Thoát Khỏi Vũng Lầy Của Tiền Tài Và Danh Vọng
Khi còn nhỏ, gia đình tôi rất nghèo và thường bị mọi người khinh thường. Nên tôi đã nghĩ rằng: “Khi lớn lên, mình nhất định phải kiếm được...
Hoan nghênh tất cả những người tìm kiếm sự xuất hiện của Đức Chúa Trời!
Năm 2002, lúc đó tôi 18 tuổi, đang làm việc tại một xưởng may. Mỗi khi xem phim, thấy các nhân vật chính ăn mặc đẹp và sành điệu, đeo vàng đeo bạc, ở nhà lầu, đi xe hơi, đến đâu cũng có người đón vào đưa ra, trông thật vẻ vang, tôi vô cùng ngưỡng mộ cuộc sống như vậy. Tôi mơ ước sau này lập gia đình, mình cũng sẽ phấn đấu để có được một cuộc sống danh giá như thế. Để thực hiện ước mơ của mình, không lâu sau khi kết hôn, vợ chồng tôi đã xa nhà đi làm ăn. Để kiếm được nhiều tiền hơn, dù mang thai đến tháng thứ bảy, thứ tám, tôi vẫn kiên trì may vá hơn mười tiếng mỗi ngày. Làm việc quá sức trong thời gian dài khiến sức khỏe tôi suy giảm rõ rệt, sụt mất hơn năm ký. Chồng tôi thì vì ngồi lâu và uống ít nước nên bị sỏi thận, không thể cùng tôi may vá được nữa. Sau đó, chồng tôi xin vào làm ở một công ty, không lâu sau thì được ông chủ tin tưởng, giao cho quán xuyến nhiều việc của công ty. Vài năm sau, chúng tôi cũng có được một khoản tiết kiệm, bèn vay ngân hàng mua một căn nhà trên thành phố. Công việc của chồng tôi ngày càng thuận lợi, chúng tôi còn dự định mua một chiếc xe hơi. Mỗi lần về quê, dân làng ai cũng tấm tắc khen chúng tôi còn trẻ mà đã mua được nhà trên thành phố, đúng là có bản lĩnh. Nghe những lời khen đó, tôi cảm thấy rất tự hào, cảm giác như đi trên mây. Tôi nghĩ có tiền thật là vẻ vang – đi đâu cũng được người ta nể trọng, tung hô. Nhưng dần dần, tôi cảm thấy trong lòng trống rỗng một cách khó tả. Tôi đi mua sắm quần áo và mỹ phẩm hàng hiệu, hay đi du lịch rồi đăng ảnh lên mạng xã hội, nhưng không gì có thể lấp đầy khoảng trống trong lòng tôi. Tôi không khỏi tự hỏi: “Lẽ nào mình vất vả kiếm tiền chỉ để ăn ngon mặc đẹp, ở nhà sang, và được người khác ngưỡng mộ thôi sao? Nhưng tại sao sau khi có được tất cả những thứ này, lòng mình lại thấy trống rỗng đến vậy?”. Cứ thế, tôi sống qua ngày trong vô định, cảm thấy sống thật mệt mỏi.
Năm 2019, công ty của chồng tôi vướng vào một vụ tranh chấp kinh tế. Chồng tôi phụ trách tài chính nên cũng bị liên lụy. Chúng tôi phải bồi thường bốn trăm nghìn tệ, chồng tôi còn bị kiện ra tòa và lĩnh án bốn năm rưỡi tù giam. Tôi cảm giác như trời đất sụp đổ. Chồng tôi vốn là trụ cột trong nhà. Anh ấy ngồi tù rồi thì không còn ai kiếm tiền nuôi gia đình, trong khi hàng tháng vẫn phải trả tiền vay mua nhà, rồi còn chi phí học hành và sinh hoạt hàng ngày cho hai đứa con. Vì khoản bồi thường mà chúng tôi còn vay nợ bên ngoài không ít. Mọi áp lực đều đổ dồn lên vai tôi. Ngoài áp lực về kinh tế, tôi còn phải chịu đựng ánh mắt khinh miệt, dè bỉu của những người xung quanh. Tôi cảm thấy sống thật quá đau khổ, chi bằng chết đi cho xong. Nhưng hai đứa con đang tuổi cần tôi chăm sóc, tôi không nỡ lòng nào bỏ chúng lại. Suốt những ngày tháng đó, ngày nào tôi cũng lấy nước mắt rửa mặt, không biết phải đối mặt với cuộc sống sau này ra sao. Ngay lúc tôi cảm thấy tuyệt vọng nhất, mẹ tôi đã rao truyền cho tôi phúc âm thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Thông qua việc đọc lời Đức Chúa Trời và nghe anh chị em thông công, tôi hiểu ra rằng ban đầu, loài người sống trong Vườn Ê-đen không có phiền não, sầu muộn hay đau khổ. Nhưng sau khi bị Sa-tan làm cho bại hoại, con người mới nảy sinh đủ loại dã tâm, dục vọng và những quan điểm sai lầm trong việc mưu cầu, đó là lý do có quá nhiều đau khổ và phiền muộn. Lần này, Đức Chúa Trời đến thực hiện công tác chính là để cứu rỗi nhân loại thoát khỏi sự làm hại của Sa-tan, khôi phục lại cuộc sống mà con người từng có trong Vườn Ê-đen. Chỉ khi tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt, người ta mới có thể thoát khỏi sự làm hại của Sa-tan và được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Tôi cảm thấy mình đã tìm được chỗ nương tựa, nỗi đau trong lòng cũng vơi đi rất nhiều. Tôi sẵn lòng tham gia nhóm họp và đọc lời Đức Chúa Trời.
Từ đó, tôi vừa đi làm may vừa tham gia nhóm họp. Vì tôi may vá giỏi nên tiền kiếm được không chỉ đủ trang trải chi phí sinh hoạt hàng ngày trong nhà mà còn dư ra một ít. Tôi lại bắt đầu lên kế hoạch cho tương lai, thầm nghĩ: “Nếu mình cố gắng làm thêm vài năm nữa, mình sẽ có tiền, lúc đó người khác sẽ không còn coi thường hay chê cười mình nghèo nữa”. Nhưng tôi phải tham gia nhóm họp ba lần một tuần, dù việc này có ích cho lối vào sự sống của tôi, nhưng nó cũng đồng nghĩa với việc tôi phải làm ít giờ hơn và kiếm được ít tiền hơn trước. Thế là tôi nghĩ: “Hay là mình giảm bớt, chỉ nhóm họp một lần một tuần thôi nhỉ? Như vậy mỗi tháng mình có thể kiếm thêm vài nghìn tệ, sau khi trả tiền vay mua nhà vẫn còn dư. Cứ tiết kiệm vài năm là có thể trả hết nợ, nếu mua được thêm chiếc xe hơi nữa thì ra ngoài cũng có thể diện hơn”. Sau đó, qua những buổi thông công với các anh chị em, tôi nhận ra rằng nếu chỉ mải mê kiếm tiền mà không nhóm họp đều đặn, tôi sẽ ngày càng xa cách Đức Chúa Trời. Vậy thì làm sao tôi có thể nhận được sự chăm sóc và bảo vệ của Ngài? Khi thảm họa ập đến, tiền bạc đâu thể mua lại được mạng sống! Tôi nhớ có nghe nói trong đợt dịch, may đồ bảo hộ rất có lời, có những người vì kiếm tiền mà làm việc ngày đêm không nghỉ, cuối cùng chết ngay tại xưởng. Những chuyện như vậy xảy ra không ít. Tôi phải nhìn thấu quỷ kế của Sa-tan, không thể vì tiền mà đánh mất cơ hội đạt được sự sống. Tôi phải tiếp tục nhóm họp đều đặn. Ban đầu, tôi vẫn cố gắng tham gia nhóm họp ba lần một tuần. Nhưng sau một thời gian, vì làm ít việc hơn nên lương tháng của tôi giảm đi đáng kể, tôi bắt đầu lo lắng: “Nhóm họp nhiều hơn sẽ giúp mình hiểu thêm lẽ thật, có lợi cho lối vào sự sống, nhưng lúc này xưởng lại có nhiều đơn hàng, tiền công cũng cao, đúng là thời điểm tốt để kiếm tiền. Nếu bỏ lỡ mùa này, sau này việc kinh doanh sẽ khó khăn, may quần áo cũng chẳng được bao nhiêu. Không được, mình phải ưu tiên kiếm tiền trước. Đợi khi nào xưởng hết bận, vào mùa vắng khách thì mình sẽ tham gia nhóm họp nhiều hơn”. Thế là tôi quyết định chỉ nhóm họp hai lần một tuần. Mỗi lần nhóm họp xong là tôi lại vội vã đến xưởng làm việc, người khác đã tan ca hết rồi mà tôi vẫn còn miệt mài. Suốt thời gian đó, tôi không có thời gian đọc lời Đức Chúa Trời, lúc cầu nguyện cũng chẳng biết thưa với Ngài điều gì, lòng tôi ngày càng xa cách Đức Chúa Trời.
Sau này, vào mùa vắng khách, xưởng tạm nghỉ một thời gian. Lẽ ra tôi có thể tận dụng thời gian nghỉ ngơi này để nhóm họp nhiều hơn và trang bị thêm lẽ thật, nhưng tôi lại muốn nhanh chóng kiếm thật nhiều tiền để lấy lại sự ngưỡng mộ của mọi người như khi tôi còn giàu có, nên tôi đã đến một xưởng khác để may đồ bảo hộ. Đôi khi, để làm thêm một chút, tôi còn cố tình tan ca muộn hơn, đến lúc về nhà thì người chị em đã ngồi chờ tôi để nhóm họp rồi. Nhưng sau một ngày làm việc, toàn thân tôi đau nhức, hai cánh tay đau đến mức không nhấc lên nổi, chỉ muốn nghỉ ngơi sớm, nên buổi nhóm họp cũng chẳng đạt được hiệu quả gì. Để kiếm thêm tiền, mỗi ngày tôi đều thức dậy lúc 5 giờ 30 sáng để chuẩn bị bữa sáng, và để tiết kiệm thời gian, tôi mang cả bữa trưa đến xưởng ăn. Vì thói quen ăn uống thất thường trong thời gian dài, lại toàn ăn cơm nguội vào buổi trưa, nên một tháng sau, có một hôm tôi đột nhiên nôn mửa và tiêu chảy dữ dội. Bác sĩ nói tôi bị viêm dạ dày ruột cấp tính, tình trạng khá nghiêm trọng, phải ở nhà dưỡng bệnh. Nằm trên giường, tôi bắt đầu phản tỉnh: “Mình không tĩnh nguyện hay nhóm họp đều đặn, chỉ một lòng muốn kiếm tiền để có cuộc sống tốt đẹp hơn, để được người khác ngưỡng mộ. Liệu làm vậy có hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời không?”. Trong một buổi nhóm họp, một người chị em đã đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời nhắm thẳng vào tình trạng của tôi: “Việc Gióp tin Đức Chúa Trời không chỉ là tin suông, ông là đại diện điển hình của một người tin Đức Chúa Trời thật lòng. Ông cầu nguyện với Đức Chúa Trời trong mọi việc, cảm thấy bất an vô cùng với cuộc sống tiệc tùng thường xuyên của các con, ông đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời và phó thác cho Ngài. Đối với việc chăn nuôi bò và dê, ông chắc chắn cũng thường xuyên cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Ông phó thác tất cả mọi chuyện vào tay Đức Chúa Trời. Nếu giống như những người ngoại đạo, luôn có những kế hoạch và tính toán theo ý của con người trong việc chăn nuôi bò và dê, chỉ dựa vào đầu óc và tưởng tượng của bản thân, vắt óc suy nghĩ để đạt được những mục tiêu đã lên kế hoạch của mình, thì cho dù đã từng trải nghiệm rất nhiều thất bại và trắc trở, liệu ông có thể nhìn thấy được bàn tay của Đức Chúa Trời, nhìn thấy được sự tể trị và sự sắp đặt của Ngài không? … Tại sao con người lại vắt óc sử dụng những cách thức của họ để đạt được mục tiêu của chính mình mà không nương cậy Đức Chúa Trời? Khi lập kế hoạch, họ có tìm kiếm ý của Đức Chúa Trời không? Họ có thái độ thuận phục không, có nói rằng: ‘Tôi không biết Đức Chúa Trời sẽ làm như thế nào. Tôi cứ lập kế hoạch và tính toán như thế này trước, nhưng có thể đạt được mục tiêu kế hoạch hay không thì tôi không biết, tôi chỉ là lập kế hoạch như vậy thôi. Nếu có thể đạt được mục tiêu thì đó là phước lành của Đức Chúa Trời. Nếu không thì đó là do tôi mù quáng, kế hoạch của tôi không phù hợp với ý của Đức Chúa Trời’ không? Họ có thái độ như vậy không? (Thưa, không.) Vậy những cách làm này của con người từ đâu mà có? Đây là tưởng tượng và quan niệm của con người, dục vọng của con người, những yêu cầu vô lý của con người đối với Đức Chúa Trời, chúng được sản sinh từ trong tâm tính bại hoại. Đây là một khía cạnh. Mặt khác, họ có tấm lòng thuận phục Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Làm sao thấy được rằng họ không có tấm lòng thuận phục Đức Chúa Trời? (Thưa, họ nhất định phải đạt được kế hoạch mà bản thân mình lập ra.) Đây là tâm tính gì? Là sự kiêu ngạo và phản nghịch. Họ tin rằng Đức Chúa Trời ban phước cho họ, nhưng khi họ có dục vọng và tính toán của riêng mình thì họ sẽ đặt Đức Chúa Trời sang một bên, đây chính là tâm tính kiêu ngạo. Khi họ đặt Đức Chúa Trời sang một bên thì như vậy có phải là thuận phục không? Không hề, lòng họ không còn Đức Chúa Trời nữa. Họ không hề suy xét đến việc Đức Chúa Trời sẽ tể trị và sắp đặt như thế nào, càng không suy xét việc này Đức Chúa Trời sẽ làm như thế nào, họ sẽ không suy xét những điều này. Qua đây có thể nhìn ra điều gì? Họ không hề tìm kiếm, thuận phục, cũng không có chút tấm lòng kính sợ Đức Chúa Trời nào. Họ lập kế hoạch của mình trước, sau đó họ hành động và nỗ lực theo kế hoạch, dựa vào những phương pháp, tưởng tượng và quan niệm của con người, không hề suy xét tâm ý của Đức Chúa Trời là như thế nào. Trong việc chăn nuôi, trong lòng con người ít nhất phải biết ‘mưu sự tại nhân, hành sự tại Thiên’, có nghĩa là: ‘Tôi sẽ làm hết nhiệm vụ của mình, cho gia súc ăn đầy đủ, không để chúng thiếu dinh dưỡng, lạnh, đói hoặc bệnh tật. Còn đến năm sau chúng có thể sinh được bao nhiêu con, điều này nằm trong tay Đức Chúa Trời, tôi không biết, không đòi hỏi và cũng không lập kế hoạch. Đó đều là chuyện của Đức Chúa Trời’. Nếu họ cứ kiên trì làm theo quan niệm và tưởng tượng của con người, thì đây có phải thái độ thuận phục Đức Chúa Trời không? (Thưa, không phải.) Trong hai cách làm này, cách nào là đến từ ý muốn của con người, và cách nào là thuộc về sự thuận phục Đức Chúa Trời? (Thưa, cách làm đầu tiên là đến từ ý muốn của con người, là cách làm của những người không tin. Cách làm thứ hai đến từ những người tin Đức Chúa Trời thật lòng và mưu cầu lẽ thật.) Cũng đều là tin Đức Chúa Trời, cùng làm một việc, nhưng động cơ, căn nguyên, mục tiêu cũng như nguyên tắc hành động của họ đều khác nhau. Như vậy chúng ta có thể nhìn ra được họ đang đi con đường nào” (Các nguyên tắc thực hành thuận phục Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Chị ấy thông công rằng Gióp là người thật lòng tin Đức Chúa Trời. Trong cuộc sống, dù gặp phải chuyện gì, ông cũng không có kế hoạch hay ý định cá nhân, không hành động theo ý riêng mình, mà trong mọi sự đều thuận phục sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời. Còn nhìn lại chúng ta, dù tin Đức Chúa Trời nhưng lại không thực sự tin vào sự tể trị của Ngài, luôn muốn dựa vào sức mình để thay đổi vận mệnh, kết quả là sống trong khổ sở và mệt mỏi. Tôi vừa nghe chị ấy thông công vừa gật đầu lia lịa. Tôi nghĩ lại, trước khi tin Đức Chúa Trời, tôi đã luôn muốn dựa vào sức mình, điên cuồng làm việc để trở nên giàu có. Nhưng cuối cùng, chẳng những không giàu lên được mà tôi còn mang một đống nợ. Bây giờ, tôi lại muốn dựa vào tay nghề may vá để làm nhiều việc hơn, kiếm nhiều tiền hơn, muốn khôi phục lại cuộc sống giàu sang trước đây. Vì thế, tôi đã làm thêm giờ, làm hết sức có thể để kiếm tiền, nhưng cuối cùng lại tự vắt kiệt sức mình đến sinh bệnh, tiền kiếm được cũng gần như đổ hết vào việc chữa bệnh. Vận mệnh của tôi không phải là thứ tôi có thể tự mình tính toán hay lên kế hoạch. Tôi không thể dùng sức mình để đạt được danh lợi mà tôi khao khát, mọi sự đều nằm trong sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời. Giờ đây khi đã tin Ngài, nếu tôi vẫn không tin vào sự tể trị của Đức Chúa Trời, vẫn cứ dựa vào sức mình để cố thay đổi vận mệnh, thì tôi chẳng khác nào một người ngoại đạo, một kẻ chẳng tin. Hiểu ra điều này, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con đã quá phản nghịch. Con nguyện giao phó mọi sự vào tay Ngài”. Sau đó, tôi tham gia nhóm họp đều đặn và cố gắng hết sức mình để thực hiện bổn phận.
Một hôm, trong lúc tĩnh nguyện, tôi nghe được một bài thánh ca lời Đức Chúa Trời có tựa đề “Đức Chúa Trời than thở cho tương lai của nhân loại”:
1 Trong thế gian rộng lớn, bãi biển thành nương dâu, nương dâu thành bãi biển, luân hồi không biết bao nhiêu bận. Ngoại trừ Đấng tể trị hết thảy trong vạn vật, không một ai có thể dẫn dắt, chỉ lối cho nhân loại này, cũng không có một “đấng quyền năng” nào lại nhọc công hoặc sửa soạn cái gì cho loài người này, càng không một ai có thể dẫn dắt nhân loại chạy về đích đến của sự sáng và giải phóng nhân loại khỏi những bất công trần thế. Đức Chúa Trời cất tiếng thở dài cho tiền đồ của nhân loại, Ngài đau lòng trước sự sa ngã của nhân loại, cũng đau lòng vì nhân loại đang bước từng bước một về phía sự suy tàn và con đường một đi không trở lại. Chưa ai từng nghĩ đến chuyện một nhân loại đã làm tan nát cõi lòng Đức Chúa Trời và phản bội Ngài để tìm kiếm kẻ ác như vậy, có thể hướng đến đâu?
2 Chính vì vậy mà không một ai cố cảm nhận cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời, không một ai tìm kiếm con đường để làm hài lòng Đức Chúa Trời hay cố gắng đến gần Ngài hơn, càng không một ai tìm cách để thấu hiểu nỗi sầu khổ và đau đớn của Đức Chúa Trời. Ngay cả sau khi nghe thấy tiếng của Đức Chúa Trời, con người vẫn tiếp tục đi con đường riêng của mình, vẫn nhất quyết đi lạc xa khỏi Đức Chúa Trời, lẩn trốn sự ân đãi và chăm sóc của Ngài, xa lánh lẽ thật của Ngài, thà bán mình cho Sa-tan, kẻ thù của Đức Chúa Trời. Ai nghĩ nổi chuyện nếu con người cứ chấp mê bất ngộ như vậy, thì Đức Chúa Trời sẽ đối đãi thế nào với những người chẳng thèm ngó ngàng đến Ngài?
3 Không một ai biết rằng lý do khiến Đức Chúa Trời không ngừng nhắc nhở và khích lệ nhân loại là bởi vì Ngài đã chuẩn bị sẵn trong tay một tai họa chưa từng có, một tai họa mà thể xác và linh hồn con người sẽ không thể chịu đựng nổi. Tai họa này không chỉ đơn thuần là một sự trừng phạt về mặt thể xác, mà còn là về mặt linh hồn. Ngươi cần biết điều này: Khi kế hoạch của Đức Chúa Trời đổ bể, và khi những lời nhắc nhở và khích lệ của Ngài không được đáp lại, thì Đức Chúa Trời sẽ nổi cơn thịnh nộ như thế nào? Nó sẽ không giống như bất kỳ thứ gì mà một loài thọ tạo nào từng trải qua hoặc từng biết. Vì vậy mà Ta nói, đây là một tai họa vô tiền khoáng hậu. Bởi vì kế hoạch của Đức Chúa Trời là tạo dựng loài người chỉ một lần duy nhất và chỉ cứu rỗi loài người một lần này mà thôi. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng. Do đó, không một ai có thể hiểu thấu được sự lao tâm khổ tứ và kỳ vọng cấp thiết của Đức Chúa Trời khi Ngài cứu rỗi nhân loại lần này.
– Đức Chúa Trời là nguồn sự sống của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Suy ngẫm về lời bài hát, tôi cảm nhận được rằng Đức Chúa Trời đang than thở cho tương lai và đích đến của nhân loại, đồng thời không ngừng nhắc nhở và khuyên nhủ con người. Ngài hy vọng mọi người sẽ đến trước Ngài và tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài, chứ đừng chấp mê bất ngộ lẩn tránh ơn cứu rỗi của Ngài. Những lời này đều là tiếng lòng của Đức Chúa Trời, mỗi một câu đều chân thực và thực tế. Tôi nghĩ lại, sau khi tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời, tôi đã biết chính Ngài là Đấng tể trị vận mệnh con người, chỉ khi tin và thờ phượng Ngài thì con người sống mới có giá trị. Nhưng để có được cuộc sống giàu sang và được người khác ngưỡng mộ, tôi đã lao đầu vào công việc, xem việc nhóm họp như một gánh nặng, và mối quan hệ của tôi với Đức Chúa Trời ngày càng xa cách. Nếu không vì cơn bệnh này, có lẽ tôi vẫn còn mắc kẹt trong vòng xoáy tiền tài, không thể thoát ra. Nghĩ đến đây, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con muốn ăn năn, muốn thoát khỏi sự trói buộc của tiền bạc, nhưng con không đủ sức để thoát ra. Xin Ngài dẫn dắt con”. Lúc đó, tôi nhớ lại một đoạn lời của Đức Chúa Trời: “Ngươi phải để tâm! Những người thông minh mau tỉnh ngộ! Hãy từ bỏ đi tất cả những thứ ngươi không muốn từ bỏ. Ta một lần nữa nói cho ngươi biết rằng, những điều này thực sự có hại cho sự sống của ngươi, không có ích lợi gì!” (Những lời của Đấng Christ buổi ban đầu – Chương 14, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời giúp tôi nhận ra rằng mưu cầu tiền tài, danh lợi sẽ hủy hoại sự sống của tôi. Giống như vợ của Lót, khi Đức Chúa Trời sắp hủy diệt thành Sô-đôm, bà không nỡ rời bỏ tài sản nên nhất quyết quay đầu nhìn lại, kết quả là biến thành một tượng muối. Nếu tôi chỉ chăm chăm vào lợi ích trước mắt, không mưu cầu lẽ thật hay tìm kiếm sự thay đổi trong tâm tính, thì khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc, tôi sẽ đánh mất cơ hội được cứu rỗi. Hiểu được tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại và tâm ý cấp thiết cứu rỗi con người của Ngài, tôi quyết định từ nay sẽ tham gia nhóm họp thường xuyên hơn và ăn uống nhiều lời Đức Chúa Trời hơn. Sau đó, tôi thường xuyên cùng các anh chị em nhóm họp và thông công lời Đức Chúa Trời. Mỗi ngày trôi qua đều thật trọn vẹn và được giải phóng, sức khỏe của tôi cũng hồi phục nhanh chóng. Tôi cảm thấy tin Đức Chúa Trời và đọc lời Ngài có ý nghĩa hơn nhiều so với việc suốt ngày đầu tắt mặt tối vì tiền bạc.
Sau này, có một lần tôi về nhà mẹ đẻ, thím sáu của tôi trước đây thấy tôi từ xa đã tươi cười chào đón, giờ lại ngoảnh mặt làm ngơ. Em gái tôi trước đây thường hay tâm sự với tôi, nhưng từ khi gia đình tôi sa sút, em ấy không còn tâm sự với tôi nữa, thậm chí còn cố tình hay vô ý nói những lời mỉa mai tôi. Trong lòng tôi cảm thấy rất khó chịu. Trước đây, đi đến đâu tôi cũng được người ta coi trọng, bây giờ không có tiền, thím sáu đã coi thường tôi, ngay cả em gái cũng không còn xem trọng tôi nữa. Xem ra vẫn là có tiền thì tốt hơn – chỉ khi có tiền người ta mới nể trọng mình, sống trên đời không thể để người khác coi thường được. Thế là tôi quyết định đi làm kiếm tiền. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, một khi đi làm sẽ làm lỡ việc nhóm họp và ăn uống lời Đức Chúa Trời, lòng tôi sẽ lại xa cách Ngài. Nhưng nếu không đi làm thì sẽ không có tiền, sẽ bị người khác coi thường. Tôi cảm thấy thật khó xử. Cuối cùng, tôi nghĩ chỉ cần mình nhóm họp đều đặn là được, có lẽ Đức Chúa Trời sẽ thông cảm cho mình là người mới, vóc giạc còn nhỏ bé, việc mưu cầu lẽ thật cứ từ từ cũng được. Thế là tôi lại quay trở lại xưởng may.
Ban đầu, tôi vẫn có thể tham gia nhóm họp đều đặn, nhưng sau đó, khi nhận lương, tôi thấy mình ít hơn đồng nghiệp rất nhiều, nên bắt đầu tính toán trong đầu, làm sao để tận dụng từng giây từng phút, nâng cao tốc độ may vá để kiếm được nhiều tiền hơn. Lòng tôi hoàn toàn bị công việc chiếm trọn. Thời gian đó, mỗi lần nhóm họp tôi đều chỉ làm cho có lệ, vừa nhóm họp xong là tôi lập tức chạy đến xưởng. Ở xưởng, tôi điên cuồng đạp máy may, thậm chí còn chê máy chạy quá chậm. Cứ như vậy, tôi lại quay về với cuộc sống trước đây, giống như một cỗ máy không ngừng làm việc kiếm tiền, không có thời gian ăn uống lời Đức Chúa Trời, cảm thấy ngày càng xa cách Ngài. Đôi khi, tôi cũng cảm thấy tự trách: “Tại sao mình vẫn không buông bỏ được tiền tài? Tại sao mình lại không thành thật trước mặt Đức Chúa Trời, nói mà không giữ lời?”. Tôi hận đến mức chỉ muốn tự tát cho mình hai cái. Tôi đến trước Đức Chúa Trời cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, con cũng muốn chuyên tâm nhóm họp và ăn uống lời Ngài, nhưng con không thể buông bỏ ham muốn kiếm tiền. Xin Ngài dẫn dắt con thoát khỏi cạm bẫy tiền tài”.
Một hôm trong buổi nhóm họp, tôi đọc được lời của Đức Chúa Trời: “‘Có tiền mua tiên cũng được’ là một triết lý của Sa-tan. Nó thịnh hành trong toàn nhân loại, trong mọi xã hội loài người; ngươi có thể nói đó là một xu hướng. Điều này là bởi vì nó đã bị tiêm nhiễm trong lòng của mỗi một con người, những người đã không chấp nhận câu nói này lúc đầu, nhưng rồi ngầm chấp nhận nó khi họ tiếp xúc với cuộc sống thực, và bắt đầu cảm thấy những lời này thực ra là sự thật. Đây chẳng phải là quá trình Sa-tan làm cho con người bại hoại sao? … Sa-tan lợi dụng đồng tiền để cám dỗ con người, và làm họ bại hoại tôn thờ đồng tiền cũng như tôn sùng những thứ vật chất. Và sự tôn sùng đồng tiền được biểu hiện nơi người ta như thế nào? Các ngươi có cảm thấy rằng mình không thể tồn tại trong thế giới này mà không có đồng nào, rằng thậm chí một ngày không có tiền sẽ là một điều không thể? Con người có bao nhiêu tiền thì địa vị cao bấy nhiêu, có bao nhiêu tiền thì cao quý bấy nhiêu. Người nghèo thì cúi gập người trong sự hổ thẹn, trong khi người giàu tận hưởng địa vị cao sang của mình. Họ đứng thẳng và kiêu hãnh, nói lớn tiếng và sống kiêu ngạo. Câu nói và xu hướng này mang lại cho con người điều gì? Chẳng phải sự thật là nhiều người hy sinh mọi thứ để kiếm tiền sao? Chẳng phải nhiều người đã đánh mất tôn nghiêm và nhân cách khi theo đuổi nhiều tiền bạc hơn sao? Chẳng phải nhiều người vì đồng tiền mà đánh mất cơ hội để thực hiện bổn phận của mình và đi theo Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải sự đánh mất cơ hội đạt được lẽ thật và được cứu rỗi là sự mất mát lớn nhất trong tất cả đối với con người sao? Chẳng phải Sa-tan nham hiểm khi sử dụng cách thức này và câu nói này để làm cho con người bại hoại đến mức như thế sao? Đây chẳng phải là một chiêu hiểm độc sao? Khi ngươi đi từ việc phản đối câu nói phổ biến này đến việc cuối cùng chấp nhận nó là lẽ thật, thì lòng ngươi đã hoàn toàn rơi vào tay Sa-tan, và do đó ngươi vô tình sống theo câu nói đó. Câu nói này ảnh hưởng đến ngươi ở mức độ nào? Ngươi có thể biết con đường thật, và ngươi có thể biết lẽ thật, nhưng ngươi bất lực để theo đuổi nó. Ngươi có thể biết rõ rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, nhưng ngươi không sẵn sàng trả giá hay chịu khổ để đạt được lẽ thật. Thay vào đó, ngươi thà hy sinh tương lai và số phận của chính mình để chống đối Đức Chúa Trời cho đến tận cùng. Bất kể Đức Chúa Trời có phán gì, bất kể Đức Chúa Trời có làm gì, bất kể ngươi có hiểu được tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho ngươi sâu sắc và vĩ đại thế nào hay không, thì ngươi cũng sẽ cứng đầu khăng khăng làm theo cách riêng của mình và trả giá cho câu nói này. Nói vậy nghĩa là, câu nói này đã mê hoặc và kiểm soát những suy nghĩ của ngươi, nó đã khống chế hành vi của ngươi và ngươi thà để nó thống trị số phận của mình hơn là gạt bỏ việc theo đuổi sự giàu có. Việc mọi người có thể hành động như vậy, việc họ có thể bị điều khiển và thao túng bởi những lời của Sa-tan – chẳng phải điều này có nghĩa là họ đã bị Sa-tan mê hoặc và làm bại hoại sao? Chẳng phải triết lý và tư tưởng của Sa-tan, và tâm tính của Sa-tan, đã bám rễ trong lòng ngươi sao? Khi ngươi mù quáng theo đuổi sự giàu có và từ bỏ việc theo đuổi lẽ thật, chẳng phải Sa-tan đã đạt được mục đích của hắn là mê hoặc ngươi sao?” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất V, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). “Trên thực tế, cho dù lý tưởng của con người có cao cả đến đâu, cho dù mong muốn của con người có thực tế đến đâu hoặc chúng có thể chính đáng đến mức nào, thì tất cả những gì con người muốn đạt được, tất cả những gì con người mưu cầu đều gắn chặt với hai từ. Hai từ này cực kỳ quan trọng đối với cuộc đời của mỗi người, và chúng là những gì Sa-tan muốn tiêm nhiễm vào trong con người. Hai từ này là gì? Đó là ‘danh’ và ‘lợi’. Sa-tan sử dụng một phương thức rất ôn hòa, một phương thức rất phù hợp với những quan niệm của con người, không phải là phương thức rất quá khích, qua đó nó khiến con người bất tri bất giác tiếp nhận phương thức sinh tồn của nó, phép tắc sống của nó, thiết lập mục tiêu và phương hướng cuộc đời của họ, cũng bất tri bất giác có những lý tưởng trong đời. Bất kể những lý tưởng trong đời này về từ ngữ bề ngoài có thể đàng hoàng đến thế nào, chúng vẫn gắn chặt với ‘danh’ và ‘lợi’. Sự mưu cầu một đời của bất kỳ vĩ nhân, danh nhân, hay bất kỳ con người nào, chỉ liên quan đến hai từ này: ‘danh’ và ‘lợi’. Trong mắt con người, một khi họ có được danh lợi, thì họ có vốn liếng để hưởng thụ vinh hoa phú quý, hưởng thụ vốn liếng cuộc đời. Trong mắt con người, có danh và lợi thì họ có vốn liếng để vui chơi phè phỡn, hưởng thụ xác thịt không chút kiêng dè. Vì danh và lợi mà con người rất thèm khát này, người ta cam tâm tình nguyện, bất tri bất giác, đem thân xác và tâm hồn mình, đem hết mọi sự của mình, cả tiền đồ và số phận của mình mà giao cho Sa-tan. Họ làm vậy không chút do dự, không chút nghi hoặc, càng không hề biết lấy lại tất cả những gì là của mình. Con người đã giao mình cho Sa-tan và trung thành với nó như vậy rồi, thì còn có thể khống chế bản thân hay không? Chắc chắn là không. Họ bị Sa-tan kiểm soát triệt để rồi. Họ cũng triệt để chìm trong vũng lầy, và không thể mình thoát ra” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất VI, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Một người chị em thông công: “Sa-tan dùng danh lợi và tiền tài để làm bại hoại và trói buộc con người. Những chất độc như ‘Tiền không phải vạn năng, nhưng không có tiền thì chẳng làm được gì’, ‘Có tiền là có tất cả’, và ‘Có tiền mua tiên cũng được’ đã trở thành xu thế thịnh hành trong xã hội ngày nay và là quy tắc sống của con người. Người ta tin rằng càng có nhiều tiền thì địa vị càng cao, cuộc sống càng được tôn trọng và huy hoàng, nên để đạt được mục tiêu này, họ không tiếc công sức kiếm tiền. Một khi rơi vào cạm bẫy của Sa-tan, con người sẽ mất kiểm soát bản thân, bị Sa-tan khống chế cả về thể xác lẫn tinh thần, không còn thời gian để mưu cầu lẽ thật hay thờ phượng Đức Chúa Trời. Cuộc sống ngày càng mệt mỏi, và họ ngày càng xa cách Đức Chúa Trời”. Nghe chị ấy thông công, tôi nghĩ lại mình cũng giống như vậy. Ước mơ của tôi luôn là trở nên giàu có, tôi nghĩ rằng điều đó sẽ cho tôi một cuộc sống hạnh phúc. Để đạt được điều này, tôi đã điên cuồng làm việc để kiếm tiền, dồn hết tâm sức vào đó, ngay cả khi mang thai cũng làm thêm giờ. Sau này, một tranh chấp kinh tế bất ngờ xảy ra, chồng tôi bị kết án tù, gia đình tôi mang nợ, cuộc sống của tôi đột nhiên đảo lộn. Tôi sợ người khác sẽ coi thường khi thấy tôi sa cơ lỡ vận, nên càng điên cuồng kiếm tiền hơn. Sau khi tin Đức Chúa Trời, tôi biết rõ rằng Ngài đã nhập thể để bày tỏ lẽ thật nhằm cứu rỗi con người trong thời kỳ sau rốt, đây là một cơ hội vô cùng hiếm có, và tôi nên tham gia nhóm họp nhiều hơn, ăn uống nhiều lời Đức Chúa Trời hơn để có thể hiểu thêm lẽ thật. Nhưng lòng tôi lại tràn ngập ham muốn tiền tài, danh lợi, tôi nghĩ rằng việc nhóm họp sẽ ảnh hưởng đến khả năng kiếm tiền của mình, nên tôi cứ chọn nhóm họp ít đi, thậm chí đôi khi không tham gia. Khi xưởng tôi làm không bận, tôi lại đến xưởng khác làm việc, ngay cả khi đã kiệt sức đến sinh bệnh, tôi cũng không chịu quay đầu. Khi thấy gia đình đối xử tệ với mình, tôi lại chọn cách kiếm tiền để cứu vãn danh dự. Sa-tan đã dùng tiền tài, danh lợi để trói buộc tôi thật chặt, nhốt tôi trong vòng xoáy của chúng mà không thể thoát ra. Tôi đã xem trọng việc mưu cầu tiền tài, danh lợi hơn cả việc mưu cầu lẽ thật, thậm chí hơn cả sự sống của mình. Nếu tôi cứ tiếp tục đi con đường này mà không xoay chuyển, cuối cùng tôi sẽ đánh mất cơ hội được cứu rỗi. Chỉ đến lúc đó, tôi mới thấy rõ ý đồ hiểm ác của Sa-tan khi dùng tiền tài, danh lợi để làm bại hoại con người. Và tôi hiểu rằng Đức Chúa Trời đã ban cho tôi một kỹ năng để tôi có thể sinh tồn trên đời và tự nuôi sống bản thân, chứ không phải để tôi dùng kỹ năng đó thỏa mãn dã tâm và dục vọng mưu cầu danh lợi, địa vị của mình. Có ăn có mặc là đủ, sống như vậy thì sẽ rất nhẹ nhàng, và có đủ thời gian để thờ phượng Đức Chúa Trời. Hiểu được những điều này, tôi không còn muốn điên cuồng làm việc và bị Sa-tan lừa gạt, làm hại nữa, và tôi sẵn lòng tham gia nhóm họp và mưu cầu lẽ thật cho tốt.
Sau đó, tôi cũng suy ngẫm lại: “Chẳng lẽ dựa vào sức mình thì thực sự có thể đạt được danh lợi mà mình muốn có sao?”. Tôi nhớ Đức Chúa Trời đã phán: “Bất kể lai lịch của ngươi như thế nào, bất kể hành trình phía trước của ngươi như thế nào, tóm lại, không một ai có thể thoát khỏi những sự sắp đặt và an bài của Trời, không một ai kiểm soát được vận mệnh của chính mình, vì chỉ có Đấng tể trị vạn vật mới có thể làm công tác như vậy” (Đức Chúa Trời là nguồn sự sống của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Vận mệnh của con người nằm trong tay Đức Chúa Trời, không thể thay đổi bằng chính sức mình. Cuộc sống của tôi có ra sao, dù huy hoàng danh giá hay nghèo khó tầm thường, đều không phải do tôi quyết định, và tôi nên thuận phục sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời. Chỉ bằng cách mưu cầu lẽ thật và thoát khỏi tâm tính bại hoại của Sa-tan, tôi mới có thể trở thành người được Đức Chúa Trời khen ngợi. Chỉ có cuộc sống như vậy mới có giá trị và ý nghĩa. Sau đó, tôi không còn điên cuồng làm việc kiếm tiền nữa, và có thể tham gia nhóm họp và ăn uống lời Đức Chúa Trời đều đặn.
Năm 2020, lãnh đạo hội thánh nói rằng có nhiều người mới đã tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời, và hỏi tôi có sẵn lòng chăm tưới họ không. Tôi thầm nghĩ: “Nếu mình chăm tưới người mới, mình sẽ không có thời gian đi làm kiếm tiền. Vậy nếu hết tiền thì mình phải làm sao? Khôi phục lại những ngày tháng huy hoàng trước đây là điều không thể rồi. Nhưng đây cũng là thời điểm quan trọng để mở rộng phúc âm, và nếu không có người chăm tưới, những người mới này không hiểu lẽ thật có thể bị Sa-tan bắt đi bất cứ lúc nào”. Tôi nghĩ lại, khi tôi mới tin Đức Chúa Trời và không hiểu gì cả, nếu các anh chị em không dành thời gian và công sức để chăm tưới và hỗ trợ tôi kịp thời, tôi đã không thể chắc chắn về Đức Chúa Trời thật, cũng không nhận được sự cứu rỗi của Ngài. Vậy nên bây giờ khi bổn phận này đến với tôi, nếu tôi từ chối, chẳng phải là quá vô lương tâm sao? Lúc đó, tôi đọc được một đoạn lời của Đức Chúa Trời: “Con người phải theo đuổi để sống thể hiện ra cuộc đời có ý nghĩa, và không nên hài lòng với hoàn cảnh hiện tại của mình. Để sống thể hiện ra hình ảnh của Phi-e-rơ, con người phải có hiểu biết và kinh nghiệm của Phi-e-rơ. Con người phải theo đuổi những thứ cao cả hơn và sâu rộng hơn. Họ phải theo đuổi một tình yêu sâu đậm và thuần khiết hơn dành cho Đức Chúa Trời, và một cuộc đời có giá trị và ý nghĩa. Chỉ như vậy mới là cuộc đời; chỉ khi đó con người mới giống như Phi-e-rơ. Các ngươi phải tập trung vào việc chủ động bước vào mặt tích cực, và không được tiêu cực và cho phép mình lùi bước vì thỏa mãn với sự an nhàn nhất thời mà lơ là các lẽ thật sâu sắc, chi tiết và thực tế hơn. Ngươi phải có tình yêu thực tế, và các ngươi phải tìm đủ mọi cách để đưa bản thân thoát khỏi cuộc sống không lo không nghĩ và suy đồi giống như của súc vật này. Các ngươi phải sống thể hiện ra một cuộc đời có ý nghĩa, có giá trị và các ngươi đừng lừa bịp bản thân, hoặc coi cuộc đời mình giống như món đồ chơi để đùa giỡn. Với những ai có quyết tâm và yêu kính Đức Chúa Trời, không có lẽ thật nào mà không thể có được, không có chính nghĩa nào mà không thể trụ vững. Các ngươi nên sống đời mình như thế nào? Các ngươi nên yêu mến Đức Chúa Trời, và sử dụng tình yêu này để thỏa mãn tâm ý của Ngài như thế nào? Chẳng có điều gì lớn lao hơn thế trong cuộc đời ngươi. Trên hết, ngươi phải có ý chí và nghị lực này, và đừng giống như những kẻ yếu đuối, nhu nhược. Ngươi phải học cách trải nghiệm một cuộc đời có ý nghĩa, và trải nghiệm những lẽ thật có ý nghĩa, và đừng qua loa với bản thân như vậy. Cuộc đời của ngươi sẽ trôi đi mà ngươi không hề nhận ra; rồi liệu ngươi sẽ còn có cơ hội như thế để yêu kính Đức Chúa Trời không? Sau khi chết, con người còn có thể yêu thương Đức Chúa Trời được không? Ngươi phải có ý chí và lương tâm như Phi-e-rơ; cuộc sống của ngươi phải có ý nghĩa và các ngươi đừng đùa giỡn với chính bản thân mình. Là một con người, và là người theo đuổi Đức Chúa Trời, ngươi phải có khả năng cân nhắc và đối xử với cuộc đời của mình một cách cẩn thận – cân nhắc cách ngươi nên dâng mình cho Đức Chúa Trời, cách ngươi nên có đức tin ý nghĩa hơn vào Đức Chúa Trời, và vì ngươi yêu mến Đức Chúa Trời, làm sao để ngươi yêu kính Ngài một cách thuần khiết hơn, đẹp hơn, và tốt hơn” (Các kinh nghiệm của Phi-e-rơ: Hiểu biết của ông về hình phạt và sự phán xét, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đọc xong lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng người ta phải mưu cầu lẽ thật để sống một cuộc đời có ý nghĩa, giống như Phi-e-rơ, cả đời chỉ mưu cầu yêu kính Đức Chúa Trời và làm tròn bổn phận của một loài thọ tạo, chỉ như vậy mới có thể được Đức Chúa Trời khen ngợi. Trước đây, tôi đã làm việc cật lực để mưu cầu một cuộc sống chất lượng cao và giành được sự ngưỡng mộ của mọi người, nhưng cuối cùng mọi nỗ lực đều đổ sông đổ bể. Gia đình tôi mất hết tiền bạc, còn mang nợ, bản thân tôi thì kiệt sức đến sinh bệnh. Dù trước đây tôi đã đạt được danh lợi, nhận được sự ngưỡng mộ và ca ngợi của mọi người, lòng hư vinh được thỏa mãn, nhưng những thứ bề ngoài đó không thể lấp đầy sự trống rỗng trong lòng tôi. Kể từ khi tin Đức Chúa Trời, tôi sống đời sống hội thánh và thông công lời Đức Chúa Trời với các anh chị em, tôi đã hiểu được một số lẽ thật, lòng tôi có được sự ổn định, bình an và nương tựa. Đặc biệt là khi thực hiện bổn phận, tôi có thể thường xuyên đến trước Đức Chúa Trời, đọc lời Ngài, nhận được sự khai sáng và dẫn dắt của lời Ngài, và tôi cảm thấy vô cùng vui sướng. Mỗi khi tình trạng của tôi có vấn đề gì, các anh chị em đều kịp thời thông công với tôi. Tôi cũng có được một số hiểu biết về tâm tính bại hoại của mình, và cảm thấy sự sống của mình tăng trưởng nhanh chóng. Tôi nhận ra rằng chỉ khi thực hiện bổn phận, tôi mới có thể hiểu thêm lẽ thật và sống một cuộc đời có ý nghĩa. Các anh chị em đều đang tích cực thực hiện bổn phận, và họ đang tập trung vào việc mưu cầu lẽ thật và giải quyết tâm tính bại hoại của mình trong quá trình thực hiện bổn phận. Nếu tôi vẫn không mưu cầu lẽ thật, thì trong các loại thử luyện sau này, không có lời Đức Chúa Trời làm nền tảng, tôi rất có thể sẽ oán trách, thậm chí còn sẽ phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời, và đánh mất cơ hội được cứu rỗi. Cuối cùng, tôi sẽ rơi vào tai họa, khóc lóc và nghiến răng. Khi nghĩ đến điều này, tôi quyết tâm thực hiện bổn phận của mình cho đàng hoàng. Ngày hôm sau, tôi nói với lãnh đạo rằng tôi sẵn lòng đi chăm tưới người mới. Sau đó, tôi hết lòng dốc sức vào bổn phận của mình và nghỉ làm. Khi thấy người mới không tích cực tham gia nhóm họp, tôi đã thông công trải nghiệm của mình với họ, và lòng nhiệt tình của họ được khơi dậy.
Sau này, mẹ chồng thấy tôi sức khỏe không tốt nên bảo tôi hãy chăm sóc sức khỏe cho tốt, đừng lo lắng về các khoản nợ, vì bà, bố chồng và em chồng sẽ gánh vác. Tôi dùng số tiền kiếm được từ việc đi làm để trả tiền vay mua nhà, và tháng nào cũng trả đúng hạn. Tôi biết đây là tình yêu của Đức Chúa Trời, và đức tin của tôi nơi Đức Chúa Trời càng thêm vững mạnh. Tạ ơn Đức Chúa Trời đã cứu tôi thoát khỏi quyền thế của Sa-tan. Tôi nguyện từ nay về sau, sẽ thực hiện bổn phận của mình thật đàng hoàng, và mưu cầu lẽ thật để đạt được sự thay đổi trong tâm tính.
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?
Khi còn nhỏ, gia đình tôi rất nghèo và thường bị mọi người khinh thường. Nên tôi đã nghĩ rằng: “Khi lớn lên, mình nhất định phải kiếm được...
Bởi Tân Chính, Trung QuốcTrước khi tôi được sinh ra, bố tôi đã bị bắt vì vi phạm pháp luật. Vào những năm 1970, điều này thực sự đáng hổ...
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo khó, ba mẹ là những người thật thà và cần cù, nuôi sống gia đình bằng nghề nông. Khi còn nhỏ, tôi thấy...
Bởi Mai Hoa, Trung QuốcKhi còn nhỏ, gia đình tôi sống ở vùng núi xa xôi, cha mẹ đều chỉ dựa vào làm nông để kiếm sống, cuộc sống trôi qua...