Chỉ khi biết sáu loại tâm tính bại hoại mới thật sự tự biết mình

Mục đích đức tin của con người nơi Đức Chúa Trời là gì? (Thưa, để được cứu rỗi.) Sự cứu rỗi là chủ đề muôn thuở trong đức tin nơi Đức Chúa Trời. Vậy làm thế nào để đạt được sự cứu rỗi? (Thưa, bằng cách mưu cầu lẽ thật và luôn sống trước Đức Chúa Trời.) Đó là một hình thức thực hành. Khi luôn sống trước Đức Chúa Trời, người ta sẽ đạt được gì? Mục đích là gì? (Thưa, là để xây dựng mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời.) (Thưa, là để kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, để hiểu lẽ thật và có được hiểu biết thực sự về Đức Chúa Trời.) Còn gì nữa không? (Thưa, là để mưu cầu lẽ thật, biến lẽ thật thành sự sống của chúng con.) Những điều này thường được nói trong các bài giảng, đó là những thuật ngữ thuộc linh. Còn gì nữa không? (Thưa, là để trải nghiệm sự tỉa sửa và xử lý, sự phán xét và hình phạt, cũng như sự thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời để bắt đầu phản tỉnh và biết mình, đồng thời mưu cầu lẽ thật để giải quyết những tâm tính bại hoại của mình trong quá trình này, cũng như để có được hiểu biết thực sự về Đức Chúa Trời, cuối cùng trở thành người có lẽ thật và nhân tính.) Có vẻ như các ngươi đã hiểu nhiều điều sau vài năm qua nghe giảng. Vậy những điều các ngươi đã hiểu này có thể được sử dụng trong trải nghiệm của các ngươi để giải quyết một số vấn đề và khó khăn thực tế không? Chẳng hạn như những suy nghĩ và tư tưởng sai lầm, sự tiêu cực và yếu đuối thỉnh thoảng, cũng như một số vấn đề nhất định liên quan đến quan niệm và tưởng tượng: những điều này có thể được giải quyết nhanh chóng không? Một số người có thể có khả năng giải quyết vài vấn đề nhỏ, nhưng có thể vẫn phải vật lộn với những vấn đề lớn có căn nguyên sâu xa. Dựa trên mức độ hiểu biết của mình về lẽ thật ngày hôm nay, liệu các ngươi có thể đứng vững nếu phải đối mặt với những dạng thử luyện giống như Gióp không? (Thưa, chúng con sẽ quyết tâm đứng vững, nhưng chúng con không biết vóc giạc thực sự của mình sẽ như thế nào nếu có chuyện thực sự xảy đến với chúng con.) Nhưng chẳng phải các ngươi nên biết vóc giạc thực sự của mình là gì ngay cả khi chưa có chuyện xảy đến sao? Không biết là nguy hiểm đấy! Các ngươi có biết khía cạnh thực tế của những thuật ngữ thuộc linh và cụm từ cố định thường được lặp đi lặp lại này là gì không? Các ngươi có hiểu hàm nghĩa thực sự của từng cụm từ này không? Các ngươi có hiểu chính xác thì lẽ thật trong đó là gì không? Nếu ngươi biết và đã trải nghiệm những điều này, thì chứng tỏ ngươi đã hiểu lẽ thật. Nếu ngươi chỉ có thể lặp lại vài câu nói và cụm từ thuộc linh, nhưng chúng không có ích gì cho ngươi khi ngươi thực sự trải nghiệm chuyện gì đó, và chúng không thể giải quyết được những phiền toái của ngươi, thì chứng tỏ sau bao năm tin Đức Chúa Trời, ngươi vẫn chưa hiểu lẽ thật và chưa có bất kỳ trải nghiệm thực tế nào. Ý Ta là gì? Tiến xa đến mức này trong đức tin nơi Đức Chúa Trời, người ta đã hiểu nhiều lẽ thật hơn một chút so với những người trong tôn giáo hoặc người ngoại đạo, người ta đã hiểu một số khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời, có thể tuân thủ một vài vấn đề thuộc về quy định, và có thể nói là đã có được sự hiểu biết và nhận thức nhất định cũng như chút thông sáng thực sự về quyền tối thượng của Đức Chúa Trời – nhưng những điều này đã mang lại sự thay đổi trong tâm tính sống của họ chưa? Nhìn chung, mỗi người các ngươi có thể nói một chút về những lẽ thật thường được nghe thấy liên quan đến các khải tượng: khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời, mục đích công tác của Đức Chúa Trời và ý muốn của Đức Chúa Trời đối với nhân loại; và sự hiểu biết các ngươi chia sẻ cao hơn nhiều so với của những người trong tôn giáo – nhưng liệu tất cả những điều này có thể mang lại một sự thay đổi trong tâm tính các ngươi, hoặc thậm chí chỉ là sự thay đổi một phần trong tâm tính các ngươi hay không? Các ngươi có thể đánh giá được điều này không? Điều này cực kỳ quan trọng.

Gần đây, chúng ta đã thông công về cách chính xác để biết Đức Chúa Trời trên đất, cách tương tác với Đức Chúa Trời trên đất và cách thiết lập mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là những vấn đề thiết thực nhất sao? Đây đều là những lẽ thật liên quan đến khía cạnh thực hành, và mục đích của việc thông công về những điều này là để cho con người biết cách tin Đức Chúa Trời, cách tương tác với Đức Chúa Trời và xây dựng mối quan hệ bình thường với Ngài trong đời sống hàng ngày. Trong số tất cả những lẽ thật các ngươi đã nghe, hiểu và có thể thực hành, thì những lẽ thật liên quan đến thực hành có thể thay đổi được tâm tính của các ngươi không? Nếu con người thực hành lẽ thật theo cách này và thực sự phấn đấu để đạt được điều này, thì có thể nói rằng họ đang thực hành lẽ thật không? Và nếu con người đã biến những lẽ thật này thành thực tế, thì có thể nói rằng họ có khả năng đạt được những thay đổi trong tâm tính mình không? (Thưa, có thể nói như vậy.) Nhiều người hoàn toàn không biết thế nào là thay đổi trong tâm tính. Họ cho rằng việc có thể lặp lại nhiều giáo lý thuộc linh và hiểu nhiều lẽ thật là thể hiện sự thay đổi trong tâm tính. Điều này sai. Từ chỗ hiểu một lẽ thật đến chỗ đưa lẽ thật này vào thực hành, sau đó có những thay đổi trong tâm tính là cả một quá trình dài trải nghiệm sự sống. Các ngươi hiểu những thay đổi trong tâm tính bằng cách nào? Trong mọi sự các ngươi đã trải qua đến thời điểm này, đã có bất kỳ thay đổi nào trong tâm tính sống của các ngươi chưa? Có thể các ngươi không có khả năng nhìn thấu những điều này, và tất cả những điều này đều có vấn đề. Từ “thay đổi” trong “những thay đổi trong tâm tính” thực ra không quá khó hiểu, vậy “tâm tính” là gì? (Thưa, là quy luật sinh tồn của con người, là chất độc của Sa-tan.) Còn gì nữa? (Thưa, là thứ tự nhiên trong con người, là thực chất sự sống.) Các ngươi cứ đưa ra những thuật ngữ thuộc linh này, nhưng tất cả chỉ là giáo lý và phác thảo, chứ không chứa đựng bất kỳ thông tin chi tiết nào. Đây là không hiểu thực chất của lẽ thật. Chúng ta thường nói về những thay đổi trong tâm tính, và những chủ đề như vậy luôn được thảo luận ngay từ khi mọi người bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời dù là tham gia nhóm họp hay nghe giảng; đây là những điều mọi người nên cố gắng tìm hiểu khi tin Đức Chúa Trời. Nhưng về việc những thay đổi trong tâm tính chính xác là gì, liệu trong tâm tính của chính mình đã có sự thay đổi hay chưa, và liệu mình có thể đạt được sự thay đổi tâm tính hay không – thì nhiều người không biết về những điều này, họ chưa từng suy nghĩ về chúng, cũng không biết phải bắt đầu suy nghĩ về chúng từ đâu. Tâm tính là gì? Đây là một chủ đề lớn. Một khi ngươi đã hiểu điều này, thì ít nhiều ngươi sẽ hiểu được những vấn đề như liệu đã có sự thay đổi trong tâm tính ngươi hay chưa, tâm tính ngươi đã thay đổi đến đâu, đã có bao nhiêu sự thay đổi, và liệu tâm tính ngươi đã có sự thay đổi sau khi ngươi trải qua những chuyện nhất định hay không. Để thảo luận về những thay đổi trong tâm tính, trước tiên các ngươi phải biết tâm tính là gì. Mọi người đều biết và quen thuộc với từ “tâm tính”, nhưng không ai biết tâm tính là gì. Chính xác thì tâm tính là gì không thể được giải thích rõ ràng chỉ trong vài từ, cũng không thể giải thích nó như một danh từ, vì điều này quá trừu tượng và không dễ gì hiểu được. Ta sẽ cho một ví dụ để các ngươi hiểu. Cừu và sói đều là động vật. Cừu ăn cỏ, sói ăn thịt. Điều này do bản tính của chúng quyết định. Nếu một ngày nào đó, cừu ăn thịt còn sói ăn cỏ, thì liệu có phải bản tính của chúng đã thay đổi rồi không? (Thưa, không.) Nếu cừu không ăn cỏ, nó sẽ rất đói. Cho nó chút thịt, nó sẽ ăn, nhưng cừu vẫn rất ngoan ngoãn với ngươi. Đây là tâm tính, là thực chất bản tính của cừu. Sự ngoan ngoãn của cừu thể hiện ở khía cạnh nào? (Thưa, nó không tấn công con người.) Đúng vậy – đây là tâm tính ngoan ngoãn. Tâm tính thể hiện ở cừu là dễ bảo và vâng lời. Nó không hung ác, mà ngoan ngoãn, thiện lương. Sói thì khác. Tâm tính của sói hung ác, ăn thịt đủ loại động vật nhỏ. Gặp phải một con sói đói rất nguy hiểm, nó có thể cố ăn thịt ngươi ngay cả khi ngươi không khiêu khích nó. Tâm tính của sói không phải là ngoan ngoãn hay thiện lương, mà là tàn nhẫn và hung dữ, không có một chút cảm thông hay thương xót nào. Đó là tâm tính của sói. Tâm tính của sói và cừu đại diện cho thực chất bản tính của chúng. Tại sao Ta nói như vậy? Bởi vì những điều được bộc lộ nơi chúng là sự thể hiện tự nhiên bất kể bối cảnh mà không có sự tác động hay kích động nào của con người; chúng được bộc lộ tự nhiên mà không cần bất kỳ tác động thêm nào của con người. Sự hung dữ và tàn nhẫn của sói không phải là do con người ép buộc, sự thiện lương và ngoan ngoãn của cừu cũng không phải là do con người truyền thụ; chúng sinh ra đã thế, đây là những điều được bộc lộ tự nhiên, là thực chất của chúng. Đây là tâm tính. Ví dụ này đã giúp các ngươi hiểu được chút nào về tâm tính là gì chưa? (Thưa, rồi.) Đây không phải là vấn đề khái niệm, chúng ta không phải là đang giải thích một danh từ nào đó. Trong đây có lẽ thật. Vậy lẽ thật ở đây là gì? Tâm tính của con người liên quan đến bản tính của con người. Tâm tính con người và bản tính con người đều là của Sa-tan, chúng đối nghịch và thù địch với Đức Chúa Trời. Nếu con người không tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời và không thay đổi, thì những gì con người sống thể hiện ra và bộc lộ tự nhiên sẽ chỉ toàn là tà ác, tiêu cực và vi phạm lẽ thật – điều này là chắc chắn.

Chúng ta vừa nói về tâm tính của cừu và sói. Đây là hai loài động vật hoàn toàn khác biệt: mỗi loài có những tâm tính riêng và sự bộc lộ riêng. Nhưng điều này liên hệ như thế nào với tâm tính con người? Qua ví dụ này, hãy cùng nhìn lại xem chính xác thì tâm tính con người là gì, có những loại tâm tính bại hoại nào? (Thưa, thông thường, chúng ta có thể biết người ta có loại tâm tính nào bằng cách tương tác với họ. Chẳng hạn như trong khi nói chuyện với một người, chúng ta có thể cảm thấy họ nói năng vòng vo, luôn nói lập lờ, để người khác không thể biết họ thực sự có ý gì, nghĩa là trong họ có tâm tính giả dối. Chúng ta có thể có cảm nhận chung từ những gì họ thường nói và làm, từ những hành động và hành vi của họ.) Ngươi có thể thấy một số vấn đề nhất định về tâm tính khi tương tác với mọi người. Có vẻ như sau khi nghe ví dụ này, các ngươi đã hiểu sơ về tâm tính là gì. Vậy ai cũng có những tâm tính bại hoại nào? Những tâm tính nào mọi người không ý thức được và không thể cảm nhận được, nhưng chắc chắn là tâm tính bại hoại? Ví dụ: giả sử một số người rất tình cảm, và Đức Chúa Trời phán: “Ngươi rất tình cảm. Khi nói đến người ngươi thích hoặc điều gì đó liên quan đến gia đình ngươi, bất kể ai đang cố gắng hiểu hoàn cảnh của họ hoặc chuyện gì đang thực sự diễn ra, ngươi cũng sẽ không tiết lộ bất cứ điều gì về họ và không ngừng bao che cho họ. Đây là tình cảm”. Họ nghe và hiểu điều này, thừa nhận và tiếp nhận điều này là thực tế. Họ thừa nhận lời Đức Chúa Trời là đúng, lời của Đức Chúa Trời là lẽ thật, và họ cảm tạ Đức Chúa Trời vì đã phơi bày điều này cho họ. Từ đây có thể thấy tâm tính của họ không? Có phải rõ ràng là họ tiếp nhận lẽ thật, tiếp nhận sự thật, không chống đối và vâng phục không? (Thưa, không. Điều đó tùy thuộc vào cách hành động của họ khi đối mặt với vấn đề, và liệu những gì họ nói và họ làm có khớp nhau hay không.) Gần đúng. Lúc đó họ tiếp nhận – nhưng sau này, khi một chuyện như thế xảy đến với họ, cách họ hành động vẫn không có gì thay đổi. Điều này thể hiện một loại tâm tính. Tâm tính gì? Lúc đó họ lắng nghe, rồi họ suy ngẫm và tự nhủ: “Nghe bao nhiêu bài giảng rồi mà sao mình không thể biết bản thân tình cảm nhỉ? Mình tình cảm, nhưng ai mà không tình cảm chứ? Mình không bảo vệ gia đình và những người gần gũi với mình thì ai? Đến bậc hảo hán còn cần ba người khác hỗ trợ cơ mà”. Đây là những gì họ thực sự suy nghĩ. Khi đến lúc hành động, thì những gì họ đang suy nghĩ, dự định trong lòng, và thái độ của họ đối với lời Đức Chúa Trời, tất cả đều do tâm tính họ quyết định. Thái độ của họ là gì? “Đức Chúa Trời muốn phán và mặc khải gì cũng được, mình sẽ tiếp nhận bất cứ điều gì nên tiếp nhận khi ở trước Ngài, nhưng ý mình đã quyết, và mình không định gạt cảm xúc của mình sang một bên đâu”. Có phải đây là tâm tính của họ không? Tâm tính của họ đã thể hiện và bộ mặt thật của họ đã lộ ra, phải không? Họ có phải là người tiếp nhận lẽ thật không? (Thưa, không.) Vậy thì đây là gì? Đây là ngoan cố. Trước Đức Chúa Trời, họ nói Amen và giả vờ tiếp nhận. Nhưng lòng họ vẫn không lay chuyển. Họ không coi trọng lời Đức Chúa Trời, họ không coi lời Ngài là lẽ thật, càng không đưa lời Ngài vào thực hành như lẽ thật. Đây là một loại tâm tính, chẳng phải sao? Và chẳng phải một tâm tính như thế này là sự bộc lộ của một loại bản tính nhất định sao? (Thưa, phải.) Vậy thực chất của loại tâm tính này là gì? Có phải là sự cương ngạnh không? (Thưa, phải.) Sự cương ngạnh: đây là một loại tâm tính của con người, ai cũng có. Tại sao Ta nói đây là một tâm tính? Đây là điều bắt nguồn từ thực chất bản tính của con người. Ngươi không cần phải suy nghĩ về nó, người khác không cần phải dạy ngươi hay làm công tác tư tưởng với ngươi, Sa-tan cũng không cần phải lừa gạt ngươi; nó bộc lộ tự nhiên trong ngươi và bắt nguồn từ bản tính của ngươi. Có những người làm điều xấu gì cũng luôn đổ lỗi cho Sa-tan. Họ luôn nói: “Sa-tan tiêm nhiễm tư tưởng đó vào đầu tôi, Sa-tan khiến tôi làm điều đó”. Họ quy mọi điều xấu cho Sa-tan và không bao giờ thừa nhận những vấn đề trong bản tính của chính mình. Như vậy có đúng không? Chẳng phải ngươi đã bị Sa-tan làm cho bại hoại sâu sắc sao? Nếu ngươi không thừa nhận điều này, thì sao tâm tính Sa-tan lại bộc lộ nơi ngươi? Tất nhiên, cũng có những lúc Sa-tan quấy nhiễu, như khi người ta bị kẻ xấu hoặc kẻ địch lại Đấng Christ lừa và xúi giục làm điều gì đó, hoặc khi một ác linh hoạt động và gửi cho họ những ý nghĩ – nhưng đây chỉ là những trường hợp ngoại lệ; đa phần mọi người bị bản tính Sa-tan của mình sai khiến và bộc lộ đủ kiểu tâm tính bại hoại. Khi người ta hành động theo ý thích và khuynh hướng của bản thân, khi người ta hành sự theo cách riêng của mình, theo những quan niệm và tưởng tượng của riêng mình, thì họ đang sống theo những tâm tính bại hoại của chính mình, và khi họ sống theo những thứ này, thì họ đang sống theo bản tính của chính mình. Đây là những sự thật không thể bàn cãi. Khi người ta bị bản tính Sa-tan của mình chi phối, khi người ta sống theo bản tính Sa-tan của mình, thì mọi thứ bộc lộ nơi họ đều là tâm tính bại hoại của chính họ, chứ không thể đẩy cho Sa-tan được, không thể nói rằng đây là những tư tưởng Sa-tan gửi đến. Bởi vì con người đã bị làm cho bại hoại sâu sắc, nên họ thuộc về Sa-tan, và bởi vì con người không khác gì Sa-tan, và họ là những con quỷ sống, những Sa-tan sống, nên ngươi không được đẩy mọi thứ thuộc về Sa-tan bộc lộ bên trong ngươi cho Sa-tan. Ngươi chẳng tốt đẹp gì hơn Sa-tan đâu, và đó là tâm tính bại hoại của ngươi.

Loại trạng thái nào tồn tại bên trong người ta khi họ có tâm tính cương ngạnh? Chủ yếu là họ ngoan cố và tự cho mình là đúng. Họ luôn bám vào quan điểm riêng của mình, họ luôn cho rằng những gì mình nói là đúng, họ cực kỳ cứng nhắc, và họ cứng đầu. Đây là thái độ cương ngạnh. Họ giống như “nước đổ đầu vịt”, không lắng nghe bất cứ ai, chỉ chăm chăm một hướng hành động không thể thay đổi được, khăng khăng đến cùng với nó, bất kể đúng sai; có phần không biết hối cải. Tục ngữ có câu: “Điếc không sợ súng”. Người ta biết rõ điều đúng đắn phải làm là gì, nhưng họ không làm, họ nhất quyết không chịu tiếp nhận lẽ thật. Đây là một loại tâm tính: cương ngạnh. Các ngươi bộc lộ tâm tính cương ngạnh trong những dạng tình huống nào? Các ngươi có thường xuyên cương ngạnh không? (Thưa, có.) Rất thường xuyên! Và vì cương ngạnh là tâm tính của ngươi, nên nó đồng hành cùng ngươi trong từng giây, từng ngày trên đời. Sự cương ngạnh khiến con người không thể đến trước Đức Chúa Trời, không thể tiếp nhận lẽ thật, và không thể bước vào thực tế lẽ thật. Và nếu ngươi không thể bước vào thực tế lẽ thật, thì liệu có thể xảy ra sự thay đổi nào trong khía cạnh này của tâm tính ngươi không? Khó lắm. Hiện tại đã có bất kỳ sự thay đổi nào trong khía cạnh cương ngạnh này của tâm tính các ngươi chưa? Và đã thay đổi đến mức độ nào rồi? Ví dụ: giả sử trước đây ngươi cương ngạnh, không gì lay chuyển được ngươi, nhưng bây giờ đã có một chút thay đổi nơi ngươi: khi gặp phải chuyện gì đó, ngươi có chút ý thức lương tâm trong lòng và tự nhủ: “Mình phải thực hành lẽ thật nào đó trong vấn đề này. Vì Đức Chúa Trời đã vạch trần tâm tính cương ngạnh này, vì mình đã được nghe về nó, và bây giờ mình đã biết nó, nên mình phải thay đổi. Trong quá khứ, khi mình gặp phải những chuyện kiểu này một vài lần, mình đã chiều theo xác thịt và thất bại, và mình không hài lòng về điều này. Lần này mình phải thực hành lẽ thật”. Với nguyện vọng như vậy thì có thể thực hành lẽ thật, và đây là sự thay đổi. Khi ngươi trải nghiệm theo cách này một thời gian, ngươi có thể đưa nhiều lẽ thật hơn vào thực hành, điều này mang lại những thay đổi lớn hơn, và những tâm tính phản nghịch, cương ngạnh của ngươi ngày càng giảm bớt, như vậy đã có sự thay đổi trong tâm tính sống của ngươi chưa? Nếu tâm tính phản nghịch của ngươi ngày càng giảm đi rõ rệt, và sự vâng phục Đức Chúa Trời của ngươi ngày càng tăng lên, thì đã có sự thay đổi thực sự. Vậy ngươi phải thay đổi đến mức nào để đạt được sự vâng phục thực sự? Ngươi sẽ thành công khi không còn một chút cương ngạnh nào, mà chỉ có vâng phục. Đây là một tiến trình chậm. Những thay đổi trong tâm tính không diễn ra một sớm một chiều, chúng cần thời gian dài trải nghiệm, thậm chí có thể là cả đời. Đôi khi cần phải chịu nhiều đau khổ cùng cực, những đau khổ như chết đi sống lại, những đau khổ đau đớn và khó khăn hơn cả róc xương chữa độc. Vậy đã có bất kỳ thay đổi nào trong tâm tính cương ngạnh của các ngươi chưa? Các ngươi có thể đo lường được điều này không? (Thưa, trước đây con tin rằng một số việc nên được thực hiện theo cách nhất định. Khi mọi người đưa ra quan điểm khác, con không lắng nghe, và phải đến khi gặp những trở ngại thực sự, con mới quay đầu. Bây giờ con đỡ hơn chút rồi. Con kháng cự khi mọi người đưa ra những quan điểm khác với con, nhưng sau đó con có thể tiếp nhận một số điều họ nói.) Sự chuyển biến thái độ là một loại thay đổi khác; điều này có nghĩa là đã có một chút thay đổi. Không như trước đây, ngươi biết người kia đúng mà vẫn cứ bác bỏ và không chịu tiếp nhận, vẫn bám theo khuynh hướng của bản thân; bây giờ thì khác. Đã có một sự đảo ngược trong thái độ của ngươi. Thay đổi từng này là ngươi đã thay đổi được chừng nào rồi? Thậm chí còn chưa được 10%. Thay đổi 10% có nghĩa là ít nhất, sau khi người khác nói ra quan điểm khác biệt của họ, ngươi không có bất kỳ thái độ phản đối hay ý nghĩ kháng cự nào; ngươi có thái độ bình thường. Tuy trong lòng ngươi vẫn chưa vừa ý, nhưng ngươi không có thái độ cương ngạnh, ngươi có thể thảo luận việc này với người ta, có chút vâng phục khi ngươi thực hành, và ngươi không chỉ làm mọi việc theo ý mình. Sau đó, có những lúc ngươi bám vào quan điểm riêng của mình, và có những lúc ngươi có thể tiếp nhận những gì người khác nói. Những thay đổi trong tâm tính trở đi trở lại. Ngươi phải trải qua những trở ngại không kể xiết để đạt được một chút thay đổi, cũng như những thất bại không kể xiết để thành công, cho nên không dễ để tâm tính ngươi thay đổi mà không trải qua vài năm thử luyện và tinh luyện. Đôi lúc, khi người ta ở trong trạng thái tâm lý tốt, họ có thể tiếp nhận những điều đúng đắn người khác nói, nhưng khi tâm lý không tốt, họ không mưu cầu lẽ thật. Chẳng phải điều này làm trì hoãn mọi thứ sao? Đôi lúc, khi ngươi không hòa thuận với cộng sự, ngươi không tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật, và ngươi sống theo những triết lý của Sa-tan. Đôi lúc, khi ngươi đang hợp tác với người khác và tố chất của họ tốt hơn ngươi, họ giỏi hơn ngươi, thì ngươi cảm thấy bị họ gò ép, và ngươi không có can đảm để giữ nguyên tắc khi gặp chuyện. Đôi lúc ngươi giỏi hơn cộng sự, còn họ hành động ngu ngốc, và ngươi coi thường họ, không sẵn lòng thông công về lẽ thật với họ. Đôi lúc, ngươi muốn thực hành lẽ thật nhưng lại bị những cảm xúc của xác thịt chi phối. Đôi lúc ngươi thèm muốn lạc thú xác thịt, và dù có muốn cũng không thể quay lưng lại với xác thịt. Đôi lúc ngươi nghe giảng và hiểu được lẽ thật, nhưng lại không thể đưa lẽ thật vào thực hành. Những vấn đề này có dễ giải quyết không? Tự ngươi thì không dễ giải quyết. Đức Chúa Trời chỉ có thể buộc con người trải qua những thử luyện và tinh luyện, khiến họ chịu khổ vô cùng và cuối cùng cảm thấy trống rỗng trong lòng khi không có lẽ thật, như thể họ không thể sống thiếu lẽ thật. Điều này tinh luyện con người để phát triển đức tin và khiến họ cảm thấy như thể họ phải phấn đấu để đạt được lẽ thật, rằng lòng họ sẽ không thanh thản cho đến khi họ đưa lẽ thật vào thực hành, và họ sẽ phải chịu sự giày vò vô cùng nếu không thể vâng lời Đức Chúa Trời. Đó là hiệu quả đạt được bởi sự thử luyện và tinh luyện. Những thay đổi trong tâm tính khó như thế đấy. Tại sao Ta nói với các ngươi chúng không dễ dàng? Lẽ nào Ta không sợ các ngươi trở nên tiêu cực sao? Đó là để cho các ngươi biết những thay đổi trong tâm tính quan trọng như thế nào. Ta mong tất cả các ngươi chú ý đến điều này, ngừng theo đuổi những hình ảnh phi thực tế, giả hình và tâm linh giả đó, ngừng việc luôn chạy theo những giáo lý, sự thực hành và quy tắc tâm linh hão huyền đó; làm như vậy sẽ có hại cho ngươi và hoàn toàn không ích lợi gì.

Chúng ta vừa nói về một khía cạnh của tâm tính: sự cương ngạnh. Cương ngạnh thường là một loại thái độ ẩn sâu trong lòng người. Nói chung, nhìn bên ngoài thì không thấy rõ, nhưng khi nó đã rõ ràng thì dễ phát hiện, và mọi người sẽ nói: “Họ thật ngoan cố! Họ hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật – họ quá cương ngạnh!”. Những người có tâm tính cương ngạnh chỉ chăm chăm vào một cách tiếp cận, và chỉ bám vào một thứ, không bao giờ buông. Thế đây có phải là khía cạnh duy nhất của tâm tính con người không? Tất nhiên là không – còn nhiều khía cạnh khác. Để xem các ngươi có thể cho Ta biết loại tâm tính Ta sắp mô tả tiếp theo là gì không. Có người nói: “Trong nhà Đức Chúa Trời, tôi không quy phục ai ngoài Đức Chúa Trời, vì chỉ Đức Chúa Trời mới có lẽ thật; con người không có lẽ thật, họ có tâm tính bại hoại, họ nói gì cũng không thể tin cậy được, vì vậy tôi chỉ quy phục Đức Chúa Trời”. Họ nói thế có đúng không? (Thưa, không.) Tại sao không đúng? Đây là loại tâm tính gì? (Thưa, là tâm tính kiêu ngạo và tự phụ.) (Thưa, là những tâm tính của Sa-tan và thiên sứ trưởng.) Đây là tâm tính kiêu ngạo. Đừng luôn nói đó là tâm tính của Sa-tan và thiên sứ trưởng, cách nói này quá rộng và mơ hồ. Những tâm tính bại hoại của Sa-tan và thiên sứ trưởng quá nhiều. Nói về thiên sứ trưởng, ma quỷ và Sa-tan gộp lại thì quá chung chung và không dễ để mọi người hiểu được. Chỉ cần nói đây là tâm tính kiêu ngạo thì sẽ cụ thể hơn. Tất nhiên, đây không phải là loại tâm tính duy nhất họ bộc lộ, chỉ là tâm tính kiêu ngạo được bộc lộ quá rõ ràng. Khi nói đây là tâm tính kiêu ngạo, mọi người sẽ có thể dễ dàng hiểu được, vì vậy cách nói này phù hợp nhất. Có những người có chút kỹ năng, chút ân tứ, chút năng khiếu nhỏ, và đã làm được chút việc cho hội thánh. Điều những người này nghĩ là: “Đức tin của các người vào Đức Chúa Trời là dành cả ngày để đọc, sao chép, viết, ghi nhớ lời Đức Chúa Trời giống như một người thuộc linh. Để làm gì? Các người có thể làm gì thực tế không? Làm sao các người có thể gọi mình là thuộc linh khi không làm gì cả? Các người không có sự sống. Tôi có sự sống, mọi việc tôi làm đều thực tế”. Đây là tâm tính gì? Họ có chút kỹ năng đặc biệt, chút ân tứ, họ có thể làm chút việc tốt, và họ coi những điều này là sự sống. Kết quả là họ không vâng phục ai, không ngại lên lớp ai, xem thường người khác – đây có phải là kiêu ngạo không? (Thưa, phải.) Đây là kiêu ngạo. Người ta thường bộc lộ sự kiêu ngạo trong những hoàn cảnh nào? (Thưa, khi họ có chút ân tứ hoặc kỹ năng đặc biệt, khi họ có thể làm chút việc thực tế, khi họ có vốn liếng.) Đó là một dạng tình huống. Vậy những người không có ân tứ hoặc kỹ năng gì đặc biệt không kiêu ngạo sao? (Thưa, họ cũng kiêu ngạo.) Người chúng ta vừa nói đến sẽ thường nói: “Tôi không vâng phục ai ngoài Đức Chúa Trời”, và nghe thấy thế, mọi người thầm nghĩ: “Người này vâng phục lẽ thật quá, họ không vâng phục ai ngoài lẽ thật, họ nói đúng đấy!”. Trên thực tế, bên trong những lời có vẻ đúng này là một loại tâm tính kiêu ngạo: “Tôi không vâng phục ai ngoài Đức Chúa Trời” rõ ràng có nghĩa là họ không vâng phục bất kỳ ai. Ta hỏi các ngươi, những người nói những lời như vậy có thực sự có thể vâng phục Đức Chúa Trời không? Họ không bao giờ có thể vâng phục Đức Chúa Trời. Những người có thể thốt ra những lời như vậy chắc chắn là kẻ kiêu ngạo nhất trên đời. Nhìn bề ngoài, những gì họ nói có vẻ đúng, nhưng trên thực tế, đây là phương thức thể hiện giảo hoạt nhất của tâm tính kiêu ngạo. Họ dùng từ “ngoài Đức Chúa Trời” này để cố chứng tỏ mình có lý trí, nhưng thực ra nó giống như chôn vàng và gắn biển bên trên nói rằng “Không chôn vàng ở đây”. Đó chẳng phải là ngu xuẩn sao? Theo các ngươi, kiểu người nào kiêu ngạo nhất? Những điều gì người ta có thể nói khiến họ trở nên kiêu ngạo nhất? Có lẽ trước đây các ngươi đã từng nghe thấy một số lời lẽ kiêu ngạo. Lời lẽ nào kiêu ngạo nhất trong số này? Các ngươi có biết không? Có ai dám nói: “Tôi không vâng lời bất cứ ai, kể cả trời đất, kể cả lời Đức Chúa Trời” không? Chỉ có con rồng lớn sắc đỏ mới dám nói thế. Chẳng ai tin Đức Chúa Trời mà lại nói thế cả. Tuy nhiên, nếu người tin vào Đức Chúa Trời nói: “Tôi không vâng phục ai ngoài Đức Chúa Trời”, thì họ cũng chẳng khác con rồng lớn sắc đỏ là mấy, họ gắn liền với vị trí số một thế giới, họ là kẻ kiêu ngạo nhất trên đời. Mọi người đều kiêu ngạo, nhưng theo các ngươi, có gì khác biệt trong sự kiêu ngạo của họ không? Khác biệt ở đâu? Con người bại hoại ai cũng có tâm tính kiêu ngạo, nhưng có những khác biệt trong sự kiêu ngạo của họ. Khi sự kiêu ngạo của người ta đạt đến mức độ nhất định, họ sẽ mất hết lý trí. Sự khác biệt nằm ở chỗ liệu những gì người ta nói có lý trí hay không. Có người kiêu ngạo nhưng vẫn còn chút lý trí. Nếu họ có thể tiếp nhận lẽ thật, thì họ vẫn còn hy vọng được cứu rỗi. Có người kiêu ngạo đến mức mất hết lý trí – kiêu ngạo vô hạn – và những kẻ như vậy không bao giờ có thể tiếp nhận lẽ thật. Nếu người ta kiêu ngạo đến mức không còn lý trí, thì họ đã mất hết liêm sỉ và chỉ kiêu ngạo một cách ngu xuẩn. Tất cả những điều này đều là sự bộc lộ và biểu hiện của tâm tính kiêu ngạo. Nếu không có tâm tính kiêu ngạo, làm sao họ có thể nói những điều như “Tôi không vâng phục ai ngoài Đức Chúa Trời”? Chắc chắn là không. Không còn nghi ngờ gì nữa, nếu người ta có tâm tính kiêu ngạo, thì họ có biểu hiện của sự kiêu ngạo, và người đó chắc chắn sẽ nói và làm những điều kiêu ngạo, mất hết lý trí. Có người nói: “Tôi không có tâm tính kiêu ngạo, nhưng ở tôi bộc lộ những điều như vậy”. Những lời như vậy có đúng không? (Thưa, không.) Lại có người nói: “Tôi không thể kiềm chế được. Chỉ cần sơ sẩy là tôi lại nói ra một điều kiêu ngạo”. Những lời này có đúng không? (Thưa, không.) Tại sao không? Căn nguyên nhân của những lời này là gì? (Thưa, là không tự biết mình.) Không phải – họ biết mình kiêu ngạo, nhưng khi nghe người khác chế nhạo rằng: “Sao anh kiêu ngạo thế? Anh có gì mà kiêu ngạo vậy?”, thì họ cảm thấy xấu hổ, đó là lý do tại sao họ nói những điều như vậy. Ý thức về thể diện của họ không thể chịu đựng được, họ đang tìm cớ che đậy, ngụy trang, tạo vỏ bọc và gỡ khó cho mình. Vì vậy, lời họ nói không đúng. Khi tâm tính bại hoại của ngươi chưa được giải quyết, ngay cả khi không nói gì, ngươi vẫn kiêu ngạo. Kiêu ngạo là bản tính của con người, nó ẩn sâu trong thâm tâm họ và có thể bộc phát bất cứ lúc nào. Và vì vậy, chừng nào chưa có sự thay đổi trong tâm tính, con người vẫn còn kiêu ngạo và tự cho mình là đúng. Ta sẽ cho một ví dụ. Một lãnh đạo mới được bầu đến một hội thánh và nhận ra cách mọi người nhìn anh ta và biểu hiện trên khuôn mặt họ không mấy nhiệt tình. Trong tâm trí, anh ta thầm nghĩ: “Tôi không được chào đón ở đây sao? Tôi là lãnh đạo mới được chọn; sao các người có thể đối xử với tôi với một thái độ như vậy được? Tại sao các người không ấn tượng với tôi? Tôi đã được các anh chị em lựa chọn, vì vậy vóc giạc thuộc linh của tôi phải hơn các người, chẳng phải sao?”. Và kết quả là anh ta nói: “Tôi là lãnh đạo mới được bầu. Một số người có thể không phục tôi, nhưng không sao. Hãy thi xem ai nhớ được nhiều đoạn lời Đức Chúa Trời hơn, ai có thể thông công những lẽ thật về khải tượng. Tôi sẽ trao vị trí lãnh đạo cho bất kỳ ai có thể thông công về lẽ thật rõ ràng hơn tôi. Các anh chị em thấy sao?”. Đây là loại chiến thuật gì? Khi mọi người thờ ơ với anh ta, anh ta không hài lòng và muốn gây khó dễ cho họ, trả đũa họ; bây giờ anh ta đã là lãnh đạo, anh ta muốn thống trị mọi người, muốn đứng đầu. Đây là tâm tính gì? (Thưa, kiêu ngạo.) Và tâm tính kiêu ngạo có dễ giải quyết không? (Thưa, không.) Tâm tính kiêu ngạo của con người bộc lộ rất thường xuyên. Đối với một số người, nghe người khác thông công về sự khai sáng và hiểu biết mới thật khó chịu: “Tại sao mình không có gì để nói về điều này? Không được, mình phải suy nghĩ để đưa ra điều gì đó hay hơn”. Thế là họ tung ra một đống giáo lý, cố gắng vượt mặt người khác. Đây là tâm tính gì? Đây là tranh danh đoạt lợi; nó cũng là sự kiêu ngạo. Trong vấn đề tâm tính, ngươi có thể ngồi yên, không nói hay làm gì, nhưng tâm tính đó vẫn sẽ tồn tại trong thâm tâm và suy nghĩ của ngươi, thậm chí có thể được bộc lộ qua biểu hiện của ngươi. Ngay cả khi người ta cố gắng nghĩ cách kìm nén nó, hoặc kiểm soát nó, và luôn thật cẩn thận để ngăn nó bộc lộ, thì cũng có tác dụng gì không? (Thưa, không.) Có những người, khi nói điều gì đó kiêu ngạo thì ngay lập tức nhận ra rằng: “Mình lại bộc lộ tâm tính kiêu ngạo rồi – nhục quá! Mình không bao giờ được nói bất kỳ điều gì kiêu ngạo nữa”. Nhưng ngươi có thề sẽ ngậm miệng cũng vô ích, điều này không phụ thuộc vào ngươi, mà phụ thuộc vào tâm tính ngươi. Vì vậy, nếu không muốn tâm tính kiêu ngạo của mình bộc lộ, ngươi phải giải quyết nó. Đây không phải là chuyện sửa một vài từ, hay chỉnh đốn một trong những cách hành sự của ngươi, càng không phải là chuyện tuân thủ quy tắc nào đó, mà là chuyện giải quyết vấn đề về tâm tính của ngươi. Ta vừa nói về chủ đề tâm tính chính xác là gì, chẳng phải các ngươi đã có hiểu biết sâu sắc hơn và thấu suốt hơn về bản thân mình sao? (Thưa, phải.) Biết mình không phải là vấn đề biết tính cách bề ngoài, tính khí, thói xấu, những điều ngu muội và dại dột mình đã làm trong quá khứ – không phải vậy. Mà biết mình là biết tâm tính bại hoại của chính mình và những điều tà ác mình có thể làm để chống đối Đức Chúa Trời. Đây là điều then chốt. Có người nói: “Tôi dễ nổi nóng, và tôi không thể làm gì để thay đổi điều đó được. Bao giờ tôi mới thay đổi được tâm tính này đây?”. Lại có người nói: “Tôi rất kém trong việc thể hiện bản thân, tôi không phải là người giỏi ăn nói; nói gì rốt cuộc cũng làm mếch lòng hoặc tổn thương cảm xúc của người ta. Bao giờ tôi mới thay đổi được đây?”. Họ nói thế có đúng không? (Thưa, không.) Sai lầm của họ ở đâu? (Thưa, đây là không nhận ra những điều bên trong bản tính của mình.) Đúng vậy. Tính cách không quyết định bản tính. Dù tính cách tốt đến đâu, người ta vẫn có thể có tâm tính bại hoại.

Ta vừa nói về hai khía cạnh của tâm tính. Thứ nhất là cương ngạnh, thứ hai là kiêu ngạo. Chúng ta không cần nói quá nhiều về sự kiêu ngạo. Mỗi người đều bộc lộ nhiều biểu hiện kiêu ngạo, và các ngươi chỉ cần biết rằng kiêu ngạo là một khía cạnh của tâm tính là đủ rồi. Ngoài ra còn có một loại tâm tính khác. Một số người không bao giờ nói thật với ai cả. Họ cân nhắc và chau chuốt mọi thứ trong tâm trí trước khi nói với mọi người. Trong số những điều họ nói, ngươi không thể biết đâu là thật, đâu là giả. Hôm nay họ nói một đằng, ngày mai nói một nẻo, nói với người này thế này, nói với người khác thế khác. Mọi thứ họ nói đều tự mâu thuẫn. Làm sao có thể tin tưởng những người như vậy được? Rất khó để nắm bắt chính xác sự thật, và ngươi không thể nhận được một lời chân thật nào từ họ. Đây là tâm tính gì? Đây là sự giả dối. Tâm tính giả dối có dễ thay đổi không? Tâm tính này khó thay đổi nhất. Bất cứ điều gì liên quan đến tâm tính thì đều liên quan đến bản tính của người ta, và không có gì khó thay đổi hơn những thứ liên quan đến bản tính của người ta. Câu nói “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời” hoàn toàn đúng! Bất kể người giả dối đang nói hoặc làm gì, họ cũng luôn nung nấu những mục đích và ý định riêng; nếu không, họ sẽ không nói. Nếu ngươi cố gắng hiểu mục đích và ý định của họ là gì, họ sẽ im thin thít. Nếu vô tình nói thật chuyện gì đó, họ sẽ bằng mọi giá nghĩ cách để bóp méo lại, để mê hoặc ngươi và ngăn ngươi biết sự thật. Bất kể người giả dối đang làm gì, họ cũng sẽ không cho bất kỳ ai biết toàn bộ sự thật về điều đó. Dù mọi người đã quen biết họ bao lâu đi nữa cũng không ai biết trong tâm họ thực sự nghĩ gì. Đó là bản tính của người giả dối. Bất kể người giả dối nói nhiều đến đâu, người khác cũng sẽ không bao giờ biết được ý định của họ là gì, họ đang thực sự nghĩ gì, hay chính xác thì họ đang cố gắng đạt được điều gì; ngay cả cha mẹ họ cũng khó mà biết được. Cố gắng hiểu người giả dối là cực khó, không ai hiểu được trong tâm họ nghĩ gì. Kẻ giả dối nói năng, hành động như thế này: không bao giờ nói ra suy nghĩ của mình hay truyền đạt những gì đang thực sự diễn ra. Đây là một loại tâm tính, chẳng phải sao? Khi ngươi có tâm tính giả dối, thì bất kể ngươi nói hay làm gì, tâm tính này cũng luôn ở trong ngươi, điều khiển ngươi, khiến ngươi bày trò, lừa phỉnh, đùa giỡn với mọi người, che đậy sự thật và ngụy tạo bản thân. Đây chính là sự giả dối. Người giả dối còn có những hành vi cụ thể nào nữa? Ta sẽ cho một ví dụ. Hai người đang nói chuyện, và một người nói về sự biết mình của họ; người này nói mãi về việc họ đã tiến bộ ra sao và cố gắng khiến người kia tin vào điều đó, nhưng không cho người kia biết tình hình thực tế. Ở đây, có điều gì đó đang bị che giấu, và điều này cho thấy một tâm tính nhất định – tâm tính giả dối. Để xem các ngươi có thể phân định nó hay không. Người này nói: “Gần đây tôi trải qua một số chuyện, và tôi cảm thấy trong những năm qua, đức tin nơi Đức Chúa Trời của tôi thật vô ích. Tôi chưa đạt được bất cứ điều gì. Tôi thật nghèo nàn và thảm hại! Hành vi của tôi gần đây không tốt lắm, nhưng tôi sẵn sàng ăn năn”. Tuy nhiên, một thời gian sau khi họ nói điều này, không thấy biểu hiện ăn năn ở họ đâu cả. Vấn đề ở đây là gì? Đó là họ nói dối và lừa gạt người khác. Khi nghe họ nói những điều đó, người khác nghĩ: “Người này trước đây không mưu cầu lẽ thật, nhưng việc giờ đây họ có thể nói những điều như vậy cho thấy họ đã thực sự ăn năn. Chắc chắn là như vậy. Chúng ta không được nhìn họ như trước, mà phải nhìn họ dưới một góc độ mới, tốt hơn”. Sau khi nghe những lời đó, mọi người sẽ cân nhắc và suy ngẫm như vậy. Nhưng tình trạng hiện tại của người đó có giống như họ nói không? Thực tế không phải vậy. Họ chưa thực sự ăn năn, nhưng những lời họ nói khiến người ta lầm tưởng rằng họ đã ăn năn, đã thay đổi để tốt hơn và đã khác trước. Đây chính là điều họ muốn đạt được qua lời nói của mình. Khi nói theo cách này để lừa mọi người, họ đang bộc lộ tâm tính gì? Đó là sự giả dối – và vô cùng thâm hiểm! Thực tế là họ không hề biết rằng họ đã thất bại trong đức tin nơi Đức Chúa Trời, rằng họ thật nghèo nàn, thảm hại. Họ đang mượn những lời lẽ và ngôn từ thuộc linh để lừa mọi người, nhằm đạt được mục đích khiến người khác nghĩ tốt về họ và đánh giá tốt về họ. Đây chẳng phải là sự giả dối sao? Đúng vậy, và khi đã quá giả dối, người ta không dễ gì thay đổi được.

Có một loại người khác không bao giờ đơn giản hay cởi mở trong cách nói chuyện. Họ luôn giấu giếm, che đậy, lượm lặt thông tin và thăm dò. Họ luôn muốn biết toàn bộ sự thật về người khác, nhưng lại không nói ra những gì trong chính thâm tâm mình. Không ai tương tác với họ mà có thể hy vọng tìm ra được toàn bộ sự thật về họ. Những người như vậy không muốn người khác biết được dự định của mình, cũng không chia sẻ dự định của mình với ai. Đây là tâm tính gì? Đây là tâm tính giả dối. Những kẻ như vậy cực kỳ gian xảo, không ai có thể nhìn thấu. Nếu ai đó có tâm tính giả dối, thì chắc chắn là kẻ giả dối, và giả dối từ trong thực chất bản tính. Loại người này có mưu cầu lẽ thật khi tin Đức Chúa Trời không? Nếu trước người khác họ không nói thật, thì trước Đức Chúa Trời họ có thể nào nói thật không? Chắc chắn là không. Kẻ giả dối không bao giờ nói thật. Họ có thể tin Đức Chúa Trời, nhưng đức tin của họ có phải là đức tin thật không? Họ có tâm thái gì đối với Đức Chúa Trời? Chắc chắn họ sẽ có nhiều nghi ngờ trong lòng: “Đức Chúa Trời ở đâu? Mình không thể thấy Ngài. Bằng chứng nào cho thấy Ngài có thật?”, “Đức Chúa Trời có quyền tối thượng trên mọi sự sao? Thật không? Chế độ của Sa-tan đang điên cuồng đàn áp và bắt bớ những người tin Đức Chúa Trời. Tại sao Đức Chúa Trời không tiêu diệt nó?”, “Chính xác thì Đức Chúa Trời cứu rỗi con người như thế nào? Sự cứu rỗi của Ngài có thật không? Điều này không rõ lắm”, “Một người tin Đức Chúa Trời có thể bước vào thiên quốc hay không? Không có bất kỳ xác nhận nào thì khó nói lắm”. Với quá nhiều nghi ngờ về Đức Chúa Trời trong lòng, liệu họ có thể chân thành dâng mình cho Ngài được không? Không thể. Họ thấy hết thảy những người này đã từ bỏ mọi sự để đi theo Đức Chúa Trời, đang dâng mình cho Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình, và họ suy nghĩ: “Mình cần phải giữ lại chút gì đó, không thể dại dột như họ được. Nếu mình dâng hết cho Đức Chúa Trời, sau này mình sẽ sống sao đây? Ai sẽ chăm sóc mình? Phải có kế hoạch dự phòng chứ”. Ngươi có thể thấy những kẻ giả dối “tinh khôn” như thế nào, nghĩ xa ra sao. Có những người, khi thấy những người khác trong cuộc nhóm họp cởi mở chia sẻ những nhận biết về sự bại hoại của họ, nói ra những điều sâu kín trong lòng khi thông công, và thành thật nói họ đã phạm tội tà dâm bao nhiêu lần, thì suy nghĩ: “Đồ ngu! Mấy cái đó là chuyện riêng tư; sao phải nói với người khác? Có đánh chết tôi cũng không nói đâu!”. Kẻ giả dối là thế – thà chết chứ không trung thực, và không nói cho ai biết toàn bộ sự thật. Có người nói: “Mình đã vi phạm và làm một số việc xấu, và mình cảm thấy hơi xấu hổ khi nói trực tiếp với mọi người về những chuyện đó. Xét cho cùng, đó là những chuyện riêng tư và rất ngượng. Nhưng mình không thể giấu giếm hoặc che đậy chúng với Đức Chúa Trời được. Mình nên thưa những chuyện này với Đức Chúa Trời, rõ ràng và cởi mở. Mình không dám nói với người khác những suy nghĩ hay chuyện riêng tư của mình, nhưng mình phải thưa với Đức Chúa Trời. Cho dù mình có giữ bí mật với ai khác đi nữa thì cũng không được giữ bí mật với Đức Chúa Trời”. Đây là thái độ đối với Đức Chúa Trời của người trung thực. Tuy nhiên, kẻ giả dối luôn đề phòng mọi người, không tin tưởng bất kỳ ai và không nói thật với bất kỳ ai. Họ không nói toàn bộ sự thật với ai, và không ai có thể nhìn thấu được họ. Đây là kẻ giả dối nhất trên đời. Mọi người đều có tâm tính giả dối; chỉ khác nhau ở mức độ nghiêm trọng của nó. Dù ngươi có thể mở lòng và thông công về những vấn đề của mình trong các cuộc nhóm họp, nhưng điều đó có đồng nghĩa với việc ngươi không có tâm tính giả dối không? Không, ngươi cũng có tâm tính giả dối. Tại sao Ta lại nói thế? Đây là một ví dụ: ngươi có thể cởi mở trong mối thông công về những điều không đụng chạm đến thể diện hoặc hư vinh của ngươi, những điều không đáng xấu hổ và những điều mà ngươi sẽ không bị tỉa sửa và xử lý – nhưng nếu ngươi đã làm điều gì đó vi phạm nguyên tắc lẽ thật, điều mà ai cũng khinh ghét, ghê tởm, thì liệu ngươi có thể thông công cởi mở về nó trong cuộc nhóm họp không? Và nếu ngươi đã làm điều gì đó không thể nói ra, ngươi lại càng khó mở lòng và tiết lộ sự thật về nó. Nếu ai đó tìm hiểu hoặc cố truy cứu trách nhiệm, ngươi sẽ dùng mọi cách có thể để che giấu nó, sẽ lo sợ chuyện này có thể bại lộ. Ngươi sẽ luôn tìm cách che đậy nó và thoát tội. Đây chẳng phải là tâm tính giả dối sao? Có lẽ ngươi tin rằng nếu ngươi không nói ra thì sẽ không ai biết, và ngay cả Đức Chúa Trời cũng không thể nào làm gì được ngươi. Nghĩ như thế là sai lầm rồi! Đức Chúa Trời dò xét vào nơi sâu thẳm nhất của con người. Nếu ngươi không thể nhận thức được điều này, thì ngươi hoàn toàn không biết gì về Đức Chúa Trời. Kẻ giả dối không chỉ lừa gạt người khác – mà thậm chí còn dám cố lừa gạt Đức Chúa Trời và sử dụng những phương cách giả dối để chống đối Ngài. Những kẻ như vậy có thể có được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời không? Tâm tính Đức Chúa Trời công chính và thánh khiết, và kẻ giả dối là thứ Ngài ghê tởm nhất. Vì vậy, kẻ giả dối là những kẻ khó có được sự cứu rỗi nhất. Kẻ có bản tính giả dối là kẻ nói dối nhiều nhất. Họ thậm chí sẽ nói dối Đức Chúa Trời và cố gắng lừa gạt Ngài, lại còn ngoan cố không ăn năn. Điều này có nghĩa là họ không thể nào có được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Nếu ai đó chỉ thỉnh thoảng bộc lộ tâm tính bại hoại, nếu họ nói dối và lừa gạt mọi người nhưng lại đơn giản và cởi mở với Đức Chúa Trời cũng như ăn năn với Ngài, thì loại người này vẫn còn hy vọng được cứu rỗi. Nếu thực sự là người có lý trí, ngươi nên mở lòng với Đức Chúa Trời, nói chuyện với Ngài từ tận đáy lòng mình, và phản tỉnh bản thân, biết mình. Ngươi không nên nói dối Đức Chúa Trời nữa, không nên lúc nào cũng cố lừa gạt Ngài, và càng không nên cố giấu Ngài bất cứ điều gì. Thực tế là có một số điều mọi người không cần phải biết. Chỉ cần ngươi cởi mở với Đức Chúa Trời về chúng là được. Khi ngươi hành sự, tuyệt đối không được giữ bí mật với Đức Chúa Trời. Ngươi có thể nói với Đức Chúa Trời mọi điều không phù hợp để nói với người khác. Người làm như vậy là thông minh. Mặc dù có thể có một số điều họ cảm thấy không cần phải mở lòng chia sẻ với người khác, nhưng như vậy không thể gọi là giả dối. Kẻ giả dối thì khác: họ cho rằng mình nên giấu giếm mọi chuyện, không được tiết lộ bất cứ điều gì với người khác, nhất là những chuyện riêng tư. Nếu nói điều gì đó không có lợi cho họ, họ sẽ không nói, ngay cả với Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là tâm tính giả dối sao? Người như vậy quả nhiên là giả dối! Nếu ai đó giả dối đến mức không nói thật với Đức Chúa Trời, và giữ bí mật mọi thứ với Đức Chúa Trời, thì họ thậm chí có phải là người tin Đức Chúa Trời không? Họ có đức tin thực sự nơi Đức Chúa Trời không? Họ là người nghi ngờ Đức Chúa Trời, và trong thâm tâm, họ không tin Ngài. Vậy thì chẳng phải đức tin của họ là giả sao? Họ là kẻ chẳng tin, tín hữu giả. Các ngươi có khi nào nghi ngờ Đức Chúa Trời và trở nên đề phòng Ngài không? (Thưa, có.) Nghi ngờ Đức Chúa Trời và đề phòng Ngài, đây là loại tâm tính gì? Đây là tâm tính giả dối. Mọi người đều có tâm tính giả dối, chỉ là vấn đề mức độ nghiêm trọng đến đâu thôi. Chỉ cần có thể tiếp nhận lẽ thật, ngươi sẽ có thể ăn năn và thay đổi.

Đối với một số người, khi có chuyện xảy đến là họ bộc lộ tâm tính bại hoại, có những quan niệm và suy nghĩ, có thành kiến về người khác, phán xét và dìm người khác sau lưng. Họ có thể phản tỉnh và hoàn toàn cởi mở về những việc này, nhưng khi làm những chuyện đáng xấu hổ nhất định, họ lại không muốn để cho ai biết và mãi mãi giấu nhẹm trong lòng. Họ không những không nói về những chuyện này với người khác, mà còn không nói với Đức Chúa Trời khi cầu nguyện. Họ thậm chí còn cố làm mọi cách có thể để dựng chuyện hòng che đậy hoặc ngụy trang chúng. Đây là tâm tính giả dối. Khi ngươi có những suy nghĩ như vậy, khi ngươi sống trong kiểu tình trạng như vậy, ngươi nên phản tỉnh và thấy rõ rằng mình không phải là người trung thực, rằng ở ngươi không có một biểu hiện nào của người trung thực như Đức Chúa Trời mô tả, rằng ngươi đích thị là kẻ giả dối, và dẫu ngươi ngu muội, tố chất kém và trì độn, thì ngươi vẫn là kẻ giả dối. Biết mình có nghĩa là như vậy. Điều tối thiểu ngươi phải có thể đạt được khi biết mình là có thể thấy rõ và phân định được sự bại hoại rõ ràng mà mình bộc lộ, đồng thời có thể tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề này. Nếu ngươi thực sự biết tâm tính giả dối của bản thân, thì nên thường xuyên cầu nguyện với Đức Chúa Trời, phản tỉnh, phân định và mổ xẻ tâm tính giả dối của mình theo lời Đức Chúa Trời, và nhìn thấu được thực chất của nó; như vậy ngươi mới có hy vọng thoát khỏi tâm tính bại hoại là sự giả dối của mình. Có những người không thể xác định rõ sự khác biệt giữa kẻ giả dối và người trung thực – nghĩa là tố chất của họ quá kém. Có những người thường lấy tố chất kém cỏi, sự ngu muội, vô tri, thiếu kiến thức, ăn nói kém, sự vụng về và dễ bị lừa của mình ra để chứng tỏ mình là người trung thực. Họ luôn nói với người khác rằng: “Tôi quá trung thực, kết quả là tôi thường nhận lãnh điều tồi tệ nhất, tôi không biết lợi dụng người khác – nhưng Đức Chúa Trời lại thích tôi vì tôi là người trung thực”. Những lời này có đúng không? Những lời như vậy thật nực cười, vẽ ra để lừa bịp mọi người, thật trơ tráo, vô liêm sỉ. Làm sao những kẻ ngu muội, ngốc nghếch lại có thể trung thực được? Đây là hai chuyện khác nhau. Một sai lầm lớn chính là coi những chuyện ngu ngốc ngươi đã làm là sự trung thực. Mọi người đều có thể thấy rằng ngay cả kẻ ngu cũng có thể kiêu ngạo và tự phụ, tự đề cao mình. Con người dù ngu muội và thiếu tố chất đến đâu vẫn có thể nói dối và lừa bịp người khác. Chẳng phải tất cả những điều này đều là sự thật sao? Có phải kẻ ngu và kẻ tố chất kém thực sự không bao giờ làm điều gì xấu không? Có phải họ thực sự không có tâm tính bại hoại nào không? Chắc chắn tuyệt đối là họ có. Có những người còn nói rằng họ trung thực và họ cởi mở chia sẻ về những lời nói dối của mình với người khác, nhưng lại không dám cởi mở chia sẻ về những việc xấu hổ mình làm. Khi bị hội thánh xử lý vì những vấn đề của họ, họ không thể tiếp nhận và hoàn toàn không quy phục, mà thích thăm dò đằng sau và xóa bỏ sự thật. Loại người giả dối này hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật, và họ không quy phục bất cứ điều gì, nhưng vẫn cho rằng mình trung thực. Đây chẳng phải là cực kỳ vô liêm sỉ sao? Đây là vô cùng ngu xuẩn! Loại người này tuyệt đối không trung thực, cũng chẳng thật thà. Kẻ ngu là kẻ ngu; kẻ ngốc là kẻ ngốc. Chỉ những người thật thà không giả dối mới là người trung thực.

Làm cách nào để phân định kẻ giả dối? Kẻ giả dối có những biểu hiện gì? Bất kể họ giao thiệp hay tương tác với ai cũng không bao giờ cho phép ai thăm dò tình hình thực sự của họ; họ luôn cảnh giác với người khác, luôn hành sự sau lưng mọi người, và không bao giờ nói ra suy nghĩ thực sự của mình. Đôi khi họ có thể nói một chút về việc biết mình, nhưng không đề cập đến những điểm mấu chốt hoặc từ khóa và sợ để lọt ra điều gì đó. Họ rất nhạy cảm với những điều này vì sợ người khác có thể phát hiện ra khiếm khuyết của họ. Đây là một dạng tâm tính giả dối. Lại có những người cố tạo hình tượng giả để người khác nghĩ rằng họ thật thà, có thể chịu khổ và không oán trách, hoặc rằng họ là người thuộc linh, yêu mến và mưu cầu lẽ thật. Họ rõ ràng không phải là kiểu người này, nhưng cứ phải giả bộ như thế cho người khác thấy. Đây cũng là tâm tính giả dối. Mọi thứ kẻ giả dối nói và làm đều có ý định đằng sau. Nếu không có ý định nào, họ sẽ không nói hoặc hành động. Có một tâm tính bên trong chi phối họ làm như vậy, và đó là tâm tính giả dối. Khi người ta có tâm tính giả dối thì có dễ thay đổi không? Các ngươi đã thay đổi được bao nhiêu rồi? Các ngươi đã bước vào con đường mưu cầu sự trung thực chưa? (Thưa, rồi, đây là phương hướng chúng con đang đi.) Các ngươi đã thực hiện được bao nhiêu bước rồi? Hay vẫn đang mắc kẹt ở giai đoạn muốn thực hiện? (Thưa, đó vẫn chỉ là điều chúng con muốn thực hiện. Đôi khi, chỉ sau khi đã làm điều gì đó, chúng con mới nhận ra rằng trong đó có sự lừa dối, rằng chúng con đang cố tạo ấn tượng giả với mọi người; chỉ khi đó chúng con mới nhận ra mình đang giả dối.) Ngươi nhận ra như thế là giả dối – nhưng ngươi có thể nhận ra đó là một loại tâm tính bại hoại không? Và chính xác thì những thứ giả dối này xuất phát từ đâu? (Thưa, từ bản tính của chúng con.) Đúng vậy, từ bản tính của ngươi. Và những thứ bại hoại này có gây nhiễu loạn ngươi không? Chúng rất khó tránh khỏi, khó xử lý, khó thoát khỏi – và cũng rất phiền toái. Điều gì khiến chúng phiền toái? Điều gì ở chúng khiến ngươi khổ sở? (Thưa, chúng con muốn thay đổi, nhưng lại cảm thấy rất khổ sở khi không thể thay đổi được.) Đó là một khía cạnh, nhưng nó không được coi là phiền toái. Khi người ta bị tâm tính giả dối chi phối, họ có thể nói dối và lừa gạt người khác mọi lúc mọi nơi, và bất kể chuyện gì xảy đến, họ cũng sẽ nghĩ cách nói dối để lừa gạt và mê hoặc mọi người. Dù có muốn họ cũng không thể kiểm soát bản thân, nó là vô thức. Vấn đề nằm ở chỗ đó. Đây là vấn đề tâm tính. Tâm tính giả dối có thể bộc lộ theo bao nhiêu cách? Trong sự thăm dò, lừa dối, đề phòng, cũng như nghi ngờ, ngụy trang và giả tạo. Tâm tính được bộc lộ và thể hiện qua những hành vi như vậy là sự giả dối. Sau khi thông công về những chủ đề này, các ngươi đã có nhận thức rõ hơn về tâm tính giả dối chưa? Có ai trong các ngươi còn nói rằng: “Tôi không có tâm tính giả dối, tôi không phải là người giả dối, tôi gần như là người trung thực” không? (Thưa, không.) Có nhiều người không hiểu lắm về việc chính xác thì thế nào là người trung thực. Một số nói rằng người trung thực là người thật thà, thẳng thắn, đi đâu cũng bị bắt nạt và loại trừ, hoặc là người chậm chạp, nói năng và hành động luôn chậm hơn người khác. Có những kẻ ngu muội, vô tri, làm những chuyện ngu xuẩn đến mức bị người khác coi thường, cũng tự mô tả mình là người trung thực. Và hết thảy những kẻ ít học dưới đáy xã hội, những kẻ cảm thấy mình thấp kém, cũng nói rằng mình là người trung thực. Sai lầm của họ nằm ở đâu? Họ không biết thế nào là người trung thực. Sự hiểu sai của họ bắt nguồn từ đâu? Nguyên nhân chính là vì họ không hiểu lẽ thật. Họ tin rằng “người trung thực” Đức Chúa Trời nói đến là những kẻ ngu xuẩn, ngốc nghếch, là những người ít học, chậm mồm chậm miệng, bị bắt nạt và chèn ép, dễ bị lừa bịp, dối gạt. Ngụ ý là đối tượng được Đức Chúa Trời cứu rỗi là những người thiểu năng trí tuệ dưới đáy xã hội thường bị người khác sai khiến. Đức Chúa Trời chẳng cứu rỗi những con người hèn mọn, bần cùng này thì cứu rỗi ai? Đây chẳng phải là điều họ tin sao? Đó có thực sự là những người Đức Chúa Trời cứu rỗi không? Đây là diễn sai ý muốn của Đức Chúa Trời. Những người Đức Chúa Trời cứu rỗi là những người yêu lẽ thật, có tố chất và năng lực lĩnh hội, hết thảy đều là những người có lương tâm và lý trí, có khả năng hoàn thành sự ủy thác của Đức Chúa Trời và làm tròn bổn phận của mình. Họ là những người có khả năng tiếp nhận lẽ thật và loại bỏ những tâm tính bại hoại của mình, họ là những người thực sự yêu mến Đức Chúa Trời, vâng phục Đức Chúa Trời và thờ phượng Đức Chúa Trời. Mặc dù hầu hết những người này đều xuất thân từ đáy xã hội, từ những gia đình công nhân, nông dân, nhưng họ chắc chắn không phải là những kẻ đần độn, khờ khạo hay vô tích sự. Ngược lại, họ là những người thông minh có khả năng tiếp nhận, thực hành và quy phục lẽ thật. Hết thảy họ đều là những người công chính, sẽ từ bỏ vinh hoa phú quý thế tục để đi theo Đức Chúa Trời và đạt được lẽ thật, sự sống – họ là những người khôn ngoan nhất trên đời. Đây đều là những người trung thực thực sự tin Đức Chúa Trời và thực sự dâng mình cho Ngài. Họ có thể có được sự khen ngợi và phước lành của Đức Chúa Trời, và họ có thể được hoàn thiện thành dân sự của Ngài, thành những trụ cột trong đền thờ của Ngài. Họ là vàng bạc châu báu. Chính những kẻ đần độn, ngốc nghếch, ngu xuẩn và vô tích sự mới là những kẻ sẽ bị loại bỏ. Những kẻ chẳng tin và kẻ ngu xuẩn coi kế hoạch quản lý và công tác của Đức Chúa Trời là gì? Như bãi rác, không phải sao? Những kẻ này không chỉ có tố chất kém, mà còn ngu xuẩn nữa. Dù có đọc bao nhiêu lời Đức Chúa Trời, họ cũng không thể hiểu lẽ thật, và dù có nghe bao nhiêu bài giảng, họ cũng không có khả năng bước vào thực tế – nếu họ ngu ngốc như vậy, có thể nào họ vẫn được cứu rỗi không? Đức Chúa Trời có thể nào muốn loại người này không? Dù đã tin trong bao nhiêu năm, họ vẫn không hiểu bất kỳ lẽ thật nào, họ vẫn nói linh tinh, ấy thế mà vẫn xem mình là người trung thực – họ không biết xấu hổ sao? Những người như vậy không hiểu lẽ thật. Họ luôn hiểu sai ý muốn của Đức Chúa Trời, vậy mà đi đâu cũng lảm nhảm về những sự hiểu sai của mình, thuyết giảng chúng như thể lẽ thật, nói với người ta rằng: “Bị bắt nạt một chút cũng tốt, người ta nên chịu thiệt một chút, nên ngốc nghếch một chút – đây là những đối tượng được Đức Chúa Trời cứu rỗi, là những người Đức Chúa Trời sẽ cứu rỗi”. Những kẻ nói những điều như vậy thật đáng ghê tởm; đây là làm ô danh Đức Chúa Trời nghiêm trọng! Thật đáng ghê tởm! Những trụ cột của vương quốc Đức Chúa Trời và những người đắc thắng Đức Chúa Trời cứu rỗi đều là những người hiểu lẽ thật và khôn ngoan. Đây là những người sẽ dự phần trong thiên quốc. Tất cả những kẻ ngu muội, vô tri, vô liêm sỉ và ngu dại, những kẻ không hiểu chút gì về lẽ thật, những kẻ khờ khạo và ngu xuẩn – chẳng phải tất cả đều là những kẻ vô tích sự sao? Làm sao những kẻ như thế có thể dự phần trong thiên quốc được? Những người trung thực Đức Chúa Trời nói đến là những người sau khi hiểu lẽ thật có thể đưa lẽ thật vào thực hành, những người khôn ngoan và thông minh, những người mộc mạc mở lòng với Đức Chúa Trời, và những người hành động theo nguyên tắc và tuyệt đối vâng phục Đức Chúa Trời. Những người này đều có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, họ tập trung hành sự theo nguyên tắc, và hết thảy đều mưu cầu sự vâng phục tuyệt đối với Đức Chúa Trời và yêu mến Đức Chúa Trời trong lòng. Chỉ họ mới là những người thực sự trung thực. Nếu ai đó thậm chí còn không biết thế nào là làm người trung thực, nếu họ không thể thấy rằng thực chất của người trung thực là tuyệt đối vâng phục Đức Chúa Trời, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, hoặc rằng người trung thực họ trung thực bởi vì họ yêu lẽ thật, bởi vì họ yêu mến Đức Chúa Trời, và bởi vì họ thực hành lẽ thật – thì loại người đó thật ngu ngốc và thực sự thiếu phân định. Người trung thực tuyệt đối không phải là những cá nhân thật thà, ngu muội, vô tri và ngốc nghếch như mọi người vẫn tưởng; họ là những người có nhân tính bình thường, có lương tâm và lý trí. Điểm thông minh ở những người trung thực là họ có thể lắng nghe lời Đức Chúa Trời và làm người trung thực, và đây chính là lý do tại sao họ được Đức Chúa Trời ban phước.

Không gì có ý nghĩa to lớn hơn yêu cầu của Đức Chúa Trời rằng con người phải trung thực – Ngài đang yêu cầu con người phải sống trước Ngài, tiếp nhận sự dò xét của Ngài và sống trong sự sáng. Chỉ những người trung thực mới là thành viên thực sự của nhân loại. Những kẻ không trung thực là súc sinh, là thú đội lốt người, chứ không phải con người. Để mưu cầu làm người trung thực, ngươi phải hành xử theo yêu cầu của Đức Chúa Trời; ngươi phải trải qua sự phán xét, hình phạt, sự xử lý và tỉa sửa. Khi tâm tính bại hoại của ngươi được tinh sạch và ngươi có thể thực hành lẽ thật cũng như sống theo lời Đức Chúa Trời, thì chỉ khi đó ngươi mới là người trung thực. Những kẻ vô tri, ngu muội và thật thà tuyệt đối không phải là người trung thực. Đòi hỏi con người phải trung thực là Đức Chúa Trời đang yêu cầu họ phải có nhân tính bình thường, loại bỏ sự giả dối và ngụy trang, không được nói dối hoặc lừa gạt người khác, phải thực hiện bổn phận của mình với lòng trung thành, và có thể thực sự yêu mến, vâng phục Ngài. Chỉ những cá nhân này mới là dân sự của vương quốc của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đòi hỏi con người phải là những chiến binh tinh nhuệ của Đấng Christ. Chiến binh tinh nhuệ của Đấng Christ là gì? Họ phải được trang bị thực tế lẽ thật và phải đồng tâm hiệp ý với Đấng Christ. Mọi lúc mọi nơi, họ phải có thể tôn vinh và làm chứng cho Đức Chúa Trời, đồng thời có thể sử dụng lẽ thật để chiến đấu với Sa-tan. Trong mọi việc, họ phải đứng về phía Đức Chúa Trời, làm chứng và sống thể hiện ra thực tế lẽ thật. Họ phải có khả năng hạ nhục Sa-tan và giành chiến thắng hiển hách cho Đức Chúa Trời. Là chiến binh tinh nhuệ của Đấng Christ nghĩa là vậy. Chiến binh tinh nhuệ của Đấng Christ là những người đắc thắng, là những người chiến thắng Sa-tan. Khi yêu cầu con người phải trung thực và không được giả dối, Đức Chúa Trời không bảo họ phải làm kẻ ngu ngốc, mà là phải loại bỏ được tâm tính giả dối của mình, đạt được sự quy phục Ngài và mang lại vinh hiển cho Ngài. Đây là những gì có thể đạt được bằng cách thực hành lẽ thật. Đây không phải là sự thay đổi trong hành vi của người ta, không phải là vấn đề nói nhiều hơn hay ít hơn, cũng không phải là vấn đề hành động như thế nào; mà đây là vấn đề ý định đằng sau lời nói và hành động, tâm tư và ý niệm, tham vọng và dục vọng của người ta. Tất cả những gì thuộc về sự bộc phát của tâm tính bại hoại và thuộc về sự sai lầm đều phải được thay đổi tận gốc cho phù hợp với lẽ thật. Nếu người ta muốn đạt được sự thay đổi trong tâm tính thì phải có khả năng nhìn thấu thực chất tâm tính của Sa-tan. Nếu ngươi có thể nhìn thấu thực chất của tâm tính giả dối, thấy rằng đó chính là tâm tính của Sa-tan và bộ mặt của ma quỷ, nếu ngươi có thể căm ghét Sa-tan và cự tuyệt ma quỷ, thì ngươi sẽ dễ dàng loại bỏ được tâm tính bại hoại của mình. Nếu ngươi không biết rằng có một tình trạng giả dối bên trong mình, nếu ngươi không nhận ra những sự bộc lộ của tâm tính giả dối, thì ngươi sẽ không biết cách tìm kiếm lẽ thật để giải quyết điều này, và ngươi sẽ khó thay đổi tâm tính giả dối của mình. Trước tiên, ngươi phải nhận ra nơi mình bộc lộ những điều gì, và chúng là khía cạnh nào của tâm tính bại hoại. Nếu những điều ngươi bộc lộ thuộc về tâm tính giả dối, ngươi có khinh miệt nó trong lòng không? Và nếu có thì ngươi nên thay đổi như thế nào? Ngươi phải xử lý những ý định và chỉnh đốn những quan điểm của mình. Trước tiên, ngươi phải tìm kiếm lẽ thật về việc này để giải quyết các vấn đề của mình, nỗ lực đạt được điều Đức Chúa Trời yêu cầu và làm đẹp lòng Ngài, trở thành người không cố lừa gạt Đức Chúa Trời hoặc người khác, kể cả những người hơi khờ dại hoặc ngu muội. Cố gắng lừa gạt một người khờ dại hoặc ngu muội là rất vô đạo đức – nó biến ngươi thành ma quỷ. Là người trung thực, ngươi không được lừa gạt hoặc nói dối bất kỳ ai. Tuy nhiên, với ma quỷ và Sa-tan, ngươi phải lựa lời một cách khôn ngoan; nếu không, ngươi sẽ dễ bị chúng đánh lừa và làm ô danh Đức Chúa Trời. Chỉ bằng cách lựa lời một cách khôn ngoan và thực hành lẽ thật, ngươi mới có thể chiến thắng và hạ nhục Sa-tan. Những kẻ vô tri, ngu muội và ngu xuẩn ngoan cố sẽ không bao giờ có khả năng hiểu lẽ thật; mà chỉ có thể bị Sa-tan mê hoặc, đùa giỡn, chà đạp và cuối cùng nuốt chửng.

Tiếp theo, chúng ta sẽ nói về loại tâm tính thứ tư. Trong các cuộc nhóm họp, một số người có thể thông công một chút về tình trạng của bản thân, nhưng khi nói đến thực chất của vấn đề, ý đồ và suy nghĩ cá nhân của họ thì họ lại lảng tránh. Khi bị mọi người vạch trần là họ có ý đồ, mục đích, họ tỏ vẻ gật gù, thừa nhận. Nhưng khi mọi người cố gắng vạch trần hoặc mổ xẻ sâu hơn, thì họ không chịu nổi, đứng dậy bỏ đi. Tại sao vào lúc quan trọng, họ lại lẻn đi? (Thưa, vì họ không tiếp nhận lẽ thật và không sẵn lòng đối mặt với những vấn đề của chính mình.) Đây là vấn đề tâm tính. Khi họ không sẵn lòng tiếp nhận lẽ thật để giải quyết những vấn đề bên trong mình, như thế chẳng phải là họ chán ghét lẽ thật sao? Một số lãnh đạo và người làm công không muốn nghe dạng bài giảng nào nhất? (Thưa, những bài giảng về cách phân định kẻ địch lại Đấng Christ và lãnh đạo giả.) Đúng vậy. Họ nghĩ bụng: “Cứ nói mãi về việc phân biệt kẻ địch lại Đấng Christ và lãnh đạo giả, cũng như về người Pha-ri-si – tại sao các người cứ nói mãi không dứt về mấy chuyện này? Nghe mà thấy mệt”. Nghe nói sẽ có cuộc nói chuyện về việc phân biệt lãnh đạo và người làm công giả là họ tìm mọi lý do để bỏ đi. “Bỏ đi” ở đây nghĩa là gì? Nghĩa là lẻn đi, trốn tránh. Tại sao họ lại cố trốn tránh? Khi người khác nói sự thật thì ngươi nên lắng nghe: lắng nghe thì tốt cho ngươi. Hãy ghi chú lại những lời nghiêm khắc hoặc những điều ngươi thấy khó tiếp nhận; sau đó ngươi nên thường xuyên suy ngẫm về những điều này, từ từ hấp thụ, và dần dần thay đổi. Vậy sao lại trốn tránh? Những người như vậy cảm thấy những lời phán xét này quá nghiêm khắc và không dễ nghe, nên sự kháng cự và ác cảm dâng lên trong họ. Họ tự nhủ: “Mình đâu có phải là kẻ địch lại Đấng Christ hay lãnh đạo giả – tại sao cứ nói hoài về mình vậy? Sao không nói về người khác đi? Nói gì đó về việc phân biệt kẻ ác đi, đừng nói về tôi nữa!”. Họ trở nên lảng tránh và ác cảm với chuyện này. Đây là tâm tính gì? Nếu họ không sẵn lòng tiếp nhận lẽ thật, và luôn lý sự, tranh luận để biện hộ cho mình, thì chẳng phải có vấn đề tâm tính bại hoại ở đây sao? Đây là tâm tính chán ghét lẽ thật. Các lãnh đạo và người làm công có kiểu tình trạng này, vậy những anh chị em bình thường có không? (Thưa, họ cũng có.) Khi mọi người mới gặp nhau, ai cũng đầy ắp tình yêu thương và rất vui vẻ nói như vẹt về câu chữ giáo lý. Dường như ai cũng yêu lẽ thật. Nhưng khi nói đến những vấn đề cá nhân và khó khăn thực tế, thì nhiều người câm như hến. Ví dụ: một số người luôn bị bó buộc bởi hôn nhân, không sẵn lòng thực hiện bổn phận hay mưu cầu lẽ thật, và hôn nhân trở thành trở ngại lớn nhất, mối phiền toái lớn nhất của họ. Trong các cuộc nhóm họp, khi mọi người thông công về tình trạng này, thì họ soi mình vào lời thông công của những người khác và cảm thấy như người ta đang nói về mình. Họ nói: “Anh chị em thông công về lẽ thật thì tôi không có ý kiến gì, nhưng tại sao lại lôi tôi ra? Anh chị em không có vấn đề gì hay sao? Tại sao lại chỉ nói về một mình tôi?”. Đây là tâm tính gì? Khi nhóm họp để thông công về lẽ thật, các ngươi phải mổ xẻ những vấn đề thực tế và để cho mọi người nói lên nhận thức của mình về chúng; chỉ khi đó các ngươi mới có thể biết mình và giải quyết được vấn đề của mình. Tại sao người ta không thể tiếp nhận điều này? Khi người ta không thể tiếp nhận việc bị tỉa sửa, xử lý, và không thể tiếp nhận lẽ thật, thì đó là tâm tính gì? Chẳng phải các ngươi nên phân định rõ chuyện này sao? Đây đều là những biểu hiện của sự chán ghét lẽ thật – đây là thực chất của vấn đề. Khi chán ghét lẽ thật, người ta rất khó tiếp nhận lẽ thật – và nếu họ không thể tiếp nhận lẽ thật, thì vấn đề tâm tính bại hoại của họ có thể được giải quyết không? (Thưa, không.) Vậy một người như thế này, một người không có khả năng tiếp nhận lẽ thật, thì có khả năng đạt được lẽ thật không? Họ có thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi không? Chắc chắn là không. Những người không tiếp nhận lẽ thật thì có thật lòng tin Đức Chúa Trời không? Chắc chắn là không. Khía cạnh quan trọng nhất của người thực sự tin Đức Chúa Trời là có khả năng tiếp nhận lẽ thật. Những người không thể tiếp nhận lẽ thật thì chắc chắn là không thực sự tin Đức Chúa Trời. Những người như vậy có thể ngồi yên mà nghe bài giảng được không? Họ có thể thu hoạch được bất cứ điều gì không? Họ không thể. Đó là bởi các bài giảng phơi bày những tình trạng bại hoại khác nhau của con người. Thông qua việc mổ xẻ lời Đức Chúa Trời, mọi người có được sự nhận thức, và sau đó, bằng cách tiếp tục thông công về các nguyên tắc thực hành, họ có được con đường thực hành. Làm như thế sẽ có hiệu quả. Khi những người như vậy nghe thấy tình trạng đang được phơi bày liên quan đến họ – liên quan đến vấn đề của họ – thì sự xấu hổ khiến họ nổi giận, thậm chí có thể đứng dậy rời khỏi cuộc nhóm họp. Ngay cả khi không bỏ đi, họ cũng có thể bắt đầu cảm thấy khó chịu, tức tối trong lòng, mà như thế thì họ có tham gia nhóm họp hay nghe giảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Chẳng phải mục đích nghe giảng là để hiểu lẽ thật và giải quyết được những vấn đề thực sự của chính mình sao? Nếu ngươi luôn sợ những vấn đề của bản thân bị phơi bày, nếu ngươi luôn sợ bị nhắc đến, thì tại sao ngươi lại tin Đức Chúa Trời làm gì? Nếu ngươi tin Đức Chúa Trời mà không thể tiếp nhận lẽ thật, thì ngươi không thực sự tin Đức Chúa Trời. Nếu luôn sợ bị vạch trần, thì làm sao ngươi có thể giải quyết vấn đề bại hoại của mình được? Nếu ngươi không thể giải quyết vấn đề bại hoại của mình, thì việc ngươi tin Đức Chúa Trời có ý nghĩa gì chứ? Tin Đức Chúa Trời là để tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, loại bỏ tâm tính bại hoại của mình và sống thể hiện ra hình tượng giống con người thực sự, tất cả đều đạt được thông qua việc tiếp nhận lẽ thật. Nếu ngươi hoàn toàn không thể tiếp nhận lẽ thật, hoặc không thể tiếp nhận ngay cả việc bị xử lý hay vạch trần, thì ngươi không thể nào có được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Nói Ta nghe: trong mỗi hội thánh, bao nhiêu người có thể tiếp nhận lẽ thật? Những người không thể tiếp nhận lẽ thật nhiều hay ít? (Thưa, nhiều.) Đây có phải là tình trạng thực tế và vấn đề thực tế tồn tại trong những người được chọn ở các hội thánh không? Phàm ai không có khả năng tiếp nhận lẽ thật và không có khả năng tiếp nhận việc bị xử lý, tỉa sửa thì là người chán ghét lẽ thật. Chán ghét lẽ thật là một loại tâm tính bại hoại, và nếu không thể thay đổi tâm tính này, liệu họ có thể được cứu rỗi không? Chắc chắn là không. Ngày nay, nhiều người tiếp nhận lẽ thật rất vất vả, không hề dễ dàng. Để giải quyết vấn đề này, người ta phải trải qua một số sự phán xét, hình phạt, sự thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời. Theo các ngươi: khi người ta không có khả năng tiếp nhận việc bị tỉa sửa và xử lý, khi người ta không soi mình vào lời Đức Chúa Trời hoặc những tình trạng được phơi bày trong các bài giảng, thì đó là tâm tính gì? (Thưa, là tâm tính chán ghét lẽ thật.) Đây là tâm tính bại hoại thứ tư: chán ghét lẽ thật. Họ chán ghét đến mức độ nào? (Thưa, họ không muốn đọc lời Đức Chúa Trời hay nghe giảng, và không muốn thông công về lẽ thật.) Đây là những biểu hiện rõ ràng nhất. Chẳng hạn như khi người ta nói: “Anh thực sự tin Đức Chúa Trời. Anh đã buông bỏ gia đình và sự nghiệp để thực hiện bổn phận, phải chịu nhiều đau khổ và trả giá đắt trong những năm qua. Đức Chúa Trời ban phước cho những người như vậy. Lời Đức Chúa Trời phán rằng những ai chân thành dâng mình cho Đức Chúa Trời sẽ được ban phước rất lớn”, ngươi nói amen và tiếp nhận những lẽ thật như vậy. Nhưng khi người đó nói tiếp rằng: “Nhưng anh phải không ngừng nỗ lực để đạt được lẽ thật! Nếu làm việc gì cũng có ý đồ, luôn làm xằng làm bậy theo ý riêng của mình, thì sớm muộn gì cũng xúc phạm Đức Chúa Trời và chuốc lấy sự ghê tởm của Ngài”. Khi họ nói những điều như thế này, ngươi lại không thể tiếp nhận được. Nghe lẽ thật đang được thông công, ngươi không những không thể tiếp nhận, mà còn nổi giận, và thầm phản bác rằng: “Các người suốt ngày thông công về lẽ thật, nhưng tôi chưa thấy ai trong các người được lên thiên đàng cả”. Đây là tâm tính gì? (Thưa, chán ghét lẽ thật.) Khi cuộc nói chuyện chuyển sang việc thực hành, khi mọi người nghiêm túc với ngươi, thì ngươi lại thể hiện sự ác cảm, thiếu kiên nhẫn và chống đối tột độ. Đây là chán ghét lẽ thật. Và biểu hiện chính của loại tâm tính chán ghét lẽ thật là gì? Đó là không chịu tiếp nhận việc bị tỉa sửa và xử lý. Không tiếp nhận việc bị tỉa sửa và xử lý là một loại tình trạng biểu hiện do loại tâm tính này. Khi bị xử lý, trong thâm tâm, những người này đặc biệt chống đối. Họ nghĩ: “Tôi không muốn nghe! Tôi không muốn nghe!” hoặc “Sao không xử lý người khác đi? Sao cứ nhắm vào tôi?”. Chán ghét lẽ thật nghĩa là gì? Chán ghét lẽ thật là khi đối với bất cứ điều gì liên quan đến những điều tích cực, lẽ thật, yêu cầu hoặc ý muốn của Đức Chúa Trời thì người ta hoàn toàn không hứng thú, có lúc còn thấy ác cảm, có lúc không thèm quan tâm, có lúc thì khinh mạn, thờ ơ, xem là không quan trọng, không thật tâm và qua loa, hoặc không có trách nhiệm. Biểu hiện chính của chán ghét lẽ thật không chỉ là sự ác cảm khi nghe lẽ thật, mà còn bao gồm không sẵn lòng thực hành lẽ thật, đến lúc thực hành lẽ thật thì rụt lại, như thể lẽ thật không liên quan gì đến mình. Có những người khi thông công trong các buổi nhóm họp có vẻ rất hoạt ngôn, thích lặp lại câu chữ giáo lý và nói những chuyện trên trời để mê hoặc và làm lung lạc người khác. Lúc đó, họ có vẻ tràn đầy sinh lực và cảm xúc dâng trào, cứ thao thao bất tuyệt, nói mãi không ngừng. Trong khi đó, lại có những người suốt ngày từ sáng đến đêm bận rộn chuyện tin Đức Chúa Trời, họ đọc lời Đức Chúa Trời, cầu nguyện, nghe thánh ca, ghi chép, như thể họ không thể xa Đức Chúa Trời giây phút nào. Từ sáng đến tối, họ bận rộn thực hiện bổn phận của mình. Những người này có thực sự yêu lẽ thật không? Có phải họ không có tâm tính chán ghét lẽ thật không? Khi nào có thể nhìn thấy tình trạng thực sự của họ? (Thưa, khi đến lúc thực hành lẽ thật thì họ bỏ chạy, và không sẵn lòng tiếp nhận việc bị tỉa sửa, xử lý.) Liệu đó là do họ nghe không hiểu, hay là do họ không hiểu lẽ thật nên không sẵn lòng tiếp nhận lẽ thật? Câu trả lời là cả hai đều không phải. Họ bị bản tính của mình chi phối. Đây là vấn đề tâm tính. Trong lòng họ biết rất rõ rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và là điều tích cực, biết việc thực hành lẽ thật có thể mang lại những thay đổi trong tâm tính của con người, giúp họ có khả năng đáp ứng ý muốn của Đức Chúa Trời – nhưng họ lại không tiếp nhận, cũng không đưa lời Ngài vào thực hành. Đây là chán ghét lẽ thật. Tâm tính chán ghét lẽ thật này các ngươi đã nhìn thấy ở ai? (Thưa, ở những người không tin.) Những người không tin chán ghét lẽ thật, điều đó rất rõ ràng. Đức Chúa Trời không cách nào cứu rỗi những người như vậy. Vậy trong những người tin Đức Chúa Trời, các ngươi đã thấy người ta chán ghét lẽ thật trong những việc nào? Đó có thể là khi ngươi thông công về lẽ thật với họ, họ không đứng dậy bỏ đi, và khi mối thông công đụng chạm đến những khó khăn và vấn đề của họ, họ đã đối diện với chúng một cách đúng đắn – nhưng họ vẫn có tâm tính chán ghét lẽ thật. Có thể thấy điều này ở đâu? (Thưa, họ thường xuyên nghe giảng, nhưng lại không đưa lẽ thật vào thực hành.) Những người không đưa lẽ thật vào thực hành chắc chắn có tâm tính chán ghét lẽ thật. Một số người thỉnh thoảng có thể đưa một chút lẽ thật vào thực hành, vậy họ có tâm tính chán ghét lẽ thật không? Tâm tính đó cũng có ở những người thực hành lẽ thật, chỉ là mức độ khác nhau. Việc ngươi có thể thực hành lẽ thật không có nghĩa là ngươi không có tâm tính chán ghét lẽ thật. Thực hành lẽ thật không có nghĩa là tâm tính sống của người đã thay đổi ngay lập tức – không phải vậy. Ngươi phải giải quyết vấn đề tâm tính bại hoại của mình, chỉ có như thế mới đạt được sự thay đổi trong tâm tính sống. Thực hành lẽ thật một lần không có nghĩa là ngươi không còn tâm tính bại hoại nữa. Ngươi có thể thực hành lẽ thật trong một lĩnh vực, nhưng chưa hẳn có thể thực hành lẽ thật trong các lĩnh vực khác. Bối cảnh và nguyên nhân liên quan là khác nhau, nhưng điều quan trọng nhất là có tâm tính bại hoại thực sự tồn tại, đó là căn nguyên của vấn đề. Do đó, một khi tâm tính của người ta thay đổi, thì mọi khó khăn, lý do và cái cớ liên quan đến việc thực hành lẽ thật đều sẽ được giải quyết, và tất cả những sự phản nghịch, thiếu sót và khuyết điểm của họ đều sẽ được giải quyết. Nếu tâm tính không thay đổi, người ta sẽ luôn gặp khó khăn trong việc thực hành lẽ thật, và sẽ luôn có những lý do, cái cớ. Nếu ngươi mong muốn có thể thực hành lẽ thật và vâng lời Đức Chúa Trời trong mọi sự, thì trước tiên phải có sự thay đổi trong tâm tính ngươi. Chỉ khi đó ngươi mới có thể giải quyết tận gốc các vấn đề.

Tâm tính chán ghét lẽ thật chủ yếu liên quan đến điều gì? Đầu tiên, chúng ta sẽ thảo luận về một loại tình trạng. Có những người rất thích nghe giảng, và càng nghe thông công về lẽ thật, lòng họ càng sáng tỏ, càng phấn chấn. Họ có thái độ tích cực và cầu tiến. Điều này có thể chứng tỏ họ không có tâm tính chán ghét lẽ thật sao? (Thưa, không thể.) Ví dụ: có những đứa trẻ tầm bảy, tám tuổi rất hứng thú khi nghe về chuyện tin Đức Chúa Trời, và chúng luôn đọc lời Đức Chúa Trời cũng như tham dự các buổi nhóm họp cùng cha mẹ. Thế là có người nói: “Bé này không có tâm tính chán ghét lẽ thật, nó rất thông minh, sinh ra để tin Đức Chúa Trời, nó đã được Đức Chúa Trời tuyển chọn”. Chúng có thể đã được Đức Chúa Trời tuyển chọn, nhưng những lời này chỉ đúng một nửa. Đó là bởi chúng vẫn còn nhỏ, và phương hướng cũng như mục tiêu mưu cầu trong cuộc sống của chúng vẫn chưa định hình. Khi nhân sinh quan và xã hội quan của chúng chưa định hình, thì có thể nói rằng tâm hồn trẻ thơ của chúng yêu những điều tích cực, nhưng ngươi không thể nói rằng chúng không có tâm tính chán ghét lẽ thật. Tại sao Ta lại nói thế? Chúng còn nhỏ tuổi, nhân tính của chúng còn non nớt, chưa có trải nghiệm gì, tầm hiểu biết còn hạn chế, và hoàn toàn không hiểu lẽ thật là gì. Chúng chỉ đơn thuần có lòng thích những điều tích cực. Ngươi không thể nói rằng chúng là người yêu lẽ thật, càng không thể nói chúng có thực tế lẽ thật. Hơn nữa, trẻ con chưa từng trải, nên không ai có thể thấy điều gì ẩn trong lòng chúng và chúng có dạng thực chất bản tính nào. Chỉ vì chúng hứng thú với chuyện tin Đức Chúa Trời và nghe giảng mà xác định rằng chúng là người yêu lẽ thật, thì đấy là biểu hiện của sự vô tri, ngu muội, vì trẻ con không biết lẽ thật là gì, nên không thể nói đến chuyện chúng yêu thích lẽ thật hay chán ghét lẽ thật được. Chán ghét lẽ thật chủ yếu đề cập đến việc không hứng thú và ác cảm với lẽ thật cùng những điều tích cực. Chán ghét lẽ thật là khi người ta có khả năng hiểu lẽ thật và biết thế nào là những điều tích cực, nhưng vẫn đối diện với lẽ thật và những điều tích cực bằng thái độ và tình trạng chống đối, ác cảm, chiếu lệ, qua loa và thờ ơ. Đây là tâm tính chán ghét lẽ thật. Có phải loại tâm tính này tồn tại trong tất cả mọi người không? Có người nói: “Dẫu biết lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, nhưng tôi vẫn không thích, không tiếp nhận, hoặc ít nhất là tôi chưa thể tiếp nhận lời Ngài ngay lúc này được”. Đây là chuyện gì vậy? Đây là chán ghét lẽ thật. Tâm tính bên trong họ không cho phép họ tiếp nhận lẽ thật. Biểu hiện cụ thể của việc không tiếp nhận lẽ thật là gì? Có người nói: “Các lẽ thật tôi hiểu hết, chỉ là tôi không thể đưa chúng vào thực hành”. Điều này tiết lộ rằng đây là người chán ghét lẽ thật và họ không yêu lẽ thật, nên không thể đưa bất kỳ lẽ thật nào vào thực hành. Lại có người nói: “Tôi có thể kiếm được nhiều tiền như vậy là nhờ Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời thật sự đã ban phước cho tôi, Ngài quá tốt với tôi, đã ban cho tôi giàu sang phú quý. Cả gia đình tôi được no ấm, không thiếu cái ăn cái mặc”. Những người này thấy mình được Đức Chúa Trời ban phước thì trong lòng cảm tạ Ngài, biết rằng tất cả những điều này đều do Đức Chúa Trời tể trị, và nếu họ không được Ngài ban phước – nếu họ chỉ dựa vào tài năng của bản thân – thì chắc chắn không có được biết bao tiền tài này. Đây là suy nghĩ thật và nhận thức thật của họ, họ thực sự cảm tạ Đức Chúa Trời. Nhưng đến một ngày, công việc kinh doanh của họ thất bại, cuộc sống khó khăn và họ phải chịu cảnh nghèo đói. Tại sao thế? Bởi vì họ tham hưởng an nhàn, không để tâm đến việc làm sao để thực hiện tốt bổn phận của mình, dành hết thời gian cho việc mưu cầu tiền tài, trở thành nô lệ của đồng tiền, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện bổn phận của mình, và vì thế đã bị Đức Chúa Trời tước đi những thứ này. Trong lòng họ biết rằng Đức Chúa Trời đã ban phước cho họ rất nhiều, đã ban cho họ rất nhiều thứ, nhưng họ lại không có lòng muốn đền đáp tình yêu thương của Đức Chúa Trời, không muốn ra ngoài thực hiện bổn phận, nhút nhát và luôn sợ bị bắt, sợ mất hết tiền tài và sự hưởng thụ này, kết quả là bị Đức Chúa Trời tước đi những thứ này. Lòng họ biết rõ mồn một rằng Đức Chúa Trời đã lấy đi những thứ này khỏi họ, và họ đang bị Đức Chúa Trời sửa dạy. Thế là họ cầu nguyện với Đức Chúa Trời rằng: “Lạy Đức Chúa Trời! Ngài đã ban phước cho con một lần, vậy Ngài có thể ban phước cho con lần nữa. Sự hiện hữu của Ngài là đời đời, nên những phước lành của Ngài cũng song hành cùng nhân loại. Con tạ ơn Ngài! Dù chuyện gì xảy ra, những phước lành và lời hứa của Ngài sẽ không thay đổi. Nếu Ngài lấy đi của con, con vẫn sẽ vâng phục”. Nhưng từ “vâng phục” từ miệng họ nghe sáo rỗng. Miệng nói có thể vâng phục, nhưng sau đó họ lại ngẫm nghĩ và trong lòng thấy không ổn: “Mọi chuyện đã từng rất tốt đẹp. Tại sao Đức Chúa Trời lại lấy đi tất cả? Chẳng phải ở nhà làm bổn phận cũng giống như ra ngoài làm bổn phận sao? Mình đã làm chậm trễ việc gì chứ?”. Họ luôn hoài niệm quá khứ. Họ kiểu như oán giận, bất mãn với Đức Chúa Trời, và thường xuyên cảm thấy chán nản. Trong lòng họ còn có Đức Chúa Trời không? Trong lòng họ chỉ có tiền tài, sự an nhàn và những quãng thời gian tươi đẹp đó. Đức Chúa Trời không hề có chỗ trong lòng họ, không còn là Đức Chúa Trời của họ nữa. Dẫu biết rằng “Đức Chúa Trời ban cho, Đức Chúa Trời lấy đi” là một lẽ thật, nhưng họ lại thích vế “Đức Chúa Trời ban cho” và ghét vế “Đức Chúa Trời lấy đi”. Rõ ràng, việc tiếp nhận lẽ thật của họ là có chọn lọc. Khi Đức Chúa Trời ban phước cho họ, họ tiếp nhận điều đó như là lẽ thật – nhưng ngay khi bị Đức Chúa Trời lấy đi, họ lại không chịu tiếp nhận điều đó. Họ không tiếp nhận những sự sắp đặt như vậy từ Đức Chúa Trời, mà thay vào đó đối kháng và cáu kỉnh. Khi được yêu cầu thực hiện bổn phận, họ nói: “Tôi sẽ làm nếu Đức Chúa Trời ban phước lành và ân điển cho tôi. Không có phước lành của Đức Chúa Trời trong khi tình hình gia đình tôi nghèo khó như vậy, làm sao tôi thực hiện bổn phận của mình được? Tôi không muốn làm!”. Đây là tâm tính gì? Mặc dù trong lòng họ đã trực tiếp trải nghiệm phước lành của Đức Chúa Trời và việc Ngài đã ban cho họ quá nhiều ra sao, nhưng họ vẫn không sẵn lòng tiếp nhận khi bị Đức Chúa Trời lấy đi. Tại sao thế? Bởi vì họ không thể buông bỏ tiền tài và cuộc sống an nhàn của mình. Mặc dù họ có thể không làm ầm lên, không chìa tay ra xin Đức Chúa Trời, và không cố giành lại tài sản trước đây bằng chính nỗ lực của mình, nhưng họ đã trở nên chán nản về hành động của Đức Chúa Trời và hoàn toàn không có khả năng tiếp nhận, họ nói rằng: “Đức Chúa Trời hành động như vậy thật là chẳng quan tâm đến ý muốn của con người. Không thể hiểu nổi. Làm sao tôi có thể tiếp tục tin Đức Chúa Trời được đây? Tôi không còn muốn thừa nhận Ngài là Đức Chúa Trời nữa. Nếu tôi không thừa nhận Ngài là Đức Chúa Trời, thì Ngài không phải là Đức Chúa Trời”. Đây có phải là một loại tâm tính không? (Thưa, phải.) Sa-tan có loại tâm tính này, Sa-tan phủ nhận Đức Chúa Trời như thế này. Loại tâm tính này là loại tâm tính chán ghét lẽ thật và căm ghét lẽ thật. Khi chán ghét lẽ thật đến mức độ này, người ta sẽ đi về đâu? Nó khiến họ đối kháng với Đức Chúa Trời và nó khiến họ ngoan cố đối kháng đến cùng – có nghĩa là họ hoàn toàn tiêu đời.

Chính xác thì tính chất của tâm tính chán ghét lẽ thật là gì? Người chán ghét lẽ thật không yêu những điều tích cực hay bất cứ điều gì Đức Chúa Trời làm. Chẳng hạn như công tác phán xét của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt: không ai muốn tiếp nhận công tác này. Rất ít người sẵn lòng lắng nghe những bài giảng về việc Đức Chúa Trời vạch trần con người, kết tội con người, hành phạt con người, thử luyện và tinh luyện con người, sửa phạt và sửa dạy con người, nhưng họ lại vui mừng khi nghe về việc Đức Chúa Trời ban phước cho con người, khích lệ con người và về những lời hứa của Ngài với con người – không ai từ chối những điều này. Cũng giống như trong Thời đại Ân điển, khi Đức Chúa Trời làm công tác tha thứ, xá tội, ban phước và ban ân điển cho con người, khi Ngài chữa lành người bệnh, trừ quỷ, và ban lời hứa cho con người, thì con người sẵn lòng tiếp nhận, hết thảy họ đều ca ngợi Jêsus vì lòng yêu thương con người bao la của Ngài. Nhưng giờ đây Thời đại Vương quốc đã đến, Đức Chúa Trời thực hiện công tác phán xét và bày tỏ nhiều lẽ thật, thì không ai quan tâm. Cho dù Đức Chúa Trời có vạch trần và phán xét con người như thế nào đi chăng nữa, họ cũng không sẵn lòng tiếp nhận, thậm chí còn thầm nghĩ: “Đức Chúa Trời có thể làm một việc như vậy được sao? Đức Chúa Trời không yêu thương con người sao?”. Nếu bị xử lý, tỉa sửa, hoặc bị sửa phạt, sửa dạy, họ càng có nhiều quan niệm hơn và thầm nghĩ: “Đây mà là tình yêu thương của Đức Chúa Trời sao? Những lời phán xét, kết tội này không hề có chút yêu thương nào, tôi không tiếp nhận. Tôi đâu có ngu đến thế!”. Đây là tâm tính chán ghét lẽ thật. Khi nghe lẽ thật, một số người nói: “Lẽ thật gì? Đây chỉ là lý luận. Nghe có vẻ rất cao quý, rất vĩ đại, rất thánh khiết – nhưng đây chỉ là những lời nghe hay ho”. Chẳng phải đây là tâm tính chán ghét lẽ thật sao? Đây là tâm tính chán ghét lẽ thật. Trong các ngươi, có loại tâm tính chán ghét lẽ thật không? (Thưa, có.) Trong những tình trạng mà Ta vừa đề cập, tình trạng nào các ngươi dễ bị sa vào nhất, thường thấy nhất và hiểu sâu nhất? (Thưa, đó là không muốn gặp khó khăn khi thực hiện bổn phận, không muốn bị Đức Chúa Trời phán xét và hành phạt, muốn mọi việc thuận buồm xuôi gió.) Cự tuyệt sự tể trị của Đức Chúa Trời, cự tuyệt sự sửa dạy và sửa phạt của Đức Chúa Trời, biết rõ Đức Chúa Trời đang làm điều tốt trong chuyện này nhưng vẫn chống đối trong lòng, đây là một loại biểu hiện. Còn gì nữa không? (Thưa, đó là khi chúng con thực hiện bổn phận hiệu quả thì thấy vui mừng, còn khi không hiệu quả thì tiêu cực, yếu đuối và không thể tích cực phối hợp.) Đây là loại biểu hiện gì? (Thưa, cương ngạnh.) Các ngươi phải nói cho chuẩn xác về điều này. Đừng nhầm lẫn và đưa ra khẳng định mù quáng. Đôi khi, những tình trạng của con người rất phức tạp, không chỉ đơn giản là một loại, mà là trộn lẫn hai hoặc ba loại. Khi đó ngươi xác định nó như thế nào? Một tâm tính có khi sẽ bộc lộ trong hai tình trạng, có khi bộc lộ trong ba tình trạng. Dù những tình trạng này khác nhau, nhưng suy cho cùng đó vẫn chỉ là một loại tâm tính. Các ngươi phải hiểu tâm tính chán ghét lẽ thật này, và các ngươi nên tìm hiểu những biểu hiện của việc chán ghét lẽ thật là gì. Như thế, các ngươi sẽ có thể thực sự hiểu tâm tính chán ghét lẽ thật này. Ngươi chán ghét lẽ thật. Ngươi biết rõ rằng điều gì đó là đúng – không nhất thiết phải là lời Đức Chúa Trời hay nguyên tắc lẽ thật, mà đôi khi là điều tích cực, điều đúng đắn, lời nói đúng đắn, lời khuyên đúng đắn – thế nhưng ngươi vẫn nói: “Đây không phải là lẽ thật, mà chỉ đơn giản là những lời đúng đắn. Tôi không muốn nghe – tôi không nghe lời của con người!”. Đây là tâm tính gì? Ở đây có sự kiêu ngạo, cương ngạnh và chán ghét lẽ thật – tất cả những loại tâm tính này đều hiện diện. Mỗi loại tâm tính có thể tạo ra nhiều loại tình trạng. Một tình trạng có thể liên quan đến vài tâm tính khác nhau. Ngươi phải rõ những loại tâm tính nào sinh ra những tình trạng này. Như thế, ngươi sẽ có thể phân định được các loại tâm tính bại hoại khác nhau.

Trong bốn loại tâm tính bại hoại chúng ta vừa thông công, bất kỳ loại nào cũng đủ để kết án tử hình con người – nói thế có quá không? (Thưa, không.) Những tâm tính bại hoại của con người bắt nguồn từ đâu? Tất cả đều bắt nguồn từ Sa-tan. Con người bị nhiễm đủ loại tà thuyết, ngụy biện do Sa-tan, ma quỷ và những danh nhân, vĩ nhân đưa ra, từ đó sinh ra những tâm tính bại hoại khác nhau này. Những tâm tính này tích cực hay tiêu cực? (Thưa, tiêu cực.) Ngươi nói chúng tiêu cực dựa trên cơ sở nào? (Thưa, dựa trên lẽ thật.) Bởi vì những tâm tính này vi phạm lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời, đồng thời đối địch với tâm tính của Đức Chúa Trời và mọi điều Ngài có và là, cho nên nếu có một trong những tâm tính bại hoại này, người ta sẽ trở thành kẻ chống đối Đức Chúa Trời. Nếu người ta có cả bốn tâm tính này, thì phiền toái rồi đấy, họ đã trở thành cừu địch của Đức Chúa Trời, và kết cục chắc chắn là cái chết. Bất kể là tâm tính gì, nếu dùng lẽ thật để đánh giá, ngươi sẽ thấy rằng tính chất mà mỗi tâm tính này biểu hiện đều hướng đến việc chống lại Đức Chúa Trời, chống đối Đức Chúa Trời và đối địch với Đức Chúa Trời. Do đó, nếu tâm tính của ngươi không thay đổi, ngươi sẽ không thể tương hợp với Đức Chúa Trời, ngươi sẽ căm ghét lẽ thật và sẽ là cừu địch của Đức Chúa Trời.

Tiếp theo, chúng ta sẽ nói về loại tâm tính thứ năm. Ta sẽ cho một ví dụ, và các ngươi có thể thử đoán xem đây là loại tâm tính gì. Giả sử hai người đang trò chuyện, và một người nói chuyện quá thẳng thắn khiến người kia mếch lòng. Trong lòng họ nghĩ: “Tại sao anh lại làm tổn thương lòng tự trọng của tôi như vậy? Anh nghĩ tôi để cho anh ức hiếp tôi chắc?”, thế là thù hận nảy sinh trong họ. Trên thực tế, vấn đề này dễ giải quyết. Nếu đã nói điều gì làm tổn thương người khác, chỉ cần người nói xin lỗi người nghe là sự việc sẽ qua đi. Nhưng nếu bên bị xúc phạm không thể bỏ qua chuyện này và đối với họ, “Quân tử báo thù, mười năm chưa muộn”, thì đây là tâm tính gì? (Thưa, ác độc.) Đúng vậy – đây là ác độc, và đây là người có tâm tính hung ác. Trong hội thánh, có những người bị tỉa sửa và xử lý vì không làm tốt bổn phận của mình. Khi tỉa sửa và xử lý ai đó, người ta thường nói ra những lời khiển trách và thậm chí có thể là mắng mỏ. Điều này chắc chắn sẽ khiến họ khó chịu, và họ sẽ muốn tìm lý do bào chữa để phản bác. Họ nói những điều như: “Mặc dù những lời anh xử lý tôi là đúng đắn, nhưng một số lời anh nói thực sự khó nghe, và anh đã làm tôi bẽ mặt, làm tôi đau lòng. Tôi tin Đức Chúa Trời suốt bao năm qua, không có công lao thì cũng có dốc sức – sao lại có thể đối xử với tôi như vậy? Sao anh không xử lý ai khác đi? Tôi không thể tiếp nhận nổi điều này và tôi sẽ không nhân nhượng đâu!”. Đây là một loại tâm tính bại hoại, chẳng phải sao? (Thưa, phải.) Tâm tính bại hoại này chỉ đang biểu hiện thông qua sự oán trách, không phục và đối kháng, nhưng nó vẫn chưa đạt đến đỉnh điểm, chưa đạt đến tột đỉnh, dù đang cho thấy một số dấu hiệu rồi, và nó đã bắt đầu đạt đến điểm chuẩn bị bạo phát rồi. Thái độ của họ ngay sau đó là gì? Họ không thể quy phục, cảm thấy tức tối, không phục và bắt đầu hành động vì thù hằn. Họ bắt đầu nói lý lẽ, biện minh: “Các lãnh đạo và người làm công không phải lúc nào cũng đúng khi xử lý mọi người. Các anh có thể tiếp nhận điều đó, nhưng tôi không thể. Các anh có thể tiếp nhận là bởi vì các anh ngu muội, yếu đuối. Tôi không tiếp nhận! Hãy thảo luận ra ngô ra khoai xem ai đúng ai sai”. Sau đó, mọi người thông công với họ, nói rằng: “Bất kể đúng sai, việc đầu tiên anh phải làm là vâng phục. Chẳng lẽ việc thực hiện bổn phận của anh không có chút tỳ vết nào sao? Anh có làm đúng mọi thứ không? Ngay cả khi anh làm đúng mọi thứ, thì việc bị xử lý vẫn có ích cho anh! Chúng tôi đã thông công về các nguyên tắc với anh rất nhiều lần, mà anh không hề lắng nghe, cứ mù quáng làm theo ý mình, làm nhiễu loạn công tác của hội thánh và gây ra tổn thất to lớn, vậy thì làm sao anh có thể không bị tỉa sửa, xử lý được? Lời lẽ có thể nghiêm khắc, khó nghe, nhưng đó là chuyện bình thường, chẳng phải sao? Vậy anh đang tranh luận về điều gì? Chẳng lẽ cứ để anh làm việc xấu mà không cho phép người khác xử lý anh hay sao?”. Nhưng sau khi nghe xong, họ có thể tiếp nhận việc bị xử lý không? Không. Họ sẽ cứ tiếp tục bào chữa và phản kháng. Họ đã bộc lộ tâm tính gì? Là sự quỷ quyệt; là tâm tính hung ác. Ý họ thực sự là gì? “Trong mắt tôi, chẳng coi ai ra gì. Đừng ai thử động vào một cọng tóc trên đầu tôi. Nếu tôi cho anh thấy không dễ gây chuyện với tôi, sau này anh sẽ không dám xử lý tôi. Chẳng phải khi đó tôi sẽ thắng sao?”. Sao nào? Tâm tính đã bộc phát, phải không? Đây là tâm tính hung ác. Những người có tâm tính hung ác không chỉ chán ghét lẽ thật – mà còn căm ghét lẽ thật! Khi phải chịu sự tỉa sửa, xử lý, họ hoặc cố trốn chạy, hoặc phớt lờ – trong lòng họ mang thù hận cực lớn. Nó không chỉ đơn giản là chuyện đưa ra lời bào chữa, thái độ của họ hoàn toàn không phải vậy. Họ không phục và phản kháng, thậm chí còn cãi lại như một con mụ ngoa ngoắt. Trong lòng họ nghĩ: “Tôi hiểu rằng anh đang cố làm nhục tôi, cố tình làm tôi bẽ mặt. Dù tôi không dám phủ nhận thẳng vào mặt anh, nhưng tôi sẽ tìm cơ hội trả đũa! Anh tưởng anh có thể xử lý tôi và sai khiến tôi sao? Tôi sẽ khiến mọi người đứng về phía tôi, cô lập anh, và sau đó sẽ cho anh phải nếm trải chuyện anh làm với tôi!”. Đây là những gì họ suy nghĩ trong lòng; tâm tính hung ác của họ cuối cùng đã bộc lộ. Để đạt được mục đích của mình và trút giận, họ ra sức bào chữa để biện minh cho bản thân và khiến mọi người đứng về phía mình. Chỉ khi đó họ mới vui lòng và nguôi ngoai. Đây là ác độc, chẳng phải sao? Đây là tâm tính hung ác. Khi chưa bị tỉa sửa hay xử lý, những người như vậy giống như cừu non. Khi họ phải chịu sự tỉa sửa, xử lý, hoặc khi con người thật của họ bị vạch trần, họ lập tức từ cừu non biến thành sói ác độc, và bộc lộ sự lang sói của mình. Đây là tâm tính hung ác, chẳng phải sao? (Thưa, phải.) Vậy tại sao bình thường nó không hiển lộ? (Thưa, bởi vì họ chưa bị khiêu khích.) Đúng vậy, họ chưa bị động chạm và lợi ích của họ chưa bị đe dọa. Giống như khi sói không đói sẽ không ăn thịt ngươi, thì liệu ngươi có thể nói rằng nó không phải là sói không? Nếu ngươi đợi cho đến khi nó cố ăn thịt ngươi mới gọi nó là sói thì đã quá muộn, chẳng phải sao? Ngay cả khi nó không cố ăn thịt ngươi, ngươi vẫn phải luôn cảnh giác. Sói không ăn thịt ngươi không có nghĩa là nó không muốn ăn thịt ngươi, chỉ là chưa đến lúc – và khi đến lúc, bản tính lang sói của nó sẽ trỗi dậy. Bị tỉa sửa và xử lý phơi bày từng loại người. Có người thầm nghĩ: “Tại sao chỉ có mình mình bị xử lý? Tại sao cứ luôn chọn mình? Họ coi mình là người dễ bị ức hiếp sao? Tôi không phải là loại người để cho các người gây sự đâu!”. Đây là tâm tính gì? Làm sao họ có thể là người duy nhất bị xử lý được? Sự thật đâu phải vậy. Trong các ngươi, ai chưa từng bị xử lý hoặc tỉa sửa? Ai cũng từng bị rồi. Đôi khi, những lãnh đạo và người làm công tùy ý và tùy tiện trong công tác, hoặc không thực hiện theo sự sắp xếp công việc – hầu hết họ đều bị xử lý, tỉa sửa. Làm như vậy là để bảo vệ công tác của hội thánh và ngăn mọi người tự tung tự tác, chứ không phải để nhắm vào bất kỳ cá nhân cụ thể nào. Những điều họ nói rõ ràng là bóp méo sự thật, và đây cũng là biểu hiện của tâm tính hung ác.

Tâm tính hung ác còn có biểu hiện theo những cách nào khác? Nó liên quan thế nào đến việc chán ghét lẽ thật? Trên thực tế, khi việc chán ghét lẽ thật biểu hiện một cách nghiêm trọng, mang tính chất chống đối và phán xét, thì đó là bộc lộ tâm tính hung ác. Chán ghét lẽ thật bao gồm một số tình trạng, từ không hứng thú với lẽ thật cho đến chán ghét lẽ thật, tiến tới phán xét Đức Chúa Trời và lên án Đức Chúa Trời. Khi chán ghét lẽ thật đến một mức độ nhất định, người ta có thể phủ nhận Đức Chúa Trời, thù hận Đức Chúa Trời và đối địch Đức Chúa Trời. Một số tình trạng này là tâm tính hung ác, chẳng phải sao? (Thưa, phải.) Do đó, những người chán ghét lẽ thật thậm chí còn có một tình trạng nghiêm trọng hơn, và bên trong đó là một loại tâm tính: tâm tính hung ác. Chẳng hạn như một số người thừa nhận rằng mọi sự đều do Đức Chúa Trời tể trị, nhưng bị khi Đức Chúa Trời lấy đi, khi lợi ích của mình bị thiệt hại, thì dù bề ngoài họ không oán giận hay phản kháng, nhưng trong lòng họ không tiếp nhận hay quy phục. Thái độ của họ là thụ động ngồi chờ bị diệt vong – đó rõ ràng là tình trạng chán ghét lẽ thật. Ngoài ra còn có một tình trạng khác thậm chí còn nghiêm trọng hơn: họ không thụ động ngồi chờ bị diệt vong, mà thay vào đó đối kháng với sự an bài và sắp đặt của Đức Chúa Trời, đối kháng với việc bị Đức Chúa Trời lấy đi. Họ đối kháng như thế nào? (Thưa, bằng cách gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh, hoặc bằng cách ngầm phá hoại, cố gắng thiết lập vương quốc của riêng mình.) Đó là một hình thức. Có một số lãnh đạo hội thánh sau khi bị thay thế, thì luôn làm gián đoạn nhiễu loạn đời sống hội thánh, người lãnh đạo mới được chọn nói gì, họ cũng chống đối, không phục, và họ cố phá hoại lãnh đạo mới sau lưng. Đây là tâm tính gì? Đây là tâm tính hung ác. Điều họ thực sự đang suy nghĩ là: “Nếu tôi không được làm lãnh đạo, thì cũng không ai khác được giữ vị trí này, tôi sẽ tống họ đi hết! Nếu tôi buộc anh phải đi, tôi sẽ lại làm lãnh đạo như trước!”. Đây không chỉ đơn giản là chán ghét lẽ thật, mà là hung ác! Tranh giành địa vị, tranh giành địa bàn, tranh giành tư lợi và danh tiếng, không từ thủ đoạn nào để trả thù, làm mọi việc có thể, vận dụng mọi năng lực của mình, làm mọi thứ có thể để đạt được mục đích của mình, để cứu vãn danh tiếng, thể diện và địa vị của mình, hoặc để thỏa mãn mong muốn trả thù của mình – tất cả đều là biểu hiện của hung ác. Một số hành vi của tâm tính hung ác bao gồm nói nhiều điều gây nhiễu loạn và gián đoạn, làm nhiều điều xấu xa để đạt được mục đích của mình. Mọi lời nói hay hành động của người này đều không phù hợp với với lẽ thật, vi phạm lẽ thật, và tất cả đều là sự bộc lộ của tâm tính hung ác. Một số người không có khả năng phân định những điều này. Nếu lời nói hoặc hành vi sai trái chưa thể hiện rõ ràng, thì họ không thể nhìn ra được nó. Nhưng đối với những người hiểu lẽ thật, mọi điều kẻ ác nói và làm đều tà ác và không bao giờ có thể chứa đựng bất cứ điều gì đúng đắn hay phù hợp với lẽ thật; những điều kẻ ác nói và làm này có thể nói là tà ác 100% và hoàn toàn là sự bộc lộ của tâm tính hung ác. Trước khi kẻ ác bộc lộ tâm tính hung ác này, ý định của họ là gì? Họ đang cố gắng đạt được những dạng mục đích nào? Họ có thể làm những điều như vậy bằng cách nào? Các ngươi có thể phân định được không? Ta sẽ cho các ngươi một ví dụ. Có người có chuyện ở nhà mình. Nhà họ bị con rồng lớn sắc đỏ giám sát và họ không thể về nhà, vì thế mà vô cùng đau khổ. Một số anh chị em tiếp đón họ đến ở, và khi thấy mọi thứ thật tốt đẹp trong nhà của chủ nhà, họ thầm nghĩ: “Sao nhà anh không có chuyện gì nhỉ? Sao nhà tôi lại bị? Thật bất công. Không được, tôi phải nghĩ cách khiến nhà anh có chuyện, khiến anh không thể về nhà. Tôi sẽ cho anh nếm mùi đau khổ mà tôi phải chịu đựng”. Bất kể họ có làm gì hay không, bất kể điều này có trở thành hiện thực hay không, hoặc họ có đạt được mục đích của mình hay không, thì họ vẫn có kiểu ý định này. Đây là một loại tâm tính, chẳng phải sao? (Thưa, phải.) Nếu không thể có cuộc sống tốt đẹp, họ cũng sẽ không để cho người khác có cuộc sống tốt đẹp. Đây là tâm tính gì? (Thưa, là ác độc.) Tâm tính hung ác – người này quá xấu xa! Nói theo tục ngữ là họ đã mục nát đến tận xương tủy. Câu này mô tả đúng mức độ hung ác của họ. Tính chất của một tâm tính như vậy là gì? Hãy thử mổ xẻ xem động cơ, ý định và mục đích của họ là gì khi tâm tính này bộc lộ nơi họ? Xuất phát điểm của việc họ bộc lộ tâm tính này là gì? Họ mong muốn đạt được điều gì? Nhà của họ xảy ra chuyện, và họ đang được chu cấp đầy đủ tại nhà của chủ nhà – vậy tại sao họ lại muốn phá rối? Hay là họ chỉ vui khi phá rối chủ nhà, để nhà chủ nhà cũng xảy ra chuyện và chủ nhà cũng không thể quay về? Vì lợi ích của chính mình, đáng ra họ nên bảo vệ nơi này, ngăn không cho nơi này xảy ra chuyện, và không nên làm hại chủ nhà, vì làm hại chủ nhà cũng chính là làm hại bản thân mình. Vậy chính xác thì mục đích của họ khi muốn làm như vậy là gì? (Thưa, khi mọi thứ không suôn sẻ với họ, họ cũng không muốn mọi thứ suôn sẻ với bất kỳ ai khác.) Đây gọi là hung ác. Điều họ đang suy nghĩ là: “Nhà tôi đã bị con rồng lớn sắc đỏ phá hủy và giờ đây tôi không có nhà. Nhưng anh vẫn có nhà, có thể về nhà để hưởng thụ hơi ấm gia đình. Thật bất công. Tôi không thể đứng nhìn anh có thể về nhà được. Tôi sẽ dạy cho anh một bài học. Tôi sẽ khiến cho anh không thể về nhà để anh cũng giống như tôi. Vậy tôi mới thấy công bằng”. Làm như thế chẳng phải là lòng dạ bất lương, bụng dạ bất chính sao? Đây là tính chất gì? (Thưa, là hung ác.) Mọi điều kẻ ác nói và làm đều là để đạt được mục đích. Họ thường làm những việc kiểu như thế nào? Người có tâm tính hung ác hay làm những việc gì nhất? (Thưa, họ gây gián đoạn, nhiễu loạn và phá hoại công tác của hội thánh.) (Thưa, trước mặt người ta thì họ cố lấy lòng, nhưng sau lưng thì họ ngầm phá hoại người ta.) (Thưa, họ đả kích mọi người, hay trả thù và công kích người khác một cách ác ý.) (Thưa, họ lan truyền những tin đồn và vu khống.) (Thưa, họ nói xấu, phán xét và lên án người khác.) Tính chất của những hành động này là làm nhiễu loạn và phá hoại công tác của hội thánh, và tất cả đều là những biểu hiện của sự chống đối và công kích Đức Chúa Trời, tất cả đều là sự bộc lộ của tâm tính hung ác. Người có khả năng làm những điều này chắc chắn là kẻ ác, và tất cả những ai có một số biểu hiện nhất định của tâm tính hung ác đều có thể được xác định là kẻ ác. Thực chất của kẻ ác là gì? Là ma quỷ, là Sa-tan. Nói như vậy không quá chút nào. Các ngươi có khả năng thực hiện những hành động này không? Những hành động nào trong số này các ngươi có khả năng thực hiện? (Thưa, phán xét.) Vậy ngươi có dám đả kích hay trả thù người ta không? (Thưa, đôi khi con thực sự có những kiểu suy nghĩ này, nhưng không dám thực hiện.) Các ngươi chỉ có những suy nghĩ này, nhưng không dám thực hiện. Nếu có người địa vị thấp hơn làm tổn hại ngươi, ngươi có dám trả thù không? (Thưa, đôi khi con sẽ dám trả thù, con có khả năng làm những việc như vậy.) Nếu người này thực sự ghê gớm – nếu họ rất hoạt ngôn, và họ làm tổn hại ngươi – thì ngươi có dám trả thù không? Có lẽ chỉ một số ít người mới không e ngại khi trả thù. Những người như thế này, ức hiếp kẻ yếu nhưng lại sợ kẻ mạnh, thì có tâm tính hung ác không? (Thưa, có.) Bất kể là cách hành động như thế nào và nhằm vào ai, nếu ngươi có khả năng thực hiện việc ác là trả đũa anh chị em khác, thì chứng tỏ có tâm tính hung ác trong ngươi. Tâm tính hung ác này bề ngoài trông không mấy khác biệt, nhưng ngươi phải có khả năng nhận biết nó và ngươi phải có khả năng nhận biết mình đang nhằm vào ai. Nếu ngươi dữ dằn với Sa-tan và ngươi có thể khuất phục, hạ nhục nó, thì đây có được coi là tâm tính hung ác không? Không. Đây là đứng lên bảo vệ lẽ phải và dũng cảm đối mặt với kẻ thù. Đây là có ý thức chính nghĩa. Vậy trong những trường hợp nào sẽ bị xem là tâm tính hung ác? Nếu ngươi ức hiếp, chà đạp và hạ nhục người tốt hoặc anh chị em, thì đây là tâm tính hung ác. Vì vậy, ngươi phải có lương tâm và lý trí, đối xử con người và sự việc có nguyên tắc, có khả năng phân định kẻ ác và ma quỷ, có ý thức chính nghĩa, bao dung và nhẫn nại với những người được Đức Chúa Trời chọn và các anh chị em, và thực hành phù hợp với lẽ thật. Như vậy là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời. Người có tâm tính hung ác không đối xử với mọi người theo những nguyên tắc như thế này. Nếu có người, bất kể là ai, làm điều gì gây tổn hại cho họ, họ sẽ tìm cách trả thù – đây là hung ác. Kẻ ác hành động không có nguyên tắc, không mưu cầu lẽ thật. Dù là hành động vì tư thù, ức hiếp kẻ yếu và sợ kẻ mạnh, hay dám trả thù bất kỳ ai, tất cả đều thuộc về tâm tính hung ác, và tất cả đều cấu thành tâm tính bại hoại. Đây là điều chắc chắn.

Biểu hiện rõ nhất của người có tâm tính hung ác là gì? Đó là khi gặp người thật thà, dễ ức hiếp, họ sẽ bắt đầu ức hiếp và đùa giỡn với người ta. Đây là hiện tượng thường thấy. Khi một người tương đối tốt bụng gặp một người thật thà, nhút nhát, họ sẽ động lòng trắc ẩn, và cho dù không giúp được gì, họ cũng sẽ không ức hiếp người ta. Khi ngươi thấy trong các anh chị em của mình, có một người thật thà, ngươi sẽ đối xử với họ như thế nào? Ngươi có ức hiếp hay trêu chọc họ không? (Thưa, có lẽ con sẽ coi thường họ.) Coi thường người khác là một cách nhìn nhận về họ, nhận định về họ, là một lối suy nghĩ, nhưng cách ngươi hành động và nói chuyện với họ liên quan đến tâm tính của ngươi. Nói Ta nghe, các ngươi hành động như thế nào với những người rụt rè, nhút nhát? (Thưa, con sai khiến và ức hiếp họ.) (Thưa, khi thấy họ làm sai bổn phận của mình, con kỳ thị và bài xích họ.) Những điều các ngươi đề cập là những biểu hiện của tâm tính hung ác và liên quan đến tâm tính của con người. Còn nhiều biểu hiện khác nữa, vì vậy không cần phải đi vào chi tiết về chúng. Các ngươi đã bao giờ gặp một người như thế này, muốn bất cứ ai xúc phạm mình đều phải chết, thậm chí còn cầu nguyện xin Đức Chúa Trời rủa sả họ, quét sạch họ khỏi mặt đất? Dù không con người nào có quyền năng như vậy, nhưng trong lòng họ nghĩ nếu họ làm được thì tốt biết bao, nếu không thì họ cầu nguyện xin Đức Chúa Trời làm vậy. Các ngươi có những suy nghĩ như vậy trong lòng không? (Thưa, khi chúng con rao truyền Phúc Âm và gặp phải kẻ ác tấn công và trình báo cảnh sát, con cảm thấy căm ghét họ và có những suy nghĩ như “sẽ đến ngày các người bị Đức Chúa Trời trừng phạt”.) Đó hoàn toàn là một trường hợp khách quan. Ngươi bị tấn công, ngươi chịu khổ, trong lòng đau đớn, nhân cách và lòng tự trọng của ngươi bị chà đạp tột cùng – trong những hoàn cảnh như vậy, hầu hết mọi người sẽ khó vượt qua. (Thưa, một số người lan truyền tin đồn về hội thánh của chúng ta trên mạng và đưa ra nhiều cáo buộc, khiến con thực sự tức giận khi đọc được và thấy rất hận thù trong lòng.) Đây có phải là sự hung ác không, hay là sự nóng nảy, hay đây là nhân tính bình thường? (Thưa, đó là nhân tính bình thường. Không ghét ma quỷ và cừu địch của Đức Chúa Trời mới không phải là nhân tính bình thường.) Đúng vậy. Đây là sự bộc lộ, biểu hiện và phản ứng của nhân tính bình thường. Nếu người ta không ghét những điều tiêu cực và không yêu những điều tích cực, nếu người ta không có những tiêu chuẩn của lương tâm, thì họ không phải là người. Trong những trường hợp này, người ta có thể thực hiện những hành động nào để phát triển thành tâm tính hung ác? Nếu sự thù hận và ghê tởm này diễn biến thành một loại hành vi nhất định, nếu ngươi mất hết lý trí, và hành động của ngươi vượt ra khỏi ranh giới của nhân tính, nếu ngươi thậm chí có khả năng giết họ và vi phạm pháp luật, thì đây là sự hung ác, là hành động một cách nóng nảy. Khi người ta hiểu lẽ thật, có khả năng phân định kẻ ác và khinh ghét cái ác, thì đây là nhân tính bình thường. Nhưng nếu người ta xử lý mọi việc một cách nóng nảy, thì họ đang hành động vô nguyên tắc. Như thế có gì khác với làm việc ác không? (Thưa, có.) Có sự khác biệt. Nếu ai đó cực kỳ tồi tệ, cực kỳ hung ác, cực kỳ xấu xa, cực kỳ vô đạo đức, và ngươi cảm thấy vô cùng ác cảm với họ, rồi ác cảm này lên đến mức ngươi cầu xin Đức Chúa Trời rủa sả họ, thì không sao cả. Nhưng nếu ngươi đã cầu nguyện hai, ba lần mà Đức Chúa Trời không hành động, rồi ngươi tự ra tay, thì có ổn không? (Thưa, không.) Ngươi có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời và bày tỏ những quan điểm, cách nhìn nhận của mình, sau đó tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật, như thế ngươi sẽ có thể xử lý đúng đắn mọi việc. Nhưng ngươi không được đòi hỏi hoặc cố ép Đức Chúa Trời phải trả đũa thay cho mình, càng không được để sự nóng nảy khiến mình làm điều ngu xuẩn. Ngươi nên tiếp cận chuyện đó một cách lý tính, nên nhẫn nại, chờ đợi thời điểm của Đức Chúa Trời và cầu nguyện với Đức Chúa Trời nhiều hơn. Phải thấy được cách Đức Chúa Trời hành động khôn ngoan với quỷ Sa-tan, như vậy, ngươi có thể nhẫn nại. Có lý tính nghĩa là phó thác tất cả những chuyện này cho Đức Chúa Trời và để Ngài hành động. Đây là điều loài thọ tạo nên làm. Đừng hành động vì nóng nảy. Hành động vì nóng nảy là điều không thể chấp nhận được đối với Đức Chúa Trời và bị Ngài kết tội. Những lúc như vậy, tâm tính bộc lộ ở người ta không phải là sự yếu đuối của nhân tính hay cảm xúc tức giận thoáng qua, mà là tâm tính hung ác. Một khi nó đã được xác định là tâm tính hung ác, thì ngươi sẽ gặp phiền toái và không dễ được cứu rỗi. Đó là bởi vì khi có tâm tính hung ác, người ta có khả năng hành động trái với lương tâm và lý trí, và rất dễ vi phạm pháp luật cũng như các sắc lệnh quản lý của Đức Chúa Trời. Vậy làm thế nào để có thể tránh được điều này? Tối thiểu, có ba ranh giới không được vượt qua: thứ nhất là không được làm những việc trái với lương tâm và lý trí, thứ hai là không được vi phạm pháp luật, và thứ ba là không được vi phạm các sắc lệnh quản trị của Đức Chúa Trời. Ngoài ra, đừng làm bất kỳ điều gì cực đoan hoặc bất kỳ điều gì làm nhiễu loạn công tác của hội thánh. Nếu ngươi tuân theo những nguyên tắc này, thì ít nhất sự an toàn của ngươi sẽ được đảm bảo, và ngươi sẽ không bị đào thảo. Nếu ngươi phản kháng một cách cực kỳ hung ác khi bị tỉa sửa và xử lý vì đã phạm đủ loại điều ác, thì càng nguy hiểm hơn nữa. Ngươi sẽ dễ trực tiếp xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời và bị thanh trừ hoặc khai trừ khỏi hội thánh. Sự trừng phạt đối với việc xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời nghiêm khắc hơn nhiều so với việc vi phạm pháp luật – đó là một số phận sống không bằng chết. Vi phạm pháp luật cùng lắm là dẫn đến án tù; vài năm cực khổ và ngươi được ra tù, vậy thôi. Nhưng nếu xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời, ngươi sẽ phải chịu sự trừng phạt đời đời. Vì vậy, nếu người có tâm tính hung ác mà lại không có lý tính thì sẽ gặp nguy hiểm cao độ, họ rất dễ làm việc ác, và chắc chắn sẽ bị trừng phạt và chịu quả báo. Nếu người ta có chút lý tính, có khả năng tìm kiếm và quy phục lẽ thật, có thể kiềm chế để không làm quá nhiều việc ác, thì họ hoàn toàn có hy vọng được cứu rỗi. Điều cốt yếu đối với con người là phải có lý tính và lý trí. Người có lý trí dễ tiếp nhận lẽ thật và đối diện với việc bị tỉa sửa, xử lý một cách đúng đắn. Người không có lý trí sẽ gặp nguy hiểm khi bị tỉa sửa và xử lý. Ví dụ như, giả sử có người rất tức giận sau khi bị lãnh đạo xử lý và tỉa sửa. Họ cảm thấy muốn lan truyền tin đồn và công kích người lãnh đạo đó, nhưng không dám làm vì sợ rắc rối. Tuy nhiên, một tâm tính như vậy đã tồn tại trong lòng họ, và rất khó nói liệu họ có hành động theo nó hay không. Chỉ cần loại tâm tính này còn trong lòng người ta, chỉ cần những ý nghĩ này còn tồn tại, thì dù họ có thể không hành động theo nó, nhưng họ đã gặp nguy hiểm rồi. Khi hoàn cảnh cho phép – khi có cơ hội – họ có thể hành động. Chừng nào tâm tính hung ác của họ còn tồn tại, nếu nó không được giải quyết, thì sớm muộn gì họ cũng sẽ làm việc ác. Vậy người ta còn bộc lộ tâm tính hung ác trong những tình huống nào khác nữa? Nói Ta nghe. (Thưa, con làm chiếu lệ trong bổn phận của mình và không đạt được kết quả gì. Rồi con bị lãnh đạo cách chức theo nguyên tắc, và con cảm thấy không phục. Sau đó, khi con thấy anh ta bộc lộ một tâm tính bại hoại, con đã nghĩ đến chuyện viết đơn tố cáo anh ta.) Suy nghĩ này có tự nhiên xuất hiện không? Chắc chắn là không. Nó sinh ra bởi bản tính của ngươi. Bản tính của con người sớm muộn gì cũng bộc lộ, còn nó bộc lộ và chuyển thành hành động trong trường hợp nào hay bối cảnh nào thì không biết được. Đôi khi người ta không làm gì cả, nhưng đó là do hoàn cảnh không cho phép. Tuy nhiên, nếu là người mưu cầu lẽ thật, họ sẽ có thể tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chuyện này. Nếu không phải là người mưu cầu lẽ thật, họ sẽ làm theo ý thích của mình, và ngay khi hoàn cảnh cho phép, họ sẽ làm việc ác. Do đó, nếu tâm tính bại hoại không được giải quyết, con người sẽ cực dễ tự chuốc họa vào thân, và trong trường hợp đó, họ sẽ phải gặt lấy những gì mình đã gieo. Có những người không mưu cầu lẽ thật và luôn chiếu lệ trong việc thực hiện bổn phận của mình. Họ không tiếp nhận khi bị tỉa sửa và xử lý, không bao giờ ăn năn, và cuối cùng bị cách ly để phản tỉnh. Có những người bị thanh trừ khỏi hội thánh vì liên tục làm nhiễu loạn đời sống hội thánh và trở thành “con sâu làm rầu nồi canh”; lại có những người bị khai trừ vì làm đủ loại điều ác. Vì vậy, bất kể là loại người nào, nếu người ta thường xuyên bộc lộ tâm tính bại hoại và không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tâm tính này, thì họ dễ làm việc ác. Tâm tính bại hoại của nhân loại không chỉ gồm có sự kiêu ngạo, mà còn có cả sự tà ác và hung ác. Kiêu ngạo và hung ác chỉ là những yếu tố phổ biến.

Vậy đối với vấn đề bộc lộ tâm tính hung ác, nên giải quyết như thế nào? Con người phải nhận thức được tâm tính bại hoại của mình là gì. Có người tâm tính đặc biệt hung ác, ác độc và kiêu ngạo, hoàn toàn không kiêng nể gì. Đây là bản tính của kẻ ác, và những người này nguy hiểm nhất trên đời. Khi những người như vậy nắm quyền, thì ma quỷ nắm quyền, Sa-tan nắm quyền. Trong nhà Đức Chúa Trời, phàm là kẻ ác thì đều bị vạch trần và đào thải vì đã thực hiện đủ loại việc ác. Khi ngươi cố gắng thông công về lẽ thật với kẻ ác, hoặc tỉa sửa và xử lý họ, thì khả năng cao là họ sẽ công kích ngươi, phán xét ngươi hoặc thậm chí trả thù ngươi, tất cả đều là do tâm tính quá ác độc của họ. Trên thực tế, chuyện này rất phổ biến. Chẳng hạn như có hai người rất hợp nhau, rất quan tâm và thấu hiểu nhau – nhưng cuối cùng họ lại chia rẽ chỉ vì một vấn đề liên quan đến lợi ích, và họ cắt đứt quan hệ với nhau. Có những người thậm chí trở thành kẻ thù và cố trả thù nhau. Họ đều rất hung ác. Đối với những người đang thực hiện bổn phận của mình, các ngươi có để ý thấy những điều gì biểu hiện và bộc lộ ở họ thuộc về tâm tính hung ác không? Chắc chắn là có, và các ngươi phải khai quật chúng lên. Nó sẽ giúp các ngươi phân định và nhận thức được những điều này. Nếu không biết khai quật và phân định chúng, các ngươi sẽ không bao giờ có thể phân định được kẻ ác. Có người bị những kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và khống chế, sự sống bị tổn hại, khi đó họ mới biết thế nào là kẻ địch lại Đấng Christ và thế nào là tâm tính hung ác. Hiểu biết của các ngươi về lẽ thật còn quá nông cạn. Hiểu biết của các ngươi về hầu hết lẽ thật chỉ dừng lại ở mức độ một vài câu nói hoặc câu chữ, hoặc các ngươi chỉ hiểu câu chữ giáo lý, căn bản không khớp với thực tế. Sau khi nghe nhiều bài giảng, trong lòng ngươi dường như hiểu ra và có sự sáng; nhưng khi đối mặt với thực tế, ngươi vẫn không thể phân định được sự việc. Về mặt lý thuyết mà nói, các ngươi đều biết những biểu hiện của kẻ địch lại Đấng Christ là gì, nhưng khi nhìn vào một kẻ địch lại Đấng Christ thực sự, các ngươi lại không thể phân định được họ là kẻ địch lại Đấng Christ. Đó là bởi vì các ngươi có quá ít trải nghiệm. Khi ngươi đã trải nghiệm nhiều hơn, khi ngươi đã chịu đủ tổn hại do những kẻ địch lại Đấng Christ gây ra, thì ngươi sẽ hoàn toàn có khả năng phân định được con người thật của họ. Hiện nay, tuy đa số mọi người chăm chú nghe giảng trong các cuộc nhóm họp và muốn phấn đấu để đạt được lẽ thật, nhưng sau khi nghe giảng, họ chỉ hiểu nghĩa đen, không đi xa hơn cấp độ giáo lý, và không có khả năng trải nghiệm thực tế lẽ thật. Vì vậy, việc bước vào thực tế lẽ thật của họ rất hời hợt, có nghĩa là họ không biết phân định kẻ ác và kẻ địch lại Đấng Christ. Kẻ địch lại Đấng Christ có thực chất của kẻ ác, nhưng ngoài những kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác, những người khác không có tâm tính hung ác sao? Trên thực tế, không có người tốt. Khi không có chuyện gì, ai cũng tươi cười, nhưng khi gặp phải chuyện gì tổn hại đến lợi ích của bản thân, họ sẽ đổi bộ mặt xấu xa. Đây là tâm tính hung ác. Tâm tính hung ác này có thể bộc lộ bất cứ lúc nào; dù không muốn vẫn cứ bị vậy. Vậy chính xác thì đây là chuyện gì? Có phải là bị tà linh ám không? Hay là do ma quỷ đầu thai? Nếu là một trong hai trường hợp này, thì người đó có thực chất của kẻ ác và vô phương cứu chữa. Nếu thực chất của họ không phải là kẻ ác mà chỉ là họ có tâm tính bại hoại này, thì đây không phải là bệnh nan y, và nếu họ có thể tiếp nhận lẽ thật, thì vẫn còn hy vọng được cứu rỗi. Vậy làm thế nào để giải quyết tâm tính hung ác, bại hoại? Đầu tiên, khi gặp chuyện, ngươi phải thường xuyên cầu nguyện và phản tỉnh xem mình có những ý định và ham muốn nào. Ngươi phải tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời và luôn kiểm soát hành vi của mình. Ngoài ra, ngươi không được bộc lộ bất kỳ lời nói hay việc làm tà ác nào. Nếu thấy mình có những ý định sai trái và ác tâm, muốn làm việc xấu, thì phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết nó, phải tìm những lời liên quan của Đức Chúa Trời để biết và giải quyết vấn đề này, phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời, cầu xin Ngài bảo vệ, thề nguyện với Đức Chúa Trời, và khi mình không tiếp nhận lẽ thật và làm việc ác thì phải nguyền rủa chính mình. Thông công với Đức Chúa Trời như thế này sẽ giúp mình được bảo vệ và ngăn mình hành ác. Nếu người ta gặp chuyện và nảy sinh ác tâm, nhưng không để ý đến, cứ để mọi việc diễn ra theo tự nhiên, hoặc mặc định cho rằng đây là cách mình nên hành động, thì họ là kẻ ác, và không phải là người thật tâm tin Đức Chúa Trời và yêu lẽ thật. Người như vậy mà vẫn còn muốn tin và đi theo Đức Chúa Trời, vẫn còn muốn được ban phước và bước vào thiên quốc – liệu có thể được không? Họ đang nằm mơ mà thôi. Loại tâm tính thứ năm là hung ác. Đây cũng là một vấn đề liên quan đến các tâm tính bại hoại, và chủ đề này ít nhiều có vậy thôi.

Các ngươi cũng nên nắm rõ loại tâm tính bại hoại thứ sáu, là tà ác. Trước hết, chúng ta sẽ nói về chuyện rao giảng Phúc Âm. Có những người bộc lộ tâm tính tà ác khi rao giảng Phúc Âm. Họ không rao giảng theo nguyên tắc, cũng không biết loại người nào yêu lẽ thật và có nhân tính; mà chỉ chăm chăm tìm người khác giới tâm đầu ý hợp, người mà họ thích và thấy hợp. Với những người họ không thích hoặc không hợp thì họ không rao giảng. Bất kể người ta có phù hợp các nguyên tắc rao giảng Phúc Âm hay không – chỉ cần là người họ thấy hứng thú thì họ sẽ không từ bỏ. Người khác bảo họ rằng người đó không phù hợp với các nguyên tắc rao giảng Phúc Âm, nhưng họ vẫn nhất quyết rao giảng cho người đó. Có một tâm tính bên trong chi phối hành động của họ, khiến họ lấy danh nghĩa rao giảng Phúc Âm mà thỏa mãn ham muốn dâm dật và mục đích riêng của mình. Đây tuyệt đối là tâm tính tà ác. Thậm chí có những người biết rõ mình làm vậy là sai, là đắc tội với Đức Chúa Trời và vi phạm các sắc lệnh quản trị của Ngài, nhưng họ vẫn không dừng lại. Đây là một loại tâm tính, chẳng phải sao? (Thưa, phải.) Đây là một trong những biểu hiện của tâm tính tà ác, nhưng không chỉ có sự bộc lộ của ham muốn dâm dật được xem là tà ác; phạm vi của tà ác rộng hơn, chứ không chỉ là tình dục của xác thịt. Thử nghĩ xem tâm tính tà ác còn có những biểu hiện nào nữa? Vì nó là một tâm tính, nên nó không chỉ là một lối hành động, mà cần có nhiều tình trạng, biểu hiện và sự bộc lộ khác nhau để xác định nó như một tâm tính. (Thưa, chạy theo trào lưu thế gian, không buông bỏ những thứ liên quan đến trào lưu thế gian.) Không buông bỏ trào lưu tà ác là một kiểu. Họ bám chặt không buông, đeo đuổi không bỏ, đặc biệt hứng thú, đặc biệt nhiệt tâm chạy theo những trào lưu tà ác của thế gian, bất kể được thông công lẽ thật như thế nào, bất kể bị tỉa sửa và xử lý ra sao, họ vẫn không bao giờ buông bỏ chúng; thậm chí còn ham mê đến cuồng dại. Đây là tà ác. Vậy khi người ta chạy theo trào lưu tà ác, những biểu hiện nào cho thấy họ có tâm tính tà ác? Tại sao họ lại yêu thích những thứ này? Điều gì trong những trào lưu thế gian tà ác này mang lại cho họ sự thỏa mãn về tâm lý, thỏa mãn những yêu cầu của họ và thỏa mãn những sở thích và dục vọng của họ? Ví dụ: giả sử họ thích các ngôi sao điện ảnh: điều gì ở những ngôi sao điện ảnh này khiến họ si mê và chạy theo người ta đến thế? Đó là điệu bộ, phong cách, ngoại hình và danh tiếng của những người này, cũng như kiểu cuộc sống xa hoa mà người thích các ngôi sao điện ảnh hằng mơ ước. Có phải tất cả những điều họ chạy theo này đều tà ác không? (Thưa, phải.) Tại sao lại nói chúng tà ác? (Thưa, bởi vì chúng đi ngược lại lẽ thật và những điều tích cực, không phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời.) Đây là giáo lý. Thử phân tích những người nổi tiếng và ngôi sao điện ảnh này: lối sống, cung cách, thậm chí cả phong cách và trang phục của họ mà ai cũng rất tôn sùng. Tại sao họ sống cuộc sống như vậy? Và tại sao họ khiến những người khác chạy theo mình? Họ đã đổ rất nhiều công sức cho mọi chuyện này. Họ có chuyên gia trang điểm và nhà tạo mẫu riêng để tạo nên hình tượng này của mình. Vậy thì khi tạo ra hình tượng này của bản thân, mục đích của họ là gì? Để thu hút, mê hoặc mọi người, khiến mọi người chạy theo mình – và từ đó hưởng lợi. Cho nên cho dù mọi người tôn sùng danh tiếng, ngoại hình hay cuộc sống của những ngôi sao điện ảnh này, thì đó thực sự đều là những hành động ngu xuẩn, lố bịch. Nếu có lý tính, làm sao người ta lại tôn sùng ma quỷ được? Ma quỷ là những thứ mê hoặc, lừa bịp và hãm hại con người. Ma quỷ không tin Đức Chúa Trời và không hề tiếp nhận lẽ thật. Hết thảy ma quỷ đều đi theo Sa-tan. Mục đích của những người chạy theo và tôn sùng ma quỷ cũng như Sa-tan là gì? Họ muốn bắt chước những con ma quỷ này, noi theo chúng, với hy vọng một ngày nào đó mình sẽ trở thành ma quỷ, cũng xinh đẹp và gợi cảm y như những ma quỷ và người nổi tiếng này. Họ thích tận hưởng cảm giác này. Bất kể người ta tôn sùng người nổi tiếng, hay là danh nhân, vĩ nhân nào, thì mục đích cuối cùng của những ngôi sao này đều như nhau – nhằm mê hoặc, thu hút mọi người và khiến mọi người tôn sùng, đi theo mình. Đây chẳng phải là tâm tính tà ác sao? Quá hiển nhiên, đây là tâm tính tà ác.

