Mưu cầu lẽ thật là gì (6)

Các ngươi có nhớ nội dung chúng ta đã thông công trong buổi nhóm họp lần trước không? (Thưa, đầu tiên Đức Chúa Trời thông công về sự khác biệt giữa những gì con người coi là hành vi tốt so với việc sống thể hiện ra nhân tính bình thường như Đức Chúa Trời yêu cầu, sau đó thông công về đức hạnh của con người theo văn hóa truyền thống cũng như tóm tắt hai mươi mốt câu nói về đức hạnh của con người.) Trong buổi nhóm họp lần trước, Ta đã thông công về hai chủ đề. Đầu tiên, Ta thông công thêm một chút về chủ đề hành vi tốt, sau đó Ta thông công giới thiệu đơn giản một chút về phẩm chất, phẩm hạnh và đức hạnh của con người mà không đi sâu vào chi tiết. Chúng ta đã thông công vài lần về chủ đề mưu cầu lẽ thật là gì, và Ta đã thông công xong về tất cả những hành vi tốt liên quan đến việc mưu cầu lẽ thật mà cần được mặc khải và phân tích. Lần trước, Ta cũng đã thông công một chút về một số chủ đề cơ bản liên quan đến đức hạnh của con người. Mặc dù không cung cấp sự mặc khải hoặc mổ xẻ chi tiết về những câu nói về đức hạnh này, nhưng chúng ta có liệt kê khá nhiều ví dụ về những câu nói khác nhau về đức hạnh của con người – chính xác là hai mươi mốt câu. Hai mươi mốt ví dụ này về cơ bản là những câu nói khác nhau mà văn hóa truyền thống Trung Quốc tiêm nhiễm vào con người, bị chi phối bởi tư tưởng nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Ví dụ: chúng ta đã đề cập đến nhiều câu nói khác nhau về đức hạnh của con người liên quan đến trung, nghĩa, lễ, tín, cũng như cách người nam, người nữ, quan chức và trẻ em nên hành động, v.v. Bất kể hai mươi mốt câu nói này có toàn diện hay bao quát hay không, thì trong mọi trường hợp, về cơ bản chúng đều có thể đại diện cho tinh túy của các yêu cầu khác nhau mà văn hóa truyền thống Trung Quốc đặt ra liên quan đến đức hạnh của con người, từ cả hai khía cạnh tư tưởng và thực chất. Sau khi chúng ta liệt kê những ví dụ này, các ngươi đã suy ngẫm và thông công về chúng chưa? (Thưa, chúng con đã thông công một chút về chúng trong các buổi nhóm họp và thấy rất dễ nhầm lẫn một số câu nói này với lẽ thật. Ví dụ như “Giết người chẳng được ích gì, có thể tha cho người thì nên tha”, “Xả thân vì bạn bè”, cũng như “Hãy cố hết sức xử lý tốt bất cứ việc gì người khác giao phó cho mình” và một số câu nói khác.) Còn có “Nhận ơn một giọt, trả ơn một dòng”, “Quân tử nhất ngôn tứ mã nan truy”, “Đánh người chớ đánh vào mặt, vạch mặt người chớ vạch khuyết điểm”, “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người”, “Uống nước nhớ nguồn”, v.v. Xem xét kỹ lưỡng, các ngươi sẽ thấy rằng hầu hết mọi người, về cơ bản, hành xử và đánh giá về đức hạnh của bản thân mình hay người khác dựa trên những câu nói về đức hạnh này. Những điều này tồn tại trong lòng tất cả mọi người ở những mức độ khác nhau. Một lý do chính của việc này là môi trường xã hội mà người ta sống và nền giáo dục họ nhận được từ chính phủ, một lý do khác là do sự dạy dỗ họ nhận được từ gia đình và truyền thống tổ tiên truyền lại. Có những gia đình dạy con không bao giờ được bỏ túi của rơi nhặt được, số khác dạy con phải yêu nước và “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, bởi vì mọi gia đình đều nương tựa vào đất nước của họ. Một số gia đình dạy con “Giàu sang không mê hoặc nổi, nghèo hèn không lay chuyển nổi, uy lực không khuất phục nổi” và không bao giờ được quên cội nguồn của mình. Một số bậc phụ huynh dùng những câu nói rõ ràng để dạy con cái về đức hạnh, trong khi số khác không thể diễn đạt rõ ràng tư tưởng của mình về đức hạnh, nhưng lại là tấm gương cho con cái và dạy dỗ bằng cách làm gương, ảnh hưởng và giáo dục thế hệ sau thông qua lời nói và hành động của mình. Những lời nói và hành động này có thể bao gồm: “Nhận ơn một giọt, trả ơn một dòng”, “Lấy việc giúp người làm niềm vui”, “Ân trả nghĩa đền”, cũng như các câu nói nghe cao cả hơn như “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, v.v. Các chủ đề và tinh túy của những gì các bậc phụ huynh dạy con cái nói chung đều nằm trong phạm vi đức hạnh mà văn hóa truyền thống Trung Quốc yêu cầu. Điều đầu tiên giáo viên nói với học sinh khi đến trường là phải tử tế với người khác và lấy việc giúp người làm niềm vui, nhặt được của rơi đừng tham bỏ túi, và tôn sư trọng đạo. Khi học sinh học về văn học cổ Trung Quốc hoặc tiểu sử của các anh hùng thời xưa, chúng được dạy “Xả thân vì bạn bè”, “Trung thần không thờ hai vua, gái ngoan không lấy hai chồng”, “Cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi”, “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi”, v.v. Những điều này đều bắt nguồn từ văn hóa truyền thống. Các quốc gia cũng chủ trương và tuyên truyền những tư tưởng này. Trên thực tế, nền giáo dục quốc dân ít nhiều đề cao những điều giống như trong giáo dục gia đình – tất cả đều xoay quanh những tư tưởng này từ văn hóa truyền thống. Những tư tưởng bắt nguồn từ văn hóa truyền thống về cơ bản thấm nhuần tất cả các yêu cầu liên quan đến phẩm chất, đức hạnh, cách hành xử, v.v. của con người. Một mặt, chúng yêu cầu rằng con người bên ngoài phải thể hiện những phép tắc và cung cách xã giao, rằng con người phải hành động và cư xử theo cách người khác tán thành, rằng con người phải thể hiện những hành vi và hành động tốt cho người khác thấy, đồng thời che giấu những mặt tối trong thâm tâm mình. Mặt khác, chúng nâng thái độ, hành vi và hành động liên quan đến cách con người hành xử, đối nhân xử thế; cách con người đối xử với bạn bè và gia đình; và cách con người tiếp cận nhiều loại người và sự việc khác nhau, lên tầm đức hạnh, từ đó có được sự khen ngợi và tôn trọng từ người khác. Những yêu cầu mà văn hóa truyền thống đặt ra cho con người về cơ bản xoay quanh những điều này. Dù đó là những tư tưởng mà con người ủng hộ trên quy mô xã hội rộng lớn hay trên quy mô nhỏ là những tư tưởng về đức hạnh mà con người đề cao và tuân giữ trong gia đình, cũng như các yêu cầu đưa ra cho con người về cách hành xử – tất cả về cơ bản đều nằm trong phạm vi này. Vì vậy, trong nhân loại, bất kể đó là văn hóa truyền thống Trung Quốc, hay văn hóa truyền thống của các quốc gia khác bao gồm cả văn hóa phương Tây, thì những tư tưởng về đức hạnh này đều bao gồm những điều con người có thể đạt được và nghĩ ra; chúng là những việc con người có thể thực hiện dựa trên lương tâm và lý trí của mình. Ít nhất cũng có một số người có thể thực hiện một số hành vi đạo đức được yêu cầu. Những yêu cầu này chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi phẩm chất đạo đức, tính khí và sở thích của con người. Nếu không tin, ngươi cứ thử xem xét kỹ xem yêu cầu nào trong số những yêu cầu về đức hạnh của con người giải quyết được tâm tính bại hoại của họ. Những yêu cầu nào trong số đó giải quyết được thực tế con người chán ghét lẽ thật, không thích lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời từ trong chính thực chất của họ? Những yêu cầu nào trong số đó liên quan đến lẽ thật? Những yêu cầu nào trong số đó có thể lên đến tầm lẽ thật? (Thưa, không có.) Bất kể người ta nhìn nhận những yêu cầu này như thế nào, thì cũng không yêu cầu nào trong số đó có thể đạt đến tầm lẽ thật. Không yêu cầu nào trong số đó liên quan gì đến lẽ thật, không yêu cầu nào trong số đó can hệ gì dù là nhỏ nhất đến lẽ thật. Cho đến tận bây giờ, những người đã tin vào Đức Chúa Trời lâu năm, những người có một số trải nghiệm, và những người hiểu được chút lẽ thật mới có được một chút hiểu biết thực sự về vấn đề này; còn hầu hết mọi người vẫn chỉ lĩnh hội giáo lý, và đồng ý với tư tưởng này trên lý thuyết, trong khi chưa đạt được mức độ thực sự hiểu lẽ thật. Tại sao lại thế? Đó là bởi hầu hết mọi người chỉ đi đến chỗ hiểu rằng những khía cạnh này của văn hóa truyền thống không phù hợp với lẽ thật và không liên quan đến lẽ thật bằng cách so sánh những quy định này từ văn hóa truyền thống với những lời và yêu cầu của Đức Chúa Trời. Họ có thể hoàn toàn thừa nhận ngoài miệng rằng những điều này không liên quan gì đến lẽ thật, nhưng trong thâm tâm họ, những gì họ khao khát, tán thành, ưa thích và dễ dàng chấp nhận, về bản chất là những tư tưởng này, những thứ xuất phát từ văn hóa truyền thống của nhân loại mà một số trong số đó là những điều đất nước họ chủ trương và đẩy mạnh. Mọi người coi chúng là những điều tích cực hoặc coi chúng như lẽ thật. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Như các ngươi có thể thấy, những khía cạnh này của văn hóa truyền thống đã ăn sâu vào lòng người, không thể được loại bỏ và nhổ tận gốc trong một sớm một chiều được.

Dù hai mươi mốt yêu cầu về đức hạnh của con người mà chúng ta đã liệt kê chỉ là một phần trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, nhưng ở một mức độ nào đó, nó có thể đóng vai trò đại diện cho tất cả các yêu cầu mà văn hóa truyền thống Trung Quốc đặt ra đối với đức hạnh của con người. Từng câu một trong số hai mươi mốt câu nói này đều được con người coi là điều tích cực, cao quý và đúng đắn, và mọi người tin rằng những câu nói này giúp họ sống có phẩm giá và rằng chúng là một kiểu đức hạnh đáng ngưỡng mộ và kính trọng. Bây giờ chúng ta sẽ tạm gác lại những câu nói tương đối hời hợt như nhặt được của rơi đừng tham bỏ túi hoặc lấy việc giúp người làm niềm vui, mà thay vào đó nói về những giá trị đạo đức mà con người đặc biệt coi trọng và cho là cao đẹp. Chẳng hạn như câu nói: “Giàu sang không mê hoặc nổi, nghèo hèn không lay chuyển nổi, uy lực không khuất phục nổi” – cách đơn giản nhất để tóm tắt ý nghĩa câu này là không được quên cội nguồn của mình. Nếu một người có tư cách đạo đức này, thì mọi người sẽ nghĩ rằng họ có nhân cách thật cao đẹp và rằng họ thực sự “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Mọi người rất coi trọng điều này. Việc mọi người coi trọng điều này nghĩa là họ thực sự tán thành và đồng ý với câu nói dạng này. Và tất nhiên, họ cũng vô cùng ngưỡng mộ những người có thể thực hiện được giá trị đạo đức này. Có nhiều người tin vào Đức Chúa Trời, nhưng vẫn rất tán thành những điều được văn hóa truyền thống đề cao này, và họ sẵn sàng đưa những hành vi tốt đó vào thực hành. Những người này không hiểu lẽ thật: họ nghĩ rằng tin vào Đức Chúa Trời có nghĩa là trở thành một người tốt, giúp đỡ người khác, lấy việc giúp người làm niềm vui, không bao giờ lừa dối hoặc làm hại người khác, không mưu cầu những thứ trần tục, và không tham lam của cải hay lạc thú. Trong thâm tâm, họ đều đồng ý rằng câu nói “Giàu sang không mê hoặc nổi, nghèo hèn không lay chuyển nổi, uy lực không khuất phục nổi” là đúng. Một số người sẽ nói: “Nếu trước khi tin vào Đức Chúa Trời, một người đã tuân theo đức hạnh như “Giàu sang không mê hoặc nổi, nghèo hèn không lay chuyển nổi, uy lực không khuất phục nổi”, nếu họ là người cao cả, nhân hậu, không quên cội nguồn của mình, thì sau khi nhập đạo, họ sẽ nhanh chóng có thể làm vui lòng Đức Chúa Trời. Những người như thế rất dễ bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời – họ có thể nhận được phước lành của Ngài”. Nhiều người khi đánh giá và nhìn nhận người khác, họ không nhìn vào thực chất của người ta dựa trên lời Đức Chúa Trời và lẽ thật; thay vào đó lại đánh giá và nhìn nhận người ta theo những yêu cầu của văn hóa truyền thống về đức hạnh của con người. Từ góc độ này, chẳng phải những người không hiểu lẽ thật sẽ có khả năng lầm tưởng những điều con người cho là tốt và đúng là lẽ thật sao? Chẳng phải họ có khả năng coi những người mà con người cho là tốt là những người Đức Chúa Trời cho là tốt sao? Con người luôn muốn áp đặt tư tưởng riêng của mình lên Đức Chúa Trời – khi làm như vậy, chẳng phải họ đã phạm phải một sai lầm về nguyên tắc sao? Điều này chẳng phải là xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời sao? (Thưa, phải.) Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng. Nếu con người thực sự có lý trí thì họ nên tìm kiếm lẽ thật trong những vấn đề họ không thể nắm bắt, họ nên hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời, và không nên bất cẩn tuôn ra vô số điều vô nghĩa. Trong các tiêu chuẩn và nguyên tắc đánh giá con người của Đức Chúa Trời, có dòng nào nói rằng: “Những người không quên cội nguồn của mình là người tốt và họ có những đặc điểm của một người tốt” không? Đức Chúa Trời đã bao giờ phán điều gì như thế chưa? (Thưa, chưa.) Trong những yêu cầu cụ thể Đức Chúa Trời đã đặt ra cho con người, có bao giờ Ngài phán: “Nếu ngươi nghèo, ngươi không được trộm cắp. Nếu ngươi giàu, ngươi không được tà dâm. Khi phải đối mặt với sự hăm dọa hoặc đe dọa, ngươi không bao giờ được khuất phục” chưa? Lời Đức Chúa Trời có chứa đựng những yêu cầu như vậy không? (Thưa, không.) Quả thực là không. Rõ ràng là câu nói “Giàu sang không mê hoặc nổi, nghèo hèn không lay chuyển nổi, uy lực không khuất phục nổi” là do con người nói ra – nó không phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người, mâu thuẫn với lẽ thật, và về cơ bản không giống với lẽ thật. Đức Chúa Trời chưa bao giờ đòi hỏi các loài thọ tạo không được quên cội nguồn của mình. Không quên cội nguồn nghĩa là gì? Ta sẽ cho các ngươi một ví dụ: nếu tổ tiên của ngươi là nông dân, ngươi phải luôn lưu giữ ký ức về họ. Nếu tổ tiên của ngươi làm một nghề thủ công, ngươi phải giữ nghề và truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngay cả sau khi ngươi bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời, ngươi cũng không được quên những điều này – ngươi không được quên những lời dạy, nghề thủ công hay bất cứ điều gì tổ tiên truyền lại. Nếu tổ tiên ngươi là người ăn xin, thì ngươi phải giữ cây gậy họ dùng để đánh chó. Nếu tổ tiên đã từng phải ăn rau dại nuốt cám để sinh tồn, thì con cháu họ cũng phải cố mà ăn rau dại nuốt cám – đó là nhớ đến đau khổ của quá khứ để tận hưởng niềm vui hiện tại, đó là không quên cội nguồn của mình. Bất kể tổ tiên làm gì, ngươi cũng phải gìn giữ. Ngươi không được quên tổ tiên chỉ vì ngươi có học thức và địa vị. Người Trung Quốc kỹ nhất những điều này. Trong thâm tâm họ, dường như chỉ những người không quên cội nguồn mới có lương tâm và lý trí, và chỉ những người như vậy mới có thể hành xử ngay thẳng và sống có phẩm giá được. Quan điểm này có đúng không? Có điều gì giống như thế này trong lời Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời chưa bao giờ phán bất cứ điều gì như thế này. Từ ví dụ này, chúng ta có thể thấy rằng mặc dù một phạm vi đức hạnh có thể được con người coi trọng và khao khát, mặc dù nó có vẻ giống như một điều tích cực, một điều có thể điều chỉnh hành vi đạo đức của con người cũng như ngăn con người đi đường ác và trở nên suy đồi, và mặc dù nó được lưu hành trong nhân loại và được tất cả họ chấp nhận như một điều tích cực, nhưng nếu ngươi đối chiếu nó với lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, ngươi sẽ thấy những câu nói và suy nghĩ đến từ văn hóa truyền thống này hoàn toàn vô lý. Ngươi sẽ thấy rằng chúng đơn giản là không đáng nhắc đến, chúng thậm chí không có chút liên quan nào đến lẽ thật, và thậm chí còn xa rời những yêu cầu và ý muốn của Đức Chúa Trời. Khi cổ xúy những tư tưởng, quan điểm này, và đưa ra nhiều câu nói khác nhau về đức hạnh của con người, người ta chỉ đang dùng một số thứ vượt lên trên cõi tư tưởng của con người để thể hiện sự độc đáo và mới lạ, để phô trương sự vĩ đại và đúng đắn của bản thân, và để khiến mọi người tôn thờ mình. Dù ở phương Đông hay phương Tây, về cơ bản mọi người đều cùng chung suy nghĩ. Tư tưởng và xuất phát điểm của những yêu cầu mà mọi người ủng hộ và đưa ra về đức hạnh của con người, cũng như những mục đích họ mong muốn đạt được thông qua các yêu cầu đó về cơ bản đều giống nhau. Mặc dù người phương Tây không có những tư tưởng và quan điểm cụ thể như “Lấy đức báo oán” và “Nhận ơn một giọt, trả ơn một dòng” mà người phương Đông nhấn mạnh, và mặc dù họ không có những câu nói rõ ràng như những câu đến từ văn hóa truyền thống Trung Quốc, nhưng văn hóa truyền thống của chính họ cũng chỉ tràn ngập những tư tưởng này. Dù những điều chúng ta đang thông công và nói đến thuộc về văn hóa truyền thống Trung Quốc, nhưng ở một mức độ nào đó và về bản chất, những câu nói và yêu cầu về đức hạnh này đại diện cho những tư tưởng chủ đạo của toàn thể nhân loại bại hoại.

