Hãy phụng sự như dân Y-sơ-ra-ên đã làm
Dạo này, nhiều người không chú ý đến những bài học nên được học trong khi phối hợp với người khác. Ta đã phát hiện ra rằng nhiều người trong các ngươi hoàn toàn không thể học được bài học trong khi phối hợp với những người khác; hầu hết các ngươi đều bám lấy những quan điểm riêng của mình. Khi làm việc trong hội thánh, ngươi nói phần ngươi còn người khác thì nói phần họ, và người này không liên kết với người kia; các ngươi không thật sự hợp tác chút nào. Các ngươi đều quá mê mải trong việc đơn thuần trao đổi những sự thông sáng của mình hay giải tỏa những “gánh nặng” mang trong mình, mà không tìm kiếm sự sống chút nào. Ngươi dường như chỉ đang làm việc một cách chiếu lệ, luôn tin rằng ngươi nên đi con đường của riêng mình cho dù bất kỳ ai nói hay làm gì; ngươi nghĩ mình nên thông công khi Đức Thánh Linh hướng dẫn ngươi, bất kể hoàn cảnh của những người khác có thể là gì. Ngươi không thể khám phá ra những thế mạnh của người khác, và cũng không có khả năng xem xét bản thân mình. Sự lĩnh hội mọi thứ của các ngươi thật sự lệch lạc. Có thể nói rằng ngay cả bây giờ, các ngươi vẫn thể hiện rất nhiều sự tự nên công chính, như thể các ngươi đã tái phát căn bệnh cũ. Các ngươi không trao đổi với nhau theo cách đạt được sự cởi mở hoàn toàn, ví dụ như, về dạng kết quả mà các ngươi đã đạt được từ công việc ở những hội thánh nhất định, hoặc về tình trạng gần đây của những trạng thái nội tại của ngươi, v.v.; các ngươi đơn giản là không bao giờ trao đổi về những điều như thế. Các ngươi tuyệt đối không có sự tham gia vào những sự thực hành chẳng hạn như bỏ đi những quan niệm của riêng mình hay chống lại bản thân mình. Những người lãnh đạo và cộng sự chỉ nghĩ đến cách giữ cho các anh chị em của họ khỏi tiêu cực và cách khiến họ có thể nhiệt tình đi theo. Tuy nhiên, tất cả các ngươi đều nghĩ bản thân việc nhiệt tình đi theo là đã đủ rồi, và về cơ bản, ngươi không có sự hiểu biết về ý nghĩa của việc biết chính mình và chống lại chính mình, càng không hiểu ý nghĩa của việc phụng sự trong sự phối hợp với người khác. Ngươi chỉ nghĩ đến việc bản thân mình có ý muốn đáp trả Đức Chúa Trời vì tình yêu của Ngài, đến việc bản thân mình có ý muốn sống thể hiện ra theo lối của Phi-e-rơ. Ngoài những điều này, ngươi không nghĩ về bất kỳ việc gì khác. Ngươi thậm chí còn nói rằng, bất kể những người khác làm gì, ngươi sẽ không thuận phục một cách mù quáng, và rằng bất kể những người khác như thế nào, bản thân ngươi sẽ tìm kiếm sự hoàn thiện bởi Đức Chúa Trời, và rằng điều đó là đủ. Tuy nhiên, thực tế là ý muốn của ngươi chưa cách nào tìm ra một sự thể hiện cụ thể trong hiện thực. Chẳng phải tất cả những điều này là dạng hành vi mà các ngươi biểu lộ ngày nay sao? Mỗi người trong các ngươi đều bám chặt lấy sự thông sáng của mình, và hết thảy các ngươi đều khao khát được làm cho hoàn thiện. Ta thấy rằng các ngươi đã phụng sự trong một thời gian dài như thế mà không có nhiều tiến bộ; đặc biệt, trong bài học này về việc làm việc cùng nhau trong sự hòa hợp, các ngươi đã hoàn toàn không đạt được gì! Khi đi xuống các hội thánh, ngươi trao đổi theo cách của ngươi, và những người khác thì trao đổi theo cách của họ. Hiếm khi có sự phối hợp hài hòa diễn ra, và điều này thậm chí càng đúng hơn với những môn đồ ở cấp dưới ngươi. Nói thế nghĩa là, hiếm khi bất kỳ ai trong các ngươi hiểu được phụng sự Đức Chúa Trời là gì, hay con người nên phụng sự Đức Chúa Trời như thế nào. Các ngươi mụ mẫm và coi những bài học dạng này như những vấn đề không quan trọng. Thậm chí còn có nhiều người không chỉ không thực hành phương diện này của lẽ thật, mà còn cố tình làm sai. Ngay cả những người đã phụng sự nhiều năm cũng đấu đá và mưu mô với nhau, đố kỵ và ganh đua; đó chính là mỗi người đều vì bản thân mình, và họ không hợp tác chút nào. Chẳng phải tất cả những điều này đại diện cho vóc giạc thật của các ngươi sao? Những người như các ngươi phụng sự cùng nhau trên cơ sở thường nhật giống như dân Y-sơ-ra-ên, những người đã trực tiếp phụng sự chính Đức Chúa Trời mỗi ngày trong đền thờ. Làm sao những người như các ngươi, những người phụng sự Đức Chúa Trời, lại có thể không biết cách phối hợp hay biết cách phụng sự chứ?
Trước kia, dân Y-sơ-ra-ên đã phụng sự Đức Giê-hô-va trực tiếp trong các đền thờ, và họ đã có thân phận là các thầy tế lễ. (Dĩ nhiên, không phải mọi người đều là thầy tế lễ; chỉ một số người đã phụng sự Đức Giê-hô-va trong đền thờ mới có thân phận đó). Họ đội mão mà Đức Giê-hô-va ban cho họ (nghĩa là họ làm những chiếc mão này theo yêu cầu của Đức Giê-hô-va; không phải là Đức Giê-hô-va trao trực tiếp mão cho họ). Họ cũng sẽ mặc áo thầy tế lễ mà Đức Giê-hô-va ban cho họ và trực tiếp phụng sự Ngài trong đền thờ, đi chân trần, từ sáng đến tối. Sự phụng sự của họ với Đức Giê-hô-va không hề vô tổ chức, và nó không liên quan đến việc chạy lăng xăng một cách mù quáng; thay vào đó, nó đều được thực hiện theo những phép tắc mà không ai trực tiếp phụng sự Ngài có thể vi phạm. Tất cả họ đều phải tuân theo những quy định này; nếu không, họ sẽ bị cấm bước vào đền thờ. Nếu bất kỳ ai trong số họ phá vỡ những quy định của đền thờ – nghĩa là, nếu bất kỳ ai bất tuân những điều răn của Đức Giê-hô-va – thì người đó phải bị xử theo những luật lệ mà Ngài đã ban, và không ai được phép phản đối điều này hay bảo vệ kẻ vi phạm. Cho dù họ đã phụng sự Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, tất cả đều được yêu cầu tuân theo các phép tắc. Vì lý do này, rất nhiều thầy tế lễ đã mặc lấy chiếc áo thầy tế lễ và không ngừng phụng sự Đức Giê-hô-va theo cách này, quanh năm suốt tháng, ngay cả khi Ngài không ban cho họ bất kỳ sự đối đãi đặc biệt nào. Họ thậm chí còn trải qua toàn bộ cuộc đời mình trước bàn thờ và trong đền thờ. Đây là một biểu hiện của lòng trung thành và sự thuận phục của họ. Không lạ gì khi Đức Giê-hô-va đã ban những phúc lành như thế cho họ; tất cả là vì lòng trung thành của họ mà họ đã nhận lãnh sự ưu ái và nhìn thấy tất cả những việc làm của Đức Giê-hô-va. Lúc ấy, khi Đức Giê-hô-va công tác ở Y-sơ-ra-ên giữa dân sự được Ngài chọn, Ngài đã đặt ra những yêu cầu rất nghiêm khắc với họ. Tất cả họ đều rất thuận phục và bị hạn chế bởi luật lệ; những luật lệ này là để gìn giữ khả năng kính sợ Đức Giê-hô-va của họ. Tất cả những điều này là các sắc lệnh quản trị của Đức Giê-hô-va. Nếu bất kỳ ai trong số các thầy tế lễ không giữ ngày Sa-bát hay vi phạm các điều răn của Đức Giê-hô-va, và nếu họ bị thường dân phát hiện, thì người đó sẽ bị đưa ngay đến trước bàn thờ và bị ném đá đến chết. Những xác chết đó không được phép đặt trong hay xung quanh đền thờ; Đức Giê-hô-va đã không cho phép điều đó. Bất kỳ ai làm như thế sẽ bị đối xử như người dâng “của tế lễ trần tục”, bị ném vào vực sâu lớn và bị xử tử. Dĩ nhiên, tất cả những người như thế sẽ mất đi sự sống của họ; sẽ không ai được tha. Thậm chí có những người dâng “lửa thiêu trần tục”; nói cách khác, những người đã không dâng lễ vào những ngày mà Đức Giê-hô-va chỉ định sẽ bị thiêu bởi lửa của Ngài cùng với những món dâng tế của họ, thứ không được phép để lại trên bàn thờ. Những yêu cầu đối với các thầy tế lễ như sau: Họ không được phép bước vào đền thờ, hay thậm chí sân ngoài đền thờ, mà không rửa chân trước; họ không thể bước vào đền thờ trừ khi mặc áo thầy tế lễ; họ không thể bước vào đền thờ trừ khi đã đội mão thầy tế lễ; họ không thể bước vào đền thờ nếu bị dơ bẩn bởi một xác chết; họ không thể bước vào đền thờ sau khi chạm tay vào một người bất chính, trừ khi họ rửa tay trước; và họ không thể bước vào đền thờ sau khi làm mình nhơ bẩn bởi đàn bà (trong ba tháng, không phải mãi mãi), họ cũng không được phép nhìn mặt Đức Giê-hô-va. Khi hết thời hạn – nghĩa là chỉ sau ba tháng, họ mới được phép mặc áo thầy tế lễ sạch – khi đó họ phải phụng sự ở sân ngoài trong bảy ngày trước khi có thể bước vào đền thờ để nhìn mặt Đức Giê-hô-va. Họ được phép mặc bất cứ trang phục thầy tế lễ nào chỉ trong đền thờ mà thôi, và không bao giờ được mặc ở ngoài, để tránh làm nhơ bẩn đền thờ của Đức Giê-hô-va. Tất cả những ai là thầy tế lễ phải đưa các tội nhân đã vi phạm luật pháp của Đức Giê-hô-va đến trước bàn thờ Ngài, nơi chúng sẽ bị xử tử bởi thường dân; nếu không, lửa sẽ thiêu thầy tế lễ đã chứng kiến tội ác. Do vậy, họ luôn trung thành với Đức Giê-hô-va, bởi vì luật pháp của Ngài rất nghiêm khắc với họ, và họ tuyệt đối không bao giờ dám tùy tiện vi phạm các sắc lệnh quản trị của Ngài. Dân Y-sơ-ra-ên trung thành với Đức Giê-hô-va bởi vì họ đã thấy lửa của Ngài, và đã thấy bàn tay mà Ngài dùng để hành phạt con người, và cũng bởi vì từ đầu họ đã có lòng kính sợ như thế với Ngài. Vì lẽ ấy, điều họ đã đạt được không chỉ là lửa của Đức Giê-hô-va, mà là sự chăm sóc của Ngài, sự bảo vệ của Ngài, và những phúc lành của Ngài. Lòng trung thành của họ chính là họ tuân giữ những lời của Đức Giê-hô-va trong mọi hành động, và không ai phản nghịch cả. Nếu có bất kỳ sự phản nghịch nào xảy ra, những người khác vẫn sẽ thực hiện những lời của Đức Giê-hô-va, xử tử bất kỳ ai phản nghịch Đức Giê-hô-va, và không hề bao che cho người đó khỏi Ngài. Những ai vi phạm ngày Sa-bát, những kẻ phạm tội lang chạ, và những kẻ ăn cắp của lễ dâng lên Đức Giê-hô-va sẽ bị hành phạt đặc biệt nghiêm trọng. Những kẻ vi phạm ngày Sa-bát bị họ (thường dân) ném đá đến chết, hoặc bị đánh đến chết, không có ngoại lệ. Những kẻ phạm tội gian dâm – kể cả những người ham muốn những phụ nữ hấp dẫn hay nảy sinh những ý nghĩ dâm đãng khi nhìn thấy những phụ nữ đồi bại, hay những người trở nên đầy dục vọng khi nhìn thấy phụ nữ trẻ – đều sẽ bị xử tử. Nếu bất kỳ người phụ nữ trẻ nào không mang khăn che hay mạng mà cám dỗ một người đàn ông thực hiện hành vi bất chính, người phụ nữ đó sẽ bị xử tử. Nếu người đàn ông là thầy tế lễ (người phụng sự trong đền thờ) vi phạm những luật lệ dạng này, ông ta sẽ bị đóng đinh vào thập giá hay bị treo cổ. Không người nào như thế được phép sống cả, và không một người nào được ơn trước Đức Giê-hô-va. Những người họ hàng của loại đàn ông này sẽ không được phép dâng của tế lễ lên Đức Giê-hô-va trước bàn thờ trong ba năm sau khi ông ta chết, họ cũng không được phép chia những của tế lễ được Đức Giê-hô-va ban cho dân thường. Chỉ khi hết thời gian đó, họ mới có thể đặt những gia súc hay chiên chất lượng tốt nhất lên bàn thờ Đức Giê-hô-va. Nếu phạm phải bất kỳ sự vi phạm nào khác, họ phải nhịn ăn ba ngày trước Đức Giê-hô-va, van xin ân điển của Ngài. Họ thờ phượng Đức Giê-hô-va không chỉ vì luật pháp của Ngài quá nghiêm khắc và quá khắt khe; họ làm như thế vì ân điển của Ngài và lòng trung thành của họ với Ngài. Như thế, cho đến ngày nay, họ vẫn trung thành như vậy trong việc phụng sự của mình, và họ không bao giờ phải trở lại van nài trước Đức Giê-hô-va. Ngày nay, dân Y-sơ-ra-ên vẫn nhận lãnh sự chăm sóc và bảo vệ của Ngài, và Ngài vẫn là ân điển giữa họ, luôn ở bên họ. Hết thảy họ đều biết mình nên kính sợ Đức Giê-hô-va như thế nào, và nên phụng sự Ngài như thế nào, và hết thảy họ đều biết mình phải hành động như thế nào để nhận lãnh sự chăm sóc và bảo vệ của Ngài; đây là vì hết thảy họ đều kính sợ Ngài trong lòng mình. Bí mật cho thành công của toàn bộ sự phụng sự của họ không gì khác hơn là sự kính sợ. Thế còn hết thảy các ngươi ngày nay thì như thế nào? Các ngươi có chút gì giống với dân Y-sơ-ra-ên không? Ngươi có nghĩ rằng việc phụng sự ngày nay giống với việc đi theo sự lãnh đạo của một nhân vật tâm linh vĩ đại không? Các ngươi hoàn toàn không có bất kỳ sự trung thành và kính sợ nào. Các ngươi nhận lãnh ân điển đáng kể, và tương đương với các thầy tế lễ Y-sơ-ra-ên ở chỗ tất cả các ngươi đều phụng sự Đức Chúa Trời một cách trực tiếp. Mặc dù các ngươi không bước vào đền thờ, điều các ngươi nhận lãnh và điều các ngươi nhìn thấy thì nhiều hơn nhiều so với những gì các thầy tế lễ đã phụng sự Đức Giê-hô-va trong đền thờ được nhận lãnh. Tuy nhiên, các ngươi phản nghịch và chống đối nhiều lần hơn họ đã từng. Lòng kính sợ của các ngươi quá nhỏ nhoi, và kết quả là, các ngươi nhận được rất ít ân điển. Mặc dù các ngươi cống hiến rất ít, nhưng các ngươi đã nhận lãnh nhiều hơn rất nhiều so với dân Y-sơ-ra-ên đã từng. Trong toàn bộ những điều này, chẳng phải các ngươi được đối xử một cách nhân từ sao? Trong khi công tác ở Y-sơ-ra-ên được thực hiện, người ta đã không dám tùy ý phán xét Đức Giê-hô-va. Nhưng còn các ngươi thì sao? Nếu không phải vì công tác mà Ta hiện đang làm để chinh phục các ngươi, thì làm sao Ta có thể dung thứ việc các ngươi đã làm hổ danh Ta một cách phạm thượng được? Nếu thời đại mà các ngươi đang sống là Thời đại Luật pháp, vậy thì với những hành động và lời nói của các ngươi, không một người nào trong các ngươi còn sống cả. Lòng kính sợ của các ngươi thật ít ỏi! Các ngươi luôn oán trách Ta vì đã không ban nhiều sự ưu ái cho các ngươi, và các ngươi thậm chí tuyên bố rằng Ta không ban cho các ngươi đủ những lời chúc phúc, và rằng Ta chỉ nguyền rủa các ngươi. Các ngươi không biết rằng với lòng kính sợ Ta ít ỏi như thế, các ngươi không thể chấp nhận những phúc lành của Ta sao? Các ngươi không biết rằng Ta không ngừng rủa sả và phán xét các ngươi bởi tình trạng phụng sự đáng buồn của các ngươi sao? Có phải tất cả các ngươi đều cảm thấy rằng các ngươi đã bị đối đãi bất công? Làm sao Ta có thể ban những phúc lành của Ta cho một nhóm người phản nghịch và không thuận phục? Làm sao Ta có thể tùy tiện ban ân điển của Ta cho những người làm ô danh Ta? Các ngươi đều đã được đối xử cực kỳ tử tế. Nếu dân Y-sơ-ra-ên phản nghịch như các ngươi ngày nay, Ta hẳn đã tiêu diệt họ từ lâu rồi. Tuy nhiên, Ta đối đãi với các ngươi không có gì ngoài sự khoan dung. Đây không phải là lòng nhân từ sao? Các ngươi có ao ước được những phúc lành to lớn hơn như thế này không? Đức Giê-hô-va chỉ ban phúc lành cho những ai kính sợ Ngài. Ngài hành phạt những kẻ nổi loạn chống lại Ngài, không bao giờ tha thứ cho một ai trong số họ. Chẳng phải con người các ngươi ngày nay, những kẻ không biết cách phụng sự, cần hình phạt và phán xét hơn, để lòng các ngươi có thể được xoay chuyển hoàn toàn sao? Sự trừng phạt và phán xét như thế chẳng phải là những dạng phúc lành tốt nhất để ban trên các ngươi sao? Chẳng phải chúng là sự bảo vệ tốt nhất của các ngươi sao? Không có chúng, có bất kỳ ai trong các ngươi sẽ có thể chịu được lửa thiêu của Đức Giê-hô-va không? Nếu các ngươi có thể thật sự phụng sự trung thành như dân Y-sơ-ra-ên, chẳng phải các ngươi cũng sẽ có được ân điển như người bạn đồng hành liên tục của các ngươi sao? Chẳng phải các ngươi cũng sẽ thường có được sự hân hoan và đủ ơn huệ sao? Hết thảy các ngươi có biết các ngươi nên phụng sự như thế nào không?
Yêu cầu được đặt ra cho các ngươi ngày nay – làm việc cùng nhau trong sự hòa hợp – cũng tương tự như sự phụng sự mà Đức Giê-hô-va đã yêu cầu dân Y-sơ-ra-ên: Nếu không, hãy chỉ việc dừng phụng sự. Bởi vì các ngươi là những người phụng sự Đức Chúa Trời một cách trực tiếp, tối thiểu là các ngươi phải có khả năng trung thành và thuận phục trong sự phụng sự của mình, và cũng phải có thể học được những bài học theo cách thực tế. Đặc biệt là đối với những ai trong các ngươi đang làm việc trong hội thánh, những anh chị em cấp dưới các ngươi có dám tỉa sửa với các ngươi không? Có bất kỳ ai dám nói với các ngươi về những sai phạm của các ngươi trước mặt các ngươi không? Các ngươi đứng cao hơn bất kỳ ai khác; các ngươi thống trị như những vị vua! Các ngươi thậm chí không tìm hiểu hay bước vào những dạng bài học thực tế này, ấy thế mà các ngươi vẫn nói về việc phụng sự Đức Chúa Trời! Trong hiện tại, ngươi được yêu cầu dẫn dắt một số hội thánh, nhưng ngươi không chỉ không từ bỏ bản thân mình, mà ngươi thậm chí còn bám lấy những quan niệm và quan điểm của mình, nói những điều như: “Tôi nghĩ điều này nên được làm theo cách này, vì Đức Chúa Trời đã nói rằng chúng ta không nên bị người khác kìm kẹp và rằng ngày nay chúng ta không nên thuận phục một cách mù quáng”. Vì lẽ ấy, mỗi người trong các ngươi giữ lấy quan niệm của riêng mình, và không ai nghe lời ai. Mặc dù các ngươi biết rõ rằng việc phụng sự của mình đang ở ngõ cụt, các ngươi vẫn nói: “Theo tôi thấy, cách của tôi không phải là hoàn toàn không đúng. Trong bất cứ trường hợp nào, mỗi người chúng ta đều có một phương diện: Anh nói cái của anh, và tôi sẽ nói cái của tôi; anh thông công về những khải tượng của anh, và tôi sẽ nói về lối vào của tôi”. Ngươi không bao giờ chịu trách nhiệm về nhiều điều mà ngươi nên bị tỉa sửa, hay ngươi chỉ đơn giản là xoay sở, mỗi người trong các ngươi tuôn xả những quan niệm riêng của mình và thận trọng bảo vệ địa vị, thanh danh, và mặt mũi mình. Không ai trong các ngươi sẵn lòng khiêm nhường, và không bên nào chủ động nhún nhường và bù đắp cho những sự thiếu sót của nhau để cho cuộc sống có thể tiến triển nhanh hơn. Khi các ngươi phối hợp cùng nhau, các ngươi nên học tìm kiếm lẽ thật. Ngươi có thể nói: “Tôi không hiểu rõ về khía cạnh này của lẽ thật. Anh có kinh nghiệm về việc đó như thế nào?” Hoặc ngươi có thể nói: “Anh có nhiều kinh nghiệm hơn tôi về khía cạnh này; anh có thể vui lòng hướng dẫn cho tôi một chút được không?” Chẳng phải đó sẽ là cách hay để tỉa sửa việc đó sao? Các ngươi đã nghe rất nhiều bài giảng, và có chút kinh nghiệm trong việc thực hiện phụng sự. Nếu các ngươi không học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau, và bù đắp cho những sự thiếu sót của nhau, thì làm thế nào các ngươi có thể học được bài học? Bất cứ khi nào đối mặt với bất cứ điều gì, các ngươi nên thông công với nhau hầu cho sự sống của các ngươi có thể được lợi. Hơn nữa, các ngươi nên cẩn thận thông công về những điều thuộc đủ mọi dạng trước khi đưa ra bất kỳ quyết định nào. Chỉ bằng cách làm như thế các ngươi mới có trách nhiệm với hội thánh thay vì chỉ đơn giản hành động một cách chiếu lệ. Sau khi các ngươi đã ghé thăm tất cả các hội thánh, các ngươi nên tập hợp lại với nhau và thông công về tất cả những vấn đề mà các ngươi phát hiện ra và bất kỳ vấn đề nào các ngươi gặp phải trong công việc, và rồi các ngươi nên trao đổi về sự khai sáng và soi sáng mà các ngươi đã nhận được – đây là một sự thực hành phụng sự không thể thiếu. Các ngươi phải đạt được sự phối hợp hài hòa vì mục đích công tác của Đức Chúa Trời, vì lợi ích của hội thánh, và để thúc đẩy các anh chị em ngươi tiến lên. Ngươi nên phối hợp với nhau, mỗi người cải thiện người khác và đi đến một kết quả công việc tốt đẹp hơn, quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời. Đây mới là sự hợp tác thực sự, và chỉ những ai tham gia vào đó mới đạt được lối vào thực sự. Trong khi phối hợp, một số lời mà các ngươi nói có thể không phù hợp, nhưng điều đó không quan trọng. Hãy thông công về điều đó sau, và có được sự hiểu biết rõ về nó; đừng sao lãng nó. Sau dạng thông công này, ngươi có thể bù đắp cho những thiếu sót của các anh chị em ngươi. Chỉ bằng cách đi càng sâu hơn bao giờ hết vào công tác của ngươi như thế này, ngươi mới có thể đạt được những kết quả tốt hơn. Mỗi người các ngươi, những kẻ phụng sự Đức Chúa Trời, phải có thể bảo vệ những lợi ích của hội thánh trong mọi việc các ngươi làm, thay vì chỉ cân nhắc những lợi ích của riêng mình. Hoạt động một mình, dìm nhau là điều không thể chấp nhận. Những người hành xử như thế không phù hợp để phụng sự Đức Chúa Trời! Những người như thế có tâm tính tệ hại; không chút nhân tính nào còn lại trong họ. Họ một trăm phần trăm là Sa-tan! Họ là súc vật! Ngay cả bây giờ, những điều như thế vẫn xảy ra giữa các ngươi; các ngươi thậm chí đi xa đến mức tấn công lẫn nhau trong khi thông công, cố ý tìm cớ và trở nên đỏ mặt tía tai khi tranh luận về một vấn đề nhỏ nhặt nào đó, không ai sẵn lòng chịu nhượng bộ, mỗi người đều che đậy những ý nghĩ bên trong mình khỏi người khác, chăm chú theo dõi bên kia và luôn cảnh giác. Dạng tâm tính này có phù hợp để phụng sự Đức Chúa Trời không? Công tác như của ngươi có cung cấp cho các anh chị em ngươi được bất cứ thứ gì không? Ngươi không chỉ không thể hướng dẫn mọi người đi vào lối sống đúng đắn, mà còn thật sự tiêm nhiễm tâm tính bại hoại của ngươi vào các anh chị em ngươi. Chẳng phải ngươi đang làm tổn thương người khác sao? Lương tâm của ngươi thật kinh khủng, và nó thối nát đến tận thâm căn! Ngươi không bước vào hiện thực, ngươi cũng không đưa lẽ thật vào thực hành. Ngoài ra, ngươi trơ trẽn phơi bày bản chất gian tà của ngươi với người khác. Ngươi đơn thuần không biết xấu hổ! Các anh chị em này đã được giao phó cho ngươi, ấy thế mà ngươi đang đưa họ xuống địa ngục. Chẳng phải ngươi là kẻ có lương lâm đã trở nên thối nát sao? Ngươi hoàn toàn không biết xấu hổ!