Cuối cùng đã giải trừ được những hiểu lầm

16/09/2022

Bởi Hữu Tâm, Hàn Quốc

Cách đây mấy năm, tôi sản xuất video trong hội thánh. Có thời điểm tôi không làm tốt bổn phận, và hai video tôi sản xuất đều bị đình lại vì vấn đề ý tưởng. Lúc đó, tôi rất buồn, bởi vì tôi sợ các anh chị em sẽ xem thường mình. Để chứng minh năng lực làm việc của mình, tôi đã làm việc rất chăm và dành vài ngày để lên kế hoạch cho video mới, nhưng sau khi đọc bản kế hoạch, lãnh đạo chỉ ra rằng ý tưởng này bị lỗi thời và không rõ ràng. Sau khi thảo luận, mọi người đều cảm thấy kế hoạch này không đáng để thực hiện, nên đã gạt đi. Tôi cảm thấy đó là thất bại, rơi vào tình trạng tiêu cực, và không còn tinh thần làm bổn phận. Vài ngày sau, hội thánh định chọn ra một người giám sát công tác sản xuất video, và tôi vô tình phát hiện một số anh chị em nói đầu óc tôi mụ mị và không sáng sủa. Lòng tôi liền chùng xuống, tâm trí thì rối bời. “Lãnh đạo nói rằng suy nghĩ của mình mụ mị, các anh chị em thì bảo đầu óc của mình mụ mị. Thế chẳng phải nói mình là kẻ mụ mị à? Người mụ mị có thể hiểu được lẽ thật và được Đức Chúa Trời cứu rỗi không? Mình sẽ bị loại bỏ sao?” Suy nghĩ đó khiến tôi cảm thấy rất tiêu cực và dày vò, chỉ muốn thoát khỏi hoàn cảnh đó.

Ngày hôm sau, tôi khóc mà nói với lãnh đạo: “Tố chất của tôi quá kém, bổn phận này lại quá khó. Hãy cho tôi làm bổn phận khác đi”. Lãnh đạo mới thông công với tôi rằng: “Chúng ta đều có thiếu sót, chắc chắn sẽ có thất bại và bước lùi trong bổn phận. Nếu có vấn đề hay sai lệch gì, chúng ta phải tổng kết nó, tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề, rồi tiếp tục nỗ lực. Bổn phận này không phải là bất khả thi với chị”. Nhưng lúc đó, tôi chẳng tiếp thu nổi, tôi chỉ muốn bỏ đi mà thôi. Thế là tôi rời đi, trong lòng mang hiểu lầm về Đức Chúa Trời và thấy mình bị các anh chị em ghẻ lạnh. Sau đó, tôi đi truyền bá phúc âm. Sau một thời gian làm việc chăm chỉ, tôi ngày càng hiệu quả hơn trong bổn phận, và các anh chị em trong nhóm thường tìm đến tôi mỗi khi có thắc mắc gì. Tôi cảm thấy mình đã lấy lại được phần nào tự tin. Ngày nào, tôi cũng vui vẻ, đầy sinh lực để thực hiện bổn phận.

Nhưng không ngờ rằng, một năm sau, vì nhu cầu công tác, lãnh đạo lại sắp xếp cho tôi làm video. Mới đầu, tôi có hiệu quả trong bổn phận và không bị kìm hãm gì cả. Nhưng về sau, khi cần cải tiến việc sản xuất video, suy nghĩ của tôi không theo kịp và các kế hoạch tôi đưa ra luôn bị từ chối, tôi lại rơi vào tình trạng tiêu cực. Tôi tin chắc mình có tố chất kém, đầu óc mụ mị và không thể làm được bổn phận này. Trưởng nhóm thấy tôi khá tiêu cực trong bổn phận và không mang gánh trọng trách, nên đã kiên nhẫn thông công về lẽ thật với tôi, hỗ trợ và giúp đỡ tôi, cuối cùng, anh ấy bảo tôi rằng: “Chị và anh Dương có thâm niên làm video tương tự nhau. Anh ấy rất sốt sắng, giỏi học hỏi và đúc kết, đã có tiến bộ trong bổn phận. Chị thì không được như thế, nên chị cần dốc sức vào”. Nhưng khi nghe thế, tôi thấy khó chịu vô cùng. Tôi nghĩ: “Anh đã chỉ ra vấn đề trong bổn phận của tôi, nên tôi sẽ thay đổi. Nhưng tại sao lại đem tôi so sánh với anh Dương? Anh ấy có tố chất tốt, suy nghĩ sáng tỏ, và luôn là đối tượng được bồi dưỡng. Tôi thì chẳng được thế. Tôi đâu cùng đẳng cấp với anh ấy. Làm sao mà so sánh được”. Tôi cự lại với những lời khuyên và giúp đỡ của trưởng nhóm, lại chẳng phản tỉnh bản thân. Khoảng một tuần sáu, trưởng nhóm phát hiện tôi và chị Chu không hòa hợp trong công việc, nên đã thông công với tôi: “Chị được giao làm cộng sự với chị Chu. Chị ấy có đầu óc linh hoạt hơn, còn chị có kỹ thuật tốt hơn, nên hai người bổ khuyết cho nhau. Chị nên thảo luận với chị ấy nhiều hơn, lắng nghe ý kiến của chị ấy hơn, và học hỏi từ điểm mạnh của chị ấy. Như thế mới tiến bộ được. Gần đây, kết quả trong bổn phận của chị không tốt, ý tưởng chị đề xuất để làm video thì lỗi thời. Chị không nghĩ mình cần phản tỉnh chuyện này à?” Tôi rất buồn khi nghe trưởng nhóm vạch trần vạch trần của tôi như thế. Tôi cảm thấy anh ấy xem thường và khinh bỉ mình. Cách đây mấy ngày, anh ấy đã chỉ ra vấn đề của tôi, giờ khi tôi còn chưa xoa dịu, anh ấy lại vạch trần tôi. Càng nghĩ về chuyện đó tôi càng thấy buồn phiền, khóc vì chán nản. Tôi không kìm nổi câu nói mà đến giờ tôi vẫn còn ân hận: Tôi nói với anh ấy: “Trong nhóm, tôi thấy mình là kẻ dư thừa. Tôi chẳng giúp ích gì, mà anh cứ giữ tôi lại”. Trưởng nhóm nghe thế thì sững sờ. Anh ấy bảo: “Sao chị có thể nói vậy chứ? Đâu có ai nhìn nhận chị như vậy! Chúng ta phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề trong bổn phận. Không được tiêu cực và chống đối”. Nhưng dù trưởng nhóm thông công thế nào, tôi cũng không chịu nghe. Tôi cảm thấy mình mình mụ mị, thấy Đức Chúa Trời không hài lòng với tôi, thấy các anh chị em chẳng hoan nghênh tôi, và thấy tôi bị đẩy ra rìa, là kẻ muốn bỏ lúc nào thì bỏ trong nhóm này. Càng nghĩ, tôi càng thấy bất bình, tôi đã sống trong tình trạng hiểu lầm và tiêu cực, quan hệ giữa tôi và Đức Chúa Trời ngày càng xa cách, tôi ngày càng mất tự tin. “Tố chất mình kém” đã thành khẩu quyết của tôi.

Về sau, khi làm video với một cộng sự, mỗi khi chị ấy có quan điểm khác biệt lúc thảo luận, tôi liền thỏa hiệp và nói rằng: “Tố chất của tôi kém, ý tưởng thì không hay. Chị thấy đúng vấn đề, nên cứ làm theo ý chị đi”. Rồi tôi xóa bỏ đề xuất của mình. Thấy thế, cộng sự của tôi mới lo lắng hỏi: “Tại sao chị xóa nó? Tôi có nhiều thiếu sót, và đâu hẳn là nhìn thấy đúng vấn đề”. Rồi chị bắt đầu kể cho tôi về tình trạng của mình. Chị nói mình đã mang tâm tính kiêu ngạo khi làm với tôi, chị có hơi xem thường tôi, và đã phải phản tỉnh bản thân. Sau khi nghe chị nói thế, bề ngoài tôi tỏ ra bình thản, nhưng trong lòng đau đớn lắm, chẳng muốn đào sâu chủ đề này với chị ấy, nên tôi cố ép mình nói rằng: “Bộc lộ sự bại hoại có thể tha thứ được mà. Khi làm bổn phận với người có tố chất kém như tôi, ai mà chẳng thế? Nếu là chị, tôi hẳn cũng như vậy”. Lúc đó, chị ấy thấy hoang mang và không biết nói sao với tôi. Thế là, tôi cứ sống trong tình trạng tiêu cực và hiểu lầm. Lòng tôi dày vò và đau khổ, rất khó để thực hiện bổn phận, nhất là sau khi hoàn thành một video, và cần giải thích ý tưởng nền của video này rồi nhờ mọi người góp ý, tôi hiếm khi lên tiếng, chẳng dám tham gia thảo luận, nên đều nhờ người cộng sự đứng ra làm hết. Trong mấy ngày đó, tình trạng của tôi rất tệ. Ban đêm, những lúc trằn trọc, tôi cứ nghĩ: “Tại sao mình luôn tự kìm hãm bản thân trong bổn phận và không có chút tự tin nào? Tại sao mình lại sợ bị xem thường đến vậy? Tại sao cuộc sống mình lại dày vò thế này?” Tôi chẳng muốn chán nản như thế này nữa. Tôi muốn sống trong tình trạng tích cực như những người khác, có thể làm bổn phận một cách bình thường, nhưng tôi chẳng thể bỏ được tình trạng tiêu cực này. Tôi chỉ có thể kêu cầu Đức Chúa Trời cứu rỗi và giúp tôi thoát khỏi khổ cảnh này.

Không lâu sau, trong một buổi hội họp, tôi nghe lãnh đạo đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời đã khiến tôi nhận ra vấn đề và biến chuyển tình trạng của mình. Đức Chúa Trời phán: “Khi con người lạc xa khỏi Đức Chúa Trời, khi họ sống trong tình trạng hiểu sai về Đức Chúa Trời, hoặc chống đối, chống lại Đức Chúa Trời và cãi lại Đức Chúa Trời, thì họ đã hoàn toàn rời bỏ sự chăm sóc và bảo vệ của Đức Chúa Trời, họ đã hoàn toàn rời xa ánh sáng của sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Khi người ta sống trong tình trạng như thế này, họ không thể không sống theo cảm xúc của chính mình. Một suy nghĩ nhỏ nhặt nào đó cũng có thể khiến ngươi bị xáo trộn đến mất ăn mất ngủ, một lời nhận xét vô ý của ai đó cũng có thể khiến ngươi rơi vào nghi ngờ và hoang mang, thậm chí một cơn ác mộng thôi cũng có thể khiến ngươi tiêu cực và khiến ngươi hiểu sai về Đức Chúa Trời. Một khi loại vòng luẩn quẩn này đã thành hình, người ta nghĩ rằng họ kể như xong, rằng họ không còn hy vọng, rằng Đức Chúa Trời không yêu thương họ, rằng họ đã bị Đức Chúa Trời bỏ rơi, rằng Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi họ. Càng nghĩ theo cách này và càng có nhiều cảm xúc như vậy, họ càng bị sa vào tiêu cực. Lý do thực sự cho việc người ta có những cảm giác này là bởi vì họ không tìm kiếm lẽ thật hoặc thực hành theo các nguyên tắc của lẽ thật. Và bởi vì, khi điều gì đó xảy ra với mình, người ta không tìm kiếm lẽ thật và không thực hành lẽ thật, bởi vì họ luôn đi theo con đường riêng của họ và sống giữa những mưu đồ nhỏ nhặt của mình, ngày nào cũng so sánh bản thân với người khác và cạnh tranh với người khác, đố kỵ và ghen ghét bất cứ ai giỏi hơn mình, giễu cợt và mỉa mai bất cứ ai họ cho là thấp kém hơn mình, sống trong tâm tính của Sa-tan, không làm mọi việc theo các nguyên tắc của lẽ thật. Cuối cùng điều này dẫn đến đủ loại ảo tưởng, suy đoán và phán xét, chúng khiến bản thân họ luôn lo lắng và không tiếp nhận lời khuyên của bất kỳ ai. Chẳng phải đây là lỗi của chính họ sao? Chỉ có con người mới có thể tự chuốc đầy trái đắng như vậy – và họ thực sự đáng bị như thế. Điều gì gây ra tất cả những điều này? Con người không tìm kiếm lẽ thật, họ hành động theo khuynh hướng của riêng mình, họ luôn khoe khoang và so sánh mình với người khác, họ đưa ra những đòi hỏi vô lý với Đức Chúa Trời, họ luôn cố gắng làm mình nổi bật, v.v. – tất cả những điều này khiến người ta lạc khỏi Đức Chúa Trời hết lần này đến lần khác, chống đối Đức Chúa Trời và bất chấp lẽ thật hết lần này đến lần khác. Cuối cùng, họ lao vào bóng tối và sự tiêu cực. Và những lúc như vậy, con người không thể có hiểu biết thuần túy về những điều xảy ra với mình, không thể có thái độ đúng đắn đối với những sự việc ấy; thay vào đó, họ than oán về Đức Chúa Trời, hiểu sai về Đức Chúa Trời, cố gắng suy đoán về Đức Chúa Trời. Khi điều này xảy ra, người ta nhận ra mình đang có vấn đề, vì vậy họ xác định rằng mình đang chống đối Đức Chúa Trời, và họ không thể không chìm vào tiêu cực, không thể tự kéo mình ra được. Những gì họ tin là: ‘Đức Chúa Trời không muốn mình, Đức Chúa Trời không yêu thương mình, mình quá phản nghịch, mình đã làm điều này với chính mình, Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi mình nữa’. Họ xác định những nghi ngờ trong lòng mình là sự thật, và dù ai có thông công với họ và cố gắng giải thích đi nữa cũng chẳng ích gì. Điều họ tin là: ‘Tất cả những điều này đều là sự thật, tất cả đều thật, Đức Chúa Trời sẽ không ban phước cho mình, Ngài sẽ không cứu rỗi mình, vậy thì tin Đức Chúa Trời để làm gì?’. Khi con đường đức tin nơi Đức Chúa Trời của họ đã đến mức này, liệu người ta có còn khả năng tin không? Không. Tại sao họ không thể tiếp tục nữa? Có một sự thật ở đây. Khi sự tiêu cực của con người đạt đến một mức độ nào đó, khi lòng họ tràn ngập sự chống đối và than oán, và họ muốn cắt đứt mọi liên hệ với Đức Chúa Trời, thì đây không còn đơn giản là việc họ không kính sợ Đức Chúa Trời, không vâng lời Đức Chúa Trời, không yêu lẽ thật và không tiếp nhận lẽ thật nữa. Thay vào đó, điều gì đang xảy ra? Trong thâm tâm, họ đã tự quyết định từ bỏ đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời. Họ nghĩ rằng thật đáng xấu hổ khi thụ động chờ bị bỏ ra, rằng lựa chọn từ bỏ sẽ có giá hơn, vì vậy họ chủ động và tự ngừng mọi thứ. Họ lên án đức tin nơi Đức Chúa Trời là xấu, họ lên án lẽ thật là không thể thay đổi con người, và họ lên án Đức Chúa Trời là không công chính, buồn bực hỏi tại sao Đức Chúa Trời không cứu rỗi họ: ‘Mình đã hy sinh rất nhiều, mình đã rất tha thiết, mình đã làm việc rất chăm chỉ, mình đã chịu khổ nhiều hơn những người khác rất nhiều và đã cố gắng nhiều hơn mọi người khác rất nhiều, vậy mà Đức Chúa Trời vẫn không ban phước cho mình. Bây giờ mình thấy Đức Chúa Trời không thích mình, Đức Chúa Trời không công bằng’. Họ có gan để biến những nghi ngờ của họ về Đức Chúa Trời thành lên án và báng bổ Đức Chúa Trời. Khi những điều như vậy thành hình, họ có thể tiếp tục trên con đường đức tin nơi Đức Chúa Trời nữa không? Bởi vì họ phản nghịch Đức Chúa Trời và chống đối Đức Chúa Trời, không hề tiếp nhận lẽ thật và phản tỉnh về bản thân mình, nên họ đã bị mất quyền(“Nhận diện các lãnh đạo giả”). Cảm giác như mỗi một lời Đức Chúa Trời phán đều là lời nhắc nhở, phân tích, thậm chí là lời cảnh báo cho tôi, nhất là câu Đức Chúa Trời phán: “Lý do thực sự cho việc người ta có những cảm giác này là bởi vì họ không tìm kiếm lẽ thật hoặc thực hành theo các nguyên tắc của lẽ thật”. Nghĩ về những lời này, tôi bắt đầu phản tỉnh bản thân, và cuối cùng tôi phát hiện ra rằng suốt bấy lâu nay, mỗi khi gặp chuyện như thế này, tôi chẳng hề tìm kiếm lẽ thật, càng không thực hành theo nguyên tắc của lẽ thật. Tôi sống hoàn toàn trong tưởng tượng và ức đoán của mình. Tôi nhớ lại khi tôi liên tục thất bại khi làm video, nghe các anh chị em nói đầu óc tôi mụ mị, thì tôi chẳng phản tỉnh về vấn đề của mình, thay vào đó, tôi chọn cách thoát ly, sống trong tiêu cực và hiểu lầm. Khi bắt đầu làm video lần nữa, tôi chẳng rút ra bài học từ thất bại cũ. Thay vào đó, tôi làm bổn phận với một tâm thức tiêu cực và thủ thế. Khi nghe lãnh đạo khen ngợi người khác, rồi chỉ ra vấn đề trong bổn phận của tôi, tôi càng tiêu cực hơn nữa. Tôi cảm thấy mình có tố chất kém và mụ mị. Tôi nghi là các anh chị em xem thường tôi, và tôi càng hiểu lầm Đức Chúa Trời hơn nữa, dẫn đến lòng tôi càng thêm đau đớn và tối tăm, khiến tôi chẳng hiệu quả trong bổn phận. Tôi đã kìm hãm bản thân trong mọi chuyện, và thấy bị kìm kẹp lắm. Chỉ đến lúc đó, tôi mới thấy rõ rằng vấn đề không nằm ở những người và việc quanh tôi, thấy Đức Chúa Trời đâu buộc phải ưu ái tôi. Tôi đã không tìm kiếm lẽ thật, luôn chống đối, tự cô lập mình, đem lòng oán giận sự phán xét, hành phạt, xử lý và tỉa sửa của Đức Chúa Trời. Sự bất tuân và chống đối của tôi quá lớn, nó khiến tôi rơi vào tối tăm và đau đớn, khiến mối quan hệ của tôi với Đức Chúa Trời thêm lạnh lẽo. Nhưng khi tôi không làm tốt bổn phận, biết trách ai ngoài bản thân tôi chứ? Cuối cùng, tôi đã hiểu ra ý nghĩa của “tự kìm hãm mình”. Tôi còn thấy rõ một chuyện nữa, là dù tôi tin Đức Chúa Trời, đã từ bỏ và dâng mình, nhưng tôi không thật sự tiếp nhận lẽ thật, không nhìn nhận rằng lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ có thể cứu rỗi con người. Khi gặp thất bại và bước lùi trong bổn phận, tôi chống đối, hành động thiếu lý trí, và cứ đinh ninh mình có tố chất kém. Tôi còn cảm thấy Đức Chúa Trời chẳng cứu rỗi người như tôi. Tôi thường bất mãn, cảm thấy mình có thể chịu gian khổ và hy sinh trong bổn phận, thấy chịu khổ đâu thua ai, vậy tại sao tôi luôn bị phơi bày là quá kém cỏi trong chuyện đó? Tại sao Đức Chúa Trời không độ lượng với tôi? Chẳng phải tôi đã phủ nhận sự công chính của Ngài hay sao? Đây chính là phạm thượng! Càng phản tỉnh, tôi càng thấy sợ hãi. Tôi cảm thấy tình trạng của mình quá ư nguy hiểm. Nếu không xoay chuyển tình thế và thật tâm ăn năn, chắc chắn tôi sẽ bị Đức Chúa Trời loại bỏ! Mọi tình trạng mà Đức Chúa Trời phân tích đều thấu tâm can tôi. Thấy vấn đề của mình nghiêm trọng đến thế nào, tôi đã òa khóc thảm thiết. Tôi ghét bản thân vì đã không mưu cầu lẽ thật, không tiếp nhận lời Đức Chúa Trời và đã tự hại mình. Tôi cảm thấy hối hận sâu sắc, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa Trời, con không muốn phản nghịch và ương ngạnh thế nữa, con không muốn sống trong hiểu lầm hay làm Ngài đau lòng nữa. Con muốn ăn năn!”.

Sau đó, lãnh đạo và trưởng nhóm đã đến thông công với tôi. Họ phơi bày và chỉ ra khuynh hướng tiêu cực của tôi, đọc lời Đức Chúa Trời cho tôi nghe. Tôi rất đỗi cảm động. “Ở mỗi giai đoạn – cho dù khi Đức Chúa Trời đang sửa dạy hoặc sửa phạt ngươi, hay khi Ngài đang nhắc nhở và khuyên giục ngươi – chừng nào mà một sự mâu thuẫn xảy ra giữa ngươi và Đức Chúa Trời, mà ngươi vẫn không xoay chuyển, và tiếp tục bám vào những ý tưởng, quan điểm và thái độ của riêng mình, thì mặc dù ngươi có đang tiến về phía trước, thì mâu thuẫn giữa ngươi và Đức Chúa Trời, sự hiểu lầm và không bằng lòng của ngươi đối với Ngài, và sự phản nghịch của ngươi vẫn chưa được khắc phục, và nếu ngươi không thay đổi hoàn toàn, thì về phần Đức Chúa Trời, Ngài sẽ bỏ ngươi ra. Mặc dù ngươi chưa buông bỏ bổn phận đang có, ngươi vẫn giữ bổn phận của mình cũng như có một chút trung thành với những gì Đức Chúa Trời đã ủy nhiệm, và mọi người xem điều này là có thể chấp nhận được, nhưng mối bất hòa giữa ngươi và Đức Chúa Trời đã hình thành một nút thắt vĩnh viễn. Ngươi đã không sử dụng lẽ thật để giải quyết mối bất hòa đó và có được hiểu biết thật sự về ý muốn của Đức Chúa Trời. Kết quả là sự hiểu lầm của ngươi về Đức Chúa Trời ngày càng sâu. Ngươi luôn nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã sai và ngươi đang bị đối xử bất công, có nghĩa là ngươi chưa xoay chuyển. Sự phản nghịch, quan niệm và sự hiểu lầm của ngươi về Đức Chúa Trời vẫn còn dai dẳng, và điều này khiến ngươi có thái độ bất tuân, luôn luôn phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời. Chẳng phải hạng người này là người phản nghịch Đức Chúa Trời, chống đối Đức Chúa Trời và ngoan cố không chịu ăn năn sao? Tại sao Đức Chúa Trời lại coi trọng việc con người thay đổi? Một loài thọ tạo nên nghĩ về Đấng Tạo Hóa với thái độ nào? Một thái độ thừa nhận rằng bất kể Đấng Tạo Hóa làm gì thì Ngài đều đúng. Nếu ngươi không thừa nhận điều này, thì việc Đấng Tạo Hóa là lẽ thật, là đường đi và sự sống sẽ chỉ là những lời nói suông đối với ngươi. Nếu là trường hợp như vậy, ngươi vẫn có thể đạt được sự cứu rỗi chứ? Ngươi chắc chắn không thể. Ngươi sẽ không đủ tiêu chuẩn; Đức Chúa Trời không cứu rỗi những người như ngươi. … Ngươi phải thay đổi hoàn toàn và gạt những ý tưởng và ý định của ngươi sang một bên. Một khi ngươi có ý định này, thì tự nhiên ngươi cũng sẽ có thái độ đầu phục. Tuy nhiên, nói chính xác hơn một chút, điều này đề cập đến việc mọi người thay đổi thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa; đó là sự công nhận và khẳng định thực tế rằng Đấng Tạo Hóa là lẽ thật, là đường đi và sự sống. Nếu ngươi có thể thay đổi bản thân hoàn toàn, thì điều này chứng tỏ rằng ngươi có thể gạt những điều ngươi cho là đúng đó sang một bên, hoặc những điều mà nhân loại – loài người bại hoại – đều nghĩ là đúng; và thay vào đó, ngươi đang thừa nhận rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và là những điều tích cực. Nếu ngươi có thể có thái độ này, thì điều đó chứng tỏ ngươi đã thừa nhận thân phận của Đấng Tạo Hóa và bản chất của Ngài. Đây là cách mà Đức Chúa Trời nhìn nhận vấn đề và do đó Ngài xem vấn đề này là đặc biệt quan trọng(“Chỉ bằng cách giải quyết những quan niệm của mình, người ta mới có thể bước vào đúng hướng để tin Đức Chúa Trời (3)” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Khi suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi đã hiểu ra lý do vì sao Đức Chúa Trời xem việc con người hồi chuyển là rất quan trọng. Trong công tác của Đức Chúa Trời để cứu rỗi con người, việc người ta có thể làm bao nhiêu công tác, hay chịu bao nhiêu đau khổ, không quan trọng. Cái Đức Chúa Trời nhìn vào là tấm lòng của họ. Ngài nhìn xem liệu người ta có tin những việc Đức Chúa Trời làm là đúng đắn, liệu họ có thừa nhận Ngài là lẽ thật, đường đi và sự sống, và liệu họ có vâng phục Ngài hay không. Nếu người ta bộc lộ nhiều sự bại hoại và làm những việc đi ngược lại lẽ thật, nhưng không hề phản tỉnh về vấn đề của mình, không tiếp nhận lẽ thật, mà cứ mãi giữ những hiểu lầm về Đức Chúa Trời, thì dù bên ngoài họ có là người biết chịu khổ và hy sinh, thì với Đức Chúa Trời, họ vẫn đang chống đối và phản bội Ngài. Cuối cùng, những người như thế sẽ bị loại bỏ, không được cứu rỗi. Tôi ngẫm lại bao nhiêu năm qua, tôi đã luôn hiểu lầm Đức Chúa Trời, có sự dè dặt với Ngài, và chưa hề giải quyết những vấn đề này. Tôi đã khiến mình tê liệt bằng cách tất bật với bổn phận. Khi các vấn đề trong bổn phận của tôi bị phơi bày, lộ rõ là tôi có nhiều thiếu sót, khiến cho cái tôi của tôi bị tổn thương, thì tôi liền theo bản năng mà gán cho mình những điều tiêu cực, thậm chí mở miệng oán thán hoặc hiểu lầm Đức Chúa Trời. Thời gian trôi quan, sự phẫn uất của tôi ngày càng tăng, sự xa cách của tôi với Đức Chúa Trời càng sâu sắc, và tình trạng của tôi ngày một tệ hơn. Tôi không thể nào không tự vấn: “Dù mình tất bật làm bổn phận mỗi ngày, và chưa hề làm gì thật sự tà ác, nhưng lòng mình xa Đức Chúa Trời, và mình luôn phòng bị Ngài, hiểu lầm Ngài. Làm sao có thể nói rằng mình tin Đức Chúa Trời được? Đức Chúa Trời sẽ chấp thuận kiểu tin như thế này sao? Mình thường sống trong hiểu lầm và tiêu cực, không hề thấy tự do. Kể cả khi làm bổn phận, mình cũng có mà nhận được công tác của Đức Thánh Linh. Mình chỉ có thể lê bước bằng cách dựa vào kinh nghiệm cũ. Như thế làm sao mình phát triển được? Tin Ngài như thế làm sao mình được Ngài thu nhận?” Đến lúc đó, tôi mới nhận ra rõ ràng tầm quan trọng của việc loại bỏ sự hiểu lầm về Đức Chúa Trời và có lòng ăn năn chân thành! Ba năm qua, tôi không thể buông bỏ chuyện anh chị em bình luận rằng đầu óc tôi không sáng láng. Tôi chẳng hề tìm kiếm lẽ thật trong chuyện này, cũng không phản tỉnh dựa trên lời Đức Chúa Trời. Giờ tôi biết mình phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề này.

Nên tôi đã tìm kiếm những đoạn lời Đức Chúa Trời có liên quan. Lời Đức Chúa Trời phán: “Khi Đức Chúa Trời gọi ngươi là kẻ ngốc, Ngài không yêu cầu ngươi chấp nhận một tuyên bố, từ ngữ hoặc định nghĩa nào đó – Ngài đang yêu cầu ngươi hiểu lẽ thật bên trong điều này. Vậy khi Đức Chúa Trời gọi ai đó là kẻ ngốc thì lẽ thật ẩn chứa bên trong là gì? Mọi người đều hiểu ý nghĩa bề ngoài của từ ‘kẻ ngốc’. Nhưng còn về những biểu hiện và tâm tính của kẻ ngốc là gì, những điều gì người ta làm là ngu ngốc và những điều gì là không ngu ngốc, tại sao Đức Chúa Trời lại vạch trần con người theo cách này, liệu những kẻ ngốc có thể đến trước Đức Chúa Trời được không, liệu những kẻ ngốc có khả năng hành động theo nguyên tắc hay không, liệu họ có thể hiểu điều gì đúng, điều gì sai hay không, liệu họ có thể phân biệt điều gì Đức Chúa Trời yêu thích và điều gì Đức Chúa Trời khinh miệt hay không – đa phần, con người không rõ về những điều này; đối với họ, chúng mơ hồ và không rõ ràng, hoàn toàn không rõ ràng. Ví dụ: đa phần, người ta không biết – họ không rõ – liệu làm điều gì đó theo một cách nhất định là đơn thuần tuân theo các quy tắc hay thực hành lẽ thật. Họ cũng không biết – họ cũng không rõ – liệu điều gì đó được Đức Chúa Trời yêu thích hay khinh miệt. Họ không biết liệu thực hành theo một cách nhất định là đặt mọi người vào sự nghiêm khắc, hay thông công về lẽ thật và giúp đỡ mọi người như bình thường. Họ không biết liệu các nguyên tắc đằng sau cách họ hành động với mọi người có đúng không, liệu họ đang cố gắng tạo ra những đồng minh hay giúp đỡ mọi người. Họ không biết liệu hành động theo một cách nhất định là tuân thủ nguyên tắc và giữ vững lập trường của mình hay là đang thể hiện. Khi họ không có gì khác để làm, một số người thích nhìn chằm chằm vào gương; họ không biết liệu đây là sự tự yêu mình và sự phù phiếm, hay liệu nó có bình thường không. Một số người nóng nảy và hơi kỳ quặc; họ có thể biết liệu điều này có liên quan đến việc họ có tâm tính xấu hay không không? Người ta thậm chí còn không thể phân biệt được những điều thường thấy, thường gặp này – ấy thế mà họ vẫn nói họ đã đạt được rất nhiều từ việc tin Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là ngu ngốc sao? Vậy các ngươi có thể chấp nhận bị gọi là kẻ ngốc không? (Có). … Và các ngươi có muốn trở thành kẻ ngốc cả đời không? (Không). Không ai muốn trở thành một kẻ ngốc. Trên thực tế, việc thông công và mổ xẻ theo cách này không phải để khiến ngươi cố gắng tự cho mình là kẻ ngốc; bất kể Đức Chúa Trời định nghĩa ngươi như thế nào, bất kể Ngài phơi bày điều gì ở ngươi, Ngài phán xét và hành phạt ngươi, hay xử lý và tỉa sửa ngươi như thế nào, mục đích cuối cùng cũng là để cho phép ngươi thoát khỏi những trạng thái đó, hiểu được lẽ thật, đạt được lẽ thật và cố gắng không là kẻ ngốc. Vậy thì ngươi nên làm gì nếu muốn không trở thành một kẻ ngốc? Ngươi phải mưu cầu lẽ thật. Trước hết, ngươi phải biết trong những vấn đề nào thì ngươi là kẻ ngốc, trong những vấn đề nào ngươi luôn thuyết giảng giáo lý, luôn quanh quẩn trong lý thuyết và những lời giáo lý, mắt ngươi đờ ra khi đối mặt với những sự thật. Khi ngươi giải quyết những vấn đề này và rõ ràng về từng khía cạnh của lẽ thật, số lần ngươi ngu ngốc sẽ ít hơn. Khi ngươi hiểu rõ về từng lẽ thật, khi ngươi không bị trói chân trói tay trong mọi việc mình làm, khi ngươi không bị kìm hãm hay ràng buộc – khi mà, một khi điều gì đó xảy ra với ngươi, ngươi có thể tìm ra các nguyên tắc chính xác để thực hành và thực sự có thể hành động theo nguyên tắc sau khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật, hoặc tìm một ai đó để thông công, thì ngươi sẽ không còn ngu ngốc nữa. Nếu điều gì đó rõ ràng với ngươi và ngươi có thể thực hành lẽ thật một cách đúng đắn, thì trong điều đó, ngươi không ngu ngốc. Người ta phải hiểu lẽ thật để lòng mình tự nhiên được khai sáng(“Sáu dấu chỉ của sự phát triển trong đời sống” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đức Chúa Trời giải thích hành vi của người mụ mị rất rõ ràng. Người mụ mị thì hồ đồ và không rõ ràng trong việc họ làm. Họ không có lập trường, không có nguyên tắc, chẳng biết Đức Chúa Trời thích gì hay ghét gì, thiếu phân định về người và hoàn cảnh. Họ không thể thấy rõ những khuyết điểm hay những sự bại hoại mà họ bộc lộ. Khi có chuyện, họ chẳng phân biệt được đúng sai, không có nguyên tắc hay con đường thực hành. Khi áp dụng lời Đức Chúa Trời, những cảnh tôi làm bổn phận trong quá khứ lướt qua đầu tôi. Tôi chỉ tập trung làm việc chăm chỉ, nhưng không hề đọc lời Đức Chúa Trời, cũng không tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật. Khi các anh chị em cho tôi lời khuyên chỉnh sửa video, tôi chẳng để tâm cho lắm. Nhiều lúc, tôi chẳng hiểu ý họ là sao, và cứ làm một cách mù quáng, nghĩ rằng thế là chịu khổ và trung thành với Đức Chúa Trời. Tôi đã bộc lộ quá nhiều sự bại hoại và thiếu sót trong bổn phận, nhưng lại chẳng đến trước Đức Chúa Trời để tìm kiếm lẽ thật và giải quyết vấn đề. Thay vào đó, tôi sống trong tình trạng tiêu cực nhiều năm trời, đặc biệt tê dại. Tôi chẳng thể thấy được vấn đề của mình trầm trọng thế nào, hay cứ sống thế này nguy hiểm ra sao. Tôi luôn hồ đồ và cứ sống cho qua ngày. Chẳng phải đây đều là hành vi của người mụ mị sao? Chỉ khi đó, tôi mới nhận ra điều mà các anh chị em nói về tôi là đúng. Nhưng tôi đã không chịu thừa nhận. Tôi nghi ngờ mọi người xem thường tôi, và tôi mang định kiến cũng như ghẻ lạnh họ. Tôi thật sự không nên làm thế! Bao năm qua, các anh chị em thường hỗ trợ và giúp đỡ tôi, chưa hề xem thường tôi. Tôi mới là người quá đáng, vô lý và không tiếp nhận lẽ thật. Nghĩ về chuyện này, cuối cùng, tôi đã có thể buông bỏ quá khứ. Tôi ghét bản thân vô cùng vì đã quá hồ đồ và không tìm kiếm lẽ thật. Tôi khinh ghét bản thân vì đã quá đáng và vô lý.

Khi nhận ra được rằng tôi đã mụ mị, tôi cũng nghĩ về chuyện tôi thường xem mình có tố chất kém. Đây là một vấn đề nữa mà tôi nên tìm lẽ thật để giải quyết. Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời. “Nếu Đức Chúa Trời tạo ra ngươi ngu xuẩn, thì có ý nghĩa trong sự ngu xuẩn của ngươi; nếu Ngài tạo ra ngươi sáng dạ, thì có ý nghĩa trong sự sáng dạ của ngươi. Bất cứ sự tinh thông nào Đức Chúa Trời ban cho ngươi, bất kể điểm mạnh nào của ngươi, dù chỉ số IQ của ngươi có cao đến đâu, tất thảy đều có mục đích đối với Đức Chúa Trời. Tất thảy những điều này đều được Đức Chúa Trời định trước. Vai trò ngươi đóng trong cuộc sống của ngươi và bổn phận ngươi thực hiện đều được Đức Chúa Trời định đoạt từ lâu. Một số người thấy rằng những người khác có được kiến thức chuyên môn mà họ không có và bất mãn. Họ muốn thay đổi mọi sự bằng cách học hỏi nhiều hơn, thấy được nhiều hơn và chăm chỉ hơn. Nhưng có một giới hạn đối với những gì mà sự siêng năng của họ có thể đạt được, và họ không thể vượt hơn những người có ân tứ và chuyên môn. Dù ngươi có chống lại thế nào đi nữa thì cũng vô dụng. Đức Chúa Trời đã định đoạt ngươi là gì và không ai có thể làm gì để thay đổi cả. Ngươi giỏi ở lĩnh vực gì thì ngươi nên nỗ lực chính tại lĩnh vực đó. Ngươi phù hợp với bổn phận gì thì ngươi nên thực hiện bổn phận đó. Đừng cố ép buộc bản thân vào những lĩnh vực nằm ngoài khả năng của ngươi và đừng ghen tị với người khác. Mọi người đều có chức phận của riêng mình. Đừng nghĩ rằng ngươi có thể làm tốt mọi việc, hoặc rằng ngươi hoàn hảo hơn hay giỏi hơn người khác, luôn mong muốn thay thế người khác và thể hiện bản thân. Đây là tâm tính bại hoại. Có những người nghĩ rằng họ không thể làm tốt bất cứ điều gì, và rằng họ không hề có kỹ năng gì. Nếu đúng như vậy, ngươi chỉ nên là một người lắng nghe và vâng phục theo cách khiêm tốn. Hãy làm những gì ngươi có thể làm và làm tốt, bằng tất cả sức lực của mình. Thế là đủ rồi. Đức Chúa Trời sẽ hài lòng. Đừng luôn nghĩ đến việc vượt trội hơn tất cả mọi người, làm mọi thứ giỏi hơn những người khác và nổi bật giữa đám đông về mọi mặt. Đó là loại tâm tính gì? (Tâm tính kiêu ngạo.) Con người luôn sở hữu tâm tính kiêu ngạo, và ngay cả khi họ muốn phấn đấu đạt được lẽ thật và đáp ứng Đức Chúa Trời, họ vẫn không đạt được. Họ bị điều khiển bởi tâm tính kiêu ngạo khiến họ dễ dàng đi chệch hướng. Ví dụ: có một số người luôn muốn thể hiện bằng cách bày tỏ thiện ý của họ thay vì những yêu cầu của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời có khen ngợi kiểu bày tỏ thiện ý đó không? Để lưu tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời, ngươi phải tuân theo các yêu cầu của Đức Chúa Trời, và để thực hiện bổn phận của mình, ngươi phải quy phục sự an bài của Đức Chúa Trời. Những người bày tỏ thiện ý không để tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời, mà thay vào đó luôn cố gắng bày ra những mánh khóe mới và nói những lời nghe cao siêu. Đức Chúa Trời không yêu cầu ngươi phải lưu tâm theo cách này. Một số người nói rằng đây là họ đang cạnh tranh. Bản thân cạnh tranh là điều tiêu cực. Đó là một sự tỏ lộ – một biểu hiện – của tâm tính kiêu ngạo của Sa-tan. Khi ngươi có tâm tính như vậy, ngươi luôn cố gắng dìm người khác, luôn cố gắng vượt lên trước họ, luôn lừa phỉnh, luôn cố gắng chiếm đoạt của mọi người. Ngươi rất đố kỵ, ngươi không vâng lời bất cứ ai và ngươi luôn cố gắng làm cho bản thân nổi bật. Đây là rắc rối; đây là cách Sa-tan hành động. Nếu ngươi thực sự mong muốn trở thành một tạo vật có thể chấp nhận được của Đức Chúa Trời, thì đừng theo đuổi những ước mơ của riêng ngươi. Cố gắng trở nên vượt trội và có năng lực hơn để đạt được mục tiêu của mình – điều này thật tệ; ngươi nên vâng phục những sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời và không vượt quá chỗ đứng của mình; chỉ điều này mới thể hiện ý thức(“Những nguyên tắc một người nên cư xử” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời quá rõ ràng! Tại sao tôi cứ nói tố chất mình kém? Vì thật ra, bản tính của tôi quá kiêu ngạo. Tôi luôn có tham vọng và dục vọng, muốn vượt trên người khác, và khi không làm được thế, tôi trở nên tiêu cực, quá đáng và gán nhãn cho mình. Khát khao danh tiếng và địa vị của tôi quá mạnh. Trong bất kỳ nhóm nào, tôi đều sợ bị xem thường và luôn muốn mình được ngưỡng mộ. Nhưng trên thực tế, tôi bộ lộ nhiều vấn đề và thiếu sót. Rồi khi bị tỉa sửa, xử lý, khi gặp thất bại, bước lùi, tôi cảm thấy hình tượng của mình bị tổn hại, danh tiếng bị bôi xấu. Tôi không thể đối diện chuyện đó cho đúng đắn, tưởng rằng tố chất mình quá kém và quá hồ đồ. Tôi thường so sánh mình với người khác. Khi thấy những người khác trong nhóm có điểm mạnh và có tố chất tốt hơn tôi, thì tôi thấy mình bất tài và tầm thường. Tôi không chấp nhận nổi thực tế này, nên luôn luôn cảm thấy thấp kém và chán nản. Chỉ khi đó, tôi mới nhận ra tôi muốn có danh tiếng và địa vị, nên mới so sánh tố chất và ân tứ của mình với người khác, luôn tìm cách được ngưỡng mộ. Tâm tính Sa-tan của tôi rất nghiêm trọng. Ân tứ và tố chất đâu phải là mấu chốt quyết định liệu người ta có thể thực hiện bổn phận tốt hay không. Được người khác kính trọng và súng bái đâu có bảo đảm được cứu rỗi. Đức Chúa Trời chưa hề nói thế. Đức Chúa Trời muốn chúng ta có nhân tính và có lý trí, để mưu cầu lẽ thật một cách thực tế, giải quyết những tâm tính bại hoại của mình, và sống trọn hình tượng con người. Đây là điều Đức Chúa Trời yêu cầu con người. Tôi nghĩ đến lời Đức Chúa Trời phán: “Vấn đề không phải là Ta có phán rằng các ngươi là người lạc hậu hoặc kém tố chất hay không – toàn bộ điều này là thực. Việc Ta phán điều này không chứng tỏ rằng Ta có ý định từ bỏ các ngươi, rằng Ta đã mất hy vọng nơi các ngươi, càng không phải là Ta không muốn cứu rỗi các ngươi. Hôm nay Ta đã đến để làm công tác cứu rỗi các ngươi, điều đó có nghĩa rằng công tác Ta làm là sự tiếp nối của công tác cứu rỗi. Mỗi người đều có cơ hội được trở nên hoàn thiện: Miễn là ngươi sẵn lòng, miễn là ngươi theo đuổi, thì cuối cùng ngươi sẽ có thể đạt được kết quả này, và không một ai trong số các ngươi sẽ bị từ bỏ(Khôi phục lại đời sống bình thường của con người và đưa họ đến một đích đến tuyệt vời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời của Đức Chúa Trời rất rõ ràng. Dù Đức Chúa Trời nói người ta có tố chất kém, và tiết lộ rằng họ mụ mị, nhưng chỉ là để họ thấy được vấn đề của mình, biết thiếu sót của mình, để họ có thể mưu cầu lẽ thật cho tốt, thay đổi bản thân và tiến triển trong sự sống. Có lẽ chúng ta có tố chất kém, nhưng miễn chúng ta yêu và mưu cầu lẽ thật, nỗ lực để đáp ứng yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ độ lượng và chúc phúc cho ta. Nhưng nếu tố chất của ta tốt mà lại không mưu cầu lẽ thật, thì sẽ bị vạch trần và loại bỏ. Đúng thật là tố chất tôi kém, và tôi thường hồ đồ, nhưng Đức Chúa Trời chưa hề nói rằng Ngài sẽ không cứu rỗi tôi hoặc sẽ loại bỏ tôi vì thế. Ngài tiếp tục cho tôi cơ hội thực hiện bổn phận. Tôi phải mưu cầu lẽ thật, tích cực trong việc tiến bộ, bù đắp những thiếu sót của mình và cải thiện tố chất của mình.

Sau đó, khi gặp chuyện, tôi tập trung tìm kiếm lẽ thật, và dù gặp phải hoàn cảnh nào, dù có bị tỉa sửa hay xử lý, có gặp thất bại hay bước lùi, tôi đều có thể vâng phục và tìm kiếm nguyên tắc của lẽ thật. Khi trải nghiệm như thế này, chẳng mấy chốc tôi đã cảm nhận được sự hiện diện của Đức Chúa Trời, và cảm thấy đầu óc mình thật sáng sủa. Khi các anh chị em thảo luận ý tưởng làm video, tôi không còn dè dặt nữa. Nhiều lúc, quan điểm tôi nói ra là sai, hoặc các anh chị em đưa ra đề xuất cho tôi, tôi có thể đối diện một cách đúng đắn và bình thản. Trong thời gian đó, tôi cảm thấy rất gần gũi với Đức Chúa Trời. Tôi cảm thấy Ngài ở bên tôi, cho tôi sự tự tin và sức mạnh. Dù có nhiều khó khăn trong bổn phận, nhưng nhờ tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời qua việc cầu nguyện, cậy dựa vào Ngài và phối hợp với các anh chị em, cuối cùng, một vài vấn đề đã được giải quyết, sự hiệu quả trong bổn phận của tôi cũng cải thiện. Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời từ tận đáy lòng vì đã cứu rỗi tôi.

Nghĩ về lúc tôi hiểu lầm và xa cách Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy vô cùng hối hận. Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời khác khiến tôi rất xúc động. “Ta không muốn thấy bất kỳ ai cảm thấy dường như Đức Chúa Trời đã bỏ họ lại trong giá lạnh, rằng Đức Chúa Trời đã từ bỏ họ hoặc quay lưng lại với họ. Tất cả những gì Ta muốn thấy là mọi người đang trên đường để theo đuổi lẽ thật và cố gắng hiểu về Đức Chúa Trời, mạnh dạn tiến lên với quyết tâm không hề lay chuyển, không có bất kỳ nỗi lo âu hoặc gánh nặng nào. Dù cho ngươi đã phạm sai lầm gì, dù cho ngươi đã đi lạc bao xa hay ngươi đã phạm tội nghiêm trọng thế nào, đừng để những điều nàytrở thành gánh nặng hoặc hành lý quá tải trên con đường theo đuổi sự hiểu biết về Đức Chúa Trời. Cứ tiếp tục tiến lên. Vào mọi lúc, Đức Chúa Trời luôn giữ sự cứu rỗi con người trong lòng Ngài; điều này không bao giờ thay đổi. Đây là phần quý giá nhất trong thực chất của Đức Chúa Trời(Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất VI, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Trong biết bao năm tin Đức Chúa Trời, tôi nói rằng Ngài yêu thương con người, nhưng tôi chẳng có nhận thức thực sự về tình yêu của Đức Chúa Trời. Trải nghiệm này cho tôi một vài nhận thức và cảm nhận thực sự về tình yêu của Đức Chúa Trời. Dù lòng tôi chai đá và phản nghịch, Đức Chúa Trời đã sắp đặt hoàn cảnh để tôi trải nghiệm. Ngài chờ tôi thay đổi, Ngài thức tỉnh tôi bằng lời Ngài, dẫn dắt tôi ra khỏi tình trạng tiêu cực và hiểu lầm. Mong muốn cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời thật chân thành và tuyệt mỹ! Tôi vô cùng cảm tạ Đức Chúa Trời, và chỉ muốn mưu cầu lẽ thật thật tốt, làm tròn bổn phận và đền đáp tình yêu của Đức Chúa Trời.

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Thức tỉnh sau khi trả được thù

Tôi từng làm lãnh đạo một hội thánh nọ được một thời gian. Chị Trương, chấp sự Phúc Âm, có mang gánh nặng trong bổn phận và rất chủ động...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger