Tôi không còn sống trong hiểu lầm vì vi phạm của mình nữa

01/12/2025

Bởi Tô Điềm, Trung Quốc

Năm 2011, tôi đã tiếp nhận Đức Chúa Trời Toàn Năng theo mẹ tôi. Vì lúc đó vẫn còn đi học nên tôi chỉ nhóm họp vào Chủ nhật. Năm 2016, vừa tốt nghiệp trung học, tôi liền đến hội thánh để thực hiện bổn phận.

Tháng 8 năm 2018, năm đó tôi 22 tuổi. Vì Trung Cộng luôn bách hại và bắt bớ Cơ Đốc nhân, tôi chuẩn bị đến một quốc gia tự do dân chủ để tin Đức Chúa Trời, nhưng không ngờ lại bị bắt ngay tại sân bay. Để ép tôi bán đứng thông tin về hội thánh, cảnh sát bắt tôi đứng chụm chân từ 6 giờ sáng đến 12 giờ đêm mỗi ngày, cứ thế suốt sáu bảy ngày liền. Tôi đứng lâu đến mức đầu óc choáng váng, hai chân đau nhức tê dại, hơi thở cũng trở nên dồn dập. Cảnh sát còn đe dọa: “Nếu mày không khai, chúng tao sẽ treo mày lên cho nếm thử ‘băng hỏa lưỡng trùng thiên’, trước tiên dùng máy nhiệt độ cao để nướng mày, sau đó nhồi nước vào người mày, cứ lặp đi lặp lại như vậy. Đến lúc đó, dù mày muốn nói cũng không còn cơ hội nữa đâu”. Nghĩ đến cảnh các anh chị em bị cảnh sát tra tấn dã man, lòng tôi dấy lên một nỗi sợ hãi: “Nếu họ tra tấn mình, liệu mình có chịu nổi không?”. Tôi thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài ban cho mình đức tin và sức mạnh. Thấy tôi nhất quyết không nói, cảnh sát liền ấn đầu tôi xuống rồi dí điếu thuốc đang cháy đỏ vào lỗ mũi. Khói đặc quyện với hơi nóng xộc thẳng vào mũi khiến tôi ngạt thở, cảm giác như sắp chết ngạt. Da dưới mũi cũng bị bỏng rát, đau nhói từng cơn. Sau đó, họ kéo tay tôi, bật lửa rồi dí vào cánh tay. Theo phản xạ, tôi cố rụt tay lại, nhưng cảnh sát ghì chặt không cho cử động. Hai cánh tay bị đốt suốt mấy chục giây, cảm giác như có ai đó đang xé toạc da mình, đau thấu tim gan. Cánh tay tôi bị bỏng, để lại vết lở loét to bằng quả trứng. Vậy mà cảnh sát còn cười và nhìn tôi một cách tà ác. Tôi vừa tức giận, uất hận, lại vừa sợ hãi: “Lũ ma quỷ này chuyện gì cũng dám làm, không biết tiếp theo chúng sẽ tra tấn mình thế nào nữa”. Tôi cảm thấy rất yếu đuối, chỉ muốn rời khỏi nơi quỷ quái này càng sớm càng tốt. Nhưng tôi biết rõ, mình tuyệt đối không thể làm Giu-đa, bán đứng anh chị em để sống cuộc đời hèn hạ. Vì vậy, tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời trong lòng, thầm thề rằng dù có chết cũng không bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thề không bao giờ làm Giu-đa. Mấy ngày sau, cảnh sát đưa gia đình đến để bắt tôi ký “Tam thư”, nói rằng nếu ký thì sẽ thả tôi ra. Bị con rồng lớn sắc đỏ mê hoặc, cha tôi dọa rằng nếu tôi không ký sẽ từ mặt. Tôi biết đây là quỷ kế của Sa-tan nên kiên quyết không ký. Cảnh sát liền đe dọa: “Tối nay là cơ hội cuối cùng, nếu ngày mai mày vẫn không ký, chúng tao sẽ đưa mày đến một nơi và xử lý cho ra trò!”. Nghe vậy, tôi có chút sợ hãi: “Chúng chuyện gì cũng dám làm, đặc biệt với những người tin Đức Chúa Trời Toàn Năng thì lại càng tàn nhẫn hơn. Nếu mình cứ không ký, không biết sẽ bị tra tấn thế nào nữa”. Nghĩ đến cảm giác sống không bằng chết, tôi thấy thật kinh hoàng: “Lỡ như mình không chịu nổi sự tra tấn mà làm Giu-đa, phản bội Đức Chúa Trời thì sao? Vậy thì mình sẽ xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời và không bao giờ có cơ hội được cứu rỗi nữa. Hay là mình dùng trí khôn để ký ‘Tam thư’, nhưng trong lòng không phản bội Đức Chúa Trời, liệu Ngài có cho mình thêm một cơ hội không?”. Cuối cùng, tôi không thắng nổi sự yếu đuối trong lòng và đã ký “Tam thư”.

