34. Điều gì ẩn sau sự tiêu cực và uể oải trong bổn phận
Lúc đó, lãnh đạo giao cho chị phụ trách một số buổi họp nhóm. Sau một thời gian thực hành, chị đã nắm rõ được một số nguyên tắc và biết cách phân định một số tình trạng mà mọi người trải qua. Chị cảm thấy bổn phận này giúp chị biết thêm nhiều lẽ thật và tiến bộ rất nhanh. Nhưng sau đó cảnh sát bắt đầu theo dõi chấp sự lo sự vụ chung và chị ấy không thể liên lạc với người khác, nên lãnh đạo bố trí chị xử lý sự vụ chung. Trong thời gian đó, các anh chị em liên tục bị bắt giữ. Có rất nhiều việc phải lo, như vận chuyển sách, tìm nhà tiếp đãi mới để các anh chị em trú ẩn, vân vân. Ngày nào chị cũng chạy đôn chạy đáo bên ngoài, bố trí mọi việc. Sau một thời gian, chị không khỏi cảm thấy buồn bực và bất mãn. Chị thấy đây chỉ là công việc sự vụ chung, chỉ có chạy đi chạy lại, và như thế thì chị không thể đạt được lẽ thật. Nếu tiếp tục như vậy, chị có được cứu rỗi không? Chị bắt đầu phản đối, không muốn làm công tác sự vụ chung.
Khá nhiều lần khi đi giao đồ ở những nhà tiếp đãi, chị thấy các anh chị em thông công trong buổi hội họp và không khỏi cảm thấy bức xúc, thậm chí là oán giận lãnh đạo. Tại sao chị ấy lại giao cho chị phụ trách sự vụ chung? Họ cùng nhau thông công về lẽ thật, học hỏi nhiều điều và trưởng thành rất nhanh, còn chị thì… chỉ chạy việc vặt, làm sao đạt được lẽ thật đây? Không có lẽ thật, chị sẽ không có sự sống, và không thể được cứu rỗi. Chẳng phải chị đang thua thiệt sao? Càng nghĩ chị càng thấy buồn lòng và không còn động lực thực hiện bổn phận nữa. Một lần chị phát hiện có rủi ro an toàn ở nhà của một người chị em, và chỗ sách đang cất giữ ở đó phải được di chuyển tới nơi an toàn càng sớm càng tốt. Chị tự hỏi, “Sao lại có nhiều công việc sự vụ chung như thế? Đã mất công mất sức mà còn không đạt được lẽ thật. Chẳng phải mình đang làm việc vô nghĩa sao?”. Nghĩ như thế nên chị không muốn làm nữa. Nhưng tình hình rất khẩn cấp, nên chị đành phải ra tay giúp chuyển sách đi. Thật không ngờ, vừa mới chuyển xong sách ở đó, thì lại có chuyện bất ổn xảy ra ở một nhà cất giữ sách khác. Chị lại phải chuyển chỗ sách đó đi, phải lặp lại cả quá trình sắp xếp, đóng gói, chuyển đi thêm một lần nữa, sau một ngày dài làm việc mệt mỏi quá đỗi, lòng chị đầy bất mãn và rối bời. Khi chị lê thân xác mệt mỏi về nhà, thì thấy lãnh đạo và chấp sự chăm tưới đang thảo luận công tác. Lãnh đạo hỏi chị, “Chẳng phải chị chỉ đưa một người chị em tới nhà tiếp đãi mới sao? Sao lại mất cả ngày như vậy?”. Khi nghe chị ấy nói thế, chị cảm thấy rất bức xúc. Họ ở đây cùng nhau thông công lẽ thật và nguyên tắc trong khi chị chạy đôn chạy đáo bên ngoài. Lo liệu sự vụ chung thì đạt được cái gì chứ? Dù làm nhiều đến mấy, chẳng phải rốt cuộc cũng chỉ là một kẻ ra sức lực phục vụ sao? Giá như chị có thể ở trong nhà đọc lời Đức Chúa Trời, hội họp và thông công với mọi người, và thảo luận công tác, như thế chẳng tốt sao? Sẽ dễ dàng hơn và chị có thể đạt được lẽ thật, để sau này được cứu rỗi. Càng nghĩ chị càng thấy phiền lòng, chị cảm thấy tiêu cực và vô cùng mệt mỏi. Thậm chí chị còn thấy oán trách: Tại sao chị lại phải phụ trách sự vụ chung? Có phải Đức Chúa Trời muốn chị làm kẻ ra sức lực phục vụ không? Nếu tiếp tục thế này, chẳng phải chị chỉ là kẻ chạy việc vặt sao? Chị sẽ đạt được gì đây?
Ngày hôm sau, có rất nhiều công tác sự vụ chung cần phải giải quyết, và chị không kìm nén được sự oán trách nữa. Lãnh đạo thấy chị đang trong tình trạng không ổn nên nhắc nhở chị tự phản tỉnh và rút ra bài học. Đó là lời cảnh tỉnh dành cho chị. Trong thời gian phụ trách sự vụ chung, chị làm việc nhưng trong lòng cứ phản đối, nuôi thái độ bất mãn, muốn kén chọn bổn phận. Chị còn nghĩ Đức Chúa Trời bất công với mình, chị nhận ra mình đang ở trong tình trạng nguy hiểm. Chị không thể cứ mãi chống đối như thế được. Chị phải tìm kiếm lẽ thật và ăn năn với Đức Chúa Trời.
Chị đọc được đoạn này trong lời Đức Chúa Trời: “Những nguyên tắc ngươi phải hiểu và những lẽ thật ngươi phải đưa vào thực hành là như nhau bất kể ngươi đang thực hiện bổn phận gì. Cho dù ngươi được yêu cầu làm lãnh đạo hay chấp sự, hoặc ngươi đang nấu các món ăn với tư cách người tiếp đãi, hoặc ngươi được yêu cầu lo một số sự vụ bên ngoài hay làm một số công việc chân tay, thì các nguyên tắc lẽ thật cần được tuân thủ khi thực hiện các bổn phận khác nhau này là không đổi, ở chỗ chúng phải dựa trên lẽ thật và lời Đức Chúa Trời” (Chỉ có tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật thì mới có thể làm tròn bổn phận của mình, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Nhiều người không biết rõ ý nghĩa của việc được cứu rỗi. Một số người tin rằng nếu họ đã tin Đức Chúa Trời một thời gian dài thì họ có nhiều khả năng được cứu rỗi. Một số người nghĩ rằng nếu họ hiểu nhiều học thuyết thuộc linh thì họ có nhiều khả năng được cứu rỗi, hoặc một số người nghĩ rằng các lãnh đạo và chấp sự chắc chắn sẽ được cứu rỗi. Những điều này đều là quan niệm và sự tưởng tượng của con người. Điều cốt yếu là người ta phải hiểu được sự cứu rỗi có nghĩa là gì. Được cứu rỗi trước hết có nghĩa là được giải thoát khỏi tội lỗi, được giải thoát khỏi ảnh hưởng của Sa-tan, và thực sự hướng về Đức Chúa Trời và thuận phục Đức Chúa Trời. Ngươi phải sở hữu những gì để thoát khỏi tội lỗi và sự ảnh hưởng của Sa-tan? Lẽ thật. Nếu con người hy vọng đạt được lẽ thật, họ phải được trang bị nhiều lời Đức Chúa Trời, họ phải có thể trải nghiệm và thực hành chúng, để họ có thể hiểu được lẽ thật và bước vào thực tế. Chỉ khi đó họ mới có thể được cứu rỗi. Việc một người có thể được cứu rỗi hay không không liên quan đến việc họ đã tin Đức Chúa Trời bao lâu, họ có bao nhiêu kiến thức, liệu họ có sở hữu những ân tứ hay thế mạnh không, hay họ chịu khổ bao nhiêu. Điều duy nhất có quan hệ trực tiếp đến sự cứu rỗi là liệu một người có thể đạt được lẽ thật hay không. Vậy hôm nay, ngươi đã thực sự hiểu được bao nhiêu lẽ thật? Và bao nhiêu lời Đức Chúa Trời đã trở thành sự sống của ngươi? Trong tất cả các yêu cầu của Đức Chúa Trời, ngươi đã đạt được sự bước vào những yêu cầu nào? Trong những năm tin Đức Chúa Trời, ngươi đã bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời được bao nhiêu? Nếu ngươi không biết, hoặc nếu ngươi chưa đạt được sự bước vào thực tế của bất kỳ lời nào của Đức Chúa Trời, thì nói thẳng ra, ngươi không có hy vọng được cứu rỗi. Ngươi không thể được cứu rỗi” (Trân quý lời Đức Chúa Trời là nền tảng của đức tin nơi Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Nhờ đọc lời Đức Chúa Trời chị đã hiểu ra rằng trong hội thánh, bất luận là công tác chăm tưới hay công tác sự vụ chung, đó đều là bổn phận mà chúng ta phải làm. Đức Chúa Trời mong khi thực hiện bổn phận, chúng ta mưu cầu lẽ thật và có lối vào sự sống. Dù bổn phận của chúng ta có thể khác nhau, nhưng nguyên tắc lẽ thật mà chúng ta thực hành là giống nhau. Chúng ta đều biểu lộ sự bại hoại cho dù thực hiện bổn phận gì. Chỉ cần tìm kiếm lẽ thật khi có bộc lộ sự bại hoại, rồi ăn năn và thay đổi, thì chúng ta có thể tiến bộ trong sự sống. Rồi chúng ta có thể đạt được lẽ thật và được cứu rỗi. Nhưng nếu chúng ta không rút ra bài học khi có chuyện xảy ra, hoặc là việc chúng ta làm chẳng liên quan đến việc thực hành lẽ thật hay thay đổi tâm tính, thì Đức Chúa Trời sẽ coi đó chỉ là ra sức, và chúng ta sẽ không đạt được lẽ thật, chứ đừng nói đến sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Nhưng chị đã nhầm khi cho rằng không thể đạt được lẽ thật nếu chỉ xử lý sự vụ chung, và dù có làm nhiều thế nào, chị cũng sẽ chỉ là một kẻ ra sức lực phục vụ. Chị nghĩ làm một lãnh đạo hay trưởng nhóm, thông công về lẽ thật và hỗ trợ người khác, đọc và thông công lời Đức Chúa Trời mỗi ngày thì sẽ mau chóng tiến bộ trong sự sống, có thể đạt được lẽ thật và được cứu rỗi. Chẳng phải quá nực cười rồi sao? Thực ra một người thực sự mưu cầu lẽ thật có thể rút ra bài học từ những chuyện họ gặp, cho dù đang thực hiện bổn phận gì, sau đó có những thu hoạch thực tế, thiết thực, giống như trong những đoạn phim chứng ngôn chị đã xem. Một số anh chị em phụ trách công tác sự vụ chung, nhưng khi nghe lời Đức Chúa Trời, họ có thể tập trung đưa lời Ngài vào thực hành, khi biểu lộ tâm tính bại hoại thì họ có thể tìm kiếm lẽ thật để giải quyết nó. Họ có thể thay đổi sau một trải nghiệm, và có thể chia sẻ chứng ngôn thực tế của mình. Có một số lãnh đạo và người làm công thường đọc lời Đức Chúa Trời cho người khác và giúp họ giải quyết vấn đề, nhưng không thực sự thực hành những gì họ rao giảng, chỉ biết nói câu chữ và đạo lý, cuối cùng bị tỏ lộ và đào thải. Thực sự có những chuyện này, đúng không? Đức Chúa Trời không thiên vị vì mọi người thực hiện bổn phận khác nhau. Những ai không mưu cầu lẽ thật chỉ là những kẻ ra sức lực phục vụ. Người mưu cầu lẽ thật sẽ được tưởng thưởng, bất kể làm bổn phận nào. Đức Chúa Trời rất công chính và không thiên vị ai. Nhưng chị đã bám vào những quan điểm sai lầm, và muốn kén chọn bổn phận. Chị phản đối xử lý sự vụ chung – không muốn làm nó. Chị còn oán giận lãnh đạo, bực mình khi chị ấy giao cho chị công tác đó. Chị đã không mưu cầu lẽ thật, biểu lộ sự bại hoại mà không tự phản tỉnh hay giải quyết nó. Đã thế chị lại còn tiêu cực, oán trách và đổ lỗi cho người khác. Chị nghĩ Đức Chúa Trời bắt chị làm kẻ ra sức lực phục vụ. Chị đã hiểu nhầm Ngài. Chị đã ở trong hoàn cảnh rất thực tế nhưng lại không rút ra được bài học, chỉ biết oán trách. Thật vô lý. Nếu tiếp tục như vậy và không đạt được lẽ thật nào, thì thế nào chị cũng sẽ trở thành một kẻ ra sức lực phục vụ thực sự. Công tác sự vụ chung đã đến với chị, nhưng chị đã không tiếp nhận nó từ Đức Chúa Trời và vâng phục. Chị chưa giải quyết được vấn đề của mình, chứ đừng nói đến giải quyết vấn đề của các anh chị em khác. Vậy mà chị lại muốn thực hiện công tác chăm tưới! Thế chẳng phải là không có lý trí sao? Chị nhớ lời Đức Chúa Trời phán: “Cuối cùng, việc con người có thể đạt được sự cứu rỗi hay không không phụ thuộc vào việc họ làm bổn phận nào, mà phụ thuộc vào việc liệu họ có thể hiểu và đạt được lẽ thật hay không, và phụ thuộc vào việc liệu cuối cùng họ có thể hoàn toàn thuận phục Đức Chúa Trời, phó mặc bản thân mình vào sự sắp đặt của Ngài, không màng tiền đồ và vận mệnh bản thân, và trở thành một tạo vật đạt tiêu chuẩn hay không. Đức Chúa Trời là Đấng công chính và thánh khiết, và đây là những tiêu chuẩn mà Ngài dùng để đánh giá cả nhân loại. Những tiêu chuẩn này là bất biến, và ngươi phải nhớ điều này. Hãy ghi khắc những tiêu chuẩn này vào lòng, và đừng bao giờ nghĩ về việc tìm kiếm con đường nào khác để theo đuổi điều viển vông nào đó. Các yêu cầu và tiêu chuẩn Đức Chúa Trời đòi hỏi ở tất cả những ai muốn đạt được sự cứu rỗi vĩnh viễn không thay đổi. Chúng vẫn như thế cho dù ngươi là ai” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Nhờ đọc lời Đức Chúa Trời, chị đã hiểu ra rằng dù một người xử lý sự vụ chung hay phụng sự với vị trí lãnh đạo, điều quan trọng là phải mưu cầu lẽ thật trong quá trình họ thực hiện bổn phận. Những người được cứu rỗi là người có thể tìm kiếm lẽ thật trong hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt, hiểu được bản thân, ăn năn và thay đổi. Hiểu ra điều này lòng chị thấy rất sáng tỏ.
Sau đó chị bắt đầu suy nghĩ kỹ mọi chuyện. Tại sao chị lại buồn bực và không bằng lòng công tác khi được giao phụ trách sự vụ chung? Chị đọc đoạn này trong lời Đức Chúa Trời: “Điều đáng buồn nhất về niềm tin của con người vào Đức Chúa Trời là họ tiến hành việc quản lý của chính họ giữa công tác của Đức Chúa Trời, mà lại chẳng chú ý gì đến sự quản lý của Đức Chúa Trời. Thất bại to lớn nhất của con người nằm ở chỗ làm thế nào mà, đồng thời với việc tìm cách thuận phục Đức Chúa Trời và thờ phượng Ngài, con người cũng đang xây dựng đích đến lý tưởng của riêng mình, và bày mưu làm thế nào để nhận lãnh được ân phước to lớn nhất và đích đến tốt đẹp nhất. Cho dù có người hiểu rằng họ đáng thương, đáng ghét, và thảm hại dường nào, mấy ai có thể sẵn sàng từ bỏ lý tưởng và niềm hy vọng của họ? Và ai có thể dừng bước và thôi không chỉ nghĩ về mỗi bản thân họ? Đức Chúa Trời cần những ai sẽ hợp tác cận kề với Ngài để hoàn tất sự quản lý của Ngài. Ngài cần những ai sẽ thuận phục Ngài bằng cách dâng hiến toàn bộ thân tâm cho công tác quản lý của Ngài. Ngài không cần đến những kẻ hằng ngày chỉ đưa tay cầu xin từ Ngài, càng không cần những kẻ chỉ cho đi một ít mà lại chờ đợi để được ban thưởng. Đức Chúa Trời khinh ghét những kẻ chỉ đóng góp một phần nhỏ mọn, và rồi ngủ quên trên chiến thắng của mình. Ngài ghét những kẻ máu lạnh, những kẻ thấy chán ghét với công tác quản lý của Ngài và chỉ muốn nói về việc lên thiên đàng và nhận lãnh ân phước. Ngài càng ghê tởm hơn với những kẻ lợi dụng cơ hội từ công tác Ngài làm để cứu rỗi nhân loại. Đó là bởi những người này chưa bao giờ quan tâm đến những gì Đức Chúa Trời mong muốn đạt được và thu được thông qua công tác quản lý của Ngài. Họ chỉ quan tâm đến việc làm thế nào để có thể tận dụng cơ hội do công tác của Đức Chúa Trời mang lại để có được các ân phước. Họ chẳng quan tâm đến tấm lòng của Đức Chúa Trời, mà hoàn toàn bị chiếm cứ bởi những triển vọng và số phận của riêng mình. Những kẻ căm ghét công tác quản lý của Đức Chúa Trời và không có chút hứng thú nào với việc Đức Chúa Trời cứu rỗi nhân loại như thế nào và tâm ý của Ngài, những kẻ đó chỉ đang làm những việc thỏa mãn chính mình theo cách tách biệt khỏi công tác quản lý của Đức Chúa Trời. Hành xử của họ không được Đức Chúa Trời nhớ đến hay khen ngợi – càng không được Đức Chúa Trời ưu ái xem xét đến” (Phụ lục 3: Con người chỉ có thể được cứu rỗi giữa sự quản lý của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời đã vạch trần tình trạng của chị. Chị miễn cưỡng xử lý sự vụ chung vì chị không có động cơ đúng đắn trong bổn phận. Chị chỉ làm để được ban phước lành, trong lòng luôn tính toán lợi ích thiệt hơn. Chị hăm hở trả bất cứ giá nào khi việc đó có lợi và phúc cho mình, nhưng ngay khi thấy mình được giao phụ trách sự vụ chung và sẽ chỉ làm một kẻ ra sức lực phục vụ, chị cảm thấy đây là thua thiệt lớn. Chị chê bai và cằn nhằn, và dù vẫn thực hiện công tác nhưng chị rất bất mãn. Chị sống theo triết lý sinh tồn của Sa-tan, như “Người không vì mình, trời tru đất diệt”, “Không có lợi, dậy sớm làm gì” và “Thấy lợi hưởng trước”, Chữ “lợi” luôn đặt lên hàng đầu, và kể cả việc tận lực vì Đức Chúa Trời cũng là để giao dịch với Ngài. Từ đầu chí cuối, chị không hề nghĩ cách để thực hiện tốt bổn phận. Kể cả trong những hoàn cảnh khó khăn, mối quan tâm đầu tiên của chị không phải là bảo vệ các anh chị em và tài sản của hội thánh, chuyển chúng tới nơi an toàn càng sớm càng tốt, mà là xem thực hiện công tác đó có xứng đáng không, nó có lợi cho đích đến của chị không. Chị đã thấy Sa-tan làm bại hoại mình trở thành người ích kỷ và hèn hạ, vô lương tâm và lý trí. Chị thật quá lạnh lùng, chỉ biết tới bản thân. Chị là thành viên của hội thánh, nên bất cứ công tác nào cần hoàn thành, lẽ ra chị phải không từ nan chuyện gì để phối hợp, bảo vệ lợi ích của hội thánh. Nhưng chị đã quá chú trọng mục đích trong mọi việc mình làm. Chị thấy mình sẽ thua thiệt nếu không được ban phước lành sau khi làm việc chăm chỉ như vậy. Đầu chị luôn nghĩ cách để được ban phước lành và hưởng lợi. Sự thực đã cho chị thấy rằng động lực cho bao năm nỗ lực trong đức tin của chị chỉ là ham muốn phước lành. Chị nhớ đến lời Đức Chúa Trời phán: “Ngay cả những con người thể hiện sự tử tế với người khác cũng được đền đáp, ấy vậy mà Đấng Christ, Đấng đã thực hiện những công việc như thế giữa các ngươi, lại không nhận được tình yêu lẫn sự báo đáp và thuận phục của con người. Đây không phải là điều đau lòng sao?” (Những ai không tương hợp với Đấng Christ thì hẳn là những kẻ chống đối của Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đọc những lời Đức Chúa Trời, chị càng cảm thấy hối hận và đau lòng. Chị đã ăn uống rất nhiều lời Đức Chúa Trời, tận hưởng nhiều ân điển và phước lành của Đức Chúa Trời, nhưng chưa từng nghĩ đến việc đền đáp tình yêu của Đức Chúa Trời bằng cách thực hiện tốt bổn phận. Chị chỉ biết lấy mà không biết cho. Chị tham lam vô độ đòi phước lành của Đức Chúa Trời, muốn Ngài cho chị đích đến tốt đẹp. Chị hờn dỗi khi không đạt được, lòng đầy oán trách khi mới chỉ thực hiện chút bổn phận nhỏ. Lương tâm và lý trí của chị đã trở nên quá u mê, khiến Đức Chúa Trời đau lòng. Càng nghĩ chị càng cảm thấy mắc nợ và tội lỗi. Chị căm ghét bản thân vì đã quá vô lương tâm và vô nhân tính.
Sau đó chị đọc được một đoạn khác trong lời Đức Chúa Trời: “Trong nhà Đức Chúa Trời, bất cứ khi nào một việc gì đó được sắp xếp cho ngươi làm, cho dù đó là công việc khó khăn hay mệt mỏi, và dù ngươi có thích hay không, thì đó cũng là bổn phận của ngươi. Nếu ngươi có thể coi đó là sự ủy nhiệm và trách nhiệm mà Đức Chúa Trời đã giao cho ngươi, thì ngươi có liên quan đến công tác cứu rỗi con người của Ngài. Và nếu những gì ngươi làm và bổn phận mà ngươi thực hiện có liên quan đến công tác cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời, và ngươi có thể thành tâm thành ý chấp nhận sự ủy nhiệm mà Đức Chúa Trời đã giao cho ngươi, thì Ngài sẽ coi ngươi như thế nào? Ngài sẽ coi ngươi như một thành viên trong gia đình Ngài. Đó là phước lành hay tai họa? (Phước lành.) Đó là một phước lành rất lớn” (Thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn là gì?, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đoạn này khiến chị rất xúc động. Chỉ cần người ta nguyện ý thực hiện bổn phận, Đức Chúa Trời sẽ cho họ cơ hội. Mọi công việc trong hội thánh, dù là những việc không ấn tượng mấy, cũng đều có ý nghĩa, Chúng đều nên được tiếp nhận và được coi là bổn phận và trách nhiệm. Nếu cố gắng mưu cầu lẽ thật trong bổn phận, thực hiện nó một cách đúng đắn theo yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì ta sẽ có cơ hội được cứu rỗi. Nếu ta coi bổn phận như một sự giao dịch, làm vốn để đổi chác phước lành hay tấm vé vào thiên quốc, thì dù ta làm việc chăm chỉ thế nào cũng không bao giờ bước vào lẽ thật được, vì quan điểm mưu cầu và con đường ta đi là sai lầm. Có cơ hội để thực hiện bổn phận, và phục vụ công tác của Đức Chúa Trời, chính là sự cất nhắc của Đức Chúa Trời và là đại phúc. Sao chị có thể kén chọn bổn phận được chứ? Lẽ ra chị nên tiếp nhận và vâng phục. Đó là việc mà chị, một con người thọ tạo nên làm. Nhưng chị đã không thấy được phước lành quanh mình, không trân trọng cơ hội mưu cầu lẽ thật qua bổn phận này. Chị coi bổn phận là công việc ra sức cực khổ, là vốn thương thảo để giao dịch với Đức Chúa Trời, và chị hiểu nhầm và oán trách Đức Chúa Trời. Chị quá mù quáng. Hiểu ra điều này, chị không còn phản đối việc xử lý sự vụ chung. Chị chân thành sẵn sàng tiếp nhận, thuận phục và thực hiện bổn phận đó thật tốt.
Chị còn đọc được một đoạn khác trong lời Đức Chúa Trời: “Khi thực hiện bổn phận của mình, con người dùng việc mưu cầu lẽ thật để trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, dần hiểu và chấp nhận lẽ thật, và sau đó thực hành lẽ thật. Sau đó, họ bỏ được tâm tính bại hoại, thoát khỏi những sự ràng buộc và kiểm soát của tâm tính bại hoại của Sa-tan, vì vậy họ trở thành người có thực tế lẽ thật và có nhân tính bình thường. Chỉ khi ngươi có nhân tính bình thường thì việc ngươi thực hiện bổn phận và hành động của ngươi mới có tính xây dựng với mọi người và làm Đức Chúa Trời thỏa lòng. Và chỉ khi con người được Đức Chúa Trời khen ngợi trong việc thực hiện bổn phận thì họ mới có thể là một loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời. Vậy, liên quan đến việc thực hiện bổn phận của các ngươi, mặc dù những gì các ngươi hiện đang bỏ ra và dâng hiến là những kỹ năng, sự hiểu biết và kiến thức khác nhau mà các ngươi đã học, nhưng chính nhờ thông qua thực hiện bổn phận mà các ngươi có thể hiểu lẽ thật, biết thế nào là thực hiện bổn phận của mình, thế nào là đến trước Đức Chúa Trời, thế nào là hết lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời. Thông qua con đường này, các ngươi sẽ biết cách vứt bỏ tâm tính bại hoại của mình, chống lại bản thân, không kiêu ngạo và tự nên công chính, cũng như thuận phục lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời. Chỉ như vậy ngươi mới có thể đạt được sự cứu rỗi” (Để đạt được lẽ thật, ta phải học hỏi từ con người, sự việc và sự vật xung quanh, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời chị hiểu rằng thực hiện bổn phận chính là con đường để thay đổi tâm tính và đạt được lẽ thật. Nó chẳng liên quan đến việc được ban phước lành hay được hưởng lợi. Dù ta thực hiện bổn phận gì, mưu cầu lẽ thật và chú trọng vào thay đổi tâm tính là con đường đúng đắn duy nhất. Lý do chị không thu hoạch được gì từ công tác sự vụ chung là vì chị không mưu cầu lẽ thật hay chú trọng lối vào sự sống. Chẳng liên quan gì đến bổn phận chị thực hiện cả. Chị nghĩ công tác sự vụ chung chỉ là ra sức. Khi bộc lộ sự bại hoại, chị không chú tâm tìm kiếm lẽ thật để giải quyết nó. Chị tiêu cực và lười biếng trong bổn phận, và dù chị vẫn làm việc nhưng không đạt được gì, tâm tính của chị không hề thay đổi chút nào. Không đời nào chị được cứu rỗi nếu cứ tiếp diễn như vậy. Chị đã có con đường thực hành khi hiểu ra điều này. Dù là xử lý sự vụ chung hay là chăm tưới và hỗ trợ các anh chị em, chị cũng không được coi đó là một nhiệm vụ. Chị phải chú tâm cầu nguyện và tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, khi bộc lộ tâm tính bại hoại, chị phải tự phản tỉnh và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết nó. Sau khi thực hành theo cách này một thời gian, không lâu sau chị đã hiểu bản thân hơn và đạt được thêm chút hiểu biết thực tế về lẽ thật.
Chị nhớ có một chị rất hay bảo chị tham gia vào những kế hoạch của chị ấy. Chị ấy còn nhờ chị giúp những việc đơn giản mà chị ấy có thể tự làm. Lần sau đó khi chị ấy nhờ, chị đã thay đổi tư duy, và không còn phản đối vì bận nhiều việc nữa. Khi làm việc cùng nhau, chị phát hiện chị ấy không gánh vác trọng trách trong bổn phận và tham hưởng an nhàn. Chị muốn chỉ ra cho chị ấy, nhưng lại sợ nếu mình nói ra thì chị ấy sẽ cảm thấy chị khó gần, nên chị đã quan tâm đến xác thịt của chị ấy. Chị làm luôn phần việc còn dang dở – không nhắc nhở hay thông công với chị ấy. Sau đó, nhờ đọc lời Đức Chúa Trời và phản tỉnh, chị hiểu ra mình là một người dễ dãi. Chị có vẻ quan tâm và hiểu chuyện, nhưng thực ra chị có động cơ riêng, đó là tạo ấn tượng tốt với chị ấy. Việc đó không có lợi cho sự sống của chị ấy và sẽ khiến chị ấy luôn ỷ lại. Hiểu được vậy rồi, chị đã thổ lộ và nói với chị ấy về sự bại hoại của mình, đồng thời nhắc đến vấn đề của chị ấy. Sau đó chị ấy đã có chút thay đổi, trở nên tích cực hơn trong bổn phận và ít dựa dẫm vào chị hơn. Những trải nghiệm này dạy cho chị rằng dù thực hiện bất cứ bổn phận gì thì vẫn có thể hiểu và bước vào lẽ thật. Đức Chúa Trời không thiên vị ai. Chị cũng nhận ra dù làm việc gì hay gặp phải hoàn cảnh nào, có thể tìm kiếm lẽ thật và đưa nó vào thực hành là điều quan trọng nhất.
Những trải nghiệm này dạy cho chị rằng dù thực hiện bất cứ bổn phận gì thì vẫn có thể hiểu và bước vào lẽ thật. Đức Chúa Trời không thiên vị ai. Chị cũng nhận ra dù làm việc gì hay gặp phải hoàn cảnh nào, có thể tìm kiếm lẽ thật và đưa nó vào thực hành là điều quan trọng nhất.