Giữa sự tra tấn và giày vò, tôi đã nhận ra…
Một ngày tháng 9 năm 2017, tôi đến nhà Phương Minh để hội họp. Ngay khi tôi vừa gõ cửa thì cửa mở ra, một bàn tay bất ngờ kéo tôi vào nhà. Tôi cực kỳ hoảng sợ, và khi tỉnh táo lại, tôi nhận ra chúng là cảnh sát mặc thường phục và Phương Minh đã bị bắt. Sau đó, chúng đưa tôi đến “Cơ sở Huấn luyện Pháp lý”, đây là một trung tâm tẩy não dành cho các Cơ đốc nhân. Ở đó, tôi thấy một số anh chị em đã bị bắt. Có một chị nói với tôi rằng cảnh sát đã thu giữ hơn 30.000 nhân dân tệ của hội thánh, 4 máy tính xách tay và 210.000 nhân dân tệ của chị ấy và hai chị em khác. Nghe thấy vậy, tôi rất tức giận, vì con rồng lớn sắc đỏ đang điên cuồng bắt bớ các Cơ đốc nhân và chiếm đoạt tiền của hội thánh. Nó thực sự tà ác! Tôi đã thầm thề với lòng rằng sẽ cậy dựa vào Đức Chúa Trời để đứng vững trong lời chứng của mình và sẽ không bao giờ thỏa hiệp với Sa-tan!
Tại trung tâm tẩy não, cảnh sát đưa chúng tôi vào các phòng riêng, và mỗi lính canh được chỉ định canh gác từng người chúng tôi 24/24. Mọi thứ chúng tôi ăn, khi chúng tôi ngủ và ngay cả khi đi vệ sinh đều nằm trong tầm kiểm soát của chúng. Chúng cũng thuê một số người đứng gác bên ngoài các phòng. Mỗi ngày từ 7 giờ sáng, chúng đều mở những bộ phim truyền hình với âm lượng rất lớn cho đến 11 hoặc 12 giờ đêm, rồi bật đài phát kịch nói và những thứ tương tự cho đến 3 hoặc 4 giờ sáng. Trong thời gian này, cảnh sát thỉnh thoảng đến thẩm vấn tôi về đức tin của tôi vào Đức Chúa Trời. Chúng sẽ đe dọa và uy hiếp tôi khi thấy tôi không nói gì. Chúng thậm chí còn tập hợp chúng tôi lại với nhau và rao giảng những tư tưởng vô thần. Mục đích là khiến chúng tôi chối bỏ và phản bội Đức Chúa Trời. Nghe những lời đó, tôi cảm thấy buồn nôn.
Chúng đã cưỡng ép tẩy não chúng tôi hơn 20 ngày. Ngày nào tôi cũng không thể ăn ngon ngủ yên được và luôn ở trong tình trạng căng thẳng. Sau đó, cảnh sát đã tìm thấy thông tin nhận dạng của tôi, truy xuất danh sách cuộc gọi trong điện thoại di động của tôi và bắt đầu thẩm vấn tôi. Một buổi sáng nọ, cảnh sát lấy ra các bức ảnh của một vài chị em và hỏi tôi: “Mày có biết họ không?”. Tôi thấy những chị em này đều đảm nhiệm việc trông coi tiền của hội thánh. Tôi sẽ không bao giờ phản bội họ, vì vậy tôi nói: “Tôi không nhận ra họ”. Một tên cảnh sát xông đến tát tôi hai cái thật mạnh, sau đó đấm tôi hơn chục cái vào cùng một chỗ trên cánh tay phải của tôi. Cánh tay tôi đau như thể bị gãy. Hắn nghiến răng nghiến lợi đánh tôi và hỏi: “Mày không biết chúng à? Mày đã liên lạc với chúng cách đây nửa năm. Mày nghĩ tụi tao không biết sao? Nếu mày không khai hết ra, tao sẽ bẻ gãy tay mày”. Sau đó, hắn bắt tôi ngồi xổm và dang thẳng hai tay. Cánh tay phải của tôi đau đến mức không thể nhấc lên được. Hắn lấy vợt cầu lông đập vào tay chân tôi, vào miệng và cằm tôi cho đến khi môi và cằm tôi tê dại. Sau khi tôi ngồi xổm được hơn 10 phút, chúng hỏi tôi có biết một người anh em kia không. Tôi đã bị sốc. Chắc hẳn chúng đã tìm thấy tên anh ấy trong danh sách cuộc gọi của tôi. Nếu không nói với chúng, tôi không thể tưởng tượng được tiếp theo sẽ là kiểu hành hạ gì, nhưng dù thế nào đi nữa, tôi cũng không thể trở thành một Giu-đa và phản bội người anh em của mình. Tôi bình tĩnh nói: “Tôi không biết anh ta”. Thế là ba tên cảnh sát vây lấy tôi và nắm cổ áo tôi xô qua lại giữa chúng cho đến khi tôi choáng váng và loạng choạng. Tôi hơi sợ hãi, thầm nghĩ: “Với cơ thể nhỏ bé của mình, nếu cứ tiếp tục bị hành hạ như thế này thì liệu mình có chịu nổi không?”. Tôi liên tục thầm cầu nguyện, cầu xin Đức Chúa Trời bảo vệ tôi. Tôi nghĩ đến Đa-ni-ên. Khi bị ném vào hang sư tử, ông đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời đã bịt miệng những con sư tử lại để chúng không cắn ông. Tôi nhận ra mọi sự đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, vì vậy nếu không được sự cho phép của Đức Chúa Trời, cảnh sát không thể làm gì được tôi. Nghĩ vậy, tôi cảm thấy bớt lo sợ hơn. Chúng xô đẩy và lôi kéo tôi hơn 20 phút, sau đó tên đại úy cảnh sát đột nhiên nói: “Tao vẫn còn một số việc phải làm. Ngày mai tao sẽ chăm sóc mày!”. Rồi hắn vội vã bỏ đi. Tôi nghĩ đến việc ngày mai cảnh sát sẽ tra tấn tôi như thế nào nếu tôi không khai. Liệu tôi có thể chịu đựng được không? Nghĩ vậy, tôi rất lo lắng và sợ hãi, vì vậy tôi liên tục cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Tôi khổ sở với những suy nghĩ này cho đến sáng sớm hôm sau. Tôi cảm thấy chóng mặt, tức ngực và khó thở. Người canh gác tôi sợ đến nỗi cô ta đã gọi cho trưởng ban cải huấn và bác sĩ ở trung tâm tẩy não. Khi họ kiểm tra huyết áp của tôi, mức thấp nhất của tôi là 110 mmHg và cao nhất là 180 mmHg. Tên trưởng ban cải huấn sợ tôi chết ở trung tâm và trách nhiệm sẽ đổ lên đầu hắn, nên đã vội vàng đưa tôi đến bệnh viện. Bác sĩ nói tôi bị bệnh tim mạch vành và cần hồi phục sức khỏe, sau đó cho tôi truyền tĩnh mạch và thở oxy. Sau khi nghe những gì bác sĩ nói, cảnh sát thấy tôi sẽ không chết ngay được, nên chúng lập tức yêu cầu y tá không cho tôi thở oxy nữa và tháo ống truyền tĩnh mạch, sau đó chúng đưa tôi trở lại trung tâm tẩy não.
Sau khi trở lại trung tâm tẩy não, huyết áp của tôi vẫn rất cao và không hạ xuống. Tôi cũng vô cùng choáng váng và thậm chí không thể đi được nếu không tì vào tường. Nhưng lũ cảnh sát cũng chẳng thèm quan tâm tôi sống chết ra sao. Cả ngày, chúng bắt tôi xem TV. Lúc nào chúng cũng mở chương trình Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ 19 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tối đến thì chúng mở đài đến 3, 4 giờ sáng. Tôi bị giày vò khủng khiếp đến mức cơ thể ngày càng tiều tụy. Tôi thường bị tức ngực và khó thở. Mỗi lần bệnh tôi tái phát, chúng bắt tôi uống bảy tám viên thuốc tim khẩn cấp, chỉ để tôi không chết ngay tại chỗ. Cảnh sát cũng thường đến đe dọa tôi, yêu cầu tôi phản bội các anh chị em của mình và buộc tôi nói cho chúng biết nơi cất giữ tiền của hội thánh. Kiểu tra khảo và tra tấn liên tục này khiến tôi cực kỳ căng thẳng, sức khỏe ngày càng giảm sút. Toàn bộ phần trên của cơ thể tôi sưng tấy và đau đớn, và cảm giác như hơi cử động tí là các cơ quan nội tạng của tôi sắp rụng ra. Ngày nào tôi cũng phải lấy tay ôm chặt lấy thân mình, phải bước từng bước cẩn thận. Khi ngủ, tôi chẳng thể nằm hay ngồi. Tôi thử hết tư thế này đến tư thế khác cho đến khi không còn sức lực và cứ thế lịm đi một lúc. Thời gian trôi qua, tim tôi trở nên rất yếu, và tôi cảm thấy mình thực sự không thể vượt qua được. Tôi liên tục cầu nguyện, xin Đức Chúa Trời ban cho tôi niềm tin.
Một ngày nọ, tôi nhớ đến bài thánh ca “Việc theo Đấng Christ là do Đức Chúa Trời chỉ định”: “Đức Chúa Trời đã chỉ định rằng chúng ta theo Đấng Christ và trải qua những thử luyện và hoạn nạn. Nếu thật sự yêu kính Đức Chúa Trời, chúng ta nên quy phục quyền tối thượng và những sự sắp đặt của Ngài. Trải qua những thử luyện và hoạn nạn là được Đức Chúa Trời ban phúc, và Đức Chúa Trời phán rằng con đường chúng ta bước càng gập ghềnh, điều đó càng chứng tỏ tình yêu của chúng ta. Con đường chúng ta bước đi hôm nay được Đức Chúa Trời định trước. Theo Đấng Christ của thời kỳ sau rốt là phúc lành vĩ đại nhất trong tất cả” (Theo Chiên Con và hát những bài ca mới). Khi ngâm nga hoài bài này trong đầu, tôi hiểu ra rằng trong cuộc đời tin vào Đức Chúa Trời, từng người gặp phải dạng môi trường nào, phải trải qua dạng tôi luyện nào và phải chịu đựng bao nhiêu đau khổ đều đã được Đức Chúa Trời định trước từ lâu. Tôi phải quy phục và cậy dựa vào Đức Chúa Trời để trải nghiệm điều đó. Khi hát, tôi đã có được chút niềm tin.
Sau đó, tên trưởng ban cải huấn bắt tôi đọc sách và xem những video báng bổ Đức Chúa Trời cũng như vu khống Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng, đồng thời đưa người đến mở các lớp tẩy não tôi. Những ngày đó, ban ngày tôi bị tẩy não, ban đêm thì tiếng ồn của TV và đài cứ giã vào tai. Ngoài ra, tôi lo cảnh sát có thể đến thẩm vấn tôi bất cứ lúc nào nên rất căng thẳng. Các cơn đau ngực và tức ngực của tôi trở nên thường xuyên hơn. Vài ngày sau, tên trưởng ban cải huấn yêu cầu tôi viết một bức thư hứa rằng tôi sẽ không tin vào Đức Chúa Trời nữa. Tôi không chịu viết gì cả, nên hắn nói: “Ngay cả khi ốm đến thế mà cô vẫn kháng cự. Sao phải khổ vậy? Tôi sẽ viết cho cô một bản nháp và cô chỉ cần chép lại thôi. Những lời trong đó sẽ không phải là những gì cô nói hay thực sự suy nghĩ. Sau đó, tôi sẽ nói tốt cho cô để họ thả cô ra. Đây là đánh lừa hệ thống, cô hiểu không? Tôi sẽ giúp cô vì cô có vẻ là người tử tế. Bây giờ, cô chỉ cần chép lại, sau đó về nhà và gặp bác sĩ”. Tôi nghĩ những gì hắn nói cũng có lý. Tôi sẽ chỉ là làm cho có và trong lòng tôi không phản bội Đức Chúa Trời, vì vậy tôi nói với hắn: “Để tôi về suy nghĩ đã”. Trở về phòng, tôi cứ nghĩ đi nghĩ lại: “Trước đây mình nghe nói cảnh sát cho các anh chị em dùng thuốc hoặc tiêm cho họ thuốc gây tâm thần phân liệt. Đây là loại phương pháp hèn hạ mà chúng sử dụng để khiến chúng mình phản bội các anh chị em và giao nộp tiền của hội thánh. Hầu hết những người mình tiếp xúc đều là lãnh đạo và người làm công, cũng như một số anh chị em giữ tiền của hội thánh. Nếu một ngày cảnh sát tiêm cho đầy thuốc gây tâm thần phân liệt hoặc bỏ thuốc mình, khiến mình mất ý thức và bán đứng các anh chị em, thì mình có thể gây thiệt hại nặng nề cho lợi ích của hội thánh. Đó sẽ là phạm trọng tội, và sau này chắc chắn mình sẽ bị trừng phạt. Nếu viết bức thư đó, mình có thể được thả sớm hơn và sẽ không phản bội các anh chị em. Nhưng mà mình sẽ phản bội Đức Chúa Trời và chối bỏ Ngài, vậy thì sau đó sống để làm gì? Không được, mình không thể viết bức thư này”. Ngày hôm sau, tên trưởng ban cải huấn tức giận khi thấy tôi chưa viết thư. Hắn hét lên: “Chính phủ đã ra lệnh rằng những người tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng như cô phải viết và ký vào lá thư đó trước khi có thể được thả. Dù cô ốm đau thế nào thì cũng phải tuân theo quy định của chính phủ, nên hãy mau viết đi!”. Hắn đã gọi ba lính canh đến để giúp thuyết phục tôi và nói: “Cô sẽ không được thả trừ khi ký vào lá thư. Chính phủ đã chi rất nhiều tiền để cải tạo các người, thậm chí còn thiết kế các lớp học đặc biệt. Chúng tôi nhận tiền của chính phủ và phải làm những việc mình được trả công, vì vậy nếu cô không ký, ngày nào chúng tôi cũng sẽ tra tấn cô cho đến khi cô ký thì thôi”. Sự đe dọa và vây hãm của chúng khiến tôi rất lo lắng và tôi không thể chịu đựng được cơn đau thắt ở ngực. Mặc dù trong lòng tôi đã cầu nguyện, nhưng tôi chỉ làm cho có lệ, chứ không chân thành. Trên thực tế, tôi không muốn chịu khổ nữa và tôi không có đức tin nơi Đức Chúa Trời. Tôi luôn lo cảnh sát sẽ bỏ thuốc vào bữa ăn của tôi. Điều gì sẽ xảy ra nếu đầu óc tôi mất kiểm soát và phản bội các anh chị em? Sau này, sự trừng phạt dành cho tôi thậm chí sẽ còn nặng nề hơn, vì vậy chắc là tôi phải viết và ký vào lá thư đó thôi. Ngay khi nghĩ như vậy, tôi đã thỏa hiệp và ký vào lá thư. Tôi đột nhiên cảm thấy như tim mình vừa bị khoét rỗng và đầu óc tối sầm. Tôi cảm thấy rất bất an và vô cùng sợ hãi. Tôi nhận ra rằng bằng việc ký tên vào “Tam thư”, tôi đã bị đóng mác loài cầm thú. Tôi là một Giu-đa đã phản bội Đức Chúa Trời, và tôi đã xúc phạm tâm tính Đức Chúa Trời. Tôi cảm thấy cực kỳ ân hận và căm ghét bản thân, cảm thấy mình không đáng được sống. Trong khi tên lính canh tôi đang ngủ, tôi đã nuốt 15, 16 viên thuốc hạ huyết áp còn lại của mình. Vài giờ sau, tôi cảm thấy chóng mặt nên nằm trên giường, nước mắt lưng tròng, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Con đã ký tên vào ‘Tam thư’. Con đã phản bội Ngài và làm ô danh Ngài. Con không xứng đáng được sống. Đức Chúa Trời ơi! Nếu có kiếp sau, con vẫn muốn tin Ngài và đi theo Ngài…”. Tôi thiếp đi lúc nào không hay. Sáng hôm sau, tôi chợt nghe thấy tiếng còi báo thức. Tôi mở mắt ra và tự véo mình vài cái. Hóa ra tôi chưa chết. Tôi căm ghét bản thân. Tại sao tôi lại không chết chứ? Đúng lúc đó, tôi nhớ đến một bài thánh ca về lời Đức Chúa Trời mang tên “Điều Đức Chúa Trời làm cho hoàn thiện là đức tin”: “Đức tin và tình yêu mạnh mẽ nhất là điều chúng ta cần phải có trong giai đoạn công tác này. Chúng ta có thể vấp ngã từ sự sơ suất nhỏ nhất, bởi giai đoạn công tác này khác với tất cả các giai đoạn trước đây: Điều mà Đức Chúa Trời đang hoàn thiện là đức tin của nhân loại, điều vừa vô hình vừa không chạm được. Điều Đức Chúa Trời làm là chuyển đổi lời thành đức tin, thành tình yêu và thành sự sống. Con người phải trải qua hàng trăm sự tinh luyện, đến khi có đức tin mạnh hơn Gióp. Họ phải chịu đựng sự đau khổ và mọi kiểu hành hạ cực độ mà không bao giờ rời xa Đức Chúa Trời. Khi họ thuận phục cho đến chết và có đức tin mạnh mẽ nơi Đức Chúa Trời, thì khi ấy giai đoạn công tác này của Đức Chúa Trời hoàn thành” (Con đường… (8), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời khiến tôi trào dâng những cảm xúc phức tạp và nước mắt tôi bắt đầu tuôn rơi. Tôi đã khóc và cầu nguyện với Ngài: “Đức Chúa Trời ơi! Ngài đã bảo vệ con. Con biết đây là lòng thương xót của Ngài dành cho con, chỉ cần con vẫn còn có thể phục vụ Ngài, con sẵn sàng sống tiếp. Kể cả có chết sau khi phục vụ, con cũng không than oán”.
Mặc dù không muốn chết nữa, nhưng tôi vẫn ở trong tình trạng rất phiền muộn. Trong vài ngày sau đó, tôi yếu ớt dựa vào đầu giường, nhắm mắt và ngồi ngây người bất động. Cảm giác như cả thế giới này chẳng liên quan gì đến mình. Một ngày nọ, khi tôi vào nhà vệ sinh, Phương Minh, người cũng bị bắt, ném cho tôi một cục tròn giấy vệ sinh. Tôi mở nó ra trong khi tên canh gác tôi không có ở đó. Trong đó có dòng chữ: “Người chị em ơi, đừng nản lòng và đừng hiểu lầm Đức Chúa Trời. Tôi đã viết ra một bài thánh ca về lời Đức Chúa Trời để chị đọc”. Tôi đã vừa khóc vừa đọc:
Đức Chúa Trời thích những ai có quyết tâm
1 Để đi theo Đức Chúa Trời thực tế, chúng ta nên có một ý chí như thế này: cho dù gặp phải những hoàn cảnh lớn đến đâu, hay gặp phải những khó khăn gì, và cho dù chúng ta yếu đuối hay tiêu cực như thế nào, chúng ta cũng không được mất niềm tin vào sự biến đổi tâm tính, cũng không được mất niềm tin vào những lời Đức Chúa Trời đã phán. Đức Chúa Trời đã hứa với nhân loại, và điều này đòi hỏi con người phải có ý chí, đức tin và nghị lực để nhận lấy. Đức Chúa Trời không thích những kẻ hèn nhát, Ngài thích những người có ý chí. Ngay cả khi ngươi bộc lộ rất nhiều sự bại hoại, ngay cả khi ngươi đi rất nhiều con đường vòng, hoặc có rất nhiều vi phạm, từng than oán về Đức Chúa Trời, từng chống đối Đức Chúa Trời trong tôn giáo hoặc trong lòng từng có một chút khinh nhờn Ngài, v.v… Đức Chúa Trời không nhìn vào tất cả những điều này. Ngài chỉ nhìn xem liệu con người có theo đuổi lẽ thật hay không và liệu một ngày nào đó họ có thể biến đổi không.
2 Người làm mẹ hiểu con mình như thế nào thì Đức Chúa Trời cũng hiểu mỗi một người như vậy. Ngài hiểu những khó khăn, sự yếu đuối và cũng hiểu nhu cầu của mỗi người. Đức Chúa Trời càng hiểu trong quá trình bước vào sự biến đổi tâm tính, con người sẽ gặp phải những khó khăn nào, sẽ có những dạng yếu đuối và thất bại như thế nào. Đây là những điều mà Đức Chúa Trời hiểu rõ nhất. Nên có thể nói, Đức Chúa Trời dò xét tận đáy lòng của con người. Dù ngươi yếu đuối như thế nào, chỉ cần ngươi không từ bỏ danh của Đức Chúa Trời, không rời bỏ Ngài và không rời bỏ con đường này, thì ngươi sẽ luôn có cơ hội đạt được sự biến đổi tâm tính. Khi ngươi có cơ hội đạt được sự biến đổi tâm tính thì ngươi sẽ có hy vọng sống sót và do đó sẽ có hy vọng được Đức Chúa Trời cứu rỗi.
– Con đường thực hành hướng đến sự thay đổi tâm tính của một người, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt
Lời Đức Chúa Trời thật êm dịu – chúng đã sưởi ấm và an ủi lòng tôi. Tôi khóc lóc thảm thiết và nhiều lần thầm hát bài thánh ca trong đầu. Tôi đã làm một điều khiến Đức Chúa Trời đau lòng, nhưng Ngài không những không trừng phạt tôi, mà còn khiến cho người chị em của tôi chép lời Ngài để hỗ trợ tôi trong những lúc tôi đau đớn và tuyệt vọng nhất. Tôi bước đến góc ban công, ngồi phịch xuống sàn, vừa khóc vừa cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Con đã ký vào ‘Tam thư’ và phản bội Ngài. Con không xứng đáng với lòng thương xót của Ngài dành cho con. Con không có lời nào để diễn tả tình yêu và sự cứu rỗi của Ngài dành cho con. Đức Chúa Trời ơi! Con muốn ăn năn với Ngài. Xin Ngài hãy dẫn dắt con”.
Sau đó, cảnh sát đã thả tôi ra vì chúng không thể moi được gì từ việc thẩm vấn tôi. Khi tôi được thả, chúng cảnh cáo tôi không được tin vào Đức Chúa Trời nữa và lệnh cho chồng tôi phải canh chừng tôi 24/24. Sau khi tôi về nhà, chính quyền thị trấn yêu cầu ủy ban xã thông báo cho cả xã biết tôi đã từng là tù nhân chính trị vì tin vào Đức Chúa Trời, đồng thời yêu cầu cả xã giám sát tôi. Tôi đi đâu cũng bị người ta nhìn chằm chằm và phải chịu đựng những ngón tay chỉ trỏ, những cái nhìn kỳ quặc, những lời mỉa mai, chế giễu, lăng mạ và đủ kiểu thái độ khó chịu. Chồng tôi từng ủng hộ đức tin của tôi vào Đức Chúa Trời, nhưng sau khi tôi được thả, anh đã làm khổ tôi và thường xuyên mắng mỏ tôi vô cớ. Con trai tôi không thể chịu đựng được những lời chế giễu và lăng mạ từ mọi người nên đã coi tôi như kẻ thù và phớt lờ tôi. Tất cả những điều này khiến tôi rất khó chịu. Đặc biệt là khi nhớ lại việc mình đã ký “Tam thư” dưới sự bức hại của con rồng lớn sắc đỏ, và do đó đã phạm trọng tội trước Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ không cứu rỗi tôi và các anh chị em sẽ xem thường tôi. Tôi cảm thấy như mình vừa rơi xuống vực sâu không đáy và sống qua ngày như một cái xác biết đi. Tôi đã sống trong tình trạng đau khổ và dằn vặt tột cùng, cảm giác như ngày nào mắt cũng đẫm lệ. Trong thời gian đó, tôi không thể đọc lời Đức Chúa Trời và không dám tiếp xúc với các anh chị em, nên thường đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện, xin Ngài dẫn dắt tôi hiểu ý muốn của Ngài.
Sau đó, tôi tìm cơ hội để đến nhà mẹ tôi. Bà đã thông công với tôi, bảo tôi đừng hiểu lầm Đức Chúa Trời và phải rút ra bài học trong những tình huống như thế này. Bà cũng lén cho tôi một bản sao lời Đức Chúa Trời để tôi mang về nhà. Một ngày nọ, tôi đã đọc được điều này trong lời Đức Chúa Trời: “Hầu hết mọi người đều có vi phạm trong quá khứ và những vết nhơ. Chẳng hạn như, một số người đã chống đối Đức Chúa Trời và nói những điều báng bổ; một số người đã từ chối sự ủy thác của Đức Chúa Trời và không thực hiện bổn phận của họ, rồi bị Đức Chúa Trời ghét bỏ; một số người đã phản bội Đức Chúa Trời khi họ phải đối mặt với những cám dỗ; một số người đã phản bội Đức Chúa Trời bằng việc ký tên vào ‘Tam thư’ khi họ bị bắt; một số người đã ăn cắp của lễ; một số người đã phung phí của lễ; một số người thường xuyên làm nhiễu loạn đời sống hội thánh và gây hại cho những người được Đức Chúa Trời chọn; một số người thì lập bè phái và trừng trị người khác, làm xáo trộn hội thánh; một số người thường xuyên truyền bá các quan niệm và cái chết, làm hại các anh chị em; và một số người thì lăng nhăng và dâm loạn, đã gây ảnh hưởng cực kỳ xấu. Điều đó đủ để nói rằng ai cũng có những vi phạm và vết nhơ. Ấy thế mà một số người có thể tiếp nhận lẽ thật và ăn năn trong khi những người khác thì lại không thể và có chết cũng không chịu ăn năn. Bởi vậy người ta nên được đối xử theo như thực chất bản tính của họ và những biểu hiện nhất quán của họ. Những người có thể ăn năn là những người thật sự tin Đức Chúa Trời, còn những kẻ thực sự không ăn năn, những kẻ đáng bị thanh trừ và khai trừ thì sẽ bị thanh trừ và khai trừ” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Mỗi người đã chấp nhận được chinh phục bằng lời Đức Chúa Trời sẽ có nhiều cơ hội để được cứu rỗi; sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời đối với từng con người này sẽ tỏ lòng khoan dung tột bậc của Ngài. Nói cách khác, họ sẽ được tỏ lòng khoan dung tột bậc. Chừng nào mà con người từ bỏ con đường sai trật của mình, và chừng nào mà họ có thể ăn năn, thì Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ cơ hội để có được sự cứu rỗi của Ngài” (Ngươi nên đặt các phước lành về địa vị sang một bên và hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời để mang sự cứu rỗi đến cho con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi cực kỳ xúc động. Tôi quỳ xuống đất và cầu nguyện với Đức Chúa Trời trong những giọt nước mắt đắng cay. Tôi thấy tâm tính công chính của Đức Chúa Trời không chỉ chứa đựng sự oai nghi và thịnh nộ, mà còn cả lòng thương xót và khoan dung đối với con người. Đức Chúa Trời rất công chính, và Ngài không định đoạt kết cục của con người dựa trên những vi phạm tạm thời của họ, mà dựa trên động cơ và bối cảnh hành động của họ, hậu quả hành động của họ, họ có thực sự ăn năn hay không và thái độ của họ đối với lẽ thật. Đức Chúa Trời căm ghét và khinh miệt sự phản bội của con người, nhưng Ngài cũng cứu rỗi con người ở mức độ lớn nhất có thể. Nếu ai đó chỉ phản bội Đức Chúa Trời trong phút yếu đuối, nhưng trong lòng không chối bỏ và phản bội Ngài, sẵn sàng ăn năn, thì Đức Chúa Trời sẽ thương xót và cho họ một cơ hội khác. Nhận ra điều này, tôi càng cảm thấy mang nợ Đức Chúa Trời và càng ân hận hơn. Tôi đã thề với Đức Chúa Trời rằng dù Ngài có còn cần tôi hay không, tôi cũng sẽ theo Ngài, kiên định theo đuổi lẽ thật và sự thay đổi tâm tính. Kể cả sau này không có kết cục tốt đẹp cho tôi, thì tôi cũng không hối tiếc.
Sau đó, tôi cứ luôn tự hỏi tại sao mình lại ký vào “Tam thư” và phản bội Đức Chúa Trời khi bị ĐCSTQ bắt bớ và bức hại. Tôi nghĩ về việc lúc đầu khi bị bắt, tôi đã muốn đứng vững trong lời chứng của mình, nhưng khi cảnh sát càng lúc càng uy hiếp và đe dọa tôi gay gắt hơn, và khi bệnh tật của tôi trở nên ngày càng nghiêm trọng, tôi đã đánh mất niềm tin và hoàn toàn khuất phục trước sự hèn nhát và sợ hãi. Tôi rất sợ nếu cảnh sát tiêm thuốc gây tâm thần phân liệt cho tôi hoặc cho tôi uống thuốc tác động thần kinh, và sau đó tôi vô thức phản bội các anh chị em, thì sự trừng phạt dành cho tôi sau này sẽ còn nặng nề hơn nữa, vì vậy tôi nghĩ tốt hơn là nên ký vào “Tam thư”. Tôi cho rằng chỉ cần lợi ích của hội thánh không bị tổn hại, thì sự trừng phạt sau này tôi nhận lãnh sẽ nhẹ hơn. Vì vậy, để bảo vệ tư lợi, tôi đã ký vào các lá thư và phản bội Đức Chúa Trời. Trên thực tế, Đức Chúa Trời đã cho phép con rồng lớn sắc đỏ bức hại tôi để hoàn thiện đức tin của tôi, để tôi có thể sống theo lời Đức Chúa Trời và đánh bại Sa-tan. Nhưng tôi đã không hề tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời, cũng không suy xét xem mình nên làm gì để đứng vững và làm hài lòng Đức Chúa Trời. Tôi chỉ nghĩ đến kết cục và đích đến của bản thân. Tôi thấy mình thật ích kỷ và đáng khinh! Hơn nữa, tôi đã luôn nghĩ rằng bất kể là hoàn cảnh nào, nếu ai đó phản bội Đức Chúa Trời, kết cục của họ cũng sẽ giống như Giu-đa, rằng họ nhất định sẽ bị trừng phạt. Nhưng đây hoàn toàn là những quan niệm và tưởng tượng của tôi. Đức Chúa Trời rất công chính, và Ngài dò xét tận đáy lòng người. Ngài quan sát mọi lời nói và việc làm của tôi. Nếu tôi phản bội các anh chị em để bảo vệ tư lợi, do đó trở thành đồng phạm và tay sai của con rồng lớn sắc đỏ, thì chắc chắn tôi sẽ có kết cục như Giu-đa và bị trừng phạt; nhưng nếu tôi bị cảnh sát ép phải dùng thuốc và tôi phản bội Đức Chúa Trời khi không làm chủ được bản thân, thì Đức Chúa Trời sẽ đối xử với tôi khác đi theo hoàn cảnh và bối cảnh. Nhưng tôi không biết tâm tính công chính của Đức Chúa Trời và không biết các tiêu chí của Ngài để định đoạt kết cục của con người. Tôi đã sống kẹt trong những quan niệm và tưởng tượng của riêng mình, trúng kế của Sa-tan và đã mắc phải một vi phạm nghiêm trọng. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời vẫn cho tôi cơ hội để ăn năn. Đây chính là lòng nhân từ của Đức Chúa Trời dành cho tôi.
Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời khác của Đức Chúa Trời: “Bất kể Sa-tan ‘hùng mạnh’ đến đâu, bất kể nó trơ tráo và tham vọng như thế nào, bất kể khả năng gây hại của nó lớn cỡ nào, bất kể những chiêu trò nó dùng để làm hư hoại và dụ dỗ con người có đa dạng ra sao, bất kể những trò bịp bợm và mưu đồ nó dùng để dọa dẫm con người có tinh ranh cỡ nào, bất kể hình thức tồn tại của nó có thể thay đổi như thế nào, thì nó cũng chưa bao giờ có thể tạo ra một sinh vật sống nào, chưa bao giờ có thể đặt ra các luật lệ và quy tắc cho sự tồn tại của muôn vật, nó chưa bao giờ có thể cai trị và kiểm soát bất kỳ vật gì, có sự sống hay không có sự sống. Trong khắp vũ trụ bao la rộng lớn, không có một người nào hay vật gì được sinh ra từ nó, hoặc tồn tại vì nó; không có một người nào hay vật gì bị nó cai trị hoặc bị nó kiểm soát. Ngược lại, nó không những phải sống dưới sự thống trị của Đức Chúa Trời, mà hơn thế nữa, còn phải thuận phục tất cả những lệnh truyền và mệnh lệnh của Đức Chúa Trời. Không có sự cho phép của Đức Chúa Trời, thì Sa-tan khó mà đụng đến thậm chí một giọt nước hay một hạt cát trên đất; không có sự cho phép của Đức Chúa Trời, Sa-tan thậm chí không được tự ý di chuyển những con kiến trên đất, chứ đừng nói đến loài người, những người đã được Đức Chúa Trời tạo ra” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi nhận ra rằng Đức Chúa Trời là Đấng có quyền quyết định mọi sự trong vũ trụ. Cho dù ĐCSTQ có xảo quyệt hay hung hãn đến đâu, chúng vẫn là con tốt trong tay Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sử dụng chúng như một công cụ để hoàn thiện những người được Ngài chọn. Nhưng tôi đã không biết về thẩm quyền của Đức Chúa Trời, và luôn lo rằng cảnh sát sẽ tiêm và cho tôi uống thuốc gây tâm thần phân liệt, rằng nếu tôi phản bội các anh chị em khi chưa hoàn toàn tỉnh táo, thì lợi ích của hội thánh có thể bị tổn hại rất nhiều. Thế nhưng, liệu tôi có bị cảnh sát cho uống những loại thuốc như vậy hay không và liệu tôi có mất kiểm soát ý thức hay không cũng đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Nếu không có sự cho phép của Đức Chúa Trời, cảnh sát không thể làm gì được tôi. Tôi thấy khi mọi chuyện xảy ra với mình, tôi thực sự không có đức tin vào Đức Chúa Trời, tôi không thể nhìn thấu những mánh khóe của Sa-tan và vóc giạc của tôi nhỏ bé đến thảm hại. Khi nhận ra điều này, tôi chỉ càng ân hận hơn. Tôi đã tin vào Đức Chúa Trời nhiều năm và đã được hưởng sự chăm tưới cũng như tiếp tế của quá nhiều lời Đức Chúa Trời, nhưng thực sự lại không biết nhiều về Đức Chúa Trời. Tôi thậm chí còn ký vào “Tam thư” và phản bội Đức Chúa Trời. Nghĩ vậy, tôi càng cảm thấy mang nợ Đức Chúa Trời nhiều hơn, vì vậy tôi đã cầu nguyện rằng: “Lạy Đức Chúa Trời! Nếu vẫn còn cơ hội, con sẵn sàng trải qua một lần bị bắt nữa, con muốn phản bội thân xác này, làm nhục con rồng lớn sắc đỏ và chuộc tội”.
Một ngày tháng 10 năm 2018, bảy tên cảnh sát mặc thường phục bất ngờ ập vào nhà tôi và bắt tôi. Tôi biết rằng đây là Đức Chúa Trời đang cho tôi một cơ hội để ăn năn. Không cần biết cảnh sát sẽ đánh chết tôi hay tống tôi vào tù, lần này tôi phải cậy dựa vào Đức Chúa Trời để đứng vững. Cảnh sát đưa tôi vào phòng thẩm vấn, còng tay tôi vào chiếc ghế hổ, túm tóc và tát vào mặt tôi khoảng hơn chục cái. Bị đánh khiến mặt tôi đau nhức nhối và lập tức sưng lên. Một tên cảnh sát hỏi tôi liệu tôi có biết cái này, cái kia không. Tôi trả lời là không. Thế là hắn nổi giận, lao đến và bắt đầu tát tôi thật mạnh. Tiếp theo, một tên cảnh sát khác yêu cầu tôi xác nhận tên của người lãnh đạo, nhưng tôi không trả lời. Hắn tức giận nắm lấy tai tôi, dùng móng tay từ từ bấm dọc vành tai tôi, vừa bấm vừa ép tôi trả lời. Tôi liên tục lắc đầu không nói gì. Hắn tức giận đến mức tìm một nắm kẹp kim loại, rồi nói với một nụ cười nham hiểm: “Nếu không nói, mày sẽ phải chịu khổ đấy!”. Hắn kẹp những chiếc kẹp kim loại lên vành tai tôi. Mỗi lần chiếc kẹp kẹp vào, cảm giác đau thấu tim, mặt tôi nhăn nhó, cả đầu tôi như bị quay trong lò nướng. Tôi nhắm mắt lại, nghiến răng nghiến lợi, và khi cơ thể bất giác rùng mình, tôi thầm liên tục cầu nguyện trong lòng, xin Đức Chúa Trời cho tôi quyết tâm chịu đựng. Tôi nhớ lại những lời này của Ngài: “Đức tin giống như một chiếc cầu độc mộc: Những ai tham sống sợ chết sẽ khó mà băng qua, nhưng những ai sẵn sàng hy sinh bản thân mình thì có thể băng qua, vững chân và không lo lắng gì. Nếu con người nuôi những ý niệm nhút nhát và sợ hãi, đó là vì Sa-tan đã lừa bịp họ, sợ chúng ta sẽ băng qua cây cầu đức tin để bước vào trong Đức Chúa Trời” (Những lời của Đấng Christ buổi ban đầu – Chương 6, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi nhận ra cảnh sát đang tra tấn tôi như vậy là vì chúng muốn tôi phản bội Đức Chúa Trời và bán đứng các anh chị em. Tôi không thể để Đức Chúa Trời thất vọng được. Tôi phải cậy dựa vào Đức Chúa Trời để đứng vững. Sau vài phút, cảnh sát gỡ mấy cái kẹp ra và mang đến một bức ảnh khác của một người chị em để tôi nhận dạng. Tôi nói: “Tôi không biết cô ta”. Tên cảnh sát tức giận giật bàn tay tôi ra trước mặt và kéo mạnh các ngón tay của tôi lên. Tôi hét lên đau đớn và nắm chặt tay theo bản năng, nhưng hắn đã kéo thẳng từng ngón tay của tôi và giật mạnh lên. Tôi cảm thấy như thể hắn đang bẻ các ngón tay tôi, và tôi đau dữ dội đến mức sắp gục ngã. Khi thấy tôi vẫn không khai, hai tên cảnh sát mở còng tay tôi, vặn hai tay tôi ra sau lưng, luồn hai tay tôi qua lỗ ở phần dưới của lưng ghế hổ rồi lại còng tôi lại, sau đó đè mạnh chiếc còng xuống. Cảm giác như bàn tay và cánh tay của tôi bị xé ra, và tôi đau đớn hét lên. Tôi cảm thấy trong lòng rất yếu đuối, vì vậy tôi đã nước mắt lưng tròng cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài cho tôi niềm tin và sự quyết tâm để chịu đựng đau khổ. Lúc này, tôi nhớ đến một bài thánh ca về lời Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng đứng đầu vạn vật, nắm giữ vương quyền của Ngài từ ngai Ngài. Ngài cai trị vũ trụ và vạn vật, và Ngài đang trong quá trình dẫn dắt chúng ta trên khắp thế gian. Chúng ta sẽ gần Ngài trong mọi khoảnh khắc, và đến trước Ngài trong sự tĩnh lặng, không bao giờ bỏ lỡ một khoảnh khắc nào, với những bài học cho chúng ta học hỏi mọi lúc” (Những lời của Đấng Christ buổi ban đầu – Chương 6, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời đã cho tôi sự khai sáng tôi cần, và đột nhiên lòng tôi cảm thấy bừng sáng hơn. Đức Chúa Trời Toàn Năng là vị Vua vĩ đại của vũ trụ, và Ngài có quyền quyết định mọi sự trong vũ trụ. Sự sống chết của tôi cũng nằm trong tay Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời không cho phép, cảnh sát không thể làm gì được tôi. Lũ ma quỷ này đã được Đức Chúa Trời cho phép tra tấn tôi như thế này, vì Đức Chúa Trời muốn hoàn thiện đức tin của tôi. Tôi cũng nhớ trước kia mình từng ký vào “Tam thư” và phản bội Đức Chúa Trời dưới sự bức hại của con rồng lớn sắc đỏ, nhưng Đức Chúa Trời đã không đào thải tôi vì sự vi phạm của tôi, mà dùng lời Ngài để an ủi và tiếp tế cho tôi. Lần này tôi không thể lại làm Đức Chúa Trời thất vọng nữa. Tôi phải đứng vững, hạ nhục Sa-tan và an ủi Đức Chúa Trời. Chúng nhấn mạnh lên còng tay tôi bốn lần liên tiếp, sau đó tôi cảm thấy chóng mặt, khắp người run rẩy, co giật, tưởng như sắp chết. Rồi cảnh sát tạt nước khoáng vào mặt tôi, và kéo cổ áo tôi ra, dội nước lạnh vào áo tôi. Tôi đang đầm đìa mồ hôi nên bị sốc nước lạnh đến mức toàn thân run lên bần bật. Một lúc sau, cảnh sát tắt đèn, bật hai chiếc đèn pin, chĩa những tia sáng cực mạnh vào mặt tôi rồi lệnh cho tôi phải giữ cho mắt mở và không được cử động. Tôi thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài không để tôi bán đứng các anh chị em hay phản bội Ngài.
Lúc đó, tôi nhớ đến bài thánh ca này “Con quyết tâm yêu Đức Chúa Trời”:
1 Lạy Đức Chúa Trời! Con đã thấy sự công chính và thánh khiết của Ngài thật đáng yêu mến. Con quyết tâm theo đuổi lẽ thật, và con quyết tâm yêu Ngài. Cầu mong Ngài mở đôi mắt thuộc linh của con ra, và cầu mong Thần của Ngài cảm thúc lòng con. Hãy làm sao cho con khi đến trước Ngài thì vứt bỏ được hết những gì tiêu cực, thôi bị ràng buộc bởi bất kỳ ai, việc gì hay sự gì, và trải lòng con hoàn toàn trước Ngài, và hãy làm sao cho con có thể dâng toàn bộ con người của con trước Ngài. Ngài có thể thử luyện con theo cách nào đi nữa, con cũng sẵn sàng. Giờ đây, con không quan tâm về tiền đồ tương lai của mình, con cũng không bị sự chết trói buộc. Với tấm lòng yêu kính Ngài, con khao khát tìm được con đường sự sống.
2 Mọi chuyện, mọi sự – tất cả đều nằm trong tay Ngài; số phận của con nằm trong tay Ngài, và Ngài nắm giữ chính sự sống của con trong tay Ngài. Giờ đây, con tìm cách để yêu mến Ngài, và cho dù Ngài có để cho con yêu Ngài hay không, cho dù Sa-tan làm nhiễu loạn thế nào, con vẫn quyết tâm yêu Ngài. Bản thân tôi sẵn sàng tìm kiếm Đức Chúa Trời và theo Ngài. Giờ đây kể cả khi Đức Chúa Trời muốn ruồng bỏ tôi, tôi vẫn sẽ theo Ngài. Dù Ngài có muốn tôi hay không, tôi vẫn sẽ yêu Ngài, và cuối cùng, tôi phải có được Ngài. Tôi dâng lòng mình cho Đức Chúa Trời, và bất kể Ngài làm gì, tôi cũng sẽ theo Ngài suốt cả đời tôi. Bất kể thế nào, tôi phải yêu Đức Chúa Trời và phải giành được Ngài; tôi sẽ không ngừng nghỉ cho đến khi tôi có được Ngài.
– Về việc thực hành cầu nguyện, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Khi liên tục ngâm nga bài thánh ca này trong đầu, tôi nhớ đến sự tử đạo của các thánh đồ trong suốt những thời đại đã qua. Ê-tiên bị ném đá đến chết, Gia-cốp bị chặt đầu, Phi-e-rơ bị đóng đinh ngược vì Đức Chúa Trời…. Tất cả đều hy sinh tính mạng mình để làm chứng cho Đức Chúa Trời, nhưng tôi chỉ mới chịu đựng một chút mà đã cảm thấy không thể chịu nổi nữa. Tôi thấy mình có quá ít đức tin, và tôi đã thầm thề với lòng rằng: Dù cảnh sát tra tấn tôi như thế nào, tôi cũng sẽ không bao giờ phản bội Đức Chúa Trời hay bán đứng các anh chị em. Kỳ diệu thay, những tia sáng mạnh từ hai chiếc đèn pin đang chiếu thẳng vào tôi, nhưng tôi không hề cảm thấy lóa mắt. Như thể tôi đang nhìn vào ánh sáng của hai ngọn nến. Tôi rất phấn khởi và thầm tạ ơn Đức Chúa Trời. Tôi biết rằng đây đều là sự chăm sóc và bảo vệ của Đức Chúa Trời. Sau đó, một tên cảnh sát nói: “Đối với những kẻ tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng như mày, con cái mày sẽ không được nhập ngũ hay làm việc trong cơ quan nhà nước đâu”. Hắn còn nói sẽ đăng ảnh tôi lên mạng và tung tin đồn rằng tôi đã phản bội hội thánh để tất cả các anh chị em đều loại bỏ tôi. Tôi biết đây chỉ là một trong những mánh khóe của chúng và đã không quy phục.
Khoảng 2 giờ chiều ngày hôm sau, một tên cảnh sát bước vào. Hắn cố lừa tôi bằng cách nói: “Giờ mày không muốn khai gì cũng không sao. Nếu mày viết thư từ bỏ đức tin vào Đức Chúa Trời, bọn tao sẽ cho mày về nhà và không bao giờ làm phiền mày nữa. Tao có thẩm quyền để hứa với mày điều đó”. Hắn cứ ép tôi viết thư, nhưng tôi từ chối. Trong cơn thịnh nộ, hắn lao tới tát tôi bảy, tám cái, sau đó một tên cảnh sát khác cũng tiến đến và đá dã man vào xương bắp chân của tôi, khiến tôi cảm thấy một cơn đau khủng khiếp chạy khắp người. Tôi bị còng tay sau lưng, và hắn dùng một tay ấn vào lưng tôi mạnh đến mức đầu tôi chạm vào tấm kim loại gắn phía trước ghế hổ, trong khi hắn lấy tay kia dùng hết sức đẩy còng tay tôi lên. Da thịt trên cổ tay tôi như bị tuốt khỏi xương. Tôi đau đớn hét lên. Lúc này, tên cảnh sát đang thẩm vấn tôi cũng đi tới, đá vào xương bắp chân của tôi và hét lên: “Mày muốn về nhà hay mày muốn Đức Chúa Trời của mày? Mày chỉ có thể chọn một. Giờ thì trả lời tao đi!”. Tôi không nói gì. Chúng ấn lưng tôi về phía trước hết mức có thể rồi đẩy còng tay tôi lên bốn lần nữa, và chỉ dừng lại khi thấy tôi bắt đầu co cứng. Tôi cảm thấy chóng mặt, cả hai tay đều tê dại, và cảm thấy ngực mình bắt đầu thắt lại, toàn thân co cứng và bắt đầu mất ý thức. Tôi cứ liên tục thầm cầu nguyện, xin Đức Chúa Trời đừng để tôi phản bội các anh chị em và Đức Chúa Trời. Dù cảnh sát có tra tấn tôi như thế nào, thì tôi cũng sẽ đứng vững và làm nhục con rồng lớn sắc đỏ. Cảnh sát lại tiếp tục thúc ép tôi với câu hỏi đó, rằng tôi muốn về nhà hay tôi muốn Đức Chúa Trời. Tôi nói: “Tôi sẽ không bao giờ rời bỏ Đức Chúa Trời!”. Một tên trong số chúng tức đến mức trừng mắt nhìn tôi và hét lên: “Mày cứng đầu đến mức mất trí rồi! Mày hoàn toàn hết thuốc chữa rồi!”. Cuối cùng, chúng không thể moi được gì từ tôi, vì vậy tôi được đưa đến trại tạm giam và rồi được thả sau 15 ngày bị giam giữ. Tôi biết rằng lần này, chính sự bảo vệ và dẫn dắt của Đức Chúa Trời đã cho phép tôi đứng vững.
Sau khi tôi trở về nhà, cảnh sát theo dõi tôi chặt chẽ hơn. Hội trưởng Hiệp hội Phụ nữ xã thường đến nhà hỏi thăm tình hình của tôi. Gia đình và hàng xóm cũng theo dõi tôi. Cảnh sát đến nhà tôi gần như hàng tháng để xem tôi có còn tin vào Đức Chúa Trời không. Tôi nhớ có một tháng, cảnh sát đến nhà tôi bốn lần. Vào tháng 10 năm 2020, ba đại diện từ chính quyền thị trấn đến và nói rằng: “Chúng tôi đã theo dõi cô trong ba năm. Hôm nay, chúng tôi đến đây để yêu cầu cô viết một lá thư hứa không tin vào Đức Chúa Trời, một lá thư phê bình và vạch trần và một lá thư cắt đứt quan hệ với hội thánh. Nếu cô làm như vậy, chúng tôi sẽ xóa tên cô khỏi danh sách đen. Chúng tôi sẽ không theo dõi cô nữa, cô có thể sống tự do như một người bình thường và tương lai của con trai cô sẽ không bị ảnh hưởng”. Khi nghe thấy vậy, tôi rất tức giận. Tôi nghĩ: “Các người thật đáng khinh! Các người thử mọi cách có thể nghĩ ra để khiến tôi phản bội Đức Chúa Trời, nhưng các người sẽ không lừa được tôi đâu!”. Tôi từ chối ngay lập tức. Sau đó, Bí thư huyện ủy nói: “Vậy sao chúng tôi không viết giùm cho cô nhỉ? Cô có thể giả vờ chép lại, và chúng tôi sẽ chụp ảnh cô để báo cáo vụ việc đã hoàn thành với cấp trên. Chúng tôi không muốn tiếp tục đến đây làm phiền cô nữa”. Những lời nói đạo đức giả của ông ta khiến tôi buồn nôn. Tôi nhớ lại việc trước đây mình từng mắc mưu Sa-tan để bảo vệ tư lợi và ký vào “Tam thư”, phản bội Đức Chúa Trời. Dấu ấn của sự sỉ nhục đó đã khắc sâu vào lòng tôi. Tôi thầm nghĩ: “Cho dù các người có theo dõi tôi suốt đời, có bắt bớ và kết án tôi, thì tôi cũng sẽ không bao giờ phản bội Đức Chúa Trời lần nữa”. Cuối cùng, thấy tôi kiên quyết, họ chán nản bỏ đi.
Sau hai lần bị bắt, mặc dù bị tra tấn và chịu muôn vàn khổ đau, nhưng tôi đã thu được rất nhiều. Tôi thấy mình thật ích kỷ, đáng khinh và không có đức tin thực sự vào Đức Chúa Trời. Tôi cũng hiểu được tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Tâm tính công chính của Đức Chúa Trời không chỉ oai nghi và thịnh nộ, mà còn đầy lòng thương xót và sự cứu rỗi lớn lao dành cho con người. Trong suốt cuộc hành trình này, tôi đã cảm nghiệm được tình yêu thương chân thật của Đức Chúa Trời dành cho tôi. Vì thế từ tận đáy lòng, tôi cảm tạ Đức Chúa Trời. Dù con đường phía trước có khó khăn, gian khổ đến đâu, tôi cũng sẽ theo Đức Chúa Trời đến cùng!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?