm trọng, họ thấy vậy thì sợ chết khiếp, nhanh chóng đi bệnh viện để khám. Bác sĩ bảo: “Bệnh này nghiêm trọng rồi, xác suất tử vong đặc biệt cao. Nếu không điều trị, để nó phát triển thì sẽ chết. Phải phẫu thuật mới trị được, nếu không phẫu thuật thì cùng lắm sống thêm được ba tháng nữa thôi”. Họ nghe vậy thì hoảng hồn, chẳng biết nên làm gì, cũng chẳng khám lại để xác nhận chẩn đoán này, cứ vậy nghe lời bác sĩ mà quyết định phẫu thuật. Trước khi phẫu thuật, họ cũng chẳng hỏi xem cần chú ý những điều gì, liệu phẫu thuật xong thì có di chứng không – bản thân họ chẳng biết hỏi những chuyện này, cứ bị bác sĩ dọa đến mất hồn, cho nên họ ngoan ngoãn nghe lời bác sĩ mà phẫu thuật. Kết quả là phẫu thuật xong rồi, họ cứ thấy khó chịu chỗ này chỗ kia, uống thuốc cũng không có tác dụng. Sau đó, họ nghe được mấy người nói rằng loại bệnh này không cần phẫu thuật, không phải là bệnh nghiêm trọng, cứ tập thể dục và uống vài thứ thuốc thông thường là dần dần sẽ đỡ, sẽ không bị nặng thêm. Vì muốn kiếm tiền mà thỉnh thoảng bác sĩ sẽ nói mấy câu gây kinh hãi để hù dọa người ta. Bản thân họ chẳng có chủ ý, chẳng biết phán đoán, nghe bác sĩ nói vậy thì sợ đến mất mật, bác sĩ bảo phẫu thuật thì họ làm phẫu thuật luôn. Khi gặp chuyện như vậy, mà quanh họ có một vài người có chủ ý, có chủ kiến và có trí thông minh để giúp đỡ và kiểm định cho họ, thì họ sẽ có thể khỏi phải đi đường vòng, sẽ bớt được vài cái khổ. Còn nếu để họ độc lập xử lý những chuyện như thế này, nhất là chuyện trọng đại, thì họ không lệch trái, cũng lệch phải, không bị người ta lừa, cũng bị người ta hại, lúc nào họ cũng dùng cách cực đoan. Họ sẽ không biết dựa vào nguyên tắc hoặc dựa vào phương thức, phương pháp người ta thường dùng để xử lý loại chuyện này, mà đánh giá một cách toàn diện, rồi tìm ra một biện pháp hợp lý nhất và có lý tính nhất mà tiếp cận chuyện này. Ai cũng có thể lừa gạt và đùa bỡn họ, ai cũng có thể chi phối và mê hoặc họ. Có người nói: “Chẳng phải loại người này không có chủ kiến sao?” Thực ra đâu phải họ không có chủ kiến. Ngươi xem, lúc làm việc xấu hoặc nói lý luận ngụy biện, thì họ cũng có chủ ý của riêng mình. Ai nói lời đúng đắn gì, họ cũng không nghe, lời ai nói đúng, họ cũng không phục, họ cứ nói lý luận ngụy biện và lập luận phi lý của mình. Thế mà lúc trong cuộc sống thường nhật xuất hiện những chuyện thực sự cần dùng đến lý trí bình thường và tư duy bình thường để đối diện, đối đãi và xử lý một cách đúng đắn, thì họ không biết dùng phương thức hay trình tự gì để xử lý, không biết nên tiếp cận thế nào, chẳng có phương thức hay phương pháp gì, chẳng có chủ kiến gì. Cuối cùng, họ chỉ có thể thuận theo sự sắp đặt của người khác, người ta bảo họ làm thế nào thì họ làm thế ấy. Không có trí thông minh của nhân tính bình thường là đặc trưng của loại người do động vật đầu thai. Vậy tại sao họ có thể bám giữ những lý luận ngụy biện và lập luận phi lý, lại còn có thể nói ra, còn có thể đi rêu rao khắp nơi? Như vậy chứng tỏ về mặt trí thông minh, họ không biết phân định cái gì là lẽ thật, cái gì là lý lẽ sai lầm, cái gì là phù hợp với lý tính bình thường và cái gì không phù hợp với lý tính, họ không biết phân biệt những điều này, cho nên ngươi nói lý lẽ đúng thì họ cũng không tiếp nhận được, nghe mà không hiểu, cứ bám giữ những lý lẽ lệch lạc và lập luận phi lý của mình, còn cho rằng đó là lý lẽ đúng đắn. Bất kỳ ai nói bằng bất kỳ phương thức nào, nói có phương pháp tốt đến đâu, có sự khôn ngoan đến đâu, họ đều nghe không lọt tai, nghe mà không hiểu – vậy thì họ tiêu tùng rồi, vậy là họ không có trí thông minh của nhân tính bình thường. Ngay cả về những chuyện bình thường nhất trong cuộc sống thường nhật, ngươi nói đạo lý với họ cũng không thông, họ vẫn cứ muốn bám giữ lý luận phi lý của mình. Người khác nhìn vào thì cảm thấy: “Tại sao người này kỳ quái vậy? Tại sao lại bất chấp lý lẽ vậy? Người này có vẻ bị bệnh thần kinh, trông như người chưa trưởng thành. Tại sao lúc nào họ cũng nói những lời như con nít vậy?”. Nhưng tuổi của họ đâu còn nhỏ, năm 50, 60 tuổi họ như vậy, đến năm 70, 80 tuổi, họ vẫn vậy. Cả đời, họ là người có trí thông minh bất toàn, cả đời, họ chẳng có tư duy của nhân tính bình thường và trí thông minh của người bình thường. Đây chính là đặc trưng của loại người là động vật đầu thai. Đặc trưng này có rõ ràng không? (Thưa, rõ ràng.) Chẳng hạn như, có người phụ nữ ngốc nghếch mà có chút nhan sắc, sau khi bị tên lưu manh dụ dỗ thì dọn về chung sống với hắn. Tên lưu manh này toàn ra ngoài trêu hoa ghẹo nguyệt, cô ta phát hiện ra mà cũng chẳng nổi giận, dù gì, chỉ cần tên lưu manh này đối tốt với cô ta là được. Sau đó, tên lưu manh này lại giở trò lưu manh với người khác, cô ta biết chuyện mà cũng chẳng đặt nặng, còn một lòng một dạ đi theo tên lưu manh, thậm chí còn nói: “Chỉ cần anh ấy không bỏ tôi là được”. Có người khuyên cô ta rằng: “Anh ta đã tệ như vậy rồi, cô đừng ở với anh ta nữa”, thì cô ta nói: “Không được, tôi không rời xa anh ấy đâu. Anh ấy yêu tôi, tôi thích anh ấy!” Dạng người này ở với tên lưu manh và chịu khổ cả đời là đáng, cô ta chẳng biết phân định người tốt là gì, người đứng đắn là gì. Cô ta đến với một tên lưu manh mà còn cho rằng người ta yêu mình. Tên lưu manh nói với cô ta mấy lời dễ nghe, mua cho chút đồ ăn ngon là đã dỗ dành và lừa được cô ta rồi. Anh ta đùa bỡn cô ta kiểu gì cũng được. Anh ta đi trêu hoa ghẹo nguyệt sau lưng cô ta, khi bị cô ta phát hiện thì chỉ cần nói dăm ba câu là đã qua chuyện, là đã lừa được cô ta rồi, chỉ là cô ta chẳng nhìn thấu được. Cuối cùng, anh ta chiếm hết tài sản và nhà cửa của cô ta, rồi đá cô ta đi. Cô ta chửi anh ta vô lương tâm, chứ chẳng nói rằng bản thân mình nhìn người không thấu nên bị người ta lừa. Tại sao tên lưu manh đó không lừa người khác mà lại đi lừa cô ta chứ? Chẳng phải vì cô ta ngu ngốc sao? Đặc trưng chính của loại người này, ngoài việc lĩnh hội và tiếp cận bất kỳ chuyện gì cũng cố chấp và lố bịch ra, thì có một đặc trưng nữa, chính là không có trí thông minh của nhân tính bình thường. Vì vậy mới nói họ do động vật đầu thai. Bởi vì họ là động vật, nên họ không có trí thông minh của con người. Chuyện họ không có trí thông minh của con người là đủ để chứng tỏ thực chất bên trong họ không phải là thực chất của con người. Do đó, họ không ứng phó được những chuyện của con người, không xử lý và giải quyết được những vấn đề mà người bình thường nên xử lý và giải quyết được. Ngay cả đối với cuộc sống thường nhật – như ba bữa một ngày, chuyện ăn, mặc, ở và đi lại, quan hệ giao tiếp và hoàn cảnh xung quanh – họ cũng rất tê dại. Hơn nữa, khi gặp phải một vài chuyện cần họ đối diện và xử lý, thì họ chẳng có trí thông minh của con người bình thường, đương nhiên sự khôn ngoan thì càng khỏi nói đến. Lúc đối diện những vấn đề này, thì họ xử lý rất vất vả, rất mệt nhọc, lại còn rất vụng về. Thấy họ tuổi tác đã cao, sống đã lâu lắm rồi, sao lại có thể xử lý chuyện này như vậy chứ? Nghe lời họ nói, sao lại đáng ghê tởm, lại kỳ quặc như vậy chứ? Sao lại chẳng giống con người bình thường vậy? Họ sống trên đời lâu lắm rồi, đã trải nghiệm không ít chuyện, sao khi xử lý chuyện đơn giản như thế, họ lại có thể có thể có biểu hiện như vậy? Ngay cả ranh giới tối thiểu của nhân tính hoặc nguyên tắc cơ bản nhất mà con người nên có, thì họ đều không có.

Ngoài hai đặc trưng là lĩnh hội lệch lạc và tê dại ra, loại người do động vật đầu thai còn có một đặc trưng nữa, đó là đặc biệt hồ đồ. Trước đây, khi thông công về lẽ thật, chúng ta chỉ nói về khuôn khổ tổng thể và đường hướng tổng thể, tương đối chung chung. Về chi tiết đủ mọi mặt của lẽ thật, chúng ta chỉ nói về những tuyên bố và nội dung mang tính khái niệm, chứ không thông công cụ thể. Thông qua những mối thông công trong mấy năm qua, các phương diện lẽ thật khác nhau cũng đã được thông công cụ thể và chi tiết rồi. Nhưng đối với loại người do động vật đầu thai, khi nghe những lời được thông công hiện nay thì họ thấy chúng cũng gần như tương đồng với những lời được thông công trước đây, chỉ là cách nói có thay đổi một chút, nội dung phong phú hơn một chút, số lượng mối thông công cũng nhiều hơn hẳn trước đây. Nhưng họ nghe lui nghe tới, sao lại thấy càng nghe càng hồ đồ vậy? Họ nghe giảng đạo nhiều năm như vậy rồi mà chẳng có được thành quả gì. Về cách làm người, cách đối đãi với người khác, cách nhận biết bản thân, cách trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời để đạt đến nhận biết Ngài, nhất là cách đối đãi với Đức Chúa Trời và lời Đức Chúa Trời, thì từ đầu họ đã không rõ, đến hiện tại vẫn cứ không rõ. Đây không phải là mù mờ nhẹ đâu, mà là mù mờ nặng. Nghĩa là dù có nói về các phương diện lẽ thật khác nhau cụ thể đến đâu, thì họ đều nhập hết làm một. Cái họ nắm bắt được chỉ là một vài khẩu hiệu và đạo lý như: “Phải dâng mình cho Đức Chúa Trời, trung thành với Đức Chúa Trời, phải làm bổn phận cho đàng hoàng”. Họ giữ chặt một vài quy định, khẩu hiệu và lý luận, rồi lấy chúng thay thế cho việc thực hành lẽ thật. Ngươi thông công càng cụ thể thì họ càng hoang mang, càng cảm thấy mình với không tới, cảm thấy thông công đơn giản như trước đây còn hơn. Hơn nữa, giảng càng chi tiết, thì họ càng gặp khó khăn: “Giảng chi tiết như vậy thì làm sao mà ghi nhớ được? Lúc trước việc thực hành vốn đơn giản lắm, tại sao bây giờ càng thông công thì càng nhiều tuyên bố vậy? Tại sao càng nói nhiều, thì mình lại càng không biết cách thực hành vậy? Lúc trước, việc làm bổn phận đơn giản lắm, chỉ là từ bỏ, dâng mình, bôn ba, rao truyền phúc âm nhiều hơn, làm chứng cho Đức Chúa Trời nhiều hơn. Bây giờ lẽ thật về phương diện làm bổn phận cũng được giảng chi tiết rồi, các phương diện lẽ thật cũng được giảng chi tiết rồi, nhưng càng giảng thì mình càng nghe không hiểu, với không tới”. Càng giảng chi tiết thì họ càng với không tới, vậy chẳng phải là hồ đồ sao? Họ hồ đồ không nhẹ đâu, phải không? Mặc dù các phương diện lẽ thật đã được giảng chi tiết rồi, nhưng đối với một vài từ mang tính khái niệm và định nghĩa, thì họ vẫn không rõ, từ đầu đến cuối đều mù mờ. Chẳng hạn như, về chuyện kẻ ác là gì và lãnh đạo giả là gì thì họ đều không biết và không nhìn thấu, về chuyện nhân tính tốt và nhân tính xấu là gì thì họ cũng không biết, về chuyện giữa thực hành nguyên tắc lẽ thật với tuân thủ quy định có những khác biệt nào thì họ cũng không biết – đối với họ, những vấn đề cụ thể này là một mớ hỗn độn. Họ chẳng hiểu gì về những điều mang tính khái niệm, tư duy họ thì hỗn loạn. Hơn nữa, khi làm bất kỳ việc gì, họ cũng không tìm được nguyên tắc, chẳng có trình tự, chẳng có phương án cụ thể, chẳng biết nên dùng phương thức gì và nên đạt được kết quả gì. Đối với chuyện làm như thế nào thì sẽ đem lại hậu quả gì, họ cũng chẳng thấy rõ. Trong lòng họ nghĩ: “Quản mấy chuyện đó làm gì chứ? Không biết thì cứ nhắm mắt mà làm, đằng nào chỉ cần thật lòng với Đức Chúa Trời là được rồi”. Ngươi xem, dạng người này hồ đồ khủng khiếp, phải vậy không? Họ tin Đức Chúa Trời nhiều năm rồi mà chẳng biết mình đã hiểu được phương diện lẽ thật nào, cũng chẳng biết mình có thực hành lẽ thật hay không. Ngươi hỏi xem họ có lối vào sự sống hay không, thì họ trả lời: “Đằng nào tôi cũng đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm, cũng đã từ bỏ cả gia đình”. Họ lúc nào cũng chẳng rõ lắm về những chuyện này, như vậy là hồ đồ không nhẹ đâu. Khi ca hát nhảy múa lúc nhóm họp, thì họ hăng hái lắm, nhưng khi nghe giảng đạo và thông công về lẽ thật, thì họ lại buồn ngủ, con sâu ngủ lại bò đến, có khi họ có thể ngủ luôn. Nói đến chuyện làm việc, thì họ sẵn lòng dốc sức, nói rằng: “Chúng ta hãy làm tốt bổn phận, dâng lòng trung thành lên Đức Chúa Trời!” Nhưng đến lúc thông công lẽ thật, mà có người hỏi họ: “Trong thời gian qua, anh có thu hoạch gì không? Có nhận biết được bản thân đã bộc lộ tâm tính bại hoại nào không? Nhận biết rồi thì anh có con đường để giải quyết không?”. Thì họ nói: “Ai mà biết. Tôi có nhận biết được một chút, nhưng cũng chẳng biết có đúng hay không. Đằng nào, tôi cũng cứ vậy mà thực hành, nhưng chẳng biết có chính xác hay không”. Họ chẳng nhìn thấu được chuyện gì, tâm tư thì mù mờ, chẳng rõ ràng, bản thân mình giỏi cái gì cũng không biết, bản thân thiếu sót cái gì cũng không biết. Khi thông công về chuyện nhận biết tâm tính bại hoại, thì họ cũng thừa nhận bản thân có tâm tính bại hoại, bản thân cũng có nói dối, có lúc còn lươn lẹo trốn việc. Nhưng khi gặp chuyện thực tế, mà có người hỏi họ: “Tại sao anh lại lươn lẹo trốn việc? Tại sao anh lại bày trò lừa bịp?” thì họ trả lời: “Tôi đâu có như vậy. Tôi không cố ý mà. Tôi thấy làm thế nào thích hợp thì làm thế ấy thôi”. Nếu có người vạch trần họ: “Anh cho rằng làm như vậy là thích hợp, nhưng trong anh có ý định cá nhân, có mưu tính gì không? Anh có biết cách phản tỉnh bản thân không? Anh có biết làm như vậy sẽ gây nên hậu quả gì không?” thì họ nói: “Tôi không có ý định xấu là được”. Người ta hỏi tiếp: “Anh không có ý định xấu thì đồng nghĩa với việc anh làm là phù hợp nguyên tắc lẽ thật sao?” thì họ đáp: “Tôi không biết”. Cái gì họ cũng không biết. Nghe nhiều lẽ thật như vậy rồi, nghe nhiều mối thông công như vậy rồi, trong cuộc sống thường nhật cũng đã tiếp xúc với đủ mọi loại vấn đề có liên quan đến lẽ thật, thế mà đối với mỗi một lẽ thật, họ vẫn không rõ ràng, thấu tỏ. Họ không nói rõ được cái nào là lẽ thật và cái nào không phải là lẽ thật, cũng chẳng biết khi gặp chuyện thì nên thực hành lẽ thật thế nào. Họ chẳng rõ mọi hành động và hành vi của mình có phù hợp với nguyên tắc lẽ thật không, bản thân họ thấy làm thế nào tốt thì họ cứ làm thế ấy. Vậy chẳng phải là hồ đồ sao? (Thưa, phải.) Họ làm bất kỳ việc gì cũng chẳng có nguyên tắc, đối đãi với bất kỳ người nào cũng chẳng có nguyên tắc. Chẳng hạn như chuyện đối đãi với kẻ ác: Có những kẻ ác có sở trường hoặc kỹ thuật chuyên nghiệp nào đó, hiện tại những người này vẫn còn có thể phục vụ thì có thể để cho họ phục vụ. Nhưng có những người nghĩ không thông được chuyện này, cho rằng: “Chẳng phải Đức Chúa Trời không thích kẻ ác sao? Vậy tại sao còn dùng họ?”. Ngươi thông công cho họ biết đó là sự khôn ngoan, cũng là một nguyên tắc, thì họ ngẫm nghĩ: “Nguyên tắc gì chứ? Đây chẳng phải là lừa người sao? Đây chẳng phải là lợi dụng người sao?”. Họ lĩnh hội như vậy đấy. Ngươi nói xem, họ có tư duy của nhân tính bình thường không? Họ không biết dựa vào tình hình thực tế mà nhận diện nguyên tắc hành động, như vậy thì họ có thể với tới trí thông minh của người bình thường không? (Thưa, không.) Người có tư duy của nhân tính bình thường và có trí thông minh bình thường, thì đều có thể hiểu và lý giải chuyện này, nhưng loại người do động vật đầu thai thì một chút chuyện này cũng không lý giải được. Vậy làm sao họ có thể hiểu lẽ thật chứ? Một câu họ thường xuyên nói ra chính là: “Lần trước, về chuyện này, anh nói như vậy? Hôm nay, sao anh lại nói khác đi? Lời anh nói cũng không chuẩn, sao lại thay đổi tùy lúc như vậy chứ?”. Họ không biết trạng thái của sự tình đã phát triển khác đi rồi, nên phương án xử lý cũng phải có thay đổi, nhưng nguyên tắc và mục tiêu thì không thay đổi, chỉ là phương thức xử lý đã thay đổi, là liệu cơm gắp mắm, dựa vào trạng thái phát triển của sự tình mà ứng biến và ứng phó tùy thời điểm, để đạt đến hiệu quả cao hơn nữa. Loại người do động vật đầu thai mà gặp phải loại chuyện như vậy thì sẽ không nhìn thấu được. Họ cho rằng nguyên tắc lẽ thật là quy định, trong bất kỳ thời điểm nào cũng phải giữ vững, không thể thay đổi. Do đó, khi ngươi dựa theo nguyên tắc lẽ thật mà thay đổi phương thức hành động, thì họ sẽ không lý giải được, không hiểu được, và không tiếp nhận được, có người còn kết tội và lấy đó mà nắm thóp ngươi. Bên trong họ không thể thấy được rõ ràng thực chất hay tính chất của bất kỳ sự vật nào. Suy nghĩ của họ mù mờ, nhìn nhận cái gì cũng nhất nhất áp dụng quy định, không bao giờ biết dựa vào nguyên tắc lẽ thật mà đánh giá, cũng không bao giờ biết dựa vào quy luật phát triển của sự vật mà áp dụng những phương thức khác nhau hầu giải quyết và ứng phó. Chuyện loại người do động vật đầu thai có đặc trưng hồ đồ này đã quá rõ ràng rồi, phải không? (Thưa, phải.)

Loại người do động vật đầu thai thì không biết phân định người khác. Lúc gặp những người nói năng rất trung thực nhưng khi hành động lại có phần quỷ dị, thì họ không nhìn thấu được người này rốt cuộc là loại người nào, rốt cuộc có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không. Khi gặp tình huống phức tạp cần suy nghĩ biện chứng thì họ hoang mang, không nói rõ được, và không biết làm thế nào để đánh giá. Tư duy của họ mù mờ, giống như một mớ rối rắm hỗn độn, chẳng bao giờ lần ra manh mối. Ngươi nói nguyên tắc cho họ bao nhiêu lần, thì họ cũng chẳng biết vận dụng nguyên tắc lẽ thật để phân định các loại con người, sự việc và sự vật. Chẳng hạn như, về chuyện phản ánh vấn đề, họ sẽ không thể dựa vào tình hình mà phản ánh cho chính xác. Có vài lãnh đạo có thể làm chút công tác thực tế, chỉ là trong những tình huống cá biệt, họ có những sai lệch trong công tác hoặc có những sự bộc lộ tâm tính bại hoại, nhưng xét từ nhân tính và năng lực công tác thì về cơ bản những lãnh đạo này đạt tiêu chuẩn. Nhưng những người hồ đồ thì không nhìn vào mặt có thể làm công tác thực tế và mặt ưu điểm trong nhân tính của các lãnh đạo này, mà chuyên môn bới móc một vài khiếm khuyết và khuyết điểm, một vài vấn đề nhỏ nhặt, vặt vãnh của người ta mà phản ánh. Ngược lại, những kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác đích thực, cùng những người làm việc đại ác thì không làm được công tác thực tế, chỉ biết giảng câu chữ và đạo lý để mê hoặc người khác, nhìn bề ngoài thì khí chất họ rất cao, nhưng thực tế thì nhân tính của loại người này không đạt tiêu chuẩn, con đường họ chọn cũng đều sai lầm, nhân tính của họ là của kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ, con đường họ đi là con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, chứ không phải con đường mưu cầu lẽ thật – nhưng loại người hồ đồ lại nhìn không thấu chuyện này. Họ thấy những người này khi làm công tác thì bề ngoài thanh thế rất lớn, nên cho rằng những người này có tài lãnh đạo và năng lực tổ chức, có thể làm tốt công tác. Còn về chuyện những người này làm công tác đem lại kết quả thế nào, có sự hối cải và thay đổi không, nhân tính có đạt tiêu chuẩn không, thì họ không biết. Ngay cả khi kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và khống chế họ rồi, mà họ cũng chẳng ý thức được gì. Họ sẽ đi theo và thuận phục kẻ địch lại Đấng Christ, mà vẫn cho rằng mình đang đi theo Đức Chúa Trời, đang rao truyền phúc âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời. Thực ra, kẻ địch lại Đấng Christ đã khống chế họ từ lâu, họ đâu có tin Đức Chúa Trời, thay vào đó họ đang đi theo con người, đi theo ma quỷ và Sa-tan – thế mà họ lại chẳng biết gì. Bên trong họ từ lâu đã tăm tối, từ lâu đã không có Đức Chúa Trời ở cùng, từ lâu đã không có công tác của Đức Thánh Linh rồi. Bởi vì họ quá tê dại, lĩnh hội lệch lạc, và không hiểu bất kỳ nguyên tắc lẽ thật nào, cho nên họ không nhìn thấu được chuyện và không biết phân định người khác. Họ chẳng những không phản ánh vấn đề hay bãi miễn kẻ địch lại Đấng Christ, mà còn có thể bảo vệ kẻ địch lại Đấng Christ. Ngược lại, đối với những lãnh đạo và người làm công thực sự có thể làm được chút công tác thực tế, thì hễ thấy ra một chút khuyết điểm nhỏ, vấn đề nhỏ, vấn đề không mang tính nguyên tắc, thì họ đều muốn phản ánh, muốn nêu ra. Như vậy là hồ đồ không nhẹ đâu! Bất kỳ vấn đề mang tính nguyên tắc nào, họ đều nhìn không thấu – ngay cả chuyện nên qua lại với những người nào trong cuộc sống thường nhật, có thể đạt được sự giúp đỡ và ích lợi từ những người nào, nên tránh xa những người nào, thì họ đều không biết phân định và không thể nhìn thấu. Có những người qua lại rất thân với kẻ chẳng tin và người ngoại đạo, họ cảm thấy những người này có tri thức, có tố chất, có thể giúp đỡ họ, và rất đáng để qua lại. Họ còn thường xuyên khen ngợi những người mà họ sùng bái, nói rằng những người này có bản lĩnh, có danh vọng đến thế nào. Họ thờ cúng những thứ ma quỷ này như thần tượng, vậy chẳng phải là hồ đồ sao? (Thưa, phải.)

Hồ đồ cụ thể nói đến điều gì? (Thưa, nói đến tố chất kém.) Tố chất kém là cách nói chung chung, nói cụ thể thì hồ đồ nghĩa là người đó không có tư tưởng và quan điểm chính xác để phân định bất kỳ sự việc nào, không có nguyên tắc hay căn cứ gì để nhìn nhận bất kỳ sự việc nào, cách nhìn nhận của họ thì mù mờ. Một mặt là vậy. Ngoài ra, loại người này không biết phân biệt phải trái, đúng sai, thường xem điều tiêu cực là điều tích cực, đem điều tích cực nói thành điều tiêu cực. Họ chẳng nói rõ được điều gì là tích cực và điều gì là tiêu cực. Chẳng hạn như, có người nói: “Đức chúa trời mà các anh tin là một con người”, thì họ ngẫm nghĩ và nói: “Không đúng. Đấng mà tôi tin là đức chúa trời. Nếu là con người, thì làm sao bày tỏ lẽ thật được? Đấng mà tôi tin là đức chúa trời, chuyện này tôi chắc chắn mà”. Chút chuyện này thì họ không hồ đồ. Nhưng khi có người nói: “Đức chúa trời mà các anh tin đã ôm tiền bỏ trốn, đã trốn sang nước Mỹ để hưởng thụ cuộc sống rồi”, họ nghe xong thì hoang mang và bị mê hoặc. Người có trí thông minh mà nghe lời đó thì sẽ phân định được đó là tin đồn. Sao có thể gọi đây là “ôm tiền bỏ trốn” chứ? Lúc qua hải quan, ai cũng bị kiểm tra nghiêm ngặt, mỗi người chỉ có thể đem số lượng tiền mặt theo quy định – đem chút tiền đó mà cũng tính là “ôm tiền bỏ trốn” sao? Hơn nữa, tiền đó là của ai? Nếu đó là tiền do tham ô và cướp đoạt của người khác thì bị gọi là “ôm tiền bỏ trốn”, nếu đó là tiền của bản thân mình thì làm sao bị gọi là “ôm tiền bỏ trốn” được? Đây không phải là “ôm tiền”, mà là cầm theo một cách bình thường. Một mặt là vậy. Mặt khác, “bỏ trốn” là gì chứ? Tội phạm bị truy nã chạy trốn thì mới gọi là “bỏ trốn”. Nhưng Đấng Christ nhập thể có phạm pháp gì sao? Ngài chỉ bày tỏ nhiều lẽ thật và thực hiện công tác phán xét ở Trung Quốc, thu phục được một nhóm người đi theo Ngài, vì vậy mà Ngài bị Trung Cộng trấn áp tàn khốc và điên cuồng bắt bớ, cuối cùng, Ngài chỉ có thể chọn cách dẫn dắt một số người xuất ngoại để tiếp tục làm công tác của Đức Chúa Trời ở nước ngoài. Như vậy sao có thể bị gọi là “ôm tiền bỏ trốn” chứ? Đây là một chuyến đi bình thường, đi qua hải quan, lên máy bay đi đến nước Mỹ một cách hoàn toàn bình thường. Ngài xuất ngoại là vì bị Trung Cộng truy bắt, không có chỗ gối đầu, không có chỗ an thân. Ở dưới sự thống trị độc tài của Trung Cộng, thì đâu chỉ không có tự do tín ngưỡng, mà khi người ta tin Đức Chúa Trời thì còn bị bắt bớ và bách hại; riêng Đấng Christ bày tỏ lẽ thật để cứu rỗi nhân loại, mà bị chúng bắt được thì còn bị xử tử hình, bị đóng đinh trên thập tự giá. Vì nhu cầu của công tác, nên Đấng Christ mới chọn đi đến một nước tự do dân chủ, Ngài cũng lấy hộ chiếu và thị thực để đến Mỹ thông qua những kênh thông thường. Ở nước Mỹ, Ngài chẳng có bà con hay bạn bè gì, chẳng quen với nơi này, sống một cuộc đời bình thường, ăn uống toàn là những bữa cơm gia đình bình thường, chẳng có gì là hưởng thụ cuộc sống cả. Nói “hưởng thụ cuộc sống” chẳng phải là cách dùng từ của những người có dụng tâm sao? Nói như vậy chẳng phải là nói dối sao? Ở nước Mỹ, Đấng Christ sống cuộc sống của người bình thường, ăn những bữa cơm gia đình bình thường, chẳng bao giờ đến nhà hàng cao cấp để ăn những món mỹ vị, càng không ở những khách sạn cao cấp, cũng rất ít khi đi du lịch, chỉ đi lại lui tới trong vùng phụ cận là đủ rồi, Ngài chẳng đặt nặng mấy chuyện đó. Có những người mê ăn, những món nào chưa ăn thì đều muốn nếm thử, thậm chí còn đặt đồ ăn vận chuyển bằng máy bay để ăn. Ta có bao giờ làm vậy không? Chưa bao giờ. Thế mà những người có dụng tâm lại bịa đặt về chuyện này! Những người này là ma quỷ, từ lúc sinh ra, họ đã đối địch với Đức Chúa Trời, họ làm việc này là vì bẩm tính của mình, họ chủ yếu dùng cách nói dối để lừa bịp người khác và bôi nhọ Đức Chúa Trời. Chắc chắn họ là ma quỷ. Vậy người có thể tin lời dối trá của ma quỷ thì là loại người gì? Đương nhiên chắc chắn họ cũng là ma quỷ, chỉ có ma quỷ mới có thể tin lời của ma quỷ. Có người nói: “Đấng christ mà các anh tin đã ôm tiền bỏ trốn rồi”, thì họ liền tin và tiếp nhận hoàn toàn. Có người nói: “Đấng christ mà các anh tin đã trốn sang nước Mỹ để hưởng thụ cuộc sống rồi. Sơn hào hải vị thì ăn đến phát ngán, toàn ở khách sạn sang trọng, toàn đi lại bằng xe sang, có đầu bếp riêng, người hầu riêng, còn ra nước ngoài du ngoạn các danh lam thắng cảnh – toàn hưởng thụ cuộc sống thôi”. Những người hồ đồ này bị Sa-tan tẩy não một lần là liền tin ngay. Ta nói cho mà nghe, loại người này phải bị giao cho Sa-tan, họ không xứng tin Đức Chúa Trời. Họ nghe bao nhiêu bài giảng đạo cũng không hiểu, còn có thể tin những tin đồn này, người như vậy thì không phải là người nữa rồi. Không phải là người thì họ là gì? Là động vật. Mặc dù họ không phải kẻ ác, nhưng họ hồ đồ không nhẹ, chẳng biết phân biết tốt xấu, chính tà, thị phi, chẳng phân rõ được lẽ thật và lý luận phi lý. Dạng người này nên bị thanh lọc đi, bản thân họ không tự đi, thì cũng phải thanh lọc họ đi, nhanh đuổi họ đi, chúng ta vui vẻ tiễn họ lên đường. Trung Cộng có cách nói của họ về người bị hội thánh thanh trừ, họ nói rằng việc thanh trừ và khai trừ người ta là đang phô bày thực lực. Ngươi xem, ma quỷ và Sa-tan lý giải chuyện gì cũng lố bịch như vậy đấy. Như vậy lộ rõ rằng có rất nhiều việc làm của Trung Cộng là để phô bày thực lực, vì vậy nó cũng nói rằng hội thánh thanh lọc người ta là đang phô bày thực lực, nó cho rằng lối nghĩ của người khác cũng giống nó. Nó sẽ chẳng bao giờ hiểu được rằng hội thánh làm như vậy là hoàn toàn dựa trên lẽ thật và lời Đức Chúa Trời – việc thanh lọc hội thánh là một phần trong các sắc lệnh quản trị của hội thánh. Chẳng phải ma quỷ tà ác sao? (Thưa, phải.) Ma quỷ đúng là tà ác! Mà người hồ đồ cũng đông lắm, bất kể ma quỷ có tà ác đến đâu, họ cũng chẳng thấy ra ma quỷ là tà ác. Ma quỷ bịa đặt tin đồn về Đức Chúa Trời, lăng nhục Đức Chúa Trời, báng bổ Đức Chúa Trời, thì họ đều tin. Còn lời Đức Chúa Trời phán có chân thật đến đâu, tích cực đến đâu, họ đều không tin. Lời Đức Chúa Trời ban cho con người bao nhiêu lợi ích, thì họ chẳng thấy được. Thế mà Sa-tan nói một câu là đã mê hoặc được họ, đã khiến họ tin một cách chắc chắn lắm rồi. Có thể nói, họ thuộc chủng loại của Sa-tan, nhưng Sa-tan lại thực sự không cần họ. Tại sao vậy? Thứ ngu ngốc như họ, thứ ngu xuẩn như họ, thì cũng bị Sa-tan khinh là ngu ngốc. Ngươi chẳng làm được việc gì cả, Sa-tan mê hoặc ngươi đến mức không tin Đức Chúa Trời và phản bội Đức Chúa Trời là xong việc, chứ nó đâu cần ngươi. Ngươi có thể làm được gì chứ? Bảo ngươi làm đặc vụ hoạt động, ngươi có bản lĩnh đó sao? Ngay cả trí thông minh của con người mà ngươi còn không có, nói chưa được ba câu thì đã để lộ thân phận mình rồi. Ngươi muốn làm đặc vụ hay gián điệp cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, thì nó đều không cần. Bởi vì ngươi ngu ngốc, hồ đồ và quá dễ bị lừa, ngươi chẳng có trí thông minh của con người, Sa-tan xem thường ngươi, đâu muốn ngươi. Cho nên, nhà Đức Chúa Trời để ngươi làm bổn phận là Đức Chúa Trời đang nâng cao ngươi rồi, ngươi đừng cảm thấy ấm ức. Sa-tan nói gì thì ngươi đều tin, còn Đức Chúa Trời làm bao nhiêu công tác hay phán bao nhiêu lời, thì ngươi đều không tin. Ngươi chẳng có đức tin chân thật nơi Đức Chúa Trời, vẫn cứ nghi nghi hoặc hoặc. Sa-tan nói một câu là đã bắt được ngươi đi rồi. Ngươi nói xem, ngươi là thứ gì vậy? Ngươi có tôn nghiêm gì không, có giá trị gì không? Ngươi chỉ là một kẻ hồ đồ, lại còn cảm thấy bản thân không tệ, cảm thấy bản thân tôn quý. Sa-tan nói dối rõ ràng đến vậy mà ngươi chẳng hề phân định được, chẳng hề nghe ra được mục đích của Sa-tan là gì – vậy chẳng phải là quá hồ đồ rồi sao? Đảng Cộng sản Trung Quốc nói: “Đấng christ mà các anh tin đã ôm tiền bỏ trốn rồi, đang ở nước Mỹ hưởng thụ cuộc sống”. Loại người hồ đồ này nghe vậy thì tim bỗng lỡ một nhịp: “Còn có chuyện này sao? Thế mà mình chẳng biết gì! Số tiền mình dâng hiến chẳng phải đều bị ngài ôm đi rồi sao? Số tiền đó đâu được dùng cho công tác của hội thánh, phải vậy không? Chúng bị ngài hưởng dùng riêng rồi, chẳng phải sao? Chẳng phải chúng bị ngài dùng để mua đồ ăn ngon, áo quần đẹp, mua vàng bạc, châu báu rồi sao? Mình còn chẳng được hưởng thụ gì, mình dâng hiến lên, để ngài hưởng thụ cả rồi. Mình không chấp nhận được, mình không tin nữa. Mình phải đi đòi lại tiền!” Ngươi hối hận vì đã dâng hiến tiền thì nhà Đức Chúa Trời có thể trả lại cho ngươi, nhưng như vậy thì từ đây, ngươi và nhà Đức Chúa Trời đoạn tuyệt quan hệ. Nghe giảng đạo bao năm nay, ngươi đạt được bao nhiêu lẽ thật miễn phí rồi? Ngươi hưởng thụ ân điển, phúc lành, sự bảo vệ và chăm sóc của Đức Chúa Trời bao năm nay, mà đã bỏ ra xu nào chưa? Đức Chúa Trời có đòi tiền của ngươi chưa? Ân điển, phúc lành, sự chăm sóc và bảo vệ của Đức Chúa Trời, bao gồm cả cái mạng của ngươi, đều là những thứ mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi – ngươi có thể dùng tiền mua những điều này sao? Ngươi dùng cái gì mà đổi lấy chứ? Mấy đồng tiền thối của ngươi có thể đổi lấy sao? Những điều này là báu vật vô giá, ngươi không đổi lấy được, không một ai có thể đổi lấy được! Chúng là do Đức Chúa Trời sẵn lòng ban cho ngươi, là Đức Chúa Trời ân đãi ngươi, xem ngươi là loài thọ tạo mà ban cho ngươi, chứ đâu phải ngươi chi tiền mua về, cũng đâu phải ngươi trả giá để đổi lấy. Người hồ đồ chẳng nhìn thấu được những chuyện này. Trong lòng họ lúc nào cũng là một mớ hỗn độn, luôn cảm thấy: “Có phải đức chúa trời còn có bí mật gì đó không thể nói ra? Ngoài việc giảng đạo ra, chẳng phải ngài còn rất nhiều chuyện nên nói rõ ràng, thấu tỏ cho chúng ta sao? Chẳng phải cần có lời giải thích và trình bày sao? Chẳng phải cuộc sống riêng tư và lời nói việc làm của ngài sau lưng mọi người cần phải được công khai hết sao?”. Có nhiều người hồ đồ có tâm lý như vậy – ngoài miệng họ không nói ra, nhưng trong lòng họ nghĩ như vậy. Việc Đức Chúa Trời làm đều phải công khai với nhân loại bại hoại sao? Đức Chúa Trời bày tỏ nhiều lẽ thật đến vậy, đây chính là sự công khai tốt nhất rồi – nó tỏ lộ hết thảy mọi người. Ngươi không tin việc Đức Chúa Trời làm đều là lẽ thật, vậy thì ngươi chẳng có nhận thức gì về Ngài. Ngươi tùy ý bình luận về Đức Chúa Trời nghĩa là ngươi công kích và chống đối Ngài rồi. Đức Chúa Trời công khai hết thảy lẽ thật là để khiến cho con người dựa vào lẽ thật mà nhìn nhận sự việc. Con người nên nhìn nhận con người và sự việc như thế nào, nên có quan điểm gì và nguyên tắc gì trong việc làm người và hành động, những chuyện này đều có trong lời Đức Chúa Trời. Nếu ngươi vẫn không biết và không rõ, thì đó là vì ngươi hồ đồ – ngươi là một kẻ hồ đồ. Chuyện của Đức Chúa Trời và chuyện của nhà Đức Chúa Trời, thì người hồ đồ không xứng được biết, ma quỷ càng không xứng được biết. Bởi vì người hồ đồ và ma quỷ chẳng hiểu chút lẽ thật nào, họ sẽ mù quáng áp dụng quy định, mù quáng xét đoán và kết tội. Họ chẳng có sự phân định, chẳng có nguyên tắc gì cả. Có thể khẳng định rằng người hồ đồ và ma quỷ không xứng được ở lại trong nhà Đức Chúa Trời, mà nên bị đuổi đi! Người hồ đồ và người lố bịch chẳng có điều kiện cơ bản để hiểu lẽ thật, cũng chẳng có điều kiện cơ bản để được cứu rỗi, bất kỳ ở đâu hay lúc nào, họ cũng có thể bị Sa-tan bắt đi. Ngươi nói xem, có lúc nào Đức Chúa Trời giảng đạo và giảng lẽ thật cho động vật không? Do đó, người ta có thể nghe nhiều bài giảng đạo đến vậy, bất kể có thể hiểu được lẽ thật hay không, thì đó đều là sự ân đãi và nâng cao của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi luôn nghi ngờ Đức Chúa Trời: “Đấng mình tin có phải là Đức Chúa Trời thật không? Đức Chúa Trời có tồn tại thật không? Đức Chúa Trời có tể trị hết thảy không? Rốt cuộc Đức Chúa Trời tốt với nhân loại là thật hay giả? Đức Chúa Trời có phải là lẽ thật không, có thể cứu rỗi con người không?”. Nếu ngươi nghĩ như vậy, nếu ngươi có dạng thái độ như vậy với Đức Chúa Trời, thì ngươi nên chết cho rồi. Sớm muộn gì cũng có một ngày Đức Chúa Trời sắp đặt hoàn cảnh để giao ngươi cho Sa-tan, và mối quan hệ giữa ngươi với Đức Chúa Trời sẽ hoàn toàn đoạn tuyệt, sẽ không còn là mối quan hệ giữa loài thọ tạo với Đấng Tạo Hóa nữa. Kể từ giờ phút đó, ngươi và Đức Chúa Trời chẳng có quan hệ gì nữa.

Chúng ta vừa mới thông công về biểu hiện thứ ba của loại người do động vật đầu thai – hồ đồ. Còn có một biểu hiện nữa, đó là ngu ngốc. Ngu ngốc cũng liên quan đến trí thông minh, vậy loại người này ngu ngốc đến mức độ nào? Những biểu hiện nào là ngu ngốc? Có những người, khi rao truyền phúc âm cho người khác thì nói: “Chị phải quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời! Đức Chúa Trời chẳng có chỗ gối đầu, Đức Chúa Trời lao tâm khổ tứ lắm! Đức Chúa Trời công tác chẳng dễ dàng gì, gian khổ lắm!” Người ngoại đạo nghe vậy thì nói: “Chị nói cái gì mà rối tinh rối mù vậy?”. Ngươi nói ra những lời đó, thì người ngoại đạo nghe không hiểu. Họ đâu có tin Đức Chúa Trời, nên họ đâu biết lời ngươi nói đến điều gì, đâu biết xuất xứ lời của ngươi, vậy ngươi nói những lời đó chẳng phải là ngu ngốc sao? (Thưa, phải.) Ngu ngốc ở chỗ nào? Nói không đúng đối tượng, phải vậy không? (Thưa, phải.) Có những người hồ đồ, sau khi họ bị bắt thì cảnh sát hỏi họ: “Các anh tin đức chúa trời, vậy đức chúa trời bảo các anh làm gì? Các anh có biết tin đức chúa trời là phạm pháp không? Các anh vi phạm pháp luật của quốc gia rồi, quốc gia không cho phép dạng tín ngưỡng này!” Thực ra, những cảnh sát tà ác đó muốn tìm chút cớ để kết tội người tin Đức Chúa Trời. Nhưng loại người ngu ngốc này chẳng nhìn thấu, nói rằng: “Chúng tôi tin Đức Chúa Trời thì đâu phải là việc phi pháp. Đức Chúa Trời bảo chúng tôi làm người trung thực, bảo chúng tôi đi con đường đúng đắn và làm người tốt mà”. Ma quỷ vừa nghe vậy liền nói: “Vì đức chúa trời bảo các anh làm người trung thực, vậy anh nói cho tôi biết đi, lãnh đạo hội thánh các anh là ai? Hội thánh các anh cất tiền ở chỗ nào? Nói lời trung thực đi chứ! Anh mà không nói thật thì đức chúa trời của anh sẽ định tội anh!” Người ngu ngốc nghe vậy thì trố mắt ngây người. Như vậy chẳng phải là ngu ngốc sao? Làm sao có thể nói thật với ma quỷ chứ? Làm sao có thể nói lẽ thật cho ma quỷ chứ? Dù là cái gì đi nữa, cũng không được nói cho ma quỷ. Lại có người ngu ngốc hỏi cảnh sát rằng: “Tại sao các anh cứ bắt bớ chúng tôi suốt vậy? Tại sao các anh không chịu buông tha cho người tin Đức Chúa Trời chúng tôi? Tại sao các anh luôn bịa tin đồn về chúng tôi?”. Ngươi không biết tại sao à? Ngươi muốn có được câu trả lời từ họ sao? Có thể có câu trả lời không? Ngươi hỏi họ lý do tại sao – vậy chẳng phải là hoang đường, là ngu ngốc sao? Nhưng những người ngu ngốc này sẽ có thể hỏi những câu ngu ngốc đó. Đơn giản là họ chẳng hiểu được, lúc nào cũng hỏi: “Tại sao Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn bách hại chúng ta? Tại sao họ luôn bắt bớ người tin Đức Chúa Trời chúng ta, lại còn bịa đặt tin đồn về chúng ta? Rõ ràng chúng ta bị bách hại đến nỗi không thể về nhà, vậy mà họ nói chúng ta bỏ gia đình mình. Đám ma quỷ này nói năng chẳng dựa trên sự thật! Đây chẳng phải là nói nhảm sao? Chúng ta làm vài tiết mục văn nghệ để làm chứng cho Đức Chúa Trời và loan truyền lời Đức Chúa Trời, tại sao ma quỷ và Sa-tan lại thù hận chúng ta đến vậy? Họ cứ đến nhà tôi suốt để đe dọa người nhà và bà con của tôi, còn lắp máy quay an ninh để theo dõi, tại sao vậy?”. Chuyện này còn cần hỏi nữa sao? Hỏi vậy chẳng phải là hỏi ngu ngốc sao? Nếu ngươi mới tin Đức Chúa Trời và không biết chuyện này là sao thì cũng bình thường. Nhưng ngươi tin Đức Chúa Trời nhiều năm như vậy rồi mà vẫn không biết sao? Nếu ngươi biết cả rồi, thì tại sao ngươi lại muốn hỏi? Có những người vẫn nghĩ không thông: “Chúng ta đâu có chống đảng hay chống quốc gia, đâu có hoạt động chính trị, cũng chẳng lật đổ chính phủ hay sự thống trị của họ, chẳng tạo nên sự uy hiếp gì đối với họ – vậy tại sao Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn bắt bớ và bách hại chúng ta? Chúng ta luôn phải trốn đông trốn tây, muốn về nhà cũng không về được, muốn gọi điện thoại cho người thân mà cũng không gọi được. Tôi chẳng hiểu nổi, tại sao Trung Cộng cứ kiếm chuyện với chúng ta mãi không thôi?”. Nếu ngươi thực sự nhìn không thấu, thì ngươi quá ngu muội rồi – đây là ngu ngốc thực sự. Còn có người tìm chồng là người không tin Đức Chúa Trời, lúc yêu nhau thì người chồng nói: “Anh sẽ tin cùng em, chúng ta cùng nhau vào thiên quốc”. Anh này nói thì dễ nghe lắm, nhưng thực ra anh ta chính là kẻ chẳng tin, chính là ma quỷ, đơn giản là anh ta đang dỗ dành để đùa bỡn cô ta. Đến lúc cô ta từ bỏ tất cả để dâng mình cho Đức Chúa Trời, thì anh ta thẹn quá hóa giận, không cho cô ta nhóm họp, không cho cô ta làm bổn phận, cũng không cho cô ta đọc lời Đức Chúa Trời. Người ngu ngốc này còn ngẫm nghĩ: “Trước đây, anh ấy đâu như vậy. Trước đây, anh ấy yêu mình lắm, chiều mình lắm, hiểu mình lắm, còn hết lòng ủng hộ mình tin Đức Chúa Trời. Sao bây giờ anh ấy lại như một người khác hẳn rồi? Trước đây, anh ấy cũng tin mà, sao bây giờ lại thành ra thế này?”. Khi rời nhà làm bổn phận mấy năm, trong lòng cô ta toàn ngẫm nghĩ chuyện này: “Chồng mình đâu thể nào tìm người phụ nữ khác. Anh ấy yêu mình nhất, anh ấy chỉ có mình, mình là mối tình đầu của anh ấy mà. Anh ấy sẽ không yêu người nào khác đâu. Hơn nữa, chồng mình là người thật thà, cũng chẳng có năng lực hay bản lĩnh gì, ai mà muốn đến với anh ấy chứ?”. Thực ra, ngay cả khi nghĩ như vậy, trong lòng cô này vẫn không yên ổn, hy vọng chồng vẫn chờ mình về. Nhưng thực ra, khi cô này còn chưa rời nhà, chồng cô thấy cô tin Đức Chúa Trời thì ngày nào cũng làm bổn phận, nên đã tìm người phụ nữ khác từ lâu rồi. Thế mà cô lại còn cảm thấy không thể nào có chuyện đó: “Dù ai đi tìm người tình mới, thì anh ấy cũng không thể nào làm vậy. Anh ấy đâu phải dạng người đó. Lúc mình ở nhà, anh ấy toàn nói là muốn tin Đức Chúa Trời mà!” Ngươi xem, vậy có phải là ngu ngốc không nhẹ rồi không? (Thưa, phải.) Mấy năm qua, ngươi không ở nhà, đừng nói chuyện chồng ngươi tìm người khác, mà ngay cả con cái hay cha mẹ ngươi cũng từ mặt ngươi. Ngươi từ lâu đã không còn là thành viên trong nhà đó rồi, chưa biết chừng họ còn chửi ngươi tơi bời, hận ngươi đến mức độ ghê gớm rồi. Thế mà cô này vẫn không nhìn thấu chuyện này, vậy có phải là ngu ngốc không? (Thưa, phải.) Ngu ngốc đến mức độ nào? Đến mức độ không có trí thông minh của người bình thường, do đó không thể dùng tư duy của con người bình thường mà nhìn nhận con người và sự việc, luôn dùng những tư tưởng và quan điểm ấu trĩ, lệch lạc và ngu xuẩn của mình để nhìn nhận và đánh giá sự vật, cuối cùng thường khiến bản thân rơi vào khốn cảnh, trở nên rất bị động và hành động rất ngu muội. Đây chẳng phải là ngu ngốc sao? (Thưa, phải.) Có một số người ngu ngốc như vậy. Ngu ngốc nghĩa là không có trí thông minh của nhân tính bình thường, cho nên khi nhìn nhận con người và sự việc, hoặc là xử lý sự việc, họ không có nguyên tắc cơ bản để làm chỗ dựa hầu đạt được kết quả tốt, phải vậy không? (Thưa, phải.)

Tóm lại, nếu dùng lẽ thật mà đánh giá loại người do động vật đầu thai, thì đặc trưng chính của họ chính là về cơ bản, họ với không tới lẽ thật – đây là một tiêu chuẩn cao. Nếu đánh giá bằng trí thông minh của nhân tính bình thường, thì họ không thể dùng tư duy của nhân tính bình thường mà nhìn nhận mọi con người, sự việc, sự vật và hoàn cảnh xuất hiện trong cuộc sống thường nhật. Nói một cách nghiêm khắc, thì đối với chuyện ăn, mặc, ở và đi lại trong cuộc sống thường nhật, loại người này không thể độc lập hoàn thành, không thể độc lập ứng phó và giải quyết. Ngay cả khi loại người này gắng gượng sống sao cho khỏi chết đói, thì xét từ biểu hiện của họ trong việc xử lý các sự tình khác nhau, rõ ràng họ rất ngu xuẩn, rất vụng về, còn lâu mới có nhân tính bình thường. Ngươi xem, có những động vật tự chúng không biết nên ăn bao nhiêu là thích hợp, phải có người cho chúng ăn đúng giờ, đúng lượng, thì chúng mới có thể khỏe mạnh. Như con chó chẳng hạn, nếu ngươi để nó ăn tùy ý, ăn bao nhiêu cũng được, thì nó sẽ có thể ăn quá nhiều, khi nào bụng no căng và ăn không nổi thì mới chịu dừng. Do đó, đặc trưng rất rõ ràng của loại người do động vật đầu thai chính là không thể độc lập hoàn thành rất nhiều chuyện trong cuộc sống của mình. Tại sao họ không thể độc lập hoàn thành? Chính vì họ chẳng bao giờ biết khi làm loại chuyện đó thì nguyên tắc là gì, điều kiện cơ bản là gì, ranh giới tối thiểu là gì. Cũng giống chuyện ăn uống của động vật vậy, chúng chẳng biết ăn bao nhiêu là thích hợp, nếu không có người ra tay quản lý mà cứ để chúng tự ăn thì chúng sẽ có thể ăn tới mức no quá mà chết, nếu có người quản lý và nuôi dưỡng chúng thì có khả năng chúng vẫn có thể giữ bản thân khỏe mạnh một chút. Đặc trưng này cũng rất rõ ràng nơi loại người do động vật đầu thai. Giống như có người nói: “Ăn mà không biết đói hay no, ngủ mà không biết ngày hay đêm”. Vậy, loại người này có trí thông minh của nhân tính không? Quá rõ ràng là không có. Bốn mùa trong năm, cơ thể xuất hiện tình trạng gì thì nên ăn như thế nào để điều tiết, mùa nào ăn thứ gì thì khỏe mạnh, ăn thứ gì thì không khỏe mạnh, sinh hoạt thế nào thì khỏe mạnh, sinh hoạt thế nào thì không khỏe mạnh – đối với những chuyện này, người bình thường đến 20 tuổi thì có lẽ chưa biết, đến 30 tuổi thì biết đôi chút, đến 40 tuổi thì biết nhiều hơn, đến 50 tuổi thì dựa vào tình trạng thực tế của cơ thể mà tổng kết ra một bộ quy luật sinh hoạt phù hợp với bản thân mình, về cơ bản đã xác định chuẩn và định hình được rồi, chẳng có thay đổi lớn nào nữa. Nhưng loại người do động vật đầu thai thì sống đến 80 tuổi vẫn không tổng kết ra được quy luật, họ không ăn nhiều thì ăn ít, không ăn đến mức no căng bụng thì cũng ăn theo kiểu không tiêu hóa được. Họ chẳng biết những vấn đề nào xuất hiện nơi cơ thể họ là do thói quen sinh hoạt nào hoặc món ăn nào gây ra – họ cứ ăn tàn uống tợn. Bảo họ dựa vào chuyện thể chất của cơ thể mình thích hợp ăn món gì, không thích hợp ăn món gì, dựa vào thông tin đủ mọi mặt mà tổng kết một quy luật hoặc phương thức ăn uống thích hợp với bản thân, thì họ không làm được. Chẳng hạn như, trên mạng, có người nói vỏ trứng có hàm lượng canxi cao, ăn vỏ trứng có thể bổ sung canxi, thế là họ ngẫm nghĩ: “Mình không cao lắm là vì thiếu canxi, vậy mình sẽ ăn vỏ trứng để bổ sung canxi”. Kết quả là họ ăn được một thời gian rồi, mà chẳng thấy tăng hàm lượng canxi gì cả. Đây chẳng phải là lệch lạc sao? Trên mạng nói vỏ trứng có hàm lượng canxi cao và có thể dùng để bổ sung canxi, ngươi nghe được thông tin đó rồi, thì nên lĩnh hội như thế nào? Quá rõ ràng, loại người ăn vỏ trứng này là người lệch lạc, họ lĩnh hội không đúng, cho nên họ thực hành rất lệch lạc, cực đoan và ngu xuẩn. Vậy lĩnh hội thế nào thì đúng? Mặc dù vỏ trứng có hàm lượng canxi cao, nhưng nó đâu phải là thứ để ăn, chưa biết nó có đem lại hiệu quả bổ sung canxi không, ngay cả khi nó có thể bổ sung canxi, thì cũng chưa biết ăn vào rồi, cơ thể có hấp thụ được không. Hơn nữa, có chứng cứ gì về chuyện vỏ trứng có thể bổ sung canxi không? Tuyên bố này đã được chứng thực chưa? Thực ra, có nhiều thứ để bổ sung canxi, chúng đều đã được chứng thực về mặt y học, ngươi mà không tiếp thu những điều này thì ngươi chính là người lố bịch rồi. Ngươi uống thuốc canxi chẳng bổ sung canxi à? Đó là cách đơn giản nhất. Nó chẳng làm hại dạ dày hay răng của ngươi, vị lại ngon, còn có thể cảm nhận được hiệu quả. Như vậy chẳng là lĩnh hội đúng đắn sao? (Thưa, phải.) Nhưng loại người lĩnh hội lệch lạc lại không lĩnh hội như vậy, họ sẽ làm theo cách cực đoan. Họ cho rằng: “Nếu có người nói vỏ trứng có thể bổ sung canxi thì vỏ trứng là thứ có thể ăn được, muốn bổ sung canxi thì phải ăn vỏ trứng”. Họ cũng không suy xét xem ăn vỏ trứng rồi thì cơ thể có thể hấp thụ chúng hay không. Như vậy chính là lệch lạc, là cực đoan. Nếu có người nói: “Vỏ chuối có hàm lượng vitamin cao, ăn vào có thể đẹp lên”, thì ngươi có ăn không? (Thưa, không ăn.) Tại sao không ăn? (Thưa, vì có những thứ đồ ăn do Đức Chúa Trời tạo ra, nếu ăn theo quy luật bình thường thì phải lột vỏ. Cứ đòi ăn vỏ thì chính là cực đoan. Muốn bổ sung vitamin để đẹp lên, thì nên ăn những món vừa ăn được vừa có công dụng làm đẹp.) Như vậy chính là lĩnh hội đúng đắn. Nhưng ngươi xem, những kẻ ngu ngốc cố chấp này đâu có lĩnh hội như vậy. Họ cứ nhất quyết ép bản thân ăn vỏ chuối, còn nói: “Tôi chống lại xác thịt, tôi phải ăn vỏ chuối để bổ sung chất dinh dưỡng nào đó”. Họ chẳng ngẫm nghĩ: “Vỏ chuối ăn đâu có ngon, đâu phải đồ ăn, mình không ăn đâu. Chẳng phải mình ăn thứ khác có chất dinh dưỡng này để thay cho vỏ chuối là xong chuyện sao?”. Lĩnh hội như vậy có đúng đắn không? (Thưa, đúng đắn.) Ngươi có thể suy nghĩ biện chứng như vậy, lĩnh hội như vậy, thì chứng tỏ ngươi có trí thông minh của con người. Nhưng nếu ngươi không biết suy nghĩ biện chứng như vậy, nghe nói vỏ chuối có chất dinh dưỡng gì đó thì nhất quyết phải ăn, khó ăn cũng muốn ăn, vậy thì ngươi là kẻ ngu ngốc, là loại người do động vật đầu thai, không có tư duy của nhân tính bình thường. Thứ tà thuyết hay luận điệu sai lầm gì cũng có thể mê hoặc được những người này, họ đơn giản chẳng biết phân định các loại thông tin khác nhau là đúng hay sai, thật hay giả, lúc nào cũng bị đánh lừa. Đây là một biểu hiện trong cách tiếp cận các loại sự tình cụ thể của loại người do động vật đầu thai – họ ngu ngốc không nhẹ, lĩnh hội lệch lạc và hoang đường, chuyện gì cũng cực đoan. Người ta nói rằng nghiên cứu cho thấy có thể ăn được, nhưng đâu có nghĩa là ngươi buộc phải ăn, cũng đâu có nghĩa là không có thứ gì khác có thể thay thế nó. Nếu nói không có bất kỳ lý luận nào có thể thay thế lẽ thật, thì khách quan và chính xác. Nhưng chất dinh dưỡng này là thứ vật chất, không thể nào không có thứ gì thay thế được nó. Đức Chúa Trời tạo ra phong phú chủng loại thức ăn, thức ăn có các loại dinh dưỡng khác nhau thì rất nhiều, có thể dựa vào thể chất, nhóm tuổi và tình trạng sức khỏe hiện tại của các loại người mà dùng cho chính xác, đâu cần bám chặt quy định. Loại người cực đoan mà nghe xong một thông tin nào thì sẽ không biết tiếp cận một cách đúng đắn, cũng không biết phân biệt. Lúc nào, họ cũng bị những thứ đó mê hoặc. Cuối cùng, họ nói: “Những lời trên mạng toàn là lừa người, chẳng có câu nào thật cả!” Ngươi xem, họ lại ngả sang một thái cực khác. Ngươi có thể lên mạng tra tìm thông tin, nhưng ngươi phải biết vận dụng phương thức tư duy đúng đắn và trí thông minh của con người mà phân biệt chúng, mà đưa ra lựa chọn cho đúng đắn, thứ nào có ích cho ngươi thì ngươi có thể dùng, còn thứ nào không có ích cho ngươi và không thích hợp với ngươi, thì ngươi có thể xem nó là một thứ tham khảo hoặc một dạng thường thức. Đây chính là cách thực hành của người có tư duy của con người. Người không có cách thực hành theo tư duy của con người, nếu không lệch sang trái thì cũng lệch sang phải, hoặc là bị lừa, hoặc là hoàn toàn không tin. Họ không biết để tâm phân định những chuyện này. Loại người này đặc biệt cố chấp, lố bịch, mù mờ và ngu xuẩn một cách rõ ràng trong việc tiếp cận các loại thông tin hoặc xử lý những chuyện thực tế trong cuộc sống hiện thực. Họ là dạng người ngu xuẩn như vậy đấy, chẳng phân rõ được phải trái, đúng sai – làm sao họ sống qua được mỗi ngày trong cuộc sống thường nhật chứ? Nhìn những biểu hiện của họ là thấy buồn phiền, ngươi còn hy vọng họ có thể bước vào thực tế lẽ thật sao?

Có cô gái cưới một gã chồng lưu manh, lại cảm thấy: “Chồng mình yêu mình lắm, mình có được tình yêu đích thực rồi, phải lòng yêu rồi”, cô ta cảm thấy hạnh phúc ngất ngây. Người khác thấy chồng cô ta đâu phải là người, mà là ma quỷ, sao cô ta lại có thể say sưa và tận hưởng như vậy chứ? Họ đều thấy buồn phiền thay cho cô ta. Kết quả là sau khi sinh con cho hắn rồi, cô ta bị hắn đá, chẳng có chỗ dựa, cuộc sống rất khổ sở! Xét từ những việc ngu ngốc mà loại người do động vật đầu thai làm, thì một phần rất lớn trong số họ có thể sinh tồn được chính là nhờ Đức Chúa Trời ân đãi. Đức Chúa Trời ban cho họ hơi thở để họ có thể sống được, ban cho họ cái ăn hầu cho họ dựa vào những thứ đồ ăn đó mà sống. Chim trên trời, động vật nhỏ dưới đất, thậm chí kiến cũng có cái để ăn, huống hồ gì con người? Ngươi đầu thai thành người, thì Đức Chúa Trời ban cho ngươi cái ăn, hoặc là có người nuôi ngươi, hoặc cho ngươi có một sở trường nào đó mà duy trì sinh kế, đây chính là sự ân đãi của Đức Chúa Trời. Ngài đâu để ngươi chết đói, mà Ngài ban cho ngươi con đường sống, để ngươi có thể sống đến già, sống đến cuối cùng. Nếu không nhờ Đức Chúa Trời ân đãi, thì loại người này với tố chất bẩm sinh của mình, không có tư duy bình thường và không có chút năng lực xử lý vấn đề nào, sẽ không làm nổi ngay cả chuyện kiếm miếng ăn. Xét từ góc độ khác, loại người do động vật đầu thai này cũng được xem là có phúc lắm rồi. Xét từ tài cán và trí thông minh đủ mọi mặt của họ, nếu muốn kiếm miếng ăn ở nhân gian phức tạp và tà ác này thì có thể nói là gần như bất khả thi. Nhưng vì Đức Chúa Trời ân đãi và thương xót hết thảy mọi loại thọ tạo, cho nên bất kể ngươi là do động vật đầu thai hay do con người đầu thai, tóm lại trong mắt Đức Chúa Trời, ngươi là một loài thọ tạo và Ngài đã ban cho ngươi hơi thở này, thì Ngài sẽ cung ứng một cách bình thường những gì ngươi cần để sinh hoạt và sinh tồn, để giữ cái mạng cho ngươi và để ngươi có thể sống sót. Do đó, ngươi mà nói: “Con ra ngoài làm công kiếm tiền, nuôi bản thân cho trắng trẻo mập mạp, cuộc sống mỗi ngày chẳng phải cũng tốt cả sao? Ngài nói con ngu ngốc, chẳng phải là sỉ nhục con sao?”, thì ngươi sai rồi. Chuyện ngươi có thể kiếm tiền và nuôi sống bản thân đâu thực sự là do năng lực của ngươi, 99% trong đó là do Đức Chúa Trời ân đãi. Đức Chúa Trời ban cho ngươi chút sức lực để ngươi ra sức làm việc mà có thể kiếm tiền ăn cơm, Đức Chúa Trời ban cho ngươi sở trường nào đó, lại cho ngươi cơ thể khỏe mạnh, để ngươi có thể làm một nghề nghiệp nào đó mà kiếm tiền nuôi gia đình và có thể sống sót. Dựa trên căn cứ nào mà ngươi có thể làm những điều này? Đều là dựa trên chuyện Đức Chúa Trời ban cho ngươi những điều kiện bẩm sinh cơ bản để ngươi có thể làm những việc lao động bình thường của con người, cuối cùng có thể nuôi sống bản thân và duy trì sinh kế của mình. Tóm lại, bất kể thế nào, dù ngươi ngu ngốc hay là hồ đồ đi nữa, nhưng hiện tại ngươi là một loại thọ tạo với bề ngoài của con người, thì ngươi ngươi nên biết thân phận và giá trị của bản thân là gì, ngoài ra, ngươi nên lĩnh hội một cách đúng đắn những gì Đức Chúa Trời ban tặng và cung ứng, cũng như sự ân đãi và lòng thương xót của Ngài. Nếu ngươi đối chiếu bản thân và thấy mình khớp với mấy đặc trưng của loại người do động vật đầu thai, cảm thấy rõ ràng mình chính là loại người do động vật đầu thai, vậy ngươi nên làm thế nào? Chuyện này dễ thôi: Bất kể nguồn gốc của ngươi là gì, bất kể bẩm sinh ngươi có trí thông minh và tư duy của con người hay không, tóm lại, hiện tại ngươi mang thân phận con người. Vì ngươi mang thân phận con người, thì ngươi nên làm cho được bổn phận của con người, có thể làm bao nhiêu thì làm bấy nhiêu, có thể làm đến mức độ nào thì làm đến mức độ đó, cố hết sức có thể mà làm tròn và làm tốt những gì con người nên làm. Có những người nói: “Ngài nói đặc trưng của loại người do động vật đầu thai là lệch lạc, tê dại, hồ đồ và ngu ngốc, như vậy thì họ cũng đâu có trí thông minh của con người. Tuyệt đại đa số những người này căn bản chẳng hiểu lẽ thật, vậy thì khi làm bổn phận, làm sao họ có thể làm tốt, làm sao họ có thể làm cho thích hợp chứ?”. Nếu không yêu cầu nghiêm ngặt, thì làm tốt và thích hợp là chuyện mà ngươi có thể đạt đến được. Bởi vì hiện tại dẫu sao ngươi cũng mang thân phận con người, nếu ngươi nghe lời và đừng nói lý luận phi lý thì ngươi có thể làm được. Nếu ngươi còn không làm được hai điều này, thì Ta nói cho biết, ngươi thực sự gặp nguy hiểm rồi, ngươi sẽ phải bị hội thánh thanh lọc đi. Nếu ngươi nói: “Hai chuyện này thì con có thể làm được, con sẽ không nói lý luận phi lý, con sẽ tiếp nhận những câu nói đúng đắn, bảo con làm gì thì con sẽ làm nấy, bảo con làm thế nào thì con sẽ làm thế ấy”, nếu ngươi thực sự có thể thực hành như vậy thì ngươi sẽ có thể đạt đến việc làm bổn phận tốt và thích hợp. Có người nói: “Con làm bổn phận tốt và thích hợp rồi, con còn muốn đạt đến việc làm theo nguyên tắc lẽ thật”. Nếu ngươi thực sự có lòng muốn vươn đến nguyên tắc lẽ thật từ nền tảng là làm bổn phận tốt và thích hợp, thì ngươi có thể làm đến mức độ nào cũng được – không yêu cầu ngươi điều gì trong chuyện này. Chỉ cần ngươi đừng có bướng bỉnh, đừng nói lý luận phi lý, đừng lúc nào cũng nhấn mạnh lý do của mình, đừng hồ đồ, đừng làm việc ngu ngốc xong rồi còn không thừa nhận – ngươi đừng làm những việc đó là được. Còn về chuyện hành động theo nguyên tắc lẽ thật, thì ngươi làm đến mức độ nào cũng được, ngươi cho rằng bản thân có thể làm được việc gì thì cứ làm việc đấy. Yêu cầu đối với loại người này không cao, bởi vì họ có chút khó khăn trong việc với tới nguyên tắc lẽ thật. Cho nên dựa trên điều kiện bẩm sinh của họ thì không yêu cầu nghiêm ngặt rằng họ buộc phải hành động theo nguyên tắc lẽ thật. Tại sao không yêu cầu như vậy? Bởi vì họ không đạt đến được, ngươi mà khăng khăng yêu cầu họ như vậy thì đồng nghĩa với bắt vịt leo sào. Cũng giống như có một vài động vật, ngươi yêu cầu chúng mỗi lần ăn thì chỉ ăn một lượng thích hợp, không được ăn đến mức phình cả bụng ra, liệu chúng có làm được không? Không được, mỗi lần ăn, chúng ăn được bao nhiêu thì sẽ ăn bấy nhiêu, ăn đến khi nào không ăn được nữa mới dừng. Loại người do động vật đầu thai cũng hệt như vậy, ngươi yêu cầu họ hành động theo nguyên tắc lẽ thật thì họ không đạt đến được. Vậy nghĩa là nên vứt bỏ loại người này sao? Không vứt vỏ, nhưng không vứt bỏ không đồng nghĩa với yêu cầu họ hiểu nguyên tắc lẽ thật hoặc bước vào nguyên tắc nguyên tắc lẽ thật. Mà đơn giản là có thể đối đãi với họ cho đúng đắn, họ có thể làm gì thì cứ làm nấy, không tước bỏ tư cách làm bổn phận của họ, cũng không tước bỏ tư cách mưu cầu lẽ thật của họ, càng không tước bỏ tư cách được cứu rỗi của họ. Chỉ là không yêu cầu nghiêm ngặt họ phải thực hành theo nguyên tắc lẽ thật, cũng không yêu cầu nghiêm ngặt họ phải với tới nguyên tắc lẽ thật trong mọi việc họ làm, nghĩa là họ có thể làm đến đâu thì cứ làm đến đó. Chỉ cần họ không cố ý quấy nhiễu, không nói lý luận phi lý và làm xằng làm bậy trong những vấn đề quan trọng mang tính nguyên tắc, là được rồi. Yêu cầu đối với loại người này không cao, các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.)

Về loại người do động vật đầu thai, chúng ta đã thông công về một vài biểu hiện mang tính thực chất. Đương nhiên có một số biểu hiện chưa được nói quá chi tiết. Nếu nói cụ thể hơn một chút thì chỉ sợ có vài người không tiếp nhận nổi, do đó chúng ta mới nói chung chung hơn một chút, chừa lại chút đường lùi. Bất kể ngươi do loại gì đầu thai, tóm lại, hiện tại ngươi đang mang thân phận con người. Vì mang thân phận con người, nên ngươi cần thể diện, cũng cần tôn nghiêm, do đó, chúng ta sẽ chừa lại cho ngươi chút tôn nghiêm, sẽ không giảng quá chi tiết về phương diện này. Đại khái chuyện là như vậy, ngươi cứ tự mình đối chiếu đi. Cứ cho là ngươi thấy mình khớp với những biểu hiện của loại người do động vật đầu thai, cảm thấy trong lòng không thoải mái, cảm thấy bản thân mang dạng thân phận đó thì một mặt là giá trị bản thân bị hạ thấp, mặt khác là nhân cách của mình bị sỉ nhục và tôn nghiêm của mình bị thách thức. Ngươi chẳng biết xử lý mối quan hệ với Đức Chúa Trời thế nào, đột nhiên ngươi cảm thấy bản thân bị rơi xuống ngàn trượng, thua người một bậc, không còn cảm thấy bản thân có chỗ nào tôn quý nữa, không còn cảm thấy nhân cách của mình cao thượng hay mình có giá trị tôn quý nữa, trong lòng ngươi đột nhiên cảm thấy mất hết hy vọng, chẳng còn điểm tựa, đích đến sau này cũng tiêu tan. Những biểu hiện như vậy có tốt hay không? (Thưa, không tốt.) Vậy có nên xoay chuyển không? (Thưa, nên.) Bởi vì biểu hiện như vậy là không tốt, lĩnh hội như vậy là không tốt, vậy thì nên làm thế nào? Chúng ta phải tìm cho những người này một con đường thoát, làm cho họ thấy khá lên một chút. Đây không phải là phỉnh phờ họ, cũng không phải là lừa gạt họ, mà là làm cho họ có thể tiếp cận chuyện này một cách đúng đắn, vươn tới việc thực hành theo nguyên tắc lẽ thật. Vậy làm thế nào mới tốt đây? Loại người do động vật đầu thai nên lĩnh hội chuyện này thế nào? Trước tiên, trong mắt Đức Chúa Trời, bất kể người ta do loại gì đầu thai thì đó đều là sự tiền định của Đức Chúa Trời, con người đâu quyết định được. Nếu để người ta tự chọn, thì người ta sẽ chọn từ động vật đầu thai làm động vật, hay là chọn từ động vật đầu thai làm người? (Thưa, chọn từ động vật đầu thai làm người.) Vậy tại sao lại chọn từ động vật đầu thai làm người? (Thưa, vì từ động vật đầu thai làm người thì mới có cơ hội nghe được lời Đức Chúa Trời, mới có thể hiểu được lời Đức Chúa Trời.) Còn từ động vật đầu thai làm động vật thì sao? (Thưa, sẽ không có cơ hội nghe được lời Đức Chúa Trời.) Vậy thì sẽ không bao giờ có cơ hội nghe được tiếng Đức Chúa Trời. Do đó, vì ngươi biết rằng động vật có thể đầu thai làm người là chuyện tốt, vậy ngươi càng nên cảm tạ Đức Chúa Trời, chứ đừng oán trách Ngài. Ngươi nên cảm tạ Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi một cơ hội làm người, lại còn là một cơ hội ngàn năm có một. Xét cho cùng, Đức Chúa Trời trở nên xác thịt để đến cứu rỗi con người, trong khi đa số mọi người chưa đạt được ơn cứu rỗi này, mà ngươi đã đạt được rồi – ngươi may mắn có thể nghe được tiếng Đức Chúa Trời, nghe được Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật, thì đây là phúc phần của ngươi, là chuyện mà ngươi có cầu suốt mấy kiếp hoặc mấy thời làm một sinh vật thọ tạo cũng không được. Trong thời đại này, Đức Chúa Trời chọn trúng ngươi, cho ngươi đầu thai làm người, sống ở nhà Đức Chúa Trời, và làm bổn phận của loài thọ tạo cùng với nhân loại, biến thân phận của ngươi từ động vật thành một thành viên trong nhân loại và cho ngươi làm bổn phận của con người. Đây là chuyện quá vinh hạnh, quá vinh quang, biết bao nhiêu sinh vật có cầu cũng không được, vậy mà hôm nay ngươi đạt được rồi, hưởng thụ được rồi. Cơ hội này quá khó có được, đối với bất kỳ sinh vật nào, thì đây cũng là một cơ hội ngàn năm có một. Do đó, ngươi chẳng những không nên chán nản hay oán trách, không nên buồn bã hoặc cảm thấy bản thân thua người một bậc, thay vào đó, ngươi phải cảm thấy mình may mắn. Ngươi phải cảm tạ Đức Chúa Trời, cảm tạ vì cơ hội Ngài ban cho, vì sự nâng cao của Ngài dành cho ngươi, vì việc Ngài làm quá tốt: việc Đức Chúa Trời làm thực sự là sự ân đãi và thương xót đối với loại thọ tạo. Ngươi tiếp nhận sự ân đãi này của Đức Chúa Trời rồi, thì nên có thể cảm kích việc Ngài chuyển hóa thân phận và thuộc tính cho ngươi. Nhưng không thể cảm tạ xong là hết chuyện – cảm tạ rồi, thì ngươi còn phải ngẫm nghĩ xem làm sao để nắm chặt cơ hội này. Bất kể thân phận vốn có của ngươi là gì, bây giờ ngươi có thể làm bổn phận của con người, thì đây là một cơ hội tốt để ngươi hoán đổi thân phận, hoán đổi thuộc tính của loài thọ tạo. Vậy làm thế nào để hoán đổi? Điểm đầu tiên chính là làm cho tốt bổn phận. Nếu vì giới hạn trong đủ mọi mặt của điều kiện bẩm sinh mà ngươi chỉ có thể ra sức và làm việc tay chân, chỉ có thể làm một vài việc bẩn thỉu và mệt mỏi, nếu chiếu theo thân phận và giá trị bản thân của ngươi thì bổn phận ngươi làm chỉ có thể mãi mãi dừng lại trong phạm vi này, chẳng có khoảng trống để giảm nhẹ hay không gian để cải thiện nào, vậy thì ngươi nên làm thế nào? Ngươi nên tuân thủ nguyên tắc nào? Bất kể xét từ biểu hiện nào, dù là trí thông minh, phẩm chất nhân tính, hay điều kiện bẩm sinh của ngươi, thì giá trị của ngươi giữa mọi người sẽ mãi mãi là như vậy – ngươi sẽ mãi là một người chẳng đáng một xu, một người ngu ngốc, một người hồ đồ, một người tê dại, ngớ ngẩn và lệch lạc, giá trị bản thân của ngươi sẽ không bao giờ được nâng cao, vậy ngươi nên tiếp cận bổn phận thế nào? Đây là điều quan trọng nhất. Giả dụ như, giá trị bản thân của ngươi sẽ mãi mãi không được nâng cao, ở giữa mọi người thì ngươi mãi mãi chẳng có tôn nghiêm gì, trong mắt Đức Chúa Trời thì ngươi cũng mãi mãi bị định hình rồi, ngươi là thứ như vậy thôi. Nhìn bề ngoài, có khả năng thuộc tính của ngươi cũng có những đặc trưng rõ rệt, ngươi sẽ không bao giờ từ động vật trở thành con người chân chính. Ngươi cũng không có hy vọng được cứu rỗi, bởi vì ngươi đâu có hiểu được lẽ thật, ngay cả trí thông minh của con người mà ngươi cũng không có. Ngươi không hiểu khải tượng về lẽ thật, khi ở nhà Đức Chúa Trời thì ngươi không biết rao truyền phúc âm, không đạt đến hay với tới được việc làm các bổn phận mang tính nghiệp vụ – ngươi sẽ mãi mãi phải làm những việc vừa bẩn vừa mệt, chẳng có cách nào xoay chuyển tình thế. Nếu là như vậy, thì ngươi nên làm thế nào? Ngươi có thể dừng tin Đức Chúa Trời không? Ngươi có thể tự chìm đắm trong sa đọa không? Có người còn có thể quyên sinh phải không? Có thể nào họ nói: “Tôi không sống nữa, đằng nào tôi cũng chẳng có đường sống, sống như thế này thì có ý nghĩa gì chứ?” hay không? Nếu bất chấp ngươi nỗ lực và cần cù thế nào, dốc công sức và trả giá ra sao, mà giá trị bản thân của ngươi mãi mãi sẽ không thay đổi, ở trong nhà Đức Chúa Trời thì ngươi sẽ mãi mãi là một người ra sức và đổ mồ hôi, là một người thấp kém và chẳng có tôn nghiêm mà ai cũng xem thường, vậy thì về cách tiếp cận bổn phận, tiếp cận sự ủy thác của Đức Chúa Trời, tiếp cận những yêu cầu đủ mọi mặt của Đấng Tạo Hóa, ngươi nên chọn cách thực hành nào? Đây là điều quan trọng nhất. Về mặt nguyên tắc và lý luận, thì giá trị bản thân và thân phận của ngươi đã được định rồi, nhưng sự thật là, hiện tại, giữa mọi người và trong mắt Đức Chúa Trời thì thân phận đích thực của ngươi là thân phận của con người. Tại sao lại nói là thân phận con người? Vì bổn phận ngươi có thể làm, mà sự bộc lộ thường nhật và các bản năng khác nhau trong điều kiện bẩm sinh của ngươi nằm trong phạm vi cơ bản bình thường của một con người – ngươi có những điều kiện cơ bản của con người này. Riêng về điểm này thì ngươi nên tiếp cận với bổn phận của mình như thế nào? Động vật thì nghe không hiểu nguyên tắc lẽ thật là gì, không biết làm thế nào để làm tốt bổn phận, làm thế nào để có thể giữ vững bổn phận của mình, làm thế nào để có thể trung thành làm bổn phận và kiên trì phục vụ đến cùng – mọi điều này, động vật đều không hiểu được. Nhưng hiện tại, là một con người, ngươi hiểu được và biết được, vậy thì ngươi nên làm được những điều này. Vì ngươi có thể làm được những điều này, nên Đức Chúa Trời sẽ dựa trên nguyên tắc này mà yêu cầu ngươi. Nhưng nếu ngươi cảm thấy thân phận này không được như ý, cảm thấy Đức Chúa Trời không công bằng, thế là ngươi nản lòng, oán trách Đức Chúa Trời, cảm thấy mình sống chẳng có mặt mũi hay tôn nghiêm gì, rồi từ bỏ việc làm bổn phận, việc có thể làm được cũng không làm, vậy thì ngươi đại nghịch bất đạo rồi. Trong mắt Đức Chúa Trời, ngươi không phải là loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn, mà là thứ khác loài. Vậy ngươi nên làm thế nào? Bất chấp hiện tại giá trị bản thân của ngươi là tôn quý hay thấp hèn, ngươi từ đâu mà đến, hay điều kiện bẩm sinh của ngươi có những vấn đề nào, tóm lại, việc gì ngươi có thể làm được thì hãy dốc sức làm cho được, dốc sức mà làm cho tốt. Nếu ngươi dốc sức làm tốt rồi, mà cũng không với tới nguyên tắc lẽ thật, thì Đức Chúa Trời có một tiêu chuẩn thấp nhất để yêu cầu đối với đủ mọi loại người: Chỉ cần ngươi dốc hết toàn lực, thể hiện lòng thành và dâng lên lòng trung thành, thì sẽ đạt tiêu chuẩn. Đức Chúa Trời không yêu cầu mỗi một người đều phải đạt 100%, 60% là được rồi. Điều Đức Chúa Trời muốn là gì? Điều Đức Chúa Trời muốn là thái độ của ngươi. Nếu thái độ của ngươi là muốn làm bổn phận của một loài thọ tạo, làm tốt việc mình nên làm và nên đạt đến được, không để sau này hối tiếc gì, thì thái độ đó sẽ được Đức Chúa Trời chấp thuận. Ngài sẽ có thể khen ngợi thái độ đó và có thể bảo vệ cho ngươi đi đến cuối con đường. Có những người nói: “Đi đến cuối con đường thì sẽ có kết quả gì?”. Ta tạm thời không nói cho ngươi, sau này sẽ nói. Lúc đi đến cuối con đường thì ngươi sẽ biết. Tóm lại, hiện tại, điều quan trọng nhất là cách ngươi tiếp cận chuyện này, cách ngươi tiếp cận bổn phận mà Đức Chúa Trời ban cho, và cách ngươi làm tốt bổn phận Đức Chúa Trời ban cho. Bất kể đó là bổn phận gì, chỉ cần đó là bổn phận nhà Đức Chúa Trời giao cho ngươi, thì ngươi phải dốc toàn lực mà làm. Khi ngươi biết bản thân có những vấn đề gì, thì hãy cố hết sức đừng nói lý luận phi lý, đừng làm việc đắc tội Đức Chúa Trời, đừng nói lời đắc tội Đức Chúa Trời, mà phải làm những việc có ích cho người khác và nhà Đức Chúa Trời, phải nói những lời có ích cho người khác và nhà Đức Chúa Trời. Có những người nói: “Hiện tại, con vẫn chưa làm được những việc này”. Vậy thì ngươi cứ làm dần dần, đừng nôn nóng, hôm nay không làm được thì ngày mai làm được, năm nay không làm được thì nỗ lực năm sau làm được, cứ từ từ. Nhưng nếu đến lúc tuyên bố kết cục rồi, mà ngươi vẫn chưa làm được, thì ngươi chỉ có thể gieo gì gặt nấy, không có ai trả giá thay cho đủ loại hành vi của ngươi đâu. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Chuyện này hẳn là dễ giải quyết thôi – tất cả đều tùy vào chuyện lý tính của người ta như thế nào và liệu người ta nghe thì có thể hiểu những lời này không. Nếu ngươi nghe mà có thể hiểu, thì những chuyện này quá dễ giải quyết. Ngay cả khi có vài người cá biệt nói là có chút khó khăn, nhưng chỉ cần ngươi nỗ lực theo phương hướng đó, thì cuối cùng cũng có thể thu được thành quả nhất định. Nếu ngươi không theo con đường đó mà đi, thì có lẽ ngươi vẫn có thể sống sót, nhưng kết quả cuối cùng của ngươi thế nào thì khó nói lắm, không có ai cam đoan với ngươi chuyện đó, không có ai bảo đảm được gì cho ngươi đâu.

Chủ đề chúng ta nói hôm nay, các ngươi nghe xong thì cảm thấy thế nào? Chẳng phải các ngươi cảm thấy khó chịu sao? Đây chẳng phải là chủ đề mà người tin Đức Chúa Trời không muốn đối diện nhất sao? Chẳng phải nó còn khó chịu đựng và khó tiếp nhận hơn cả chủ đề về người phục vụ sao? Chẳng phải có khó khăn trong việc tiếp nhận chủ đề này sao? Nhưng vẫn có thể tiếp nhận, phải không? (Thưa, phải.) Nếu người ta đã xác định chắc chắn về thân phận của Đức Chúa Trời, đã tìm được đúng vị trí của mình, thì những lời này và vấn đề này hẳn không phải là khó khăn lớn đối với người ta. Chỉ có một vài người cá biệt thì sẽ gặp khó khăn phần nào, nhưng đa số mọi người nghe xong thì hẳn sẽ không truy xét xem giá trị và thân phận bản thân rốt cuộc là gì. Ngay cả khi đối chiếu mà thực sự thấy mình khớp với một vài biểu hiện của người do động vật đầu thai, thì người ta cũng có thể tiếp cận chuyện này một cách đúng đắn, qua một thời gian thì sẽ ổn cả thôi, phải vậy không? (Thưa, phải.) Hôm nay, chúng ta thông công đến đây thôi. Tạm biệt!

Ngày 20 tháng 1 năm 2024

Trước: Cách mưu cầu lẽ thật (9)

Tiếp theo: Cách mưu cầu lẽ thật (13)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con và hát những bài ca mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 6) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 7) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 8) Tôi đã quay về với Đức Chúa Trời Toàn Năng như thế nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger