Con đường gập ghềnh đến với Đức Chúa Trời
Tôi trở thành Cơ Đốc nhân vào năm 2000. Các mục sư Hàn Quốc rao giảng cho chúng tôi rất hùng hồn. Trong buổi lễ, mục sư đọc cho chúng tôi một đoạn Kinh Thánh rồi bảo chúng tôi phải khoan dung và nhẫn nại trong mọi sự – không phải chi bằng cách nghe giảng, mà còn phải đưa vào thực hành để làm sáng danh Đức Chúa Trời, chỉ có như thế mới có thể được vào thiên quốc. Từ đó, tôi bắt đầu thương yêu và ân cần với gia đình mình Nếu có ai xúc phạm tôi thì tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa giúp tôi tha thứ cho họ. Một hay hai lần thì không sao, nhưng qua thời gian, tôi chẳng thể giữ được điều này. Nhiều lúc, tôi mất bình tĩnh, lên giọng dạy bảo họ chỉ vì vài chuyện nhỏ nhặt. Sau đó, tôi lại cảm thấy có lỗi. Cứ liên tục phạm tội rồi thú tội như vậy, tôi chẳng thể nào thoát khỏi sự ràng buộc của tội lỗi. Như vậy khi Chúa đến, tôi có được đưa vào vương quốc không? Tôi mới hỏi mục sư của mình cách để giải quyết vấn đề tội lỗi. Ông ấy bảo tôi thú tội và ăn năn, cầu nguyện nhiều hơn, đọc Kinh Thánh nhiều hơn, khoan dung và nhẫn nại. Mỗi lần nghe ông ấy chỉ nói vậy mà chẳng chỉ ra con đường cụ thể, tôi thất vọng lắm. Tôi nghĩ đến những lời của Đức Chúa Trời: “Các ngươi phải nên thánh, vì ta là thánh” (Lê-vi 11:45). Và trong sách Do Thái có nói: “Nếu không nên thánh thì chẳng ai được thấy Ðức Chúa Trời” (Hê-bơ-rơ 12:14). Tôi cảm thấy người như tôi, luôn phạm tội và thú tội, không thể thực hành lời Chúa, thì chẳng thể nào được vào thiên quốc. Ngày nào tôi cũng thấy khổ sở. Sau đó, tôi để ý thấy trong hội thánh đầy ghen tị và đấu đá. Vì tranh nhau bục giảng, mà ngay trong buổi lễ một người rao giảng đã đẩy ngã người rao giảng cao niên hơn, rồi đuổi ra ngoài. Có người còn kinh doanh buôn bán ngay trong hội thánh. Tôi nhớ đến lời Đức Chúa Jêsus đã phán: “Có lời chép: Nhà ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện; nhưng các ngươi thì làm cho nhà ấy thành ra ổ trộm cướp” (Ma-thi-ơ 21:13). Hội thánh như thế này làm sao mà có công tác của Đức Thánh Linh được? Nó chẳng phải là hang trộm cướp sao? Tôi thấy với những buổi lễ thế này, tôi sẽ chẳng có được sự cung dưỡng gì, và vấn đề về phạm tội của tôi sẽ không bao giờ được giải quyết. Tôi muốn tìm một hội thánh có công tác của Đức Thánh Linh. Chị tôi khuyên tôi đi tìm một hội thánh khác, nhưng ở đâu tình trạng cũng như vậy. Khi tôi hỏi về cách thoát ly tội lỗi, chẳng ai có thể chỉ ra con đường cho tôi. Họ nói Đức Chúa Jêsus đã tha tội cho ta rồi, chúng ta chỉ cần cầu nguyện và ăn năn là được. Chuyện này khiến tôi thấy chán chường. Tôi thậm chí không muốn dự các buổi lễ nữa. Một hôm nọ, tôi nảy ra một ý: Có lẽ Đức Chúa Trời không hoạt động ở các hội thánh quanh đây nữa? Khi các mục sư Hàn Quốc đến, trông họ có vẻ sốt sắng khi đã đi đến tận Trung Quốc để chăn dắt các hội thánh. Họ đầy đức tin. Có lẽ nào Đức Chúa Trời công tác ở các hội thánh Hàn Quốc chăng? Mình phải tìm một hội thánh có công tác của Đức Thánh Linh ở đó.
Năm 2007, tôi và chị gái đưa cả gia đình đi Hàn Quốc. Chị ấy giới thiệu cho tôi một hội thánh có nhiều người Trung Quốc tham dự các buổi lễ. Các thành viên trong hội thánh đó giúp người Trung Quốc tìm việc để chúng tôi có thể kiếm sống, và họ thật sự đầy tình yêu thương, nên tôi tham dự các buổi lễ ở đó, có khi họ có công tác của Đức Thánh Linh cũng nên. Trong một buổi lễ, mục sư bảo rằng: “Trong chuyến đi mới nhất đến Trung Quốc, tôi nghe nói Chúa đã tái lâm, Ngài đã xuất hiện và công tác ở Trung Quốc, mang danh Đức Chúa Trời Toàn Năng. Nhưng Trung Quốc là một nước lạc hậu. Dân chúng thì kém học vấn. Đức Chúa Trời quá ư vĩ đại, sao Ngài có thể xuất hiện và công tác ở đó được? Nhiều người đang loan truyền giáo lý của Tia Chớp Phương Đông. Anh chị em đừng có nghe. Anh chị em vóc giạc nhỏ bé, lỡ dính vào là không thoát ra được đâu”. Nghe mục sư nói vậy, tôi hoàn toàn nhất trí. Quá nhiều hội thánh ở Trung Quốc chẳng có công tác của Đức Thánh Linh. Chính quyền thì bức bách tín hữu, và người Trung Quốc lại hay thờ thần tượng. Đức Chúa Trời mà xuất hiện và công tác ở Trung Quốc được sao? Không thể nào.
Nhưng chẳng bao lâu, tôi nhận ra mục sư giảng thì hùng hồn, nhưng hành động sau đó thì lại khác, ông chẳng thực hành đường lối của Chúa. Tôi thấy chán nản lắm. Khi tôi hỏi mục sư về cách giải quyết sự tội, ông nói qua loa rằng: “Ai chẳng bại hoại. Phạm tội là chuyện thường. Thú tội với Chúa đi, rồi sẽ được tha tội. Vì nếu chị nguyện ý ăn năn, thì Chúa đã tha tội cho chị rồi”. Lời của mục sư khiến tôi ghê tởm. Tại sao ông ta nói giống hệt các mục sư Trung Quốc vậy? Không thể gạt bỏ tội lỗi một sớm một chiều. Nhưng ít nhất phải có chút thay đổi chứ. Thú tội làm gì nếu làm thế chẳng thay đổi được gì? Như thế chúng ta có khác gì người ngoại đạo chứ? Nếu vậy thì đức tin còn ý nghĩa gì nữa? Tôi đã bị thất vọng hết lần này đến lần khác, nhưng chẳng muốn từ bỏ. Tôi tin rằng Chúa sẽ không loại bỏ tôi, tin rằng đến một ngày, tôi sẽ tìm được một hội thánh có công tác của Đức Thánh Linh. Tôi cứ ngẫm nghĩ vấn đề này mãi. Khi đi trên đường, tôi đưa mắt tìm các thánh giá, các nhà thờ Cơ Đốc, và nếu nghe có mục sư nào giảng hay, là tôi lặn lội tìm đến bất kể mưa gió bão bùng, cố bám lấy chút hy vọng mỏng manh rằng sự mơ hồ của tôi sẽ được hóa giải. Tôi đã đến hơn 40 hội thánh ở Hàn Quốc, mà chẳng tìm được hội thánh nào có công tác của Đức Thánh Linh. Không mục sư nào có thể giải quyết vấn đề của tôi. Hoang mang lạc lối, nhiều đêm tôi cứ trăn trở mãi mà không chợp mắt được. Tôi thầm kêu cầu: “Lạy Chúa, Ngài đang đâu? Ngài đã bỏ rơi con sao?”. Suốt những năm đó, lòng tôi nặng trĩu, sầu thảm và đau đớn.
Khi tôi đang chìm trong đau đớn và tuyệt vọng, thì vào tháng 6 năm 2015, chị tôi đến nhà, vui mừng báo với tôi rằng: “Chị có tin mừng! Chúa đã tái lâm từ lâu rồi. Ngài đã xuất hiện và đang công tác ở Trung Quốc, bày tỏ nhiều lẽ thật. Phúc âm đã lan đến Hàn Quốc rồi”. Tôi nghĩ bụng: “Đức Chúa Trời đang công tác ở Trung Quốc sao? Sao có thể như thế được?”. Tôi cứ khăng khăng rằng: “Hồi năm 2009, một mục sư đã bảo rằng Đức Chúa Trời không thể nào công tác ở Trung Quốc, vì Trung Quốc là nước lạc hậu, dân chúng kém học vấn. Đức Chúa Trời chí tôn vì đại, tại sao Ngài công tác ở Trung Quốc chứ?”. Rồi tôi bỏ đi rửa chén. Chị ấy mới lấy ra một quyển sách, kiên nhẫn bảo tôi: “Cuốn Kỳ Thư Mà Chiên Con Đã Mở, quyển sách này chứa những lời Đức Chúa Trời bày tỏ vào thời kỳ sau rốt. Chị đọc vài đoạn cho em nghe nhé”.
Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Khi Jêsus đến nhân gian, Ngài đã mở ra Thời đại Ân điển và kết thúc Thời đại Luật pháp. Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời đã một lần nữa trở nên xác thịt, và với sự nhập thể này, Ngài đã kết thúc Thời đại Ân điển và mở ra Thời đại Vương Quốc. Tất cả những ai có thể chấp nhận sự nhập thể lần thứ hai của Đức Chúa Trời sẽ được dẫn dắt vào Thời đại Vương Quốc, và hơn nữa, sẽ trở nên có thể đích thân chấp nhận sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời. Mặc dù Jêsus đã làm nhiều công tác giữa con người, nhưng Ngài chỉ hoàn thành việc cứu chuộc toàn thể nhân loại và trở thành của lễ chuộc tội cho con người; Ngài vẫn chưa loại bỏ khỏi con người tất cả những tâm tính bại hoại của họ. Để hoàn toàn cứu rỗi con người khỏi ảnh hưởng của Sa-tan, không chỉ cần Jêsus trở thành của lễ chuộc tội và gánh lấy những tội lỗi của con người, mà còn cần Đức Chúa Trời làm công tác vĩ đại hơn nữa để hoàn toàn loại bỏ khỏi con người tâm tính Sa-tan bại hoại của họ. Và vì thế, khi con người đã được tha thứ tội lỗi, Đức Chúa Trời đã trở lại xác thịt để dẫn dắt con người vào thời đại mới, và bắt đầu công tác của hình phạt và sự phán xét. Công tác này đã đưa con người vào một cõi cao hơn. Tất cả những ai quy phục dưới sự thống trị của Ngài sẽ được hưởng lẽ thật cao hơn và nhận lãnh những phước lành lớn hơn. Họ sẽ thực sự sống trong sự sáng, và họ sẽ đạt được lẽ thật, đường đi, và sự sống.
Nếu con người vẫn mắc kẹt trong Thời đại Ân điển, thì họ sẽ không bao giờ loại bỏ được tâm tính bại hoại của mình, chứ đừng nói đến biết được tâm tính vốn có của Đức Chúa Trời. Nếu con người luôn sống giữa ân điển dồi dào, nhưng không có con đường của sự sống cho phép họ biết về Đức Chúa Trời hoặc làm hài lòng Ngài, thì họ sẽ không bao giờ có được Ngài khi tin vào Ngài. Loại niềm tin này thật sự đáng thương. Khi ngươi đọc xong cuốn sách này, khi ngươi đã cảm nghiệm từng bước công tác của Đức Chúa Trời nhập thể trong Thời đại Vương quốc, ngươi sẽ cảm thấy những khao khát ngươi có trong nhiều năm cuối cùng đã trở thành hiện thực. Ngươi sẽ cảm nhận được rằng chỉ bây giờ ngươi mới thật sự nhìn thấy Đức Chúa Trời trực diện; chỉ có bây giờ ngươi mới nhìn thấy diện mạo của Ngài, nghe thấy những lời phán của đích thân Ngài, đánh giá cao sự khôn ngoan trong công tác của Ngài, và thật sự cảm nhận được Ngài có thực và toàn năng làm sao. Ngươi sẽ cảm thấy rằng mình đã đạt được nhiều điều mà con người trong quá khứ chưa từng thấy hay có được. Lúc đó, ngươi sẽ biết rõ thế nào là tin vào Đức Chúa Trời, và thế nào là tuân theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Tất nhiên, nếu ngươi cứ bám vào những quan điểm của quá khứ, và bác bỏ hay phủ nhận sự thật về sự nhập thể lần thứ hai của Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ vẫn trắng tay, không đạt được gì, và cuối cùng sẽ bị tuyên phạm tội chống lại Đức Chúa Trời. Những ai có thể vâng theo lẽ thật và quy phục công tác của Đức Chúa Trời sẽ được xác nhận dưới danh của Đức Chúa Trời nhập thể lần thứ hai – Đấng Toàn Năng. Họ sẽ có thể chấp nhận sự chỉ dẫn của đích thân Đức Chúa Trời, đạt được những lẽ thật nhiều hơn và cao hơn, cũng như có được cuộc sống thực sự. Họ sẽ nhìn thấy khải tượng mà con người trong quá khứ chưa từng thấy: ‘Bấy giờ tôi xây lại đặng xem tiếng nói với tôi đó là gì; vừa xây lại thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa những chân đèn có ai giống như con người, mặc áo dài, thắt đai vàng ngang trên ngực. Ðầu và tóc người trong như lông chiên trắng, như tuyết; mắt như ngọn lửa; chân như đồng sáng đã luyện trong lò lửa, và tiếng như tiếng nước lớn. Tay hữu người cầm bảy ngôi sao; miệng thò ra thanh gươm nhọn hai lưỡi và mặt như mặt trời khi soi sáng hết sức’ (Khải Huyền 1:12-16). Khải tượng này là sự thể hiện toàn bộ tâm tính của Đức Chúa Trời, và sự thể hiện toàn bộ tâm tính của Đức Chúa Trời cũng là sự thể hiện về công tác của Đức Chúa Trời trong sự nhập thể hiện tại của Ngài” (Lời tựa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Nghe những lời này, tôi quá đỗi bàng hoàng. Những lời này đã mặc khải những lẽ nhiệm mầu trong sách Khải Huyền. Đây là những lời quá đầy thẩm quyền, không con người nào có thể nói những lời này. Tôi nghĩ đến thẩm quyền trong lời nói của Đức Chúa Jêsus khi Ngài đến công tác, tự hỏi liệu đây có thật sự là lời phán của Đức Chúa Trời. Ngay lập tức, lòng tôi phấn chấn hẳn, bắt đầu lắng nghe cẩn thận. Nhất là khi chị ấy đọc vài lời tiên tri trong sách Khải Huyền, tôi nghĩ rằng không con người nào có thể diễn giải chúng được. Sách Khải Huyền viết rằng: “Kìa, Sư tử của chi phái Giu-đa, tức là Chồi của vua Ða-vít, đã thắng, thì có thể mở quyển sách ấy và tháo bảy cái ấn ra” (Khải Huyền 5:5). Chỉ có Chiên Con, chỉ có Đức Chúa Trời mới mặc khải được những lẽ nhiệm mầu này. Đây chẳng phải là lời của Đức Chúa Trời sao? Có thể nào Ngài đã xuất hiện và công tác ở Trung Quốc? Tôi có thể tìm được lời giải đáp cho thắc mắc bao năm qua của mình trong quyển sách đó không? Tôi rất tò mò về chuyện này. Vừa lúc đó, chị tôi đọc đoạn: “Đây cũng là sự ứng nghiệm của những lời này trong Khải Huyền: ‘Ai có tai, hãy nghe lời Ðức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh’. Những lời này đại diện cho giai đoạn đầu của công tác mà Đức Chúa Trời đã bắt đầu trong Thời đại Vương quốc” (Lời tựa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Nghe thế, tôi càng thấy bị cuốn hút. chẳng phải đây là lời tiên tri trong sách Khải Huyền sao? Những lời tiên tri trong Khải Huyền đã được ứng nghiệm sao? Đấy là lời Đức Chúa Trời thật sao? Vì muốn đọc cho thật kỹ, tôi đã xin chị để sách lại cho tôi mượn, và tôi quá đỗi vui mừng khi chị đặt quyển sách vào tay tôi. Tôi háo hức muốn mở ra đọc ngay. Nhưng tôi cũng còn lo ngại. Quyển sách này có thật sự tương hợp với Kinh Thánh không? Tôi đặt cả Kinh Thánh và quyển sách ấy cạnh nhau, đối chiếu cả hai. Trong quyển sách ấy, tôi đọc thấy đoạn này: “Chỉ khi Ta chuyển sang trời và đất mới thì Ta mới lấy phần vinh quang kia của Ta và mặc khải nó trước tiên ở xứ Ca-na-an, tạo một tia sáng le lói chiếu rọi ra cả thế gian, nhấn chìm bóng đêm đen tối, để cả thế gian có thể bước ra ánh sáng; để con người trên toàn thế gian có thể tới lấy sức mạnh từ quyền năng của sự sáng, cho phép vinh quang của Ta gia tăng và hiện ra một lần nữa cho mọi quốc gia; và để toàn bộ nhân loại có thể nhận ra rằng từ lâu Ta đã đến thế giới loài người và từ lâu đã mang vinh quang của Ta từ Y-sơ-ra-ên đến phương Đông; để vinh quang của Ta soi sáng từ phương Đông, và nó đã được mang tới từ Thời đại Ân điển đến ngày nay. Nhưng Ta rời đi chính từ Y-sơ-ra-ên và Ta đến phương Đông cũng chính từ đó. Chỉ khi ánh sáng của phương Đông dần chuyển sang màu trắng thì bóng tối trên toàn thế gian mới bắt đầu chuyển thành ánh sáng, và chỉ khi đó thì con người mới phát hiện ra rằng từ lâu Ta đã rời Y-sơ-ra-ên và Ta đang xuất hiện một lần nữa ở phương Đông. Đã một lần giáng trần xuống Y-sơ-ra-ên và sau đó rời đi, Ta không thể được sinh ra một lần nữa tại Y-sơ-ra-ên, bởi vì công tác của Ta dẫn dắt cả vũ trụ và, hơn thế nữa, tia chớp lóe sáng thẳng hướng từ phía Đông sang phía Tây. Vì lý do này, Ta đã giáng trần xuống phương Đông và mang Ca-na-an tới cho con người ở phương Đông. Ta sẽ mang người từ khắp thế gian tới vùng đất Ca-na-an, và như vậy Ta tiếp tục cất lời phán ở xứ Ca-na-an để kiểm soát toàn vũ trụ. Lúc này, không có ánh sáng ở bất kỳ nơi đâu trên thế gian trừ Ca-na-an, và cả nhân loại đang gặp hiểm nguy vì đói và lạnh. Ta đã ban vinh quang của Ta cho Y-sơ-ra-ên rồi lại tước bỏ nó đi, bằng cách đó mang người Y-sơ-ra-ên đến phương Đông, và cả nhân loại đến phương Đông. Ta đã mang tất cả bọn họ đến với sự sáng để họ có thể đoàn tụ với sự sáng, được gắn kết với sự sáng, và không còn phải tìm kiếm sự sáng nữa. Ta sẽ để tất cả những ai đang tìm kiếm sự sáng nhìn thấy lại sự sáng và thấy được vinh quang mà Ta đã có ở Y-sơ-ra-ên; Ta sẽ để họ thấy rằng từ lâu Ta đã giáng trần trên một đám mây trắng vào giữa nhân loại, cho họ thấy vô số các đám mây trắng và trái cây sai trĩu trịt, và, hơn nữa, để họ thấy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ để họ nhìn lên Đức Thầy của người Do Thái, Đấng Mê-si mà họ hằng mong ước, và diện mạo đầy đủ của Ta, Đấng đã bị bách hại bởi các vị vua trong suốt các thời đại. Ta sẽ làm việc trên toàn vũ trụ và Ta sẽ thực hiện công tác vĩ đại, mặc khải tất cả vinh quang của Ta và tất cả việc làm của Ta cho con người trong thời kỳ sau rốt. Ta sẽ cho những người đã đợi Ta nhiều năm, những người đã mong mỏi Ta đến trên một đám mây trắng, cho một Y-sơ-ra-ên đã mong mỏi Ta xuất hiện một lần nữa, và cho cả nhân loại đã bức hại Ta thấy được đầy đủ nhất diện mạo vinh quang của Ta, để tất cả sẽ đều biết rằng từ lâu Ta đã lấy đi vinh quang của Ta và mang nó tới phương Đông, và nó không còn ở Giu-đê nữa. Vì thời kỳ sau rốt đã đến!” (Bảy tiếng sấm rền – Tiên đoán rằng Phúc Âm của vương quốc sẽ truyền bá khắp vũ trụ, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Rồi tôi so sánh nó với lời tiên tri trong Kinh Thánh: “Vì như chớp phát ra từ phương đông, nháng đến phương tây, thì sự Con người đến sẽ cũng thể ấy” (Ma-thi-ơ 24:27). Nó khớp với những lời của Đức Chúa Jêsus, hoàn toàn tương hợp với Kinh Thánh. Còn ai ngoài Đức Chúa Trời có thể giải mã những lẽ nhiệm mầu này? Những lời này quá thu hút, càng đọc tôi lại càng muốn đọc thêm. Tôi cảm thấy như có thể tìm được lời giải đáp cho sự mơ hồ của tôi từ trong quyển sách này.
Tôi lại đọc thêm một đoạn khác. “Bởi chúng ta đang tìm kiếm dấu chân của Đức Chúa Trời, nên chúng ta cần tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời, lời Đức Chúa Trời, những lời phán của Ngài – bởi vì bất cứ nơi đâu có những lời mới của Đức Chúa Trời, thì giọng nói của Đức Chúa Trời ở đó, và bất cứ nơi đâu có bước chân của Đức Chúa Trời, thì việc làm của Đức Chúa Trời ở đó. Bất cứ nơi nào có sự bày tỏ của Đức Chúa Trời, ở đó Đức Chúa Trời xuất hiện, và bất cứ nơi nào Đức Chúa Trời xuất hiện, thì ở đó có lẽ thật, đường đi và sự sống. Khi tìm kiếm dấu chân của Đức Chúa Trời, các ngươi đã bỏ qua những lời: ‘Đức Chúa Trời là lẽ thật, đường đi và sự sống’. Và vì vậy, nhiều người, ngay cả khi họ nhận được lẽ thật, vẫn không tin rằng họ đã tìm thấy dấu chân của Đức Chúa Trời và lại càng không thừa nhận sự xuất hiện của Đức Chúa Trời. Thật là một sai lầm nghiêm trọng! Sự xuất hiện của Đức Chúa Trời không thể nào hòa hợp với những quan niệm của con người, Đức Chúa Trời lại càng không thể xuất hiện theo yêu cầu của con người. Đức Chúa Trời đưa ra lựa chọn của riêng Ngài và kế hoạch của riêng Ngài khi Ngài thực hiện công tác của mình; hơn thế nữa, Ngài có những mục tiêu và phương pháp riêng của mình. Dù thực hiện bất cứ công tác gì, Ngài không cần phải thảo luận với con người hay tìm kiếm lời khuyên của họ, Ngài lại càng không cần phải thông báo cho từng người một về công tác của Ngài. Đây là tâm tính của Đức Chúa Trời, mà ngoài ra, mọi người nên nhận biết. Nếu các ngươi mong muốn chứng kiến sự xuất hiện của Đức Chúa Trời, mong muốn đi theo dấu chân của Ngài, thì trước tiên các ngươi phải dẹp bỏ những quan niệm của riêng mình. Ngươi không được đòi hỏi Đức Chúa Trời phải làm điều này hay điều kia, ngươi càng không nên đặt Ngài trong những ranh giới của chính ngươi và giới hạn Ngài trong những quan niệm của riêng ngươi. Thay vào đó, các ngươi nên tự đòi hỏi mình phải làm thế nào để tìm kiếm dấu chân của Đức Chúa Trời, phải làm thế nào để các ngươi chấp nhận sự xuất hiện của Đức Chúa Trời, và phải làm thế nào để các ngươi quy phục công tác mới của Đức Chúa Trời: Đây là điều con người nên làm. Vì con người không phải là lẽ thật, và không được sở hữu lẽ thật, thế nên họ nên tìm kiếm, chấp nhận và vâng phục” (Phụ lục 1: Sự xuất hiện của Đức Chúa Trời đã mở ra một thời đại mới, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi đọc đoạn này hai lần liên tục. Tôi nghĩ rằng tiếng của Đức Chúa Trời phát ra ở đâu thì bước chân của Ngài ở đó. Đấy chính là nơi Đức Chúa Trời xuất hiện. Đây thật sự là lời của Đức Chúa Trời chứ gì nữa? Không một ai ngoài Đức Chúa Trời có thể phán những lời thế này. Mà ở Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng, họ đọc những lời này, nên có thể Đức Chúa Trời đã công tác ở hội thánh đó. Tôi mừng rỡ khôn xiết và đọc tiếp.
Rồi tôi đọc thấy đoạn này: “Ngày nay, Đức Chúa Trời đã trở lại thế gian để thực hiện công tác của Ngài. Điểm dừng chân đầu tiên của Ngài là hình mẫu của chế độ cai trị độc tài: Trung Quốc, pháo đài kiên cố của chủ nghĩa vô thần. Đức Chúa Trời đã thu nhận được một nhóm người bằng sự khôn ngoan và quyền năng của Ngài. Trong giai đoạn này, Ngài đã bị đảng cầm quyền Trung Quốc săn lùng bằng mọi cách và phải chịu vô vàn khổ đau, không có chỗ gối đầu, không thể tìm được nơi nương náu. Bất chấp điều này, Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục công tác Ngài dự định làm: Ngài cất tiếng và rao truyền Phúc Âm. Không ai có thể dò lường được sự toàn năng của Đức Chúa Trời. Tại Trung Quốc, một đất nước xem Đức Chúa Trời là kẻ thù, Đức Chúa Trời chưa bao giờ ngừng công tác của Ngài. Thay vào đó, đã có thêm nhiều người chấp nhận công tác và lời của Ngài, vì Đức Chúa Trời cứu rỗi từng thành viên một của nhân loại đến mức cao nhất có thể” (Phụ lục 2: Đức Chúa Trời tể trị số phận của cả nhân loại, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Nhưng khi đọc đến đoạn này: “Ngày nay, Đức Chúa Trời đã trở lại thế gian để thực hiện công tác của Ngài. Điểm dừng chân đầu tiên của Ngài là hình mẫu của chế độ cai trị độc tài: Trung Quốc”, Ngay lập tức, tôi bị khựng lại, thấy thất vọng. Mắt vẫn dán vào hai câu đó, tôi cứ suy nghĩ mãi: “Đức Chúa Trời ở Trung Quốc sao? Sao có thể như thế được? Có lẽ mình không nên đọc nó, lỡ mình lạc lối thì sao?”. Nhưng rồi tôi nghĩ: những lời này có vẻ là tiếng của Đức Chúa Trời. Nếu mình không tìm hiểu, mà Chúa thật sự đã tái lâm, mình có bị lỡ mất cơ hội không? Lòng tôi mâu thuẫn cực độ, không khỏi tự nhủ: Tại sao Đức Chúa Trời mà xuất hiện và công tác ở Trung Quốc? Tôi đối chiếu chuyện này với Kinh Thánh, và đọc thấy lời Đức Chúa Jêsus phán: “Vì như chớp phát ra từ phương đông, nháng đến phương tây, thì sự Con người đến sẽ cũng thể ấy” (Ma-thi-ơ 24:27). “Phương Đông” là nói đến Trung Quốc sao? Nhưng Trung Quốc quá lạc hậu, chủ nghĩa vô thần đang thống trị cả nước. Đức Chúa Trời mà xuất hiện và công tác ở Trung Quốc được sao? Quyển sách này nói rõ ràng là có thể. Nhưng tôi vẫn thấy e dè… không biết nên tiếp tục hay từ bỏ? Rồi tôi nghĩ đến chuyện mình đã chật vật tìm kiếm bao năm qua. Chỉ cần có chút tia hy vọng thì tôi không được từ bỏ. Vậy là tôi quyết định đến Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng để tìm hiểu xem sao.
Hôm sau, tôi đến Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng, vừa đúng lúc một người anh em đang giảng, nội dung lại đúng ngay điều tôi đang băn khoăn, là cách để thoát khỏi tội lỗi. Anh ấy đọc những lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng: “Trong Thời đại Ân điển, ma quỷ đã bị đuổi ra khỏi con người nhờ việc đặt tay và cầu nguyện, nhưng những tâm tính bại hoại trong con người thì vẫn còn. Con người đã được chữa lành bệnh tật và được tha tội, nhưng còn về việc chính xác làm thế nào con người được gột sạch những tâm tính Sa-tan bại hoại trong họ, thì công tác này vẫn chưa được thực hiện. Con người đã chỉ được cứu rỗi và được tha tội nhờ đức tin của mình, nhưng bản tính tội lỗi của con người đã không bị tiệt trừ mà vẫn còn trong họ. Những tội lỗi của con người đã được tha thứ thông qua Đức Chúa Trời nhập thể, nhưng điều này không có nghĩa là con người không còn tội lỗi trong mình nữa. Những tội lỗi của con người có thể được tha thứ thông qua của lễ chuộc tội, nhưng về việc làm sao con người có thể được làm cho không còn phạm tội nữa, và làm sao bản tính tội lỗi của họ có thể bị tiệt trừ hoàn toàn và được chuyển hóa, thì họ không có cách nào giải quyết được vấn đề này. Những tội lỗi của con người đã được tha thứ, và điều này là nhờ công tác chịu đóng đinh của Đức Chúa Trời, nhưng con người vẫn tiếp tục sống trong tâm tính Sa-tan bại hoại như cũ. Như vậy, con người phải được cứu rỗi hoàn toàn khỏi tâm tính Sa-tan bại hoại của mình, hầu cho bản tính tội lỗi của họ có thể bị tiệt trừ hoàn toàn, không bao giờ phát triển trở lại, theo đó cho phép tâm tính của con người được chuyển hóa. Điều này sẽ đòi hỏi con người phải nắm bắt được con đường phát triển trong sự sống, nắm bắt được con đường sự sống, và nắm bắt được cách thay đổi tâm tính của mình. Hơn nữa, nó sẽ đòi hỏi con người phải hành động theo con đường này, hầu cho tâm tính của họ có thể dần dần được thay đổi và họ có thể sống dưới sự chiếu soi của sự sáng, hầu cho mọi điều họ làm đều có thể phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời, hầu cho họ có thể vứt bỏ tâm tính Sa-tan bại hoại của mình, và hầu cho họ có thể thoát khỏi ảnh hưởng bóng tối của Sa-tan, từ đó hoàn toàn thoát khỏi tội lỗi. Chỉ khi đó con người mới nhận lãnh được sự cứu rỗi hoàn toàn” (Lẽ mầu nhiệm của sự nhập thể (4), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).
Rồi anh thông công rằng: “Từ lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, chúng ta có thể thấy rằng trong Thời đại Ân điển, Đức Chúa Trời chỉ thực hiện công tác cứu chuộc. Đức Chúa Jêsus loan truyền phúc âm vương quốc, bảo người ta ăn năn và thú tội. Ngài chữa lành người bệnh, xua trừ ma quỷ, tha thứ tội lỗi cho người ta. Ngài còn ban ân điển vô tận trên nhân loại. Cuối cùng, Ngài chịu đóng đinh lên thập giá làm của lễ đền tội cho toàn thể nhân loại. Kể từ đó, chúng ta đã được tha thứ tội lỗi, tận hưởng ân điển và phước lành của Đức Chúa Trời, chỉ cần cầu nguyện và thú tội. Đây chính là công tác của Đức Chúa Jêsus trong Thời đại Ân điển, Vậy, công tác cứu chuộc của Đức Chúa Jêsus hoàn tất nghĩa là công tác cứu rỗi của Đức Chúa Trời cũng hoàn tất? Dĩ nhiên là không rồi. Công tác cứu chuộc chỉ đơn thuần tha thứ tội lỗi của chúng ta, nhưng căn nguyên sự tội của bản tính tội lỗi của chúng ta vẫn chưa được hóa giải. Chúng ta vẫn bất tri bất giác phạm tội suốt. Chúng ta kiêu ngạo, phô trương, nói dối và lừa lọc. Nhiều lúc, chúng ta cảm thấy ghen tị và thù ghét. Ban ngày sống trong tội lỗi, đến tối lại thú tội, tình trạng đó chúng ta không thể dứt ra được. Trong sách Do Thái, chương 12, câu 14 có viết: ‘Nếu không nên thánh thì chẳng ai được thấy Ðức Chúa Trời’. Đức Chúa Trời là thánh khiết và công chính. Nên con người ô uế, bại hoại chúng ta làm sao xứng đáng được vào thiên quốc chứ? Đức Chúa Trời Toàn Năng đã đến vào thời kỳ sau rốt, bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác phán xét để giải quyết bản tính tội lỗi của chúng ta, cho phép chúng ta rũ bỏ hoàn toàn những ràng buộc và kìm kẹp của tội lỗi, được làm tinh sạch, và đưa chúng ta vào vương quốc của Ngài. Điều này ứng nghiệm lời tiên tri của Đức Chúa Jêsus: ‘Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật’ (Giăng 16:12-13). ‘Ta đến chẳng để xét đoán thế gian, nhưng để cứu chuộc. Người nào bỏ Ta ra và không nhận lãnh lời Ta, đã có kẻ xét đoán rồi; lời Ta đã rao giảng, chính lời đó sẽ xét đoán họ nơi ngày sau cùng’ (Giăng 12:47-48). Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời Toàn Năng đã phán hàng triệu lời, bày tỏ mọi lẽ thật cần thiết để làm tinh sạch và cứu rỗi nhân loại. Ngài phán xét và phơi bày mọi tâm tính bại hoại chống Đức Chúa Trời và bản tính Sa-tan của chúng ta, phơi bày trọn vẹn căn nguyên việc chúng ta phạm tội và chống đối Đức Chúa Trời. Ngài cũng chỉ ra con đường loại bỏ tội lỗi và đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Để thấy chân tướng sự bại hoại của chúng ta chỉ có một cách là tiếp nhận sự phán xét và hành phạt của lời Đức Chúa Trời, như thế chúng ta mới cảm thấy ân hận, ghét mình và ăn năn với Đức Chúa Trời, được giải thoát khỏi sự bại hoại và được làm tinh sạch. Công tác phán xét của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt là con đường duy nhất để chúng ta được nên tinh sạch, được cứu rỗi và vào thiên quốc”.
Nghe anh ấy thông công, tôi được khai sáng rất nhiều, như được cất đi gánh nặng ngàn cân. Hóa ra, Đức Chúa Jêsus đã thực hiện công tác cứu chuộc và con người được tha thứ tội lỗi thông qua của lễ chuộc tội, nhưng bản tính tội lỗi của chúng ta vẫn còn đó. Tiếp nhận công tác phán xét của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt là cách duy nhất để giải quyết vấn đề tội lỗi, thoát khỏi sự ràng buộc và kìm kẹp của tội lỗi, được nên tinh sạch, và xứng đáng được vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Chỉ có chính Đức Chúa Trời mới có thể bày tỏ những lẽ nhiệm mầu trong công tác quản lý của Ngài, và chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể làm tinh sạch và cứu rỗi nhân loại hoàn toàn. Tôi cảm thấy chắc chắn đây là công tác của Đức Chúa Trời, lòng tôi mừng rỡ.
Hôm sau, một chị ở Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng đọc cho tôi một đoạn lời Đức Chúa Trời. “Đấng Christ của thời kỳ sau rốt dùng nhiều lẽ thật khác nhau để dạy dỗ con người, để phơi bày bản chất của con người, và để mổ xẻ những lời nói và hành động của con người. Những lời này bao gồm nhiều phương diện của lẽ thật, chẳng hạn như bổn phận của con người, con người nên vâng lời Đức Chúa Trời như thế nào, con người nên trung thành với Đức Chúa Trời ra sao, con người phải sống trọn nhân tính bình thường, cũng như sự khôn ngoan và tâm tính của Đức Chúa Trời như thế nào, v.v. Tất cả những lời này đều nhắm vào bản chất của con người và tâm tính bại hoại của họ. Cụ thể, những lời vạch trần cách con người hắt hủi Đức Chúa Trời, được phán ra liên quan đến việc con người là hiện thân của Sa-tan và là một thế lực thù địch chống lại Đức Chúa Trời như thế nào. Trong quá trình thực hiện công tác phán xét của mình, Đức Chúa Trời không chỉ đơn giản làm rõ bản tính của con người bằng một vài lời; Ngài phơi bày, xử lý và tỉa sửa qua thời gian dài. Tất cả những phương pháp phơi bày, xử lý và tỉa sửa khác nhau này không thể được thay thế bằng những lời thông thường, mà phải bằng lẽ thật con người tuyệt đối không bao giờ có. Chỉ có những phương pháp như thế này mới có thể được gọi là sự phán xét; chỉ thông qua kiểu phán xét này thì con người mới có thể bị khuất phục và hoàn toàn bị thuyết phục về Đức Chúa Trời, và hơn nữa mới có được kiến thức thực sự về Đức Chúa Trời. Điều mà công tác phán xét mang lại là sự hiểu biết của con người về diện mạo thật của Đức Chúa Trời và sự thật về sự phản nghịch của chính mình. Công tác phán xét cho phép con người đạt được nhiều hiểu biết về ý muốn của Đức Chúa Trời, về mục đích công tác của Đức Chúa Trời, và về những lẽ mầu nhiệm mà họ không thể hiểu được. Nó cũng cho phép con người nhận ra và biết được thực chất bại hoại và nguồn gốc sự bại hoại của mình, cũng như khám phá ra sự xấu xa của con người. Những tác dụng này đều do công tác phán xét mang lại, vì thực chất của công tác này thực ra là công tác mở ra lẽ thật, đường đi và sự sống của Đức Chúa Trời cho tất cả những ai có đức tin vào Ngài” (Đấng Christ thực hiện công tác phán xét bằng lẽ thật, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đọc xong, chị ấy thông công và làm chứng, giúp tôi hiểu rõ hơn nữa. Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác phán xét để giải quyết bản tính tội lỗi của con người. Nếu không tiếp nhận sự phán xét của Đức Chúa Trời mà cứ dành cả đời trong giới tôn giáo, thì chúng ta chẳng thể thoát khỏi tội lỗi, chẳng được làm tinh sạch. Nhờ lòng thương xót và ân điển của Đức Chúa Trời, cuối cùng tôi đã tìm thấy con đường được làm tinh sạch tội lỗi. Tôi quá đỗi phấn khích, không kìm được nước mắt. Tôi nghĩ về tám năm qua, tôi đã bôn ba đi đến vô số hội thánh lớn nhỏ, tìm một con đường để rũ bỏ tội lỗi và vào thiên quốc. Nhưng lần nào tôi cũng đến trong hy vọng và ra về trong thất vọng. Chính ân điển của Đức Chúa Trời đã cho tôi nghe tiếng Ngài và thấy sự xuất hiện của Ngài. Tôi thật vô cùng có phúc! Tôi cảm thấy mình như đứa con đi lạc được đoàn tụ với mẹ sau nhiều năm rong ruổi. Lòng tôi có cảm giác bình an và vui mừng khôn tả.
Tuy nhiên, tôi vẫn còn vài chuyện mơ hồ chưa được giải quyết. Tôi mới hỏi chị ấy: “Người Trung Quốc học vấn thấp lại chống đối Đức Chúa Trời. Tại sao Ngài lại xuất hiện và công tác ở đó vào thời kỳ sau rốt?”. Chị ấy mới đọc một đoạn lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng cho tôi nghe: “Công tác của Đức Giê-hô-va là sự sáng thế, đó là sự khởi đầu; giai đoạn công tác này là sự kết thúc của công tác, và nó là sự chấm dứt. Vào lúc bắt đầu, công tác của Đức Chúa Trời đã được thực hiện giữa những người được chọn của Y-sơ-ra-ên, và đó là buổi bình minh của một kỷ nguyên mới ở nơi thánh khiết nhất trong mọi nơi. Giai đoạn cuối cùng của công tác được thực hiện ở nơi ô uế nhất của mọi quốc gia, để phán xét thế gian và kết thúc thời đại. Trong giai đoạn đầu tiên, công tác của Đức Chúa Trời đã được thực hiện ở nơi sáng sủa nhất trong mọi nơi, và giai đoạn cuối cùng được thực hiện ở nơi tối tăm nhất trong mọi nơi, và sự tối tăm này sẽ bị xua tan, ánh sáng được mang lại, và tất cả mọi người đều được chinh phục. Khi con người ở nơi ô uế và đen tối nhất trong mọi nơi này đã được chinh phục, và toàn thể dân chúng đã công nhận rằng có một Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời thật, và mọi người đã bị thuyết phục hoàn toàn, thì sự thật này sẽ được dùng để thực hiện công tác chinh phục khắp toàn thể vũ trụ. Giai đoạn công tác này mang tính tượng trưng: Một khi công tác của thời đại này đã được hoàn thành, công tác quản lý sáu nghìn năm sẽ hoàn toàn kết thúc. Một khi những người ở nơi tối tăm nhất trong mọi nơi đã được chinh phục, hiển nhiên cũng sẽ là như thế ở mọi nơi khác. Như vậy, chỉ có công tác chinh phục ở Trung Quốc mang tính tượng trưng đầy ý nghĩa. Trung Quốc tiêu biểu cho mọi thế lực của sự tối tăm, và người dân Trung Quốc đại diện cho tất cả những ai thuộc về xác thịt, thuộc về Sa-tan, thuộc về thịt và huyết. Chính người dân Trung Quốc là những người đã bị bại hoại nhất bởi con rồng lớn sắc đỏ, là những người có sự chống đối mạnh mẽ nhất đối với Đức Chúa Trời, nhân tính của họ là hèn hạ và ô uế nhất, và vì vậy họ là nguyên mẫu của cả loài người bại hoại. Điều này không có nghĩa là các quốc gia khác không có vấn đề gì cả; các quan niệm của con người đều giống nhau, và mặc dù người dân của các quốc gia này có thể có tố chất tốt, nhưng nếu họ không biết Đức Chúa Trời, thì chắc chắn họ chống đối Ngài. … Chính ở người dân Trung Quốc mà sự bại hoại, ô uế, bất chính, chống đối và nổi loạn được thể hiện đầy đủ nhất và được biểu lộ dưới mọi hình thức khác nhau của chúng. Một mặt, họ có tố chất kém, và mặt khác, đời sống và tư duy của họ lạc hậu, và những thói quen, môi trường xã hội, gia đình sinh ra họ – tất cả đều nghèo nàn và lạc hậu nhất. Vóc giạc của họ cũng thấp kém. Công tác ở nơi này mang tính tượng trưng, và sau khi công tác thử nghiệm này đã được thành toàn, công tác tiếp theo của Ngài sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nếu bước công tác này có thể được hoàn thành, thì công tác tiếp theo sẽ khỏi phải bàn. Một khi bước công tác này đã được hoàn thành, thành công lớn sẽ đạt được trọn vẹn, và công tác chinh phục khắp toàn thể vũ trụ sẽ hoàn toàn kết thúc. Trên thực tế, một khi công tác giữa các ngươi đã thành công, điều này sẽ tương đương với thành công khắp toàn thể vũ trụ. Đây là ý nghĩa của lý do Ta bắt các ngươi hành động như một kiểu mẫu và hình mẫu” (Khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời (2), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Rồi chị ấy thông công rằng: “Lời của Đức Chúa Trời nói rất rõ ràng. Đức Chúa Trời xuất hiện và công tác ở Trung Quốc vào thời kỳ sau rốt là việc ý nghĩa nhất. Giờ Ngài làm công tác phán xét và làm tinh sạch. Ngài bày tỏ lẽ thật để phơi bày bản tính Sa-tan chống Đức Chúa Trời của con người, phơi bày nhiều tâm tính bại hoại của chúng ta. Ngài cho chúng ta thấy tâm tính công chính, oai nghi và thịnh nộ của Ngài không dung thứ sự xúc phạm. Chính vì thế Ngài chọn những kẻ bại hoại nhất và chống đối Đức Chúa Trời để làm gương. Công tác giữa những kẻ này là cách duy nhất để phơi bày đủ mọi loại bại hoại trong nhân loại và thể hiện rõ hơn sự thánh khiết và công chính của Ngài. Đây là cách Ngài có thể đạt được kết quả tốt nhất trong công tác phán xét của Ngài. Còn nữa, Trung Quốc là hang ổ của con rồng lớn sắc đỏ. Con rồng lớn sắc đỏ là hiện thân của Sa-tan, là những kẻ mà Sa-tan làm cho bại hoại trầm trọng nhất. Chính vì thế, Trung Quốc là trục tâm tà ác của thế giới và người Trung Quốc bị bại hoại nặng nề nhất. Họ chối bỏ và chống đối Đức Chúa Trời, có nhân tính kém nhất. Người Trung Quốc là hình ảnh toát yếu về nhân loại bại hoại. Đức Chúa Trời xuất hiện, công tác và bày tỏ lẽ thật ở Trung Quốc, phơi bày toàn bộ sự bại hoại và phản nghịch của người Trung Quốc, như thế sẽ dễ chinh phục nhân loại hơn, có thể thể hiện rõ hơn thực chất và chân tướng bại hoại của con người do tay Sa-tan. Còn nữa, khi công tác ở quốc gia ô uế nhất, bại hoại nhất và chống Đức Chúa Trời nhất, khi chinh phục, làm tinh sạch và biến đổi những người Trung Quốc ngu tối nhất và bại hoại sâu sắc, thì sẽ dễ dàng hơn cứu rỗi người ở các nước khác. Đức Chúa Trời công tác như thế này cho phép toàn thể nhân loại thấy quyền năng vĩ đại của Ngài và tâm phục khẩu phục. Điều này cho thấy thẩm quyền và quyền năng của Ngài, cũng như sự khôn ngoan và toàn năng của Ngài”.
Sau đó, chị ấy đã đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời. “Người Trung Quốc chưa bao giờ tin Đức Chúa Trời; họ chưa bao giờ phụng sự Đức Giê-hô-va, và chưa bao giờ phụng sự Jêsus. Họ chỉ vái lạy, thắp nhang, đốt vàng mã, và thờ Phật. Họ chỉ thờ các thần tượng – tất cả họ đều phản nghịch tột bậc. Do đó, vị trí con người càng thấp, thì càng cho thấy rằng điều Đức Chúa Trời đạt được từ các ngươi là nhiều vinh quang hơn bao giờ hết. … Theo những quan niệm con người, Ta sẽ phải được sinh ra ở một quốc gia tốt để cho thấy rằng Ta có địa vị cao, để cho thấy rằng Ta có giá trị vĩ đại, để cho thấy danh giá, sự thánh khiết, và vĩ đại của Ta. Nếu Ta được sinh ra ở một nơi công nhận Ta, trong một gia đình thượng lưu, và nếu Ta có vị trí và địa vị cao, khi ấy Ta sẽ được đối đãi rất tốt. Điều đó sẽ không có lợi cho công tác của Ta, và khi đó sự cứu rỗi vĩ đại như thế có thể còn được tỏ lộ không? Tất cả những ai thấy Ta sẽ vâng phục Ta, và họ sẽ không bị ô uế bởi sự nhơ bẩn. Ta nên được sinh ra ở dạng nơi chốn này. Đó là điều các ngươi tin. Nhưng hãy nghĩ lại: Đức Chúa Trời đã đến thế gian để hưởng thụ, hay để làm công tác? Nếu Ta làm công tác ở dạng nơi chốn dễ dàng, thoải mái như vậy, thì Ta có thể đạt được vinh quang trọn vẹn của Ta không? Liệu Ta sẽ có thể chinh phục tất cả mọi tạo vật của Ta không? Khi Đức Chúa Trời đến thế gian, Ngài không thuộc về thế gian, và Ngài đã không trở nên xác thịt nhằm hưởng thụ thế gian. Nơi mà việc làm công tác sẽ tỏ lộ tâm tính Ngài và nhiều ý nghĩa nhất chính là nơi Ngài đã được sinh ra. Dù đó là vùng đất thánh khiết hay nhơ bẩn, và cho dù Ngài làm công tác ở đâu, Ngài cũng thánh khiết. Mọi thứ trên thế gian được tạo ra bởi Ngài, mặc dù tất cả đã bị Sa-tan làm cho bại hoại. Tuy nhiên, muôn vật vẫn thuộc về Ngài; chúng đều ở trong tay Ngài. Ngài đến một vùng đất nhơ bẩn và làm công tác ở đó nhằm tỏ lộ sự thánh khiết của Ngài; Ngài chỉ làm điều này vì lợi ích công tác của Ngài, nghĩa là Ngài chịu sự nhục nhã lớn lao để làm công tác ấy nhằm cứu rỗi con người của vùng đất nhơ bẩn này. Điều này được thực hiện để làm chứng, vì lợi ích của hết thảy nhân loại. Điều mà công tác như thế cho thấy chính là sự công chính của Đức Chúa Trời, và có thể thể hiện quyền tối cao của Đức Chúa Trời. Sự vĩ đại và ngay thẳng của Ngài được thể hiện trong sự cứu rỗi một nhóm người thấp hèn mà những người khác khinh bỉ. Việc sinh ra ở một vùng đất nhơ bẩn không hề chứng tỏ rằng Ngài thấp hèn; nó chỉ đơn thuần cho phép mọi tạo vật nhìn thấy sự vĩ đại của Ngài và tình yêu chân thực của Ngài dành cho nhân loại. Ngài càng làm như thế thì càng tỏ lộ tình yêu tinh sạch của Ngài, tình yêu không tì vết của Ngài đối với con người. Đức Chúa Trời thánh khiết và công chính. Mặc dù Ngài được sinh ra ở một vùng đất nhơ bẩn, và mặc dù Ngài sống với những người đầy sự nhơ bẩn, giống như Jêsus đã sống với những kẻ tội lỗi trong Thời đại Ân điển, nhưng chẳng phải mỗi một phần nhỏ trong công tác của Ngài được thực hiện vì sự sinh tồn của toàn thể nhân loại sao? Chẳng phải toàn bộ điều đó là để nhân loại có thể đạt được sự cứu rỗi vĩ đại sao? Hai ngàn năm trước, Ngài đã sống với những kẻ tội lỗi trong một số năm. Đó là vì mục đích của sự cứu chuộc. Hôm nay, Ngài đang sống với một nhóm người nhơ bẩn, thấp hèn. Điều này là vì mục đích của sự cứu rỗi. Chẳng phải toàn bộ công tác của Ngài là vì lợi ích của con người các ngươi sao? Nếu không phải vì cứu rỗi nhân loại, tại sao Ngài lại sống và chịu đựng với những kẻ tội lỗi nhiều năm như vậy sau khi được sinh ra trong máng cỏ? Và nếu không phải để cứu nhân loại, tại sao Ngài trở lại xác thịt lần thứ hai, được sinh ra ở vùng đất nơi ma quỷ tụ tập, và sống với những người đã bị Sa-tan làm cho bại hoại sâu sắc? Chẳng phải Đức Chúa Trời trung nghĩa sao? Phần nào trong công tác của Ngài không vì nhân loại chứ? Phần nào không phải vì vận mệnh của các ngươi chứ? Đức Chúa Trời thánh khiết – điều này là bất biến! Ngài không bị ô uế bởi sự nhơ bẩn, mặc dù Ngài đã đến một vùng đất nhơ bẩn; toàn bộ điều này chỉ có thể có nghĩa là tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại là cực kỳ vị tha và sự đau khổ cùng nỗi nhục nhã mà Ngài phải chịu là cực kỳ lớn!” (Ý nghĩa của việc cứu rỗi con cháu Mô-áp, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).
Rồi chị ấy thông công rằng: “Lời Đức Chúa Trời bảo chúng ta rằng việc Đức Chúa Trời nhập thể trong thời kỳ sau rốt, xuất hiện và công tác ở Trung Quốc mang một ý nghĩa trọng đại. Người Trung Quốc là dân tộc chống đối và thù hận Đức Chúa Trời nhất. Họ thiếu tố chất và nhân tính nhất, nhưng Đức Chúa Trời nhập thể và công tác ở đó, bày tỏ lẽ thật với sự khoan dung và nhẫn nại vô hạn. Đức Chúa Trời đã chịu sự sỉ nhục ghê gớm để cứu rỗi họ, những con người ô uế và bại hoại nhất. Điều này càng thể hiện rõ hơn sự khiêm nhường và ẩn mình của Đức Chúa Trời, cho chúng ta thấy sự thánh khiết và công chính của Ngài, Hơn nữa, chúng ta có thể thấy Đức Chúa Trời là Chúa tạo vật. Ngài có thẩm quyền thực hiện công tác ở bất kỳ quốc gia nào, dân tộc nào, nhưng dù Ngài xuất hiện và công tác ở quốc gia nào, công tác của Ngài đều dành cho toàn thể nhân loại, là để cứu rỗi toàn thể nhân loại. Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời Toàn Năng đã xuất hiện và công tác ở Trung Quốc, bày tỏ lẽ thật. Ngài đã tạo nên một nhóm người đắc thắng, và giờ phúc âm của Ngài đang lan khắp toàn cầu. Công tác và lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng là vầng đại quang chiếu từ Đông sang Tây. Ngày càng nhiều người nghe tiếng Đức Chúa Trời, đua nhau hướng về Đức Chúa Trời Toàn Năng, tiếp nhận sự làm tinh sạch và cứu rỗi của Ngài. Nếu chúng ta cứ theo quan niệm và tưởng tượng của mình, nghĩ rằng vì hai giai đoạn công tác trước đây Ngài thực hiện ở Y-sơ-ra-ên, nghĩ Ngài là Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên và sẽ không xuất hiện, công tác ở Trung Quốc, thế chẳng phải là hạn định Ngài sao? Đức Chúa Trời phán: ‘Danh ta sẽ là lớn giữa các dân ngoại’ (Ma-la-ki 1:11). Vậy thì làm sao lời này được ứng nghiệm đây? Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời trở nên xác thịt và công tác ở Trung Quốc, nơi chủ nghĩa vô thần thống trị, đập tan hoàn toàn những quan niệm của con người. Điều này cho thấy Đức Chúa Trời không chỉ là Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên mà còn là Đức Chúa Trời của các dân ngoại. Ngài là Đức Chúa Trời của toàn thể nhân loại, chứ không phải chỉ của một quốc gia hay dân tộc nào. Đức Chúa Trời nhập thể đến Trung Quốc, xuất hiện và công tác ở đây, là điều vô cùng ý nghĩa!”.
Nghe mối thông của chị ấy, tôi thật sự thấy hổ thẹn. Tôi đã không hiểu công tác của Đức Chúa Trời, mà cứ hùa theo các mục sư hạn định Ngài, nghĩ Ngài không thể nào thực hiện công tác ở Trung Quốc. Tôi thật kiêu ngạo và ngu muội quá đỗi! Nghĩ đến chuyện đó thôi đã thấy đáng lo sợ rồi. Nhờ ân điển của Đức Chúa Trời mà tôi có phúc nghe tiếng NGài và tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Ngài. Nếu không, tôi vẫn sẽ hạn định Đức Chúa Trời dựa trên quan niệm của tôi, lên án sự xuất hiện và công tác của Ngài, và sẽ không có hy vọng được Ngài cứu rỗi. Tôi vô cùng cảm tạ sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Tôi cũng đã được đích thân trải nghiệm điều Đức Chúa Jêsus đã phán: “Ai tìm thì gặp; ai gõ cửa thì được mở” (Ma-thi-ơ 7:8). Những lời này thật quá thực tế, Đức Chúa Trời thật thành tín. Miễn là chúng ta tìm kiếm thì Ngài sẽ dẫn dắt và soi sáng cho chúng ta. Tạ ơn Đức Chúa Trời Toàn Năng!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?