Tâm tính tà ác còn biểu hiện theo một cách khác. Có những người thấy các cuộc nhóm họp trong nhà Đức Chúa Trời luôn gồm có đọc lời Đức Chúa Trời, thông công về lẽ thật, thảo luận về việc biết mình, nói về chuyện làm tròn bổn phận, cách hành động theo nguyên tắc, cách kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, cách để hiểu và thực hành lẽ thật, cùng nhiều khía cạnh khác của lẽ thật. Lắng nghe suốt bao năm qua, càng nghe họ càng bắt đầu chán ghét, và bắt đầu phàn nàn rằng: “Tin Đức Chúa Trời chẳng phải là để có được phước lành sao? Tại sao chúng ta cứ luôn nói về lẽ thật và thông công về lời Đức Chúa Trời làm gì? Có khi nào kết thúc không? Tôi nghe mãi thành chán ghét rồi!”. Nhưng họ lại không cam lòng trở lại thế tục. Họ tự nhủ: “Tin Đức Chúa Trời thật khô khan, nhàm chán – làm sao để nó thú vị hơn một chút nhỉ? Phải tìm ra cái gì đó thú vị mới được”, thế là họ đi hỏi loanh quanh: “Trong hội thánh này có bao nhiêu người tin Đức Chúa Trời? Bao nhiêu lãnh đạo và người làm công? Bao nhiêu người đã bị cách chức? Có bao nhiêu sinh viên và cao học viên? Có ai biết con số không?”. Họ coi những chuyện và con số này là lẽ thật. Đây là tâm tính gì? Đây là tà ác, cách nói thông thường là “tà môn”. Họ đã nghe rất nhiều lẽ thật, nhưng không một lẽ thật nào có thể khiến họ đủ xem trọng hoặc chú ý. Hễ ai buôn chuyện hay phao tin nội bộ là họ lập tức dỏng tai lên hóng hớt, sợ bỏ lỡ. Đây là tà môn, chẳng phải sao? (Thưa, phải.) Kẻ tà môn có đặc điểm gì? Họ không có chút hứng thú nào với lẽ thật. Họ chỉ hứng thú với những chuyện bên ngoài, ham hố tìm kiếm không biết chán những chuyện tầm phào và những thứ không liên quan gì đến lối vào sự sống của mình hay lẽ thật. Họ cho rằng hiểu những điều này, những thông tin này, và lưu giữ hết thảy chúng trong đầu đồng nghĩa với việc họ có thực tế của lẽ thật, thực sự là người của nhà Đức Chúa Trời, chắc chắn sẽ được Đức Chúa Trời khen ngợi và có thể bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Các ngươi nghĩ sao, sự thật có phải như thế không? (Thưa, không.) Các ngươi có thể nhìn thấu điều này, nhưng nhiều người mới tin Đức Chúa Trời lại không thể. Họ chỉ chăm chăm vào những thông tin này, nghĩ rằng biết những điều này mới là người của nhà Đức Chúa Trời – nhưng trên thực tế, Đức Chúa Trời khinh ghét những kẻ như vậy nhất, họ là những kẻ phù phiếm, nông cạn và vô tri nhất trên đời. Đức Chúa Trời đã xuất hiện trong xác thịt vào thời kỳ sau rốt để thực hiện công tác phán xét và làm tinh sạch con người, để đạt hiệu quả là ban cho con người lẽ thật như sự sống. Nhưng nếu con người không chú trọng vào việc ăn uống lời Đức Chúa Trời mà lúc nào cũng cố tìm hiểu những chuyện tầm phào, cố tìm hiểu thêm về sự tình bên trong của hội thánh, thì họ có đang mưu cầu lẽ thật không? Họ có phải là người chuyên tâm vào việc chính đáng không? Đối với Ta, đây là những kẻ ác, kẻ không tin. Cũng có thể gọi những kẻ như thế này là tà môn. Lúc nào họ cũng chỉ tập trung vào tin đồn. Làm vậy thỏa mãn trí tò mò của họ, nhưng họ lại bị Đức Chúa Trời khinh ghét. Đây không phải là những người thật tâm tin Đức Chúa Trời, càng không phải là những người mưu cầu lẽ thật. Nói một cách đơn giản, họ là tôi tớ của Sa-tan, đến làm nhiễu loạn công tác của hội thánh. Hơn thế nữa, những kẻ luôn nghiên cứu và điều tra về Đức Chúa Trời còn là tôi tớ và tay sai của con rồng lớn sắc đỏ. Đức Chúa Trời căm ghét và ghê tởm những kẻ này nhất trên đời. Nếu ngươi tin Đức Chúa Trời, tại sao ngươi lại không tin tưởng Đức Chúa Trời? Khi ngươi nghiên cứu và điều tra về Đức Chúa Trời, ngươi có đang tìm kiếm lẽ thật không? Việc tìm kiếm lẽ thật có liên quan gì đến gia đình sinh ra Đấng Christ hay môi trường Ngài lớn lên không? Những kẻ luôn nghiên cứu Đức Chúa Trời chẳng phải quá sức đáng ghê tởm sao? Nếu ngươi luôn có quan niệm về những điều liên quan đến nhân tính của Đấng Christ, thì ngươi nên dành nhiều thời gian hơn để mưu cầu sự hiểu biết về lời Đức Chúa Trời; chỉ khi hiểu lẽ thật, ngươi mới có thể giải quyết được vấn đề quan niệm của mình. Điều tra gia đình hay hoàn cảnh ra đời của Đấng Christ có giúp ngươi đạt đến biết Đức Chúa Trời không? Có giúp ngươi tìm ra thực chất thần tính của Đấng Christ không? Tuyệt đối không. Những người thật tâm tin Đức Chúa Trời thì dốc sức tìm hiểu lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, chỉ như vậy mới có thể biết được thực chất thần tính của Đấng Christ. Nhưng tại sao những kẻ luôn nghiên cứu Đức Chúa Trời lại đang không ngừng làm những việc tà môn? Những kẻ rác rưởi không hiểu chuyện thuộc linh này nên khẩn trương ra khỏi nhà Đức Chúa Trời! Rất nhiều lẽ thật đã được bày tỏ, rất nhiều điều đã được thông công trong các buổi nhóm họp và bài giảng – tại sao ngươi vẫn phải nghiên cứu Đức Chúa Trời? Việc ngươi luôn nghiên cứu Đức Chúa Trời có nghĩa là gì? Nghĩa là ngươi quá tà ác! Hơn nữa, thậm chí còn có những người nghĩ rằng biết được tất cả những thông tin lặt vặt này sẽ cho họ vốn liếng, thế là họ đi khắp nơi khoe khoang với mọi người. Và cuối cùng chuyện gì xảy ra? Họ khiến Đức Chúa Trời khinh ghét và ghê tởm. Họ có còn là con người không? Chẳng phải họ là quỷ sống sao? Làm sao họ là người tin Đức Chúa Trời được? Đầu óc họ lúc nào cũng chỉ nghĩ về những chuyện tà môn oai đạo. Như thể họ cho rằng càng biết nhiều tin đồn, họ càng là người của nhà Đức Chúa Trời và càng hiểu lẽ thật. Những kẻ như thế này quá sức lố bịch. Trong nhà Đức Chúa Trời, không ai bị khinh ghét hơn chúng.

Trong đức tin, một số người luôn chú trọng những điều không thực tế. Chẳng hạn như một số người luôn tìm hiểu xem vương quốc như thế nào, tầng trời thứ ba ở đâu, âm phủ ra sao và địa ngục ở đâu. Họ luôn nghiên cứu những điều mầu nhiệm thay vì chú trọng lối vào sự sống. Đây là tà môn, là tà ác. Có những người đã nghe biết bao nhiêu bài giảng và mối thông công mà vẫn không hiểu chính xác thì lẽ thật là gì, cũng không biết nên đưa lẽ thật vào thực hành như thế nào. Hễ có thời gian là họ nghiên cứu lời Đức Chúa Trời, nghiền ngẫm câu từ, tìm kiếm một loại cảm giác nào đó, và họ cũng luôn nghiên cứu xem lời Đức Chúa Trời đã được ứng nghiệm hay chưa. Nếu đã được ứng nghiệm rồi thì họ tin rằng đây là việc Đức Chúa Trời làm, còn nếu chưa ứng nghiệm thì họ phủ nhận đây là việc Đức Chúa Trời làm. Họ chẳng ngớ ngẩn sao? Đây chẳng phải là tà môn sao? Con người luôn có thể nhìn ra khi nào lời Đức Chúa Trời ứng nghiệm sao? Con người không nhất thiết có khả năng nhìn ra khi nào một số lời của Đức Chúa Trời ứng nghiệm. Đối với con người, một số lời của Ngài dường như chưa ứng nghiệm, nhưng đối với Đức Chúa Trời thì đã ứng nghiệm rồi. Con người không thể nào nhìn thấy rõ được những điều này; nếu có thể hiểu được dù chỉ 20% thôi là họ đã có đặc ân rồi. Có những người lúc nào cũng nghiên cứu lời Đức Chúa Trời, nhưng lại không chú trọng thực hành lẽ thật hay bước vào thực tế. Đây chẳng phải là chuyên tâm vào việc chính đáng của mình sao? Họ đã nghe rất nhiều lẽ thật nhưng vẫn không hiểu, và lúc nào cũng tìm kiếm bằng chứng về sự ứng nghiệm của những lời tiên tri, coi đây là sự sống và động lực của mình. Chẳng hạn như khi một số người cầu nguyện, họ nói những điều như: “Lạy Đức Chúa Trời, nếu Ngài muốn con làm điều này, xin hãy cho con thức dậy lúc sáu giờ sáng mai; nếu không thì xin hãy để con ngủ đến bảy giờ”. Họ thường làm như vậy, dùng cách hành động này làm nguyên tắc của mình, thực hành nó như thể nó là lẽ thật. Đây gọi là tà môn. Khi hành động, họ luôn dựa vào cảm tính, tập trung vào những điều siêu nhiên, dựa vào tin đồn và những thứ phi thực tế khác; lúc nào cũng tập trung sức lực cho những thứ tà môn. Đây là tà ác. Bất kể ngươi thông công về lẽ thật với họ như thế nào, họ vẫn cho rằng lẽ thật không có ích lợi gì và không chính xác bằng dựa vào cảm nhận hoặc sự xác nhận thông qua so sánh. Đây là tà môn. Họ không tin Đức Chúa Trời tể trị và an bài vận mệnh của con người, và dẫu ngoài miệng nói rằng họ thừa nhận lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, nhưng trong lòng họ vẫn không tiếp nhận lẽ thật, không bao giờ nhìn mọi sự qua lời Đức Chúa Trời. Nếu một danh nhân nói điều gì đó, họ tin là lẽ thật và làm theo. Nếu một thầy bói hoặc thầy tướng số nói với họ rằng sang năm họ sẽ được thăng chức lên làm quản lý, họ tin liền. Đây chẳng phải là tà môn sao? Họ tin vào xem quẻ, bói toán và những chuyện siêu nhiên, chỉ tin vào những thứ tà môn này. Cũng giống như một số người nói: “Lẽ thật nào tôi cũng hiểu, chỉ là tôi không đưa vào thực hành được. Tôi không biết vấn đề là gì nữa”. Giờ đây chúng ta đã có câu trả lời cho câu hỏi này: họ là loại tà môn. Cho dù ngươi thông công về lẽ thật với những người như vậy thế nào đi chăng nữa cũng sẽ không vào đầu họ hay thấy được bất kỳ tác dụng nào. Những người này không chỉ chán ghét lẽ thật, mà còn có tâm tính tà ác. Biểu hiện quan trọng nhất của việc chán ghét lẽ thật là gì? Đó là người ta hiểu lẽ thật nhưng không thực hành lẽ thật. Họ không muốn nghe lẽ thật, họ kháng cự và ác cảm với lẽ thật. Họ biết lẽ thật là đúng và tốt, nhưng lại không thực hành lẽ thật, không sẵn lòng đi theo con đường này, không muốn chịu khổ hay trả giá, càng không muốn mất bất kỳ thứ gì. Kẻ tà ác không như vậy. Họ cho rằng những điều tà ác là lẽ thật, là con đường đúng đắn, và họ chạy theo những thứ này, cố gắng noi theo chúng và không ngừng dốc sức vào chúng. Nhà Đức Chúa Trời thường thông công về các nguyên tắc cầu nguyện: mọi người có thể cầu nguyện mọi lúc, mọi nơi mình muốn, không giới hạn về thời gian, chỉ cần đến trước Đức Chúa Trời, nói những lời trong lòng mình và tìm kiếm lẽ thật. Những lời này nên thường xuyên được nghe thấy và dễ hiểu, nhưng kẻ ác lại đưa chúng vào thực hành như thế nào? Mỗi lúc gà gáy sáng, họ luôn luôn quay mặt về hướng nam, quỳ xuống, đặt cả hai bàn tay trên đất, phủ phục hết mức có thể trước Đức Chúa Trời khi cầu nguyện. Họ cho rằng chỉ những lúc như vậy, Đức Chúa Trời mới có thể nghe thấy lời cầu nguyện của họ, bởi vì đây là lúc Đức Chúa Trời không bận rộn, Ngài có thời gian để lắng nghe. Điều này chẳng sai lầm sao? Chẳng tà môn sao? Lại có những người nói rằng thời gian hiệu quả nhất để cầu nguyện là vào lúc một, hai giờ sáng, khi xung quanh yên tĩnh. Tại sao họ lại nói thế? Họ cũng có lý do của họ. Họ nói rằng lúc đó mọi người đang ngủ; Đức Chúa Trời chỉ có thời gian giải quyết chuyện của họ khi Ngài không bận rộn. Điều này chẳng lầm to sao? Chẳng quá tà môn sao? Cho dù ngươi thông công về lẽ thật với họ như thế nào đi chăng nữa, họ cũng không chịu tiếp nhận. Họ là những kẻ vô lý nhất và không có khả năng hiểu lẽ thật. Lại có những người nói: “Khi con người tin Đức Chúa Trời, họ phải làm việc lành, là người tử tế và không được sát sinh hoặc ăn thịt. Ăn thịt là sát sinh, là phạm tội, và Đức Chúa Trời không muốn những người làm điều này”. Những lời này có bất kỳ cơ sở nào không? Đức Chúa Trời có bao giờ phán bất kỳ điều gì như vậy không? (Thưa, không.) Vậy thì ai nói như thế? Người ngoại đạo và dạng ngớ ngẩn. Trên thực tế, những người nói điều này chưa hẳn đã không ăn thịt – hoặc có thể là họ không ăn thịt trước mặt người khác, nhưng khi không có ai thì ăn rất nhiều. Những người này rất giỏi giả vờ và đi đâu cũng gieo rắc ngụy lý. Đây là tà ác. Những kẻ như vậy quá đỗi tà môn. Họ coi những tà thuyết và ngụy lý này là điều răn và quy tắc, thậm chí còn thực hành và bám vào chúng như thể là lẽ thật hay yêu cầu của Đức Chúa Trời, hăng hái và trơ trẽn dạy người khác làm theo. Tại sao Ta nói rằng cách nói, cách làm của những người này và những phương thức họ mưu cầu là tà ác? (Thưa, bởi vì những điều đó không liên quan gì đến lẽ thật.) Thế bất cứ điều gì không liên quan đến lẽ thật đều là tà ác à? Giải thích như vậy thì sẽ rất phiền phức. Có những điều trong cuộc sống hàng ngày của con người không liên quan đến lẽ thật. Bảo chúng tà ác chẳng phải là bóp méo sự thật sao? Những gì Đức Chúa Trời không kết tội thì không thể nói là tà ác, chỉ những gì Đức Chúa Trời kết tội mới có thể nói là tà ác. Nếu xác định mọi thứ không liên quan đến lẽ thật đều là tà ác, thì rất sai lầm. Những chi tiết trong nhu cầu thiết yếu của cuộc sống – như ăn, uống, ngủ, nghỉ – có liên quan đến lẽ thật không? Những điều này có tà ác không? Đây đều là những nhu cầu chính đáng của thân thể, phù hợp quy luật sinh hoạt, chúng không tà ác. Vậy thì tại sao những hành động Ta vừa đề cập lại được xếp là tà ác? Bởi vì những cách làm đó đưa con người vào con đường sai lầm và vô lý – đưa họ vào con đường tôn giáo. Việc họ thực hành theo cách này và dạy người khác hành động theo cách này là dẫn người ta vào con đường tà ác. Đó là kết quả tất yếu. Khi con người tôn sùng những trào lưu tà ác của thế gian và đi con đường tà ác, cuối cùng họ sẽ như thế nào? Họ trở nên sa đọa, mất hết lý trí, không còn liêm sỉ và cuối cùng hoàn toàn bị cuốn theo những trào lưu của thế gian, họ đi đến chỗ diệt vong, không khác gì người ngoại đạo. Một số người không những coi những tà thuyết và ngụy lý này là quy tắc hoặc điều răn phải tuân theo, mà còn bám vào chúng như lẽ thật. Đây là kẻ ngu xuẩn không có chút hiểu biết thuộc linh nào. Cuối cùng, họ chỉ có thể bị đào thải. Liệu Đức Thánh Linh có thể công tác trên bất kỳ ai có hiểu biết lệch lạc như vậy về lẽ thật không? (Thưa, không.) Đức Thánh Linh không công tác trong những người này, mà là tà linh hoạt động, bởi vì con đường những người này đi là con đường tà ác, họ đang lao vào con đường của tà linh – đó chính xác là điều những tà linh này cần. Và kết quả là những người này bị tà linh ám. Trước đây, Ta đã phán rằng: “Quỷ Sa-tan, như sư tử rống, đi rình mò chung quanh, tìm người để nuốt chửng”. Khi con người đi theo tà môn oai đạo, họ chắc chắn sẽ bị tà linh bắt đi. Đức Chúa Trời không cần phải giao ngươi cho tà linh. Nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật, ngươi sẽ không được bảo vệ và Đức Chúa Trời sẽ không ở bên ngươi. Đức Chúa Trời sẽ không quan tâm đến ngươi nếu Ngài không thể thu phục được ngươi, và các tà linh sẽ nhân cơ hội này lẻn vào chiếm hữu ngươi. Đây là hậu quả, chẳng phải sao? Tất cả những kẻ chán ghét lẽ thật và không ngừng lên án công tác của Đức Chúa Trời nhập thể, tất cả những kẻ chạy theo trào lưu thế gian, những kẻ diễn giải sai một cách trắng trợn lời Đức Chúa Trời và Kinh thánh, những kẻ truyền bá tà thuyết và ngụy lý – tất cả những việc chúng làm này đều sinh ra từ tâm tính tà ác. Có những người mưu cầu chuyện thuộc linh, và bởi vì hiểu biết của họ sai lệch, nên họ bịa ra nhiều ngụy lý để mê hoặc mọi người, và họ trở thành những nhà chủ nghĩa không tưởng, nhà lý luận, đó cũng là làm việc tà môn. Họ là kẻ tà ác. Giống như người Pha-ri-si, mọi việc họ làm đều là giả hình, bản thân không thực hành lẽ thật mà lại mê hoặc mọi người để được đề cao, tôn sùng. Khi Đức Chúa Jêsus xuất hiện để công tác, họ thậm chí còn đóng đinh Ngài lên thập tự giá. Đây là tà ác, và cuối cùng họ đã bị Đức Chúa Trời rủa sả. Ngày nay, giới tôn giáo không chỉ phán xét và lên án sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời, mà ghê tởm nhất là họ còn đứng về phía con rồng lớn sắc đỏ, liên kết với các thế lực tà ác để bách hại những người được Đức Chúa Trời chọn và đối địch với Đức Chúa Trời. Đây là tà ác. Giới tôn giáo chưa bao giờ căm ghét các thế lực tà ác của Sa-tan, họ không căm ghét sự tà ác của đất nước con rồng lớn sắc đỏ, mà thay vào đó lại cầu nguyện và chúc phúc cho chúng. Đây là tà ác. Bất kỳ hành vi nào liên quan hoặc hợp tác với Sa-tan và tà linh đều có thể được gọi chung là tà ác. Những cách thực hành đó là tà môn oai đạo, cực đoan và quá quắt – đây cũng là tà ác. Có những người luôn hiểu lầm Đức Chúa Trời, và những hiểu lầm này không thể được giải quyết bất kể họ được thông công về lẽ thật như thế nào đi chăng nữa. Họ luôn thuyết giảng về lý luận riêng của mình, giữ chặt những ngụy lý của mình. Chẳng phải như thế cũng có một chút tà ác sao? Có những người có quan niệm về Đức Chúa Trời; sau khi được thông công nhiều lần về lẽ thật, họ nói họ đã hiểu và các quan niệm của họ đã được giải quyết, nhưng sau đó họ vẫn bám vào quan niệm của mình, luôn tiêu cực và bám chặt vào những lý do bào chữa của bản thân. Đây chẳng phải là tà ác sao? Đây cũng là một dạng tà ác. Tóm lại, bất kỳ ai làm việc vô lý, được thông công về lẽ thật như thế nào cũng không chịu tiếp nhận, thì đều là người làm việc tà môn và có chút tà tính. Những người có tâm tính tà ác này không dễ được Đức Chúa Trời cứu rỗi, bởi vì họ không thể tiếp nhận lẽ thật và không chịu buông bỏ những lý lẽ tà ác của mình; họ thực sự vô phương cứu vãn.