Hôm nay, chúng ta chủ yếu thông công về loại ảnh hưởng tiêu cực nào mà văn hóa truyền thống gây ra cho con người thông qua những câu nói và yêu cầu của nó về đức hạnh của con người. Sau khi hiểu điều này, điều quan trọng nhất tiếp theo mọi người cần hiểu là trên thực tế thì Đức Chúa Trời, Chúa của tạo vật, có những yêu cầu gì đối với hành vi đạo đức của nhân loại, Ngài đã phán cụ thể những gì, và Ngài đã đưa ra những yêu cầu gì. Đây là điều nhân loại phải hiểu được. Bây giờ chúng ta đã thấy rõ rằng văn hóa truyền thống thậm chí còn không có chút chứng ngôn nào về những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người hoặc những lời Ngài đã phán, và rằng con người chưa tìm kiếm lẽ thật về chủ đề này. Và như vậy, văn hóa truyền thống là thứ con người học đầu tiên và nó đã chi phối họ, nó đã đi vào lòng người, và nó đã dẫn dắt lối sống của nhân loại hàng nghìn năm nay. Đây là cách chính Sa-tan đã dùng để làm bại hoại nhân loại. Sau khi đã nhận thức rõ sự thật này, điều quan trọng nhất mọi người cần hiểu bây giờ là Chúa của tạo vật có những yêu cầu gì đối với loài người thọ tạo về nhân tính và đạo đức – hay nói cách khác, có những tiêu chuẩn nào đối với khía cạnh này của lẽ thật. Đồng thời, mọi người phải hiểu được điều nào sau đây là lẽ thật: các yêu cầu do văn hóa truyền thống đưa ra hay những gì Đức Chúa Trời yêu cầu ở nhân loại. Họ phải hiểu cái nào có thể làm cho tinh sạch và cứu rỗi con người, cũng như hướng dẫn họ đi con đường đúng đắn trong cuộc sống; và cái nào là ngụy biện, có thể đánh lừa và gây hại cho con người, đưa họ vào con đường sai trái, vào cuộc sống tội lỗi. Một khi con người đã có sự phân định này, họ có thể nhận ra rằng những yêu cầu của Chúa của tạo vật đối với nhân loại là chính đáng và phải đạo, và chúng là các nguyên tắc lẽ thật mà con người nên thực hành. Đối với những câu nói về đức hạnh và các tiêu chuẩn đo lường đạo đức từ văn hóa truyền thống mà ảnh hưởng đến việc mưu cầu lẽ thật của con người, cũng như quan điểm về con người và sự việc, cách hành xử và hành động của họ – nếu con người có thể phân định được chúng một chút, nhìn thấu và nhận ra rằng về bản chất chúng vô lý, đồng thời từ bỏ chúng trong lòng, thì một số nhầm lẫn hoặc vấn đề của con người liên quan đến đức hạnh có thể được giải quyết. Chẳng phải việc giải quyết những điều này sẽ làm giảm bớt khá nhiều trở ngại và khó khăn con người gặp phải trên con đường mưu cầu lẽ thật sao? (Thưa, phải.) Khi con người không hiểu lẽ thật, họ có thể nhầm lẫn những tư tưởng thường được thừa nhận về đức hạnh là lẽ thật, và theo đuổi, tuân theo chúng như thể chúng là lẽ thật. Điều này ảnh hưởng lớn đến khả năng hiểu và thực hành lẽ thật của con người, cũng như kết quả họ đạt được trong khi mưu cầu lẽ thật để đạt được sự chuyển hóa tâm tính. Đây là điều không ai trong số các ngươi muốn thấy; tất nhiên, đó cũng là điều Đức Chúa Trời không muốn thấy. Vì vậy, đối với những câu nói, tư tưởng và quan điểm được cho là tích cực về đức hạnh mà con người đề cao này, trước tiên con người phải nhận biết và phân định được chúng một cách rõ ràng trên cơ sở lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, đồng thời nhìn thấu bản chất của chúng, từ đó hình thành một đánh giá và vị trí chính xác cho những điều này trong thâm tâm họ, sau đó họ có thể đào chúng ra từng chút một, loại bỏ và từ bỏ chúng. Trong tương lai, mỗi khi con người thấy những câu nói được cho là tích cực đó mâu thuẫn với lẽ thật, họ nên chọn lẽ thật trước, chứ không phải những câu nói được cho là tích cực trong quan niệm của con người, bởi vì những câu nói được cho là tích cực này chỉ là quan điểm của con người và không thực sự phù hợp với lẽ thật. Bất kể chúng ta đang nói từ góc độ nào, thì mục đích chính của chúng ta khi thông công về những chủ đề này ngày hôm nay vẫn là để loại bỏ những trở ngại khác nhau nảy sinh trong quá trình con người mưu cầu lẽ thật, đặc biệt là những điều không chắc chắn nảy sinh trong tâm trí con người về lời Đức Chúa Trời và các tiêu chí của lẽ thật. Những điều không chắc chắn này có nghĩa là khi ngươi đang chấp nhận và thực hành lẽ thật, ngươi không thể phân biệt được đâu là những câu nói về đức hạnh mà nhân loại cổ xúy, đâu là yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với nhân loại, và đâu là những nguyên tắc và tiêu chí thực sự. Mọi người không rõ những điều này. Tại sao vậy? (Thưa, bởi vì họ không hiểu lẽ thật.) Một mặt, đó là vì họ không hiểu lẽ thật. Mặt khác, đó là vì họ thiếu sự phân định về những câu nói về đức hạnh do văn hóa truyền thống của nhân loại đưa ra và họ vẫn không thể nhìn thấu thực chất của những câu nói này. Cuối cùng, trong trạng thái đầu óc rối bời, ngươi sẽ xác định rằng những điều ngươi đã học được đầu tiên và ăn sâu vào tâm trí ngươi là đúng; ngươi sẽ xác định rằng những điều mọi người thường thừa nhận là đúng chính là điều đúng đắn. Rồi ngươi sẽ chọn những thứ ngươi thích, những thứ ngươi có thể đạt được, và những thứ phù hợp với sở thích cũng như quan niệm của ngươi; và ngươi sẽ tiếp cận, bám víu và tuân theo những điều này như thể chúng là lẽ thật. Và kết quả là hành vi và cách cư xử của con người, cũng như những gì họ mưu cầu, lựa chọn và bám vào, tất cả sẽ hoàn toàn không liên quan gì đến lẽ thật – tất cả sẽ thuộc về hành vi và biểu hiện đạo đức của con người, thứ nằm ngoài phạm vi lẽ thật. Con người tiếp cận và bám vào những khía cạnh này của văn hóa truyền thống như thể chúng là lẽ thật, trong khi gạt sang một bên và phớt lờ những lẽ thật về yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với hành vi của con người. Bất kể một người có bao nhiêu hành vi mà con người cho là tốt, họ cũng sẽ không bao giờ được Đức Chúa Trời tán thành. Đây là trường hợp người ta lãng phí rất nhiều công sức vào những thứ nằm ngoài phạm vi lẽ thật. Hơn nữa, bằng việc coi những thứ xuất phát từ con người và không phù hợp với lẽ thật này là lẽ thật, người ta đã lạc lối rồi. Con người đã học những khía cạnh văn hóa truyền thống này đầu tiên, và do đó bị chúng chi phối; những điều này làm phát sinh đủ loại quan điểm sai lầm trong họ, và chúng gây ra những khó khăn cũng như nhiễu loạn lớn cho con người khi họ cố gắng hiểu và thực hành lẽ thật. Mọi người đều tin rằng nếu họ có những hành vi đạo đức, thì Đức Chúa Trời sẽ tán thành họ, và rằng họ sẽ đủ tư cách để nhận được phước lành cũng như lời hứa của Ngài, nhưng liệu họ có thể chấp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời khi chứa chấp quan điểm và tâm thái này không? Tâm lý như vậy gây trở ngại lớn thế nào cho việc được làm tinh sạch và cứu rỗi của con người? Chẳng phải những tưởng tượng và quan niệm này sẽ khiến con người hiểu lầm, phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời sao? Đây chẳng phải là hậu quả sao? (Thưa, phải.) Ta đã ít nhiều bày tỏ ý nghĩa của việc thông công về chủ đề này, đại ý là thế.

Tiếp theo, chúng ta sẽ mổ xẻ và phân tích từng câu nói khác nhau của văn hóa truyền thống Trung Quốc về đức hạnh, rồi đưa ra kết luận về chúng. Bằng cách này, mọi người sẽ có một xác nhận và câu trả lời cơ bản về chúng, và ít nhất mọi người sẽ có một sự hiểu biết và quan điểm tương đối chính xác về những câu nói này. Chúng ta sẽ bắt đầu với câu nói đầu tiên: “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi”. Giải thích chính xác câu tục ngữ này như thế nào? (Thưa, nhặt được của rơi thì không được lấy và nhận là của mình. Nó đề cập đến một loại đạo đức và phong tục xã hội tốt đẹp.) Điều này có dễ làm không? (Thưa, tương đối dễ.) Đối với hầu hết mọi người, điều này dễ làm – nếu ngươi nhặt được của rơi, thì bất kể đó là gì, ngươi cũng không được giữ nó làm của riêng, bởi vì nó thuộc về người khác. Ngươi không xứng đáng có nó, và ngươi nên trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp của nó. Nếu không thể tìm thấy chủ sở hữu hợp pháp của nó, ngươi nên nộp cho cơ quan có thẩm quyền – trong mọi trường hợp, ngươi không nên lấy làm của riêng. Đây hết thảy là tinh thần không tham đồ của người khác và không lợi dụng người khác. Nó là một yêu cầu đặt ra đối với phẩm hạnh của con người. Mục đích của việc đặt ra loại yêu cầu này đối với phẩm hạnh của con người là gì? Khi mọi người có dạng đức hạnh này, nó sẽ có tác động tốt và tích cực đến bầu không khí xã hội. Mục đích của việc truyền cho mọi người những tư tưởng như vậy là để ngăn họ lợi dụng người khác, từ đó duy trì đức hạnh tốt của chính mình. Nếu ai cũng có loại đức hạnh tốt này, thì bầu không khí xã hội sẽ được cải thiện, và nó sẽ đạt đến mức ngoài đường không ai nhặt của rơi, ban đêm không ai cần khóa cửa. Với kiểu bầu không khí xã hội này, trật tự công cộng sẽ được cải thiện và con người có thể sống bình an hơn. Sẽ có ít trộm cắp và ít cướp giật hơn, ít đánh nhau và giết người để báo thù hơn; con người sống trong kiểu xã hội này sẽ có cảm giác an toàn và nhìn chung là hạnh phúc hơn. “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” là một yêu cầu đặt ra đối với đức hạnh của con người trong môi trường xã hội và môi trường sống. Mục đích của yêu cầu này là để bảo vệ bầu không khí xã hội và môi trường sống của con người. Điều này có dễ đạt được không? Bất kể con người có thể đạt được điều này hay không, thì những người đưa ra tư tưởng và yêu cầu này về đức hạnh của con người đều nhằm mục đích hiện thực hóa một bầu không khí xã hội và môi trường sống lý tưởng mà con người hằng mong ước. “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” không liên quan gì đến tiêu chí về cách hành xử của con người – nó chỉ đơn thuần là một yêu cầu đặt ra đối với đức hạnh của con người mỗi khi họ nhặt được của rơi. Nó hầu như không liên quan đến thực chất của con người. Nhân loại đã đưa ra yêu cầu này về đức hạnh của con người hàng ngàn năm rồi. Tất nhiên, khi mọi người tuân theo yêu cầu này, một quốc gia hoặc xã hội có thể trải qua một thời kỳ ít tội phạm hơn, và thậm chí có thể đạt đến mức ban đêm không ai cần khóa cửa, ngoài đường không ai nhặt của rơi, và đại đa số mọi người không bỏ túi của rơi nhặt được. Trong thời gian này, bầu không khí xã hội, trật tự công cộng và môi trường sống đều sẽ tương đối ổn định và hài hòa, nhưng bầu không khí và môi trường xã hội này chỉ có thể được duy trì tạm thời, hoặc trong một giai đoạn, hoặc trong một thời gian nhất định. Điều đó có nghĩa là con người chỉ có thể đạt được hoặc duy trì loại đức hạnh này trong một số môi trường xã hội nhất định. Ngay khi môi trường sống của họ thay đổi và bầu không khí xã hội cũ bị phá vỡ, thì rất có thể những đức hạnh như “nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” sẽ thay đổi, bên cạnh những biến đổi về môi trường xã hội, bầu không khí xã hội và xu hướng xã hội. Các ngươi thấy đấy, sau khi con rồng lớn sắc đỏ lên nắm quyền, nó đã dụ dân bằng cách tuyên truyền đủ loại câu nói để đảm bảo sự ổn định xã hội. Trong thập niên 1980, thậm chí còn có một bài hát nổi tiếng với lời như sau: “Tôi nhặt được một đồng xu bên đường và đưa cho chú công an. Chú công an cầm đồng xu và gật đầu với tôi. Tôi vui vẻ nói: ‘Tạm biệt chú!’”. Ngay cả một việc nhỏ như nộp một đồng xu cũng có vẻ như đáng được nhắc đến và ca ngợi – thật là một hành vi và luân lý đạo đức xã hội “cao đẹp”! Nhưng nó có thật sự như vậy không? Mọi người có thể giao nộp một đồng xu họ nhặt được cho công an, nhưng liệu họ có giao nộp một trăm nhân dân tệ hay một nghìn nhân dân tệ không? Khó nói lắm. Nếu một người phát hiện ra một số vàng, bạc, châu báu hay thứ quý giá hơn nữa, họ sẽ không thể kiểm soát được lòng tham của mình, con quái vật bên trong họ sẽ trỗi dậy, và họ có thể gây tổn hại và làm hại người, gài tội và đánh bẫy người – họ sẽ có khả năng chủ động cướp tiền của người và thậm chí giết người. Khi đó, văn hóa truyền thống và đức hạnh truyền thống tốt đẹp của con người sẽ còn lại gì? Khi đó, tiêu chí đạo đức “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” ở đâu? Nó cho chúng ta thấy điều gì? Cho dù người ta có tinh thần và đức hạnh này hay không, thì yêu cầu và câu nói này chỉ là thứ con người tưởng tượng, ao ước và mong muốn họ có thể thực hiện và đạt được. Trong những bối cảnh xã hội cụ thể, và trong những môi trường phù hợp, những người có một mức độ lương tâm và lý trí nhất định có thể thực hành việc không bỏ túi của rơi nhặt được, nhưng đây chỉ là một hành vi tốt nhất thời, nó không thể trở thành tiêu chí cho cách hành xử của họ hoặc cho sự sống của họ. Ngay khi môi trường xã hội và bối cảnh xã hội nơi những người đó sống thay đổi, thì giáo lý và hành vi đạo đức lý tưởng này theo quan niệm của con người sẽ rất xa vời với mọi người. Nó sẽ không thể thỏa mãn những ham muốn và tham vọng của họ, và tất nhiên càng không thể hạn chế những việc làm xấu xa của họ. Đó đơn thuần chỉ là một hành vi tốt nhất thời, và một phẩm chất đạo đức tương đối cao đẹp theo lý tưởng của con người. Khi nó mâu thuẫn với thực tế và tư lợi, khi nó mâu thuẫn với lý tưởng của con người, thì loại đạo đức này không thể kiềm chế hành vi của con người, không thể chỉ đạo hành vi và suy nghĩ của họ. Cuối cùng, người ta sẽ quyết định đi ngược lại nó, họ sẽ vi phạm quan niệm đạo đức truyền thống này và lựa chọn tư lợi. Vì vậy, khi nói đến đạo đức “nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi”, người ta có thể giao nộp một xu nhặt được cho công an. Nhưng nếu họ thấy một nghìn nhân dân tệ, mười nghìn nhân dân tệ hay một đồng tiền vàng, liệu họ có nộp cho công an không? Họ sẽ không thể. Khi lợi ích của việc lấy số tiền đó lớn hơn phạm vi mà đạo đức của con người có thể đạt đến, thì họ sẽ không thể nộp cho công an. Họ sẽ không thể thực hiện đạo đức “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi”. Vậy thì “không bỏ túi của rơi nhặt được” có phải là thực chất nhân tính một người không? Nó hoàn toàn không thể đại diện cho thực chất nhân tính của họ. Rất rõ ràng là yêu cầu này về đức hạnh của con người không thể được dùng làm cơ sở để đánh giá liệu một người có nhân tính hay không và không thể được dùng làm tiêu chí về cách hành xử của con người.

Việc đầu tiên nhìn xem một người có bỏ túi của rơi nhặt được hay không có phải là cách đánh giá chính xác đức hạnh và nhân phẩm của họ không? (Thưa, không.) Tại sao không? (Thưa, con người không có khả năng thực sự tuân theo yêu cầu đó. Nếu họ thấy một số tiền nhỏ hoặc một thứ giá trị nhỏ, họ sẽ có thể giao nộp, nhưng nếu đó là thứ có giá trị thì họ sẽ ít có khả năng làm như vậy hơn. Nếu đó là một món rất quý giá, họ thậm chí càng ít có khả năng giao nộp hơn – thậm chí có thể giữ chặt lấy nó bằng mọi giá.) Ý của ngươi là “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” không thể dùng làm tiêu chí để đánh giá nhân tính của con người vì con người không có khả năng làm được điều đó. Vậy nếu con người có thể tuân theo yêu cầu này, thì nó có được coi là một tiêu chí để đánh giá nhân tính của họ không? (Thưa, không.) Tại sao nó không được coi là tiêu chí đánh giá nhân tính của con người ngay cả khi họ có thể tuân theo? (Thưa, việc có hay không có khả năng tuân theo câu “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” của một người không thực sự phản ánh phẩm chất nhân tính của họ. Nó không liên quan gì đến việc nhân tính của họ tốt xấu thế nào, và nó không phải là một tiêu chí để đánh giá nhân tính của con người.) Đây là một cách hiểu vấn đề. Giữa việc một người không bỏ túi của rơi nhặt được và phẩm chất nhân tính của họ hầu như không liên quan đến nhau. Vậy nếu ngươi gặp một người thực sự có khả năng không bỏ túi của rơi nhặt được, ngươi sẽ nhìn nhận họ như thế nào? Ngươi có thể coi họ là một người có nhân tính, một người trung thực và một người quy phục Đức Chúa Trời không? Ngươi có thể xếp việc không bỏ túi của rơi nhặt được là một tiêu chuẩn của việc sở hữu nhân tính không? Chúng ta nên thông công về vấn đề này. Ai cho ý kiến nào? (Thưa, khả năng không bỏ túi của rơi nhặt được không liên quan đến việc xác định thực chất nhân tính của một người. Thực chất của họ được đánh giá theo lẽ thật.) Còn gì nữa không? (Thưa, một số người có thể thấy của rơi mà không bỏ túi, kể cả khi đó là một số tiền lớn, hoặc họ làm nhiều việc tốt khác tương tự, nhưng họ có mục đích và ý định riêng. Họ muốn được thưởng vì đã lập công và muốn có tiếng thơm, vì vậy những hành vi tốt đẹp bên ngoài của họ không thể quyết định phẩm chất nhân tính của họ.) Còn gì nữa không? (Thưa, giả sử một người có khả năng không bỏ túi của rơi nhặt được, nhưng họ lại tiếp cận lẽ thật với thái độ chống đối, với thái độ chán ghét lẽ thật. Nếu chúng ta đánh giá họ dựa trên lời Đức Chúa Trời, thì họ không có nhân tính. Vì vậy, việc sử dụng tiêu chuẩn này để đánh giá liệu một người có nhân tính hay không là không chính xác.) Một số người trong các ngươi đã nhận ra rằng sử dụng câu nói “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” để đánh giá liệu một người có nhân tính hay không là sai – các ngươi không đồng tình với việc lấy nó làm tiêu chuẩn để đánh giá một người có nhân tính hay không. Quan điểm này đúng. Bất kể một người có khả năng không bỏ túi của rơi nhặt được hay không, thì điều này cũng gần như không liên quan gì đến các nguyên tắc hành xử và con đường họ chọn. Tại sao Ta nói thế? Trước hết, khi một người không bỏ túi của rơi nhặt được, điều này chỉ thể hiện một hành vi nhất thời. Rất khó nói liệu họ làm điều đó vì thứ họ nhặt được là vô giá trị hay vì người khác đang nhìn vào họ và họ muốn có được sự khen ngợi và tôn trọng của người khác. Ngay cả khi hành động của họ là thuần khiết, thì đó cũng chỉ là một loại hành vi tốt, và hầu như không liên quan đến sự mưu cầu cũng như cách hành xử của họ. Cùng lắm chỉ có thể nói người này có chút hành vi tốt và tính cách cao thượng. Mặc dù hành vi này không thể được coi là một điều tiêu cực, nhưng nó cũng không thể được xếp là một điều tích cực, và một người chắc chắn không thể được xác định là tích cực chỉ vì không bỏ túi của rơi nhặt được. Đó là bởi vì nó không liên quan gì đến lẽ thật, và nó không liên quan gì đến yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người. Một số người nói: “Sao nó có thể không phải là điều tích cực được? Một hành vi cao đẹp như vậy sao lại không thể coi là tích cực được? Nếu một người vô đạo đức và thiếu nhân tính, liệu họ có khả năng không bỏ túi của rơi nhặt được không?”. Đó không nhất thiết là một cách đặt vấn đề chính xác. Ma quỷ có khả năng làm một vài điều tốt – vậy ngươi có thể nói rằng đó không phải là ma quỷ không? Một số quỷ vương làm một hai việc tốt để tạo dựng tên tuổi và củng cố vị trí của mình trong lịch sử – vậy ngươi có gọi chúng là người tốt không? Ngươi không thể xác định liệu một người có nhân tính hay không, hay phẩm chất của họ tốt hay xấu, chỉ dựa trên cơ sở một điều tốt hay xấu họ đã làm. Để đánh giá chính xác, ngươi phải căn cứ vào cách cư xử nói chung của họ và việc họ có những tư tưởng, quan điểm đúng đắn hay không. Nếu một người có thể trả lại một món đồ vô cùng giá trị mình nhặt được cho chủ sở hữu hợp pháp của nó, thì điều này chỉ cho thấy họ không tham lam và họ không tham đồ của người khác. Họ có khía cạnh đạo đức tốt đẹp này, nhưng điều này có liên quan gì đến cách hành xử và thái độ của họ đối với những điều tích cực không? (Thưa, không.) Một số người có thể sẽ không đồng ý với điều này, họ sẽ cho rằng khẳng định này hơi chủ quan và không chính xác. Tuy nhiên, xét từ một góc độ khác, nếu một người đánh mất thứ gì đó hữu ích, chẳng phải họ sẽ rất lo lắng sao? Cho nên, đối với người nhìn thấy của rơi, dù họ nhìn thấy đồ gì thì đó cũng không phải là của họ, vì thế họ không nên giữ. Cho dù đó là vật chất hay tiền bạc, cho dù nó giá trị hay vô giá trị, thì nó cũng không thuộc về họ – vì vậy chẳng phải nghĩa vụ của họ là trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp của nó sao? Đây chẳng phải là điều mọi người nên làm sao? Giá trị của việc đẩy mạnh điều này là gì? Chẳng phải đây là phóng đại sao? Chẳng phải là nói quá lên khi coi việc không bỏ túi của rơi nhặt được là một loại phẩm chất đạo đức cao quý và nâng nó lên một cảnh giới tinh thần cao cả sao? Đây có phải là một hành vi tốt đáng nhắc đến giữa những người tốt không? Còn rất nhiều hành vi tốt đẹp và cao cả hơn hành vi này, nên việc không bỏ túi của rơi nhặt được không có gì đáng nói. Tuy nhiên, nếu ngươi tuyên truyền và khuyến khích mạnh mẽ hành vi tốt đẹp này cho những người ăn xin và kẻ trộm cắp, thì điều đó sẽ là phù hợp và có thể có tác dụng nhất định. Nếu một quốc gia khuyến khích mạnh mẽ việc “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi”, thì điều đó cho thấy rằng người dân ở đó đã rất xấu xa, rằng đất nước này tràn lan trộm cướp và đề phòng chúng cũng vô ích. Vì vậy, cách duy nhất của họ là đề xướng và tuyên truyền loại hành vi này để giải quyết vấn đề. Trên thực tế, hành vi này luôn là nghĩa vụ của mọi người. Ví dụ: nếu một người nhìn thấy năm mươi nhân dân tệ trên đường và dễ dàng trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp của nó, thì chẳng phải điều đó quá tầm thường đến mức không đáng nhắc đến sao? Nó có thực sự cần phải được khen ngợi không? Có cần thiết phải làm to chuyện như vậy, và ca ngợi người này, thậm chí tuyên dương họ vì đã có một hành vi đạo đức cao thượng và đáng tôn vinh, chỉ vì họ đã trả lại tiền cho người đánh mất không? Trả lại tiền bị mất cho chủ sở hữu hợp pháp chẳng phải chỉ là điều bình thường và tự nhiên phải làm sao? Đây chẳng phải là điều mà người có lý trí bình thường nên làm sao? Thậm chí một đứa trẻ bé tí chưa hiểu đạo đức xã hội cũng có thể làm được, vậy có thực sự cần thiết phải làm lớn chuyện như vậy không? Hành vi này có thực sự đáng được nâng lên tầm đức hạnh của con người không? Theo Ta, nó không thể được nâng lên tầm đó, và nó không đáng được khen ngợi. Nó chỉ là một hành vi tốt nhất thời và về căn bản không liên quan đến việc thực sự là một người tốt. Không bỏ túi của rơi nhặt được là một chuyện rất nhỏ. Đó là điều mà bất kỳ người bình thường nào và bất kỳ ai khoác lên mình bộ da người hoặc nói tiếng người đều có thể làm được. Đó là điều con người có thể làm được nếu gắng sức, không cần nhà giáo dục hay nhà tư tưởng nào phải dạy. Một đứa trẻ ba tuổi có thể làm được điều này, thế mà các nhà tư tưởng và nhà giáo dục lại coi đó là một yêu cầu cốt yếu về đức hạnh của con người, và làm như vậy là họ đã làm quá lên rồi. Mặc dù “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” là một câu nói đánh giá đức hạnh của con người, nhưng về cơ bản nó không lên đến tầm đo lường xem một người có nhân tính hay đức hạnh cao thượng hay không. Vì vậy, việc dùng câu “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” để đánh giá phẩm chất nhân tính của một người vừa không chính xác, vừa không phù hợp.

“Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” là yêu cầu hời hợt nhất của văn hóa truyền thống về luân lý đạo đức. Mặc dù mọi xã hội loài người đều đã khuyến khích và giảng dạy loại tư tưởng này, nhưng bởi vì con người có tâm tính bại hoại và do sự tràn lan của các xu hướng xấu xa của nhân loại, nên cho dù con người có thể thực hành “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” hoặc có loại hành vi đạo đức tốt đẹp này trong một thời gian, thì điều đó cũng không thay đổi được sự thật rằng những tâm tính bại hoại của con người đang không ngừng chi phối suy nghĩ và hành vi của họ, đồng thời cũng chi phối và khống chế cách hành xử và sự mưu cầu của họ. Những lần có hành vi đạo đức tốt nhất thời không ảnh hưởng gì đến việc mưu cầu của một người, và chắc chắn không thể thay đổi sự tâng bốc, ngưỡng mộ và chạy theo những xu hướng xấu xa của một người. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, phải.) Vì vậy, bài hát mọi người hát trong quá khứ: “Tôi nhặt được một đồng xu bên đường và đưa cho chú công an” bây giờ không gì khác hơn một bài đồng dao. Nó đã trở thành ký ức. Con người thậm chí không thể tuân theo hành vi tốt cơ bản là không bỏ túi của rơi nhặt được. Con người mong muốn thay đổi những mưu cầu và tâm tính bại hoại của nhân loại bằng cách khuyến khích những hành vi đạo đức tốt, và họ cố gắng ngăn chặn sự suy đồi của nhân loại cũng như sự suy đồi từng ngày của xã hội, nhưng cuối cùng họ đã không đạt được những mục tiêu này. Đức hạnh “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” chỉ có thể tồn tại trong thế giới lý tưởng của con người. Con người coi đạo đức này như một dạng lý tưởng, như một khát vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Đạo đức này tồn tại trong thế giới tinh thần của con người. Đó là một dạng hy vọng con người đặt vào thế giới của tương lai, nhưng nó không tương hợp với thực tế cuộc sống của con người và với nhân tính thực sự của con người. Nó mâu thuẫn với các nguyên tắc hành xử của con người và con đường mọi người đi, cũng như những gì họ mưu cầu, và những gì họ phải sở hữu và đạt được. Nó không tương hợp với những biểu hiện và sự bộc lộ của nhân tính bình thường, cũng như với các nguyên tắc cho mối quan hệ giữa người với người và các nguyên tắc hành sự. Vì vậy, tiêu chuẩn đánh giá đạo đức của nhân loại này đã luôn vô giá trị tự cổ chí kim. Tư tưởng và quan điểm “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” mà con người đề cao này cực kỳ vô nghĩa, và hầu hết mọi người đều phớt lờ nó, bởi vì nó không thể thay đổi được phương hướng hành xử hay sự mưu cầu của họ, và nó chắc chắn không thể thay đổi được sự suy đồi, ích kỷ, tư lợi của con người, hay xu hướng ngày càng lao vào cái ác của họ. Yêu cầu hời hợt nhất “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” này đã trở thành một trò đùa châm biếm, hài hước. Giờ đây, ngay cả trẻ con còn không muốn hát bài “Tôi nhặt được một đồng xu bên đường” – nó thậm chí chẳng có một chút ý nghĩa gì. Trong một thế giới đầy những chính trị gia tham nhũng, bài hát này đã trở nên rất mỉa mai. Thực tế mà mọi người đều nhận thức rõ là người ta có thể giao nộp một xu bị mất cho công an, nhưng nếu họ nhặt được một triệu nhân dân tệ, hay mười triệu nhân dân tệ, thì chúng sẽ chui ngay vào túi họ. Từ hiện tượng này, chúng ta có thể thấy rằng những nỗ lực của con người nhằm thúc đẩy nhu cầu về đức hạnh này đối với nhân loại đã thất bại. Điều này có nghĩa là con người không có khả năng thực hành ngay cả những hành vi tốt cơ bản. Không có khả năng thực hành ngay cả những hành vi tốt cơ bản có nghĩa là gì? Có nghĩa là con người không có khả năng thực hành ngay cả những điều cơ bản họ nên làm – chẳng hạn như không lấy của rơi nhặt được nếu nó thuộc về người khác. Hơn nữa, khi con người làm điều sai trái, họ sẽ không nói một lời trung thực nào về điều đó, họ thà chết chứ không chịu thừa nhận việc làm sai trái của mình. Họ thậm chí không thể tuân theo một điều cơ bản như không nói dối, vì vậy họ chắc chắn không có tư cách để nói về đạo đức. Họ thậm chí còn không muốn có lương tâm và lý trí thì làm sao có thể nói về đạo đức được? Quan lại và người cầm quyền vắt óc nghĩ cách để moi móc, vơ vét thêm lợi lộc từ người khác, và chiếm đoạt những thứ không phải của mình. Ngay cả luật pháp cũng không thể ngăn cản họ – tại sao thế? Con người đã đi đến mức độ này như thế nào? Tất cả đều do những tâm tính Sa-tan bại hoại của con người, cũng như sự điều khiển và thống trị của bản tính Sa-tan của họ, dẫn đến đủ loại hành vi giả dối, gây hại. Những kẻ giả hình này làm nhiều điều đê hèn và vô liêm sỉ dưới chiêu bài “phục vụ nhân dân”. Chẳng phải chúng đã mất hết ý thức xấu hổ sao? Hiện nay, có rất nhiều người giả hình. Trong một thế giới mà kẻ ác hoành hành còn người tốt bị áp bức, thì một giáo lý như “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” đơn giản là không có khả năng kiềm chế những tâm tính bại hoại của con người, và đơn giản là không thể chuyển hóa được thực chất bản tính của họ hay con đường họ đi.

Các ngươi đã hiểu những điều Ta vừa phán trong buổi thông công này về chủ đề “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” chưa? Ý nghĩa của câu nói này đối với con người bại hoại là gì? Đạo đức này nên được hiểu như thế nào? (Thưa, “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” không liên quan gì đến cách hành xử của con người hay con đường họ đi. Nó không thể thay đổi con đường mà con người đi.) Đúng vậy, việc mọi người đánh giá nhân tính của một người dựa trên câu nói “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” là không phù hợp. Không thể dùng câu nói này để đánh giá nhân tính của một con người, và dùng nó để đánh giá đức hạnh của con người cũng là sai. Đó chẳng qua chỉ là một hành vi nhất thời của con người. Nó đơn giản là không thể được dùng để đánh giá thực chất của một người. Những người đưa ra câu nói về luân lý đạo đức: “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” – những người gọi là những nhà tư tưởng và nhà giáo dục này – là những người theo chủ nghĩa lý tưởng. Họ không hiểu được nhân tính hoặc thực chất của con người, và họ không hiểu được con người đã trở nên suy đồi và bại hoại đến mức độ nào. Như vậy, câu nói về luân lý đạo đức họ đưa ra này rất sáo rỗng, nó đơn giản là không thực tế, và nó không phù hợp với hoàn cảnh thực tế của con người. Câu nói về đức hạnh này thậm chí không liên quan chút nào đến thực chất của con người hay đến những tâm tính bại hoại khác nhau mà con người bộc lộ, hay đến những quan niệm, quan điểm và hành vi có thể nảy sinh nơi con người trong lúc họ bị tâm tính bại hoại chi phối. Đây là một điểm. Một điểm nữa là việc không bỏ túi của rơi nhặt được chỉ là điều một người bình thường nên làm. Ví dụ: cha mẹ ngươi sinh ra ngươi và nuôi nấng ngươi, khi ngươi còn ngu muội và non nớt, ngươi chỉ biết xin cha mẹ cho cơm ăn áo mặc. Nhưng một khi ngươi đã trưởng thành và hiểu chuyện hơn, ngươi tự nhiên biết yêu thương cha mẹ rất nhiều, tránh làm họ lo lắng hay tức giận, cố gắng không để cho họ phải làm lụng hay chịu khổ thêm, và tự làm mọi việc trong khả năng của mình. Ngươi tự nhiên hiểu ra những điều này mà không cần ai dạy. Ngươi là một con người, ngươi có lương tâm và lý trí, vì vậy ngươi có thể làm và nên làm những việc này – thậm chí bất kỳ việc nào trong số này cũng không đáng nói đến. Khi nâng câu “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” lên tầm tính cách đạo đức cao thượng, mọi người đang làm quá lên, dẫn dắt chuyện đi hơi quá xa; hành vi này không nên được định nghĩa theo cách đó, phải không? (Thưa, phải.) Từ đây có thể rút ra điều gì? Làm những gì mình nên làm và có thể làm trong phạm vi nhân tính bình thường là một dấu hiệu của người có nhân tính bình thường. Điều này có nghĩa là nếu một người có lý trí bình thường, họ có thể làm những việc mà người có nhân tính bình thường sẽ nghĩ đến và ý thức là mình nên làm – đây chẳng phải là một hiện tượng rất bình thường sao? Nếu ngươi làm một việc mà bất kỳ ai có nhân tính bình thường đều làm được, thì có thể thực sự gọi đó là một đức hạnh tốt không? Có cần phải khuyến khích nó không? (Thưa, không cần.) Điều này có thực sự được coi là nhân tính cao thượng không? Nó có được coi là có nhân tính không? (Thưa, không.) Thể hiện những hành vi như vậy không nâng một người lên tầm có nhân tính. Nếu ngươi nói rằng một người có nhân tính, điều đó có nghĩa là quan điểm và lập trường họ nhìn nhận vấn đề tương đối tích cực, cách thức và phương pháp xử lý vấn đề của họ cũng vậy. Dấu hiệu của sự tích cực là gì? Người đó sẽ có lương tâm, có liêm sỉ. Một dấu hiệu khác của sự tích cực là ý thức công chính. Người này có thể có một số thói quen xấu như ngủ trễ dậy muộn, kén ăn, hay thích những món ăn đậm đà, nhưng ngoài những thói quen xấu này, họ sẽ có những ưu điểm nhất định. Họ sẽ có những nguyên tắc và giới hạn trong cách hành xử và hành động của mình; họ sẽ có liêm sỉ và ý thức công chính; và họ sẽ có nhiều điểm tích cực hơn và ít điểm tiêu cực hơn. Nếu họ có thể tiếp nhận và thực hành lẽ thật thì còn tốt hơn nữa và họ sẽ dễ dàng cất bước trên con đường mưu cầu lẽ thật. Ngược lại, nếu một người yêu cái ác; mưu cầu danh, lợi, địa vị; thích tiền; thích sống xa hoa; và tận hưởng thời gian nhàn rỗi để tìm lạc thú, thì quan điểm mà họ nhìn nhận con người và sự vật, nhân sinh quan và giá trị quan của họ đều sẽ tiêu cực và u ám, và họ sẽ không có liêm sỉ cũng như ý thức công chính. Loại người này sẽ không có nhân tính, và chắc chắn họ sẽ không dễ dàng tiếp nhận lẽ thật hoặc đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Đây là một nguyên tắc đơn giản để đánh giá con người. Việc đánh giá đức hạnh của một người không phải là tiêu chuẩn để đo lường xem họ có nhân tính hay không. Để đánh giá một người là tốt hay xấu, ngươi phải đánh giá họ dựa trên nhân tính của họ, chứ không phải đức hạnh của họ. Đức hạnh có xu hướng hời hợt, và nó bị ảnh hưởng bởi bầu không khí xã hội, nền tảng và hoàn cảnh của một người. Một số cách tiếp cận và biểu hiện thay đổi liên tục, vì vậy rất khó để xác định phẩm chất nhân tính của một người chỉ dựa trên đức hạnh của họ. Ví dụ: một người có thể rất tôn trọng đạo đức xã hội, và đi đâu cũng tuân thủ quy tắc. Họ có thể thể hiện sự kiềm chế trong mọi việc mình làm, tuân thủ luật pháp của chính phủ, và kiềm chế không gây náo loạn nơi công cộng hoặc xâm phạm lợi ích của người khác. Họ cũng có thể tôn trọng và giúp đỡ người khác, quan tâm đến trẻ nhỏ và người già. Có phải việc người này có rất nhiều điểm tốt nghĩa là họ đang sống thể hiện ra nhân tính bình thường và họ là một người tốt không? (Thưa, không.) Một người có thể thực hành “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” rất tốt, họ có thể kiên vững tuân theo đức hạnh mà nhân loại đề cao và ủng hộ này, nhưng nhân tính của họ như thế nào? Việc họ thực hành không bỏ túi của rơi nhặt được không nói lên điều gì về nhân tính của họ – hành vi đạo đức này không thể được dùng để đánh giá nhân tính của họ tốt hay xấu. Vậy nên đo lường nhân tính của họ bằng cách nào? Các ngươi phải lột bỏ lớp vỏ bọc đức hạnh này ra, đồng thời bỏ đi những hành vi và đạo đức mà con người cho là tốt, đó là mức tối thiểu mà bất kỳ con người nào có nhân tính bình thường đều có khả năng đạt được. Sau đó, hãy nhìn vào những biểu hiện quan trọng nhất của họ, chẳng hạn như các nguyên tắc hành xử của họ, và những ranh giới họ sẽ không vượt quá trong cách cư xử của mình, cũng như thái độ của họ đối với lẽ thật và Đức Chúa Trời. Đây là cách duy nhất để nhìn thấy thực chất nhân tính và bản tính bên trong của họ. Nhìn người theo cách này tương đối khách quan và chính xác. Đến đây khép lại cuộc thảo luận của chúng ta về đức hạnh: “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi”. Tất cả các ngươi đã hiểu mối thông công này chưa? (Thưa, rồi.) Ta thường lo các ngươi chưa thực sự hiểu những điều Ta phán, lo các ngươi chỉ hiểu một chút về giáo lý liên quan, nhưng vẫn chưa hiểu được những phần liên quan đến thực chất của vấn đề. Vì vậy, Ta chỉ có thể giải thích thêm một chút về tư tưởng. Chỉ khi có cảm giác các ngươi đã hiểu, Ta mới thấy nhẹ nhõm. Làm thế nào Ta có thể biết được các ngươi đã hiểu? Khi Ta nhìn thấy vẻ vui mừng trên khuôn mặt các ngươi, có lẽ các ngươi đã hiểu những gì Ta đang phán. Nếu Ta có thể đạt được điều đó, thì nói thêm một chút về chủ đề này cũng đáng.

Ít nhiều Ta đã thông công xong về câu nói “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi”. Mặc dù Ta chưa nói trực tiếp với các ngươi luân lý đạo đức này mâu thuẫn với lẽ thật như thế nào, hay tại sao nó không thể được nâng lên ngang tầm với lẽ thật, hay Đức Chúa Trời đặt ra những yêu cầu gì đối với hành vi và đạo đức của con người, nhưng chẳng phải Ta đã đề cập đến tất cả những điều này sao? (Thưa, phải.) Nhà Đức Chúa Trời có đề cao những đức hạnh như “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” không? (Thưa, không.) Vậy thì nhà Đức Chúa Trời xem câu nói này như thế nào? Các ngươi có thể chia sẻ hiểu biết của mình. (Thưa, “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” chỉ là điều mà bất cứ ai có nhân tính bình thường nên tuân theo và thực hiện, không cần phải đề cao. Ngoài ra, “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” chỉ là một biểu hiện đạo đức của con người, nó không liên quan đến nguyên tắc hành xử của con người, đến cách họ nhìn nhận họ về việc mưu cầu của mình, đến con đường họ đi, hoặc đến phẩm chất nhân tính của họ.) Đức hạnh có phải là một dấu hiệu của nhân tính không? (Thưa, đó không phải là một dấu hiệu của nhân tính. Một số khía cạnh của đức hạnh chỉ là những thứ mà người có nhân tính bình thường nên có.) Khi nhà Đức Chúa Trời nói về nhân tính và những người biết phân định, thì chủ yếu là trong bối cảnh mưu cầu lẽ thật. Nói chung, nhà Đức Chúa Trời sẽ không đánh giá đức hạnh của một người như thế nào – ít nhất, nhà Đức Chúa Trời sẽ không đánh giá liệu một người có thể tuân theo câu nói: “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” hay không. Nhà Đức Chúa Trời sẽ không xem xét điều này. Thay vào đó, nhà Đức Chúa Trời sẽ xem xét phẩm chất nhân tính của người đó, liệu họ có yêu những điều tích cực và lẽ thật hay không, và họ có thái độ như thế nào đối với lẽ thật và Đức Chúa Trời. Một người có thể không bỏ túi của rơi nhặt được khi ở trong xã hội thế tục, nhưng nếu họ hoàn toàn không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời sau khi trở thành một tín hữu – nếu họ có khả năng trộm cắp, phung phí, hoặc thậm chí bán hết của lễ khi được trao cơ hội quản lý chúng – nếu họ có khả năng làm đủ mọi điều xấu, thì họ là gì? (Thưa, kẻ ác.) Họ không bao giờ đứng ra bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời khi phát sinh vấn đề. Chẳng phải có những người như thế này sao? (Thưa, phải.) Vì vậy, sử dụng câu nói: “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” để đánh giá nhân tính của họ có phù hợp không? Không phù hợp. Một số người nói: “Họ từng là người tốt. Họ có phẩm chất đạo đức cao thượng và mọi người đều tán thành họ. Vậy tại sao họ lại thay đổi sau khi đến nhà Đức Chúa Trời?”. Có phải họ đã thực sự thay đổi không? Sự thật là họ không thay đổi. Họ có chút đức hạnh và hành vi tốt, nhưng ngoài điều đó ra thì đây luôn là thực chất nhân tính của họ – nó chưa hề thay đổi. Đi đâu họ cũng luôn hành xử như thế này. Chỉ là trước đây người ta đánh giá họ dựa trên tiêu chí đức hạnh, thay vì dùng lẽ thật để đánh giá nhân tính của họ. Mọi người nghĩ rằng họ đã trải qua một dạng thay đổi nào đó, nhưng thực tế thì không. Một số người nói: “Trước đây họ không như vậy”. Trước đây họ không như vậy bởi vì trước đây họ chưa từng đối mặt với những tình huống này và trước đây họ không ở trong kiểu môi trường này. Hơn nữa, mọi người không hiểu lẽ thật và không thể phân định được họ. Hậu quả cuối cùng của việc mọi người nhìn nhận và đánh giá người khác chỉ dựa trên một hành vi tốt thay vì thực chất nhân tính của họ là gì? Mọi người không những không thể nhìn rõ người khác, mà còn bị che mắt và đánh lừa bởi những hành vi đạo đức tốt đẹp bên ngoài của người khác. Khi không thể nhìn rõ người khác, họ sẽ đặt niềm tin, bổ nhiệm và phân công sai người, và họ sẽ bị người khác đánh lừa, dối gạt. Một số lãnh đạo và người làm công thường phạm sai lầm này khi chọn và phân công nhân sự. Họ bị che mắt bởi những người bề ngoài có một số hành vi tốt và tư cách đạo đức tốt, và sắp xếp cho họ đảm nhận công tác quan trọng hoặc trông giữ một số vật phẩm quan trọng. Kết quả là xảy ra chuyện và khiến nhà Đức Chúa Trời chịu một số thiệt hại. Tại sao lại xảy ra chuyện? Xảy ra chuyện bởi vì các lãnh đạo và người làm công không thể nhìn thấu thực chất bản tính của những người này. Tại sao họ không thể nhìn thấu thực chất bản tính của những người này? Bởi vì những lãnh đạo và người làm công này không hiểu lẽ thật, và họ không thể đánh giá và phân định được mọi người. Họ không thể nhìn thấu thực chất bản tính của người ta, và họ không biết người ta có thái độ như thế nào đối với Đức Chúa Trời, lẽ thật và lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Tại sao vậy? Bởi vì những lãnh đạo và người làm công này nhìn nhận con người và sự việc từ góc độ sai lầm. Họ chỉ nhìn người dựa trên những quan niệm và tưởng tượng của con người, họ không nhìn nhận thực chất của người ta theo lời Đức Chúa Trời và các nguyên tắc lẽ thật – thay vào đó, họ nhìn người dựa trên đức hạnh cũng như những hành vi và biểu hiện bề ngoài của người ta. Chính vì cách nhìn người của họ thiếu nguyên tắc nên họ đã đặt niềm tin nhầm người, giao việc nhầm người, và hậu quả là họ bị những người đó che mắt, lừa gạt, lợi dụng, và cuối cùng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bị tổn hại. Đây là những hậu quả của việc không thể nhận định mọi người hoặc nhìn thấu họ. Vì vậy, khi một người muốn mưu cầu lẽ thật, bài học đầu tiên phải học là cách phân định và nhìn người – bài học này cần thời gian dài để học, và đó là một trong những bài học cơ bản nhất mà con người phải học. Nếu ngươi muốn nhìn rõ một người và học cách nhận diện họ, trước tiên ngươi phải hiểu Đức Chúa Trời dùng những tiêu chuẩn nào để đánh giá con người, những suy nghĩ và quan điểm lệch lạc nào điều khiển và chi phối cách con người nhìn nhận và đánh giá người khác, và liệu chúng có mâu thuẫn với các tiêu chuẩn Đức Chúa Trời dùng để đánh giá con người hay không, mâu thuẫn như thế nào. Các phương pháp và tiêu chí ngươi dùng để đánh giá mọi người có dựa trên yêu cầu của Đức Chúa Trời không? Chúng có dựa trên lời Đức Chúa Trời không? Chúng có dựa trên cơ sở lẽ thật không? Nếu không có, và ngươi hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm và trí tưởng tượng của mình để đánh giá người khác, hoặc nếu ngươi thậm chí còn đi xa đến mức đánh giá dựa trên các chuẩn mực đạo đức xã hội được đề cao trong xã hội, hoặc dựa trên những gì tận mắt ngươi quan sát thấy, thì ngươi vẫn sẽ không rõ về người mình đang cố gắng phân định. Ngươi sẽ không thể nhìn thấu họ. Nếu ngươi đặt niềm tin vào họ và giao bổn phận cho họ, ngươi sẽ phải gánh chịu một mức độ rủi ro nhất định, và chắc chắn có khả năng điều này sẽ gây thiệt hại cho của lễ của Đức Chúa Trời, công tác của hội thánh, và lối vào sự sống của những người được Đức Chúa Trời chọn. Phân định con người là bài học đầu tiên ngươi phải học nếu muốn mưu cầu lẽ thật. Tất nhiên, đó cũng là một trong những khía cạnh cơ bản nhất của lẽ thật mà con người nên có được. Học cách phân định con người là một phần không thể tách rời của chủ đề thông công ngày hôm nay. Ngươi phải có khả năng phân biệt giữa đức hạnh tốt và phẩm chất tốt của con người với những điều mà một người có nhân tính bình thường nên có. Điều tối quan trọng là có thể phân biệt giữa hai điều này. Chỉ khi đó ngươi mới có thể nhận ra và nhận định chính xác thực chất của một người, và cuối cùng xác định ai có nhân tính, ai không. Để phân định được những điều này, trước tiên người ta phải trang bị điều gì? Người ta phải hiểu lời Đức Chúa Trời, cũng như khía cạnh này của lẽ thật, và đạt đến mức độ nhìn người theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí. Đây chẳng phải là một nguyên tắc lẽ thật mà con người nên thực hành và sở hữu trong khi mưu cầu lẽ thật sao? (Thưa, phải.) Vì vậy, chúng ta bắt buộc phải thông công về những chủ đề này.

Ta vừa thông công về câu nói đầu tiên: “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi”, đó rõ ràng là một loại đức hạnh của con người. Đó là một loại phẩm chất đạo đức và hành vi nhất thời để lại ấn tượng tốt với mọi người, nhưng tiếc là nó không thể được dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá một người có nhân tính hay không. Câu nói thứ hai: “ Lấy việc giúp người làm niềm vui” cũng tương tự. Dựa trên từ ngữ của câu này, rõ ràng đây cũng là điều mọi người thích và coi là một hành vi tốt. Những người thể hiện hành vi tốt này được đánh giá cao là người có đức hạnh và phẩm chất tốt – tóm lại, họ được coi là người lấy việc giúp người làm niềm vui và có phẩm chất đạo đức rất tốt. “Lấy việc giúp người làm niềm vui” có một số điểm tương đồng với “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi”. Đó cũng là một hành vi tốt nảy sinh nơi con người trong một số bầu không khí xã hội nhất định. Nghĩa đen của “Lấy việc giúp người làm niềm vui” là tìm thấy niềm vui trong việc giúp đỡ người khác. Điều đó không có nghĩa là một người phải có bổn phận giúp đỡ người khác – câu này không phải là “Giúp người là trách nhiệm” – mà là “Lấy việc giúp người làm niềm vui”. Từ đây, chúng ta có thể thấy điều gì thúc đẩy con người giúp đỡ người khác. Họ không làm điều đó vì người khác, mà vì chính họ. Con người đầy phiền não và khổ đau, vì vậy họ tìm những người cần giúp đỡ và họ làm từ thiện, hỗ trợ người ta; giúp người ta một tay, và làm mọi việc thiện trong khả năng của mình để bản thân cảm thấy hạnh phúc, vui thích, bình an và vui vẻ, và để những tháng ngày của họ trôi qua đầy ý nghĩa, để họ không cảm thấy quá trống rỗng và đau khổ – họ cải thiện đức hạnh của mình để đạt được mục đích làm tinh sạch và thăng hoa tâm, trí mình. Đây là kiểu hành vi gì? Nếu ngươi nhìn nhận những người lấy việc giúp người làm niềm vui từ góc độ của giải thích này, thì họ không phải là người tốt. Ít nhất, điều thúc đẩy họ làm những gì nên làm hoặc thực hiện trách nhiệm xã hội và gia đình của mình không phải là đạo đức, lương tâm hay nhân tính; thay vào đó, họ giúp người để có được niềm vui, sự an ủi về tinh thần, sự thanh thản về cảm xúc và để sống hạnh phúc. Nên nhìn nhận loại hành vi đạo đức này như thế nào? Nếu các ngươi nhìn vào tính chất của nó, thì nó còn tệ hơn cả “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi”. Ít nhất thì “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” không có khía cạnh ích kỷ nào trong đó. Vậy còn: “Lấy việc giúp người làm niềm vui” thì sao? Từ “niềm vui” thể hiện hành vi này chứa đựng các yếu tố ích kỷ và ý định thấp hèn. Nó không phải là giúp người vì lợi ích của người hay như một sự cho đi vị tha, mà được thực hiện vì niềm vui của chính mình. Điều này đơn giản là không đáng khuyến khích. Ví dụ: giả sử ngươi nhìn thấy một cụ già bị ngã trên đường lớn và ngươi thầm nghĩ: “Mấy ngày nay tâm trạng mình không tốt lắm. Cụ già này bị ngã là một cơ hội tuyệt vời – mình sẽ lấy việc giúp người làm niềm vui!”. Ngươi đi tới đỡ cụ già dậy, và khi đứng dậy được, cụ khen ngươi: “Con trai, con thật là một người tốt. Cụ chúc con bình an, hạnh phúc và sống thọ nhé!”. Cụ rót vào tai ngươi những lời dễ chịu này, và sau khi nghe xong, mọi phiền não của ngươi tan biến và ngươi cảm thấy vui thích. Ngươi nghĩ rằng thật tuyệt vời khi giúp đỡ mọi người, và ngươi quyết tâm lúc rảnh sẽ đi bộ trên đường và giúp bất kỳ ai bị ngã đứng dậy. Con người thể hiện một số hành vi tốt dưới ảnh hưởng của lối tư duy này, và xã hội loài người đã xếp đây là một truyền thống tốt đẹp “lấy việc giúp người làm niềm vui” và là một phẩm chất đạo đức cao đẹp kế thừa truyền thống vô cùng tốt đẹp này. Bối cảnh phụ của lấy việc giúp người làm niềm vui là những người giúp đỡ thường xem mình là đỉnh cao của đạo đức. Họ tự định hình mình là nhà từ thiện vĩ đại, và càng được nhiều người khen ngợi, họ càng sẵn lòng giúp đỡ, làm từ thiện và làm nhiều việc hơn cho người khác. Điều này thỏa mãn mong muốn của họ là trở thành anh hùng và vị cứu tinh của nhân loại, cũng như mong muốn của họ là có được một dạng hài lòng khi được người khác cần đến. Chẳng phải con người ai cũng muốn cảm thấy được cần đến sao? Khi con người cảm thấy được người khác cần đến, họ nghĩ rằng họ đặc biệt có ích và cuộc sống của họ có giá trị. Đây chẳng phải chỉ là một kiểu tìm kiếm sự chú ý sao? Tìm kiếm sự chú ý là điều duy nhất mang lại niềm vui cho con người – đó là lối sống của họ. Trên thực tế, dù chúng ta nhìn nhận vấn đề lấy việc giúp người làm niềm vui từ góc độ nào đi chăng nữa, thì đó cũng không phải là tiêu chuẩn để đánh giá đức hạnh của con người. Thông thường, hành động lấy việc giúp người làm niềm vui thực sự chỉ cần một chút nỗ lực. Nếu ngươi sẵn sàng làm điều đó, thì ngươi sẽ hoàn thành trách nhiệm xã hội của mình; nếu ngươi không sẵn sàng làm điều đó, thì không ai bắt ngươi phải chịu trách nhiệm và ngươi sẽ không trở thành đối tượng bị dư luận xã hội lên án. Đối với những hành vi tốt mà con người khen ngợi, một người có thể chọn thực hành chúng hoặc không làm, cả hai đều được. Không cần phải ràng buộc mọi người bằng câu nói này, hoặc khiến họ học cách lấy việc giúp người làm niềm vui, bởi vì bản thân nó chỉ là một hành vi tốt nhất thời. Bất kể một người được thúc đẩy bởi mong muốn thực hiện trách nhiệm xã hội của mình hay họ thực hành hành vi tốt này vì ý thức đạo đức công dân, thì kết quả cuối cùng sẽ là gì? Họ sẽ chỉ đang thỏa mãn mong muốn trở thành một người tốt và thể hiện tinh thần Lôi Phong trong một trường hợp này; họ sẽ có được chút niềm vui và sự thanh thản khi làm như vậy, từ đó nâng cõi tư tưởng của họ lên một tầm cao mới. Chỉ vậy thôi. Đây là thực chất những gì họ đang làm. Vậy thì trước buổi thông công này, các ngươi hiểu như thế nào về câu nói “Lấy việc giúp người làm niềm vui”? (Thưa, trước đây con đã không nhận ra những ý định ích kỷ và thấp hèn đằng sau đó.) Giả sử gặp tình huống ngươi có bổn phận phải làm một việc gì đó, một trách nhiệm ngươi không được trốn tránh, một việc khá khó khăn, và ngươi phải chịu khổ một chút, từ bỏ một số thứ và trả giá để hoàn thành, nhưng dù sao thì ngươi cũng có khả năng thực hiện trách nhiệm này. Ngươi sẽ không cảm thấy vui vẻ khi làm việc này, và sau khi trả giá cũng như thực hiện trách nhiệm này, thành quả lao động của ngươi sẽ không mang lại cho ngươi bất kỳ niềm vui hay sự thanh thản nào, nhưng bởi vì đó là trách nhiệm và bổn phận của ngươi, nên dù sao ngươi cũng đã làm. Nếu chúng ta so sánh điều này với lấy việc giúp người làm niềm vui, thì cái nào thể hiện nhiều nhân tính hơn? (Thưa, những người thực hiện trách nhiệm và bổn phận của mình có nhiều nhân tính hơn.) Lấy việc giúp người làm niềm vui không phải là vấn đề thực hiện trách nhiệm – đó chỉ là một yêu cầu về đạo đức và trách nhiệm xã hội của con người tồn tại trong những bối cảnh xã hội nhất định; nó xuất phát từ dư luận xã hội, đạo đức xã hội, hay thậm chí là luật pháp của một quốc gia, và nó được dùng để đánh giá xem một người có đức hạnh hay không và phẩm chất nhân tính của họ như thế nào. Nói cách khác, “Lấy việc giúp người làm niềm vui” chỉ là một câu nói hạn chế hành vi của con người mà xã hội loài người đưa ra để nâng cao cõi tư tưởng của con người. Dạng câu nói này chỉ dùng để khiến con người thực hành một vài hành vi tốt, và tiêu chuẩn để đánh giá những hành vi tốt đó là đạo đức xã hội, dư luận xã hội, hoặc thậm chí là pháp luật. Chẳng hạn nếu ngươi thấy ai đó cần giúp đỡ ở nơi công cộng và ngươi là người đầu tiên nên đến giúp họ, nhưng ngươi lại không làm, thì người khác sẽ nghĩ gì về ngươi? Họ sẽ quở trách ngươi là không biết cư xử – đó chẳng phải là ý của chúng ta khi nói đến dư luận xã hội sao? (Thưa, phải.) Vậy đạo đức xã hội là gì? Chúng là những điều và thói quen tích cực, hướng thượng mà xã hội tuyên dương và khuyến khích. Đương nhiên, chúng bao gồm rất nhiều yêu cầu cụ thể, chẳng hạn như: hỗ trợ người yếu thế, giúp đỡ khi người khác gặp khó khăn chứ không chỉ khoanh tay đứng nhìn. Mọi người phải thực hành loại hành vi đạo đức này, như vậy mới là có đạo đức xã hội. Nếu ngươi thấy ai đó đau khổ và ngươi nhắm mắt làm ngơ, phớt lờ họ và không làm gì cả, thì ngươi thiếu đạo đức xã hội. Vậy luật pháp đặt ra những yêu cầu gì đối với đạo đức của con người? Trung Quốc là một trường hợp đặc biệt trong vấn đề này: luật pháp Trung Quốc không có bất kỳ quy định rõ ràng nào liên quan đến trách nhiệm xã hội và đạo đức xã hội. Người dân chỉ học được một chút về những điều này thông qua sự dạy dỗ của gia đình, giáo dục của trường học cũng như những gì họ nghe và quan sát được từ xã hội. Ngược lại, ở các nước phương Tây, những điều này được quy định trong luật. Ví dụ: nếu ngươi thấy có người bị ngã trên đường, ít nhất ngươi cũng nên đến gần họ và hỏi: “Bạn có sao không? Bạn có cần giúp đỡ không?”. Nếu người đó trả lời: “Tôi không sao, cảm ơn”, thì ngươi không cần giúp họ, ngươi không bắt buộc phải thực hiện trách nhiệm đó. Nếu họ nói: “Làm ơn, tôi cần giúp đỡ”, thì ngươi phải giúp họ. Nếu ngươi không giúp họ, ngươi sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đây là một yêu cầu đặc biệt mà một số quốc gia đặt ra về đạo đức của con người; họ đặt ra yêu cầu đối với người dân thông qua quy định rõ ràng trong luật. Những yêu cầu mà dư luận xã hội, đạo đức xã hội, và thậm chí pháp luật đặt ra đối với đạo đức của con người chỉ giới hạn ở hành vi của con người, và những tiêu chí cơ bản này về hành vi là tiêu chuẩn để đánh giá đạo đức của một người. Nhìn bề ngoài, những tiêu chuẩn đạo đức này có vẻ như đánh giá hành vi của con người – nói cách khác, đánh giá việc con người có thực hiện trách nhiệm xã hội của mình hay không – nhưng về bản chất, chúng đánh giá phẩm chất bên trong của con người. Dù là dư luận xã hội, đạo đức xã hội hay luật pháp, thì những điều này cũng chỉ đo lường hoặc đưa ra yêu cầu đối với những việc con người làm, và những thước đo cũng như yêu cầu này chỉ giới hạn trong hành vi của con người. Chúng đánh giá phẩm chất và đức hạnh của một người dựa trên hành vi của người đó – đó là phạm vi đánh giá của chúng. Đây là tính chất của câu nói: “Lấy việc giúp người làm niềm vui”. Khi nói đến lấy việc giúp người làm niềm vui, các nước phương Tây đặt ra yêu cầu đối với mọi người thông qua quy định của pháp luật, trong khi ở Trung Quốc, văn hóa truyền thống được sử dụng để giáo dục và huấn luyện mọi người bằng những tư tưởng này. Mặc dù có sự khác biệt này giữa phương Đông và phương Tây, nhưng chúng giống nhau về bản chất – cả hai đều sử dụng những câu nói để hạn chế và điều chỉnh hành vi cũng như đạo đức của con người. Tuy nhiên, dù là pháp luật của các nước phương Tây hay văn hóa truyền thống ở phương Đông, thì đây cũng chỉ là những yêu cầu và quy định đặt ra đối với hành vi và đạo đức của con người, và những tiêu chí này chỉ điều chỉnh hành vi và đạo đức của con người – có cái nào nhắm vào nhân tính của con người không? Liệu những quy định chỉ đưa ra yêu cầu về những hành vi một người phải thực hiện có thể được dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá nhân tính của họ không? (Thưa, không.) Nếu chúng ta xem xét câu nói “Lấy việc giúp người làm niềm vui”, thì một số kẻ ác có thể lấy việc giúp người làm niềm vui, nhưng chúng bị thúc đẩy bởi những ý định và mục đích riêng. Khi ma quỷ làm việc tốt nhỏ nào đó, chúng thậm chí càng có ý định và mục đích riêng để làm như vậy. Các ngươi có nghĩ rằng tất cả những người lấy việc giúp người làm niềm vui đều là người công chính yêu lẽ thật không? Ví dụ những người được cho là lấy việc giúp người làm niềm vui ở Trung Quốc, chẳng hạn như các nhân vật hành hiệp trượng nghĩa, hoặc những người cướp của người giàu chia cho người nghèo, hoặc những người thường đến giúp đỡ các nhóm yếu thế và người tàn tật, v.v. – có phải tất cả họ đều có nhân tính không? Có phải tất cả họ đều yêu những điều tích cực và có ý thức công chính không? (Thưa, không.) Cùng lắm họ chỉ là người có phẩm chất nhân tính tương đối tốt hơn. Vì bị chi phối bởi tinh thần lấy việc giúp người làm niềm vui, nên họ làm nhiều việc thiện mang lại cho họ niềm vui, sự thanh thản và cho phép họ tận hưởng trọn vẹn cảm giác hạnh phúc, nhưng việc thực hành những hành vi như vậy không có nghĩa là họ có nhân tính, bởi vì cả đức tin của họ lẫn những gì họ theo đuổi ở cấp độ tâm linh đều không rõ ràng, chúng là những ẩn số. Vậy thì họ có thể được coi là người có nhân tính và lương tri dựa trên hành vi đạo đức tốt đẹp này không? (Thưa, không.) Một số tổ chức như các quỹ và cơ quan phúc lợi được cho là lấy việc giúp người làm niềm vui hỗ trợ các nhóm yếu thế và người tàn tật cùng lắm chỉ là thực hiện một chút trách nhiệm xã hội của mình. Họ làm những điều này để cải thiện hình ảnh của mình trong mắt công chúng, để thêm nhiều người biết đến mình và để thỏa mãn tâm lý lấy việc giúp người làm niềm vui – điều này hoàn toàn không lên đến mức biểu thị rằng họ “có nhân tính”. Hơn nữa, những người được họ giúp đỡ để có niềm vui có thực sự cần giúp đỡ không? Bản thân việc lấy việc giúp người làm niềm vui có chính đáng không? Không hẳn. Nếu ngươi khảo sát tất cả các sự kiện lớn nhỏ khác nhau xảy ra trong xã hội đủ lâu, ngươi sẽ thấy rằng một số trường hợp chỉ đơn thuần là vấn đề lấy việc giúp người làm niềm vui, trong khi đó, trong nhiều trường hợp khác, nhiều bí mật chưa được hé lộ và những khía cạnh xã hội đen tối ẩn chứa trong những trường hợp lấy việc giúp người làm niềm vui. Trong mọi trường hợp, có những ý định và mục đích đằng sau việc lấy việc giúp người làm niềm vui, cho dù đó là để trở nên nổi tiếng và hơn người, hay là để tuân theo đạo đức xã hội và không vi phạm pháp luật, hay là để nhận được đánh giá tích cực hơn từ xã hội nói chung. Bất kể người ta nhìn nhận nó như thế nào, thì lấy việc giúp người làm niềm vui chỉ là một trong những hành vi bên ngoài của con người, và cùng lắm chỉ là một loại hành vi đạo đức tốt. Nó hoàn toàn không liên quan gì đến nhân tính bình thường mà Đức Chúa Trời yêu cầu. Những người có khả năng lấy việc giúp người làm niềm vui có thể là người bình thường không có bất kỳ tham vọng thực sự nào, nhưng cũng có thể là nhân vật tầm cỡ trong xã hội; có thể là người tương đối tốt bụng, nhưng cũng có thể là người có tâm địa ác độc. Họ có thể là bất kỳ loại người nào, và ai cũng có khả năng thực hành hành vi này trong một khoảnh khắc nhất thời. Vì vậy, câu nói về hành vi đạo đức: “Lấy việc giúp người làm niềm vui” chắc chắn không đủ để làm tiêu chuẩn đánh giá nhân tính của con người.

“Lấy việc giúp người làm niềm vui” – câu nói về hành vi đạo đức này thực tế không đại diện cho thực chất nhân tính của con người, và hầu như không liên quan đến thực chất bản tính của con người. Vì vậy, sử dụng nó để đánh giá phẩm chất nhân tính của một người là không phù hợp. Vậy cách thích hợp để đánh giá nhân tính của một người là gì? Ít nhất, một người có nhân tính không nên quyết định việc giúp đỡ ai đó hay thực hiện trách nhiệm của mình dựa trên việc làm như vậy có khiến họ cảm thấy hạnh phúc hay không; thay vào đó, quyết định của họ nên dựa trên lương tâm và lý trí của mình, và họ không nên cân nhắc xem mình sẽ được lợi gì, hay việc giúp đỡ người kia sẽ gây ra hậu quả gì cho mình, hay điều đó có thể ảnh hưởng gì đến mình trong tương lai. Họ không nên cân nhắc bất kỳ điều nào trong số này, và họ nên thực hiện trách nhiệm của mình, giúp đỡ người khác và giúp người khác thoát khổ. Họ nên giúp đỡ mọi người một cách thuần khiết, không có bất kỳ mục đích ích kỷ nào – đó là điều một người thực sự có nhân tính sẽ làm. Nếu người ta giúp người với mục đích là để làm bản thân vui vẻ, hoặc xây dựng danh tiếng tốt cho mình, thì trong đó có nét ích kỷ và thấp hèn – những người thực sự có lương tâm và lý trí sẽ không hành động như vậy. Những người có lòng yêu thương người khác thực sự không hành động chỉ để thỏa mãn mong muốn cảm nhận theo một cách nào đó, thay vào đó, họ làm như vậy để thực hiện trách nhiệm của mình và làm mọi thứ trong khả năng của mình để giúp đỡ người khác. Họ không giúp người để được thưởng, và họ không có bất kỳ ý định hay động cơ nào khác. Mặc dù hành động theo cách này có thể khó khăn, và mặc dù họ có thể bị người khác phán xét hay thậm chí gặp một chút nguy hiểm, nhưng họ nhận ra rằng đây là bổn phận con người phải thực hiện, rằng đây là trách nhiệm của con người, và rằng nếu họ không hành động theo cách này, họ sẽ không bù đắp được những gì mình nợ người khác và Đức Chúa Trời, và họ sẽ phải ân hận suốt đời. Vì thế, họ tiến hành không do dự, họ làm hết sức mình, họ vâng theo ý Trời và họ thực hiện trách nhiệm của mình. Bất kể người khác nhận xét họ như thế nào, hay người khác có cảm kích và xem trọng họ hay không, chỉ cần họ có thể giúp đỡ người đó làm bất cứ điều gì người đó cần làm và có thể giúp đỡ bằng cả tấm lòng mình, thì họ sẽ cảm thấy thỏa lòng. Những người có khả năng hành động theo cách này đều có lương tâm và lý trí, họ có những biểu hiện của nhân tính, chứ không chỉ là một loại hành vi giới hạn trong phạm vi phẩm chất đạo đức và hành vi đạo đức. Lấy việc giúp người làm niềm vui chỉ là một loại hành vi, và đôi khi nó chỉ là một hành vi phát sinh trong một số bối cảnh cụ thể; quyết định thực hiện loại hành vi nhất thời này của một người được đưa ra dựa trên tâm trạng, cảm xúc, môi trường xã hội của họ cũng như bối cảnh trước mắt, và những lợi ích hoặc bất lợi nào có thể đến từ việc hành động theo cách đó. Những người có nhân tính không cân nhắc những điều này khi giúp người – họ ra quyết định dựa trên tiêu chuẩn phán đoán tích cực hơn và phù hợp hơn với lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường. Đôi khi, họ còn có thể kiên trì giúp người khi việc làm đó trái ngược và mâu thuẫn với các chuẩn mực đạo đức. Các tiêu chí, tư tưởng, quan điểm đạo đức chỉ có thể kiềm chế những hành vi nhất thời của con người. Và liệu những hành vi này là tốt hay xấu sẽ thay đổi tùy thuộc vào tâm trạng, cảm xúc, sự thiện, ác bên trong họ, cũng như những ý định tốt hay xấu nhất thời của họ; đương nhiên, bầu không khí xã hội và môi trường xã hội cũng sẽ có tác động đến điều này. Có nhiều bất khiết trong những hành vi này; chúng đều là những hành vi bề ngoài, và không thể sử dụng chúng để đánh giá một người có nhân tính hay không. Ngược lại, sẽ chính xác và thực tế hơn nhiều khi đánh giá một người có nhân tính hay không dựa trên thực chất nhân tính của họ, điều họ mưu cầu, nhân sinh quan và giá trị quan của họ, con đường họ đi cũng như cơ sở cho cách cư xử và hành động của họ. Nói Ta nghe, cái nào phù hợp với lẽ thật: căn cứ để đánh giá nhân tính hay căn cứ để đánh giá đức hạnh? Tiêu chuẩn phù hợp với lẽ thật, tiêu chuẩn để đánh giá đức hạnh hay tiêu chuẩn để đánh giá một người có nhân tính? Tiêu chuẩn nào phù hợp với lẽ thật? Trên thực tế, tiêu chuẩn để đánh giá một người có nhân tính hay không mới phù hợp với lẽ thật. Đây là một điều chắc chắn không thể nghi ngờ. Lý do tại sao những điều được dùng để đánh giá đức hạnh của con người không thể được dùng làm tiêu chí là vì chúng không cố định. Chúng chứa đầy nhiều thứ bất khiết, như sự đổi chác, lợi ích, sở thích, sự mưu cầu, cảm xúc, tư tưởng xấu xa, tâm tính bại hoại, v.v. của con người. Có quá nhiều sai lầm và những thứ bất khiết bên trong chúng – chúng không đơn giản. Vì vậy, chúng không thể được dùng làm tiêu chí đánh giá con người. Chúng chứa đầy những thứ Sa-tan nhồi nhét vào con người và những điều kiện bổ sung nảy sinh do tâm tính Sa-tan bại hoại của con người, và như vậy, chúng không phải là lẽ thật. Tóm lại, dù người ta cho rằng những tiêu chí đạo đức này dễ đạt hay khó đạt được, hay dù người ta đánh giá chúng là cao, thấp hay trung bình, thì trong mọi trường hợp, tất cả chúng chỉ là những câu nói hạn chế và điều chỉnh hành vi của con người. Chúng chỉ lên đến tầm phẩm chất đạo đức của con người; chứ không có chút liên quan nào đến yêu cầu của Đức Chúa Trời rằng phải dùng lẽ thật để đánh giá nhân tính của một người. Chúng thậm chí không bao gồm những tiêu chuẩn cơ bản nhất mà người có nhân tính nên có và đáp ứng; chúng thiếu tất cả những điều đó. Khi nhìn nhận người khác, mọi người chỉ tập trung đánh giá những biểu hiện đạo đức của người ta; họ nhìn nhận và đánh giá người khác hoàn toàn dựa trên yêu cầu của văn hóa truyền thống. Đức Chúa Trời không chỉ nhìn người dựa trên những biểu hiện đạo đức của họ – Ngài tập trung vào thực chất nhân tính của họ. Thực chất nhân tính của một người bao gồm những gì? Sở thích của họ, quan điểm của họ về mọi sự, nhân sinh quan và giá trị quan của họ, những gì họ mưu cầu, họ có ý thức công chính không, họ có yêu lẽ thật và những điều tích cực không, khả năng tiếp nhận và quy phục lẽ thật của họ, con đường họ chọn, v.v. Căn cứ vào những điều này để đánh giá thực chất nhân tính của một người mới chính xác. Mối thông công của Ta về lấy việc giúp người làm niềm vui ít nhiều kết thúc tại đây. Thông qua mối thông công về hai yêu cầu đạo đức này, giờ đây các ngươi đã hiểu được các nguyên tắc cơ bản để phân định cả cách đánh giá đức hạnh, lẫn sự khác biệt giữa tiêu chuẩn đánh giá con người của Đức Chúa Trời và đức hạnh mà con người nói đến chưa? (Thưa, rồi.)

Ta vừa thông công về hai trong số những yêu cầu mà văn hóa truyền thống đặt ra đối với đức hạnh của con người, đó là “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” và “Lấy việc giúp người làm niềm vui”. Các ngươi đã học được gì từ mối thông công của Ta về hai câu nói này? (Thưa, con đã học được rằng đức hạnh của con người không liên quan đến thực chất nhân tính của họ. Cùng lắm thì những người thể hiện những loại đức hạnh này có một số hành vi và biểu hiện tốt về mặt phẩm chất đạo đức. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là họ có nhân tính hoặc họ sống thể hiện ra hình tượng giống con người. Con đã phần nào hiểu rõ hơn về vấn đề này.) Những người thể hiện đức hạnh tốt không nhất thiết là người có nhân tính – ai cũng có thể nhận ra điều này, và quả thật là như vậy. Hết thảy con người đều chạy theo các xu hướng xấu xa của xã hội, dần dần đánh mất lương tâm và lý trí – rất ít người có thể sống thể hiện ra hình tượng giống con người. Có phải tất cả những người đã từng nộp một đồng xu nhặt được trên vỉa hè cho công an cuối cùng đều là người tốt không? Không hẳn. Những người từng được ca tụng là anh hùng về sau đã có kết cục gì? Trong thâm tâm, mọi người đều biết câu trả lời cho những câu hỏi này. Điều gì đã xảy ra với những tấm gương đạo đức xã hội và những con người nhân từ thường lấy việc giúp người làm niềm vui, được cài hoa đỏ và được mọi người ca ngợi? Hầu hết họ hóa ra không phải là người tốt. Họ chỉ chủ tâm làm một vài việc tốt để trở nên nổi tiếng. Trên thực tế, hầu hết hành vi, đời sống và nhân cách thực tế của họ đều hoàn toàn không tốt như vậy. Điều duy nhất họ thực sự giỏi là tâng bốc và xu nịnh. Khi họ cởi bỏ hoa đỏ và vỏ ngoài tấm gương đạo đức xã hội đó, họ thậm chí còn không biết cách hành xử hay nên sống đời mình như thế nào. Vấn đề ở đây là gì? Chẳng phải họ đã bị mắc bẫy bởi chiếc vòng nguyệt quế “tấm gương đạo đức” mà xã hội ban tặng cho họ hay sao? Họ thực sự không biết mình là gì – họ đã được tâng bốc quá mức đến nỗi họ bắt đầu nghĩ rằng mình quá vĩ đại, và họ không thể là người bình thường được nữa. Cuối cùng, họ thậm chí không biết phải sống như thế nào, sự tồn tại ngày qua ngày của họ trở thành một mớ hoàn toàn hỗn độn, thậm chí một số còn lạm dụng rượu, trở nên trầm cảm và tự sát. Chắc chắn có những người rơi vào trường hợp này. Họ luôn chạy theo một cảm xúc, mong muốn trở thành anh hùng và tấm gương, trở nên nổi tiếng, hoặc trở thành đỉnh cao của đạo đức. Họ không bao giờ có thể trở lại thế giới thực được nữa; những nhu cầu thường ngày của đời thực thường xuyên là ngọn nguồn gây ra những phiền não, khổ đau cho họ. Họ không biết làm thế nào để thoát khỏi nỗi đau này hay làm sao để chọn một con đường đúng đắn trong đời. Để tìm kiếm cảm giác hưng phấn, một số tìm đến ma túy, trong khi số khác chọn cách tự kết liễu đời mình để thoát khỏi cảm giác trống rỗng. Một số không tự sát thì cuối cùng cũng thường chết vì trầm cảm. Chẳng phải có nhiều ví dụ về trường hợp này sao? (Đúng vậy.) Đây là loại tổn hại mà văn hóa truyền thống gây ra cho con người. Nó không những không cho phép con người có được hiểu biết chính xác về nhân tính hay dẫn dắt họ đi vào con đường họ nên theo – chưa dừng lại ở đó, trên thực tế còn dẫn họ đi lạc lối, đưa họ đến một cõi ảo tưởng và tưởng tượng. Điều này gây tổn hại cho con người, một sự tổn hại khá sâu sắc. Một số người có thể nói: “Điều đó không phải lúc nào cũng đúng! Chúng con đang sống tốt mà, phải không?”. Chẳng phải việc các ngươi đang sống tốt bây giờ chỉ là kết quả của sự bảo vệ của Đức Chúa Trời sao? Chỉ vì Đức Chúa Trời đã chọn các ngươi và các ngươi có sự bảo vệ của Ngài nên các ngươi mới đủ may mắn để tiếp nhận công tác của Ngài, và có thể đọc lời Ngài, tham gia nhóm họp, trao đổi mối thông công và thực hiện bổn phận của mình ở đây; chỉ nhờ sự bảo vệ của Ngài mà các ngươi mới có thể sống cuộc sống của một con người bình thường, và có lý trí bình thường để giải quyết mọi khía cạnh trong đời sống hàng ngày của mình. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng trong sâu thẳm tâm trí các ngươi vẫn còn những tư tưởng và quan điểm như: “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” và “Lấy việc giúp người làm niềm vui”. Và đồng thời, các ngươi vẫn bị giam cầm bởi những tiêu chí tư tưởng và đạo đức đến từ loài người này. Tại sao Ta nói các ngươi bị giam cầm bởi những điều này? Bởi vì con đường các ngươi chọn đi trong đời; các nguyên tắc và phương hướng hành động, cư xử của các ngươi; cũng như các nguyên tắc, phương pháp và tiêu chí các ngươi nhìn nhận con người và sự việc; v.v., tất cả vẫn còn bị ảnh hưởng, hoặc thậm chí bị trói buộc và kiểm soát bởi những tiêu chuẩn tư tưởng và đạo đức này ở mức độ khác nhau. Trong khi đó, lời Đức Chúa Trời và lẽ thật vẫn chưa trở thành cơ sở và tiêu chí cho việc nhìn nhận con người và sự việc, cũng như cách hành xử và hành động của các ngươi. Đến bây giờ, các ngươi mới chỉ chọn được đúng hướng đi trong cuộc đời, và các ngươi có ý chí, nguyện vọng và hy vọng dấn thân vào con đường mưu cầu lẽ thật. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các ngươi đều chưa hề bước đi trên con đường này – nói cách khác, các ngươi chưa đặt chân vào con đường đúng đắn mà Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho con người. Một số người sẽ nói: “Nếu chúng con chưa đặt chân vào con đường đúng đắn, vậy tại sao chúng con vẫn có thể thực hiện bổn phận của mình?”. Đây là kết quả của sự lựa chọn, sự hợp tác, lương tri và ý chí của con người. Lúc này đây, ngươi đang hợp tác với những yêu cầu của Đức Chúa Trời và cố gắng hết sức để cải thiện, nhưng chỉ vì ngươi đang cố gắng cải thiện không có nghĩa là ngươi đã đặt chân lên con đường mưu cầu lẽ thật. Một lý do của việc này là các ngươi vẫn bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng mà văn hóa truyền thống đã khắc sâu vào các ngươi. Ví dụ: các ngươi có thể hiểu rõ thực chất của những câu nói “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” và “Lấy việc giúp người làm niềm vui” sau khi nghe Ta thông công về chúng và vạch trần chúng, nhưng sau vài ngày, các ngươi có thể đổi ý. Các ngươi có thể bắt đầu nghĩ: “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” có gì mà tệ đến vậy? Mình thích những người không bỏ túi của rơi nhặt được đấy. Ít nhất họ không tham lam. “Lấy việc giúp người làm niềm vui” thì có gì sai? Ít nhất, khi anh gặp khó khăn, anh có thể tin tưởng vào ai đó sẽ giúp anh một tay. Đây là một điều tốt và đó là điều ai cũng cần! Bên cạnh đó, bất kể anh nhìn nhận nó như thế nào, thì lấy việc giúp người làm niềm vui cũng đơn giản là một điều tốt và tích cực. Đó là bổn phận phải làm của chúng ta và không nên chỉ trích nó!”. Ngươi thấy đấy, chỉ vài ngày sau khi được thức tỉnh, một đêm ngủ đủ để thay đổi ngươi; nó sẽ đưa ngươi trở về chỗ cũ, và một lần nữa đưa ngươi trở lại sự giam cầm của văn hóa truyền thống. Nói cách khác, những điều nằm sâu trong tâm trí ngươi này đôi khi ảnh hưởng đến suy nghĩ và quan điểm của ngươi, cũng như con đường ngươi chọn. Và tất yếu, trong khi chúng đang tác động đến ngươi, chúng cũng không ngừng kìm hãm ngươi, ngăn cản ngươi thực hiện ước muốn của mình là đặt chân lên con đường đúng đắn trong đời, dấn thân vào con đường mưu cầu lẽ thật, và đi theo con đường trong đời nơi lời Đức Chúa Trời là nền tảng của ngươi và lẽ thật là tiêu chí của ngươi. Ngay cả khi ngươi rất sẵn lòng đi trên con đường này, khao khát làm vậy, cảm thấy bồn chồn, và ngươi dành cả ngày để suy nghĩ và lập kế hoạch, đưa ra quyết tâm và cầu nguyện cho điều đó, thì mọi thứ sẽ vẫn không diễn ra như mong muốn của ngươi. Lý do của việc này là vì những khía cạnh này của văn hóa truyền thống đã bén rễ quá sâu trong thâm tâm ngươi. Một số người có thể nói: “Không đúng! Ngài nói văn hóa truyền thống đã bén rễ quá sâu trong lòng người, nhưng con không nghĩ sự thật là vậy. Con mới ngoài hai mươi, không phải bảy, tám mươi, vậy thì làm sao những thứ này đã bén rễ sâu vào lòng con được?”. Tại sao Ta nói rằng những tư tưởng này đã bén rễ sâu vào lòng ngươi? Nghĩ mà xem: Ngay từ những ký ức đầu đời của ngươi, chẳng phải ngươi đã luôn mong ước trở thành một người cao thượng, ngay cả khi cha mẹ không truyền cho ngươi những tư tưởng như thế sao? Ví dụ: hầu hết mọi người thích xem phim và đọc tiểu thuyết anh hùng, họ đồng cảm sâu sắc với các nạn nhân trong những câu chuyện này, đồng thời khinh ghét những nhân vật phản diện và những nhân vật độc ác làm hại người khác. Khi ngươi lớn lên trong dạng hoàn cảnh này, ngươi sẽ vô thức tiếp nhận những điều mà phần đông xã hội đã thống nhất chung. Vậy tại sao ngươi lại tiếp nhận những điều đó? Bởi vì con người không phải sinh ra đã sở hữu lẽ thật và khả năng phân định. Ngươi không có bản năng này – bản năng mà con người sở hữu là khuynh hướng bẩm sinh thích một số điều tốt đẹp, chính diện và tích cực. Những điều chính diện và tích cực này khiến ngươi khao khát làm tốt hơn, trở thành một người tốt, anh hùng và vĩ đại. Những điều này dần hình thành trong lòng ngươi khi ngươi tiếp xúc với những câu nói bắt nguồn từ dư luận xã hội và đạo đức xã hội. Một khi những câu nói xuất phát từ đạo đức của văn hóa truyền thống đã thấm vào ngươi và đi vào thế giới nội tâm của ngươi, chúng sẽ bén rễ trong lòng ngươi, và chúng bắt đầu chi phối cuộc sống của ngươi. Khi điều này xảy ra, ngươi không phân định, chống đối hoặc loại bỏ những điều này, mà thay vào đó, ngươi cảm thấy sâu sắc rằng mình cần chúng. Động thái đầu tiên của ngươi là nghiền ngẫm những câu nói này. Tại sao vậy? Bởi vì những câu nói này rất phù hợp với thị hiếu và quan niệm của con người, chúng phù hợp với nhu cầu của thế giới tinh thần của con người. Kết quả là ngươi chấp nhận những câu nói này như một lẽ đương nhiên và hoàn toàn không đề phòng chúng. Dần dần, thông qua sự dạy dỗ của gia đình, sự giáo dục của nhà trường, và sự huấn luyện, truyền thụ của xã hội, cùng với những tưởng tượng riêng của ngươi, cuối cùng ngươi trở nên bị thuyết phục sâu sắc rằng những câu nói này là những điều tích cực. Qua sự tinh luyện của thời gian, và khi ngươi dần lớn tuổi, ngươi sẽ cố gắng làm theo những câu nói này trong mọi hoàn cảnh và tình huống, và làm theo những điều mà bản năng con người ưa thích và tin là tốt này. Chúng ngày càng thành hình bên trong ngươi và ngày càng trở nên thâm căn cố đế trong ngươi. Đồng thời, những điều này chi phối nhân sinh quan và mục tiêu mưu cầu của ngươi, trở thành tiêu chuẩn để ngươi đánh giá con người và sự việc. Một khi những câu nói này từ văn hóa truyền thống hình thành trong con người, những điều kiện cơ bản khiến họ chống đối Đức Chúa Trời và lẽ thật đều đã sẵn sàng; cứ như thể người ta tìm thấy lý do riêng và cơ sở riêng để làm như vậy. Và vì vậy, khi Đức Chúa Trời vạch trần tâm tính và thực chất bại hoại của con người, cũng như trút hình phạt và sự phán xét lên họ, thì con người hình thành đủ loại quan niệm về Ngài. Họ nghĩ: “Người ta thường nói: “Đánh người chớ đánh vào mặt; vạch mặt người chớ vạch khuyết điểm” và “Giết người chẳng được ích gì, có thể tha cho người thì nên tha”, vậy mà sao Đức Chúa Trời có thể phán như thế được? Đó có thực sự là Đức Chúa Trời không? Đức Chúa Trời sẽ không nói theo cách đó – Ngài nên đứng ở địa vị cao nhất, và nói chuyện với con người bằng một giọng nhẹ nhàng, giọng của Đức Phật, Đấng phổ độ chúng sinh, giọng của một vị Bồ Tát. Đức Chúa Trời là như thế đó – một nhân vật vô cùng dịu dàng và vĩ đại”. Hàng loạt tư tưởng, quan điểm và quan niệm này không ngừng tuôn ra từ lòng ngươi ngày càng nhiều, và cuối cùng, ngươi không thể chịu đựng được nữa và ngươi làm điều gì đó để dấy loạn và chống đối Đức Chúa Trời dù trong lòng không muốn. Bằng cách này, ngươi bị hủy hoại bởi những quan niệm và tưởng tượng của mình. Từ đây, chúng ta có thể thấy rằng bất kể ngươi bao nhiêu tuổi, chỉ cần ngươi đã tiếp nhận sự giáo dục của văn hóa truyền thống và có năng lực trí óc của một người trưởng thành, thì lòng ngươi sẽ chứa đầy những khía cạnh đạo đức của văn hóa truyền thống này, và chúng sẽ dần dần ăn sâu trong ngươi. Chúng đã chi phối ngươi, và ngươi đã sống theo những điều này trong nhiều năm. Sự sống của ngươi và chính bản tính ngươi từ lâu đã bị xâm chiếm bởi những khía cạnh đạo đức này của văn hóa truyền thống. Chẳng hạn từ khi năm hoặc sáu tuổi, ngươi đã được học lấy việc giúp người làm niềm vui và nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi. Những điều này đã ảnh hưởng đến ngươi và chúng hoàn toàn quyết định cách ngươi hành xử. Giờ đây, là một người trung niên, ngươi đã sống theo những điều này trong nhiều năm; có nghĩa là ngươi đang cách xa tiêu chuẩn Đức Chúa Trời yêu cầu ở con người. Kể từ khi ngươi tiếp nhận những câu nói về đức hạnh mà văn hóa truyền thống đề cao, ngươi đã ngày càng xa rời yêu cầu của Đức Chúa Trời. Khoảng cách giữa các tiêu chuẩn về nhân tính của ngươi và các tiêu chuẩn về nhân tính mà Đức Chúa Trời yêu cầu ngày càng lớn. Kết quả là ngươi ngày càng lạc xa khỏi Đức Chúa Trời. Chẳng phải vậy sao? Hãy dành thời gian suy ngẫm về những lời này.

Bây giờ chúng ta sẽ thông công về câu nói về đức hạnh tiếp theo – “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người” – câu này nghĩa là gì? Nghĩa là ngươi nên đưa ra những yêu cầu nghiêm khắc với bản thân và khoan dung với người khác, để họ có thể thấy ngươi rộng lượng và cao thượng như thế nào. Vậy thì tại sao người ta nên làm điều này? Mục đích là gì? Nó có khả thi không? Nó có thực sự là một biểu hiện tự nhiên của nhân tính con người không? Ngươi phải thỏa hiệp bản thân quá nhiều để làm được điều này! Ngươi phải thoát khỏi những ham muốn và đòi hỏi, yêu cầu bản thân cảm nhận ít niềm vui hơn, chịu khổ hơn một chút, trả giá nhiều hơn và làm việc nhiều hơn để những người khác không phải vắt kiệt sức họ. Và nếu những người khác than vãn, phàn nàn hoặc làm kém, ngươi không được đòi hỏi ở họ quá nhiều – ít nhiều gì cũng đủ. Người ta tin rằng đây là dấu hiệu của đức hạnh cao quý – nhưng tại sao đối với Ta, điều này lại có vẻ sai? Chẳng phải nó sai sao? (Thưa, phải.) Trong những hoàn cảnh bình thường, biểu hiện tự nhiên của nhân tính một người bình thường là khoan dung với bản thân và nghiêm khắc với người khác. Đó là thực tế. Người ta có thể nhận thức được vấn đề của mọi người khác – ai đó sẽ nói: “Người này kiêu ngạo! Người kia xấu xa! Người này ích kỷ! Người kia bất cẩn và chiếu lệ trong khi thực hiện bổn phận! Người này quá lười biếng!” – trong khi với bản thân mình, họ lại nghĩ: “Lười biếng một chút cũng được. Mình có tố chất tốt. Mặc dù lười biếng, nhưng mình làm việc tốt hơn người khác”. Họ hay bắt lỗi người khác và thích xoi mói, nhưng với bản thân, họ lại khoan dung và độ lượng bất cứ khi nào có thể. Chẳng phải đây là một biểu hiện tự nhiên của nhân tính họ sao? (Thưa, phải.) Nếu kỳ vọng con người phải sống theo lý tưởng “nghiêm khắc với mình và khoan dung với người”, thì con người phải buộc mình trải qua những khổ sở nào? Họ có thể thực sự chịu đựng được không? Có bao nhiêu người sẽ làm được như vậy? (Thưa, không ai cả.) Tại sao lại như thế? (Thưa, bản tính con người là ích kỷ. Họ hành động theo nguyên tắc “Người không vì mình, trời tru đất diệt”.) Thật vậy, con người sinh ra đã ích kỷ, con người là một sinh vật ích kỷ và một lòng đi theo triết lý ấy của Sa-tan: “Người không vì mình, trời tru đất diệt”. Người ta nghĩ rằng nếu không ích kỷ và quan tâm đến bản thân khi mọi thứ xảy đến sẽ là thảm họa đối với họ và là điều trái tự nhiên. Đây là những gì người ta tin và cách họ hành động. Nếu kỳ vọng con người không được ích kỷ, phải đưa ra những đòi hỏi nghiêm khắc với bản thân, và sẵn lòng chịu thua thiệt thay vì lợi dụng người khác, thì đó có phải là một kỳ vọng thực tế không? Nếu kỳ vọng con người, khi bị lợi dụng, phải vui vẻ nói rằng: “Anh đang lợi dụng tôi đấy, nhưng tôi không làm ầm lên đâu. Tôi là người khoan dung mà, tôi sẽ không nói xấu anh hay cố trả thù anh làm gì, nếu anh chưa lợi dụng đủ, thì cứ thoải mái tiếp tục đi” – đó có phải là một kỳ vọng thực tế không? Bao nhiêu người có thể làm được điều này? Đây có phải là cách nhân loại bại hoại thường hành xử không? Rõ ràng chuyện này mà xảy ra là bất bình thường. Tại sao như vậy? Bởi vì những người có tâm tính bại hoại, đặc biệt là những người ích kỷ, hèn hạ, thì đấu tranh cho tư lợi và việc nghĩ đến người khác chắc chắn sẽ không khiến họ cảm thấy hài lòng. Vì vậy, hiện tượng này mà xảy ra là điều bất thường. “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người” – câu nói về đức hạnh này rõ ràng chỉ là một yêu cầu không phù hợp với thực tế hoặc nhân tính, được đặt ra cho con người bởi các nhà đạo đức xã hội không hiểu về nhân tính. Nó cũng giống như bảo chuột không được phép đào hang hay bảo mèo không được phép bắt chuột. Đưa ra một yêu cầu như vậy có đúng không? (Thưa, không đúng. Nó bất chấp quy luật về nhân tính.) Yêu cầu này rõ ràng không phù hợp với thực tế, và nó cực rỗng tuếch. Bản thân những người đưa ra yêu cầu này có khả năng tuân theo nó không? (Thưa, không thể.) Họ mong người khác tuân theo một yêu cầu mà bản thân họ không thể làm được – vấn đề ở đây là gì? Đây chẳng phải là hơi vô trách nhiệm sao? Ít nhất có thể nói rằng họ vô trách nhiệm và nói những điều vô nghĩa. Bây giờ tiến thêm một bước nữa, bản chất của vấn đề này là gì? (Thưa, sự giả hình.) Đúng vậy, đây là một ví dụ về sự giả hình. Bản thân họ rõ ràng không thể tuân theo yêu cầu này, vậy mà họ vẫn tự cho mình là vô cùng khoan dung, rộng lượng và có đạo đức cao thượng – đây chẳng phải chỉ là giả hình sao? Cho dù ngươi trình bày nó như thế nào, thì đây vẫn là một câu nói trống rỗng chứa đựng một sự giả dối nhất định, vì vậy chúng ta sẽ phân loại nó là một câu nói giả hình. Nó tương tự như kiểu câu nói mà người Pha-ri-si đề cao; đằng sau đó có động cơ ngầm, rõ ràng là để khoe mẽ, tự mô tả đặc điểm của mình là người có đức hạnh cao thượng, và được người khác khen ngợi là tấm gương, kiểu mẫu về đức hạnh cao thượng. Vậy thì loại người nào có khả năng nghiêm khắc với mình và khoan dung với người? Các nhà giáo và bác sĩ có thể tuân theo câu nói này không? Những người gọi là danh nhân, vĩ nhân và thánh nhân như Khổng Tử, Mạnh Tử và Lão Tử có thể tuân theo câu nói này không? (Thưa, không.) Tóm lại, bất kể câu nói con người đưa ra này nực cười đến mức nào, hoặc yêu cầu này có hợp lý hay không, thì cuối cùng nó cũng chỉ là một yêu cầu đặt ra đối với hành vi và phẩm chất đạo đức của con người. Ít nhất con người không sẵn sàng tuân theo yêu cầu này và không dễ gì thực hành nó, bởi vì nó đi ngược lại các tiêu chuẩn mà nhân tính bình thường của con người có khả năng đạt được. Nhưng dù thế nào đi nữa, đó vẫn là một tiêu chuẩn và một yêu cầu về đức hạnh của con người được văn hóa truyền thống đề cao. Mặc dù “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người” là một câu sáo rỗng mà ít ai có thể tuân theo, nhưng nó cũng giống như “Nhặt được của rơi, đừng tham bỏ túi” và “Lấy việc giúp người làm niềm vui” – bất kể người thực hành điều đó nuôi động cơ hay ý định gì, hoặc thậm chí có bất kỳ ai có khả năng thực hành điều đó hay không – trong mọi trường hợp, chỉ đơn giản dựa trên thực tế là những người đề cao yêu cầu này đặt mình lên đỉnh cao của đạo đức, thì chẳng phải như thế là họ kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, cũng như có lý trí hơi bất bình thường sao? Nếu ngươi hỏi họ liệu họ có thể tuân theo câu nói: “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người” hay không, họ sẽ nói: “Tất nhiên là có thể rồi!”. Thế nhưng khi họ thực sự bị buộc phải tuân theo điều đó, họ sẽ không thể làm được. Tại sao họ sẽ không thể tuân theo điều đó? Bởi vì họ có tâm tính Sa-tan kiêu ngạo. Thử yêu cầu họ tuân theo đức hạnh này khi người khác đang tranh giành địa vị, quyền lực, thanh danh và lợi lộc với họ xem họ có thể làm được không. Đơn giản là họ sẽ không thể làm được, và thậm chí họ sẽ trở nên thù địch với ngươi. Nếu ngươi hỏi họ: “Tại sao anh vẫn đề cao câu nói này trong khi bản thân anh thậm chí không thể tuân theo nó? Tại sao anh vẫn yêu cầu người khác tuân theo nó? Làm thế chẳng phải anh giả hình sao?”, liệu họ có chấp nhận không? Nếu ngươi vạch trần họ, họ sẽ không chấp nhận – bất kể ngươi vạch trần họ như thế nào, họ cũng sẽ không chấp nhận hoặc không nhận lỗi – điều này cho thấy họ không phải là người tốt. Việc họ ra vẻ một giọng đạo đức cao thượng mặc dù không thể tuân theo yêu cầu của chính mình chỉ cho thấy họ đúng ra phải được gọi là kẻ lừa đảo tầm cỡ, là ngụy quân tử giả hình.

“Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người”, cũng như câu nói “Nhặt được của rơi đừng tham bỏ túi” và “Lấy việc giúp người làm niềm vui” là một trong những yêu cầu mà văn hóa truyền thống đặt ra cho đức hạnh của con người. Tương tự như vậy, bất kể ai đó có thể đạt được hoặc rèn luyện đức hạnh này hay không, thì đó vẫn không phải là tiêu chuẩn hay chuẩn mực để đo lường nhân tính của họ. Có thể là ngươi thực sự có khả năng nghiêm khắc với mình và khoan dung với người, và ngươi đặt ra những tiêu chuẩn đặc biệt cao cho mình. Ngươi có thể hoàn toàn trong sạch và ngươi có thể luôn nghĩ cho người khác và thể hiện sự quan tâm đến họ, không ích kỷ và tìm kiếm tư lợi. Ngươi có thể có vẻ đặc biệt cao thượng, vị tha, và có ý thức mạnh mẽ về trách nhiệm xã hội cũng như đạo đức xã hội. Nhân cách và những phẩm chất cao quý của ngươi có thể biểu lộ với những người thân thiết và với những người ngươi gặp gỡ, tiếp xúc. Hành vi của ngươi có thể không bao giờ có điểm nào để bị chê trách hay phê phán, thay vào đó nhận được vô số lời khen ngợi và thậm chí cả sự ngưỡng mộ. Người ta có thể coi ngươi là người thực sự nghiêm khắc với mình và khoan dung với người. Tuy nhiên, những điều này không gì khác hơn là hành vi bên ngoài. Những suy nghĩ và mong muốn trong sâu thẳm lòng ngươi có nhất quán với những hành vi bên ngoài này, với những hành động ngươi thể hiện ra bên ngoài không? Câu trả lời là không, chúng không nhất quán. Lý do ngươi có thể hành động theo cách này chính là có một động cơ đằng sau. Chính xác thì đó là động cơ gì? Ngươi có thể chịu để cho động cơ đó phơi bày ra ánh sáng không? Chắc chắn là không. Điều này chứng tỏ động cơ này là một điều gì đó không thể nói ra, một điều gì đó đen tối và xấu xa. Bây giờ, tại sao động cơ này lại không thể nói ra và xấu xa? Đó là bởi vì nhân tính của con người bị chi phối và điều khiển bởi những tâm tính bại hoại của họ. Không thể phủ nhận rằng tất cả những suy nghĩ của nhân tính, bất kể con người nói ra hay bộc lộ ra, đều bị chi phối, điều khiển và thao túng bởi những tâm tính bại hoại của họ. Kết quả là những động cơ và ý định của mọi người đều nham hiểm và xấu xa. Bất kể con người có thể nghiêm khắc với mình và khoan dung với người hay không, hoặc họ có thể hiện đức hạnh này ra bên ngoài một cách hoàn hảo hay không, thì điều tất yếu là đức hạnh này sẽ không thể kiểm soát hoặc ảnh hưởng đến nhân tính của họ. Vậy cái gì điều khiển nhân tính của con người? Đó là những tâm tính bại hoại của họ, đó là thực chất nhân tính của họ bị che khuất dưới đức hạnh “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người” – đó chính là chân tướng thực sự của họ. Chân tướng thực sự của một người là thực chất nhân tính của họ. Và thực chất nhân tính của họ bao gồm những gì? Nó chủ yếu bao gồm sở thích của họ, điều họ mưu cầu, nhân sinh quan và giá trị quan của họ, cũng như thái độ của họ đối với lẽ thật và Đức Chúa Trời, v.v. Chỉ những điều này mới thực sự đại diện cho thực chất nhân tính của con người. Có thể nói chắc rằng hầu hết những người đòi hỏi bản thân phải thực hiện đức hạnh “nghiêm khắc với mình và khoan dung với người” đều bị địa vị ám ảnh. Bị thúc đẩy bởi những tâm tính bại hoại, họ không thể không mưu cầu thanh thế giữa mọi người, sự nổi bật trong xã hội và địa vị trong mắt người khác. Tất cả những điều này đều liên quan đến ham muốn địa vị của họ, và được mưu cầu dưới vỏ bọc đức hạnh tốt của họ. Và những sự mưu cầu này của họ xuất phát từ đâu? Chúng hoàn toàn xuất phát và bị thúc đẩy bởi những tâm tính bại hoại của họ. Cho nên, dù thế nào đi nữa, dù một người có thực hiện đức hạnh “nghiêm khắc với mình và khoan dung với người” hay không, và họ có làm như thế đến mức hoàn hảo hay không, thì cũng hoàn toàn không thể thay đổi được thực chất nhân tính của họ. Ý là nó không thể nào thay đổi được nhân sinh quan hoặc giá trị quan của họ, hay định hướng cho thái độ và quan điểm của họ đối với mọi kiểu người, sự việc và sự vật. Không phải vậy sao? (Thưa, phải.) Ai càng có khả năng nghiêm khắc với mình và khoan dung với người, thì càng giỏi diễn, giỏi ngụy trang bản thân và giỏi lừa phỉnh người khác bằng hành vi tốt cùng những lời dễ chịu, và càng là người giả dối, xấu xa về bản chất. Họ càng là kiểu người này, thì tình yêu, sự theo đuổi địa vị và quyền lực của họ trở nên càng sâu. Dù đức hạnh bên ngoài của họ có vẻ vĩ đại, vẻ vang và đúng đắn và dù mọi người thấy chúng vừa mắt đến đâu, thì sự mưu cầu không nói ra nằm trong sâu thẳm lòng họ, cũng như thực chất bản tính của họ, thậm chí cả những tham vọng của họ cũng có thể bộc phát từ họ bất cứ lúc nào. Do đó, dù đức hạnh của họ tốt đến đâu, nó cũng không thể che giấu thực chất nhân tính bên trong họ, hay những tham vọng và ham muốn của họ. Nó không thể che giấu được thực chất bản tính ghê tởm của họ là không yêu những điều tích cực, chán ngán và căm ghét lẽ thật. Những thực tế này cho thấy, câu nói “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người” không chỉ vô lý – nó vạch trần những loại người tham vọng cố gắng sử dụng những câu nói và hành vi như vậy để che đậy tham vọng và ham muốn không thể nói ra của mình. Các ngươi có thể so sánh loại người này với một số kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác trong hội thánh. Để củng cố địa vị và quyền lực của mình trong hội thánh, và để có được danh tiếng tốt hơn giữa các thành viên khác, họ có thể chịu khổ và trả giá trong khi thực hiện bổn phận của mình, thậm chí họ có thể từ bỏ công việc và gia đình mình, bán hết mọi thứ họ có để dâng mình cho Đức Chúa Trời. Trong một số trường hợp, cái giá họ trả và sự đau khổ họ trải qua khi dâng mình cho Đức Chúa Trời vượt quá mức một người bình thường có thể chịu đựng được; họ có thể thể hiện tinh thần chối bỏ bản thân tột cùng để duy trì địa vị của mình. Tuy nhiên, bất kể họ chịu khổ hay trả giá bao nhiêu đi chăng nữa, thì cũng không ai trong số họ bảo vệ chứng ngôn cho Đức Chúa Trời hay lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, cũng không ai thực hành theo lời Đức Chúa Trời. Mục đích họ theo đuổi chỉ là để đạt được địa vị, quyền lực và phần thưởng của Đức Chúa Trời. Mọi việc họ làm đều không có một chút liên quan nào đến lẽ thật. Bất kể họ nghiêm khắc với mình như thế nào và khoan dung với người ra sao, kết cục cuối cùng của họ sẽ là gì? Đức Chúa Trời sẽ nghĩ gì về họ? Liệu Ngài có quyết định kết cục của họ dựa trên những hành vi tốt đẹp bên ngoài họ sống thể hiện ra không? Chắc chắn là không. Mọi người nhìn nhận và đánh giá người khác dựa trên những hành vi và biểu hiện này, và bởi vì họ không thể nhìn thấu thực chất của người khác, nên cuối cùng họ bị người khác lừa dối. Nhưng con người không bao giờ lừa dối được Đức Chúa Trời. Ngài tuyệt đối sẽ không khen ngợi và ghi nhớ đức hạnh của con người vì họ có thể nghiêm khắc với mình và khoan dung với người. Thay vào đó, Ngài sẽ lên án họ vì tham vọng của họ và con đường họ đã đi để mưu cầu địa vị. Vì vậy, người mưu cầu lẽ thật nên phân định được tiêu chí đánh giá con người này. Họ nên triệt để phủ nhận và từ bỏ tiêu chuẩn phi lý này, và phân định con người theo lời Đức Chúa Trời cùng các nguyên tắc lẽ thật. Họ nên chủ yếu xem xét liệu người ta có yêu những điều tích cực hay không, liệu họ có khả năng chấp nhận lẽ thật hay không, và liệu họ có thể quy phục quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời hay không, cũng như xem xét con đường họ chọn và bước đi, và phân loại họ là loại người nào, họ có kiểu nhân tính nào dựa trên những điều này. Rất dễ phạm sai lầm và lệch lạc khi đánh giá người khác dựa trên tiêu chuẩn “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người”. Nếu ngươi phân định và nhìn nhận sai lầm về một người dựa trên các nguyên tắc và câu nói đến từ con người, thì ngươi sẽ đang vi phạm lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời trong vấn đề đó. Tại sao lại thế? Lý do là cơ sở cho việc nhìn người của ngươi sẽ là sai và không tương hợp với lời Đức Chúa Trời và lẽ thật – thậm chí có thể đối lập và trái ngược với chúng. Đức Chúa Trời không đánh giá nhân tính của con người dựa trên câu nói về đức hạnh: “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người”, vì vậy nếu ngươi vẫn cứ khăng khăng đánh giá đạo đức của mọi người và xác định họ là loại người nào theo tiêu chí này, thì ngươi đã hoàn toàn vi phạm các nguyên tắc lẽ thật, và ngươi chắc chắn sẽ mắc lỗi cũng như gây ra một số sai lầm và lệch lạc. Chẳng phải vậy sao? (Thưa, đúng vậy.) Một khi con người hiểu được những điều này, thì ít nhất họ sẽ có một mức độ hiểu biết nhất định về cơ sở, các nguyên tắc và tiêu chí Đức Chúa Trời dùng để nhìn nhận con người và sự việc – ít nhất ngươi sẽ có một sự hiểu biết và nhận thức được cách tiếp cận của Đức Chúa Trời đối với những điều này. Vậy từ góc độ của ngươi thì sao? Ít nhất ngươi phải biết đâu là cơ sở chính xác để nhìn người, cũng như tiêu chí nhìn người nào là phù hợp với lẽ thật và thực tế, và tuyệt đối sẽ không dẫn đến bất kỳ sai lầm hoặc lệch lạc nào. Nếu ngươi thực sự bắt đầu rõ về những vấn đề này, ngươi sẽ phân định được các khía cạnh này của văn hóa truyền thống, cũng như những câu nói, lý luận và cách nhìn người khác nhau của con người, và ngươi sẽ có thể từ bỏ triệt để những khía cạnh này của văn hóa truyền thống cũng như tất cả những câu nói và quan điểm khác nhau bắt nguồn từ con người. Bằng cách này, ngươi sẽ nhìn nhận và phân định mọi người dựa trên các nguyên tắc lẽ thật, và ở một mức độ nào đó, ngươi sẽ tương hợp với Đức Chúa Trời, và ngươi sẽ không phản nghịch, chống đối hoặc đối nghịch với Ngài. Khi ngươi dần dần đạt được sự tương hợp với Đức Chúa Trời, ngươi sẽ phát triển một sự thông sáng ngày càng rõ ràng về thực chất của con người và sự việc, sự vật, và ngươi sẽ tìm thấy sự xác nhận về điều này trong lời Đức Chúa Trời. Ngươi sẽ thấy rằng những lời phán khác nhau của Đức Chúa Trời phơi bày loài người, và những lời mô tả đặc điểm cũng như định nghĩa của Ngài về loài người đều đúng, và rằng tất cả những lời ấy đều là lẽ thật. Tất nhiên, khi ngươi tìm thấy sự xác nhận về điều này, ngươi sẽ ngày càng có thêm đức tin và sự hiểu biết về Đức Chúa Trời cũng như lời Ngài, và ngươi sẽ ngày càng chắc chắn rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và là thực tế mà con người phải sống thể hiện ra. Quá trình tiếp nhận và đạt được lẽ thật chẳng phải bao gồm những điều này sao? (Thưa, phải.) Đây là quá trình tiếp nhận và đạt được lẽ thật.

Mục đích của việc mưu cầu lẽ thật chính là tiếp nhận lẽ thật như sự sống của mình. Khi con người có thể tiếp nhận lẽ thật thì nhân tính và sự sống bên trong của họ bắt đầu dần dần chuyển hóa, và cuối cùng, sự chuyển hóa này là thu hoạch của họ. Trước đây, ngươi nhìn nhận con người và sự việc theo văn hóa truyền thống, nhưng bây giờ ngươi đã nhận ra rằng làm như vậy là sai, và ngươi không còn nhìn nhận sự việc từ góc độ đó nữa, cũng không nhìn nhận bất kỳ người nào dựa trên những gì văn hóa truyền thống quy định nữa. Vậy thì bây giờ ngươi sẽ nhìn nhận con người và sự việc trên cơ sở nào? Nếu ngươi không biết thì chứng tỏ ngươi vẫn chưa tiếp nhận lẽ thật. Nếu ngươi đã biết mình nên nhìn nhận con người và sự việc theo các nguyên tắc lẽ thật nào, nếu ngươi có thể trình bày chính xác và rõ ràng cơ sở, con đường, các tiêu chí và nguyên tắc của ngươi, và nếu ngươi cũng có thể phân định và đối xử với mọi người theo những nguyên tắc lẽ thật này, thì lẽ thật đã bắt đầu có tác dụng trong ngươi, nó đang dẫn dắt suy nghĩ của ngươi và chi phối góc độ ngươi nhìn nhận con người và sự việc. Điều này chứng tỏ lẽ thật đã bén rễ trong ngươi và trở thành sự sống của ngươi rồi. Vậy thì ảnh hưởng của lẽ thật đối với ngươi cuối cùng sẽ giúp ích cho ngươi như thế nào? Chẳng phải nó sẽ ảnh hưởng đến cách ngươi hành xử, con đường ngươi chọn và hướng đi của ngươi trong cuộc đời sao? (Thưa, phải.) Nếu nó có thể ảnh hưởng đến cách hành xử của ngươi và con đường ngươi đi, thì chẳng phải nó sẽ ảnh hưởng đến mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời sao? (Thưa, phải.) Kết quả nào sẽ đến từ việc lẽ thật ảnh hưởng đến mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời? Ngươi sẽ trở nên gần gũi hơn hay xa cách hơn với Ngài? (Thưa, con sẽ trở nên gần gũi hơn với Đức Chúa Trời.) Ngươi chắc chắn sẽ trở nên gần gũi hơn với Ngài. Khi ngươi trở nên gần gũi hơn với Đức Chúa Trời, ngươi sẽ sẵn sàng đi theo Ngài và phủ phục trước Ngài hơn, hay ngươi sẽ miễn cưỡng tin vào sự tồn tại của Ngài trong khi bị cản trở bởi những nghi ngờ và hiểu lầm? (Thưa, con sẽ sẵn lòng đi theo Đức Chúa Trời và phủ phục trước Ngài.) Chắc chắn là như thế. Bây giờ ngươi sẽ làm thế nào để đạt được sẵn lòng này? Ngươi sẽ tìm thấy sự xác nhận của lời Đức Chúa Trời trong cuộc sống thực của mình; lẽ thật sẽ bắt đầu có tác dụng trong ngươi, và ngươi sẽ tìm thấy sự xác nhận về điều đó. Trong quá trình hé lộ vạn sự và vạn vật, nguồn gốc ẩn giấu của vạn sự và vạn vật sẽ được xác nhận bên trong ngươi và ngươi sẽ thấy nó hoàn toàn phù hợp với lời Đức Chúa Trời. Ngươi sẽ xác minh rằng hết thảy lời Đức Chúa Trời đều là lẽ thật, và điều này sẽ tăng cường đức tin của ngươi nơi Đức Chúa Trời. Ngươi càng có thêm đức tin nơi Đức Chúa Trời, thì mối quan hệ của ngươi với Ngài sẽ càng trở nên bình thường, ngươi sẽ ngày càng sẵn sàng hành động như một loài thọ tạo và sẵn sàng xem Đức Chúa Trời là Đấng tể trị của mình, đồng thời phần quy phục Đức Chúa Trời trong ngươi sẽ tăng lên. Ngươi nghĩ gì về sự cải thiện này trong mối quan hệ của mình? Thật tuyệt vời, phải không nào? Đây là kết quả của một quá trình phát triển tốt đẹp và tích cực. Vậy thì hậu quả của một quá trình phát triển xấu xa và tệ hại sẽ là gì? (Thưa, đức tin của con vào sự tồn tại của Đức Chúa Trời sẽ ngày càng yếu đi, và con sẽ có những hiểu lầm và nghi ngờ về Đức Chúa Trời.) Hậu quả tối thiểu sẽ là như vậy. Ngươi sẽ không nhận được sự xác nhận trong bất kỳ vấn đề nào, và ngươi sẽ không những không đạt được lẽ thật trong đức tin của mình, mà còn hình thành đủ loại quan niệm – ngươi sẽ hiểu lầm, oán trách và đề phòng Đức Chúa Trời, và cuối cùng ngươi sẽ chối bỏ Ngài. Nếu trong lòng ngươi chối bỏ Đức Chúa Trời, liệu ngươi còn có thể theo Ngài được không? (Thưa, không.) Ngươi sẽ không còn muốn theo Ngài nữa. Sau đó, điều gì sẽ xảy ra? Ngươi sẽ mất hứng thú với những gì Đức Chúa Trời làm và phán. Khi Đức Chúa Trời phán: “Ngày tận thế của nhân loại đang cận kề”, ngươi sẽ đáp lại: “Con có thấy gì đâu!”. Ngươi sẽ không tin Ngài. Khi Đức Chúa Trời phán: “Ngươi sẽ có một đích đến tốt đẹp sau khi mưu cầu lẽ thật”, ngươi sẽ đáp lại: “Đích đến tốt đẹp Ngài nói đến ở đâu? Con không thấy!”. Ngươi sẽ không quan tâm. Khi Đức Chúa Trời phán: “Ngươi phải hành động như một loài thọ tạo đích thực”, ngươi sẽ đáp lại: “Hành động như một loài thọ tạo đích thực có ích lợi gì không? Con có thể đạt được bao nhiêu phước lành từ đó? Con có thể thực sự đạt được phước lành khi làm điều đó không? Nó có liên quan đến việc đạt được phước lành không?”. Khi Đức Chúa Trời phán: “Ngươi phải chấp nhận và quy phục quyền tối thượng của Đức Chúa Trời!”, ngươi sẽ đáp lại: “Quyền tối thượng gì chứ? Tại sao con không thể cảm nhận được quyền tối thượng của Đức Chúa Trời? Nếu Đức Chúa Trời thực sự tể trị, tại sao Ngài lại để con sống trong nghèo khó? Tại sao Ngài lại để con đổ bệnh? Nếu Đức Chúa Trời tể trị, tại sao mọi thứ luôn quá đỗi khó khăn đối với con?”. Lòng ngươi sẽ đầy những lời phàn nàn, và ngươi sẽ không tin bất cứ điều gì Đức Chúa Trời phán. Điều này sẽ chứng tỏ ngươi thiếu đức tin thực sự nơi Đức Chúa Trời. Và đó là lý do tại sao trong khi gặp phải các vấn đề khác nhau, ngươi sẽ chỉ biết phàn nàn mà không có một chút vâng phục nào. Đó là cách ngươi sẽ đi đến kết cục tệ hại này. Một số người nói: “Vì Đức Chúa Trời tể trị, Ngài phải giúp tôi khỏi bệnh ngay lập tức. Ngài phải giúp tôi đạt được tất cả những gì tôi muốn. Tại sao cuộc sống của tôi bây giờ đầy rẫy những phiền nhiễu và đau khổ vậy?”. Họ đã đánh mất đức tin nơi Đức Chúa Trời, và họ không còn lại dù chỉ một chút đức tin mơ hồ nào mình từng có – nó đã hoàn toàn biến mất. Đây là hậu quả tệ hại và kết quả xấu của tất cả những điều này. Các ngươi có muốn đi đến mức này không? (Thưa, không.) Làm thế nào để các ngươi có thể tránh hạ xuống mức này? Đối với lẽ thật, các ngươi phải nỗ lực – chìa khóa và con đường cho tất cả những điều này nằm ở lẽ thật và lời Đức Chúa Trời. Nếu ngươi nỗ lực đối với lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, thì tự lúc nào không hay, ngươi sẽ bắt đầu thấy rõ hơn con đường Đức Chúa Trời đã chỉ dạy ngươi và dẫn dắt ngươi, và ngươi sẽ thấy được thực chất của những con người, sự việc và sự vật Đức Chúa Trời sắp đặt. Qua từng bước của trải nghiệm này, ngươi sẽ dần dần khám phá ra các nguyên tắc và cơ sở để nhìn nhận con người và sự việc, cũng như để cư xử và hành động theo lời Đức Chúa Trời. Bằng cách tiếp nhận và hiểu được lẽ thật, ngươi sẽ tìm thấy các nguyên tắc và con đường thực hành trong những con người, sự việc và sự vật ngươi gặp phải. Nếu ngươi thực hành theo những con đường này, thì lời Đức Chúa Trời sẽ đi vào trong ngươi và trở thành sự sống của ngươi, và tự lúc nào không hay, ngươi sẽ bắt đầu sống dưới quyền tối thượng và sự sắp đặt của Đức Chúa Trời. Khi sống dưới quyền tối thượng và sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, ngươi sẽ vô thức học được cách nhìn nhận con người và sự việc theo lời Đức Chúa Trời, và ngươi sẽ nhìn mọi sự từ lập trường, quan điểm và cách nhìn đúng đắn; kết quả từ việc nhìn nhận sự việc của ngươi sẽ phù hợp với lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, đồng thời sẽ cho phép ngươi ngày càng gần Đức Chúa Trời hơn và ngày càng khao khát lẽ thật. Tuy nhiên, nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật, không nỗ lực đối với lẽ thật, và nếu ngươi không quan tâm đến lẽ thật, thì rất khó nói cuối cùng ngươi sẽ đi về đâu. Cuối cùng, kết quả tồi tệ nhất có thể xảy ra là khi con người không nhìn thấy hành động của Đức Chúa Trời hoặc không cảm nhận được quyền tối thượng của Ngài, bất kể họ cố gắng tin vào Ngài như thế nào; đó là khi họ không nhận thức được sự toàn năng và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, bất kể đã trải qua bao nhiêu điều. Trong những trường hợp như vậy, con người sẽ chỉ thừa nhận rằng những lời Đức Chúa Trời bày tỏ là lẽ thật, nhưng họ sẽ không nhìn thấy hy vọng được cứu rỗi, càng không thấy rằng tâm tính của Đức Chúa Trời là công chính và thánh khiết, và họ sẽ luôn cảm thấy đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời thật mơ hồ. Điều này cho thấy rằng họ đã không đạt được lẽ thật hay sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, và rằng họ chẳng đạt được gì cả sau bao năm tin vào Đức Chúa Trời. Mối thông công của Ta về câu nói thứ ba: “Nghiêm khắc với mình và khoan dung với người” kết thúc tại đây.

Câu nói thứ tư về đức hạnh là gì? (Thưa, là “Lấy đức báo oán”.) Người ta có nuôi những ý định nhất định khi lấy đức báo oán không? Chẳng phải họ đang “lùi một bước, biển rộng trời cao” sao? Đây chẳng phải là một cách giải quyết dàn hòa sao? Người ta không muốn bị cuốn vào vòng luẩn quẩn trả thù không hồi kết, họ mong muốn làm êm xuôi mọi chuyện để có thể sống bình an hơn một chút. Đời người không quá dài, và cho dù họ sống đến trăm tuổi hay mấy trăm tuổi, họ vẫn thấy đời mình ngắn ngủi. Cả ngày họ chìm đắm trong những suy nghĩ trả thù và tàn sát, thế giới nội tâm của họ đầy xáo trộn, và họ sống một cuộc sống bất hạnh. Vì vậy, họ cố gắng tìm cách sống một cuộc sống hạnh phúc hơn, vui vẻ hơn, và đối xử tốt với bản thân – tức là lấy đức báo oán. Là con người thì điều không thể tránh khỏi chuyện đắc tội với nhau và trở thành nạn nhân của những âm mưu của nhau trong cuộc đời, họ luôn bị ám ảnh bởi những cảm xúc phục thù và cay đắng, và họ sống thể hiện ra một sự tồn tại khá thảm thương, cho nên các nhà đạo đức, với động lực là vì bầu không khí xã hội và sự ổn định, đoàn kết xã hội, đã đề xướng tiêu chí đạo đức này với thế giới. Họ cảnh cáo mọi người không nên lấy oán báo oán, và nên kiềm chế sự hận thù, tàn sát, khuyên nhủ mọi người thay vào đó học cách lấy đức báo oán. Họ nói rằng cho dù ai đó làm hại ngươi trong quá khứ, thì ngươi cũng không nên trả thù họ, mà thay vào đó giúp đỡ họ, quên đi những việc làm sai trái trong quá khứ của họ, tương tác bình thường với họ, và từ từ cảm hóa họ, xoa dịu mối thù hằn giữa các ngươi, và đạt được một mối quan hệ hòa hợp. Chẳng phải điều này sẽ dẫn đến sự hòa thuận trong xã hội nói chung sao? Họ nói rằng bất kể ai đã xúc phạm ngươi, dù là thành viên trong gia đình, bạn bè, hàng xóm hay đồng nghiệp, ngươi cũng phải lấy đức báo oán, và kiếm chế bản thân không được ôm mối hận thù. Họ cho rằng nếu ai cũng làm được điều này thì sẽ đúng như người ta nói: “Mỗi người cho đi một chút yêu thương thì thế giới sẽ trở thành một nơi tuyệt vời”. Chẳng phải những câu nói này dựa trên sự tưởng tượng sao? Một nơi tuyệt vời ư? Mơ đi! Nhìn xem ai là người vận hành thế giới này và ai là kẻ làm nhân loại bại hoại. Câu nói về đức hạnh “Lấy đức báo oán” có thể thực sự đạt được sự thay đổi nào không? Nó không thể thay đổi được bất cứ điều gì. Giống như những câu nói khác, câu này đặt ra những yêu cầu nhất định đối với phẩm chất đạo đức của con người, hoặc buộc họ tuân theo một số quy định nhất định. Nó đòi hỏi họ phải kiềm chế việc tìm đến sự hận thù và tàn sát khi đối mặt với sự hận thù và tàn sát của người khác, và đòi hỏi họ phải đối xử với những người làm hại mình một cách bình thản, bình tĩnh và sử dụng đức hạnh của mình để hóa giải sự thù hằn và tàn sát đó, cũng như để giảm đổ máu. Tất nhiên, câu nói về đức hạnh này có tác dụng đối với con người ở một mức độ nhất định; nó có thể dập tắt thù hằn và oán hận, và giảm bớt những vụ giết người trả thù ở một mức độ nhất định; và nó có thể có một mức độ ảnh hưởng tích cực nhất định đến bầu không khí xã hội, trật tự xã hội và sự hòa thuận xã hội, nhưng những điều kiện tiên quyết để câu nói này có được tác dụng đó là gì? Có những điều kiện tiên quyết quan trọng về mặt môi trường xã hội. Một là lý trí và sự phán đoán bình thường mà con người sở hữu. Người ta nghĩ: “Người mình muốn trả thù này ít nhiều mạnh hơn mình nhỉ? Nếu mình trả thù họ, liệu mình có thể đạt được mục đích không? Nếu mình trả thù và giết họ, liệu mình có đang tự chuốc lấy họa sát thân không?”. Đầu tiên họ cân nhắc về hậu quả. Sau khi suy nghĩ thấu đáo, hầu hết mọi người đều nhận ra: “Họ có quan hệ tốt, họ có nhiều ảnh hưởng trong xã hội, và họ độc ác, tàn bạo, vì vậy mặc dù họ đã làm hại mình, nhưng mình không thể tìm cách trả thù họ được. Mình đành phải âm thầm nuốt nhục mà sống thôi. Nhưng nếu đời này có cơ hội trả thù, mình sẽ nắm lấy”. Tục ngữ có câu: “Có thù mà không trả thì là kẻ phi quân tử” và “Quân tử báo thù, mười năm chưa muộn”. Con người vẫn nuôi những triết lý sống kiểu này. Triết lý sống lấy đức báo oán được mọi người tuân theo, một mặt là do nó liên quan trực tiếp đến môi trường xã hội và sự bại hoại sâu sắc của con người – nó nảy sinh do những quan niệm của con người và sự phán đoán của lý trí họ. Khi gặp phải những tình huống kiểu như thế này, hầu hết mọi người chỉ có thể âm thầm nuốt nhục mà sống, và bề ngoài thực hành lấy đức báo oán, gạt bỏ hận thù và mối thù truyền kiếp của mình. Một lý do khác khiến người ta bám vào triết lý sống này là trong một số trường hợp, có sự chênh lệch lớn về sức mạnh giữa hai bên liên quan, nên bên bị hại không dám tìm cách trả thù, và họ buộc phải lấy đức báo oán vì không thể làm gì khác. Nếu họ trả thù, họ có thể gây nguy hiểm đến tính mạng của cả gia đình mình, và hậu quả sẽ không thể tưởng tượng được. Trong những trường hợp như vậy, người ta thấy tốt hơn là nên tiếp tục sống bằng cách nuốt nhục. Tuy nhiên, khi làm như vậy, họ có vượt qua được sự oán giận không? Có ai có khả năng quên đi mối hận thù không? (Thưa, không.) Đặc biệt là trong những trường hợp mối hận thù cực kỳ sâu sắc, chẳng hạn như khi ai đó đã giết người thân của ngươi, khiến ngươi nhà tan cửa nát, thân bại danh liệt, từ đó khiến ngươi hình thành mối thâm thù đại hận đối với họ – không ai có thể bỏ qua mối hận thù như thế. Đây là một phần của nhân tính và nó là thứ nhân tính không thể vượt qua. Con người theo bản năng nảy sinh cảm giác hận thù trong những tình huống như vậy – điều này hoàn toàn bình thường. Bất kể chúng nảy sinh do sự nóng nảy, bản năng hay lương tri, thì trong mọi trường hợp, đó là một phản ứng bình thường. Ngay cả chó cũng trở nên thân thiết với những người đối xử tốt với chúng và thường xuyên cho chúng ăn hoặc giúp đỡ chúng, và chúng bắt đầu tin tưởng họ, trong khi đó chúng lại khinh ghét những kẻ bạo hành và ngược đãi chúng – chưa hết, chúng thậm chí còn khinh ghét những người có mùi hoặc có tiếng nói giống kẻ bạo hành. Ngươi thấy đấy, ngay cả chó cũng có bản năng này, nói gì đến con người! Xét rằng con người có đầu óc phức tạp hơn nhiều so với động vật, nên việc họ cảm thấy thù hằn khi đối mặt với sự giết chóc trả thù hoặc đối xử bất công là điều hoàn toàn bình thường. Tuy nhiên, vì một số lý do và hoàn cảnh cụ thể, người ta thường buộc phải nhượng bộ và nuốt nhục mà sống, tạm thời chịu đựng mọi thứ – nhưng điều này không có nghĩa là họ mong muốn hoặc có khả năng lấy đức báo oán. Những gì Ta vừa phán là dựa trên góc độ nhân tính và phản ứng bản năng của con người. Bây giờ nếu chúng ta nhìn điều này từ góc độ sự thật khách quan về xã hội – nếu một người không lấy đức báo oán, mà thay vào đó trả thù và giết người, thì hậu quả sẽ ra sao? Họ sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý, họ có thể bị giam giữ, bị kết án tù và thậm chí có thể phải chịu án tử hình. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể kết luận rằng, dù dưới góc độ nhân tính hay dưới góc độ sức mạnh kiềm chế của xã hội và pháp luật, khi con người phải đối mặt với sự đối xử bất công và giết chóc trả thù, không một ai có thể đánh bật sự hận thù ra khỏi tâm trí hoặc từ trong sâu thẳm lòng mình. Ngay cả khi trở thành nạn nhân của những tổn hại nhẹ như bị công kích bằng lời nói, bị nhạo báng hoặc chế giễu, con người vẫn không thể lấy đức báo oán. Khả năng lấy đức báo oán có phải là một biểu hiện bình thường của nhân tính không? (Thưa, không.) Vậy thì khi một người bị bắt nạt hoặc hãm hại, nhân tính của họ tối thiểu cần và đòi hỏi điều gì? Có ai hớn hở, vui vẻ nói: “Bắt nạt tôi đi! Anh thật mạnh và xấu xa, anh có thể bắt nạt tôi tùy thích, còn tôi sẽ lấy đức báo oán. Anh sẽ cảm nhận rõ ràng được nhân cách và đạo đức cao thượng của tôi, và tôi chắc chắn sẽ không trả thù anh hay hình thành bất kỳ quan điểm nào về anh. Tôi sẽ không nổi giận với anh – tôi sẽ chỉ coi tất cả điều đó như một trò đùa. Dù những điều anh nói có xúc phạm đến nhân cách của tôi, làm tổn thương lòng tự trọng của tôi, hay làm tổn hại lợi ích của tôi đến đâu, thì cũng không sao cả và anh có thể thoải mái thích nói gì thì nói”. Những người như vậy có tồn tại không? (Thưa, không.) Tuyệt đối không ai thực sự có khả năng buông bỏ mối hận thù của mình – nếu họ có thể trải qua một thời gian mà không giết kẻ thù để trả thù thì họ đã đang làm tốt rồi. Vì vậy, không ai thực sự có khả năng lấy đức báo oán, và ngay cả khi người ta thực hành hành vi đạo đức này, đó sẽ là vì họ buộc phải hành động theo cách đó do những bó buộc của hoàn cảnh cụ thể vào thời điểm đó, hoặc do toàn bộ vụ việc trên thực tế là bịa đặt và hư cấu. Trong hoàn cảnh bình thường, khi con người trở thành nạn nhân của sự bức hại hoặc tàn hại nghiêm trọng, họ sẽ hình thành mối hận thù và trở nên đầy ý chí phục thù. Trường hợp duy nhất một người có thể không nhận biết được hoặc không phản ứng lại sự hận thù của chính mình là nếu sự hận thù đó quá lớn và họ phải chịu một cú sốc nghiêm trọng đến mức cuối cùng mất trí nhớ hoặc mất trí. Nhưng bất kỳ ai có nhân tính và lý trí bình thường đều không muốn bị đối xử bằng sự xúc phạm, sự phân biệt đối xử, miệt thị, chế nhạo, châm chọc, nhạo báng, hãm hại, v.v., hoặc đi xa đến mức chà đạp, xúc phạm nhân cách, phẩm giá của họ; không ai sẽ vui vẻ dùng đức hạnh mà giả dối báo đáp những người trước đây đã xúc phạm hoặc làm hại mình – không ai có khả năng làm điều đó. Do đó, câu nói về đức hạnh lấy đức báo oán này có vẻ rất yếu ớt, nhạt nhòa, rỗng tuếch và vô nghĩa đối với nhân loại bại hoại.

Nếu chúng ta nhìn vấn đề này từ góc độ lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường, thì bất kể một người bại hoại đến đâu, và bất kể họ là kẻ ác hay người có nhân tính tương đối tốt, thì họ cũng đều hy vọng người khác sẽ đối xử tốt với mình với mức độ tôn trọng cơ bản. Nếu ai đó không có lý do gì mà lại tâng bốc và xu nịnh ngươi, thì điều đó có làm ngươi vui không? Ngươi có thích điều đó không? (Thưa, không.) Tại sao ngươi không thích điều đó? Ngươi sẽ cảm thấy như thể mình đang bị lừa đúng không? Ngươi sẽ nghĩ: “Với anh, tôi trông như một đứa trẻ lên ba hay sao? Sao mà tôi không hiểu nổi tại sao anh lại cảm thấy cần phải nói với tôi những điều này vậy? Tôi có tốt như anh nói không? Tôi đã làm bất cứ điều gì trong số đó chưa? Tất cả những lời tâng bốc ngu xuẩn này để làm gì? Sao anh lại không ghê tởm chính mình nhỉ?”. Con người không thích nghe những lời tâng bốc, và họ coi đó là một dạng xúc phạm. Ngoài sự tôn trọng tối thiểu, con người còn mong muốn người khác đối xử với mình như thế nào nữa? (Thưa, bằng sự chân thành.) Yêu cầu con người đối xử với người khác bằng sự chân thành là điều không thể – nếu họ kiềm chế không bắt nạt người khác là đã khá tốt rồi. Yêu cầu con người không bắt nạt nhau là một yêu cầu tương đối khách quan. Con người hy vọng người khác sẽ tôn trọng mình, không bắt nạt mình và quan trọng nhất là đối xử công bằng với mình. Họ hy vọng người khác sẽ không quấy rối họ khi họ dễ bị tổn thương, hoặc không tẩy chay họ khi lỗi lầm của họ bị phơi bày, hoặc không luôn tâng bốc và xu nịnh họ. Con người thấy những loại hành vi này thật ghê tởm và chỉ muốn được đối xử công bằng – chẳng phải vậy sao? Đối xử công bằng với người khác là một lý tưởng tương đối tích cực trong thế giới con người và trong cõi tư tưởng của con người. Tại sao Ta lại nói như vậy? Thử nghĩ mà xem: Tại sao mọi người đều thích Bao Công? Mọi người thích xem sự khắc họa quá trình phá án của Bao Công mặc dù những vụ án này là hư cấu và dàn dựng. Tại sao mọi người vẫn thích chúng? Tại sao họ vẫn muốn xem chúng? Bởi vì trong thế giới lý tưởng của họ, trong cõi tư tưởng của họ và trong sâu thẳm lòng họ, họ đều mong ước một thế giới tích cực và tốt đẹp hơn một chút. Họ mong ước con người được sống trong một môi trường xã hội tương đối công bằng và công minh, trong một thế giới mà tất cả mọi người đều được đảm bảo điều này. Như thế, ít nhất khi ngươi bị quấy rối bởi các thế lực tà ác, sẽ có một nơi công lý được bảo vệ, nơi ngươi có thể nộp đơn khiếu nại về những bất bình của mình, nơi ngươi sẽ có quyền khiếu nại, và cuối cùng là nơi sẽ làm sáng tỏ những bất công ngươi phải gánh chịu. Trong xã hội và nhân loại này, sẽ có một nơi ngươi có thể minh oan, bảo vệ bản thân khỏi việc phải chịu bất kỳ sự sỉ nhục hay gánh chịu bất kỳ nỗi bất bình nào. Đây chẳng phải là xã hội lý tưởng của con người sao? Đây chẳng phải là điều mỗi người đều mong mỏi sao? (Thưa, phải.) Đây là mơ ước của mỗi người. Con người hy vọng họ sẽ được đối xử công bằng – họ không muốn trở thành đối tượng của bất kỳ sự đối xử bất công nào, hoặc không có nơi nào để khiếu nại nếu bị đối xử bất công, nếu không thì họ sẽ thấy rất đau khổ. Có thể nói tiêu chuẩn và yêu cầu đặt ra đối với đức hạnh “Lấy đức báo oán” của con người quá xa rời thực tế bại hoại của nhân loại trong đời thực. Và như vậy, yêu cầu đặt ra đối với đức hạnh của con người này không quan tâm đến con người, quá xa rời thực tế khách quan và đời sống thực tiễn. Đó là một câu nói được đưa ra bởi những người theo chủ nghĩa lý tưởng, những người không hiểu gì về thế giới nội tâm của những người yếu thế đã bị ngược đãi và làm nhục – những người theo chủ nghĩa lý tưởng này không ý thức được mức độ những người yếu thế này bị ngược đãi, và mức độ phẩm giá cũng như nhân cách của họ bị xúc phạm, hay thậm chí mức độ sự an toàn cá nhân của chính họ bị đe dọa. Họ không hiểu những thực tế đó, thế mà vẫn yêu cầu những nạn nhân này phải hòa giải với kẻ tấn công và kiềm chế không trả thù họ, nói những lời như: “Anh sinh ra để bị ngược đãi và anh phải chấp nhận số phận đi. Anh sinh ra dưới đáy xã hội và mang trong mình yếu tố nô lệ. Anh sinh ra để bị người khác cai trị – anh không nên trả thù những người làm hại mình, mà thay vào đó nên lấy đức báo oán. Anh nên làm phần việc của mình vì lợi ích của bầu không khí xã hội và sự hòa thuận xã hội, đồng thời đóng góp cho xã hội bằng cách thể hiện năng lượng tích cực và hành vi đạo đức tốt nhất của mình”. Tất cả những điều này được nói ra rõ ràng để bào chữa cho việc bóc lột tầng lớp thấp kém bởi tầng lớp trên của xã hội và tầng lớp thống trị, để cho họ có được sự thuận tiện này, và thay mặt họ xoa dịu trái tim cũng như cảm xúc của những người yếu thế. Đây chẳng phải là mục đích của việc nói những điều như vậy sao? (Thưa, phải.) Nếu hệ thống luật pháp và xã hội của mọi quốc gia, hệ thống và quy định của mọi chủng tộc và thị tộc đều công bằng và nghiêm minh, thì liệu có cần thiết phải cổ xúy câu nói thiếu khách quan đi ngược lại quy luật nhân tính này không? Không cần thiết. Câu nói “Lấy đức báo oán” rõ ràng chỉ được cổ xúy như một con đường và một sự thuận tiện cho tầng lớp thống trị và những kẻ ác có quyền, có thế bóc lột, chà đạp nhóm yếu thế. Đồng thời, để xoa dịu tầng lớp yếu thế và ngăn chặn họ tìm cách trả thù hoặc trở nên thù địch với người giàu, giới thượng lưu và tầng lớp thống trị, những người gọi là nhà tư tưởng và nhà giáo dục này tự đặt mình lên đỉnh cao của uy quyền đạo đức, cổ xúy câu nói này dưới ngọn cờ yêu cầu mọi người thực hành hành vi đạo đức tốt. Chẳng phải điều này thậm chí còn tạo ra nhiều mâu thuẫn hơn trong xã hội sao? Ngươi càng đàn áp người dân, cuối cùng xã hội càng bất công. Nếu xã hội đã thực sự công bằng và công minh, liệu có cần thiết phải dùng câu nói này để đánh giá và đặt ra những yêu cầu đối với đức hạnh của con người không? Điều này rõ ràng là do thực tế không có công lý trong xã hội hoặc giữa nhân loại. Nếu những kẻ hành ác có thể bị pháp luật trừng trị, hoặc nếu những kẻ có tiền, có quyền cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thì câu nói “Lấy đức báo oán” sẽ không có giá trị và không tồn tại. Bao nhiêu dân thường có thể làm hại một quan chức? Bao nhiêu người nghèo có thể làm hại người giàu? Sẽ rất khó để họ làm điều đó. Như vậy, câu nói “Lấy đức báo oán” rõ ràng là nhắm vào dân thường, người nghèo và các tầng lớp thấp – đó là một câu nói vô đạo đức và bất công. Ví dụ: nếu ngươi yêu cầu một quan chức chính phủ phải lấy đức báo oán, họ sẽ nói với ngươi: “Tôi mà phải báo oán gì? Ai dám gây rối với tôi? Ai dám xúc phạm tôi? Ai dám nói ‘không’ với tôi? Ai mà nói không với tôi thì tôi giết kẻ đó, tôi sẽ tiêu diệt toàn bộ gia đình và từng người thân của họ!”. Ngươi thấy đấy, đối với quan chức, không có ác để báo, cho nên câu nói “Lấy đức báo oán” thậm chí còn không tồn tại đối với họ. Nếu ngươi nói với họ: “Anh phải thực hành đức hạnh lấy đức báo oán này đi, anh phải có đức hạnh này đi”, thì họ sẽ trả lời: “Chắc chắn rồi, tôi có thể làm được điều đó”. Đây hoàn toàn là một lời nói dối lừa bịp. Dù sao đi nữa, “Lấy đức báo oán” thực chất chỉ là một câu nói được các nhà đạo đức xã hội cổ xúy như một cách xoa dịu các tầng lớp thấp, và hơn thế nữa, đó là một câu nói được cổ xúy để nô dịch hóa các tầng lớp thấp. Nó được cổ xúy để ổn định hơn nữa quyền lực của tầng lớp thống trị, để lấy lòng tầng lớp thống trị và duy trì tình trạng bị nô dịch của các tầng lớp thấp, để họ không phàn nàn ngay cả khi bị nô dịch hóa qua nhiều thế hệ. Từ đây, chúng ta có thể thấy rằng trong kiểu xã hội này, luật pháp và chế độ rõ ràng là bất công; kiểu xã hội này không chịu sự chi phối của lẽ thật, và không có sự ngự trị của lẽ thật, công lý hay sự công chính. Thay vào đó, nó bị chi phối bởi cái ác và quyền lực của con người, bất kể ai là quan chức nắm quyền. Nếu dân thường làm quan chức nắm quyền, tình hình cũng sẽ y như vậy. Đây là thực chất của chế độ xã hội này. “Lấy đức báo oán” phơi bày sự thật này. Câu này rõ ràng có một tính chất chính trị nhất định – đó là một yêu cầu đặt ra đối với đức hạnh của con người nhằm củng cố sự thống trị của tầng lớp thống trị và sự nô dịch hóa các tầng lớp thấp.

Việc yêu cầu mọi người lấy đức báo oán không những không phù hợp với những nhu cầu hoặc đòi hỏi bình thường của nhân tính, hay nhân cách và phẩm giá của con người, mà đương nhiên, nó càng không phải là một tiêu chuẩn đúng đắn để đánh giá phẩm chất nhân tính của một người. Yêu cầu này quá xa vời với nhân tính thực tế; không chỉ là nó không thể đạt được, mà nó không bao giờ nên được cổ xúy ngay từ đầu. Nó chỉ là một câu nói và một chiến lược mà tầng lớp thống trị sử dụng để tăng cường sự thống trị và kiểm soát của họ đối với quần chúng. Đương nhiên, Đức Chúa Trời chưa bao giờ đề cao loại câu nói này, dù là trong Thời đại Luật pháp, Thời đại Ân điển hay Thời đại Vương quốc hiện tại, và Đức Chúa Trời cũng chưa bao giờ sử dụng loại phương pháp, câu nói hay yêu cầu này làm cơ sở để đánh giá phẩm chất nhân tính của con người. Đó là bởi bất kể một người có đạo đức hay vô đạo đức, và bất kể hành vi đạo đức của họ tốt xấu thế nào, Đức Chúa Trời chỉ xem xét thực chất của họ – những câu nói về đức hạnh này không tồn tại trong mắt Đức Chúa Trời. Vì vậy, câu nói về đức hạnh “Lấy đức báo oán” là vô giá trị trong nhà Đức Chúa Trời và không đáng để phân tích. Bất kể ngươi lấy đức báo oán hay lấy thù báo oán, thì những người tin vào Đức Chúa Trời nên nhìn nhận vấn đề “báo oán” như thế nào? Họ nên nhìn nhận và tiếp cận vấn đề này với thái độ nào và quan điểm nào? Nếu có người hành ác trong hội thánh, thì nhà Đức Chúa Trời có các sắc lệnh quản trị và nguyên tắc riêng để xử lý người đó – không cần bất kỳ ai phải báo thù cho nạn nhân hay bênh vực họ trước sự bất công. Trong nhà Đức Chúa Trời không cần điều đó, và hội thánh sẽ tự nhiên xử lý vấn đề theo nguyên tắc. Đây là một thực tế mà mọi người có thể quan sát thấy và gặp phải. Nói một cách rất rõ ràng và chính xác: hội thánh có nguyên tắc xử lý con người và nhà Đức Chúa Trời có các sắc lệnh quản trị. Thế còn Đức Chúa Trời thì sao? Đối với Đức Chúa Trời, bất kỳ ai làm điều ác cũng sẽ bị trừng phạt thích đáng, và Đức Chúa Trời sẽ định đoạt thời điểm cũng như cách thức trừng phạt họ. Các nguyên tắc trừng phạt của Đức Chúa Trời tuyệt đối không thể tách rời tâm tính và thực chất của Ngài. Đức Chúa Trời có tâm tính công chính và không dung thứ sự xúc phạm, Ngài có sự oai nghi và thịnh nộ, và tất cả những ai hành ác sẽ bị Ngài trừng phạt thích đáng. Điều này cao hơn nhiều so với luật lệ của con người, nó vượt xa nhân tính và tất cả các luật lệ thế gian. Nó không chỉ công bằng, hợp lý, phù hợp với mong muốn của nhân tính, mà còn không đòi hỏi sự ca ngợi và khẳng định của mọi người. Nó không yêu cầu ngươi phải đánh giá vấn đề từ đỉnh cao của uy quyền đạo đức. Khi Đức Chúa Trời làm những điều này, Ngài có các nguyên tắc và thời điểm riêng của Ngài. Nên để cho Đức Chúa Trời hành động khi Ngài thấy phù hợp, và con người nên kiềm chế không can thiệp, vì điều này không liên quan gì đến họ. Đức Chúa Trời yêu cầu con người điều gì trong vấn đề “báo oán”? Rằng họ không được hành động hay trả thù người khác vì nóng nảy. Ngươi nên làm gì nếu ai đó xúc phạm ngươi, quấy rối ngươi hoặc thậm chí muốn làm hại ngươi? Có nguyên tắc nào để xử lý những việc như vậy không? (Thưa, có.) Có những giải pháp và nguyên tắc cho những điều này, và có cơ sở trong lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Dù thế nào đi nữa, câu nói về đức hạnh “Lấy đức báo oán” cũng không phải là một tiêu chuẩn để đánh giá phẩm chất nhân tính của con người. Nếu một người có khả năng lấy đức báo oán, thì cùng lắm có thể nói rằng họ tương đối khoan dung, giản dị, tốt bụng và độ lượng, rằng họ không nhỏ mọn và rằng họ có tư cách đạo đức chấp nhận được. Tuy nhiên, liệu phẩm chất nhân tính của người này có thể được đánh giá và xét đoán dựa trên một câu nói này không? Không, hoàn toàn không. Còn phải tính đến những gì họ mưu cầu, con đường họ đi, và thái độ của họ đối với lẽ thật và những điều tích cực, v.v. nữa. Đó là cách duy nhất để đánh giá chính xác họ có nhân tính hay không.

Mối thông công của chúng ta ngày hôm nay kết thúc ở đây.

Ngày 26 tháng 3 năm 2022

Trước: Mưu cầu lẽ thật là gì (5)

Tiếp theo: Mưu cầu lẽ thật là gì (7)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger