24. Thu hoạch cho việc thực hiện bổn phận
Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Sự đầu phục công tác của Đức Chúa Trời phải thật và thực tế, và phải được sống trọn. Chỉ đầu phục hời hợt thì không thể được Đức Chúa Trời khen ngợi, và chỉ đơn thuần vâng phục những khía cạnh bề nổi của lời Đức Chúa Trời mà không tìm kiếm sự thay đổi trong tâm tính, thì không hợp lòng Đức Chúa Trời. Vâng phục Đức Chúa Trời và đầu phục công tác của Đức Chúa Trời là một và như nhau. Những ai chỉ đầu phục Đức Chúa Trời mà không đầu phục công tác của Ngài thì không thể được xem là vâng phục, nói gì đến những kẻ không thực sự đầu phục nhưng bề ngoài thì nịnh hót. Những ai thực sự đầu phục Đức Chúa Trời đều có thể hưởng lợi từ công tác và đạt được sự hiểu biết về tâm tính và công tác của Đức Chúa Trời. Chỉ những người như thế mới thực sự đầu phục Đức Chúa Trời. Những người như thế có thể có được kiến thức mới, và trải qua những sự thay đổi mới, từ công tác mới. Chỉ những người này mới được Đức Chúa Trời khen ngợi, chỉ những người này mới được hoàn thiện, và chỉ những người này mới là những người có tâm tính đã thay đổi. Những người được Đức Chúa Trời khen ngợi là những người vui vẻ đầu phục Đức Chúa Trời cũng như đầu phục công tác và lời của Ngài. Chỉ những người như thế mới đúng đắn, chỉ những người như thế mới thật lòng muốn Đức Chúa Trời, và thật lòng tìm kiếm Đức Chúa Trời” (Những ai vâng phục Đức Chúa Trời với một tấm lòng chân thật chắc chắn sẽ được Đức Chúa Trời thu nhận, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Việc đọc những lời Đức Chúa Trời gợi nhắc tôi về kinh nghiệm của mình về việc vâng phục Đức Chúa Trời.
Mọi chuyện bắt đầu vào tháng 3 năm 2016 khi tôi chạy khỏi Trung Quốc để thoát khỏi sự bắt bớ và áp bức của Đảng Cộng sản Trung Quốc, hầu cho có thể tự do thực hành đức tin của mình. Một thời gian sau đó, lãnh đạo Hội thánh là Chị Trương đến tìm tôi và hỏi, “Chị có muốn nhận bổn phận chăm tưới không?” Quá vui mừng, tôi trả lời, “Được vậy thì tốt quá! Tôi sẽ có thể giúp anh chị em hiểu lẽ thật và thiết lập một nền tảng trên con đường thật. Tôi sẽ làm những việc tốt lành như vậy!” Nếu các anh chị em quen biết tôi được tin tôi đang làm bổn phận chăm tưới, họ sẽ thực sự ngưỡng mộ và nể trọng tôi. Nó sẽ khiến tôi nâng cao thể diện. Tuy nhiên, ngay khi tôi đang tràn trề hy vọng, lãnh đạo lại đến nói chuyện với tôi. Chị ấy cho biết một số chị em phải chuyển chỗ do trường hợp khẩn cấp, nhưng họ không tìm được nơi nào thích hợp. Chị nói nhà tôi sẽ phù hợp, và hỏi liệu tôi có thể làm bổn phận tiếp đãi. Nghe chị ấy nói vậy, tâm can tôi rối bời. Tôi cứ tưởng rằng mình sẽ được làm bổn phận chăm tưới, vậy mà giờ lại là tiếp đãi? Vậy chẳng phải tôi sẽ dành toàn bộ thời gian trong bếp hay sao? Đó là công việc vất vả, nhưng hơn thế nữa, còn rất đáng hổ thẹn! Ở ngoài kia, tôi từng kinh doanh lớn và có nhà máy riêng. Bạn bè và người thân đều gọi tôi là siêu nhân. Ở nhà, tôi có người trông trẻ giặt giũ, nấu nướng và dọn dẹp. Vậy mà giờ tôi phải đảm nhận vai trò đó và nấu nướng cho người khác. Tôi thực sự không muốn vậy. Nhưng tôi nghĩ tới việc các chị em không có nơi ở và không thể an tâm thực hiện bổn phận, hơn nữa, nhà tôi lại thích hợp để tiếp đãi, vậy là tôi miễn cưỡng đồng ý.
Vài ngày sau đó, ngoài mặt tôi thực hiện bổn phận tiếp đãi của mình, nhưng bên trong tôi thấy rối bời, và bắt đầu sinh ngờ vực. Phải chăng anh chị em cho rằng tôi không phù hợp với bổn phận chăm tưới? Sao họ lại đề nghị tôi làm người tiếp đãi? Nếu các anh chị em quen biết tôi mà phát hiện ra, liệu họ có nói tôi thiếu hiện thực của lẽ thật, rằng tôi không thể thực hiện các bổn phận khác, mà chỉ có thể làm người tiếp đãi? Suy nghĩ này khiến tôi thêm buồn bực. Sau đó tôi nghĩ đến lời tuyên thệ của mình trước Đức Chúa Trời, rằng bất kể tôi được giao bổn phận gì, miễn là nó mang lại lợi ích cho công việc của hội thánh, tôi sẽ thực hiện nó 100%, và ngay cả khi tôi không thích việc đó, tôi vẫn sẽ vâng phục để thoả mãn ý Đức Chúa Trời. Vậy sao bây giờ tôi lại không thể vâng phục khi được giao bổn phận tiếp đãi? Tôi thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Tôi nói: “Lạy Đức Chúa Trời, Ngài đã cai quản và an bài cho con làm bổn phận tiếp đãi, nhưng con luôn cảm thấy muốn kháng cự và không chịu vâng phục. Xin Đức Chúa Trời hãy soi sáng và dẫn lối để con hiểu được ý muốn của Ngài”.
Sau đó, tôi đọc hai đoạn trong lời Đức Chúa Trời: “Khi đo lường xem liệu mọi người có thể vâng phục Đức Chúa Trời hay không, điều quan trọng cần xem xét là liệu họ có tham muốn bất cứ điều gì quá mức từ Đức Chúa Trời hay không, và liệu họ có những động cơ ngầm hay không. Nếu mọi người luôn đòi hỏi cao từ Đức Chúa Trời, thì điều đó chứng tỏ rằng họ không vâng lời Ngài. Bất cứ điều gì xảy ra với ngươi, nếu ngươi không thể nhận được nó từ Đức Chúa Trời, không thể tìm kiếm lẽ thật, luôn luôn nói từ lý lẽ chủ quan của riêng ngươi và luôn cảm thấy rằng chỉ có ngươi là đúng, và thậm chí vẫn có khả năng nghi ngờ Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ gặp rắc rối. Những người như vậy là những người kiêu ngạo và dấy loạn nhất với Đức Chúa Trời. Những người luôn đòi hỏi cao từ Đức Chúa Trời không bao giờ có thể thực sự vâng lời Ngài. Nếu ngươi đòi hỏi cao từ Đức Chúa Trời, thì điều này chứng tỏ rằng ngươi đang thương lượng với Đức Chúa Trời, rằng ngươi đang chọn suy nghĩ của riêng mình và hành động theo suy nghĩ của riêng mình. Trong trường hợp này, ngươi phản bội Đức Chúa Trời, và không vâng lời” (“Mọi người đòi hỏi Đức Chúa Trời quá nhiều” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Sự quy phục thực sự là gì? Bất cứ khi nào Đức Chúa Trời làm điều gì đó theo cách của ngươi, và ngươi cảm thấy rằng mọi thứ đều thỏa đáng và đúng đắn, và ngươi đã được nổi bật, ngươi cảm thấy điều này thật vinh hiển, và ngươi nói lời ‘tạ ơn Đức Chúa Trời’ và có thể quy phục trước sự bố trí và sắp đặt của Ngài. Tuy nhiên, bất cứ khi nào ngươi được chỉ định đến một nơi không đáng chú ý, nơi ngươi không bao giờ có thể nổi bật, và ở đó không ai từng công nhận ngươi, thì ngươi không còn cảm thấy vui nữa và thấy khó có thể quy phục. … Quy phục trong điều kiện thuận lợi thường dễ dàng. Nếu ngươi cũng có thể quy phục trong những hoàn cảnh bất lợi – những hoàn cảnh trong đó mọi thứ không theo cách của ngươi và cảm xúc của ngươi bị tổn thương, điều làm cho ngươi trở nên yếu đuối, điều khiến ngươi đau khổ về thể xác và giáng một đòn vào danh tiếng của ngươi, điều không thể thỏa mãn sự kiêu ngạo và niềm tự hào của ngươi, và điều khiến ngươi chịu khổ về mặt tâm lý – thì ngươi thực sự có vóc giạc. Đây chẳng phải là mục tiêu các ngươi nên theo đuổi sao? Nếu các ngươi có một động lực như vậy, một mục tiêu như vậy, thì còn có hy vọng” (Thông công của Đức Chúa Trời). Lời Ngài chỉ cho tôi thấy được rằng sự vâng phục thật sự không phải là một giao dịch, và lựa chọn cá nhân không hề ảnh hưởng đến nó. Cho dù tôi có thích hay không, dù việc đó có lợi cho tôi hay không, miễn là nó do Đức Chúa Trời mang đến và giúp ích cho công việc của Hội thánh, thì tôi nên vâng phục hoàn toàn. Nhưng thay vào đó tôi đã làm gì? Khi tôi được đề nghị thực hiện bổn phận tiếp đãi, tôi đã không lưu tâm ý muốn của Đức Chúa Trời hay việc gìn giữ công việc của Hội thánh. Thay vào đó, tôi chỉ nghĩ xem liệu tôi có cơ hội thể hiện khiến người khác phải nể trọng hay không, và liệu lòng tự phụ của tôi có được thoả mãn hay không. Sao có thể xem đó là vâng phục Đức Chúa Trời? Tôi nghĩ lại thời gian tôi là trưởng nhóm. Lãnh đạo Hội thánh luôn thông công với tôi trước tiên về công việc trong Hội thánh. Tôi từng nghĩ rằng lãnh đạo đánh giá cao tôi, và các anh chị em nể trọng tôi. Việc thực hiện bổn phận của tôi không có gì là quá sức, và dù khó khăn hay mệt mỏi thế nào, tôi vẫn vui vẻ thực hiện. Nhưng đối mặt với bổn phận tiếp đãi, tôi trở nên tiêu cực, cho rằng nó thấp hèn. Quan trọng hơn nữa, dù cố gắng thế nào, nỗ lực đó sẽ không được mọi người nhìn nhận. Bởi vậy mà tôi thấy ác cảm và không muốn thực hiện nó. Chỉ đến khi đó tôi mới nhận ra tôi đã dốc rất nhiều nỗ lực vào việc thực hiện bổn phận trước đây của mình bởi tôi có thể thể hiện mình và khiến người khác nể trọng. Tuy nhiên, bổn phận tiếp đãi không tài nào thỏa mãn tham vọng của tôi, bởi vậy tôi mới không thể vâng phục. Sau đó tôi nhận ra tôi luôn đem ưu tiên và lựa chọn cá nhân vào việc thực hiện bổn phận của mình, và tất cả những gì tôi quan tâm là danh tiếng, địa vị và làm thế nào nó có lợi cho tôi. Tôi đã không hề mưu cầu lẽ thật hay vâng phục Đức Chúa Trời!
Sau này tôi đọc được những lời này của Ngài: “Những ai có khả năng đưa lẽ thật vào thực hành có thể chấp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời khi làm mọi việc. Khi ngươi chấp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời, lòng ngươi được chỉnh đốn. Nếu ngươi chỉ từng làm mọi việc để cho người khác thấy và không chấp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời có còn ở trong lòng ngươi không? Những người như thế này không có lòng tôn kính Đức Chúa Trời. Đừng có lúc nào cũng làm mọi việc vì cớ ngươi, và đừng có lúc nào cũng chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của mình; đừng nghĩ đến địa vị, thanh thế hoặc danh tiếng của bản thân. Cũng đừng đoái hoài đến lợi ích của con người. Trước hết, ngươi phải nghĩ đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, và đặt chúng lên hàng đầu. Ngươi phải quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời và bắt đầu bằng việc suy ngẫm xem liệu ngươi có bất khiết trong việc thực hiện bổn phận của mình hay không, liệu ngươi đã làm hết sức mình để trung thành, làm hết sức mình để thực hiện trách nhiệm của mình, và cống hiến hết mình hay chưa, cũng như liệu ngươi đã hết lòng nghĩ về bổn phận của ngươi và công tác của nhà Đức Chúa Trời hay chưa. Ngươi cần phải cân nhắc những điều này. Hãy nghĩ về chúng thường xuyên, và ngươi sẽ dễ dàng thi hành bổn phận của mình hơn” (“Trao tấm lòng chân thật của mình cho Đức Chúa Trời và ngươi có thể có được lẽ thật” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Tôi tìm ra con đường thực hành trong lời Đức Chúa Trời. Tôi phải chấp nhận sự giám sát của Đức Chúa Trời trong việc thực hiện bổn phận của mình, có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, có thể buông bỏ lợi ích cá nhân và làm bất kỳ điều gì mang lại lợi ích cho hội thánh. Sau khi hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời, tôi cầu nguyện thế này: “Lạy Đức Chúa Trời, con sẵn sàng chấp nhận sự giám sát của Ngài. Con sẽ không bận tâm những gì người khác nghĩ về mình nữa. Con chỉ muốn có thể vâng phục sự sắp đặt của Ngài và thực hiện tốt bổn phận tiếp đãi của mình”. Những ngày sau đó, các chị em trong hội thánh biết được tôi mới đặt chân tới đất nước xa lạ này và việc mua đồ là rất khó khăn, nên họ thu xếp thời gian để đi mua sắm nhu yếu phẩm cùng tôi. Họ rất bận thực hiện bổn phận của mình, nhưng họ sẽ giúp tôi làm việc nhà khi có thể. Bất cứ khi nào tôi gặp chuyện, họ sẽ thông công cho tôi bằng lời Đức Chúa Trời, và bằng kinh nghiệm của chính họ để giúp đỡ và hỗ trợ tôi. Không có chị em nào coi thường hay xa lánh bởi tôi là người tiếp đãi cả. Tôi bắt đầu hiểu ra rằng thực sự không có cao hay thấp khi thực hiện bổn phận cùng anh chị em. Chúng ta chỉ thực hiện bổn phận và nghĩa vụ của mình trước Đức Chúa Trời. Sau trải nghiệm này, tôi nghĩ mình đã có thể vâng phục đôi chút trong bổn phận của mình, nhưng vì tôi không thực sự hiểu bản tính và thực chất của mình, Tôi vẫn chưa hoàn toàn buông bỏ được việc chạy theo danh tiếng và địa vị. Tôi lại sa ngã lần nữa ngay khi có một việc tôi không thích nảy sinh.
Một thời gian sau, lãnh đạo hội thánh gọi cho tôi nói rằng chị Chu đang rất bận rao giảng Phúc Âm, và chị ấy hỏi tôi có thể dành nửa ngày mỗi thứ Bảy để trông con gái chị Chu không. Tôi phản đối ý tưởng trông trẻ này ngay tức thì. Tôi từng quá bận rộn với việc kinh doanh đến nỗi thậm chí tôi còn không chăm sóc được cả con mình. Trông con cho người ta thực sự sẽ khiến tôi chẳng khác nào người trông giữ trẻ. Các anh chị em quen biết tôi sẽ nghĩ gì nếu họ phát hiện ra điều này? Tôi sẽ còn mặt mũi nào nữa? Nhưng rồi tôi nghĩ tới những khó khăn thực sự mà chị Chu gặp phải khi thực hiện bổn phận, và tôi biết nếu tôi không giúp chị ấy, lương tâm tôi sẽ cắn rứt. Tôi cân nhắc một hồi rồi đồng ý. Chiều thứ Bảy đó, tôi tới nhà chị Chu. Tôi trông trẻ gần như êm đẹp rồi, thì đến tối, con bé đột nhiên bắt đầu la hét đòi mẹ, và tôi không tài nào vỗ về con bé. Tôi vội kiếm đồ ăn để làm cho con bé vui. Tôi kể chuyện cho con bé nghe và bật hoạt hình cho nó xem, cuối cùng thì con bé cũng nín khóc. Trên đường về, tôi đi bộ và nghĩ: “Trông trẻ rất vất vả. Nó không chỉ vô cùng mệt mỏi, mà còn thực sự thấp kém và không được chú ý”. Càng nghĩ, tôi càng thêm rầu rĩ. Về tới nhà, tôi thấy các chị em đang vui vẻ thảo luận về những phần thưởng và kinh nghiệm mà họ thu được từ việc thực hiện bổn phận của mình. Tôi thấy ghen tị xen buồn bực. Tôi nghĩ, “Khi nào mình mới có thể làm bổn phận chăm tưới như các chị em mình? Trong bổn phận mà mình đang thực hiện, nếu mình không cọ rửa nồi chảo thì cũng đi trông trẻ. Mình có thể đạt được lẽ thật nào khi làm việc này đây? Liệu mọi người có cho rằng mình không sở hữu hiện thực của lẽ thật, nên mình chỉ có thể làm những việc tay chân hèn mọn thế này?” Suy nghĩ này càng làm tôi thêm buồn bực. Đêm đó, tôi nằm trở mình trên giường, không tài nào chợp mắt. Nên tôi cầu nguyện trước Đức Chúa Trời. Tôi nói: “Lạy Đức Chúa Trời, Con đang rất phiền lòng. Con luôn muốn thực hiện những bổn phận khiến con nổi bật, khiến người khác phải nể trọng mình. Lạy Đức Chúa Trời, con biết sự mưu cầu này là đi ngược ý Đức Chúa Trời, nhưng con thấy thật khó để quy phục. Đức Chúa Trời ơi, xin hãy chỉ đường và dẫn dắt con, và giúp con hiểu bản thân mình để con có thể từ bỏ tình trạng sai lầm này”.
Sau đó tôi đọc một số lời Đức Chúa Trời: “Tâm tính bại hoại của con người ẩn trong mọi suy nghĩ và tư tưởng của họ, trong các động cơ đằng sau mọi hành động của họ; nó ẩn trong mọi quan điểm con người có về bất cứ điều gì và trong mọi ý kiến, sự hiểu biết, quan điểm và tham muốn mà họ có khi tiếp cận với tất thảy những gì Đức Chúa Trời làm. Nó được che giấu trong những điều này” (“Chỉ thật sự vâng phục mới là đức tin thật” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Tâm tính sa-tan bại hoại ăn rất sâu trong con người; nó trở thành cuộc sống của họ. Chính xác là con người tìm kiếm gì và mong ước đạt được gì? Dưới thế lực lèo lái của một tâm tính sa-tan bại hoại, những lý tưởng, hy vọng, tham vọng, mục tiêu và phương hướng sống của con người là gì? Chúng không trái với những điều tích cực sao? Trước hết, con người luôn muốn được biết đến hay là người nổi tiếng; họ ao ước đạt được tiếng tăm và uy tín, và mang vinh dự về cho tổ tiên của họ. Đây có là những điều tích cực không? Những điều này không hề phù hợp với những điều tích cực; hơn nữa, chúng trái với luật pháp của việc Đức Chúa Trời có quyền thống trị vận mệnh của nhân loại. Tại sao Ta nói điều đó? Đức Chúa Trời muốn dạng người gì? Ngài có muốn một người vĩ đại, một người nổi tiếng, một người quý phái, hay một người làm chấn động thế giới không? (Không.) Như vậy thì Đức Chúa Trời muốn dạng người gì? Ngài muốn một người với đôi chân đứng vững trên mặt đất, người cố gắng là một tạo vật đủ tư cách của Đức Chúa Trời, người có thể thực hiện bổn phận của một tạo vật, và người có thể giữ vị trí của con người. … Vậy thì tâm tính sa-tan bại hoại mang lại gì cho con người? (Sự chống đối Đức Chúa Trời.) Điều gì đến với những người chống đối Đức Chúa Trời? (Sự đau đớn.) Đau đớn? Đó là sự hủy diệt! Sự đau đớn còn chưa bằng được một nửa của nó. Điều ngươi thấy ngay trước mắt mình là sự đau đớn, tiêu cực, và yếu đuối, và đó là sự chống đối và than oán – những điều này sẽ mang đến kết quả gì? Sự tiêu diệt! Đây không phải là vấn đề nhỏ và không phải là chuyện đùa” (“Tâm tính bại hoại chỉ có thể được giải quyết bằng cách tìm kiếm lẽ thật và dựa vào Đức Chúa Trời” trong Ghi chép về những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau khi tôi đọc những lời phán xét và mặc khải của Đức Chúa Trời, tôi thấy thật hổ thẹn. Tôi bắt đầu ngẫm nghĩ về bản thân: “Sao mình không bao giờ chịu vâng phục những việc mà Đức Chúa Trời an bài? Sao mình không bao giờ sẵn lòng thực hiện những bổn phận có vẻ nhỏ nhặt này? Mình thấy dường như bị người khác coi thường vì mình làm chúng, như thể là mình hèn kém vậy. Mình không thể ngẩng cao đầu, và thấy bản thân vô giá trị. Mình thấy dường như chỉ có những bổn phận quan trọng khiến mình nổi bật, và giành được sự ngưỡng mộ, đánh giá cao của người khác mới đáng làm”. Khi nhìn lại những suy nghĩ này, tôi thấy mình vẫn đang bị điều khiển bởi khát khao danh tiếng và địa vị. Tôi đã sống bằng những chất độc Satan như “Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện”. “Chim đi để tiếng, người đi để danh”, và “Người vươn đến tầm cao, nước chảy về chốn thấp”. Những chất độc này từ lâu đã bén rễ sâu và trở thành bản tính của tôi. Chúng khiến tôi vô cùng kiêu ngạo và tự phụ. Tôi muốn được người khác ngước nhìn. Tôi ham danh vọng, địa vị và xem đó là mục tiêu cuộc sống mà mình theo đuổi. Tôi nhận thấy đó cũng chính là những mục tiêu mà những người ngoài kia đang theo đuổi. Trước khi tôi bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời, tôi đã từng rất ganh đua. Tôi làm việc từ sáng đến tối và kiệt sức vì công việc để cố giữ cho nhà máy vận hành tốt. Bất cứ khi nào tôi về thăm quê, rồi bạn bè và người thân chào đón nồng nhiệt và gọi tôi là siêu nhân, sự tự phụ trong tôi lại được dịp thỏa mãn, và tôi sẽ sẵn sàng trả bất cứ giá nào. Tôi vẫn sống bám theo những quan điểm này sau khi đạt được đức tin của mình. Thực hiện bổn phận vì danh tiếng và địa vị khiến tôi bận tâm chuyện được và mất. Ở một vị trí mà người khác nể trọng, tôi thấy hạnh phúc. Không có vị trí đó, khi không thể nổi bật, tôi trở nên tiêu cực và buồn chán, tôi kháng cự Đức Chúa Trời, và tôi không chấp nhận hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời đã an bài. Càng nghĩ về điều đó, tôi càng nhận ra tất cả những gì mà những chất độc Sa-tan mang lại cho tôi là sự khổ đau và chúng khiến tôi kháng cự lại Đức Chúa Trời và chống đối Ngài dù bản thân không muốn thế. Nếu tôi cứ tiếp tục theo đuổi những điều đó, chắc chắn tôi sẽ phải chịu sự khinh miệt của Đức Chúa Trời và Ngài sẽ loại bỏ tôi. Càng nghĩ về nó, tôi càng thấy sợ hãi về con đường mình đang đi. Tôi vội vàng cầu nguyện và hối cải trước Đức Chúa Trời. Tôi không muốn theo đuổi danh vọng và địa vị hay được mọi người ngước nhìn tôi nữa, mà tôi muốn tìm đường trở thành một thụ tạo đích thực tương hợp với lời Đức Chúa Trời. Sau khi cầu nguyện, tôi trở nên bình tâm hơn.
Trong những lần thờ phượng của mình vào hôm sau, tôi đã đọc những lời này của Đức Chúa Trời: “Ngươi tin nơi Đức Chúa Trời và theo Đức Chúa Trời, thế thì trong lòng ngươi phải yêu mến Đức Chúa Trời. Ngươi phải vứt bỏ tâm tính bại hoại của mình, ngươi phải cố gắng thực hiện mong muốn của Đức Chúa Trời, và ngươi phải thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời. Vì ngươi tin vào Đức Chúa Trời và theo Đức Chúa Trời, ngươi phải dâng mọi thứ cho Ngài, không nên có các lựa chọn hay đòi hỏi cá nhân, và ngươi phải thực hiện được mong muốn của Đức Chúa Trời. Vì ngươi đã được dựng nên, ngươi phải vâng lời Chúa đã dựng nên ngươi, bởi ngươi vốn không có quyền tự trị bản thân, và không có khả năng kiểm soát số phận của chính mình. Vì ngươi là một người tin vào Đức Chúa Trời, ngươi phải tìm kiếm sự thánh khiết và sự thay đổi. Vì ngươi là một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, ngươi phải tuân thủ bổn phận của mình, giữ vị trí của mình, và không được phép vượt quá bổn phận của mình. Điều này không phải là để kìm hãm ngươi, hay ngăn chặn ngươi thông qua giáo lý, mà là con đường để ngươi thực hiện bổn phận của mình, và nó có thể đạt được – phải đạt được – bởi tất cả những ai làm điều công chính” (Thành công hay thất bại phụ thuộc vào con đường mà con người đi, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đọc lời Đức Chúa Trời khiến tôi hiểu được rằng là một thụ tạo, tôi nên tuân theo sự cai quản và an bài của Đức Chúa Trời. Tôi nên mưu cầu lẽ thật và mưu cầu sự thay đổi tâm tính của mình. Đây là bổn phận của tôi và đó là điều tôi cần theo đuổi. Tôi không thích việc mà Đức Chúa Trời đã an bài, nhưng việc đó xuất phát từ ý định cao đẹp của Đức Chúa Trời. Ngài cẩn thận an bài tất cả để làm tinh sạch và thay đổi tôi. Tôi không thể chạy theo danh tiếng và địa vị, hay kén chọn bổn phận của mình nữa. Tôi nên tập trung vào việc mưu cầu lẽ thật, và chấp nhận sự phán xét cũng như hình phạt của lời Đức Chúa Trời để chữa lành tâm tính bại hoại của mình. Tôi nên toàn tâm toàn ý thực hiện tốt bổn phận của mình.
Những ngày sau đó, tôi đã không còn bận tâm đến việc người khác nghĩ gì về mình, mà chỉ thực hiện bổn phận của mình trước Đức Chúa Trời. Đôi khi anh chị em bận rộn với bổn phận của họ và không có thời gian để chăm con cái, tôi sẽ đề nghị giúp đỡ. Khi tôi thấy anh chị em rao giảng Phúc Âm và đưa thêm nhiều người đến với Đức Chúa Trời, trong thâm tâm tôi thấy vui. Mặc dù tôi không thể nổi bật trong bổn phận của mình, tôi có thể khiến anh chị em an tâm và lặng lẽ làm phần việc của mình để mở rộng Phúc Âm của vương quốc. Đó cũng là điều ý nghĩa. Khi tôi thực hiện bổn phận tiếp đãi và giúp chăm trẻ, mặc dù lòng tự phụ và khát khao danh tiếng của tôi không được thỏa mãn, tôi thấy đó là việc rất đáng làm. Tôi biết rằng chạy theo danh tiếng và địa vị không phải là con đường đúng đắn. Vâng phục sự cai quản và an bài của Đức Chúa Trời và hết lòng thực hiện bổn phận của mình là những gì tôi nên mưu cầu. Tôi thực lòng bắt đầu hiểu ra rằng thực sự không có bổn phận cao hay thấp trong nhà Đức Chúa Trời. Bất kể tôi làm bổn phận gì, luôn có những bài học và những lẽ thật tôi nên thực hành và bước vào. Miễn là tôi vâng phục và theo đuổi lẽ thật, là tôi đã được ban thưởng rồi. Điều này khiến tôi hiểu Đức Chúa Trời công chính thế nào và Ngài không thiên vị một ai. Có được chút hiểu biết và thay đổi này là một phần thưởng mà Đức Chúa Trời ban cho cuộc đời tôi. Tạ ơn Đức Chúa Trời!