Ký xong, cảnh sát thả tôi về. Về đến nhà, lòng tôi luôn bất an. Dù nghĩ rằng mình ký “Tam thư” là dùng sự khôn ngoan, nhưng dù sao tôi cũng đã ký. Trước mặt Đức Chúa Trời, đây là dấu ấn của sự phản bội. Liệu Đức Chúa Trời có còn cứu rỗi mình không? Sau đó, cha tôi muốn đưa tôi ra ngoài làm việc, còn nhờ họ hàng, bạn bè đến khuyên nhủ. Tôi nghĩ bụng: “Mình không thể đi. Nếu mình đi, các anh chị em sẽ không tìm được mình, và mình sẽ không bao giờ có cơ hội quay về nhà Đức Chúa Trời nữa”. Lúc đó, tôi cảm thấy mình như một con chim lạc đàn, cô đơn chờ đợi một câu trả lời vô định. Nửa tháng sau, các anh chị em tìm được tôi và thông công với tôi về việc thực hiện bổn phận. Thấy mình vẫn còn cơ hội quay về nhà Đức Chúa Trời, vẫn còn cơ hội thực hiện bổn phận, tôi xúc động đến mức suýt khóc, vội vàng gật đầu đồng ý. Sau đó, bất kể hội thánh sắp xếp cho tôi bổn phận nào, tôi đều cố gắng hết sức để làm tốt. Nhưng thỉnh thoảng tôi lại nghe các anh chị em bàn tán về chuyện ký “Tam thư”, họ nói: “Chúng ta tuyệt đối không được ký ‘Tam thư’, ký ‘Tam thư’ là phản bội Đức Chúa Trời, là bị đóng dấu của con thú”. Mỗi lần nghe những lời này, lòng tôi lại đau nhói, nhất là khi đọc được lời Đức Chúa Trời: “Đối với những kẻ đã không cho Ta thấy chút ít sự trung thành nào suốt trong những kỳ hoạn nạn, Ta sẽ không thương xót nữa, vì lòng thương xót Ta chỉ nới đến thế thôi. Hơn nữa, Ta không thích bất kỳ ai đã một lần phản bội Ta, Ta càng không thích kết giao với những kẻ bán đứng những lợi ích của bạn bè mình. Đây là tâm tính của Ta, bất kể người đó có thể là ai. Ta phải bảo với các ngươi điều này: Bất kỳ ai khiến Ta buồn lòng sẽ không nhận được sự khoan dung từ Ta lần thứ hai, và bất kỳ ai đã trung tín với Ta sẽ vẫn mãi ở trong lòng Ta(Hãy chuẩn bị đầy đủ những việc lành cho đích đến của mình, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi thấy tâm tính của Đức Chúa Trời là công chính, oai nghi và không thể xúc phạm, Ngài sẽ không còn thương xót bất kỳ ai phản bội và làm tan nát trái tim Ngài. Tôi nghĩ đến việc mình đã ký “Tam thư” và phản bội Đức Chúa Trời: “Mình đã bị Đức Chúa Trời đào thải rồi sao? Có phải dù có tin đến cùng, mình cũng sẽ không thể được Ngài cứu rỗi nữa?”. Đặc biệt là khi xem các video lời chứng trải nghiệm của nhà Đức Chúa Trời, tôi thấy các anh chị em sau khi bị bắt, dù đối mặt với đủ loại tra tấn dã man vẫn đứng vững làm chứng, kiên quyết không ký “Tam thư”. Còn tôi, chỉ vì muốn tránh bị tra tấn mà đã ký. Tôi chẳng những không làm chứng cho Đức Chúa Trời, mà còn để lại dấu ấn nhục nhã, khiến Sa-tan cười nhạo. Đức Chúa Trời chắc hẳn đã hoàn toàn thất vọng về tôi. Càng nghĩ, tôi càng trở nên tiêu cực, lòng đau như dao cắt, không khỏi nghĩ rằng: “Giá như lúc đó mình không ký ‘Tam thư’ thì tốt biết mấy. Nhưng chuyện đã rồi, bát nước hắt đi làm sao hốt lại được”. Sau đó, nhà Đức Chúa Trời bắt đầu rà soát những người đã ký “Tam thư”, tôi bắt đầu lo rằng tiếp theo mình sẽ bị thanh trừ. Mặc dù cuối cùng không bị thanh trừ, nhưng tôi vẫn sống trong tiêu cực. Nhiều lần, khi thấy các anh chị em cộng sự cùng nhau trao đổi về việc viết bài lời chứng trải nghiệm hay về lối vào sự sống, tôi cảm thấy mình khác với họ. Họ đều là anh chị em, đều có cơ hội mưu cầu lẽ thật và được cứu rỗi. Còn tôi thì khác. Tôi là kẻ phản bội Đức Chúa Trời, Ngài chắc hẳn đã chán ghét tôi lắm rồi. Người như tôi căn bản không có tư cách mưu cầu lẽ thật, dù có tin đến cùng cũng vô ích, có lẽ chỉ là một người đem sức lực phục vụ, còn sự cứu rỗi thì chẳng liên quan gì đến mình. Tôi sống trong tình trạng tiêu cực, mỗi ngày chỉ máy móc thực hiện bổn phận, lòng đau khổ không lời nào tả xiết. Lúc đó, tôi thường nghe một bài thánh ca lời Đức Chúa Trời có tựa đề “Nếu ngươi là một người phục vụ”. Đức Chúa Trời hỏi chúng ta: “Nếu ngươi thực sự là một kẻ phục vụ, thì ngươi có thể dâng sự phục vụ cho Ta một cách trung thành, mà không có bất kỳ yếu tố qua loa chiếu lệ hay tiêu cực nào không? Nếu ngươi phát hiện ra rằng Ta chưa bao giờ đánh giá cao ngươi, ngươi vẫn có thể ở lại và dâng sự phục vụ cho Ta suốt đời không?(Một vấn đề rất nghiêm trọng: Sự phản bội (2), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Mỗi lần nghe bài hát này, tôi đều vô cùng cảm động. Tôi là một loài thọ tạo, việc tin Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận là thiên kinh địa nghĩa. Dù Đức Chúa Trời không cần tôi nữa, tôi vẫn sẽ tin Ngài đến cùng. Chỉ cần còn được thực hiện bổn phận thêm một ngày, tôi sẽ cố gắng hết sức mình để làm tốt bổn phận!

Một hôm, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời nói rất đúng về tình trạng của mình. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Ngoài ra còn có một nguyên nhân khác khiến con người chìm đắm trong cảm xúc chán nản, đó là một số việc cụ thể xảy ra với người ta trước khi họ trưởng thành hoặc sau khi họ đã là người lớn, tức là họ vi phạm gì đó hoặc làm một vài việc ngu xuẩn, ngu muội và vô tri. Vì những vi phạm, việc làm ngu xuẩn và vô tri này, mà họ chìm vào sự chán nản. Kiểu chán nản này là sự tự lên án bản thân, đồng thời cũng là một kiểu xác định mình là loại người gì. … Có người đôi khi có thể buông bỏ cảm giác chán nản và thoát khỏi chúng. Họ dùng sự chân thành và dốc hết sinh lực của mình vào việc thực hiện bổn phận, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, thậm chí có thể dồn hết toàn bộ thể xác và tinh thần vào việc mưu cầu lẽ thật và suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, và họ dốc nỗ lực vào lời Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, ngay khi một hoàn cảnh hoặc bối cảnh đặc biệt nào đó xuất hiện, cảm xúc chán nản lại một lần nữa chiếm thế thượng phong và lại khiến họ cảm thấy bị buộc tội trong thâm tâm. Họ tự nhủ: ‘Trước đây mi đã từng làm việc đó và mi là loại người như thế. Mi có thể đạt được sự cứu rỗi không? Thực hành lẽ thật có ích gì chứ? Đức Chúa Trời nghĩ gì về việc mi đã làm? Liệu Đức Chúa Trời có tha thứ cho những gì mi đã làm không? Liệu bây giờ trả giá theo cách này có thể bù đắp cho sự vi phạm đó không?’. Trong thâm tâm, họ thường tự trách, buộc tội bản thân, thường nghi ngờ, luôn tra hỏi bản thân. Họ không bao giờ có thể thoát khỏi hay gạt bỏ những cảm giác chán nản này, và họ không ngừng cảm thấy bất an về chuyện đáng xấu hổ mà mình đã từng làm. Vì vậy, mặc dù đã tin vào Đức Chúa Trời nhiều năm, nhưng dường như họ chưa bao giờ nghe hay hiểu bất kỳ điều gì Đức Chúa Trời phán. Cứ như thể họ không biết liệu việc đạt được sự cứu rỗi có liên quan gì đến họ hay không, liệu họ có thể được xá tội và cứu chuộc hay không, hay liệu họ có đủ tư cách để tiếp nhận sự phán xét, hình phạt và sự cứu rỗi của Ngài hay không. Họ không hề biết gì về tất cả những điều này. Bởi vì không nhận được bất kỳ câu trả lời nào, và bởi vì không nhận được bất kỳ kết luận chính xác nào, nên họ luôn cảm thấy chán nản trong lòng. Trong thâm tâm, họ nhớ đi nhớ lại những gì mình đã làm, họ tua đi tua lại trong tâm trí, nhớ lại mọi chuyện đã bắt đầu như thế nào và kết thúc ra sao, nhớ từ đầu đến cuối. Dù có nhớ thế nào đi nữa, họ vẫn luôn cảm thấy tội lỗi, và vì vậy họ luôn cảm thấy chán nản về vấn đề này suốt những năm qua. Ngay cả khi đang thực hiện bổn phận, ngay cả khi đang phụ trách một công tác nào đó, họ vẫn cảm thấy như thể không còn hy vọng được cứu rỗi. Vì vậy, họ chưa bao giờ thẳng thắn đối mặt với chuyện mưu cầu lẽ thật, cũng không coi đó là điều đúng đắn và quan trọng nhất. Họ tin rằng sai lầm họ đã phạm phải hoặc điều họ đã làm trong quá khứ bị hầu hết mọi người coi thường, hoặc họ có thể bị mọi người lên án và khinh thường, hoặc thậm chí bị Đức Chúa Trời lên án. Cho dù công tác của Đức Chúa Trời đang ở giai đoạn nào hay Ngài đã phán bao nhiêu lời, họ cũng chưa bao giờ đối mặt với chuyện mưu cầu lẽ thật một cách đúng đắn. Tại sao lại như vậy? Họ không có đủ dũng khí để thoát khỏi sự chán nản của mình. Đây là kết luận cuối cùng mà kiểu người này rút ra sau khi thể nghiệm kiểu sự việc này, và vì họ không rút ra được kết luận chính xác nên họ không có khả năng thoát khỏi sự chán nản của bản thân(Cách mưu cầu lẽ thật (2), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Đức Chúa Trời đã miêu tả chính xác tình trạng của tôi. Kể từ khi ký “Tam thư”, chuyện đó giống như một cái gai trong lòng, thường khiến tôi đau lòng và khổ sở. Đã hơn một lần tôi tự hỏi: “Mình đã ký ‘Tam thư’ và bị đóng dấu của con thú, liệu người như mình Đức Chúa Trời có còn cứu rỗi không? Đức Chúa Trời muốn những người có thể làm chứng cho Ngài, nhưng mình chẳng những không làm chứng cho Ngài, mà còn ký ‘Tam thư’ phản bội Ngài, trở thành một dấu ấn nhục nhã. Có phải Đức Chúa Trời đã đào thải mình rồi không?”. Mỗi khi nghĩ vậy, lòng tôi đau như bị dao cắt, ngay cả khi cầu nguyện cũng không biết phải nói gì. Dù hội thánh vẫn cho tôi cơ hội thực hiện bổn phận, tôi rất biết ơn và muốn cố gắng hết sức để phối hợp, nhưng sự bất an trong lòng vẫn không hề vơi đi. Mỗi lần nghe các anh chị em bàn tán về những người ký “Tam thư”, lòng tôi lại âm ỉ đau. Nhìn thấy những trải nghiệm của các anh chị em đứng vững làm chứng sau khi bị bắt, lòng tôi càng thêm đau đớn. Tôi nghĩ những người đó mới là đối tượng được Đức Chúa Trời khen ngợi, còn tôi đã ký “Tam thư” phản bội Ngài, không xứng đáng được Ngài cứu rỗi. Vì không thể thoát khỏi ám ảnh của việc ký “Tam thư”, tôi thường sống trong tình trạng tiêu cực, không còn nhiệt huyết để mưu cầu lẽ thật hay có lối vào sự sống. Tôi cảm thấy mình như một cái xác không hồn, mỗi ngày chỉ biết làm việc. Dường như chỉ có làm tốt công việc mới có thể chuộc lại lỗi lầm, lòng tôi mới có được chút an ủi. Suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra thực ra Ngài không hề tước đi cơ hội mưu cầu lẽ thật của tôi, Ngài còn cho tôi rèn luyện trong bổn phận lãnh đạo và người làm công. Nếu Đức Chúa Trời đã đào thải tôi, làm sao tôi vẫn có cơ hội thực hiện bổn phận? Tôi càng không thể tận hưởng sự chăm tưới và cung ứng của lời Đức Chúa Trời. Vậy mà tôi cứ hiểu lầm Ngài, lãng phí biết bao thời gian sống trong tiêu cực! Nếu cứ tiếp tục tiêu cực như vậy, không phải Đức Chúa Trời đào thải tôi, mà là chính tôi tự đào thải mình. Tôi phải phản tỉnh bản thân cẩn thận và tìm kiếm lẽ thật để thoát khỏi tình trạng tiêu cực này.

Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời giúp tôi tìm ra gốc rễ của vấn đề. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Mọi người tin Đức Chúa Trời hòng để được ban phước, được tưởng thưởng, được đội mão triều thiên. Chẳng phải điều này tồn tại trong lòng mọi người sao? Thật sự là như vậy. Mặc dù mọi người không thường nói về nó, và thậm chí còn che đậy động cơ và ham muốn được phước, nhưng khao khát và động cơ sâu thẳm trong lòng người này luôn bất di bất dịch. Dù con người có hiểu được bao nhiêu lý thuyết thuộc linh, họ có nhận thức trải nghiệm gì, có thể thực hiện bổn phận gì, phải chịu đựng bao nhiêu đau khổ, hay phải trả giá thế nào, họ cũng không bao giờ buông bỏ được động lực muốn có phước lành ẩn giấu sâu trong lòng, và luôn âm thầm lao nhọc phục vụ động lực đó. Chẳng phải đây là điều sâu kín nhất trong lòng người sao? Nếu không có động cơ nhận được phước lành này, các ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Các ngươi sẽ thực hiện bổn phận của mình và đi theo Đức Chúa Trời với thái độ ra sao? Con người sẽ ra sao nếu động cơ được nhận phước lành ẩn sâu trong lòng họ bị dẹp bỏ? Có lẽ nhiều người sẽ trở nên tiêu cực, trong khi một số người sẽ trở nên mất động lực làm bổn phận. Họ sẽ mất hứng thú trong đức tin nơi Đức Chúa Trời, như thể linh hồn của họ đã tan biến. Trông họ như thể bị mất hồn. Đó là lý do tại sao Ta phán động cơ được nhận phước lành là điều được ẩn giấu sâu kín trong lòng người. Có lẽ, khi họ thực hiện bổn phận của mình hay sống đời sống hội thánh, họ sẽ cảm thấy mình có thể vứt bỏ gia đình và vui vẻ dâng mình cho Đức Chúa Trời, và cảm thấy rằng giờ họ có nhận thức về động cơ được nhận phước lành của mình, và đã gạt bỏ động cơ này sang một bên, thôi không còn bị nó chi phối hay kìm kẹp nữa. Lúc đó họ nghĩ họ không còn động cơ được ban phước nữa, nhưng Đức Chúa Trời thì nghĩ khác. Con người chỉ nhìn nhận vấn đề một cách nông cạn. Nếu không có những thử luyện, họ sẽ cảm thấy hài lòng về bản thân. Miễn là họ không rời khỏi hội thánh hay chối bỏ danh Đức Chúa Trời, và họ kiên định dâng mình cho Đức Chúa Trời, thì họ tin rằng mình đã thay đổi. Họ cảm thấy không còn bị chi phối bởi nhiệt huyết cá nhân hay những bốc đồng nhất thời trong lúc thực hiện bổn phận của mình. Thay vào đó, họ tin họ có thể mưu cầu lẽ thật, và tin họ có thể liên tục tìm kiếm và thực hành lẽ thật trong khi thực hiện bổn phận, để những tâm tính bại hoại của họ được làm tinh sạch và họ đạt được chút thay đổi thực sự nào đó. Tuy nhiên, khi có những việc xảy ra liên hệ trực tiếp đến đích đến và kết cục của con người, thì họ hành xử như thế nào? Toàn bộ sự thật đều bị tỏ lộ(Sáu dấu chỉ của sự phát triển trong sự sống, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đức Chúa Trời đã vạch trần tình trạng thực sự của tôi. Sự tiêu cực mà tôi cảm thấy bị chi phối bởi ý định mưu cầu phước lành. Sau khi tin Đức Chúa Trời, tôi nhiệt tình dâng mình cho Ngài. Tôi đến nhà Đức Chúa Trời ngay sau khi tốt nghiệp trung học để thực hiện bổn phận toàn thời gian, nghĩ rằng nếu cứ tiếp tục mưu cầu như vậy, tôi chắc chắn sẽ được vào vương quốc và tận hưởng những phước lành của thiên quốc. Khi bị bắt và ký “Tam thư” vì sợ bị tra tấn, tôi cảm thấy mình không còn hy vọng nhận được phước lành nữa, và tất cả những nghi ngờ, hiểu lầm của tôi về Đức Chúa Trời đều trỗi dậy. Tôi tự hỏi: “Sau khi ký ‘Tam thư’, liệu Đức Chúa Trời có còn tha thứ cho mình không? Nếu Đức Chúa Trời không cứu rỗi mình, thì mình còn hy vọng nhận được phước lành không? Nếu không có hy vọng nhận được phước lành, thì tin đến cùng còn có ý nghĩa gì nữa?”. Trong lòng tôi trở nên vô cùng tiêu cực. Đặc biệt là sau này, khi các lãnh đạo điều tra về việc tôi ký “Tam thư”, tôi bắt đầu nghi ngờ rằng mình có thể bị thanh trừ bất cứ lúc nào, và cảm thấy rằng dù vẫn có thể tận hưởng sự cung ứng của lời Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận, tôi vẫn không thể thoát khỏi số phận bị đào thải. Tôi nghĩ mình không còn hy vọng nhận được phước lành, và lòng tôi nặng trĩu như bị đá đè. Tôi cảm thấy như mình đã mất đi linh hồn, thường xuyên bị bao trùm bởi sự tiêu cực và đau khổ, và không thể vực dậy tinh thần để thực hiện bổn phận hay mưu cầu lẽ thật. Tôi thấy rằng ham muốn nhận được phước lành của mình quá mạnh mẽ. Suốt những năm qua, những sự dâng mình và vứt bỏ của tôi không phải để thỏa mãn Đức Chúa Trời, mà là để cố gắng mặc cả với Ngài. Khi có lợi, tôi sẽ rất có động lực trong bổn phận, nhưng khi không nhận được phước lành, tôi lại trở nên quá tiêu cực. Sự mưu cầu của tôi có gì khác với những kẻ chẳng tin đâu? Nghĩ lại, tôi chỉ là một loài thọ tạo, thậm chí không đáng giá bằng hạt bụi, nhưng lại có thể đến nhà Đức Chúa Trời, thực hiện bổn phận, và tận hưởng tất cả những lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ. Tôi đã được ưu ái quá nhiều từ Đức Chúa Trời. Nhưng tôi không hề biết ơn tất cả những gì Đức Chúa Trời đã ban cho. Tôi thậm chí còn trơ trẽn cầu xin Đức Chúa Trời ban cho những phước lành của thiên quốc, và nếu không nhận được phước lành, tôi lại trở nên tiêu cực đến mức không thể gượng dậy nổi. Tôi thực sự không có nhân tính! Nhận ra điều này, tôi cảm thấy vô cùng hối hận, nên tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, sẵn lòng từ bỏ ý định mưu cầu phước lành và ăn năn.

Sau đó, tôi đọc được thêm hai đoạn lời Đức Chúa Trời và hiểu rõ hơn về tâm ý của Ngài. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Hầu hết mọi người đều có vi phạm trong quá khứ và những vết nhơ. Chẳng hạn như, một số người đã chống đối Đức Chúa Trời và nói những điều báng bổ; một số người đã từ chối sự ủy thác của Đức Chúa Trời và không thực hiện bổn phận của họ, rồi bị Đức Chúa Trời ghét bỏ; một số người đã phản bội Đức Chúa Trời khi họ phải đối mặt với những cám dỗ; một số người đã phản bội Đức Chúa Trời bằng việc ký tên vào ‘Tam thư’ khi họ bị bắt; một số người đã ăn cắp của lễ; một số người đã phung phí của lễ; một số người thường xuyên làm nhiễu loạn đời sống hội thánh và gây hại cho những người được Đức Chúa Trời chọn; một số người thì lập bè phái và trừng trị người khác, làm xáo trộn hội thánh; một số người thường xuyên truyền bá các quan niệm và cái chết, làm hại các anh chị em; và một số người thì lăng nhăng và dâm loạn, đã gây ảnh hưởng cực kỳ xấu. Điều đó đủ để nói rằng ai cũng có những vi phạm và vết nhơ. Ấy thế mà một số người có thể tiếp nhận lẽ thật và ăn năn trong khi những người khác thì lại không thể và có chết cũng không chịu ăn năn. Bởi vậy người ta nên được đối xử theo như thực chất bản tính của họ và những biểu hiện nhất quán của họ. Những người có thể ăn năn là những người thật sự tin Đức Chúa Trời, còn những kẻ thực sự không ăn năn, những kẻ đáng bị thanh trừ và khai trừ thì sẽ bị thanh trừ và khai trừ. … Đức Chúa Trời xử lý từng người dựa theo các tình huống thực tế về hoàn cảnh và bối cảnh của người đó, cũng như theo các hành động, cư xử và thực chất bản tính của họ. Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ xử oan bất kỳ ai. Đây là một mặt của sự công chính của Đức Chúa Trời. Ví dụ, Ê-va đã bị con rắn dụ ăn trái từ cây biết thiện ác, nhưng Giê-hô-va đã không quở trách bà bằng cách nói: ‘Ta đã bảo ngươi đừng ăn, vậy thì tại sao ngươi vẫn ăn? Ngươi đáng lẽ phải phân biệt rõ, đáng lẽ phải biết rằng những gì con rắn nói chỉ để cám dỗ ngươi’. Giê-hô-va đã không khiển trách Ê-va như thế. Bởi vì con người là tạo vật của Đức Chúa Trời, Ngài biết những bản năng của họ là gì và những bản năng đó có thể đạt được gì, con người có thể kiểm soát bản thân đến mức độ nào, và con người có thể đạt đến mức độ nào. Đức Chúa Trời biết rất rõ tất cả những điều này. Việc Đức Chúa Trời xử lý một con người không đơn giản như người ta nghĩ. Khi thái độ của Ngài đối với một người là chán ghét hoặc ác cảm, hoặc khi nói đến điều người này phát biểu trong một bối cảnh nhất định, thì Ngài hiểu rõ tình trạng của họ. Điều này là do Đức Chúa Trời dò xét nội tâm và thực chất con người. Con người luôn nghĩ: ‘Đức Chúa Trời chỉ có thần tính của Ngài. Ngài công chính và không cho phép con người xúc phạm. Ngài không xét đến những khó khăn của con người hay đặt mình vào vị trí của con người. Nếu một người chống đối Đức Chúa Trời, Ngài sẽ trừng phạt họ’. Mọi chuyện hoàn toàn không phải là như vậy. Nếu đó là cách người ta hiểu về sự công chính của Ngài, công tác của Ngài, và cách Ngài đối xử với con người, thì họ đã sai lầm nghiêm trọng. Đức Chúa Trời định đoạt kết cục của mỗi người không dựa trên quan niệm và tưởng tượng của con người mà dựa trên tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Ngài sẽ đáp trả mỗi người tùy theo những gì họ đã làm. Đức Chúa Trời là công chính, và sớm hay muộn Ngài sẽ khiến tất cả mọi người đều hoàn toàn tâm phục khẩu phục(Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Trong Kinh Thánh có câu chuyện về sự trở về của đứa con hoang đàng, tại sao Đức Chúa Jêsus lại có một ví dụ như vậy? Đó là để làm cho con người hiểu rằng ý định cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời là chân thành, và Ngài cho con người cơ hội để ăn năn và biến đổi. Trong quá trình này, Đức Chúa Trời hiểu con người, biết rõ sự yếu đuối và mức độ bại hoại của họ. Ngài biết con người sẽ vấp ngã và thất bại, cũng giống như con người học đi khi còn nhỏ, thể chất ngươi dù khỏe mạnh đến đâu cũng sẽ có lúc bị sẩy chân và vấp ngã, cũng có lúc va phải cái này, vấp phải cái kia. Người làm mẹ hiểu con mình như thế nào thì Đức Chúa Trời cũng hiểu mỗi một người như vậy. Ngài hiểu những khó khăn và sự yếu đuối, cũng như những nhu cầu của mỗi một người. Ngài càng hiểu trong quá trình bước vào sự biến đổi tâm tính, con người sẽ gặp phải những khó khăn nào, sẽ có những dạng yếu đuối và thất bại như thế nào. Đây là những điều mà Đức Chúa Trời hiểu rõ nhất. Nên có thể nói, Đức Chúa Trời dò xét tận đáy lòng của con người. Dù ngươi yếu đuối như thế nào, chỉ cần ngươi không từ bỏ danh của Đức Chúa Trời, không rời bỏ Ngài và không rời bỏ con đường này, thì ngươi sẽ luôn có cơ hội đạt được sự biến đổi tâm tính. Khi ngươi có cơ hội đạt được sự biến đổi tâm tính thì ngươi sẽ có hy vọng sống sót và do đó sẽ có hy vọng được Đức Chúa Trời cứu rỗi(Con đường thực hành hướng đến sự thay đổi tâm tính của một người, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi đã có được chút hiểu biết về tâm tính công chính của Ngài. Đức Chúa Trời không đánh giá một người có thể được cứu rỗi hay không dựa trên biểu hiện nhất thời của họ, cũng không định tội hay đào thải một người dựa trên một vi phạm do một sự cố gây ra. Đức Chúa Trời biết vóc giạc của chúng ta và thực sự hiểu những yếu đuối của chúng ta. Đức Chúa Trời đánh giá một người chủ yếu dựa trên biểu hiện nhất quán của người đó và liệu họ có thể tiếp nhận lẽ thật hay không. Nếu biểu hiện chung của họ tốt, và sau khi vi phạm, họ có thể tiếp nhận lẽ thật và thực sự ăn năn, thì Đức Chúa Trời sẽ thương xót và khoan dung đối với người đó. Giống như Đa-vít, sau khi chiếm đoạt vợ của U-ri, ông đã vô cùng hối hận, và sau đó, ông không bao giờ phạm dâm loạn nữa. Ngay cả khi về già, dù có một thiếu nữ được đưa đến để sưởi ấm cho ông, ông cũng không chạm vào cô. Mặc dù Đa-vít đã vi phạm, nhưng ông đã thực sự ăn năn, và Đức Chúa Trời vẫn khen ngợi ông. Một số anh chị em đã bị khai trừ vì đi theo con đường của kẻ địch lại Đấng Christ và gây nhiễu loạn nghiêm trọng công tác của hội thánh, nhưng sau đó, họ đã thực sự ăn năn và được nhận lại vào nhà Đức Chúa Trời, và họ thậm chí còn viết những bài lời chứng trải nghiệm, làm chứng cho công tác cứu rỗi của Đức Chúa Trời trên họ. Từ họ, tôi thấy rằng thái độ của Đức Chúa Trời đối với những người thực sự ăn năn và có thể tiếp nhận lẽ thật là cứu rỗi. Ngược lại, đối với những người có biểu hiện nhất quán kém, không tiếp nhận lẽ thật, hoặc không thực sự ăn năn, thái độ của Đức Chúa Trời là định tội và đào thải. Ví dụ, một số người sau khi ký “Tam thư” không hề có sự hiểu biết hay ăn năn về sự phản bội Đức Chúa Trời của mình, và họ thậm chí còn bán đứng hội thánh và anh chị em của mình. Đức Chúa Trời không cho những người như vậy thêm cơ hội vì họ chán ghét lẽ thật và không có lương tâm hoặc lý trí. Tôi nghĩ về việc mình đã nhất thời yếu đuối và ký “Tam thư”, nhưng sau đó, tôi cảm thấy tự trách và hối hận, và tôi muốn ăn năn và thay đổi. Hội thánh đánh giá rằng biểu hiện chung của tôi là tốt, và hơn nữa, tôi chưa thực hiện bổn phận được bao lâu, kinh nghiệm còn nông cạn, vóc giạc còn nhỏ, và sau khi ký “Tam thư”, tôi đã thực sự hối hận, nên họ đã cho tôi một cơ hội nữa. Đây là lòng thương xót của Đức Chúa Trời. Nhưng tôi không hiểu tâm tính của Đức Chúa Trời và cứ hiểu lầm Ngài, nghĩ rằng mình chỉ đơn thuần là một người đem sức lực phục vụ và có thể sẽ bị đào thải sau khi phục vụ xong. Tôi đã hoàn toàn phủ nhận sự công chính của Đức Chúa Trời, cũng như tâm ý muốn cứu rỗi nhân loại đến mức tối đa của Ngài. Tôi nhận ra rằng trong đức tin của mình, tôi hoàn toàn không biết Đức Chúa Trời. Tôi thực sự mù quáng! Tôi đã tưởng tượng Đức Chúa Trời giống như những con người bại hoại. Đây chẳng phải là sự báng bổ Đức Chúa Trời sao? Nếu cứ tiếp tục như vậy, tôi sẽ không bao giờ nhận được sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Tôi phải noi gương Đa-vít, bình tĩnh đối mặt với những vi phạm của mình, và thực sự ăn năn, và bất kể cuối cùng Đức Chúa Trời cứu rỗi hay đào thải tôi, tôi cũng phải thuận phục và chấp nhận, không lo lắng về tiền đồ hay con đường tương lai của mình.

Sau đó, tôi tự hỏi: “Nguyên nhân sâu xa của việc tôi thất bại trong việc ký ‘Tam thư’ sau khi bị bắt là gì?”. Tôi đọc lời Đức Chúa Trời: “Ngươi mong rằng đức tin vào Đức Chúa Trời sẽ không hề có khó khăn gì, không hề có hoạn nạn gì, không hề có thống khổ gì. Ngươi luôn mưu cầu những thứ vô giá trị và ngươi không coi trọng sự sống, thay vào đó đặt những suy nghĩ ngông cuồng của mình lên trước lẽ thật. Ngươi thật vô giá trị! Ngươi sống như một con lợn – có gì khác giữa ngươi với lợn và chó chứ? Chẳng phải những kẻ yêu xác thịt thay vì mưu cầu lẽ thật đều là súc vật sao? Chẳng phải những người chết không có linh hồn đều là những thây ma biết đi sao? Nơi các ngươi, Ta đã phán bao nhiêu lời rồi? Công tác mà Ta đã thực hiện nơi các ngươi còn ít sao? Ta đã cung cấp trong các ngươi bao nhiêu rồi? Vậy sao ngươi vẫn chưa có được điều đó? Ngươi có gì để oán trách nữa? Chẳng phải là ngươi không có được gì bởi lẽ ngươi quá yêu xác thịt sao? Và chẳng phải vì suy nghĩ của ngươi quá ngông cuồng sao? Chẳng phải vì ngươi quá ngu ngốc sao? Nếu ngươi không thể có được các phước lành này, ngươi có thể đổ lỗi cho Đức Chúa Trời vì không cứu rỗi ngươi sao? … Ta ban cho ngươi cuộc đời đích thực, nhưng ngươi không mưu cầu. Chẳng phải ngươi không khác gì chó hay lợn sao? Con lợn không mưu cầu cuộc sống con người, chúng không mưu cầu việc được làm cho tinh sạch, và chúng không hiểu cuộc đời là gì. Mỗi ngày, chúng chỉ đơn giản là ăn no ngủ say. Ta đã cho ngươi con đường thật nhưng ngươi vẫn chưa đạt được: Ngươi trắng tay. Ngươi có muốn tiếp tục cuộc sống này, cuộc sống của một con lợn không? Những người như vậy sống có ý nghĩa gì? Cuộc sống của ngươi thật đáng khinh và hèn mọn, ngươi sống trong dơ bẩn và dâm loạn, và ngươi không mưu cầu bất kỳ mục tiêu nào; cuộc đời của ngươi chẳng phải là cuộc đời hèn mọn nhất sao? Các ngươi có mặt mũi nào mà đối diện Đức Chúa Trời đây? Nếu các ngươi tiếp tục trải nghiệm như vậy, chẳng phải các ngươi sẽ không thu nhận được điều gì sao? Ngươi đã được ban cho con đường thật nhưng cuối cùng ngươi có thể đạt được điều đó hay không còn tùy vào sự mưu cầu của riêng ngươi(Các kinh nghiệm của Phi-e-rơ: Hiểu biết của ông về hình phạt và sự phán xét, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Ngày nay, mọi người trên thế giới đều đang trải qua những sự thử luyện, ngay cả Đức Chúa Trời cũng đang chịu khổ, vậy nếu các ngươi không chịu khổ thì có được không? … Một số người phải đối mặt với nỗi đau gia đình, một số người phải đối mặt với nỗi đau hôn nhân, và một số người phải chịu sự bức hại, thậm chí không có nơi ở. Dù họ có đi đâu thì đó cũng là nhà của người khác, và họ cảm thấy đau lòng. Chẳng phải nỗi đau mà các ngươi đang trải qua bây giờ là nỗi đau mà Đức Chúa Trời đã phải chịu sao? Các ngươi đang chịu khổ với Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời đồng hành với con người trong việc chịu khổ. Tất cả các ngươi đều có một phần trong sự khổ nạn, vương quốc và sự chịu đựng thời nay của Đấng Christ, và cuối cùng các ngươi sẽ đạt được vinh quang! Sự chịu khổ này đầy ý nghĩa. Chẳng phải như vậy sao? Ngươi không thể không có ý chí này. Ngươi phải hiểu được ý nghĩa của việc chịu khổ ngày nay và tại sao ngươi lại chịu khổ nhiều như vậy. Ngươi phải tìm kiếm lẽ thật và đạt được sự hiểu biết về tâm ý của Đức Chúa Trời, và rồi ngươi sẽ có ý chí chịu khổ(Làm thế nào để biết bản tính con người, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra gốc rễ của việc ký “Tam thư” là do tôi quá trân quý xác thịt của mình. Tôi sống theo quy luật sinh tồn của Sa-tan là “Người không vì mình, trời tru đất diệt”, và đặt lợi ích xác thịt lên trên hết. Khi tin Đức Chúa Trời, tôi chỉ mong không gặp phải khó khăn hay đau khổ nào, xác thịt không phải chịu khổ, và càng không muốn trải qua bất kỳ sự thử luyện hay hoạn nạn nào. Vì vậy, khi bị con rồng lớn sắc đỏ đe dọa tra tấn, điều tôi nghĩ đến không phải là làm thế nào để đứng vững làm chứng, mà là nỗi sợ hãi bị tra tấn và đau khổ. Tôi sợ mình không chịu nổi sự tra tấn mà trở thành Giu-đa, và nghĩ rằng tốt hơn là nên ký “Tam thư”. Bề ngoài thì có vẻ như suy nghĩ của tôi khá tích cực, nhưng thực tế, tôi chỉ nghĩ đến việc bảo toàn bản thân, không muốn xác thịt của mình phải chịu đựng dù chỉ một chút. Tôi biết rõ rằng ký “Tam thư” là phản bội Đức Chúa Trời, nhưng vẫn sống cuộc đời hèn hạ bằng cách nhượng bộ ma quỷ để cầu an. Hành động của tôi không khác gì hành động của một Giu-đa. Khi công tác của Đức Chúa Trời hoàn tất, nếu tôi vẫn quá coi trọng xác thịt và không thể làm chứng thật sự, thì không những tôi sẽ không được Đức Chúa Trời cứu rỗi, mà tôi sẽ, hết lần này đến lần khác, chống đối và phản bội Đức Chúa Trời để thỏa mãn xác thịt của mình, và cuối cùng, tôi chắc chắn sẽ chịu sự hư mất và diệt vong cùng với Sa-tan! Từ lời Đức Chúa Trời, tôi cũng nhận ra rằng để được cứu rỗi trong đức tin, người ta phải chịu đựng nhiều đau khổ. Chỉ qua những hoàn cảnh đau đớn, chúng ta mới có thể có đức tin thật sự nơi Đức Chúa Trời. Giống như Phi-e-rơ đã theo Đức Chúa Jêsus – ông đã trải qua hàng trăm sự thử luyện và tinh luyện trong suốt cuộc đời mình, ông đã tìm cách yêu kính Đức Chúa Trời trong những sự tinh luyện này, và cuối cùng, ông đã đạt được tình yêu tột bậc dành cho Đức Chúa Trời và sự thuận phục cho đến chết, và ông đã bị đóng đinh ngược trên thập tự giá vì Đức Chúa Trời, trở thành người đầu tiên trong các thời đại được Đức Chúa Trời hoàn thiện. Còn có Gióp, người đã đối mặt với những sự thử luyện. Ông đã mất đi khối tài sản khổng lồ và con cái trong chốc lát, cơ thể ông bị phủ đầy ung nhọt, nhưng Gióp vẫn có thể thuận phục sự tể trị và sắp đặt của Đức Chúa Trời và đứng vững làm chứng cho Đức Chúa Trời, khiến Sa-tan nghe mà sợ mất mật, và trở thành một người thực sự tự do. So với họ, tôi chẳng là gì cả. Tôi đã kinh hãi và thỏa hiệp với Sa-tan ngay cả khi chưa đối mặt với sự tra tấn nghiêm trọng. Tôi giống như một bông hoa trong nhà kính không thể chịu được một chút gió mưa. Tôi thực sự yếu đuối! Tôi phải mưu cầu lẽ thật và không được chiều theo xác thịt nữa, và tôi thề rằng nếu một ngày nào đó tôi bị bắt lại, ngay cả khi sống không bằng chết, tôi cũng sẽ đứng vững làm chứng.

Cuối tháng 7 năm 2024, ngay sau khi tôi đến Hội thánh Đông Dương, hội thánh lân cận đã bị một cuộc bắt bớ quy mô lớn, và các lãnh đạo đã thúc giục chúng tôi nhanh chóng giúp di dời các sách lời Đức Chúa Trời. Ngay khi chúng tôi di chuyển được một vài kho sách, người lái xe bị nghi ngờ là đang bị theo dõi. Ngoài ra, người anh em cộng sự của tôi cũng có nguy cơ bị lộ vì đã tiếp xúc với người lái xe. Khi đối mặt với tình huống này, tôi rất sợ hãi. Tôi nghĩ về việc trước đây mình đã bị cảnh sát theo dõi trong một thời gian dài và suýt bị bắt, và về việc một Giu-đa cũng đã bán đứng tôi và tôi là mục tiêu bắt giữ chính của cảnh sát. Bây giờ khó khăn lắm mới ẩn giấu được thì cộng sự của tôi lại gặp rủi ro về an toàn. Tôi cảm thấy rằng nếu chúng tôi bị nhắm đến, tôi sẽ không thể thoát được, và nếu cảnh sát bắt được tôi, họ chắc chắn sẽ không tha cho tôi. Nhưng khi tôi nghĩ về vi phạm mà mình đã phạm lần trước khi bị bắt và ký “Tam thư”, tôi có một ý nghĩ mãnh liệt trong lòng: “Nếu mình thực sự bị bắt, mình thề chết cũng sẽ không bao giờ phủ nhận Đức Chúa Trời, và mình nhất định sẽ làm chứng cho Đức Chúa Trời!”. Khi tôi nghĩ như vậy, lòng tôi không còn bị tình huống này kìm kẹp nữa. Hơn nữa, việc tôi có bị bắt hay không là ở trong tay Đức Chúa Trời, và tôi phải thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời. Cần phải có những sự sắp xếp thích hợp cho các cuốn sách, nhiều nhiệm vụ khác nhau cần được thực hiện khẩn cấp, và tôi phải bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Vì vậy, vừa liên lạc với cộng sự của mình để hỏi thăm, tìm hiểu và thảo luận về việc di dời các cuốn sách, tôi vừa viết một lá thư cho hội thánh để theo dõi tiến độ di dời sách. Bằng cách thực hành như vậy, tôi cảm thấy lòng mình thanh thản hơn rất nhiều. Sự biến đổi và những thu hoạch mà tôi đạt được hiện tại không thể tách rời khỏi sự dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời. Tôi chân thành cảm tạ Đức Chúa Trời!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Xóa bỏ sự đề phòng

Bởi Chuyên Nhất, Hàn Quốc Cách đây không lâu, chúng tôi phải vẽ một số bức ảnh cho công tác làm phim của hội thánh. Cộng sự của tôi là anh...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger