Cách mưu cầu lẽ thật (9)

Trong khoảng thời gian này, chủ đề mà chúng ta thông công có phạm vi liên quan tương đối rộng, phải không? (Thưa, phải.) Nó liên quan đến vài vấn đề cụ thể hơn về nhân tính, cũng liên quan đến một vài vấn đề về cuộc sống của con người. Lần nhóm họp trước, chúng ta đã thông công về chủ đề liên quan đến phương diện tố chất, sau đó còn thông công về cách để phân định điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại. Về cơ bản, chúng đã thông công xong chủ đề tố chất, từ giờ, các ngươi chỉ cần dựa vào những nội dung này là có thể phán đoán tố chất của một người rốt cuộc như thế nào. Khi thông công về nội dung của ba phương diện gồm điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại, chúng ta đã thông công về một vài biểu hiện và sự bộc lộ của người ta trong cuộc sống thường nhật để phán đoán xem những biểu hiện này là điều kiện bẩm sinh, nhân tính hay là tâm tính bại hoại. Thông qua việc thông công ba phương diện điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại, có phải các ngươi đã có hiểu biết cụ thể về cấu tạo cơ bản của nhân loại thọ tạo rồi không? (Thưa, có thể hiểu nhiều hơn so với trước đây một chút.) Lý do khiến chúng ta thông công về ba phương diện biểu hiện mà người ta bộc lộ trong cuộc sống chính là vì nhân loại thọ tạo do điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại cấu thành. Bất kể ngươi là nam hay nữ, trẻ hay già, bất kể ngươi thuộc chủng tộc nào, sống ở quốc gia nào, thời kỳ nào, hay sống trong hoàn cảnh xã hội nào, thì tóm lại, cho dù bề ngoài của ngươi ra sao, chỉ cần là nhân loại thọ tạo, thì ngươi được cấu thành bởi ba phương diện: điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại. Nói cách khác, mỗi một người nằm trong nhân loại bại hoại thì đều được cấu thành bởi điều kiện bẩm sinh, nhân tính và sự sống của tâm tính bại hoại, cũng có thể nói rằng, bất kỳ con người thọ tạo nào cũng có điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại. Đương nhiên, điều kiện bẩm sinh của con người là điều do Đức Chúa Trời tiền định. Nhân tính thì một phần chịu sự ảnh hưởng của điều kiện bẩm sinh, một phần chịu sự ảnh hưởng và hun đúc từ hoàn cảnh lớn lên trong gia đình, hoàn cảnh xã hội và sự và giáo dục của Sa-tan. Còn tâm tính bại hoại thì chính là bản tính và tâm tính của Sa-tan do người ta bị Sa-tan mê hoặc và làm bại hoại mà có. Bản tính bại hoại này một phần đến từ gia đình, một phần đến từ xã hội, một phần đến từ sự ảnh hưởng và hun đúc mà người ta chịu trong đủ loại hoàn cảnh khác nhau. Nhìn từ góc độ như vậy thì bất kỳ con người thọ tạo nào thực ra cũng không có gì là huyền bí, bởi vì họ đều được cấu thành từ ba phương diện là điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại. Cho nên, thực ra cũng dễ phân định một người là người như thế nào. Bỏ qua không nói đến điều kiện bẩm sinh mà Đức Chúa Trời đã tiền định và ban cho con người, thì hai phương diện còn lại là phân định xem nhân tính của một người là thế nào và họ có những tâm tính bại hoại gì – chúng sẽ quyết định thực chất của người này thế nào. Phân định như vậy cũng rất rõ ràng. Dựa vào những điều này để phân định thực chất của một người cũng không phải là việc khó khăn. Phân định như vậy là có cơ sở, cũng có tiêu chuẩn đánh giá.

Trước đây, chúng ta đã liệt kê một vài biểu hiện cụ thể của điều kiện bẩm sinh, những điều kiện này không liên quan đến tâm tính bại hoại. Điều kiện bẩm sinh là nền tảng mà người ta dựa vào để sinh tồn, là một vài điều kiện mà nhân loại thọ tạo nên có. Bất kể là các điều kiện liên quan đến sự ra đời của con người như thời gian, hoàn cảnh, địa điểm sinh ra, hay là những phương diện như tướng mạo, tố chất, sở trường, bản năng, hứng thú, sở thích, tính cách, v.v. của con người – thì chúng đều là điều kiện bẩm sinh của con người. Những điều kiện bẩm sinh này sẽ không làm bại hoại người ta, đương nhiên, trong những điều kiện bẩm sinh này cũng không chứa bất kỳ tâm tính bại hoại nào. Nói chung, điều kiện bẩm sinh chính là một vài điều kiện cơ bản mà một con người thọ tạo buộc phải có để có thể sinh tồn và sống được. Nhân tính chính là một vài điều được sống thể hiện ra liên quan đến lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường mà con người bộc lộ ra từ xác thịt có những điều kiện bẩm sinh. Còn tâm tính bại hoại thì đơn giản rồi, tâm tính bại hoại được nảy sinh do sự sống của xác thịt có điều kiện bẩm sinh và nhân tính bị Sa-tan làm bại hoại. Nói như vậy có phải hơi trừu tượng không? Nói chung, nhân loại thọ tạo chính là loài thọ tạo bị tâm tính bại hoại nắm thế chủ đạo, có lương tâm và lý trí cơ bản của nhân tính. Loài thọ tạo này có các điều kiện bẩm sinh khác nhau mà Đức Chúa Trời đã tiền định sẵn. Đây chính là cấu tạo cơ bản của nhân loại do Đức Chúa Trời tạo dựng. Trong đó, điều kiện bẩm sinh và tâm tính bại hoại thì dễ hiểu hơn, còn nhân tính có thể tương đối trừu tượng đôi chút. Nói một cách thông tục, thì nhân tính chính là một thuộc tính đặc hữu mà nhân loại thọ tạo có và khiến họ khác với các sinh vật khác. Loài thọ tạo có thuộc tính đặc trưng như vậy thì sẽ có lương tâm và lý trí, có phẩm chất nhân tính, còn có năng lực phân biệt đúng sai. Thuộc tính đặc trưng khiến nhân loại khác với các sinh vật khác chính là nhân tính. Đương nhiên, nhân tính này bao gồm năng lực biểu đạt bằng lời nói, năng lực phân biệt đúng sai, năng lực lý giải, năng lực tiếp nhận những điều mới mẻ, cả năng lực tiếp nhận lời của Đấng Tạo Hóa, năng lực tiếp nhận sự ủy thác của Đức Chúa Trời và xử lý bất kỳ việc gì, đây chính là nhân tính. Sự lý giải đơn giản nhất về nhân tính chính là nó là một thuộc tính vốn có của nhân loại thọ tạo và khiến nhân loại khác với những sinh vật khác, đặc trưng cơ bản nhất của thuộc tính này chính là lương tâm và lý trí, đây là cách lý giải đơn giản nhất. Trong nhân tính còn bao gồm một vài chi tiết, chẳng hạn như một vài nhân cách và phẩm chất mà nhân tính nên có, sự phân biệt giữa những điều tích cực và những điều tiêu cực, sự lựa chọn và thực thi những điều tích cực, v.v.. Về cơ bản, đây là những điều mà người ta nên hiểu và nhận biết được về ba phương diện điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại. Các ngươi đã từng nghĩ tới những vấn đề này chưa? (Thưa, trước đây chúng con chưa từng nghĩ tới.) Lần đầu tiên tiếp xúc với những vấn đề này, liệu các ngươi có thể lý giải được chúng hay không? Có thể nắm bắt được không? (Thưa, chúng con có thể lý giải được phần nào.) Có ai cảm thấy chủ đề mà Ta giảng quá sâu xa và có chút trừu tượng, nghe giống như giảng triết lý, nên có chút không hiểu nổi không? Thông qua một vài biểu hiện cụ thể của ba phương diện là điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại mà chúng ta đã thông công mấy ngày qua, thì các ngươi không nên thấy những gì vừa giảng là trừu tượng, những biểu hiện cụ thể của ba phương diện này là điều mà ai cũng có thể hiểu được. Ngoài ra, có phải chúng ta cũng nên làm rõ mối quan hệ giữa ba phương diện này hay không? Nhân tính là nhân cách, phẩm chất, lương tâm và lý trí mà người ta bộc lộ trên cơ sở là điều kiện bẩm sinh cơ bản. Còn tâm tính bại hoại chính là những tâm tính được sống thể hiện ra trong nhân tính thông qua những điều kiện bẩm sinh, và chúng là các loại tâm tính khác nhau mà người ta bộc lộ ra khi họ bị sự sống do Sa-tan tiêm nhiễm nắm thế chủ đạo. Như vậy, cho dù người ta có những điều kiện bẩm sinh nào, thì đó chỉ là một vỏ ngoài cơ bản nhất, còn sự sống thực sự có thể nắm thế chủ đạo thực chất của một người chính là tâm tính bại hoại mà Sa-tan tiêm nhiễm cho họ. Nghĩa là, để phân định thực chất của một người là gì thì phải xem tâm tính mà họ bộc lộ ra là gì. Nếu tâm tính mà họ bộc lộ ra là những tâm tính bại hoại như kiêu ngạo, cương ngạnh, giả dối, tà ác hoặc hung ác, thì bất kể phẩm chất nhân tính của họ là thiện hay ác, thực chất của họ cũng là của Sa-tan mà thôi, bởi vì sự sống của họ là tâm tính bại hoại của Sa-tan. Cho nên, chuyện thuộc tính của một người là gì thì phụ thuộc vào sự sống mà họ có bên trong là gì, chứ không phụ thuộc vào điều kiện bẩm sinh của họ là gì. Nếu sự sống của họ là tâm tính bại hoại của Sa-tan, thì bất kể điều kiện bẩm sinh của người này bề ngoài trông có vẻ tôn quý hay vĩ đại đến đâu, thực chất của họ vẫn là của Sa-tan, và họ nằm trong số nhân loại bại hoại. Nếu như sự sống của một người là lấy lẽ thật làm sự sống, thì bất kể điều kiện bẩm sinh của họ bề ngoài trông có vẻ phổ thông và bình thường đến đâu, khiến người ta xem thường thế nào, thậm chí nếu bề ngoài họ có một vài yếu đuối, thiếu sót và khuyết điểm về mặt nhân tính, thì họ vẫn nằm trong nhân loại được cứu rỗi. Thực chất của họ thuộc về Đức Chúa Trời, chứ không thuộc về Sa-tan, thực chất của họ thay đổi rồi. Một khi thực chất thay đổi thì chuyện họ thuộc về phía nào cũng sẽ thay đổi – họ thuộc về lẽ thật, thuộc về Đức Chúa Trời. Cho nên, về chuyện một người thuộc về ai, có thực chất là gì và có kết cục cuối cùng là gì, thì yếu tố quyết định không phải là điều kiện bẩm sinh của người đó, đương nhiên cũng không hoàn toàn do nhân tính của họ, mà phải xem sự sống của họ là gì. Nếu từ đầu đến cuối, sự sống của họ luôn là lấy tâm tính bại hoại làm sự sống, và họ thuộc về Sa-tan, thì họ thuộc về Sa-tan; nếu họ lấy lẽ thật làm sự sống, thì họ thuộc về Đức Chúa Trời và điều mà họ thuộc về chính là về bên Đức Chúa Trời, về với đích đến tốt đẹp mà Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho nhân loại. Xét theo đủ loại biểu hiện và thực chất về mọi mặt, thì con người ngày nay thuộc về điều gì? Con người có sự sống lấy lẽ thật làm sự sống không? (Thưa, không có.) Vậy thì thực chất của con người rốt cuộc được quyết định bởi điều gì? (Thưa, bởi việc con người lấy điều gì làm sự sống.) Đúng vậy, nghĩa là sự sống bên trong ngươi thế nào thì thực chất của ngươi là thế ấy, nếu sự sống bên trong ngươi thay đổi, không lấy tâm tính bại hoại làm sự sống nữa, mà lấy lẽ thật làm sự sống, vậy thì về thực chất, ngươi thuộc về Đức Chúa Trời và lẽ thật rồi. Đương nhiên, thuộc tính này của con người không thay đổi, con người vẫn là con người, thuộc tính của con người vẫn là thuộc tính của nhân loại thọ tạo. Tuy nhiên, bởi vì sự sống của ngươi xảy ra sự thay đổi, cho nên điều ngươi thuộc về cũng sẽ xảy ra sự thay đổi. Nói tóm lại, điều kiện bẩm sinh chính là một vài điều kiện cơ bản cấu thành nhân loại thọ tạo. Nghĩa là ngươi chỉ cần được gọi là con người thọ tạo, thì nơi ngươi nhất định phải có những điều kiện bẩm sinh này, đây là điều kiện cơ bản. Nhân tính chính là sự bộc lộ và sống biểu hiện ra nhân tính bình thường của một người khi sống dưới điều kiện bẩm sinh. Tâm tính bại hoại chính là sự sống mà nhân loại bại hoại vốn có, nó ẩn dưới điều kiện bẩm sinh và lớp vỏ của nhân tính. Mối liên hệ và sự khác biệt giữa ba phương diện này và vai trò mà chúng đảm nhiệm hoặc tác dụng mà chúng phát huy trên nhân loại thọ tạo chính là như vậy. Trước đây, chúng ta đã thông công về một vài biểu hiện liên quan đến điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại mà người ta bộc lộ ra. Tuy nhiên, những nội dung liên quan đến ba phương diện này còn nhiều hơn những gì chúng ta đã thông công, cho nên, hôm nay chúng ta vẫn phải tiếp tục thông công về chủ đề này.

Về các dạng bộc lộ của điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại, lần trước chúng ta đã nói đến đâu rồi? Đã nói đến nhút nhát và gan dạ rồi phải không? (Thưa, phải.) Phần đó đã thông công đã xong. Giờ hãy nhìn xem biểu hiện nói chuyện lắp bắp và cà lăm là vấn đề thuộc phương diện nào? (Thưa, là điều kiện bẩm sinh.) Đây là điều kiện bẩm sinh, cũng là một khuyết điểm về mặt thể lý. Đương nhiên, các hình thức nói lắp có khác nhau. Có người kéo dài âm một chữ, có người thì lặp đi lặp lại một chữ, nửa ngày cũng chưa nói ra một câu hoàn chỉnh. Tóm lại, đây là điều kiện bẩm sinh, đương nhiên, nó cũng là một khuyết điểm về mặt thể lý. Khuyết điểm này có liên quan đến tâm tính bại hoại không? (Thưa, không liên quan.) Nó không liên quan đến tâm tính bại hoại. Nếu ai đó nói: “Anh nói chuyện lắp ba lắp bắp như vậy, chắc lòng dạ cũng chẳng vừa!” hoặc “Nói chuyện thì lắp bắp, mà sao anh lại kiêu ngạo như vậy?” Nói như vậy thì có chính xác không? (Thưa, không chính xác.) Nói lắp, khi là một khuyết điểm hoặc tật, thì chẳng liên quan gì đến bất kỳ phương diện nào trong tâm tính bại hoại của con người. Cho nên, nói lắp là điều kiện bẩm sinh, cũng là một khuyết điểm về mặt thể lý. Rõ ràng nó không liên quan đến tâm tính bại hoại của người ta, cũng không có bất kỳ quan hệ gì với tâm tính bại hoại của người ta. Cũng là nói lắp, nhưng còn có một trường hợp khác, đó là có người bình thường nói chuyện thì không cà lăm, nhưng khi ngươi hỏi họ gì đó, thì họ lại ấp a ấp úng, một câu nói mất nửa ngày, vậy mà ngươi vẫn không nghe ra được ý của họ là gì. Họ nói chuyện thì chẳng bao giờ đủ cụ thể, luôn bắt ngươi đoán ý của họ, ngươi đoán thế nào thì nó là vậy thôi, không thì họ chỉ cười trừ. Tóm lại, họ không trả lời trực tiếp câu hỏi của ngươi. Chẳng hạn như ngươi hỏi họ: “Anh từ đâu tới?”, họ nói: “Tôi… tôi… là ngươi lưu lạc và…” Nghe xong, ngươi vẫn không biết họ từ đâu tới. Hoặc ngươi hỏi họ: “Anh đánh giá tố chất của người kia như thế nào?” Họ nói: “Tố chất… của người đó… à… mọi người… chúng tôi… đều… cũng không… rõ lắm”. Tại sao họ lại nói theo kiểu cách quãng, đứt đoạn như vậy? Đây là nói lắp, cà lăm sao? Hình như không phải. Vậy tại sao họ lại nói chuyện như thế? Nếu không phải vì nguyên nhân nói lắp, cà lăm thì là vì cái gì? (Thưa, họ bị tâm tính bại hoại chi phối.) Đây rõ ràng là sự bộc lộ của một loại tâm tính. Nghĩa là khi biểu đạt hoặc làm một chuyện gì đó thì họ bị một loại tâm tính chi phối, tâm tính này chính là một phần trong sự sống của họ, nó chi phối họ nói năng và hành động để đạt được một mục đích nhất định. Mục đích đó là gì? Chính là để che giấu chân tướng sự thật, không nói cho ngươi biết chân tướng sự thật, không muốn nói cho thật rõ sự việc. Tại sao họ lại làm thế? Chính là vì họ cho rằng nếu nói ra sự thật thì họ sẽ phải gánh chịu hậu quả – hoặc là sẽ đắc tội với người khác, hoặc là sẽ gây bất lợi cho họ. Họ không muốn gánh chịu hậu quả này, không muốn để ngươi biết chân tướng sự thật. Đây là một phương thức, phong cách nói năng và hành động của họ dưới sự chi phối của tâm tính bại hoại. Loại sự sống chi phối họ hành động như vậy đại diện cho bản tính của họ, điều này chứng tỏ họ không hề có lẽ thật. Họ không nói chuyện theo nguyên tắc lẽ thật. Vậy, nói chuyện theo nguyên tắc lẽ thật thì phải nói như thế nào? Chính là làm người trung thực, như Đức Chúa Trời đã phán rằng: “Ngươi phải nói rằng: phải, phải; không, không”. Vậy họ có làm như thế không? (Thưa, không.) Họ làm như thế nào? Đúng, họ cũng không nói là đúng, sai, họ cũng không nói là sai, vậy họ dùng phương thức gì? Họ dùng những lời mơ hồ, dùng những phương thức giả dối và tà ác để biểu đạt ý mình, nhằm đạt mục đích bảo vệ bản thân. Họ dùng phương thức mà Sa-tan đã chỉ dạy và tiêm nhiễm cho họ để làm hoặc biểu đạt một chuyện gì đó. Đây rõ ràng là tâm tính bại hoại của Sa-tan, đây không phải là sự bộc lộ sơ qua của nhân tính, mà là sự bộc lộ của một phương thức làm việc dưới sự chi phối của tâm tính bại hoại của Sa-tan.

Tiếp theo, chúng ta tiếp tục nói về một biểu hiện nữa, đó là thích sự kích thích, không thích sự bình đạm; làm chuyện gì hay lựa chọn cách sống như thế nào đều là vì sự kích thích. Đây là vấn đề gì? Đầu tiên, đây có phải là hứng thú và sở thích trong điều kiện bẩm sinh hay không? (Thưa, phải.) Thật vậy sao? Suy nghĩ thật kỹ xem, rốt cuộc có phải vậy không. Xét về mặt lý tính của con người, thì thích sự kích thích có phải là chuyện bình thường không? (Thưa, không bình thường.) Vậy các ngươi phân loại nó là điều kiện bẩm sinh thì có thích hợp không? (Thưa, không thích hợp.) Nhìn qua như vậy là đã thấy không thích hợp rồi. Biểu hiện này thuộc về dạng vấn đề nào? Nếu nói, thích sự kích thích là tâm tính bại hoại, vậy đây là tâm tính bại hoại gì? Là kiêu ngạo, giả dối hay là hung ác? (Thưa, cả ba đều không phải.) Nó không liên quan đến bất kỳ dạng tâm tính bại hoại nào cả, vậy đây là vấn đề gì? (Thưa, là vấn đề về nhân tính.) Đây là vấn đề thuộc phương diện nào của nhân tính? Có phải là nó có chút không đúng mực không? (Thưa, phải.) Nó là làm người không có khuôn phép, không đúng mực, thích sự kích thích, và không an phận. Không an phận nghĩa là không có nhân tính bình thường. Chuyện này không liên quan đến lương tâm, mà chủ yếu là thể hiện người ta không có lý tính của nhân tính bình thường. Người như vậy thì không thể giữ một công việc và làm bổn phận theo cách có khuôn phép và an phận thủ thường. Họ không thể làm việc như người trưởng thành, không có tư tưởng chín chắn, không có phong cách làm người hay phương thức làm việc chín chắn. Ít nhất, đây cũng là một khuyết điểm của nhân tính. Đương nhiên, chuyện này chưa đến mức là vấn đề về phẩm chất nhân tính, mà chỉ liên quan đến một dạng thái độ trong cách hành xử và hành động. Thích sự mới mẻ, thích sự kích thích, làm chuyện gì cũng không được đều đặn, không thể kiên trì, không an phận, không có khuôn phép, luôn muốn tìm kiếm sự kích thích và làm những trò mới lạ – những vấn đề kiểu này là khuyết điểm về nhân tính. Loại người thích sự kích thích này thì thiếu lý tính của nhân tính bình thường, không dễ đảm đương trách nhiệm và công việc mà người trưởng thành nên đảm đương. Khi làm bất kỳ công việc gì, chỉ cần qua một thời gian dài và không còn cảm giác mới mẻ nữa, thì họ liền cảm thấy chán ngán, không có tâm tư để làm nữa, chỉ muốn tìm kiếm cảm giác mới mẻ và kích thích. Không có sự kích thích thì họ cảm thấy bình đạm, thậm chí còn cảm thấy thế giới tinh thần của mình thật trống rỗng. Họ có cảm giác như vậy thì lòng họ sẽ không an phận nữa, sẽ muốn tìm kiếm sự kích thích và những chuyện làm họ hứng thú. Lúc nào họ cũng muốn làm những chuyện khác người. Khi làm công tác gì hoặc là làm chuyện gì mà họ cảm thấy nhạt nhẽo, vô vị thì họ không muốn làm nữa. Cho dù đó là công tác nên làm hoặc là công tác có ý nghĩa và giá trị đi chăng nữa, thì họ cũng không kiên trì tiếp được. Ngươi thấy đấy, giữa những người ngoại đạo có không ít người thường xuyên sử dụng ma túy, bất kể là do nguyên nhân gì, họ thích dùng ma túy để tìm cảm giác kích thích, tìm kiếm một vài cảm giác phi lý tính và vượt quá những gì bình thường của con người. Những người thích sự kích thích này cũng giống như những người dựa vào việc sử dụng ma tuý để tìm kiếm sự kích thích. Trong việc làm người, họ không có lý tính của người bình thường, trong lòng lúc nào cũng thích mưu cầu những cảm giác siêu nhiên và không phù hợp với thực tế để lựa chọn cách sống của mình, như vậy thì rất nguy hiểm. Nhìn bề ngoài, thường thì loại người này không có vấn đề gì lớn. Nếu ngươi không phân định được hoặc không nhìn thấu được thực chất của loại người này hoặc thực chất của vấn đề này, thì ngươi sẽ cho rằng: “Chỉ là người này có tâm tính không ổn định thôi, 30, 40 tuổi rồi mà vẫn như trẻ con, chưa trưởng thành”. Thực ra, trong sâu thẳm nội tâm, loại người này đang không ngừng tìm kiếm sự kích thích. Bất kể làm chuyện gì, họ cũng không có tư tưởng và ý thức của người trưởng thành, cũng không có phương thức và thái độ làm việc của người trưởng thành. Cho nên, loại người này rất phiền phức. Cũng có thể nhân tính của họ không xấu, phẩm chất nhân tính cũng không quá tồi tệ, nhưng chính vì có khuyết điểm về nhân tính này, nên họ sẽ rất khó đảm đương được những công tác lớn, nhất là một vài công tác quan trọng. Ngươi thông công lẽ thật với họ thì họ nói “Cái gì tôi cũng hiểu, chỉ là không làm được thôi”. Họ không thể sống và làm việc với một thái độ có khuôn phép và an phận của người bình thường, lòng họ chẳng bao giờ chịu an phận. Những ai có loại biểu hiện này cũng là người rất phiền phức. Ta nói đến đây là xong phần những biểu hiện về phương diện thích sự kích thích.

Tiếp theo, chúng ta sẽ nói về sự nhạy cảm. Hãy dùng phương thức đơn giản nhất để phân loại, trước tiên là dùng phương pháp loại trừ. Nhạy cảm có phải là điều kiện bẩm sinh hay không? (Thưa, không phải.) Vậy nó có phải là tâm tính bại hoại không? (Thưa, không phải.) Nếu một người có biểu hiện nhạy cảm, thì đây có phải là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại không? (Thưa, không phải.) Nhạy cảm không phải là khi ngươi ăn xong một loại thức ăn nào đó rồi bị ngứa, hoặc sau khi ngửi một mùi gì đó thì bị hắt hơi, chảy nước mắt. Nhạy cảm không phải là dị ứng phấn hoa hay dị ứng đậu phộng, cũng không phải là dị ứng với bất kỳ chất bảo quản hoặc hóa chất nào – nhạy cảm không phải là nói đến sự mẫn cảm của thể xác. Sự mẫn cảm của thể xác nghĩa là ngươi có thể chất nhạy cảm, rất dễ có một vài phản ứng dị ứng do mùi hương hoặc vật chất từ bên ngoài nào đó gây hại cho cơ thể, đây là sự mẫn cảm của thể xác. Sự mẫn cảm của thể xác chỉ là bản năng nằm trong điều kiện bẩm sinh, là thể chất bẩm sinh. Còn nhạy cảm mà chúng ta nói ở đây không phải nói về điều đó. Chúng ta đã loại trừ điều kiện bẩm sinh, hơn nữa, trong trường hợp bình thường, loại nhạy cảm này chưa lên đến mức tâm tính bại hoại, nghĩa là nó không có sự bộc lộ cụ thể của tâm tính bại hoại, vậy thì sự nhạy cảm này là dạng vấn đề gì? (Thưa, là vấn đề về nhân tính.) Đây là ưu điểm hay khuyết điểm của nhân tính? (Thưa, là khuyết điểm của nhân tính.) Rõ ràng là khuyết điểm của nhân tính, nếu còn không nhìn ra được như vậy thì các ngươi quá ngu muội rồi. Nhạy cảm có tốt không? Nếu đã là khuyết điểm của nhân tính thì chắc chắn là không tốt. Nhạy cảm nghĩa là gì? Dùng lời lẽ của các ngươi mà nói thử xem nào. (Thưa, là thần kinh quá nhạy cảm.) Thần kinh quá nhạy cảm có phải là bệnh thần kinh không? Ngươi nói xem, bình thường thần kinh của người ta có bị quá nhạy cảm không? Thần kinh nằm trong mô cơ của con người, không tiếp xúc với không khí, bụi bặm hay các chất bên ngoài, vậy thì làm sao có thể quá nhạy cảm được? Nếu một người lúc nào cũng nhạy cảm, thì chẳng phải họ có vấn đề về tư tưởng hay sao? Tư tưởng có vấn đề thì có phải là thần kinh cũng có vấn đề không? (Thưa, phải.) Thần kinh có vấn đề là do tư tưởng chỉ đạo, mà đã do tư tưởng chỉ đạo thì đó chính là vấn đề về phương diện nhân tính. Gặp phải một ánh mắt, một câu nói, một cách dùng từ nào đó của người khác, hoặc là gặp một hoàn cảnh hay sự việc nào đó, thì họ sẽ giải thích quá lên, đối chiếu với bản thân, sau đó rơi vào cảm xúc căng thẳng, ức chế, buồn bã, chán nản, thậm chí rơi vào tiêu cực, hoặc tệ hơn nữa, họ sẽ có những biểu hiện tiêu cực như trả thù, thù hằn, v.v.. Những biểu hiện này đã chứng minh đầy đủ rằng nhạy cảm là một dạng khuyết điểm của nhân tính. Khuyết điểm nghĩa là, nếu ngươi có dạng vấn đề này, thì nhân tính mà ngươi bộc lộ ra sẽ không bình thường. Bất kể vấn đề này do tư tưởng, thần kinh, lý trí hay quan niệm và quan điểm cụ thể về phương diện nào đó của ngươi gây ra, thì tóm lại, đây là một khuyết điểm về nhân tính. Nó khiến nhân tính mà ngươi bộc lộ ra sẽ không bình thường, không phù hợp với lý tính và lương tâm của nhân tính bình thường, cũng không phù hợp với tư tưởng, quan điểm được nảy sinh từ lối tư duy của nhân tính bình thường, không phù hợp với thái độ mà người ta nên có khi đối nhân xử thế. Tóm lại, về thực chất, điều được bộc lộ trong khía cạnh nhân tính này là một trạng thái thần kinh không bình thường. Giống như có người, vì người khác vô tình liếc họ một cái mà trở nên quá nhạy cảm thần kinh, cho rằng người đó coi thường họ, thế là họ không vui, còn khó chịu đến mức bật khóc. Các ngươi nói xem, đây có phải thần kinh không bình thường không? Có phải họ bị bệnh thần kinh không? Ta nói vậy có chính xác không? (Thưa, chính xác.) Nói cho chính xác thì biểu hiện này của nhân tính chính là bệnh thần kinh. Người khác chẳng làm gì họ, mà họ lại khóc bù lu bù loa suốt mấy ngày, mãi không vượt qua được chuyện này. Đây là khuyết điểm về nhân tính. Khi xung quanh ngươi có loại người này, thì ngươi sẽ cảm thấy vô cùng ức chế, không tự do và chẳng biết khi nào sẽ rước họa vào thân hoặc chuốc lấy rắc rối cho mình. Trước mặt họ, ngươi phải nói chuyện hết sức cẩn thận, trong cách dùng từ cũng phải suy đi nghĩ lại: “Nếu mình nói từ này ra, liệu anh ấy có cảm thấy mình coi thường anh ấy không? Nếu mình không nói chuyện với anh ấy, liệu anh ấy có cho rằng mình có ý kiến với anh ấy không? Nếu mình chỉ nói với anh ấy vài câu, liệu anh ấy có nghĩ rằng mình có ý đồ gì với anh ấy không? Rốt cuộc phải làm thế nào mới thích hợp đây?” Cuối cùng, ngươi rút ra một kết luận rằng: loại người này bị bệnh thần kinh, thực sự rất phiền phức! Ngươi tiếp xúc với họ kiểu gì cũng không ổn, dù ngươi nói gì hay làm gì, thì họ cũng không bao giờ tiếp cận cho đúng đắn được. Nhân tính của họ đặc biệt bất thường, tiếp xúc với loại người này lâu ngày thì ngươi chỉ muốn lánh xa họ, tránh né họ, không muốn tiếp xúc với họ nữa. Loại người này không có tư duy của nhân tính bình thường, nghĩa là họ bị bệnh thần kinh. Nhạy cảm chính là nói đến những biểu hiện này, đây là khuyết điểm về nhân tính. Tuy là khuyết điểm về nhân tính, nhưng nó không đơn giản như tâm tính bại hoại. Nếu nhân tính của người ta có khuyết điểm hay vấn đề, thì khi họ tiếp xúc với người khác sẽ nảy sinh rất nhiều phiền phức, sẽ khó mà chung sống với họ, cũng khó mà chỉnh đốn họ. Đây là một biểu hiện của nhân tính.

Tiếp theo, hãy nói đến một biểu hiện nữa – cố chấp. Đây là vấn đề gì? (Thưa, là khuyết điểm về nhân tính.) Trước hết, hãy loại trừ điều kiện bẩm sinh, cố chấp chắc chắn không phải là điều kiện bẩm sinh, nó không phải thứ mà Đức Chúa Trời ban cho. Ngoài ra, cố chấp cũng chưa đến mức của tâm tính bại hoại. Do đó, nó chỉ là khuyết điểm về nhân tính. Những biểu hiện cụ thể của cố chấp là gì? Cố chấp và vô lý có mối liên hệ nhất định nào không? (Thưa, có một chút.) Ở một mức độ nào đó, thì chúng có mối liên hệ nhất định. Vậy, cố chấp có những biểu hiện nào? Các ngươi cho một ví dụ đi. Loại người nào thì dễ cố chấp? Những lời nói và hành động nào là biểu hiện của sự cố chấp? (Thưa, khi người cố chấp gặp phải một vài con người, sự việc và sự vật thì họ khá thích xoáy vào chuyện vụn vặt.) Thích xoáy vào chuyện vụn vặt, một mặt là như vậy. Cho một ví dụ đi, họ thường xoáy vào chuyện vụn vặt trong những chuyện gì? (Thưa, khi có người chỉ ra vấn đề của họ, thì họ lại thích viện lý do và nguỵ biện, lúc nào cũng bám lấy một câu nói hoặc một cách dùng từ để biện bạch cho mình, nghĩa là họ không tiếp nhận lẽ thật, cũng không tiếp nhận tỉa sửa, luôn nói lý lẽ của mình để biện hộ cho mình, còn giải thích nguyên nhân tại sao mình làm như vậy.) Khi người khác tỉa sửa họ hoặc thông công nguyên tắc lẽ thật cho họ, thì họ không tiếp nhận. Thay vào đó, họ luôn nhấn mạnh lý do và cái cớ của mình, nói rằng ý định của mình là đúng, và họ không hề nhận thức được lỗi lầm của mình. Đây chính là một loại biểu hiện của xoáy vào chuyện vụn vặt. Có người làm xằng làm bậy nên bị cách chức, họ không phản tỉnh bản thân, mà còn nói: “Dù sao Đức Chúa Trời cũng không thích tôi, mà tôi cũng đâu phải là người yêu thích lẽ thật, thôi thì cứ vậy đi, cố gắng vươn lên cũng vô ích”. Có người khuyên họ: “Anh không thể tiêu cực như vậy được, tố chất của anh có thể hiểu được lẽ thật, anh nên cố gắng vươn lên đi!” Thì họ trả lời: “Nếu Đức Chúa Trời đã tiền định rằng anh không đạt được đích đến tốt đẹp, thì anh có cố gắng vươn lên cũng vô ích, anh bỏ ra bao nhiêu sức lực hoặc có biểu hiện tốt thế nào cũng vô ích mà thôi”. Trong lòng họ lúc nào cũng hiểu lầm Đức Chúa Trời và kèn cựa với Ngài. Người khác có nói gì, thì họ cũng không tiếp nhận. Dù những gì ngươi nói có phù hợp với tình trạng của họ đến đâu, có thể giúp đỡ họ có chút xoay chuyển và tiến bộ đến đâu, thì họ vẫn không tiếp nhận, mà cứ khăng khăng rằng ý nghĩ của mình là đúng. Đây có phải là một loại biểu hiện của sự cố chấp không? (Thưa, phải.) Họ cứ một mực cho rằng: “Đức Chúa Trời không yêu thích tôi, tôi có làm chuyện gì thì Ngài cũng không ân đãi tôi – tôi bị Đức Chúa Trời gạt bỏ rồi. Tôi biết mình không phải là người yêu thích lẽ thật, nên có cố gắng vươn lên cũng vô ích. Nếu có thể làm bổn phận thì tôi sẽ làm một chút, nói tôi là kẻ đem sức lực phục vụ thì tôi cũng chấp nhận, dù sao tôi cũng cứ đi theo như vậy! Chỉ cần có một tia hy vọng thì tôi sẽ không rời đi”. Trên thực tế, xét về tố chất và điều kiện mọi mặt, thì họ không nên tiêu cực đến mức này – họ vẫn có thể làm một vài chuyện có giá trị, khi làm bổn phận vẫn có thể đạt được một vài kết quả. Tuy nhiên, chỉ vì sự cố chấp của mình mà họ không chịu cố gắng vươn lên, không xoay chuyển cũng không hối cải, trong lòng chỉ cho rằng Đức Chúa Trời không ân đãi mình. Họ cho rằng người khác đều nhận được sự sáng hoặc khai sáng lớn nhỏ khác nhau và thường được Đức Chúa Trời ân đãi, còn họ thì không cảm nhận được gì, nên trong lòng họ có chút oán trách Đức Chúa Trời. Đây có phải là cố chấp không? (Thưa, phải.) Một vài người cho rằng, “Nhà Đức Chúa Trời toàn đề bạt và bồi dưỡng những người biết ăn nói, có sở trường và ân tứ, biết thể hiện bản thân. Còn loại người như chúng ta, không biết thể hiện bản thân và không có tài ăn nói, thì nhà Đức Chúa Trời chẳng để mắt đến, Đức Chúa Trời cũng không ban cho chúng ta cơ hội. Chúng ta có tài cán cũng vô ích, có tố chất và năng lực lĩnh hội cũng chẳng ích gì, đều bị gạt sang một bên. Nhất là do chúng ta xuất thân nghèo hèn, ngoại hình bình thường, lại không biết ăn mặc, dù ở đâu cũng không nổi bật hơn người được. Cả đời này chúng ta sẽ cứ như vậy – không có địa vị ở trên thế gian, cũng không có địa vị trong nhà Đức Chúa Trời”. Đây có phải là một loại biểu hiện của sự cố chấp không? (Thưa, phải.) Xét từ hai ví dụ này, các ngươi có thể nói rõ rốt cuộc cố chấp là gì không? (Thưa, là ngoan cố bám chặt ý nghĩ của mình, ai nói cũng không nghe.) (Thưa, là “cứng nhắc”.) Nói theo kiểu thông tục thì là “cứng nhắc”, nhưng “cứng nhắc” chưa chắc đã là cố chấp, còn phải xem cái lý mà họ giữ chặt có đúng đắn hay không. Nếu như cái lý mà người ta giữ chặt là đúng đắn, thì cũng coi như đó là điều tốt. Chẳng hạn như có người cứng nhắc nói: “Bất kỳ lúc nào, con người cũng phải làm theo lương tâm”, vậy cái lý này cũng coi như tương đối tích cực. Nhưng khi cái lý người ta giữ chặt lại không đúng đắn, cũng không phù hợp với sự thật, mà người ta cứ khăng khăng không chịu buông, người khác nói thế nào cũng không thay đổi được tư tưởng và quan điểm của họ, thì đây chính là cố chấp. Cố chấp chính là một lối nhận thức lệch lạc, nghĩa là người ta ngu xuẩn và ngoan cố giữ chặt một loại tư tưởng và quan điểm lệch lạc. Nó không phù hợp với nhân tính, cũng không phù hợp với lẽ thường, lại càng không phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời, đương nhiên, nó cũng không có chút quan hệ gì với lẽ thật. Cố chấp nghĩa là dưới sự chi phối của huyết khí và cảm xúc của nhân tính, người ta cứ khăng khăng với tư tưởng và quan điểm lệch lạc của mình, người có loại biểu hiện này chính là người cố chấp. Chẳng hạn như, có người khi tiếp nhận tỉa sửa và nhận biết được bản thân, thì liền cảm thấy mình đã làm sai trong chuyện này và nên hối cải, cho rằng đây là một vi phạm, bị tỉa sửa là đúng, may mà mình được tỉa sửa kịp thời, nếu không được tỉa sửa thì mình sẽ gây ra sai lầm nghiêm trọng. Nhưng người cố chấp thì không cho là như vậy, họ nói: “Tỉa sửa tôi là coi thường tôi, là thấy tôi không vừa mắt nên gây sự với tôi. Có lẽ do tôi rơi trúng vào tâm bão, do tôi gặp xui xẻo, đúng lúc người ta đang bực tức mà không có chỗ xả giận nên mới trút lên người tôi bằng cách tỉa sửa tôi”. Người khác nói: “Không phải như anh nghĩ đâu. Sao anh không kiểm điểm xem mình đã làm sai chuyện gì? Khi làm chuyện đó, anh có làm theo nguyên tắc không? Có làm trái với nguyên tắc lẽ thật không?” Họ chẳng kiểm điểm những điều này, mà cứ dùng cảm xúc và huyết khí để phân tích, lý giải và tiếp cận mấy chuyện này. Tóm lại, trong hầu hết trường hợp, người cố chấp đều không tiếp nhận những điều tích cực và lẽ thật, ngay cả những tư tưởng và quan điểm tích cực, họ cũng không tiếp nhận. Bất kể gặp chuyện gì hoặc gặp hoàn cảnh nào, họ đều tiếp cận bằng phương thức cố chấp, hơn nữa, họ còn giữ chặt nó theo kiểu chắc chắn tuyệt đối. Ngươi thông công lẽ thật cho họ thì họ cũng không tiếp nhận, còn cho rằng những thứ mà họ khăng khăng giữ ấy hoàn toàn phù hợp với sự thật. Họ thường nói câu gì nào? Là “Tai nghe là giả, mắt thấy là thật, những gì tôi nhìn thấy mới là sự thật. Cho dù điều anh nói là lẽ thật, nhưng anh không nhìn thấy nó thì không có quyền lên tiếng”. Họ cho rằng những gì họ nhìn thấy là sự thật, về thực chất, sự thật đó bày ra bề ngoài như thế nào thì chính là như vậy. Ngươi có nói lẽ thật cũng vô ích – trong mắt họ, lẽ thật chỉ là vỏ bọc, là chiêu bài, là những lời nói dễ nghe, cho nên họ không tiếp nhận. Họ cứ một mực cho rằng: “Những gì tôi nói là thật, không phải nói dối, bởi vì tôi đã nhìn thấy chân tướng sự thật, đã nhìn thấy quá trình sự thật xảy ra”. Chẳng hạn như, nếu người cố chấp nhìn thấy hai vợ chồng cãi nhau, cả hai đều hét lên là muốn ly hôn, thì họ sẽ nhận định rằng hai người đó chắc chắn sẽ ly hôn. Người khác nói: “Anh thấy họ cãi cọ và muốn ly hôn thế đấy, nhưng chưa chắc họ đã thật lòng muốn ly hôn. Trong lúc nóng giận, người ta toàn nói những lời tàn nhẫn. Nhưng trên thực tế, hai người này bình thường rất yêu thương nhau, họ đã có nền tảng tình cảm. Mặc dù cãi nhau cả đời, họ vẫn không thể sống thiếu nhau. Người vợ nói với những người biết chuyện của họ rằng hai người họ không thể nào ly hôn. Cho nên, dựa vào những sự thật này và lối sống bình thường của hai người họ, thì họ không thể nào ly hôn”. Người cố chấp vẫn không tin. Sau đó, thấy hai người kia thực sự vẫn chưa ly hôn, nhưng họ cứ khăng khăng cho rằng: “Bây giờ chẳng qua là bề ngoài chưa ly hôn thôi, thực ra họ đã sớm bí mật âm thầm ly hôn, vì con cái nên mới không công khai thôi”. Ngươi xem, họ cứ nhất quyết bám lấy chuyện này. Họ chỉ tin vào đôi mắt của mình, tin vào sự phán đoán của mình, hơn nữa còn cứng đầu cứng cổ cho rằng phán đoán, suy nghĩ và quan điểm của mình là đúng. Cho dù sự thật không phải như thế hoặc căn nguyên và thực chất của vấn đề không phải như thế, họ vẫn cho là như thế. Khi nhận thức bất kỳ sự việc nào, họ đều dựa vào thiên kiến, huyết khí và cảm xúc của mình, chứ không biết phán đoán theo tính chất của sự thật hoặc căn nguyên của vấn đề. Cho dù sự việc đã có thay đổi rồi, nhưng cách nhận thức, suy nghĩ và quan điểm của họ vẫn như cũ, không thay đổi. Đây chính là biểu hiện của những người cố chấp.

Khi người cố chấp gặp phải những vấn đề cụ thể, cách họ xử lý vấn đề và tâm tính mà họ bộc lộ có liên quan đến tâm tính bại hoại. Cố chấp là một khuyết điểm lớn của nhân tính, đương nhiên, nó vẫn chưa đến mức phẩm chất nhân tính và nhân cách, mà chỉ liên quan đến một loại thái độ, tư tưởng và quan điểm trong cách đối nhân xử thế. Nếu ai đó cố chấp, thì vậy là đủ để chứng tỏ nhân tính của họ có khuyết điểm. Khi khuyết điểm này bộc lộ ra trong một sự việc cụ thể, thì những gì họ bộc lộ không chỉ là khuyết điểm của nhân tính nữa. Nếu như gặp một chuyện gì đó mà họ cứ một mực khăng khăng với nhận thức và quan điểm lệch lạc của mình, còn tưởng rằng chúng phù hợp với lẽ thật, ai thông công lẽ thật họ cũng nghe không vào, hơn nữa còn nảy sinh một vài cách làm và cách nói cố chấp, thì đây không chỉ là vấn đề về nhân tính. Nó đã nâng lên mức độ vấn đề về tâm tính, cũng nâng lên mức độ tâm tính bại hoại rồi. Chẳng hạn như chuyện tiếp nhận sự tỉa sửa, nếu họ làm việc trái nguyên tắc, làm xằng làm bậy, thì họ nên tiếp nhận sự tỉa sửa. Ngay cả khi họ không tiếp nhận sự tỉa sửa thì cũng nên tiếp nhận sự xử phạt và trách phạt tương ứng. Thế nhưng, thay vì đón nhận một cách đúng đắn, họ lại oán trách là do mình xui xẻo, nói rằng: “Do mình lỡ bước vào trước họng súng. Người tỉa sửa mình đang bực tức không có chỗ xả giận, đúng lúc gặp phải chuyện này nên đã tỉa sửa mình”. Tư tưởng, quan điểm và thái độ của họ đối với việc bị tỉa sửa chính là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại. Đây là dạng tâm tính bại hoại nào? (Thưa, là cương ngạnh và chán ghét lẽ thật.) Là chán ghét lẽ thật và cương ngạnh. Nghĩa là tư tưởng và quan điểm nhìn nhận con người và sự việc của họ mang tính cố chấp của nhân tính họ, nhưng tâm tính bại hoại có thể làm nảy sinh những tư tưởng và quan điểm cố chấp đó chính là cương ngạnh và chán ghét lẽ thật. Vậy thì thực chất của vấn đề này nghiêm trọng rồi, người như vậy chính là kẻ chẳng tin. Cố chấp là khuyết điểm của nhân tính. Tâm tính bại hoại liên quan đến cố chấp có đặc trưng gì? Chính là cương ngạnh và chán ghét lẽ thật – như vậy là đã nâng lên mức độ tâm tính bại hoại rồi. Từ điểm này, các ngươi phát hiện được điều gì? Có một vài khuyết điểm trong nhân tính, nếu liên quan đến tư tưởng, quan điểm và thái độ hành xử, hành động của con người, thì chúng sẽ lên đến mức độ tâm tính bại hoại. Chẳng hạn như, cà lăm là khuyết điểm của nhân tính, người nói cà lăm thì dù nói gì cũng cà lăm. Vốn dĩ cà lăm không phải là tâm tính bại hoại, cũng chưa lên đến mức độ tâm tính bại hoại. Nhưng nếu người ta dùng cách cà lăm để nói ra những lời chứa một vài suy nghĩ nhất định, và những suy nghĩ này nảy sinh dưới sự chi phối của tâm tính bại hoại, vậy bất kể người ta có cà lăm hay không thì những suy nghĩ đằng sau lời nói của họ đều liên quan đến tâm tính bại hoại. Nói cà lăm là một vấn đề về phát âm, nó không liên quan gì đến tâm tính bại hoại. Nhưng tư tưởng và quan điểm đằng sau việc lợi dụng lối nói cà lăm chính là do tâm tính bại hoại khởi phát hoặc gây ra. Ngươi thấy đấy, khi một khuyết điểm trong nhân tính có liên quan đến điều kiện bẩm sinh thì nó sẽ không liên quan đến tâm tính bại hoại. Nhưng nếu khuyết điểm trong nhân tính có liên quan đến những thứ xấu xa, lệch lạc, tiêu cực trong phẩm chất nhân tính, thì nó sẽ liên quan đến tâm tính bại hoại. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.)

Chúng ta tiếp tục nói đến một biểu hiện nữa, đó là sự tê dại. Đây là vấn đề về gì? (Thưa, là khuyết điểm của nhân tính.) Sự tê dại là khuyết điểm của nhân tính. Những biểu hiện thông thường của sự tê dại nơi con người là gì? Là khi hành động thì phản ứng không lanh lẹ, động tác chậm chạp và thiếu linh hoạt, khi suy nghĩ vấn đề thì ít ý tưởng hoặc các phương diện vấn đề có thể suy ngẫm được tương đối hạn hẹp. Những biểu hiện này đều được gọi là tê dại. Sự tê dại liên quan đến phương diện nào trong nhân tính? Nó liên quan đến chiều sâu trong cách người ta nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động, cũng liên quan đến trí thông minh hoặc tố chất của người ta trong cách nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động. Thường thì người ta dùng từ “tê dại” để miêu tả những loại người nào? (Thưa, để miêu tả người có tố chất khá kém.) Tê dại là nói đến người có tố chất kém, có trí thông minh kém, phản ứng chậm chạp – có những biểu hiện này thì chính là bị tê dại, nó là một khuyết điểm lớn về mặt nhân tính. Tê dại ở đây không phải nói đến chuyện tay chân của ngươi bị tê và mất cảm giác, không phải nói đến sự tê dại của thể xác; cũng không phải nói đến tính cách chậm chạp, cứng đơ, không linh hoạt; mà là nói đến phản ứng về mặt tư tưởng hoặc là biểu hiện trí thông minh của người ta khi xử lý vấn đề. Thông thường, loại người này thường rơi vào trạng thái tê dại, ngớ ngẩn, không có phản ứng với những con người, sự việc và sự vật xung quanh mình. Nghĩa là họ nhìn thấy sự việc đấy, nhưng lại nhìn không thấu được thực chất của sự việc là gì, cũng không phát hiện được vấn đề trong đó. Khi ngươi nhắc nhở họ rằng trong chuyện này có vấn đề, thì họ còn chẳng có phản ứng gì, không biết rằng đó là vấn đề. Ngay cả khi có người chỉ ra vấn đề cho họ, thì họ cũng không nhìn thấu được tính nghiêm trọng của vấn đề hay thực chất của vấn đề. Cho nên, họ xử lý nhiều chuyện rất chậm chạp. Đây chính là tê dại. Tự thân sự tê dại là một khiếm điểm trong nhân tính. Loại người tê dại này, bất kể đã bao nhiêu tuổi, bất kể có bộ phận nào trên thân xác họ bị tê liệt hay không, thì xét từ biểu hiện của họ về phương diện nhân tính này, họ không làm được công tác cụ thể và mang tính thực chất nào, cũng không đảm đương được những công việc có tính kỹ thuật cao hoặc tính nghiệp vụ đặc biệt chuyên sâu. Đương nhiên, loại người này cũng không làm lãnh đạo và người làm công được. Nếu lãnh đạo và người làm công bị tê dại, thì công tác mà họ làm sẽ xuất hiện rắc rối, sẽ dậm chân tại chỗ và rơi vào trạng thái tê liệt. Bởi vì họ không phát hiện ra vấn đề, cũng không thể kịp thời giải quyết vấn đề, cho nên, khi các loại vấn đề xuất hiện, họ cũng không phát hiện được, rồi vấn đề cũng không được giải quyết. Mắt họ không nhìn thấy vấn đề thì họ sẽ không bắt tay vào giải quyết, sẽ không biết công tác nào quan trọng nhất cần làm. Hằng ngày, họ chỉ biết làm chút công tác bề ngoài theo thông lệ. Bề trên ban hành sự sắp xếp công tác gì, họ cũng truyền lại xuống dưới, nhưng sau khi truyền xuống thì họ chẳng biết chút gì về chuyện liệu công tác có thể thực hiện đến nơi đến chốn không, có thể đạt được kết quả gì, hoặc hiệu ứng nối tiếp sẽ thế nào. Chuyện gì họ cũng không nhìn thấu, bất kể xung quanh có bao nhiêu người đang hành ác, gây nhiễu loạn và gián đoạn, họ cũng không thấy được; có bao nhiêu công tác cần theo sát, có những công tác cụ thể nào cần được thực hiện, họ cũng không biết. Có người hỏi họ: “Anh đã bố trí và sắp xếp công tác chưa?” Họ trả lời: “Đã sắp xếp xong xuôi, tôi đã thông công với họ, đã đọc cho họ nghe sự sắp xếp công tác một lượt, mọi người đều biết cả rồi”. Đây là thực hiện sự sắp xếp công tác sao? (Thưa, không phải.) Thực hiện sự sắp xếp công tác thì trước hết phải sắp xếp thật tốt chức trách của lãnh đạo và người làm công, còn phải nói cụ thể cho họ biết lãnh đạo nào nên làm công tác nào và bảo đảm mỗi một công tác đều được phân cho những người cụ thể. Ngoài ra, còn phải nói rõ cho các lãnh đạo và người làm công biết cụ thể nên làm như thế nào và dựa theo những nguyên tắc nào, để mọi người đều biết cách làm, như vậy mới là bố trí công tác. Có một vài người làm công tác mà chỉ đọc to sự sắp xếp công tác cho mọi người nghe, sau đó để mọi người tự thảo luận về nhận thức và sự lĩnh hội là coi như xong việc. Chỉ cần thấy mọi người bận rộn làm bổn phận, là họ cho rằng bản thân đã thực hiện tốt sự sắp xếp công tác rồi. Lúc đó mà ngươi hỏi họ: “Các anh chị em có gặp khó khăn gì khi làm bổn phận không? Còn tồn tại vấn đề gì không? Anh có thông công để giải quyết vấn đề không?” Thì họ đáp: “Tôi không nghe nói có vấn đề gì cả, để tôi đi tìm hiểu cái đã”. Thực ra là người phụ trách công tác không nêu lên vấn đề hay khó khăn mà thôi, chứ khó khăn luôn luôn tồn tại, bởi vì họ quá tê dại nên mới không phát hiện ra. Chẳng hạn như, có hai người làm bổn phận mà không phối hợp được với nhau, lại còn tranh giành địa vị, chuyện này làm ảnh hưởng đến công tác, thế mà họ cũng không nhìn ra, lại còn nói: “Mối quan hệ của hai người họ rất tốt, vẫn nói chuyện và trao đổi cùng nhau, nếu không phối hợp được thì họ đã không nói chuyện với nhau rồi”. Có người hỏi: “Vậy hai người họ có tranh giành địa vị không? Có thể phối hợp hài hòa không?” Thì họ trả lời: “Cái này tôi vẫn chưa rõ”. Sau khi tìm hiểu, họ mới phát hiện ra rằng hai người đó không phối hợp với nhau được, hơn nữa còn kèn cựa với nhau, lúc giảng đạo thì so bì xem ai giảng cao hơn, ai nói to hơn và nói lâu hơn. Những việc này đã bị dân được Đức Chúa Trời chọn nhìn thấy từ lâu. Nếu ngươi hỏi họ: “Những vấn đề này đã được giải quyết kịp thời chưa?” Họ sẽ nói: “Vẫn chưa được giải quyết, tôi không biết đây là công tác tôi nên làm”. Vấn đề lớn đến thế mà cũng không biết giải quyết, như vậy có phải là thiểu năng trí tuệ không? (Thưa, phải.) Họ đọc to sự sắp xếp công tác một lượt, rồi yêu cầu mọi người bày tỏ thái độ, thề thốt làm tốt bổn phận, sau đó coi như xong việc rồi. Trong lòng họ còn nghĩ: “Mình đã nhớ được ai là lãnh đạo hội thánh, ai phụ trách cụ thể hạng mục công tác nào, ai phụ trách công tác làm phim”, nhưng họ lại không thể nhìn ra những hạng mục công tác cụ thể đó nên tiến hành như thế nào. Đây chính là bộ dạng tê dại và ngớ ngẩn – họ là một kẻ đần độn. Vấn đề gì, họ cũng không phát hiện được, nguyên tắc lẽ thật về bất kỳ phương diện nào, họ cũng không biết cách thông công. Đối với những vấn đề có liên quan đến nguyên tắc lẽ thật thì họ chẳng biết cách thông công lẽ thật để giải quyết. Đối với những vấn đề liên quan đến công tác nhân sự và công tác hành chính thì họ cũng không nhìn ra. Ngay cả khi nhìn thấy ai đó không làm được công tác, họ cũng không biết cách giải quyết. Chuyện gì họ cũng không nhìn thấu, đây chính là tê dại. Họ biết nói chút đạo lý, chứ không đảm nhiệm được công tác – họ mang một bộ dạng tê dại và ngớ ngẩn. Ngươi nói xem, người như vậy có phải là lãnh đạo đạt tiêu chuẩn không? (Thưa, không phải.) Nếu lãnh đạo và người làm công mà tê dại thì rắc rối rồi, công tác nào họ cũng làm không được. Công tác nên làm thì họ không làm, người ta phản ánh vấn đề thì họ cũng không xử lý, vậy đây không đơn giản là vấn đề tê dại nữa, mà đây là không có nhân tính bình thường, mất đi chức năng bình thường của lương tâm và lý trí.

Tê dại là khuyết điểm của nhân tính, khuyết điểm này tuy chưa lên đến mức độ tâm tính bại hoại, nhưng tự thân vấn đề này cũng đã chí mạng rồi. Một người sống sờ sờ đứng ở đó, ngũ quan, tứ chi đều đầy đủ, nhưng lại không có năng lực nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động như người bình thường. Họ làm việc như một phế nhân không có suy nghĩ – họ chẳng phát hiện được vấn đề gì, càng không giải quyết được vấn đề mà người khác nêu ra, trong mắt họ chẳng thấy được công tác nào nên làm, trong lòng họ thì cảm thấy như chẳng hề có chuyện gì liên quan đến họ. Kết quả là họ không làm được công tác nào, chỉ là thứ giá áo túi cơm, là phế nhân. Vấn đề này vẫn chưa đủ nghiêm trọng sao? Ngươi xem, dù là người cố chấp hay người nhạy cảm thì ít nhất, tư tưởng của họ cũng nhanh nhạy, họ có tư duy của người bình thường, nghĩa là tư tưởng của họ đang hoạt động không ngừng. Nhưng tư tưởng của người tê dại thì rất đơn giản, giống như bị bại não, hoặc giống như đã chết rồi vậy. Mặc dù có mắt đấy, nhưng nhìn thấy chuyện gì thì trong lòng họ cũng không có phản ứng, không biết ngẫm nghĩ trong lòng; họ không có tư tưởng, hoàn toàn là một tượng gỗ. Tượng gỗ là gì? Là một bức tượng được tạc bằng gỗ, bề ngoài trông giống con người, nhưng khi ngươi nói chuyện với nó, thì nó sẽ không có phản ứng. Ngươi bảo nó trông nhà, kết quả là trong nhà bị trộm mà nó cũng mặc kệ, ngươi hỏi “Sao mày không trông nhà?”, nó vẫn không phản ứng. Một người không phản ứng với bất kỳ chuyện gì thì rắc rối to rồi. Nghĩa là, chức năng mà bản năng của nhân tính nên phát huy – như chức năng của tư tưởng và ý thức, chức năng mà mắt, tai, não và tâm linh nên phát huy – thì đều không phát huy được. Họ không có hoặc là không với tới tư tưởng mà nhân tính bình thường nên có, đây được gọi là tê dại. Người tê dại và phế nhân không khác nhau là mấy. Có người nói: “Anh nói loại người này bị tê dại, mắt, tai và tư duy của não đều không phát huy được chức năng. Nhưng anh mắng họ thì họ sẽ có phản ứng, nếu chịu thiệt, họ cũng sẽ có phản ứng. Vậy họ vẫn bị xem là kẻ ngốc sao?” Ngay cả một vài động vật còn có thể hiểu lời nói của con người, ngươi nói lời tốt hay xấu, nó đều có thể hiểu. Nếu người ta là người mà không hiểu lời nói của con người thì đâu với tới tiêu chuẩn dành cho con người. Cho nên, để đánh giá xem ai đó có phải là người hay không, thì phải dùng tiêu chuẩn dành cho con người để đánh giá. Tại sao Ta lại nói đến một vài loài động vật? Chính là để cho ngươi biết rằng ngươi là sinh vật nằm trong phân loại con người thọ tạo, chứ không phải là động vật. Nếu động vật còn có suy nghĩ được như vậy, mà ngươi là con người lại không có, thì ngươi quá kém cỏi rồi. Động vật còn biết ai tốt với nó, ai cho nó ăn một ngày ba bữa thì nó sẽ ngoan ngoãn và gần gũi với người đó. Ngươi làm người mà lại không có nhân tính như thế, vậy ngươi còn xứng đáng được gọi là người sao? Tại sao Ta lại so sánh như vậy? Chính là để cho ngươi biết ngươi không phải là động vật, cũng không phải động vật bậc cao, ngươi là người, là sinh vật bậc cao nhất trong vạn vật do Đức Chúa Trời tạo dựng – con người. Ngươi có năng lực ngôn ngữ, năng lực tư duy, và năng lực hiểu lẽ thật. Đức Chúa Trời tạo dựng ngươi là muốn để ngươi làm chủ nhân vạn vật, quản lý vạn vật và những sinh vật khác. Ngươi là người quản lý mọi sinh vật trong vạn vật. Để quản lý chúng, ngươi phải ở trên chúng, phải hơn chúng thì mới có năng lực để quản lý chúng. Cho nên, việc đề cập tới động vật không phải để hạ thấp ngươi, mà để nhắc nhở ngươi, khiến ngươi hiểu rằng ngươi phải hơn chúng. Ngươi nên dùng những năng lực mà nhân tính ngươi vốn có, cũng như đủ loại năng lực và thường thức mà ngươi học được sau khi sinh ra, để quản lý và lãnh đạo chúng, làm những gì con người nên làm, làm những gì mà Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi làm. Nếu ngươi xem mình là nhân loại thọ tạo, thì ngươi nên dùng những tiêu chuẩn mà nhân loại thọ tạo nên có để đánh giá nhân tính và thực chất của ngươi. Tiêu chuẩn này không nên thấp hơn tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời đã đặt ra cho con người. Cho nên, khi đánh giá tố chất của một người và đánh giá các vấn đề mọi mặt của nhân tính họ, chúng ta phải dùng tiêu chuẩn mà con người nên có để đánh giá. Về mặt tư tưởng của nhân tính, rất nhiều người tê dại và phản ứng chậm chạp, dẫn đến việc trong quá trình làm bổn phận, họ không làm tròn được rất nhiều bổn phận – họ không đảm đương nổi việc làm công tác của hội thánh, cũng không thể thực hành theo nguyên tắc lẽ thật. Cho nên, ngươi phải nhận biết bản thân, biết tầm của mình đến đâu. Nếu ngươi không có dạng tố chất này hay nhân tính này, hoặc nhân tính của ngươi có khuyết điểm tê dại này, vậy ngươi đừng tranh giành làm lãnh đạo hay người phụ trách. Nếu ngươi làm lãnh đạo hoặc người phụ trách, chỉ cần ngươi phụ trách công tác của hội thánh nào thì hội thánh đó sẽ bị trì trệ, ngươi phụ trách công tác nào thì công tác đó sẽ rối tinh rối mù. Ngươi không đảm nhiệm được thì đứng sang một bên, để cho người có năng lực làm công tác đó, hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Khi đã tự biết rõ mình rồi, thì phải học cách nhường chỗ cho người tài, học cách tiến cử người khác – đây là nguyên tắc thực hành. Có vài người nói: “Tôi tê dại đến nỗi không nhìn ra ai giỏi thì làm sao tiến cử được?” Nếu không nhìn ra được ai có tố chất tốt và không biết tiến cử, thì ngươi phải học hỏi, xem ai hiểu lẽ thật và có sự phân định về người khác thì nên học hỏi người đó, thông công với họ nhiều hơn thì có thể học được đôi điều. Bởi vì trong nhân tính của ngươi có khuyết điểm tê dại, nên ngươi đừng có kén cá chọn canh về bổn phận mình làm. Bản thân ngươi có khuyết điểm này, nên những công tác và bổn phận mà ngươi có thể làm vốn đã không nhiều. Khó khăn lắm mới tìm được cho ngươi một vị trí thích hợp, thế mà ngươi còn kén cá chọn canh, vậy thì đây không phải là vấn đề về tê dại cũng không phải là khuyết điểm trong nhân tính, mà là tâm tính bại hoại. Nó là tâm tính bại hoại nào? Là kiêu ngạo, không có sự thuận phục, không biết tầm của mình đến đâu. Ngươi chẳng là gì cả, chỉ là thứ giá áo túi cơm, là kẻ ngốc, thế mà còn muốn làm chút bổn phận giúp ngươi nở mày nở mặt, không phải mệt mỏi và được người khác coi trọng – như vậy chính là tâm tính kiêu ngạo. Nếu như ngươi quá tê dại, khi có việc nên làm, có chuyện nên quản, mà ngươi không làm, cũng không thấy, nếu ngươi thấy chuyện không ổn sờ sờ trước mắt mà cũng không làm gì, thậm chí nhìn thấy những chuyện gây tổn hại cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời mà cũng bỏ mặc, cho rằng: “Đây không phải là chuyện của nhà tôi nên tôi mới không quản”, vậy thì đây không chỉ là tê dại, mà là không có lương tâm và lý trí. Nếu ngươi có chút lương tâm và lý trí, xem việc của nhà Đức Chúa Trời là việc của chính mình, thì ngươi sẽ thấy mình nên làm tròn trách nhiệm và không thể để lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bị tổn hại. Nhưng ngươi không có lòng tốt này và không làm chút chút việc tốt nào, vậy ngươi chẳng phải là kẻ ngớ ngẩn và tê dại sao? Biểu hiện tê dại này nói đến đây là xong.

Giờ chúng ta nói tiếp về chuyện mặt dày. Mặt dày là dạng vấn đề gì? (Thưa, là khuyết điểm của nhân tính.) Đây là khuyết điểm sao? (Thưa, đây là vấn đề về phẩm chất nhân tính kém.) Phẩm chất nhân tính kém nghĩa là nhân tính không tốt. Mặt dày liên quan đến phương diện nào của nhân tính? Nó liên quan đến lương tâm và lý trí, cũng liên quan đến nhân cách và tôn nghiêm, như vậy là liên quan đến phương diện phẩm chất nhân tính. Những biểu hiện cụ thể của mặt dày là gì? Có ví dụ gì cho thấy người nào đó mặt dày không? Bất kỳ chuyện không biết xấu hổ nào mà họ làm chắc chắn là biểu hiện của mặt dày. Nịnh nọt người khác mà không thấy râm ran khó chịu, như vậy có phải là mặt dày không? (Thưa, phải.) Tại sao lại nói đó là mặt dày? Vì không có cảm giác xấu hổ. Những lời trái với lương tâm của nhân tính bình thường hoặc không phù hợp với sự thật, bất kể những lời đó gây râm ran khó chịu cỡ nào, khó nghe bao nhiêu, họ đều có thể nói ra mà mặt không đỏ, tim không đập nhanh, cũng không quan tâm người khác nghe xong sẽ thấy thế nào và mặc kệ người khác cười nhạo, vậy có phải là không biết xấu hổ không? (Thưa, phải.) Không biết xấu hổ chẳng phải là mặt dày sao? Còn nữa, bản thân rõ ràng chẳng ra gì mà còn muốn công khai tranh giành địa vị, tranh làm lãnh đạo, vậy có phải là mặt dày không? (Thưa, phải.) Chẳng những công khai tranh giành, mà lúc bầu cử họ còn muốn làm phiếu bầu giả, người khác thì một người viết một phiếu, còn họ tự bỏ cho mình hai phiếu, đây có phải là mặt dày không? (Thưa, phải.) Người khác không bầu cho họ, thì họ tự bầu cho mình, kẻ này không biết xấu hổ, tranh làm lãnh đạo một cách vô liêm sỉ, mặt quá dày rồi! Thường thì, những người yêu thích địa vị và có dã tâm đều muốn thể hiện thật tốt, để người khác chọn họ làm lãnh đạo. Một khi được chọn làm lãnh đạo, họ sẽ cảm thấy rất đắc ý, nếu không được chọn thì trong lòng họ sẽ không thoải mái và không vui, đây là biểu hiện bình thường. Người mặt dày thì không như vậy, họ không từ thủ đoạn nào để làm lãnh đạo. Họ nói: “Mọi người đều không thích tôi và sẽ không bầu cho tôi, nhưng tôi sẽ tìm ra cách để làm lãnh đạo, cho dù là gian lận hoặc dùng thủ đoạn, tôi cũng phải khiến mọi người bầu tôi làm lãnh đạo!” Người khác bảo: “Dù anh làm lãnh đạo thì mọi người vẫn không thích anh. Mọi người không có thiện cảm với anh, tiếng tăm của anh cũng bất hảo. Anh mà sắp xếp công tác thì chẳng ai nghe lời anh đâu”. Họ trả lời: “Các anh không nghe lời tôi, thì tôi cũng phải làm lãnh đạo!” Kẻ này đúng là mặt quá dày rồi! Xét từ điểm này, chẳng phải họ không tự biết rõ mình sao? (Thưa, phải.) Họ đã không tự biết rõ mình, lại còn có chút tính chất hung bạo. Xét từ tư tưởng và quan điểm làm người của loại người mặt dày này, thì trong nhân tính của họ không có liêm sỉ, họ không quan tâm đến nhân cách hay phẩm chất, lương tâm hay cảm giác xấu hổ, cũng không quan tâm đến đạo đức hay ranh giới làm người gì cả – họ không quan tâm hết thảy những điều này. Xét từ tư tưởng và ý thức của họ, thì họ rất ngu xuẩn, vô tri và thấp hèn. Cho nên mới nói họ có phẩm chất nhân tính kém và xấu. Vậy nên, những chuyện không biết xấu hổ mà họ làm chắc chắn đều do sự chi phối của tư tưởng và quan điểm sai lầm của họ mà ra. Lúc hội thánh diễn ra bầu cử, họ nhất định chọn mình, bỏ phiếu cho mình, nhất định phải làm lãnh đạo, không làm không được, họ không được làm lãnh đạo thì sẽ hận anh chị em vì đã không bầu cho họ. Một khi họ phát hiện ngươi không bầu cho họ, thì họ sẽ thấy ngươi không vừa mắt, ngươi nói gì họ cũng bật lại. Họ nói chuyện với ngươi thì giống như vừa uống thuốc súng vậy, vô cùng gay gắt. Họ còn ngẫm nghĩ việc trả thù ngươi, trừng trị ngươi, thậm chí cả đời này cũng thèm không nói chuyện với ngươi. Khi loại người này làm những việc cụ thể này, thì những gì họ bộc lộ ra là một loại tâm tính bại hoại, vậy đây là tâm tính bại hoại gì? (Thưa, là hung ác.) Nói giảm nói tránh thì là kiêu ngạo và không biết tự lượng sức mình – đơn giản là họ muốn làm lãnh đạo. Nhưng xét từ những thủ đoạn khi họ hành động và các loại biểu hiện của họ, thì đây là người có tâm tính hung ác. Ngươi xem, tâm tính bại hoại của loại người mặt dày và có nhân tính xấu xa này rất rõ ràng, mọi hành động và hành vi của họ đều lên đến mức độ tâm tính bại hoại. Mặt dày là một biểu hiện trong phẩm chất nhân tính của họ, vậy nên, trong lời nói và việc làm, họ bị phương diện phẩm chất nhân tính này chi phối, từ đó họ làm ra rất nhiều chuyện mặt dày vô sỉ, và bộc lộ ra các loại tâm tính bại hoại, chẳng hạn như kiêu ngạo và hung ác. Cho nên, đến một mức độ nhất định, những biểu hiện tồi tệ mà phẩm chất nhân tính của người ta bộc lộ ra đều thuộc về tâm tính bại hoại, chúng có mối liên hệ và dính dáng với thực chất bản tính của họ, sự bộc lộ cụ thể của bất kỳ tâm tính bại hoại nào cũng đều bắt nguồn từ phẩm chất nhân tính tồi tệ. Do đó, phẩm chất nhân tính tồi tệ và tâm tính bại hoại có liên hệ với nhau. Tâm tính bại hoại của con người nảy sinh sau khi bị Sa-tan làm bại hoại. Ví dụ, những phẩm chất nhân tính tồi tệ trong nhân tính như cố chấp, hẹp hòi và mặt dày đều là do người ta bị Sa-tan làm bại hoại và gia công. Trước khi tiếp nhận lẽ thật, thì người ta đều tiếp nhận việc bị làm bại hoại và mê hoặc bởi nhiều tư tưởng và quan điểm sai lầm, tà ác và tiêu cực trước rồi – người ta đã tiếp nhận những thứ sai lầm này vào lòng và coi chúng là sự sống, điều này nghĩa là tâm tính bại hoại đã trở thành sự sống của họ.

Mặt dày còn có một vài biểu hiện nữa. Có những lãnh đạo và người làm công đã làm những việc rõ ràng là gây nhiễu loạn và gián đoạn, dối trên lừa dưới, làm trái với sự sắp xếp công tác, thậm chí còn gây ra tổn hại cực lớn cho công tác hội thánh. Thế mà họ chẳng những không phản tỉnh và nhận biết vấn đề của mình, không thừa nhận sự thật rằng việc ác do tay mình đã gây nhiễu loạn công tác của hội thánh, ngược lại họ còn cảm thấy việc mình làm không sai, còn muốn tranh công đòi thưởng, khoe khoang khắp nơi và làm chứng rằng mình đã làm bao nhiêu công tác, chịu bao nhiêu khổ, có bao nhiêu cống hiến trong thời gian làm công tác, khi rao truyền phúc âm đã đưa về được bao nhiêu người, v.v.. Họ không hề thừa nhận mình đã làm bao nhiêu việc ác, đã gây ra bao nhiêu tổn hại cho công tác của hội thánh. Đương nhiên, họ cũng không hối cải, càng không quay đầu. Các ngươi nói xem, loại người này có phải là mặt dày không? (Thưa, phải.) Nếu ngươi hỏi họ: “Anh có làm công tác hội thánh theo nguyên tắc lẽ thật không? Anh làm công tác có phù hợp với sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời không?”, thì họ sẽ lảng tránh chủ đề này. Nếu có người vạch trần rằng, trong thời gian làm công tác, họ đã làm tổn thất nghiêm trọng của lễ của Đức Chúa Trời, có người làm tổn thất mấy trăm tệ, có người thì mấy ngàn, thậm chí có người đến mấy vạn, khi bị bắt bồi thường thì phản ứng của họ là gì? Người bình thường có lương tâm, lý trí và liêm sỉ mà nghe vậy thì sẽ ngớ người ra, cảm thấy xấu hổ và hổ thẹn tận sâu thẳm nội tâm, cảm thấy mình đã không làm tốt công tác và mắc nợ Đức Chúa Trời quá nhiều, thế là họ sẽ không cố biện bạch cho mình. Dù bản thân đã làm một vài công tác cụ thể và chịu khổ rất nhiều, họ vẫn thấy những chuyện đó đều không đáng để nhắc đến. Nếu công tác của họ thực sự được làm tốt, thì có thể gây ra nhiều tổn hại cho công tác của nhà Đức Chúa Trời như vậy sao? Không thể nào. Chỉ cần nhìn vào những tổn hại này là đã có thể chứng tỏ rằng họ làm công tác không tốt, nên nhận sai và hối cải. Bất kể những tổn thất mà họ gây ra có cần bồi thường hay không, thì ít nhất, họ cũng phải thừa nhận sự thật rằng khi làm công tác, họ đã gây ra sự nhiễu loạn và gián đoạn cho công tác của hội thánh. Chỉ có người mặt dày vô sỉ mới không chịu thừa nhận sự thật này. Họ sẽ nói: “Dù tôi có bồi thường tổn thất đi nữa, tôi cũng không thừa nhận mình đã phạm sai lầm gì hay có chỗ nào không đúng trong lúc làm công tác. Ngay cả khi phải hoàn trả những khoản nợ này, thì tôi vẫn là công thần, ở nhà Đức Chúa Trời, tôi vẫn giỏi hơn những người bình thường. Tôi cũng từng có lịch sử huy hoàng mà!”. Đây là dạng nhân tính gì vậy? Ngươi nói xem, loại người này có liêm sỉ không? Họ có biết hai chữ “liêm sỉ” viết như thế nào không? Nếu quả thật họ không có liêm sỉ thì rắc rối rồi. Nếu trong lòng họ biết rõ mình hành ác, nhưng miệng lại thà chết cũng không thừa nhận, vậy chẳng phải họ rất cương ngạnh sao? Nếu như trong lòng họ nhận ra được mình hành ác, ngoài miệng cũng có thể thừa nhận, thì coi như họ cũng có lương tâm, bên trong con người họ vẫn còn có chút liêm sỉ. Nếu như họ chẳng những ngoài miệng không thừa nhận, mà trong lòng còn không phục và luôn chống đối, thậm chí lan truyền khắp nơi rằng nhà Đức Chúa Trời đối đãi với họ không công bằng và nói mình xui xẻo, thì vấn đề của họ nghiêm trọng rồi. Nghiêm trọng đến mức nào? Đến mức không có một chút lương tâm và lý trí nào. Trong lương tâm, một mặt phải có tinh thần chính nghĩa, một mặt phải thiện lương. Trong tinh thần chính nghĩa có một điều là con người phải có ý thức liêm sỉ, chỉ khi người ta biết liêm sỉ thì mới có thể chính trực, có tinh thần chính nghĩa, yêu thích và giữ vững những điều tích cực. Nhưng nếu trong lương tâm và tinh thần chính nghĩa, ngươi lại thiếu đi ý thức liêm sỉ, không hiểu thế nào là liêm sỉ, tức là làm sai chuyện gì cũng không có cảm giác xấu hổ, không biết phản tỉnh và căm ghét bản thân, không có sự hối hận, cũng không quan tâm người khác vạch trần mình ra sao, cứ mặt dày mày dạn và không biết xấu hổ, vậy thì lương tâm làm người của ngươi có vấn đề rồi, cũng có thể nói rằng ngươi không có lương tâm. Như vậy cũng khó mà nói lòng của ngươi rốt cuộc là xấu hay ác – có thể nói lòng của ngươi là ác, là lòng lang dạ sói, không phải tích cực mà là tiêu cực. Người không có lương tâm và không có nhân tính thì đã trở thành ma quỷ rồi. Ngươi làm sai mà không có một chút cảm giác xấu hổ nào, không cảm thấy ân hận hay có lỗi gì, chẳng những không phản tỉnh bản thân mà còn chối cãi, chống cự, phân bua và biện bạch cho mình, khoác lên mình một lớp áo đẹp đẽ, vậy nếu dùng tiêu chuẩn của nhân tính để đánh giá, thì nhân tính này của ngươi chắc chắn có vấn đề. Bất kể lý trí của ngươi như thế nào, nếu ngươi thiếu tiêu chuẩn lương tâm này, thì khó mà nói được chuyện con người ngươi rốt cuộc có nhân tính hay không. Chúng ta không bàn đến linh bên trong ngươi là gì, ngươi từ đâu đến, trước đây đã làm những việc ác gì, không nói đến kiếp trước của ngươi, chỉ nói về lương tâm mà ngươi nên có ở kiếp này, nếu ngươi thiếu sự liêm sỉ, vậy thì con người ngươi không đạt tiêu chuẩn. Có vài người nói: “Tôi mặt dày, nên cứ ăn cho đã.” Vậy cũng phải xem mình ăn ở đâu, ở nhà Đức Chúa Trời thì không được. Nhà Đức Chúa Trời không phải là nơi để ngươi kiếm ăn, nếu ngươi vẫn nhất quyết kiếm ăn thì chắc chắn sẽ chuốc hoạ vào thân. Có vài người cảm thấy: “Mặt tôi dày như tường thành, đi đến đâu tôi cũng vậy, cứ ngang như cua! Tôi không quan tâm người khác nói gì về tôi, ai có thể làm gì được tôi chứ?”. Có lẽ người ta không thể làm gì ngươi, nhưng ngươi đã tin Đức Chúa Trời thì nên lưu tâm đến cách Đức Chúa Trời xem xét và đánh giá mỗi một việc ngươi làm như thế nào, xem Ngài định nghĩa và quy định ngươi ra sao. Nếu ngươi không lưu tâm đến chuyện này, thì ngươi còn là người tin Đức Chúa Trời không? Nếu ngay cả điều này mà ngươi cũng không để tâm, thì ngươi chính là kẻ chẳng tin. Ngươi có thể không để tâm đến những gì người ta nói về ngươi, nhưng chẳng lẽ ngươi không để tâm đến sự đánh giá, cách nhìn nhận và sự quy định của Đức Chúa Trời đối với ngươi sao? Nếu Đức Chúa Trời đánh giá ngươi là kẻ mặt dày, không biết xấu hổ, không có liêm sỉ, thiếu rất nhiều điều trong nhân tính và không có một vài điều rất quan trọng, thì ngươi nên làm người lại từ đầu – ngươi phải hối cải, đừng cứ vin vào lý lẽ của mình. Dù cho ngươi có hàng ngàn hàng vạn lý do, nhưng chỉ cần một sự thật rằng ngươi mặt dày là đã có thể xác định được nhân tính và lương tâm của ngươi có vấn đề rất lớn. Nếu chỉ đánh giá dựa trên điều này, thì vấn đề của ngươi rất nghiêm trọng. Nếu hiểu được những gì Ta nói, thì ngươi nên hối cải và đừng viện lý lẽ của mình trong lòng. Lý lẽ của ngươi xuất phát từ huyết khí, từ cảm xúc và từ Sa-tan – ngay cả khi ngươi cho rằng nó đúng thì nó cũng không phải là lẽ thật. Khi đánh giá ngươi, Đức Chúa Trời không hoàn toàn dựa vào tâm tính bại hoại của ngươi, trước khi xem xét tâm tính bại hoại của ngươi, Ngài nhìn vào nhân tính của ngươi trước đã. Nhân tính của ngươi như thế nào và thái độ của ngươi đối với mọi chuyện ra sao là do phẩm chất nhân tính của ngươi quyết định. Những gì Đức Chúa Trời nhìn thấy chắc chắn là chính xác, tiêu chuẩn Ngài dùng để đánh giá ngươi cũng phù hợp với lẽ thật. Bất kể là đánh giá ai, Ngài cũng không dựa vào bề ngoài, mà dựa vào những việc thực tế họ đã làm, những biểu hiện và sự bộc lộ trong cuộc sống thường nhật của họ, cũng như tư tưởng, quan điểm và thái độ của họ khi làm mỗi một việc, và cả thái độ của họ đối với những điều tích cực, lẽ thật và Đức Chúa Trời. Cho dù cuối cùng Đức Chúa Trời định nghĩa hay đánh giá ngươi như thế nào, thì cũng không oan cho ngươi. Đánh giá này đâu phải dựa vào biểu hiện nhất thời hoặc những vi phạm thỉnh thoảng của ngươi, mà dựa vào những biểu hiện tổng thể của ngươi. Vì vậy, sự đánh giá của Đức Chúa Trời đối với mỗi người đều chính xác và khách quan. Phải vậy không? (Thưa, phải.) Biểu hiện mặt dày này liên quan đến phẩm chất nhân tính, đương nhiên, ở một mức độ nhất định, nó cũng đã lên đến mức độ tâm tính bại hoại. Vì những người này có phương diện nhân tính này, nên sẽ dẫn đến việc họ làm một số chuyện, và khi làm những chuyện này thì họ sẽ bộc lộ ra tâm tính bại hoại. Bất kể là bộc lộ tâm tính bại hoại ở phương diện nào, chỉ cần họ là loại người mặt dày, thì những tâm tính bại hoại mà họ bộc lộ ra và những việc họ làm đều không thể tách rời khỏi nhân tính của họ. Cho nên, muốn xem người ta có thể thay đổi và thoát khỏi tâm tính bại hoại của mình hay không, thì phải xem phẩm chất nhân tính của họ là gì. Nếu phẩm chất nhân tính của họ là ác, chống đối, ác cảm và chán ghét lẽ thật, không chịu tiếp nhận lẽ thật, thì họ sẽ khó mà thoát khỏi tâm tính bại hoại của mình, và sẽ không đạt được sự cứu rỗi. Tuy nhiên, nếu xét về phẩm chất nhân tính, mà họ không phải là người ác, có thể lĩnh hội và tiếp nhận lẽ thật, không cố chấp, cũng không có những vấn đề về phẩm chất nhân tính tồi tệ, vậy thì họ có thể thoát khỏi tâm tính bại hoại của mình. Cùng là người có tâm tính bại hoại như nhau, nhưng về chuyện người ta có thể thoát khỏi sự bại hoại và đạt được sự cứu rỗi hay không, thì phải xem xét điều gì? (Thưa, phải xem phẩm chất nhân tính của người đó như thế nào.) Đúng vậy, phải xem nhân tính của họ tốt hay xấu.

Giờ tiếp tục nói về chuyện hay nghi ngờ. Hay nghi ngờ có chút tương tự với biểu hiện nào mà chúng ta vừa mới nói? (Thưa, là nhạy cảm.) Nhạy cảm là vấn đề thuộc phương diện nào? (Thưa, là khuyết điểm của nhân tính.) Hay nghi ngờ là mức độ cao hơn so với nhạy cảm, vấn đề cũng nghiêm trọng hơn. Nhạy cảm chỉ là nhân tính có phần chưa trưởng thành, giống như một đứa trẻ, còn hay nghi ngờ thì có những quan điểm và tư tưởng cụ thể rồi, như lối nói thông tục là “nhiều tâm cơ”, nghĩa là phẩm chất nhân tính không tốt. Chẳng hạn như, có người nhờ người hay nghi ngờ mua giúp một món đồ 10 tệ, còn đặc biệt nhấn mạnh “Tuyệt đối đừng mua quá 10 tệ, nếu như quá đắt thì thôi”. Họ nghe xong lại ngẫm nghĩ: “Có phải anh đang khách sáo với tôi không? Thực ra anh muốn đồ giá 100 tệ, nhưng ngại nói ra thôi. Vậy tôi sẽ mua cho anh, để làm anh vui và có thiện cảm với tôi”. Kết quả là sau khi mua về thì người ta nói: “Đắt quá, tôi chỉ có 10 tệ thôi, đâu có nhiều tiền như vậy đâu”. Vậy thì việc họ mua cho người ta món đồ 100 tệ chẳng phải là hại người ta sao? Nhưng họ lại không hiểu được người ta, còn nghi ngờ người ta không muốn trả thêm tiền và muốn chiếm lợi từ họ. Các ngươi nói xem, người hay nghi ngờ như vậy có phải rất phiền phức không? (Thưa, phải.) Phiền phức ở chỗ nào? (Thưa, tư tưởng của họ quá phức tạp.) Người có tư tưởng quá phức tạp thì khó mà qua lại. Các ngươi nói xem, người có tính cách thẳng thắn có sẵn lòng tiếp xúc với kiểu người như vậy không? (Thưa, không muốn.) Ngươi không biết trong lòng họ nghĩ gì và nghĩ theo hướng nào, cũng không nhìn thấu được họ có ý định gì và nghi ngờ ngươi ra sao ngươi. Cho nên, khi ngươi giao cho họ làm việc, rõ ràng đó là một chuyện nhỏ rất đơn giản mà họ lại làm cho nó trở nên rất phức tạp và rườm rà, làm đi làm lại, khiến bản thân ngươi cảm thấy rất mệt mỏi, thà tự mình làm còn hơn. Nên ngươi chẳng muốn qua lại với người như vậy, chỉ muốn tránh xa họ. Chẳng hạn như, ngươi có một thứ không dùng đến, để không thì lãng phí, mà vứt đi thì tiếc, thế là ngươi đem tặng họ. Họ chẳng những không cảm kích, mà trong lòng còn nghi ngờ: “Tại sao anh lại tặng thứ này cho tôi? Chắc chắn có chuyện gì đó rồi. Anh muốn tôi nghĩ anh là người tốt, muốn tôi nợ anh một ân tình, hay là muốn nhờ tôi làm chuyện gì?” Ngươi không thể ngờ rằng chỉ một chút chuyện nhỏ như thế mà họ lại suy nghĩ nhiều như vậy, tặng họ chút đồ thôi mà cũng khiến họ nảy sinh nhiều nghi ngờ như vậy. Ngươi phải nói rất nhiều để xua tan sự nghi ngờ của họ, như vậy có phải là rất phiền phức không? Lòng ngươi lại nảy sinh ác cảm với người này, sau này dù có đồ thừa thì thà vứt đi chứ không cho họ. Tại sao lại không cho họ? Không phải vì ngươi nhẫn tâm, mà vì ngươi không muốn chuốc lấy rắc rối. Lúc trước, có một người vừa mới thuê nhà, trong nhà chẳng có một dụng cụ lau dọn vệ sinh nào. Thế là Ta lấy một vài dụng cụ lau dọn vệ sinh trong nhà đem qua cho họ, có vài chai nước lau sàn còn đầy, có chai thì đang dùng dở. Người thuê nhà đó nhìn thấy thì nói: “Đồ Ngài mang tới tuy là cho không, nhưng tôi cũng không cảm ơn Ngài đâu. Toàn là đồ đã dùng qua, nếu là đồ tốt, liệu Ngài có cho tôi không?” Nói như vậy chẳng phải sẽ làm tổn thương người khác sao? (Thưa, phải.) Tại sao lại nói là làm tổn thương người khác? (Thưa, vì một tấm lòng tốt mà lại bị họ bóp méo như vậy.) Lòng tốt lại bị xem là lòng lang dạ thú. Ta đâu bắt ngươi cảm ơn, cũng đâu bắt ngươi trả tiền. Chỉ là ngươi hiện tại mới thuê nhà, mà trong nhà chẳng có dụng cụ vệ sinh nào, ra ngoài mua cũng bất tiện. Ở đây Ta có gì thì đưa cho ngươi lấy dùng tạm cho tiện. Ta cho ngươi dùng không phải để lấy lòng ngươi – Ta không nợ gì ngươi, cũng không yêu cầu ngươi phải nợ Ta ân tình gì. Chỉ một chuyện đơn giản như vậy, mà họ cũng nghi ngờ: “Hừ! Có gì ghê gớm đâu, cho chút đồ thôi mà muốn người ta phải mang ơn rồi! Những thứ Ngài mang đến cũng đâu phải đồ gì tốt, đồ cho không thì làm gì có đồ tốt được?” Người này đúng là khó nhằn. Ta đâu có nói đây là thứ ngọc dịch quý giá gì, chỉ là chút đồ dùng vệ sinh bình thường thôi, ngươi không muốn dùng thì có thể không dùng, sao lại nhiều chuyện như vậy? Ta nhận ra người này khó để chung sống và cũng rất khó nhằn. Nếu Ta chẳng mang gì đến cho họ, thì có phải đã bớt phiền không? Cũng chưa chắc, không mang gì đến cũng dễ chuốc rắc rối. Có lẽ họ sẽ nghĩ: “Tôi thuê nhà, mà ngay cả đồ dùng vệ sinh Ngài cũng không mang đến. Chúng ta là anh chị em, thế mà Ngài chẳng có chút tình yêu thương nào!” Họ vẫn có chuyện để nói. Phẩm chất nhân tính của loại người này rất kém, họ luôn dùng sở thích và tiêu chuẩn của mình để đánh giá người khác tốt hay xấu. Họ luôn soi mói và đánh giá người khác bằng ánh mắt khắt khe, cho rằng mình cao quý về đạo đức, còn người khác đều có mặt tối, bất kể người khác làm gì cũng đều có mục đích, chỉ có họ là không bại hoại, là người hoàn mỹ mà thôi.

Loại người hay nghi ngờ thì có phẩm chất nhân tính không tốt. Bởi vì phẩm chất nhân tính không tốt, tất nhiên họ sẽ hành động dưới sự chi phối của phẩm chất nhân tính đó, những gì mà họ bộc lộ đều là tâm tính bại hoại, chắc chắn không phải là nhân tính bình thường. Đã không phải là nhân tính bình thường, vậy rốt cuộc nó là gì? Điều này có liên quan đến tâm tính bại hoại. Đã là người hay nghi ngờ, thì tâm tính bại hoại mang tính đại diện mà họ bộc lộ ra trong hành động và khi qua lại, chung sống với người khác, chắc chắn là tà ác và giả dối. Tâm tư của họ phức tạp, tà ác và nham hiểm đến vậy đấy. Bản thân họ là kiểu người có lợi mới làm, nên họ cho rằng tất cả mọi người đều như vậy, dù ngươi không phải loại người đó thì họ cũng không tin, ngươi giải thích cũng vô ích, cách nhìn của họ đối với ngươi là vậy thôi. Họ dùng phương thức tà ác và tâm tính tà ác để nhìn nhận vạn sự, vạn vật và tất cả mọi người. Ngay cả khi việc ngươi làm là chính đáng, phù hợp với nhu cầu của nhân tính, phù hợp với lý tính của nhân tính hoặc phù hợp với nguyên tắc lẽ thật, thì họ vẫn muốn vẽ ra hàng loạt dấu hỏi cho chuyện đó, còn muốn hỏi ngươi: “Tại sao anh lại làm như vậy? Có động cơ gì nào?” Ngươi nói: “Tôi không có động cơ gì cả”, nhưng họ hoàn toàn không tin, nhất định phải gán cho ngươi một động cơ nào đó và bắt ngươi thừa nhận. Người như vậy có phiền phức không? (Thưa, phiền phức.) Người hay nghi ngờ thì khó mà chung sống với người khác. Loại người này chắc chắn không đơn thuần và cởi mở, đương nhiên, cũng không phải là người trung thực. Trong phẩm chất nhân tính của họ, về cơ bản không có những thành phần như trung thực, lương thiện và lý tính. Vậy những thành phần chính trong phẩm chất nhân tính của họ là gì? Là sự đa nghi, giả dối, tà ác, không đơn thuần và không trung thực. Họ xem mọi người và mọi vấn đề đều rất phức tạp. Ngay cả khi ngươi nói những lời trung thực với họ, họ cũng phải phân tích và suy nghĩ tại sao ngươi lại nói như vậy. Dù đã tiếp xúc với ngươi trong thời gian dài và hiểu rõ phẩm chất nhân tính của ngươi, nhưng khi trao đổi, làm việc và qua lại với ngươi, họ vẫn thường dùng thái độ nghi ngờ với ngươi. Vậy nên, loại người này rất phiền phức, qua lại với họ chỉ thêm cho ngươi nhiều gánh nặng, nhiều thủ tục, còn cần tìm hiểu trước về họ rất nhiều, phải hiểu rõ con người họ, phải tìm hiểu xem họ không thích cái gì, không thích làm gì, hoặc không thích nói gì, bằng không, nếu không cẩn thận thì sẽ đắc tội với họ hoặc là trong mắt họ, ngươi đã làm họ tổn thương. Họ đối đãi với người khác như thế, vậy họ đối đãi với Đức Chúa Trời thì sao? (Thưa, đối với Đức Chúa Trời họ cũng đối đãi như thế.) Liệu họ có thể đối đãi với Đức Chúa Trời một cách chân thành không? (Thưa, không thể.) Chẳng hạn, khi hội thánh sắp xếp họ làm một bổn phận, họ sẽ ngẫm nghĩ, “Mình làm bổn phận này thì Đức Chúa Trời có biết không, Ngài có ghi nhớ không? Mình nên bỏ ra bao nhiêu sức lực thì mới được duyệt, mới có thể được ghi nhớ trước mặt Đức Chúa Trời?” Sau khi làm bổn phận một thời gian, họ còn muốn thăm dò xem lãnh đạo và người làm công nghĩ gì về họ, có đánh giá không tốt nào về họ không? Đây là loại nhân tính gì? Xét từ nhân tính của họ biểu hiện ra qua thái độ trong cách xử sự, thì loại người này rất phiền phức và không dễ tiếp nhận lẽ thật. Tại sao vậy? Bởi vì họ khó mà làm người trung thực, trong lương tâm họ không có tinh thần chính nghĩa, lý trí cũng không toàn vẹn, cách họ phán đoán sự việc và sự vật đều thiếu lý tính. Tại sao lại nói là thiếu lý tính? Chính là vì họ khá cực đoan, cũng khá cố chấp và tà môn, họ không dùng lối tư duy của nhân tính bình thường để nhìn nhận sự việc và sự vật. Họ không minh bạch rõ ràng, thay vào đó sống theo kiểu đặc biệt đen tối. Thế mà họ chẳng bao giờ cảm thấy mình sống theo kiểu đen tối, còn cho rằng mình thông minh hơn người khác, sống tinh tế và chú ý chi tiết hơn người khác. Họ còn đặc biệt tán thưởng trí thông minh của mình, cái này gọi là tự cho mình thông minh. Người tự cho mình thông minh thường thiếu sót về mặt lý trí trong nhân tính, về mặt tinh thần chính nghĩa trong lương tâm cũng vậy. Cho nên, nhân tính của loại người này không được tốt, người khác đều không muốn tiếp xúc với họ. Bất kể ai nói câu gì, họ đều có thể dựa vào đó mà làm to chuyện lên. Những gì họ có thể lý giải ra đều là những thứ cực đoan lệch lạc, thuộc về huyết khí, thuộc về Sa-tan và thuộc về cảm xúc – chúng đều là những thứ tối tăm, tiêu cực, trái ngược với lẽ thật và chống đối lẽ thật, hoàn toàn không thể dẫn dắt con người đi lên chính đạo. Cho nên, loại người này khiến người ta thấy ác cảm và ghê tởm. Họ sống trong góc tối tăm và thế giới nhỏ của riêng mình. Họ đặc biệt ái kỷ và tự tán thưởng bản thân, cho rằng mình sống tinh tế, cao thượng, tôn quý và có tôn nghiêm hơn người khác, người khác không được động đến họ. Trên thực tế, nhân cách của loại người này rất thấp hèn, chẳng có tôn nghiêm thực sự. Chẳng có tôn nghiêm thực sự nghĩa là phẩm chất nhân tính của họ rất kém, vì những thứ nảy sinh trong nhân tính của họ đều là những thứ tối tăm không thể đưa ra ngoài ánh sáng, không quang minh lỗi lạc. Cho nên, loại người này chẳng có tôn nghiêm gì để nói đến. Người hay nghi ngờ thì dễ gây ra hậu quả gì? Nói theo lối thông tục thì dạng người này là “một bụng đầy mưu ma chước quỷ”. Hay nghi ngờ thì đều mưu mô quỷ quyệt. Các ngươi xem cách quỷ vương trấn áp và bắt bớ dân được Đức Chúa Trời chọn đi, chúng có quá nhiều mưu mô, cuối cùng hại người ta nhà tan cửa nát, vợ con người thì lưu lạc người thì bị chết, đó chính là những chuyện do ma quỷ và quỷ vương làm. Cho nên, người hay nghi ngờ đều không phải là thứ tốt đẹp gì. Người tin Đức Chúa Trời nhìn nhận con người và sự việc thì nên dựa vào nguyên tắc lẽ thật, không được nghi ngờ lung tung, nói gì thì phải có bằng chứng. Khi ngươi đối đãi và nhìn nhận một con người hay một sự việc, thì tư tưởng mà ngươi nảy sinh ít nhất phải là tư tưởng tích cực và khiến người ta tán thành. Tốt hơn nữa, chúng nên phù hợp với nguyên tắc lẽ thật, có thể giúp ích cho người khác và đem lại ảnh hưởng tốt cho người khác. Nhưng những tư tưởng và quan điểm mà loại người hay nghi ngờ này nảy sinh đều không phù hợp với lẽ thật, ít nhất chúng không phải là những điều tích cực – nghĩa là góc độ suy nghĩ vấn đề hoặc những tư tưởng và ý tưởng mà họ đưa ra căn bản là không phù hợp với lẽ thật. Cho nên, loại người này luôn sống trong những góc tối tăm, không có nhân cách hay tôn nghiêm gì để nói đến. Những thứ nảy sinh trong tư tưởng của họ đều tối tăm và tà ác, không phù hợp với nguyên tắc lẽ thật và không đem lại ảnh hưởng tốt đẹp cho người khác hay cuộc sống của người khác. Nếu ngươi tiếp nhận các loại tư tưởng và quan điểm khác nhau phát xuất từ người hay nghi ngờ, thì ngươi sẽ bị trúng độc, sẽ bị họ lôi xuống nước – cũng đồng nghĩa với chuyện ngươi bị Sa-tan làm bại hoại. Nhưng nếu như ngươi có sự phân định đối với họ, xem họ là bài học tiêu cực, thì ngươi sẽ có chút tiến bộ và có chút phân định về phương diện nhận thức những điều tiêu cực. Về phương diện hay nghi ngờ, Ta nói đến đây thôi.

Tiếp theo, chúng ta sẽ nói về một phương diện khác, đó là kém cỏi. Mọi người đều hiểu rõ kém cỏi có nghĩa là gì – nghĩa là làm chuyện gì cũng không xong, có vẻ bất lực, giống như người ta hay nói “Sao mày lại kém cỏi như vậy? Đúng là chẳng có tiền đồ gì!” Kém cỏi có tốt không? (Thưa, không tốt.) Vậy nếu phân loại, thì nó thuộc về loại nào? (Thưa, là khuyết điểm của nhân tính.) Sự kém cỏi rõ ràng là một khuyết điểm trong nhân tính. Kém cỏi nghĩa là trí thông minh để xử sự của người đó quá thấp, năng lực sinh tồn kém – đây gọi là kém cỏi. Có người ăn nói vụng về, không biết biểu đạt, thậm chí có người có tính cách rụt rè, hướng nội, khi nói chuyện hoặc xuất hiện ở nơi đông người thì luống cuống, nhát gan, không dám nói chuyện, và thường bị người khác ức hiếp. Lại có những kẻ ác cho rằng, việc ức hiếp loại người như vậy là điều đương nhiên, rất thú vị, rất vui, ngày nào cũng đem họ ra để giễu cợt và làm trò cười. Người kém cỏi thì có năng lực làm việc rất kém. Có thể là năng lực sinh tồn của một vài người trong số họ cũng kém, họ không biết kiếm tiền, khi ở giữa đám đông thì luôn rụt rè do dự, cẩn thận quá mức, thấy người nào giỏi giang thì tránh né và không dám nói chuyện. Dù bị ức hiếp, họ cũng không dám phản kháng, sợ đắc tội với người khác. Xét từ biểu hiện kém cỏi trong nhân tính của loại người này, thì đây chỉ là một phương diện khuyết điểm trong nhân tính. Không ai vì bản thân kém cỏi mà nảy sinh một vài quan điểm và tư tưởng sai lầm hoặc gây ra ảnh hưởng xấu cho bản thân và cho người khác, cho nên, kém cỏi chỉ là một khuyết điểm của nhân tính. Vậy có ai muốn làm người kém cỏi không? (Thưa, không có.) Không ai muốn làm người kém cỏi, tại sao vậy? Vì người kém cỏi hay bị ức hiếp và coi thường, đúng không? (Thưa, đúng.) Nếu bắt ngươi chọn một trong hai, làm kẻ ác hay làm người kém cỏi, thì chắc chắn ngươi thà chọn làm kẻ ác chứ không chọn làm người kém cỏi. Trong lòng ngươi sẽ nghĩ: “Mình không đời nào làm người kém cỏi! Trong xã hội này, người kém cỏi thường bị xử tệ, bị ức hiếp, không được ái mộ, đi đến đâu cũng bị người ta coi thường và đè đầu cưỡi cổ, chẳng những không có cảm giác tồn tại, mà ngay cả quyền sinh tồn cũng có thể bị tước đoạt. Nhưng, làm kẻ ác thì khác, kẻ ác đi đến đâu, người ta cũng sợ và cung kính với họ, không ai dám chọc vào họ, đi đến đâu cũng có đặc quyền, thậm chí còn có thể đứng trên đầu người khác mà tác oai tác quái, kẻ ác trên đời này ở đâu cũng được hanh thanh”. Vậy nếu giờ cho các ngươi chọn, mà các ngươi đều không chọn làm người kém cỏi, chỉ chọn làm kẻ ác, thì quan điểm này có đúng không? (Thưa, không đúng.) Tại sao không đúng? Điều này không hợp với nguyên tắc lẽ thật nào? Kém cỏi là một khuyết điểm trong nhân tính, biểu hiện thường thấy nhất chính là chuyện gì cũng làm không xong, bị người khác kỳ thị và bài xích. Cũng chính là vì hay bị ức hiếp, bị mọi người trong xã hội đè đầu cưỡi cổ, nên không ai muốn làm người kém cỏi. Ai cũng ngưỡng mộ người có bản lĩnh và có năng lực, thậm chí còn muốn nên người xuất chúng, có quyền có thế và tác oai tác quái, cho dù ở giữa tập thể nào cũng đều có đặc quyền và danh tiếng, chẳng những không bị người khác ức hiếp mà còn có thể tùy tiện ức hiếp người khác. Loại quan điểm và tư tưởng này có đúng không? Có phù hợp với lẽ thật không? (Thưa, không phù hợp.) Các ngươi đã nghe nhiều lẽ thật đến vậy, mà bây giờ vẫn còn tán thành với kẻ ác, thì tâm tính của các ngươi cũng rất tà ác. Thấy ai là kẻ ác thì các ngươi ngưỡng mộ và khâm phục. Trong lòng biết rõ kẻ ác không tốt, nhưng các ngươi vẫn không kìm được mà cứ đi theo họ, còn cho rằng đi theo kẻ ác thì sẽ có chỗ dựa và không bị ức hiếp. Nhìn thấy người kém cỏi thì các ngươi có ác cảm, coi thường, còn muốn dẫm đạp họ. Nhưng ngươi có từng nghĩ, nếu đi theo kẻ ác thì ngươi sẽ phải làm bao nhiêu việc ác và phải gặp bao nhiêu báo ứng không? Ngươi đi theo kẻ ác thì xác suất được cứu rỗi của ngươi được bao nhiêu? Ngươi đi theo kẻ ác, liệu ngươi có hành ác không? Ngươi đi theo kẻ ác và làm tùy tùng trung thành của họ, tuy họ có thể chia cho ngươi một chút lợi lộc, và ngươi đi theo họ thì có thể tác oai tác quái, có thể được ăn ngon mặc đẹp, đời này có thể hưởng thụ sung sướng, không bị ai ức hiếp, còn có địa vị giữa mọi người. Nhưng để được hưởng thụ những thứ này thì ngươi phải làm bao nhiêu việc ác đây? Phải chịu bao nhiêu sự báo ứng và sự trừng phạt, ngươi có biết không? Đây có phải là chính đạo không? (Thưa, không phải.) Vậy thì các ngươi còn muốn để khỏi làm người kém cỏi và bị ức hiếp, mà thà chọn hành ác và bị trừng phạt cũng không tiếc hay không? Các ngươi còn muốn hy sinh đích đến và số phận của mình để đổi lấy sự sung sướng trong đời này hay không? Đây có phải là quan điểm và tư tưởng của các ngươi không? Thực ra có vài người có loại quan điểm như này, họ thà chọn làm kẻ ác chứ không muốn làm người kém cỏi và bị ức hiếp, như vậy chẳng phải là họ đang muốn đi vào con đường của kẻ ác sao? Kém cỏi chỉ là khuyết điểm trong nhân tính, như vậy có gì là xấu chứ? Cứ phải ức hiếp người khác và hành ác mới là tốt à? Nếu Đức Chúa Trời không để ngươi chết đói, mà ban cho ngươi miếng cơm để ăn, ngươi có chết đói được không? Nếu Đức Chúa Trời cho ngươi sống sung sướng, tự do, hạnh phúc, vui vẻ và bình an, trong những điều đó, ngươi chẳng thiếu một điều nào, vậy người khác ức hiếp ngươi thì đã sao? Không ai có thể cướp đi những điều đó khỏi ngươi được – những gì mà Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi thì không ai có thể cướp đi được. Nếu ngươi đi theo kẻ ác và đi vào con đường của kẻ ác, thì sự sung sướng mà ngươi hưởng thụ đều là thú vui tội lỗi. Ngoài ra, bất kỳ tiền tài và sự hưởng thụ vật chất nào mà ngươi dùng thủ đoạn hành ác để đổi lấy thì đều là thứ có được bằng phương thức cưỡng ép và chiếm đoạt, những gì ngươi hưởng thụ trong đời này đã vượt quá những thứ mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi rồi, thì ngươi phải dùng mấy đời sau để trả lại. Dùng sự trừng phạt làm cái giá để đổi lấy sự sung sướng của xác thịt trong đời này, đây chẳng phải là không đi theo chính đạo sao? Các ngươi thà chọn làm kẻ ác còn hơn bị người ta ức hiếp, điều này cho thấy nhận thức và sự yêu chuộng cái ác từ sâu thẳm linh hồn các ngươi. Vậy kém cỏi có gì là xấu? Xét từ góc độ nhân tính, đây chỉ là một dạng khuyết điểm, nhưng đồng thời, nó cũng là một loại điều kiện bẩm sinh, là điều mà con người không thay đổi được. Những người kém cỏi cũng đâu phải kém cỏi do họ tự chọn như vậy. Tuy nó là một phương diện khuyết điểm, nhưng nó không phải là tâm tính bại hoại, cũng không phải là vấn đề về phẩm chất nhân tính, vậy nó có gì không tốt? Nếu vì ngươi kém cỏi, có địa vị thấp kém mà thường bị người ta ức hiếp, thì ngươi có thể thể nghiệm và lĩnh hội một cách sâu sắc về sự bất công và tà ác của thế gian cùng sự hắc ám của xã hội này, từ đó thành tâm đến trước mặt Đức Chúa Trời để tiếp nhận sự tể trị của Ngài, cam nguyện thuận phục dưới quyền Ngài, cam nguyện thuận phục sự sắp đặt của Ngài, giao số phận của mình cho Đức Chúa Trời làm chủ, vậy sự kém cỏi này chẳng phải là một sự bảo vệ cho ngươi sao? Kém cỏi không phải là điều tiêu cực, đó chỉ là một dạng khuyết điểm trong nhân tính mà thôi. Khuyết điểm nghĩa là gì? Nghĩa là thiếu sót, là chút vấn đề nhỏ, là sai sót, chỉ là không hoàn mỹ, không hoàn thiện, không được như ý nguyện hoặc không lý tưởng mà thôi, nhưng nó không có nghĩa là phẩm chất nhân tính kém và tồi tệ. Vậy, tại sao các ngươi lại không thể chịu được một chút khuyết điểm nhỏ này? Huống hồ, chút khuyết điểm này có thể mang lại lợi ích rất lớn cho lối vào sự sống của ngươi. Hoặc là có thể nói rằng, một số người vì có khuyết điểm này trong nhân tính, có điều kiện bẩm sinh này, nên càng có thể có một lòng một dạ đi theo Đức Chúa Trời đến cùng. Cuối cùng, nhờ có thể tiếp nhận lẽ thật, có thể thuận phục Đức Chúa Trời và có lòng kính sợ Ngài mà họ có thể thoát khỏi tâm tính bại hoại và được cứu rỗi. Xét từ phương diện này, đó là một phúc lành, người ta không nên từ chối việc làm người kém cỏi. Kém cỏi có gì không tốt chứ? Sự kém cỏi không khiến tâm tính bại hoại của người ta trở nên nghiêm trọng hơn, không khiến Đức Chúa Trời coi thường hoặc là không cứu rỗi ngươi, cũng không ảnh hưởng đến việc ngươi tiếp nhận lẽ thật hay được cứu rỗi. Cho nên, quan điểm và tư tưởng của các ngươi cần phải thay đổi – chúng vẫn còn thiếu sót rất nhiều. Có người nói: “Tôi thà làm kẻ ác chứ không làm người kém cỏi, người kém cỏi không có tiền đồ, ai cũng coi thường, ngay cả chính mình cũng coi thường mình. Làm người kém cỏi chán lắm, làm kẻ ác mới thích, muốn làm gì thì làm, thấy ai dễ ức hiếp thì ức hiếp người đó, chẳng ai dám phản kháng, sống như vậy thật vẻ vang biết bao!” Vẻ vang thì có ích gì? Ngươi được hanh thông và vẻ vang trên thế gian, thì tiền đồ và đích đến của ngươi sẽ không còn. Ngươi sẽ không thể đến trước mặt Đức Chúa Trời nữa, sẽ không còn quyến luyến Ngài; Đức Chúa Trời sẽ không còn sức hút đối với ngươi, môi trường sống và môi trường làm việc của nhà Đức Chúa Trời cũng chẳng còn sức hút gì với ngươi. Ngươi sẽ muốn rời xa Đức Chúa Trời và đi tìm môi trường sống mà ngươi có thể phát huy thế mạnh và thể hiện giá trị của bản thân. Nhà Đức Chúa Trời hạn chế việc ác của người ta, bất kỳ kẻ ác nào cũng đều không thể đi đến đâu, không thể đứng vững trong nhà Đức Chúa Trời. Nếu ngươi thích kẻ ác và muốn làm kẻ ác, ngươi còn có thể ở lại trong nhà Đức Chúa Trời sao? Sớm muộn gì ngươi cũng bị thanh lọc đi, chẳng những ngươi không đạt được đích đến tốt đẹp, mà sau khi chết đi còn phải chịu trừng phạt cho những việc ác mà mình đã làm. Cho nên, tuy kém cỏi là một khuyết điểm trong nhân tính, nhưng nó không phải là tâm tính bại hoại, cũng không đại diện cho nhân tính xấu xa. Ai mà chẳng có chút khuyết điểm chứ? Kém cỏi giống như việc có người bẩm sinh nói lắp, hoặc tướng mạo bẩm sinh có phần xấu xí, đây đều là những khuyết điểm bẩm sinh. Loài người có nhiều màu da khác nhau, có người bẩm sinh là người da trắng, có người bẩm sinh là người da vàng hoặc là da đen, đây là một điều kiện bẩm sinh. Người da vàng thì trông cơ thể không được khỏe mạnh lắm, thần sắc không được tốt, đây cũng là một chút khuyết điểm. Người da đen trông cơ thể có vẻ cường tráng hơn, nhưng chẳng ai muốn làm người có làn da đen. Người da trắng thì ai nhìn thấy cũng ngưỡng mộ, nhưng trong số họ cũng có người cảm thấy trắng quá cũng không tốt, thích phơi nắng cho rám thành màu đồng, cảm thấy như vậy trông mới khỏe mạnh và làn da sáng bóng hơn. Ngươi xem, sự kém cỏi cũng giống như các loại điều kiện bẩm sinh khác nhau của con người thôi, nó chỉ là một dạng khuyết điểm, vậy nó có phải là vấn đề lớn không? (Thưa, không phải.) Cho nên, dù vấn đề này là một khuyết điểm trong nhân tính, nhưng nó không ảnh hưởng đến việc ngươi tiếp nhận lẽ thật, cũng không ảnh hưởng đến việc ngươi hiểu lẽ thật. Vậy các ngươi còn chống đối việc làm người kém cỏi không? (Thưa, không chống đối nữa.) Thấy người kém cỏi, các ngươi còn ức hiếp họ không? (Thưa, không ức hiếp nữa.) Trước đây, có phải các ngươi đã ức hiếp họ không ít rồi phải không? Bây giờ, khi thấy người kém cỏi, liệu các ngươi còn xem thường và hạ thấp họ không? (Thưa, không.) Nếu bản thân ngươi là người kém cỏi, vậy ngươi lại càng không nên coi thường bản thân mình, kém cỏi thì kém cỏi thôi – chúng ta cứ thực hành làm người trung thực theo lời Đức Chúa Trời. Dù ngươi kém cỏi, nhưng ngươi trung thực và không giả dối, Đức Chúa Trời yêu thích người như vậy. Đức Chúa Trời yêu thích điều gì? Không phải Ngài yêu thích sự kém cỏi của ngươi, mà Ngài yêu thích việc ngươi vì sự kém cỏi mà sẵn lòng làm người trung thực, vì bị người khác coi thường, không được lòng người khác, mà ngươi tìm cách làm người trung thực để khiến Đức Chúa Trời vui mừng và thỏa lòng, Ngài bảo gì thì làm nấy. Sự kém cỏi lại trở thành điều có lợi rồi, đúng không? (Thưa, đúng.) Bây giờ quan điểm của các ngươi có phải đã thay đổi rồi không? (Thưa, phải.) Đương nhiên, không phải tất cả những ai kém cỏi đều chắc chắn có thể tiếp nhận lẽ thật. Có một số người ngoài khuyết điểm trong nhân tính là sự kém cỏi này ra, thì phẩm chất nhân tính của họ cũng có vấn đề, không thể đánh đồng hết được. Xét riêng về sự kém cỏi thì nó không phải là vấn đề lớn, nhưng ngươi vẫn phải xem phẩm chất nhân tính của họ là như thế nào, nếu như họ là người giả dối hoặc có phẩm chất nhân tính rất tồi tệ – mặt dày, hay nghi ngờ, nhạy cảm, cố chấp thậm chí là tâm tính hung ác – thì họ chẳng phải là thứ tốt đẹp gì. Cho nên, người kém cỏi chưa chắc đã là người có phẩm chất nhân tính tốt. Được rồi, về phương diện kém cỏi, Ta nói đến đây là xong.

Biểu hiện tiếp theo là trung hậu. Biểu hiện này là một ưu điểm của nhân tính. Nói nhiều đến vậy rồi, cuối cùng cũng nói đến một ưu điểm của nhân tính, thật sự là số lượng ưu điểm của nhân tính không có nhiều. Trung hậu là một ưu điểm của nhân tính. Vì nó là ưu điểm, vậy chúng ta phải nói cho thật kỹ, bởi hầu hết mọi người lại không có các biểu hiện của vài ưu điểm trong nhân tính có thể tìm thấy nơi người ta. Vậy chúng ta hãy xem, ưu điểm của sự trung hậu này nằm ở đâu? (Thưa, trung hậu nghĩa là người đó tương đối thành thật, làm việc thì khiến người ta tương đối an tâm, được giao việc gì cũng biết mang gánh nặng và xử lý tốt.) (Thưa, người trung hậu thì có đức hạnh tương đối tốt, biết suy xét cho người khác, biết nghĩ cho người khác.) Nghĩ cho người khác – đây là phong cách cao thượng! Người như vậy là cao thượng, nhưng trung hậu cao thượng đến vậy sao? (Thưa, không.) Trung hậu nghĩa là tâm tư của người đó không phức tạp lắm, tương đối đơn thuần, không gian trá, rộng lượng chứ không hà khắc với người khác, khi chung sống với người khác thì không so đo chuyện được mất cá nhân. Người khác chửi họ một câu, thì lòng họ khó chịu một chút, nhưng rồi họ nghĩ: “Thôi, bỏ đi”, rồi họ không so đo nữa. Người khác nợ tiền họ đã lâu chưa trả, họ ngẫm nghĩ: “Hối người ta trả tiền thì ngại quá. Hơn nữa, lúc đó họ cũng khó khăn, mình lúc đó dư dả hơn họ, nên mình cho họ mượn, vậy thôi. Cứ xem như là giúp người nghèo đi”. Ngươi xem, suy nghĩ của họ tương đối hiền hậu và khoan dung. Chẳng hạn như người khác hiểu lầm họ, thì họ không để bụng, cũng không biện bạch cho mình. Người khác xét đoán họ và nói họ ngốc, thì họ cũng chẳng để bụng. Khi làm bổn phận, họ cũng không thấy mệt, việc người khác không muốn làm thì họ làm. Có người chế giễu họ rằng: “Người khác đều nghỉ ngơi, sao anh còn làm việc?” Họ nói: “Tôi làm thêm một chút thì có hại gì chứ? Cũng đâu mệt gì. Làm việc có thể khiến người ta mệt đến chết sao? Người khác không làm thì đó là việc của họ, tôi làm được thì tôi làm thêm một chút thôi mà”. Họ không so đo những chuyện này, thay vào đó họ bắt tay vào mà làm việc. Họ không quá so đo chuyện được mất lợi ích, cũng không quá so đo chuyện thể diện hoặc địa vị cao thấp, bản thân có chịu tổn hại, họ cũng chẳng nhắc đến. Người khác có khó khăn thì họ chủ động giúp đỡ, họ hỗ trợ mà chẳng có ý định hay mục đích gì, người khác muốn đền đáp ân tình thì họ cảm thấy giúp một chút đâu có là gì, cũng là việc nên làm mà thôi. Ngay cả khi họ giúp xong rồi mà người khác không ghi nhận, thì họ cũng chẳng so đo chuyện đó. Đến lúc nên giúp người thì họ vẫn cứ giúp. Loại người này có nhiều không? (Thưa, không nhiều.) Loại người này không nhiều. Cho dù loại người này trung hậu, nhưng họ cũng có ranh giới nhất định trong việc làm người. Chẳng hạn như, có người luôn muốn lợi dụng họ, còn xem họ là kẻ ngốc, lợi dụng họ rồi thì nói mấy câu êm tai để dỗ dành họ, vài ngày sau lại lợi dụng họ tiếp. Thấy người đó cứ làm vậy mãi không thôi, thì họ cũng không so đo, tranh cãi hay nói lý lẽ gì với người đó. Trong lòng họ biết loại người này không phải là người tốt, không thích hợp để qua lại, thế là về sau họ không thèm để ý đến người đó nữa. Nhưng họ cũng không xét đoán người đó sau lưng, cùng lắm là khi có ai hỏi về người đó, thì họ nói: “Người đó thích chiếm những cái lợi nhỏ”. Họ không thêm mắm dặm muối, cũng không mang theo huyết khí mà xét đoán người ta, chỉ có gì nói nấy mà thôi. Loại người trung hậu này có nhân tính thực sự không tệ, ưu điểm của họ là không quá so đo, làm gì cũng không dựa theo huyết khí, cảm xúc hay tình cảm. Họ chỉ làm việc con người nên làm, thực hiện trách nhiệm con người nên thực hiện. Những chuyện bản thân họ nên làm và có thể làm trong phạm vi giao thiệp bình thường giữa người với người, thì họ cố hết sức để làm, cố hết sức giúp đỡ người khác, còn làm một cách rất thật lòng thật ý. Thậm chí có người còn không mong được trả công, cho rằng: “Tôi tiện tay giúp một chút thôi mà, anh không cần cảm thấy mang nợ tôi nhiều, cũng không cần vì nợ tôi chút này mà cảm thấy cả đời trả không hết, lúc nào cũng khom lưng khuỵu gối, cung cung kính kính với tôi. Không cần phải vậy đâu”. Giữa mọi người thì dạng người này có nhân tính tốt nhất. Họ không gian trá, không hà khắc với người khác, có lòng nhiệt tình, trong nhân tính thì có mặt tốt bụng. Nghĩa là hễ chuyện gì họ làm được thì họ sẽ làm, không quá so đo chuyện được mất cá nhân, cũng không quan tâm lắm về chuyện được trả công, đây là ưu điểm của nhân tính. Các ngươi hãy nhìn quanh mình xem có ai có dạng ưu điểm này không. Người nào có phẩm chất nhân tính này, thì có thể được coi là người tốt, người không tệ, trong nhân loại bại hoại. Họ không so đo, không gian trá, không hà khắc với người khác, lại còn giúp người mà không vụ lợi, đặc biệt khoan dung với người khác, làm người cũng rất hiền hậu. Rất hiền hậu nghĩa là gì? Nghĩa là họ sẽ không vì chút chuyện nhỏ mà so đo mãi không thôi, sẽ không vì người khác chiếm lợi từ họ mà mang lòng oán hận mãi, đây gọi là hiền hậu, một ưu điểm lớn của nhân tính. Trung hậu là ưu điểm, hiền hậu cũng là ưu điểm. Người có những ưu điểm này thì khác với những người nhỏ mọn, hay nghi ngờ, nhạy cảm hoặc cố chấp – hễ có chút chuyện nhỏ mà cũng so đo mãi không thôi, hở ra một cái là nổi nóng, giận đến nổi phồng mang trợn mắt, mặt thì lạnh tanh khiến người ta khiếp sợ, ai nói chuyện cũng không thèm để ý, trong đầu thì chỉ toàn nghĩ cách để báo thù – đây đều là những thứ mà người bình thường không nên có. Còn loại người trung hậu thì trong tư tưởng họ không có những chuyện phức tạp này, không có những ý nghĩ nghi ngờ người khác này. Trong lòng họ chỉ toàn là những điều mà người bình thường nên có, cực kỳ phù hợp với lương tâm và lý trí của nhân tính, cũng phù hợp với tiêu chuẩn tinh thần chính nghĩa và tốt bụng của nhân tính. Ngươi mà chung sống với dạng người này thì sẽ cảm thấy rất nhẹ nhàng, rất đơn giản, không có nhiều chuyện phiền phức, cũng không cần đề phòng gì. Ngươi không cần phải phỏng đoán về tâm tư họ, hay là đoán mò gì cả. Thỉnh thoảng ngươi có vô ý làm tổn thương họ, thì cũng không cần lo sợ sẽ có hậu quả gì, đương nhiên, ngươi cũng sẽ không phải gánh chịu hậu quả gì. Cũng có thể gặp lúc ngươi nổi nóng, do huyết khí mà chửi họ mấy câu, lúc đó họ cũng nói qua nói lại với ngươi, cũng tranh cãi với ngươi, nhưng tranh cãi xong thì họ không ghi hận, cũng sẽ không hãm hại hay báo thù ngươi. Ngươi không cần lo lắng về chuyện họ có địa vị rồi thì sẽ làm khó ngươi hoặc bắt lỗi ngươi, cũng không cần lo họ rảnh rỗi chẳng có gì làm thì kiếm ngươi gây chuyện. Trong họ không có những thứ này, họ đơn giản như vậy đấy. Họ tuyệt đối sẽ không ghi hận với ngươi từ thời điểm đó mãi không thôi, chuyện đã qua là đã qua. Sau này khi nói chuyện với ngươi, họ vẫn đối đãi với ngươi như thường. Ngay cả khi lúc đó họ nổi nóng và cãi vã với ngươi, nhưng sau đó họ không ghi hận với ngươi. Họ biết ngươi chỉ nói mấy câu nóng nảy, họ có thể hiểu được rằng: “Ai trong lúc nóng nảy mà không nói ra vài câu tàn nhẫn, người ta cũng không cố ý đâu. Hơn nữa, con người đều có tâm tính bại hoại, đều có những lúc cảm xúc không tốt, đều có huyết khí. Sau này mọi người bình tĩnh lại rồi thì đều nhận sai, đều phản tỉnh về chuyện bản thân đã bộc lộ tâm tính bại hoại và không hành động theo nguyên tắc, vậy là được rồi”. Họ sẽ tha thứ cho ngươi, không giống như kẻ ác, cứ ghim mãi chuyện đó, đến khi nào trừng trị cho ngươi tiêu đời mới thôi. Người trung hậu về căn bản không có lòng báo thù. Ngươi làm ra những việc đắc tội với họ rồi, thì có lúc họ cũng hận ngươi, nhưng tuyệt đối sẽ không làm trái đạo đức của nhân tính mà dùng những thủ đoạn đê tiện để trừng trị ngươi. Cho dù họ có tâm tính bại hoại, có lẽ sẽ nói ra một vài lời, làm một vài việc theo tâm tính bại hoại, sẽ nói ngươi đã từng phạm phải cái sai nào đó hoặc tỉa sửa ngươi, nhưng họ sẽ không ăn không nói có, cũng không lợi dụng quyền lực trong tay để tấn công và báo thù ngươi. Ngay cả khi họ muốn tấn công, báo thù và có dạng tâm tính bại hoại này, nhưng do trong nhân tính của họ có ưu điểm trung hậu, nên lúc muốn báo thù thì họ sẽ biết chịu sự ràng buộc, sẽ có thể giữ mọi chuyện trong chừng mực. Thân là loài người thọ tạo, trong trường hợp có quyền lực mà vẫn có thể làm được đến mức độ này thì đã đáng khen lắm rồi. Người bình thường mà không có ưu điểm này thì ngay cả chừng mực này cũng sẽ không giữ được và không kìm được việc báo thù người khác.

Biểu hiện hoặc sự bộc lộ của trung hậu chính là một ưu điểm của nhân tính. Ưu điểm này của nhân tính, đến một mức độ rất lớn, sẽ ràng buộc hoặc nhắc nhở người ta, khiến người ta có được sự khống chế và kiềm chế nhất định lúc tâm tính bại hoại của họ bộc lộ. Nếu người trung hậu này là người có hiểu biết thuộc linh, có thể lĩnh hội và tiếp nhận lẽ thật, vậy thì ưu điểm này trong nhân tính của họ có thể khiến họ thêm nghiêm túc trong việc dựa vào nguyên tắc lẽ thật mà nhìn nhận con người và sự vật, hành xử và hành động, phải vậy không? (Thưa, phải.) Ngược lại, người gian xảo thì giảo hoạt hơn nhiều, sẽ không giống với người trung hậu. Sau khi làm việc xấu, họ chẳng những không phản tỉnh, mà còn muốn thậm tệ hơn nữa và làm chuyện xấu đến cùng, thế là họ trở thành ma quỷ, hoàn toàn tương phản với nguyên tắc hành động của người trung hậu. Chẳng hạn như, ai đó là người trung hậu và có ưu điểm này của nhân tính, thì lúc tranh cãi với ngươi, họ sẽ dựa vào sự thật mà nói chuyện, sẽ không thêm mắm dặm muối, không ăn không nói có mà bịa ra một vài chuyện xấu về ngươi, sẽ không vì nổi giận với ngươi mà phỉ báng ngươi hay là sỉ nhục nhân cách của ngươi, họ tuyệt đối sẽ không làm như vậy. Khi tranh cãi với ngươi, có lẽ họ sẽ bộc lộ tâm tính kiêu ngạo hoặc hung ác, nhưng mọi lời của họ tuyệt đối đều được nói ra dưới sự ràng buộc của lương tâm, lý trí và nhân tính trung hậu của họ, như vậy thì ở một mức độ nào đó, sự tổn thương mà chúng gây ra cho ngươi cũng sẽ giảm đi rồi. Nhưng kẻ ác thì không có phương diện trung hậu này trong nhân tính, kẻ ác mà tranh cãi thì sẽ thế nào? “Mày là dâm phụ, kỹ nữ. Tao chửi tổ tiên tám đời nhà mày, tao nguyền rủa tổ tiên tám đời nhà mày!” Lời tàn nhẫn, lời hung ác nào, họ cũng nói ra hết, kẻ ác là vậy, phẩm chất nhân tính của họ tồi tệ. Có vài người có phẩm chất nhân tính tồi tệ, lúc chửi người khác thì không dựa trên sự thật. Tại sao họ không dựa trên sự thật? Bởi vì họ không có lương tâm, không đạt đến tiêu chuẩn của lương tâm, khi chửi người khác thì họ không chịu sự hạn chế của lương tâm. Vậy là họ mạnh miệng chửi mắng, muốn chửi thế nào thì cứ chửi thế đó, nói ra lời nào giải được hận, có thể làm ngươi đau lòng và khiến ngươi ngươi giận phát điên, thì họ sẽ chửi bằng lời đó, những lời họ dùng để chửi ngươi có thể khiến ngươi giận mà chết. Trong lòng loại người này không có sự tốt bụng, thay vào đó lại tràn đầy sự ác độc. Sự bộc lộ của kẻ ác chủ yếu là hai tâm tính kiêu ngạo và hung ác. Về thực chất, những lời chửi mắng của họ có mang theo sự nguyền rủa, tràn đầy sự ác độc của Sa-tan, mang theo đủ lực sát thương, thậm chí họ có thể chửi bằng những lời nguyền rủa ác độc nhất. Nếu ngươi là người có nhân tính hoặc nhân tính của ngươi trung hậu, thì khi chửi, ngươi sẽ không nói ra được những lời này, hơn nữa, ngươi cũng không bịa ra được những chuyện ăn không nói có. Bởi vì ngươi có tri giác của lương tâm và có lý tính. Mặt tốt bụng và trung hậu trong lương tâm và lý trí của ngươi sẽ ràng buộc ngươi rất nhiều, sẽ khống chế để ngươi không nói ra được những lời chửi rủa đó. Khi có người chửi ngươi, thì ngươi cảm thấy giận dữ, muốn chửi tổ tiên tám đời nhà họ, nguyền rủa họ phải xuống địa ngục, nhưng rồi ngươi ngẫm nghĩ: “Mình dựa vào cái gì mà nguyền rủa họ chứ? Mình đâu phải là Đức Chúa Trời, mình đâu có quyền định đoạt”. Ngươi cũng nghĩ đến chuyện dùng những lời tục tĩu mà chửi người ta, nhưng rồi ngươi lại ngẫm nghĩ: “Chửi những lời tục tĩu đó thì đến bản thân mình còn thấy ghê tởm, vậy những người quanh mình sẽ nhìn nhận mình như thế nào đây? Vậy chẳng phải là không có nhân cách và tôn nghiêm sao? Chẳng phải mình là con mụ chanh chua sao? Mình không thể làm loại người như vậy được”. Ngươi không chửi ra được những lời đó, lời nói của ngươi sẽ chịu sự hạn chế đến một mức độ rất lớn, những lời ngươi có thể nói ra sẽ rất có hạn. Cùng lắm ngươi sẽ nói: “Anh là Sa-tan, tâm tính bại hoại của anh nghiêm trọng rồi, anh không thể được cứu rỗi đâu, Đức Chúa Trời chẳng thích anh”. Cùng lắm là ngươi nói ra được mấy lời đó, nhưng rồi lại ngẫm nghĩ: “Chuyện Đức Chúa Trời có thích người ta hay không, mình cũng đâu có định đoạt được”, thế là ngươi nói mà không được tự tin cho lắm. Người ta chửi ngươi, nguyền rủa ngươi phải xuống 18 tầng địa ngục, thì ngươi ngẫm nghĩ: “Chửi người ta xuống 18 tầng địa ngục à, nói như vậy thì quá tàn nhẫn rồi! Lời như vậy mình cũng không nói ra được, nói năng thì phải lưu tình chứ!” Tại sao ngươi có thể nảy sinh ý nghĩ này? Bởi vì những thứ trong nhân tính của ngươi khác với của kẻ ác. Nếu ngươi trung hậu và tốt bụng, có lương tâm và lý trí, thì lời ngươi nói ra sẽ rất có lý tính. Có lẽ ngươi sẽ nói ra vài lời nóng giận và tuôn ra đôi lời thô tục trong phạm vi của lương tâm, nhưng nói xong rồi thì bản thân ngươi thấy rất buồn bực mà cũng không thực sự làm tổn thương người khác – lời của ngươi không có sức sát thương. Kẻ ác thì càng chửi càng cao hứng, ngươi thì càng chửi càng buồn bực, rồi ngươi ngẫm nghĩ: “Thôi, bỏ đi. Tranh chấp với dạng tiểu nhân đê tiện và dạng ác nhân này thì chẳng có giá trị hay ý nghĩa gì. Mình không cãi nhau với họ nữa”. Tranh cãi với kẻ ác thì cũng vô ích như giảng lẽ thật cho Sa-tan vậy, không cần tranh cãi và so đo với họ, sau này cứ tránh xa loại người này là được rồi. Ngươi có ngẫm nghĩ chuyện hại họ không? Có ngẫm nghĩ chuyện trả thù họ, tìm cơ hội cho họ biết tay không? Ngươi đâu có lòng dạ tàn nhẫn đó. Lúc nào ngươi cũng nói: “Thôi, bỏ đi. Họ chửi mình vài câu, thì mình cũng đâu bị tổn thất gì. Mình không so đo với họ nữa”. Có người còn tự an ủi mình: “Đằng nào Đức Chúa Trời cũng không nguyền rủa mình, họ nguyền rủa mình cũng vô ích”. Thực ra, bởi ngươi có lương tâm và lý trí, nhân tính trung hậu và tốt bụng, nên ngươi căn bản là không chửi những lời đó được. Ngươi thấy chúng tục tĩu, thấp hèn. Những lời này mà được nói ra từ miệng ngươi, thì ngươi sẽ cảm thấy trái với lương tâm, nhất là những lời ăn không nói có và vô căn cứ thì ngươi càng không nói ra được. Việc ngươi không nói được những lời đó chính là một sự bảo vệ cho ngươi. Lời của họ có sức sát thương rất lớn đối với ngươi và gây tổn thương cho ngươi, thì đó là việc ác của họ. Việc ác này do đâu mà ra? Chính là do phẩm chất tồi tệ trong nhân tính của họ, khi họ phát sinh mâu thuẫn và xung đột với ngươi, thì tâm tính của họ bành trướng đến vô hạn, có thể chửi rủa ngươi không chút kiêng dè. Họ có dạng phẩm chất nhân tính tồi tệ này, nên họ tự nhiên bộc lộ tâm tính bại hoại. Trái lại, nếu ngươi là người trung hậu, tốt bụng, có lương tâm và lý trí, còn có nhân tính, thì trong trường hợp đó, chẳng những ngươi không phát tiết tâm tính bại họai của mình, mà đồng thời nhân tính của ngươi, đến một mức độ rất lớn, còn ràng buộc sự bộc lộ tâm tính bại hoại của ngươi. Đối với ngươi mà nói, đây là chuyện quá tốt rồi. Nhìn bề ngoài thì ngươi bị thiệt thòi, bị rơi vào thế hạ phong, ngươi cãi không lại họ và trở thành trò cười cho người ta. Nhưng trên thực tế, nhân tính của ngươi đã bảo vệ ngươi, ngăn ngươi không hành ác, không làm những việc hoặc nói những lời mà Đức Chúa Trời không chấp thuận. Vậy chẳng phải đến một mức độ nào đó, nó đã bảo vệ ngươi hay sao? (Thưa, phải.) Ưu điểm này của nhân tính, đến một mức độ rất lớn, sẽ bảo vệ ngươi, khiến cho ngươi trong lúc bộc lộ tâm tính bại hoại sẽ không dấn thêm mà làm ra những việc khiến Đức Chúa Trời không chấp thuận và ghê tởm, hoặc nói ra những lời khiến Đức Chúa Trời ghê tởm và định tội. Mặc dù việc này không được tính là việc lành, nhưng ít nhất ngươi đã không hành ác, việc ngươi làm đó sẽ không bị định tội, và ngươi sẽ không bị trừng phạt vì nó. Ngược lại, việc mà kẻ ác làm ra dưới sự chi phối của phẩm chất nhân tính tồi tệ thì sẽ khiến họ chẳng những bị định tội, mà còn bị trừng phạt. Họ phải gánh lấy hậu quả và trách nhiệm. Do đó, người có các ưu điểm khác nhau trong nhân tính thì trong một vài chuyện, bề ngoài họ có vẻ bị mất mặt, mất địa vị và tôn nghiêm, nhất là mất đi quyền chủ động và cơ hội nói lý lẽ, nhưng đó không phải là chuyện thiệt thòi đâu. Có người nói: “Không thiệt thòi, vậy có phải là đang chiếm lợi không?” Không thể dùng thiệt thòi hoặc chiếm lợi để đánh giá chuyện này. Vậy thì đánh giá như thế nào? Phải đánh giá như thế này: Trong chuyện này, thiệt thòi chẳng là gì cả, mấu chốt là lợi ích có thể đạt được từ đó. Trong tình huống như vậy, chính ưu điểm trong nhân tính của ngươi đã bảo vệ hành vi của ngươi, ngăn ngươi hành ác và khỏi bị định tội trong mắt Đức Chúa Trời. Vậy chẳng phải là đạt được lợi ích rồi sao? Ngươi sẽ không thể nào bị trừng phạt vì đã hành ác. Đây chẳng phải là chuyện tốt cho ngươi sao? (Thưa, phải.) Ngay cả khi đây không phải là việc lành mà ngươi chủ động làm, cũng không phải là hành vi chủ động tuân thủ nguyên tắc lẽ thật của ngươi, nhưng trong khuôn khổ là có ưu điểm trong nhân tính, ngươi đã làm một việc không trái với nguyên tắc lẽ thật, vậy thì ngươi đã được bảo vệ rồi. Mặc dù không được ghi nhớ, nhưng ít nhất, việc đó sẽ không bị định tội. Ngươi sẽ không cần phải gánh vác trách nhiệm gì, cũng không cần phải chịu trừng phạt. Đây chẳng phải là chuyện tốt hay sao? (Thưa, phải.) Trong quá trình đi theo Đức Chúa Trời, bất kể việc ngươi làm có phù hợp lẽ thật hay không, bất kể Đức Chúa Trời nhìn nhận thế nào, ít ra thì bản thân ngươi không thấy thẹn với lòng. Ngay cả khi Đức Chúa Trời không ghi nhớ, ít ra ngươi cũng không bị Đức Chúa Trời định tội hoặc căm ghét. Đây là một nguyên tắc mà ít ra ngươi nên tuân thủ. Ưu điểm của nhân tính có quan trọng với con người không? (Thưa, có.) Cho nên, ngươi đừng lúc nào cũng không sẵn lòng, vì cho rằng có ưu điểm của nhân tính khiến ngươi không được ưa chuộng, chẳng bao giờ chiếm được lợi ích, cứ để cho người ta chiếm ưu thế với mình còn mình lúc nào cũng thiệt thòi. Thiệt thòi có gì không tốt chứ? Ít nhất, những gì ngươi hưởng thụ vốn là thứ mà Đức Chúa Trời ban cho ngươi, ngươi đâu có chiếm của người khác. Nếu ngươi chiếm lợi của người khác thì không đúng đắn rồi – vậy nghĩa là ngươi chiếm đoạt phần của người khác. Nếu ngươi chiếm đoạt cái không nên là của ngươi, thì trong mắt Đức Chúa Trời, ngươi phải bị định tội. Chuyện gì bị Đức Chúa Trời định tội thì người ta không nên làm. Có vài người nói: “Con cũng không biết nên làm những việc gì thì có thể được Đức Chúa Trời ghi nhớ”. Nhưng ngươi không biết việc gì bị Đức Chúa Trời định tội sao? Nếu ngươi biết thì ít ra ngươi nên tuân thủ ranh giới này: đừng làm những việc bị Đức Chúa Trời định tội. Hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Đã nói nhiều về chuyện này rồi mà, các ngươi hẳn phải hiểu được.

Ưu điểm trung hậu trong nhân tính là điều mà hầu hết mọi người không có. Tuy nhiên, nếu người ta thực sự có ưu điểm này, thì đó đích thực là người tốt giữa nhân loại bại hoại này – người như vậy rất hiếm. Nếu ngươi thực sự có ưu điểm này, thì Đức Chúa Trời sẽ chúc phúc cho ngươi, sẽ ân đãi ngươi mọi nơi mọi lúc. Nói theo cách nói của con người thì Đức Chúa Trời sẽ chăm sóc ngươi mọi nơi mọi lúc. Ngài chăm sóc như thế nào? Chính là mặc dù ngươi luôn nghĩ cho người khác mà từ bỏ lợi ích của mình, người khác thì chiếm lợi của ngươi, nhưng họ lại không được Đức Chúa Trời chúc phúc, chỉ có thể dựa vào cái lợi chiếm của người ta mà sống, rồi sẽ phải bù đắp trong kiếp sau. Còn ngươi thì dựa vào phúc lành của Đức Chúa Trời mà sống, mặc dù người khác chiếm chút lợi của ngươi, nhưng thực ra ngươi đâu thiếu thứ gì. Các ngươi nói xem, như vậy có tốt hay không? (Thưa, tốt.) Ngươi xem, nhìn bề ngoài thì người trung hậu luôn bị thiệt thòi. Người ta thấy họ hiền hậu, nên khi nói năng và hành động thì luôn chiếm lợi của họ, luôn đối xử với họ như kẻ ngốc, luôn bắt nạt họ, bóp nặn tiền bạc và lợi ích từ họ, chiếm đoạt nhiều thứ của họ, nhưng ngươi xem họ có thiếu gì không? Họ chẳng thiếu gì cả, cái gì cũng được phong phú, lúc hành động thì còn thông minh và khôn ngoan, không phải lo lắng gì. Nhà Đức Chúa Trời giao cho bổn phận gì, họ đều không so đo được mất, không tranh không giành, bảo làm gì thì làm nấy. Bất kể họ làm việc gì cũng hiếm khi làm sai, mặc dù thỉnh thoảng họ có xuất hiện vài vấn đề nhỏ, phạm vài sai lầm nhỏ, thì cũng không phải do họ cố ý. Họ rất biết để tâm trong hành động, ít nhất là họ ổn về mặt ranh giới của lương tâm và lý trí, lại còn có thể tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời. Cho nên, họ sẽ có thể đạt được phúc lành của Ngài. Vì ngươi biết trung hậu là một ưu điểm của nhân tính, vậy ngươi có nên vươn tới điều này trong việc làm người không? (Thưa, có.) Đừng xét nét vụn vặt, đừng như những người quá gai góc mà không ai dám chọc đến hay động vào, đừng làm loại người như vậy. Người khác chiếm chút lợi của ngươi, thì đừng có lúc nào cũng cảm thấy người khác bắt nạt ngươi. Ngươi hiền hậu một chút thì có gì không tốt chứ? Có những người đầy tâm cơ, luôn muốn chứng tỏ mình không ngốc, họ nói: “Đừng xem tôi là kẻ ngốc, bộ não tôi thông minh lắm đấy! Ai không thích tôi, không tốt với tôi, tôi đều nhìn ra hết. Ai xem thường tôi, nói năng thì luôn mỉa mai tôi, luôn chọc ngoáy tôi, tôi đều nhìn ra hết”. Ngươi nhìn ra được, nghe ra được, thì cũng vô ích thôi. Đây là khôn vặt, là tâm cơ, có chút tâm cơ đâu có nghĩa là ngươi có sự khôn ngoan hay thực sự thông minh. Ngược lại, người ta còn xem thường ngươi, bởi vì chút tâm cơ, chút suy tính nhỏ nhen của ngươi là thứ mà ngay cả động vật cũng có. Tại sao Ta nói như vậy? Những người tiếp xúc gần gũi với động vật thì đều biết: Ngay cả những con thú nhỏ cũng nghe ra được lời tốt hay xấu mà ngươi nói với nó. Như con cún chẳng hạn, ngươi nói lời khó nghe thì nó liền không vui, ngươi nói mấy lời rõ ràng dễ nghe thì nó cũng có thể nghe ra được. Nếu người ta luôn lấy những thứ của động vật nhỏ ra làm tiêu chuẩn để đánh giá bản thân, vậy chẳng phải là hạ thấp thuộc tính của mình sao? Ngươi hạ thấp tiêu chuẩn của nhân loại thọ tạo thì chính là tự hạ thấp bản thân. Đừng lúc nào cũng nói: “Đừng cho là tôi ngốc, đừng xem tôi như đứa trẻ lên ba. Anh đưa bánh ngô cho tôi thì chắc chắn tôi sẽ không ăn, lo đưa bánh bao cho tôi đi. Ai chẳng biết bánh bao mới ngon chứ?” Đừng đem những lời ngốc nghếch này ra để chứng minh bản thân không ngốc. Nếu thực sự ngươi không ngốc, thì ngươi nên vươn tới tiêu chuẩn của nhân tính. Lương tâm và lý trí của con người nên có những điều gì, ưu điểm của nhân tính có những biểu hiện nào, khuyết điểm của nhân tính và phẩm chất nhân tính không tốt thì có những biểu hiện gì – ngươi hãy thông công và nhận biết những phương diện này đi. Hãy thông công một chút về điều mà nhân tính của con người nên có, điều mà nhân loại thọ tạo nên có, rồi sau đó nỗ lực vươn tới những phương diện này, cố gắng có những điều này. Làm vậy chẳng phải giá trị bản thân của ngươi sẽ được nâng cao sao? Ngươi luôn so trí thông minh với đứa trẻ lên ba, thì còn làm nên trò trống gì chứ? Ngươi còn có thể trưởng thành nổi sao? Đứa trẻ lên ba nói: “Con có thể uống sữa bằng bình sữa bằng nhựa”, thì ngươi nói: “Chú còn có thể uống bằng bình thủy tỉnh, lại không sợ bị bỏng tay”. Đứa trẻ lên ba nói: “Con có thể phân biệt giày phải, giày trái”, thì ngươi nói: “Cô còn có thể phân biệt mặt trước, mặt sau của cái áo len. Cháu làm được không hả?” Ngươi nói vậy thì còn làm nên trò trống gì nữa? Nếu trí thông minh, phẩm chất nhân tính và đủ mọi năng lực mà nhân tính của ngươi nên có đều dừng lại ở giai đoạn lên ba hoặc vị thành niên, mà ngươi muốn trở thành một người trưởng thành, muốn người khác xem ngươi là người trưởng thành, thì rất khó. Làm sao có thể khiến người khác xem ngươi là người trưởng thành? Ngươi phải làm những việc mà người trưởng thành nên làm, làm việc mà con người thọ tạo nên làm, và có nhân tính mà con người thọ tạo nên có. Nhân tính này ít nhất phải có những gì? Phải có lương tâm, lý trí, còn phải có phẩm chất nhân tính tốt về nhiều mặt. Như vậy thì ngươi sẽ dần có thay đổi và tiến bộ về những khuyết điểm và vấn đề của nhân tính. Vậy thì việc ngươi bước vào lẽ thật sẽ dễ dàng hơn nhiều, cũng bớt trở ngại hơn.

Ưu điểm trung hậu trong nhân tính này rất hiếm, hầu hết mọi người đều không có. Vậy làm sao có thể đạt được ưu điểm này? Khi không hiểu được bất kỳ lẽ thật nào thì ngươi rất khó có được ưu điểm của nhân tính này, rất khó làm được người như vậy. Tuy nhiên, khi lĩnh hội được một vài lẽ thật rồi, ngươi sẽ có con đường để làm dạng người như vậy, cũng có hy vọng làm được dạng người như vậy. Còn về chuyện ngươi có đạt đến được như vậy hay không, cuối cùng có thể có kết quả hay không, thì phải xem ngươi có thể đạt được lẽ thật và có lối vào sự sống hay không. Muốn có được ưu điểm này thì nên thực hành như thế nào? Bất kể ai làm gì hay nói gì với ngươi, thì ngươi đừng dùng huyết khí và cảm xúc mà đối đãi, đừng phân tích xem họ có ý gì với ngươi, gây tổn thương lớn đến thế nào cho ngươi, hoặc gây tổn hại thể diện của ngươi đến mức nào. Đừng dùng đầu óc, ý riêng của con người hoặc triết lý xử thế mà tiếp cận những chuyện này. Vậy thì nên tiếp cận như thế nào? Nên dựa vào lời Đức Chúa Trời và lẽ thật mà tiếp cận mọi chuyện. Ngươi hãy phấn đấu sao cho trong mỗi một hoàn cảnh, trong mỗi một lúc đối diện với mỗi một người, dù là nói chuyện, qua lại với họ hoặc xử lý một chuyện cụ thể nào, ngươi đều tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật và hành động theo nguyên tắc lẽ thật. Làm như vậy, đến một mức độ rất lớn, sẽ có ảnh hưởng được tối ưu hóa trên nhân tính của ngươi. Nghĩa là nó sẽ có tác dụng phụ trợ nhất định đối với lương tâm và lý trí của nhân tính ngươi, sẽ giúp ngươi tinh thần chính nghĩa, có thể đứng ở vị trí đúng và góc độ đúng mà nhìn nhận con người và sự vật, đây gọi là tối ưu hóa. Tối ưu hóa chính là khiến nhân tính ban đầu không tốt của ngươi trở nên tốt và bình thường. Vậy nhân tính ban đầu không tốt đó từ đâu mà có? Chính là do bị tâm tính bại hoại ảnh hưởng và chi phối. Hiện tại, nếu ngươi dựa vào lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật để hành xử và hành động rồi, thì khi ngươi hành động, nhân tính của ngươi sẽ chịu sự ảnh hưởng của lời Đức Chúa Trời và lẽ thật đến một mức độ rất lớn. Sự ảnh hưởng này gọi là tối ưu hóa. Đương nhiên, sự tối ưu hóa này không phải là thông qua một sự việc mà khiến cho nhân tính của ngươi thay đổi và nhân cách trở nên cao thượng. Thay vào đó, nó đến từ chuyện thực hành và trải nghiệm việc lấy lời Đức Chúa Trời và lẽ thật làm tiêu chuẩn, phong cách và phương hướng cho hành động trong một thời gian dài. Trong thời gian đó, ngươi sẽ ngày càng hiểu lẽ thật, cũng ngày càng có nguyên tắc khi làm việc. Như vậy thì nhân tính của ngươi sẽ dần dà có sự thay đổi, có thể phát triển theo hướng tốt. Ngươi sẽ ngày càng có lương tâm, ngày càng tốt bụng, ngày càng có tinh thần chính nghĩa, lý trí thì ngày càng bình thường, không còn hành động theo huyết khí hay sự bốc đồng nữa. Vậy thì, đến một mức độ rất lớn, nhân tính sẽ ngày càng có sức ràng buộc đối với tâm tính bại hoại. Trong điều kiện nhân tính như vậy, sự ràng buộc đối với những bộc lộ của tâm tính bại hoại sẽ ngày càng được củng cố, ngày càng mạnh hơn. Vậy thì những sự bộc lộ của tâm tính bại hoại nơi ngươi sẽ ngày càng ít đi, mức độ cũng ngày càng hời hợt hơn. Những chuyện ngươi làm ra hoặc những quan điểm ngươi bộc lộ sẽ ngày càng phù hợp với những điều tích cực và nguyên tắc lẽ thật. Hiện tượng này và sự bộc lộ này cho thấy sự sống của con người đang nảy sinh biến hóa. Nói cụ thể là, nếu ngươi lấy lời Đức Chúa Trời làm căn cứ, lấy lẽ thật làm tiêu chuẩn để nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động, thì nhân tính của ngươi sẽ ngày càng bình thường, những sự bộc lộ tâm tính bại hoại nơi ngươi sẽ ngày càng ít đi. Dần dà ngươi sẽ thoát khỏi được tâm tính bại hoại, đây là một vòng tuần hoàn tốt. Nhưng nếu ngươi dựa theo lô-gic của Sa-tan để nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động, thì đến một mức độ rất lớn, chuyện đó sẽ chà đạp và ăn mòn nhân tính của ngươi. Tâm tính bại hoại của ngươi sẽ ngày càng bành trướng, ngày càng nghiêm trọng, đây là vòng tuần hoàn ác tính. Nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động theo lời Đức Chúa Trời thì là vòng tuần hoàn tốt. Còn nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động theo lô-gic của Sa-tan thì chỉ có thể dẫn đến chuyện con người không ngừng xoay vòng trong cuộc sống và vòng tuần hoàn ác tính, chẳng bao giờ thoát ra được. Ngươi muốn bước vào trong vòng tuần hoàn tốt, thì biện pháp đơn giản nhất và trực diện nhất chính là từ trong những khuyết điểm của nhân tính và sự bộc lộ bại hoại mà bắt đầu phản tỉnh bản thân, nhận biết bản thân, lấy lời Đức Chúa Trời và nguyên tắc lẽ thật làm căn cứ để giải quyết tâm tính bại hoại của mình, đạt đến kết quả là có thể đưa lẽ thật vào thực hành và thuận phục Đức Chúa Trời. Như vậy thì sự sống của ngươi sẽ bước vào một vòng tuần hoàn tốt. Nhân tính của ngươi sẽ ngày càng bình thường, ngươi sẽ dần dà thay đổi tâm tính bại hoại của mình và thoát khỏi nó. Đây là quá trình của lối vào sự sống, cũng là quá trình tất nhiên phải có để người ta thoát khỏi tâm tính bại hoại và đạt được sự cứu rỗi. Đương nhiên, đây cũng là một con đường để bước vào. Những khuyết điểm và tật xấu của nhân tính, cùng những vấn đề về phẩm chất nhân tính tồi tệ và nhân cách thấp hèn mà chúng ta đã nói đến – nếu ngươi phát hiện nơi mình cũng có những vấn đề này, thì ngươi nên tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, sau đó dùng việc thực hành lời Đức Chúa Trời và lẽ thật mà thay thế chúng. Vậy thì ngươi sẽ bước vào một vòng tuần hoàn tốt. Cuối cùng điều ngươi thu hoạch được sẽ không chỉ là sự thay đổi về nhân tính, mà ngươi còn thoát khỏi được tâm tính bại hoại. Nền tảng của tâm tính bại hoại mà ngươi dựa vào để sinh tồn cũng sẽ được thay đổi. Thực hành như vậy thì ngươi sẽ có hy vọng đạt được sự cứu rỗi. Tuy nhiên, nếu ngươi không thể tìm kiếm lẽ thật hoặc thực hành lẽ thật như vậy, trong lòng luôn nghĩ: “Ngài nói tôi nhỏ mọn, nói tôi có những khuyết điểm và tật xấu trong nhân tính như cố chấp, mặt dày, hay nghi ngờ, v.v.. Tôi là vậy đấy, tôi sẽ sống như vậy. Tôi cũng không thay đổi đâu, mặc kệ tôi chứ! Đằng nào tôi cũng không muốn bị thiệt thòi, chỉ cần tôi chiếm được lợi là được rồi!” Nếu ngươi có dạng tư tưởng và quan điểm này thì quá bất hạnh rồi, ngươi sẽ bước vào vòng xoáy tuần hoàn ác tính quái quỷ, mãi mãi không thoát ra được. Cuối cùng kết quả sẽ là gì? Kết quả cuối cùng, có lẽ ngươi cũng không muốn thấy đâu, chính là tâm tính bại hoại của ngươi sẽ vĩnh viễn là sự sống của ngươi. Nó sẽ trói chặt ngươi cả đời, ăn sâu bén rễ trong tư tưởng và sâu thẳm linh hồn ngươi, và ngươi không thể nào thoát khỏi nó. Không thể nào thoát khỏi nghĩa là gì? Nghĩa là ngươi không có hy vọng được cứu rỗi, không có phần trong đích đến tốt đẹp mà Đức Chúa Trời chuẩn bị cho nhân loại, kết quả là vậy đấy. Nếu ngươi không muốn nhìn thấy kết quả này, vậy hãy bắt đầu bước vào và thực hành theo con đường mà Ta đã nói đến và đạt đến có được một vòng tuần hoàn tốt, cuối cùng tất nhiên ngươi sẽ có thu hoạch. Hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.)

Mặc dù hôm nay không thông công về nhiều chủ đề, nhưng nội dung được nói đến thì không ít. Hôm nay thông công đến đây thôi, sau này sẽ tiếp tục thông công những chủ đề và nội dung khác. Tạm biệt!

Ngày 2 tháng 12 năm 2023

Trước: Cách mưu cầu lẽ thật (4)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con và hát những bài ca mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 6) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 7) Tôi đã quay về với Đức Chúa Trời Toàn Năng như thế nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger