63. Sau khi con trai nhỏ tuổi mắc bệnh
Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Con người thiếu lý trí đến vậy đấy – họ có quá nhiều yêu cầu dành cho Đức Chúa Trời và đòi hỏi ở Ngài quá nhiều, không hề có chút lý trí nào. Con người luôn yêu cầu Đức Chúa Trời làm cái này cái kia nhưng lại không thể hoàn toàn vâng phục hay thờ phượng Ngài. Thay vào đó, họ đặt ra cho Đức Chúa Trời những yêu cầu vô lý theo sở thích cá nhân… Con người quá thiếu lý trí, đúng không? Họ không những không thể hoàn toàn vâng phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, không thể tiếp nhận mọi điều từ Đức Chúa Trời, mà ngược lại còn áp đặt thêm yêu cầu lên Đức Chúa Trời. Những con người với đòi hỏi như vậy sao có thể trung thành với Đức Chúa Trời? Làm sao họ vâng phục được sự an bài của Đức Chúa Trời? Làm sao họ yêu kính được Đức Chúa Trời? Con người ai cũng đặt ra yêu cầu về việc Đức Chúa Trời nên yêu thương họ, khoan dung với họ, chiếu cố và bảo vệ họ, quan tâm và chăm sóc họ như thế nào, nhưng không ai trong số họ đặt ra bất cứ yêu cầu nào cho chính bản thân về việc họ nên yêu kính Đức Chúa Trời, nghĩ về Ngài, quan tâm đến Ngài, làm Ngài hài lòng, giữ Ngài trong lòng và thờ phượng Ngài như thế nào” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Trước đây khi đọc những lời này của Đức Chúa Trời, tôi không liên hệ đối chiếu với bản thân, cứ nghĩ Đức Chúa Trời nói đến những người tin Ngài chỉ để kiếm bánh ăn cho no bụng, họ mới là những người luôn đòi hỏi, đưa tay đòi ân điển và phúc lành từ Ngài. Còn tôi thì đã ăn uống nhiều lời của Đức Chúa Trời, biết rằng bản thân mình chỉ là một thọ tạo, nên đứng đúng vị trí của một loài thọ tạo, dù Đức Chúa Trời có ban phước hay không, dù là hoàn cảnh thuận lợi hay nghịch cảnh thì tôi cũng nên thuận phục sự sắp đặt và an bài của Ngài. Khi đã có được nhận thức và ý muốn như vậy, tôi cảm thấy mình có thể thuận phục Đức Chúa Trời và không đòi hỏi gì từ Ngài nữa. Nhưng lần này, khi con trai tôi mắc bệnh, tôi mới thấy rõ vóc giạc thực sự và chân tướng sự bại hoại của bản thân.
Vào tháng 9 năm 2015, khi con trai tôi từ nhà bà nội về, bà có nói rằng cháu béo lên. Tôi nhận thấy mí mắt con tôi có sưng lên một chút, nhìn sao cũng không ổn. Thế là tôi bảo con cởi quần áo ra để xem thế nào thì thấy chân thằng bé sưng to, còn có chút sáng bóng. Khi lấy tay ấn vào thì để lại vết lõm rút tay lại thì nó cũng không căng lại được như người bình thường. Tôi lập tức nhớ đến một câu mà các cụ ngày xưa hay nói: “Đàn ông sợ đi ủng tuổi gà, đàn bà sợ đội mũ tuổi dê”, nghĩa là nếu đàn ông bị sưng chân thì ắt hẳn là có bệnh không tốt. Trong lòng tôi dâng lên cảm giác không lành, chắc chắn con tôi mắc phải bệnh nặng. Ngày hôm sau, chúng tôi đưa con đến bệnh viện tỉnh chuyên về thận. Bác sĩ nói có thể con bị hội chứng thận hư. Khi mắc căn bệnh này, lượng albumin trong cơ thể giảm xuống trầm trọng, đồng thời chỉ số creatinine vượt mức quá cao, khiến cơ thể ngày càng suy yếu, nặng hơn sẽ dẫn đến hội chứng ure huyết cao. Tôi nhớ đến câu nói trong y học cổ truyền rằng thận là gốc của con người, nếu thận có vấn đề thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của một đứa trẻ. Nếu bệnh không được chữa khỏi, con tôi sẽ không thể học tập như những đứa trẻ bình thường, việc lập gia đình cũng sẽ trở thành vấn đề đối với con. Nghĩ đến những điều này, tôi vô cùng lo lắng: “Con trai tôi mới 14 tuổi, con đường phía trước còn dài, chẳng lẽ con phải chịu bệnh tật suốt đời sao? Ở độ tuổi này, làm sao con có thể chịu nổi? Mình không thể để con ốm như vậy được, dù phải bán nhà hay bán đất, mình cũng nhất định phải chữa khỏi bệnh cho con”. Trong lúc lo lắng chờ kết quả chẩn đoán của con ở bệnh viện, tôi liên tục cầu nguyện với Đức Chúa Trời trong lòng. Khi cầu nguyện, tôi mới nhớ ra hôm qua là ngày tôi phải tiếp đãi nhóm họp tại nhà mình, vậy mà tôi đã trì hoãn bổn phận của mình rồi sao? Lòng tôi cảm thấy vô cùng tự trách, nghĩ rằng mình không thể vì chữa bệnh cho con mà trì hoãn công việc tiếp đãi nhóm họp. Ở bệnh viện đã có vợ tôi chăm sóc con, vì vậy tôi trở về nhà, vừa tiếp đãi nhóm họp vừa làm việc.
Kết quả chẩn đoán của con tôi cuối cùng cũng có, đúng là hội chứng thận hư. Nghe tin này, tôi cảm thấy như sét đánh ngang tai. Căn bệnh mà tôi sợ con mình có nguy cơ mắc nhất, giờ lại thành sự thật. Con tôi không thể đi học bình thường được nữa, chỉ có thể ở lại bệnh viện mà thôi. Một đứa trẻ nhỏ tuổi như vậy sao có thể chịu đựng được điều này? Nghĩ đến điều đó, tôi không cầm được nước mắt. Những ngày đó, lòng tôi rất nặng nề. Tôi không kìm được mà tự nhủ: “Từ khi tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời, tôi chưa bao giờ cầu xin Ngài về những điều thuộc về thể xác. Nhưng lần này, nếu Đức Chúa Trời có thể thương xót và chữa khỏi bệnh cho con tôi thì tốt biết mấy”. Tôi rất muốn cầu nguyện, xin Đức Chúa Trời cất đi bệnh của con tôi, nhưng tôi biết công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt là công tác phán xét, hành phạt, thử luyện và tinh luyện, để làm tinh sạch tâm tính bại hoại của con người. Nếu cầu xin như vậy thì không hợp ý của Đức Chúa Trời. Nhưng khi nghĩ đến bệnh tình của con, trong lòng tôi vẫn mong rằng Đức Chúa Trời sẽ vì lòng “thuận phục” của tôi mà ban ân huệ cho con tôi, để con không phải chịu đau đớn như vậy. Tôi cứ nuôi hy vọng trong một khoảng thời gian, nhưng bệnh tình của con vẫn không có dấu hiệu thuyên giảm. Mặc dù bề ngoài, tôi vẫn không trì hoãn bổn phận, nhưng trong lòng lại vô cùng nặng nề. Để thoát khỏi nỗi đau này, tôi chỉ còn biết cầu nguyện và tìm kiếm Đức Chúa Trời, cũng như ăn uống lời của Ngài. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Điều ngươi tìm kiếm là có thể có được bình an sau khi tin vào Đức Chúa Trời, để con cái ngươi không bị ốm đau, để chồng ngươi có công việc tốt, để con trai ngươi có người vợ hiền, để con gái ngươi có tấm chồng tử tế, để trâu ngựa có thể cày bừa tốt, để mùa màng có một năm mưa thuận gió hòa. Đây là những gì ngươi kiếm tìm. Sự tìm kiếm của ngươi chỉ là để có cuộc sống thoải mái, để tai ương không đổ xuống gia đình ngươi, để phong ba bỏ qua ngươi, để cát bụi không chạm mặt ngươi, để mùa màng không bị ngập úng, để thảm họa không ảnh hưởng tới ngươi, để sống trong sự bao bọc của Đức Chúa Trời, để sống trong tổ ấm đủ đầy. Một kẻ hèn nhát như ngươi, luôn mưu cầu xác thịt – ngươi có tấm lòng không, ngươi có linh hồn không? Ngươi không phải là súc vật ư? Ta ban cho ngươi con đường thật mà chẳng đòi hỏi nhận lại điều gì, vậy mà ngươi không mưu cầu. Ngươi có phải là một trong những người tin vào Đức Chúa Trời không?” (Các kinh nghiệm của Phi-e-rơ: Hiểu biết của ông về hình phạt và sự phán xét, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Khi đọc lời của Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy vô cùng day dứt. Đức Chúa Trời đã nói đúng tim đen khi chỉ ra quan điểm của tôi là tin Ngài chỉ để mưu cầu phúc lành. Sau khi con tôi được chẩn đoán mắc hội chứng thận hư, bề ngoài tôi cố gắng kiềm chế bản thân không cầu xin Đức Chúa Trời khi cầu nguyện, nhưng trong lòng lại mong Ngài sẽ vì sự “thuận phục” của tôi mà ban lòng thương xót, chữa lành bệnh cho con tôi. Khi thấy Đức Chúa Trời không đáp ứng yêu cầu của mình, tôi cảm thấy rất đau khổ, cũng không tìm hiểu xem qua sự việc này mình cần rút ra bài học gì. Tôi có khác gì những người trong tôn giáo kia đâu? Tôi tin Đức Chúa Trời chỉ để kiếm bánh ăn, căn bản không hợp tâm ý của Ngài chút nào. Phản tỉnh về những điều này, tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ và ghét bản thân vì không mưu cầu lẽ thật mà còn đòi hỏi Đức Chúa Trời như vậy, thật là không có lý trí chút nào. Tôi liền cầu nguyện Đức Chúa Trời trong lòng: “Lạy Đức Chúa Trời! Con sẵn lòng giao phó bệnh tình của con mình cho Ngài, thuận phục sự sắp đặt và an bài của Ngài. Xin Ngài ban cho con ý thức gánh vác và đức tin để con có thể thực hiện tốt bổn phận mà làm Ngài hài lòng…” Sau khi cầu nguyện, trong lòng tôi cảm thấy yên ổn hơn một chút.
Đến tháng 3 năm 2016, tôi đảm nhận bổn phận lãnh đạo hội thánh. Vài tháng sau, bệnh tình của con tôi lại tái phát, một phần nước tiểu không thể bài tiết ra ngoài, khiến cơ thể con bắt đầu sưng phù. Tôi nhìn mà đau xót vô cùng, một đứa trẻ khỏe mạnh bây giờ lại trở nên như vậy, bệnh tật cứ tái đi phát lại, bao giờ mới khỏi đây? Tôi tự nhủ: “Chẳng lẽ là do mình thực hiện bổn phận chưa đủ sao? Nếu mình dành trọn bản thân hơn nữa, có lẽ bệnh tình của con sẽ cải thiện đôi chút?”. Thế là tôi dồn nhiều công sức hơn vào việc thực hiện bổn phận. Không ngờ bệnh của con bắt đầu chuyển biến tốt lên từng chút một. Tôi vô cùng cảm tạ Đức Chúa Trời, vì vậy tôi càng hết lòng thực hiện bổn phận và các công tác cũng đạt được một số kết quả. Chớp mắt đến mùa thu năm 2016, bệnh tình của con tôi không ngờ lại trở nên nghiêm trọng hơn. Lượng nước tiểu bài tiết càng ngày càng ít, hầu như nước tích tụ khắp cơ thể. Người con tôi bị phù rất nặng đến mức gương mặt biến dạng, mắt sưng chỉ còn lại một đường nhỏ, nhìn không ra hình dáng ban đầu. Hai chân con tôi sưng lên to như chân voi, da căng bóng, gần như không thể bước xuống giường. Khi chúng tôi ra ngoài thực hiện bổn phận, con chỉ có thể chơi điện thoại để giết thời gian. Chúng tôi định đưa con đến bệnh viện, nhưng con hiểu chuyện và nói: “Bệnh của con không khá hơn được đâu, đi bệnh viện cũng chẳng ích gì, bố mẹ cứ làm việc của mình đi”. Tôi ước mình có thể thay con gánh chịu những đau đớn này, nhưng tôi chỉ đành bất lực. Không biết từ khi nào, tôi bắt đầu oán trách Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Con không phải Gióp, cũng không phải Phi-e-rơ, con không có vóc giạc lớn đến vậy. Hơn nữa, trong suốt thời gian qua con không hề ngừng thực hiện bổn phận, tại sao bệnh của con trai con vẫn không thuyên giảm? Dù bệnh không thể khỏi ngay, nhưng con chỉ cần bệnh không trở nặng thêm nữa là được”. Nghĩ tới đây, tôi nhận ra mình đang oán trách Đức Chúa Trời là bất công. Lòng tôi cảm thấy vô cùng bất an, tôi liền cầu nguyện Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Con biết mình không nên oán trách Ngài như vậy, nhưng con thật sự không chịu đựng nổi nữa, cũng không biết phải rút ra bài học gì qua việc này, xin Ngài dẫn dắt con trong chuyện này…”
Sau khi cầu nguyện, tôi đọc được lời của Đức Chúa Trời: “Công chính không có nghĩa là công bằng hoặc hợp lý; đó không phải là chủ nghĩa quân bình, hay vấn đề phân bổ cho ngươi những gì ngươi xứng đáng tương ứng với lượng công việc ngươi đã hoàn thành, hoặc trả cho ngươi vì bất cứ công việc nào ngươi đã làm, hoặc ghi nhận về những nỗ lực ngươi bỏ ra. Đây không phải là sự công chính, nó chỉ đơn thuần là công bằng và hợp lý. Rất ít người có khả năng biết được tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Giả sử Đức Chúa Trời đã hủy diệt Gióp sau khi Gióp làm chứng cho Ngài: Việc đó có công chính không? Thực ra là có. Tại sao gọi đây là sự công chính? Con người nhìn nhận sự công chính như thế nào? Nếu điều gì đó phù hợp với quan niệm của mọi người, thì rất dễ dàng để họ nói rằng Đức Chúa Trời là công chính; tuy nhiên, nếu họ không thấy điều đó phù hợp với quan niệm của họ – nếu đó là điều mà họ không thể hiểu được – thì sẽ khó để họ nói rằng Đức Chúa Trời là công chính. Nếu Đức Chúa Trời hủy diệt Gióp vào lúc ấy, con người sẽ không nói Ngài công chính. Tuy nhiên, thật ra thì dù con người có bị bại hoại hay không, và dù họ có bị bại hoại sâu sắc hay không thì Đức Chúa Trời có phải biện minh cho Ngài khi Ngài hủy diệt họ không? Ngài có phải giải thích cho con người là Ngài làm như vậy dựa trên cơ sở nào không? Đức Chúa Trời có phải nói cho con người biết những quy luật Ngài ấn định không? Không cần. Trong mắt Đức Chúa Trời, ai đó bại hoại và ai đó có thể chống đối Đức Chúa Trời thì đều không có giá trị; dù Đức Chúa Trời có xử lý họ như thế nào thì cũng sẽ là thích hợp, và tất cả đều là những sự an bài của Đức Chúa Trời. … Thực chất của Đức Chúa Trời là sự công chính. Mặc dù không dễ dàng hiểu được những gì Ngài làm, nhưng tất thảy những gì Ngài làm là công chính; chỉ đơn giản là mọi người không hiểu. Khi Đức Chúa Trời giao Phi-e-rơ cho Sa-tan, Phi-e-rơ đã đáp lại thế nào? ‘Nhân loại không thể hiểu được những gì Ngài làm, nhưng tất thảy những gì Ngài làm đều chứa đựng ý tốt của Ngài; tất thảy đều có sự công chính trong đó. Làm sao tôi có thể không thốt lên lời khen ngợi sự khôn ngoan và những việc làm của Ngài?’. Giờ ngươi nên hiểu lý do Đức Chúa Trời không tiêu diệt Sa-tan trong thời kỳ Ngài cứu rỗi con người là để con người có thể thấy rõ Sa-tan đã làm họ bại hoại ra sao và nó đã làm họ bại hoại đến mức nào, cũng như cách Đức Chúa Trời làm tinh sạch và cứu rỗi họ. Cuối cùng, khi con người đã hiểu được lẽ thật và thấy rõ được bộ mặt ghê tởm của Sa-tan, thấy được tội lỗi khủng khiếp của việc Sa-tan làm họ bại hoại, thì Đức Chúa Trời sẽ tiêu diệt Sa-tan, cho họ thấy sự công chính của Ngài. Thời điểm mà Đức Chúa Trời tiêu diệt Sa-tan chứa đầy tâm tính và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Mọi việc Đức Chúa Trời làm đều công chính. Mặc dù có thể con người không thể nhận ra được sự công chính của Đức Chúa Trời, nhưng họ không nên tùy ý phán xét. Nếu điều gì đó mà Ngài làm đối với con người có vẻ là không hợp lý, hoặc nếu họ có bất kỳ quan niệm nào về điều đó, và nó khiến họ cho rằng Ngài không công chính, thì họ đang là kẻ vô lý nhất” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đọc lời của Đức Chúa Trời, tôi nhận ra rằng tâm tính công chính của Ngài không giống như những gì tôi đã nghĩ, là sự công bằng, hợp lý, chủ nghĩa quân bình. Tôi đã nghĩ chỉ cần con người thực hiện một số bổn phận thì Đức Chúa Trời nên ân đãi họ, và khi thực hiện bổn phận mà người ta càng trả giá thì càng được Đức Chúa Trời ban phúc. Đây là những quan điểm mang tính giao dịch của thế gian, hoàn toàn không phù hợp với lẽ thật. Thực chất của Đức Chúa Trời là công chính, và Ngài làm gì cũng đều là sự bộc lộ tự nhiên của tâm tính công chính ấy. Tôi nhớ lại Gióp, người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, là người hoàn hảo trong mắt Đức Chúa Trời. Theo quan niệm của con người, ông đáng ra không nên gặp phải sự cám dỗ của Sa-tan, nhưng Đức Chúa Trời đã cho phép những điều đó xảy ra với ông. Dù những điều này không phù hợp với quan niệm của con người, nhưng nó đã hoàn thiện đức tin của Gióp. Qua đó, tôi thấy rằng đối với con người, dù Đức Chúa Trời ban phúc hay tước đi, thử luyện, tỏ lộ hay hoàn thiện, tất cả đều là sự bộc lộ bản tính công chính của Ngài, và con người nên thuận phục và tiếp nhận, không nên lấy những gì mình đã dâng trọn làm vốn liếng để đòi hỏi Đức Chúa Trời phải làm gì. Nhưng tôi lại không nhận thức được sự công chính của Ngài. Khi tôi đánh đổi một chút để thực hiện bổn phận, thấy bệnh của con cải thiện, tôi liền tin rằng đó là sự công chính của Đức Chúa Trời và tích cực thực hiện bổn phận của mình. Nhưng khi thấy bệnh của con tái phát và ngày càng nặng, tôi lại oán trách Đức Chúa Trời, cho rằng những thử luyện Ngài dành cho tôi là quá sức, rồi bắt đầu lý luận và đối kháng với Ngài Tôi nhận ra rằng định nghĩa của tôi về sự công chính của Đức Chúa Trời dựa trên việc liệu những lao khổ và đánh đổi của tôi có đem lại ân điển và phúc lành hay không. Đó hoàn toàn là giao dịch và đổi chác. Tôi đang đòi hỏi Đức Chúa Trời theo quan niệm của mình hay sao? tôi có thực sự đang thực hiện bổn phận của một thọ tạo không? Tôi hoàn toàn không có lương tâm và lý trí mà một thọ tạo nên có. Tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Con muốn trở thành một người có lương tâm và lý trí, thực hiện tốt bổn phận để làm Ngài hài lòng. Tại sao khi gặp những điều không theo ý mình, con lại hiểu lầm và oán trách Ngài? Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt con để con có thể hiểu rõ bản thân qua sự việc này”.
Sau đó, tôi đọc được lời của Đức Chúa Trời: “Từ khi con người mới bắt đầu tin Đức Chúa Trời, họ đã xem Đức Chúa Trời là một nguồn cung dồi dào, là một con dao gấp đa năng, và họ coi chính mình là chủ nợ lớn nhất của Đức Chúa Trời, như thể việc cố gắng lấy được những phúc lành và lời hứa từ Đức Chúa Trời là quyền lợi và nghĩa vụ vốn có của họ, trong khi trách nhiệm của Đức Chúa Trời là bảo vệ, chăm sóc cho con người, và chu cấp cho họ. Đó là sự lĩnh hội cơ bản về ‘đức tin nơi Đức Chúa Trời’ của tất cả những ai tin Đức Chúa Trời, và đó là sự hiểu biết sâu sắc nhất của họ về khái niệm đức tin nơi Đức Chúa Trời. Từ thực chất bản tính của con người cho đến mưu cầu chủ quan của họ, không điều gì liên quan đến sự kính sợ Đức Chúa Trời. Mục tiêu của con người trong việc tin vào Đức Chúa Trời không thể liên quan gì đến sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Nói vậy nghĩa là, con người chưa bao giờ tính đến hay hiểu rằng đức tin nơi Đức Chúa Trời đòi hỏi sự kính sợ và thờ phượng Đức Chúa Trời” (Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). “Con người luôn đòi hỏi Đức Chúa Trời, chuyện này có vấn đề gì? Con người luôn có quan niệm về Đức Chúa Trời, chuyện này có vấn đề gì? Trong bản tính của con người có những gì? Ta đã phát hiện ra rằng, bất kể gặp chuyện gì, bất kể xử lý chuyện gì, người ta cũng luôn bảo vệ lợi ích cá nhân và lo lắng cho xác thịt của chính mình, họ luôn tìm những lý do và cái cớ tiện cho mình. Họ không tìm kiếm, cũng không tiếp nhận lẽ thật chút nào, mọi việc họ làm là để bảo vệ cho xác thịt của họ và mưu tính cho tiền đồ của họ. Hết thảy mọi người đều nài xin ân điển từ Đức Chúa Trời, muốn đạt được bất kỳ lợi ích nào có thể có được. Tại sao mọi người có quá nhiều đòi hỏi với Đức Chúa Trời vậy? Điều này chứng tỏ rằng người ta tham lam tự bản tính, và trước Đức Chúa Trời, họ không hề có chút lý trí nào. Trong mọi việc họ làm, dù là cầu nguyện, thông công hay giảng đạo, thì sự mưu cầu, suy nghĩ và nguyện vọng của họ đều là đòi hỏi Đức Chúa Trời và cố nài xin nhiều điều từ Ngài, người ta làm mọi việc này chỉ vì hy vọng đạt được điều gì đó từ Đức Chúa Trời. Có người nói rằng ‘đây là bản tính của con người’, đúng là vậy! Hơn thế nữa, việc người ta đòi hỏi Đức Chúa Trời quá nhiều và có quá nhiều ham muốn ngông cuồng chứng tỏ rằng người ta thật sự thiếu lương tâm và lý trí. Ai cũng đòi hỏi và nài xin nhiều điều cho bản thân mình, hoặc cố cãi lý và viện cớ cho bản thân mình, họ làm tất cả mọi việc này vì bản thân mình. Trong nhiều chuyện, có thể thấy rằng việc người ta làm hoàn toàn không có chút lý trí nào, và đây là bằng chứng hoàn hảo cho thấy lô-gic của Sa-tan ‘Người không vì mình, trời tru đất diệt’ đã trở thành bản tính của con người. Việc người ta đòi hỏi Đức Chúa Trời quá nhiều cho thấy vấn đề gì? Nó cho thấy rằng con người đã bị Sa-tan làm cho bại hoại đến một mức độ nhất định, và rằng trong đức tin của họ vào Đức Chúa Trời, họ không hề đối xử với Ngài như Đức Chúa Trời” (Mọi người đòi hỏi Đức Chúa Trời quá nhiều, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Khi đọc những lời này của Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy vô cùng đau đớn trong lòng. Tôi chính là kiểu người mà Đức Chúa Trời đã vạch trần, hoàn toàn xem mình như chủ nợ của Đức Chúa Trời mà không coi Ngài là Đấng Tạo Hóa. Nhớ lại khi tôi còn tin Chúa, sau khi được hưởng ân điển và phúc lành của Đức Chúa Trời, tôi đã tin rằng khi gặp khó khăn, chỉ cần con người cầu nguyện và thỉnh cầu với Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đáp ứng ước muốn của họ, bởi vì Ngài yêu con người hơn tất cả. Sau khi tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi hiểu qua lời của Đức Chúa Trời rằng Ngài là Đấng Tạo Hóa, và con người không nên vô lý đòi hỏi ân điển và phúc lành từ Ngài. Nhưng quan điểm của tôi về việc được phúc vẫn không thay đổi. Chẳng hạn như khi con tôi bị bệnh, lúc đầu tôi có thể giao phó bệnh tình của con cho Đức Chúa Trời. Khi thấy bệnh tình của con có phần cải thiện, tôi nghĩ rằng Đức Chúa Trời thực sự quan tâm đến chúng tôi, và nếu tôi giữ vững bổn phận của mình, Đức Chúa Trời sẽ thấy được sự đánh đổi của tôi và có lẽ con tôi sẽ khỏi bệnh. Bị chi phối bởi những ý này, tôi đã rất nhiệt tình trong việc thực hiện bổn phận của mình. Nhưng khi sự đánh đổi và dành trọn của tôi không mang lại kết quả như mong đợi và bệnh tình của con tôi ngày càng nặng hơn, tôi bắt đầu vô thức oán trách Đức Chúa Trời. Cho rằng mình đã làm chút bổn phận, trả giá một chút, nên đã có công lao và có tư cách mặc cả với Đức Chúa Trời. Tôi thấy mình tin Đức Chúa Trời chỉ để được phúc được lợi, chứ không phải để làm hài lòng Ngài. Bản tính của tôi thực sự quá ích kỷ! Điều này giống như việc làm con hiếu kính cha mẹ là điều thiên kinh địa nghĩa, con cái không nên yêu cầu cha mẹ để lại tài sản thì mới chịu hiếu kính. Là một thọ tạo, việc tin Đức Chúa Trời và thờ phượng Ngài càng là điều thiên kinh địa nghĩa, nhưng trong tôi luôn có ý định và yêu cầu riêng. Mọi hành động của tôi đều là lừa dối Đức Chúa Trời. Với một đức tin như vậy, tôi sẽ không bao giờ được Đức Chúa Trời chấp nhận. Trong lòng tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ và tủi hổ. Tôi chỉ muốn quay về với Đức Chúa Trời, đứng vào vị trí của một thọ tạo, chỉnh đốn lại tâm thái của mình không còn đòi hỏi hay oán trách Ngài nữa, và giao phó con tôi cho Ngài.
Cuối năm 2018, do một số nguy hiểm về hoàn cảnh, tôi phải rời khỏi nhà. Thời điểm đó, vì dùng thuốc chứa hormone trong thời gian dài, con tôi mắc chứng hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi. Thằng bé không thể đi đứng thẳng lưng được nữa, phải chống tay lên đầu gối để đi lại. Mặc dù biết có vợ tôi ở đó chăm sóc cho con và tôi ở nhà cũng không giúp được gì, nhưng khi thấy tình trạng của con như vậy, lòng tôi vẫn đau khổ vô cùng. “Bây giờ bệnh cũ của con chưa khỏi mà bệnh mới lại tới, mình nên làm gì đây?”. Càng nghĩ, tôi càng cảm thấy đau lòng và hy vọng Đức Chúa Trời sẽ làm phép lạ, để bệnh tình của con sớm được kiểm soát. Tôi mơ hồ nhận ra rằng mình lại đang đòi hỏi Đức Chúa Trời, liền thầm cầu nguyện trong lòng, xin Ngài bảo vệ con để con có thể đứng đúng vị trí của một thọ tạo và thuận phục hoàn cảnh này. Sau khi cầu nguyện, tôi thu dọn ít quần áo và rời khỏi nhà.
Trong thời gian xa nhà, thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ đến con, và việc thực hiện bổn phận cũng bị ảnh hưởng phần nào. Tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời và ăn uống lời của Ngài. Tôi đọc được lời của Đức Chúa Trời: “Ngoài việc sinh thành và nuôi dạy con cái, trách nhiệm của cha mẹ trong đời sống của con cái mình chỉ đơn giản là cung cấp cho chúng một môi trường chính thức để lớn lên, bởi không có gì ngoại trừ sự định trước của Đấng Tạo Hóa có ảnh hưởng đến số phận một con người. Không ai có thể kiểm soát một người sẽ có kiểu tương lai như thế nào; điều đó đã được định trước từ lâu, và ngay cả cha mẹ của một người cũng không thể thay đổi số phận của người đó” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất III, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Qua lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra rằng số phận của mỗi người đều do Ngài tề trị và an bài, và mỗi người trong đời đều có những khổ đau mà mình phải gánh chịu, không ai có thể thay thế được. Đối với con trai tôi, điều tôi có thể làm là nuôi dạy con khôn lớn, hoàn thành trách nhiệm của mình. Còn về những nỗi khổ mà con phải trải qua trong cuộc đời, cuộc sống của con sẽ như thế nào, tất cả đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, không phải là điều tôi có thể quyết định hay thay đổi. Nhớ lại trước đây, khi tôi còn ở nhà, tôi có thể chăm sóc con phần nào, nhắc nhở con uống thuốc đúng giờ, nhưng con vẫn mắc phải chứng hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi. Những nỗi khổ mà con phải chịu không thể thay đổi chỉ vì có sự chăm sóc và ở bên cạnh của tôi. Ngay cả khi tôi ở bên con, tôi cũng chỉ có thể ở bên cạnh và an ủi con chút ít, chứ không thể quyết định tình trạng bệnh của con sẽ nặng hơn hay cải thiện. Chỉ có giao phó con cho Đức Chúa Trời, để Ngài tể trị và an bài mới là thích hợp nhất. Khi nghĩ về điều này, lòng tôi nhẹ nhõm hơn và tôi cũng có thể an tâm thực hiện bổn phận của mình.
Sau đó, vợ tôi nói rằng con lại phải nhập viện. Nhìn thấy bệnh tình của con tái phát lần nữa, lòng tôi rất đau đớn, tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin sẵn sàng giao phó con cho Ngài, để Ngài tề trị và an bài mọi sự. Điều tôi cần làm là thuận phục sự tề trị và an bài của Đức Chúa Trời, đồng thời làm tốt bổn phận của mình. Khi tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời như vậy và không còn đòi hỏi gì từ Ngài nữa, lòng tôi cảm thấy đặc biệt vững vàng và bình an, và tôi có thể tập trung hết mình vào bổn phận.