Chúng ta vừa thông công về tổng cộng sáu tâm tính: cương ngạnh, kiêu ngạo, giả dối, chán ghét lẽ thật, hung ác và tà ác. Mổ xẻ sáu tâm tính này có mang lại cho các ngươi nhận thức và hiểu biết mới về sự thay đổi trong tâm tính không? Chính xác thì sự thay đổi trong tâm tính là gì? Có phải nó có nghĩa là loại bỏ một khuyết điểm nào đó, sửa đổi một hành vi nào đó, hoặc thay đổi một nét tính cách nào đó không? Tuyệt đối không phải vậy. Vậy chính xác thì tâm tính đề cập đến những điều gì, giờ đây các ngươi đã rõ hơn một chút chưa? Sáu tâm tính này có thể được mô tả là những tâm tính bại hoại của con người, là thực chất bản tính của con người không? (Thưa, có thể.) Sáu tâm tính này là những điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là những điều tiêu cực.) Có thể nói chúng chắc chắn tuyệt đối là những tâm tính bại hoại của con người, là những khía cạnh chính trong tâm tính bại hoại của con người. Không một tâm tính bại hoại nào trong số này là không đối địch với Đức Chúa Trời và lẽ thật, và không một cái nào là điều tích cực. Do đó, sáu tâm tính này là sáu khía cạnh, gọi chung là tâm tính bại hoại. Tâm tính bại hoại là thực chất bản tính của con người. Có thể giải thích từ “thực chất” như thế nào? Thực chất đề cập đến bản tính của con người. Bản tính của con người có nghĩa là những điều con người dựa vào để sinh tồn, những điều chi phối cách sống của họ. Con người sống theo bản tính của mình. Bất kể ngươi sống thể hiện ra điều gì, mục tiêu và phương hướng của ngươi là gì, ngươi sống theo những phép tắc nào, thì thực chất bản tính của ngươi cũng không thay đổi – điều này không thể bàn cãi. Vì vậy, khi ngươi không có lẽ thật và sống dựa vào những tâm tính bại hoại này, thì mọi điều ngươi sống thể hiện ra đều chống đối Đức Chúa Trời, đi ngược lại lẽ thật và trái với ý muốn của Đức Chúa Trời. Bây giờ các ngươi phải hiểu điều này: nếu tâm tính không thay đổi, con người có thể đạt được sự cứu rỗi không? (Thưa, không thể.) Tuyệt đối không thể. Vậy nếu tâm tính của con người không thay đổi, liệu họ có thể tương hợp với Đức Chúa Trời không? (Thưa, không thể.) Chuyện đó sẽ cực kỳ khó. Khi nói đến sáu tâm tính này, bất kể là tâm tính nào và bất kể nó biểu hiện hoặc bộc lộ nơi ngươi ở mức độ nào, nếu ngươi không thể tự giải phóng cho mình khỏi sự kìm kẹp của những tâm tính bại hoại này, thì dù ý định hay mục đích hành động của ngươi là gì, và dù ngươi hành động có chủ ý hay không, thì tính chất của mọi việc ngươi làm chắc chắn sẽ là chống đối Đức Chúa Trời, và chắc chắn sẽ bị Đức Chúa Trời kết tội – đó là một hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Bị Đức Chúa Trời kết tội có phải là điều mà tất cả những người tin Đức Chúa Trời cuối cùng đều mong muốn không? (Thưa, không.) Và vì đây không phải là kết quả con người mong muốn, vậy điều quan trọng nhất họ nên làm là gì? Họ nên nhận thức được tâm tính bại hoại và thực chất bại hoại của chính mình, hiểu lẽ thật, sau đó nên tiếp nhận lẽ thật – dần dần, từng chút một, giải phóng bản thân khỏi những tâm tính bại hoại này trong những hoàn cảnh Đức Chúa Trời đã tạo ra cho họ, và đạt được sự tương hợp với Đức Chúa Trời cũng như lẽ thật. Đây là con đường dẫn đến sự thay đổi trong tâm tính của con người.

Trước đây, có những người xem việc thay đổi tâm tính mình là chuyện rất dễ dàng và đơn giản. Họ tin rằng “Chỉ cần buộc mình không nói những điều chống đối Đức Chúa Trời hoặc làm bất kỳ điều gì gây gián đoạn hay nhiễu loạn công tác của hội thánh, chỉ cần mình có quan điểm đúng đắn, lòng mình ngay thẳng, và hiểu lẽ thật nhiều hơn một chút, dốc sức nhiều hơn, chịu khổ nhiều hơn và trả giá nhiều hơn, thì sau vài năm, mình nhất định sẽ có thể đạt được sự thay đổi trong tâm tính”. Những lời này có đứng vững được không? (Thưa, không.) Họ sai lầm ở đâu? (Thưa, họ không biết gì về tâm tính bại hoại của mình.) Mục đích của việc biết tâm tính bại hoại của mình là gì? (Thưa, để thay đổi.) Và kết quả của sự thay đổi này là gì? Để đạt được lẽ thật. Để đánh giá xem có sự thay đổi nào trong tâm tính ngươi hay không thì phải xét xem hành động của ngươi phù hợp với lẽ thật hay vi phạm lẽ thật, xuất phát từ ý muốn của con người hay là để thỏa mãn yêu cầu của Đức Chúa Trời. Xem xét mức độ thay đổi của tâm tính ngươi là xét xem khi ngươi bộc lộ một tâm tính bại hoại, liệu ngươi có thể phản tỉnh và phản bội xác thịt, ý định, tham vọng và dục vọng của mình hay không, có thể căn cứ theo lẽ thật mà thực hành hay không. Khả năng căn cứ theo lẽ thật và lời Đức Chúa Trời mà thực hành của ngươi đến đâu và liệu việc thực hành của ngươi có hoàn toàn phù hợp với các tiêu chuẩn của lẽ thật hay không, sẽ chứng tỏ tâm tính ngươi đã thay đổi đến mức độ nào. Chúng tỷ lệ thuận với nhau. Chẳng hạn như tâm tính cương ngạnh: lúc đầu, khi chưa có sự thay đổi nào trong tâm tính thì ngươi không hiểu lẽ thật, cũng không biết rằng mình có tâm tính cương ngạnh, và khi nghe lẽ thật, ngươi thầm nghĩ: “Sao lẽ thật lại có thể luôn phơi bày những vết sẹo của con người được nhỉ?”. Sau khi nghe xong, ngươi cảm thấy những lời của Đức Chúa Trời là đúng, nhưng nếu sau một, hai năm, ngươi không khắc ghi vào lòng bất kỳ điều nào trong số đó, nếu ngươi không tiếp nhận bất kỳ điều nào trong số đó, thì đây là sự cương ngạnh, chẳng phải sao? Nếu sau hai, ba năm mà ngươi vẫn không tiếp nhận chút nào, nếu tình trạng bên trong ngươi không thay đổi chút nào, và dù ngươi không trễ nải trong việc thực hiện bổn phận và đã chịu khổ không ít, nhưng tình trạng cương ngạnh của ngươi vẫn không được giải quyết hay giảm bớt chút nào, thì liệu đã có bất kỳ thay đổi nào trong khía cạnh này của tâm tính ngươi chưa? (Thưa, chưa.) Vậy tại sao ngươi lại bôn ba và công tác làm gì? Bất kể vì lý do gì, ngươi cũng đang bôn ba và công tác một cách mù quáng, bởi vì ngươi đã bôn ba và công tác nhiều như vậy, nhưng tâm tính ngươi vẫn chưa có một chút thay đổi nào. Cho đến một ngày, ngươi đột nhiên tự nhủ: “Sao mình lại không thể nói dù chỉ một lời chứng ngôn nhỉ? Tâm tính sống của mình chưa hề thay đổi”. Lúc này ngươi mới cảm thấy vấn đề này nghiêm trọng đến mức nào, và ngươi thầm nghĩ: “Mình thật sự phản nghịch và cương ngạnh! Mình không phải là người mưu cầu lẽ thật! Trong lòng mình không có chỗ cho Đức Chúa Trời! Sao có thể gọi đây là tin Đức Chúa Trời được? Mình đã tin Đức Chúa Trời mấy năm rồi mà vẫn không sống thể hiện ra hình tượng con người, lòng mình cũng chẳng gần Đức Chúa Trời! Mình không khắc cốt ghi tâm lời Đức Chúa Trời, cũng chẳng có ý thức tự trách mình hay chiều hướng ăn năn khi làm điều sai trái – đây chẳng phải là cương ngạnh sao? Mình chẳng phải là đứa con phản nghịch sao?”. Lòng ngươi cảm thấy bồn chồn. Và việc ngươi cảm thấy bồn chồn nghĩa là gì? Nghĩa là ngươi muốn ăn năn. Ngươi ý thức được sự cương ngạnh và phản nghịch của bản thân. Và lúc này, tâm tính ngươi bắt đầu thay đổi. Tự lúc nào không hay, trong ý thức của ngươi có những suy nghĩ và mong muốn nhất định rằng ngươi muốn thay đổi, và ngươi bỗng nhiên không còn thấy bế tắc với Đức Chúa Trời nữa. Ngươi bỗng cảm thấy muốn cải thiện mối quan hệ của mình với Đức Chúa Trời, không còn quá cương ngạnh nữa, có thể đưa lời Đức Chúa Trời vào thực hành trong cuộc sống thực tế, có thể thực hành chúng như các nguyên tắc lẽ thật – ngươi có ý thức này. Có ý thức như thế là tốt, nhưng như vậy nghĩa là ngươi sẽ có thể thay đổi ngay lập tức sao? (Thưa, không thể.) Ngươi phải có vài năm trải nghiệm nữa, trong thời gian đó, ý thức trong lòng ngươi sẽ ngày càng rõ hơn, ngươi sẽ có một nhu cầu mạnh mẽ, và trong lòng ngươi sẽ nghĩ: “Như thế này là không ổn – mình không được lãng phí thời gian nữa. Mình phải mưu cầu lẽ thật, phải làm điều gì đó đúng đắn. Trước đây, mình đã không chuyên tâm vào việc chính đáng, chỉ nghĩ đến những thứ vật chất như cơm ăn áo mặc, chỉ mưu cầu danh lợi. Kết quả là mình chưa hề đạt được lẽ thật nào cả. Hối hận quá, phải ăn năn thôi!”. Lúc này, ngươi bắt đầu bước đi trên con đường đúng đắn của đức tin nơi Đức Chúa Trời. Chỉ cần con người bắt đầu chú trọng thực hành lẽ thật là chẳng phải họ có thể tiến gần hơn một bước tới sự thay đổi trong tâm tính mình sao? Bất kể đã tin vào Đức Chúa Trời bao lâu, nếu ngươi có thể cảm nhận được sự mụ mị của chính mình – rằng ngươi chỉ sống qua ngày đoạn tháng, rằng sau vài năm cứ mụ mị, ngươi chẳng đạt được gì và vẫn cảm thấy trống rỗng – và nếu điều này khiến ngươi cảm thấy khó chịu, bắt đầu phản tỉnh, và cảm thấy không mưu cầu lẽ thật là lãng phí thời gian, thì lúc đó ngươi sẽ nhận ra những lời khuyên nhủ của Đức Chúa Trời là tình yêu thương của Ngài dành cho con người, và ngươi sẽ hận mình vì đã không lắng nghe lời Đức Chúa Trời, vì đã quá thiếu lương tâm và lý trí. Ngươi sẽ cảm thấy hối hận, rồi sẽ muốn hành xử theo cách khác, muốn thực sự sống trước Đức Chúa Trời, và ngươi sẽ tự nhủ: “Mình không thể tiếp tục làm Đức Chúa Trời đau lòng nữa. Đức Chúa Trời đã phán dạy rất nhiều, từng lời đều vì lợi ích của con người và để chỉ cho con người con đường đúng đắn. Đức Chúa Trời thật đáng mến và thật xứng đáng được con người yêu kính!”. Đây là khởi đầu cho sự chuyển biến của con người. Có được sự lĩnh hội này là rất tốt! Nếu ngươi tê liệt đến mức không biết cả những điều này, thì ngươi đang gặp rắc rối rồi đấy, chẳng phải sao? Ngày nay, người ta có thể nhận ra rằng mấu chốt của đức tin nơi Đức Chúa Trời là phải đọc thêm lời Đức Chúa Trời, rằng hiểu lẽ thật là điều quan trọng nhất trên đời, rằng cốt yếu là phải hiểu lẽ thật và biết mình, và rằng chỉ khi có khả năng thực hành lẽ thật và biến lẽ thật thành thực tế mới là đang đi đúng đường trong đức tin nơi Đức Chúa Trời. Vậy các ngươi nghĩ mình phải có bao nhiêu năm trải nghiệm để có được hiểu biết và cảm nhận này trong lòng? Những người nhanh trí, những người thông sáng, những người có lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt – những người như vậy có thể có khả năng quay đầu trong một, hai năm và bắt đầu bước vào. Nhưng những người hồ đồ, tê dại và trì độn, những người thiếu sự thông sáng – sẽ trải qua ba hoặc năm năm trong mơ hồ mà vẫn không biết rằng mình chưa thu hoạch được gì. Nếu nhiệt tình thực hiện bổn phận, họ có thể trải qua hơn mười năm trong mơ hồ mà vẫn chẳng có được sự thu hoạch rõ ràng nào hoặc vẫn không thể nói về chứng ngôn trải nghiệm của mình. Mãi cho đến khi bị đuổi hoặc đào thải thì cuối cùng họ mới tỉnh ngộ và thầm nghĩ: “Mình thực sự không có bất kỳ thực tế lẽ thật nào. Mình thực sự chưa phải là người mưu cầu lẽ thật!”. Đến lúc này họ mới tỉnh ngộ thì chẳng phải hơi muộn sao? Có những người mơ hồ sống qua ngày đoạn tháng, luôn trông mong ngày của Đức Chúa Trời đến, nhưng lại không hề mưu cầu lẽ thật. Kết quả là hơn mười năm trôi qua, họ vẫn chẳng thu hoạch được gì, chẳng thể chia sẻ bất kỳ chứng ngôn nào. Chỉ sau khi bị tỉa sửa, xử lý và cảnh cáo nghiêm khắc, cuối cùng họ mới cảm thấy lời Đức Chúa Trời xuyên thấu lòng mình. Lòng họ thật quá cương ngạnh! Không xử lý, tỉa sửa và trừng phạt họ thì làm sao mà ổn được? Không nghiêm khắc sửa dạy họ thì làm sao mà ổn được? Phải làm gì để họ có cảm giác, để họ phản ứng? Những kẻ không mưu cầu lẽ thật chưa thấy quan tài chưa nhỏ lệ. Chỉ sau khi đã làm quá nhiều chuyện yêu ma và tà ác, họ mới nhận ra và tự nhủ: “Đức tin nơi Đức Chúa Trời của mình kết thúc rồi sao? Đức Chúa Trời không muốn mình nữa sao? Mình vừa bị kết tội sao?”. Họ bắt đầu phản tỉnh. Khi tiêu cực, họ cảm thấy suốt bao năm qua tin Đức Chúa Trời thật lãng phí, họ đầy oán hận, và có xu hướng buông xuôi như một kẻ vô vọng. Nhưng khi tỉnh ngộ, họ lại ý thức được rằng: “Chẳng phải mình chỉ đang tự làm tổn thương bản thân sao? Mình phải đứng dậy. Mình bị nói là không yêu lẽ thật. Tại sao mình lại bị nói như thế? Mình không yêu lẽ thật như thế nào? Ôi không! Mình không những không yêu lẽ thật, mà thậm chí còn không thể đưa vào thực hành những lẽ thật mà mình thực sự hiểu! Đây là biểu hiện của sự chán ghét lẽ thật!”. Nghĩ thế, họ cảm thấy hơi hối hận và cũng hơi sợ hãi: “Nếu cứ tiếp tục như thế này, chắc chắn mình sẽ bị trừng phạt. Không, mình phải khẩn trương ăn năn – không được xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời”. Lúc này, mức độ cương ngạnh của họ đã giảm bớt chưa? Nó giống như một mũi kim đã đâm vào trái tim họ; họ có được cảm giác gì đó. Và khi ngươi có cảm giác này, lòng ngươi được khuấy động, và ngươi bắt đầu cảm thấy hứng thú với lẽ thật. Tại sao ngươi lại có hứng thú này? Bởi vì ngươi cần lẽ thật. Không có lẽ thật, khi bị tỉa sửa và xử lý, ngươi không thể quy phục điều đó hay tiếp nhận lẽ thật, và ngươi không thể đứng vững trước sự thử luyện. Nếu trở thành lãnh đạo, liệu ngươi có thể kiềm chế để không trở thành lãnh đạo giả và không đi theo con đường của kẻ địch lại Đấng Christ không? Ngươi sẽ không làm được. Ngươi có thể vượt qua được việc có địa vị và được người khác khen ngợi không? Ngươi có thể vượt qua các tình huống được sắp đặt và những thử thách được đưa ra cho mình không? Ngươi biết và hiểu quá rõ về bản thân mình, ngươi sẽ nói: “Nếu không hiểu lẽ thật, mình sẽ không thể vượt qua được tất cả những điều này – mình sẽ là thứ phế vật, mình sẽ chẳng thể làm được gì”. Đây là lối suy nghĩ gì? Đây là cần lẽ thật. Khi ngươi thiếu thốn, khi ngươi bất lực nhất, ngươi chỉ muốn nương vào lẽ thật. Ngươi sẽ cảm thấy không thể nương cậy vào ai khác, và chỉ dựa vào lẽ thật mới có thể giải quyết được các vấn đề của ngươi, cho phép ngươi vượt qua sự tỉa sửa, xử lý, thử luyện và cám dỗ, và giúp ngươi vượt qua mọi hoàn cảnh. Và càng nương cậy vào lẽ thật, ngươi sẽ càng cảm thấy lẽ thật là tốt đẹp, hữu ích và trợ giúp nhiều nhất cho ngươi, có thể giải quyết mọi khó khăn của ngươi. Những lúc như vậy, ngươi sẽ bắt đầu khao khát lẽ thật. Khi con người đạt đến mức độ này, có phải tâm tính bại hoại của họ bắt đầu giảm bớt hoặc thay đổi từng chút một không? Từ khi con người bắt đầu hiểu và tiếp nhận lẽ thật, cách họ nhìn nhận mọi sự bắt đầu thay đổi, theo đó tâm tính của họ cũng bắt đầu thay đổi. Đây là một tiến trình chậm. Trong giai đoạn đầu, con người không thể nhận thấy những thay đổi nhỏ này; nhưng khi họ thực sự hiểu lẽ thật và có khả năng thực hành lẽ thật, thì sẽ bắt đầu có những thay đổi về thực chất và họ có thể cảm nhận được những thay đổi như vậy. Từ khi con người bắt đầu khao khát lẽ thật, có lòng thiết tha đạt được lẽ thật, có lòng tìm kiếm lẽ thật, thì khi có chuyện xảy đến với họ, dựa trên hiểu biết của mình về lẽ thật, họ có thể đưa lẽ thật vào thực hành và thỏa mãn ý muốn của Đức Chúa Trời, không hành động theo ý mình, và có thể chiến thắng những ý đồ của mình, chiến thắng sự kiêu ngạo, phản nghịch, cương ngạnh và lòng phản bội của bản thân, thì chẳng phải từng chút một, lẽ thật đang trở thành sự sống của họ sao? Và khi lẽ thật trở thành sự sống của ngươi, thì những tâm tính kiêu ngạo, phản nghịch, cương ngạnh và phản bội bên trong ngươi sẽ không còn là sự sống của ngươi nữa và sẽ không thể khống chế ngươi được nữa. Và điều gì định hướng cho cách làm người của ngươi lúc này? Lời Đức Chúa Trời. Khi những lời của Đức Chúa Trời đã trở thành sự sống của ngươi, thì đã có sự thay đổi chưa? (Thưa, rồi.) Và sau đó, ngươi càng thay đổi, tình hình càng trở nên tốt đẹp hơn. Đây là quá trình thay đổi của tâm tính con người, và để đạt được hiệu quả này cần một thời gian dài.

Chính xác thì cần bao lâu để tâm tính thay đổi tùy thuộc vào mỗi người; không có khung thời gian cố định cho việc này. Nếu đó là người yêu mến và mưu cầu lẽ thật, thì sẽ thấy những thay đổi trong tâm tính họ trong bảy, tám hoặc mười năm nữa. Nếu họ có tố chất trung bình và cũng sẵn lòng mưu cầu lẽ thật, thì có thể mất khoảng mười lăm hoặc hai mươi năm để thấy được những thay đổi trong tâm tính họ. Điều mấu chốt là quyết tâm mưu cầu lẽ thật và mức độ thông sáng của người đó, đây là những nhân tố quyết định. Trong mỗi người đều tồn tại đủ loại tâm tính bại hoại ở những mức độ khác nhau, tất cả đều là bản tính của con người, và tất cả đều đã thâm căn cố đế. Tuy nhiên, bằng cách mưu cầu và thực hành lẽ thật, bằng cách tiếp nhận sự phán xét và hình phạt, sự xử lý và tỉa sửa, sự thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời, người ta có thể đạt được sự thay đổi trong mọi tâm tính với những mức độ khác nhau. Có người nói: “Nếu vậy thì chẳng phải sự thay đổi trong tâm tính chỉ là vấn đề thời gian thôi sao? Khi đến lúc, tôi sẽ biết sự thay đổi trong tâm tính là gì, và tôi sẽ có khả năng bước vào”. Có phải vậy không? (Thưa, không.) Chắc chắn là không phải. Nếu để đạt được sự thay đổi trong tâm tính chỉ cần thời gian, thì tất cả những người cả đời tin Đức Chúa Trời lẽ ra đã đương nhiên đạt được sự thay đổi trong tâm tính rồi. Nhưng thực tế có như vậy không? Những người này đã đạt được lẽ thật chưa? Họ đã đạt được những thay đổi trong tâm tính chưa? Chưa đạt được. Những người tin Đức Chúa Trời nhiều như lông bò, nhưng những người tâm tính đã thay đổi thì hiếm như kỳ lân. Để tâm tính thực sự thay đổi, con người phải dựa vào việc mưu cầu lẽ thật; họ được làm cho hoàn thiện bằng cách dựa vào công tác của Đức Thánh Linh. Những thay đổi trong tâm tính đạt được là nhờ mưu cầu lẽ thật. Một mặt, con người phải trả giá, họ phải trả giá trong việc mưu cầu lẽ thật, và để đạt được lẽ thật, chịu khổ bao nhiêu cũng được. Ngoài ra, để Đức Thánh Linh công tác và làm cho họ hoàn thiện, thì họ phải được Đức Chúa Trời chứng thực là loại người đúng đắn, là người có tâm địa thiện lương và là người thật tâm yêu kính Đức Chúa Trời. Sự phối hợp của con người là không thể thiếu, nhưng quan trọng hơn nữa là phải có được công tác của Đức Thánh Linh. Nếu con người không mưu cầu hoặc yêu mến lẽ thật, nếu họ không bao giờ biết lưu tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời, càng không bao giờ biết yêu kính Đức Chúa Trời, nếu họ không có ý thức gánh vác đối với công tác của hội thánh, và không có tình yêu thương người khác – đặc biệt là nếu họ không có sự trung thành khi thực hiện bổn phận của mình – thì họ không được Đức Chúa Trời yêu thích, và không bao giờ có thể được Đức Chúa Trời làm cho hoàn thiện. Vì vậy, con người không được đưa ra những khẳng định mù quáng, mà phải hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời. Bất kể Đức Chúa Trời phán hay làm gì, họ đều phải có khả năng vâng phục và bảo vệ công tác của hội thánh, lòng họ phải ngay thẳng, chỉ khi đó Đức Thánh Linh mới có thể công tác. Nếu muốn mưu cầu việc được Đức Chúa Trời hoàn thiện, con người phải có tấm lòng yêu kính Đức Chúa Trời, tấm lòng vâng phục Đức Chúa Trời, tấm lòng kính sợ Đức Chúa Trời, và khi thực hiện bổn phận của mình thì phải trung thành với Đức Chúa Trời và làm hài lòng Đức Chúa Trời. Chỉ khi đó họ mới có thể có được công tác của Đức Thánh Linh. Khi con người có công tác của Đức Thánh Linh, họ sẽ được khai sáng khi đọc lời Đức Chúa Trời, họ sẽ có con đường để thực hành lẽ thật và các nguyên tắc khi thực hiện bổn phận, Đức Chúa Trời sẽ dẫn dắt họ khi họ gặp khó khăn, và lòng họ sẽ vui vẻ, bình an dù có phải chịu bao nhiêu đau khổ. Khi họ trải qua sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh theo cách này trong mười hoặc hai mươi năm, họ sẽ thay đổi tự lúc nào không hay. Thay đổi càng sớm, bình an càng sớm; thay đổi càng sớm, họ càng sớm có thể trở nên hạnh phúc. Chỉ khi tâm tính của con người thay đổi, họ mới có thể tìm thấy sự bình an và niềm vui thực sự, chỉ khi đó họ mới có thể sống một cuộc sống thực sự hạnh phúc. Những ai không mưu cầu lẽ thật thì không có sự bình an hay niềm vui trong tâm linh, những tháng ngày của họ ngày càng trống rỗng và ngày càng khó chịu đựng. Đối với những người tin Đức Chúa Trời nhưng không mưu cầu lẽ thật, thì cuộc đời đầy đau đớn, khổ sở. Vì vậy, khi tin Đức Chúa Trời thì không gì quan trọng hơn việc đạt được lẽ thật. Đạt được lẽ thật là có được sự sống, và đạt được lẽ thật càng sớm càng tốt. Không có lẽ thật, cuộc sống của con người trống rỗng. Đạt được lẽ thật là tìm thấy bình an và niềm vui, có thể sống trước Đức Chúa Trời, được công tác của Đức Thánh Linh khai sáng, chỉ đường, dẫn dắt, lòng họ sẽ ngày càng có nhiều sự sáng, và đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời sẽ ngày càng lớn. Vậy giờ đây, lẽ thật liên quan đến sự thay đổi trong tâm tính đã rõ ràng hơn với các ngươi chưa? (Thưa, rồi, bây giờ chúng con đã hiểu.) Nếu điều này đã thực sự rõ ràng với các ngươi, thì các ngươi đã có một con đường và biết cách mưu cầu lẽ thật hiệu quả.

Ngày 28 tháng 4 năm 2017

Trước: Con đường thực hành hướng đến sự thay đổi tâm tính của một người

Tiếp theo: Chỉ bằng cách hiểu lẽ thật thì mới có thể biết đến những việc làm của Đức Chúa Trời

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger