Thời đại Ân Điển, Đức Chúa Trời đã nhập thể làm của lễ chuộc tội và gánh tội lỗi của con người. Điều này hoàn toàn hợp lý. Đức Chúa Jêsus được thụ thai bởi Đức Thánh Linh và trở thành Con người để cứu chuộc nhân loại trong thân xác vô tội của Ngài. Chỉ có làm như vậy Sa-tan mới bị bẽ mặt. Thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời đã nhập thể làm Con người tái lâm để làm công tác phán xét. Chúng ta đã coi đây là sự thật. Tôi muốn hỏi điều này. Hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời hơi khác nhau, lần đầu tiên ở Giu-đê, và lần thứ hai là ở Trung Quốc. Tại sao Đức Chúa Trời phải nhập thể tới hai lần để thực hiện công tác cứu rỗi nhân loại? Ý nghĩa thật sự của hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời là gì?

13/04/2021

Câu trả lời: Tại sao Đức Chúa Trời phải nhập thể hai lần để thực hiện công tác cứu rỗi nhân loại? Đầu tiên chúng ta phải hiểu rõ: Trong sự cứu rỗi nhân loại, hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời có ý nghĩa sâu xa và thâm thúy. Vì công tác cứu rỗi, dù chúng ta có đang nói về sự cứu chuộc hay sự phán xét và làm tinh sạch vào thời kỳ sau rốt, cũng không thể được thực hiện bởi con người. Điều đó yêu cầu Đức Chúa Trời phải nhập thể và đích thân thực hiện công tác. Trong Thời đại Ân Điển, Đức Chúa Trời đã nhập thể làm Đức Chúa Jêsus, đó là Thần của Đức Chúa Trời mặc lấy xác thịt vô tội và thánh khiết, và bị đóng đinh vào thập giá để phụng sự như của lễ chuộc tội, cứu chuộc con người khỏi tội lỗi của họ. Chúng ta đều hiểu điều này. Nhưng còn sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus vào thời kỳ sau rốt, tại sao Ngài lại nhập thể trong xác thịt làm Con người để xuất hiện và công tác? Nhiều người gặp khó khăn để hiểu được chuyện này. Nếu Đức Chúa Trời Toàn Năng không giải thích khía cạnh này của lẽ thật và tỏ lộ lẽ nhiệm mầu, sẽ không ai hiểu được lẽ thật này. Hãy xem chính xác Đức Chúa Trời Toàn Năng đã phán thế nào.

Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Lần nhập thể đầu tiên là để cứu chuộc con người khỏi tội lỗi, để cứu chuộc họ bằng thân thể xác thịt của Jêsus, nghĩa là Ngài đã cứu con người khỏi thập tự giá, nhưng tâm tính sa-tan bại hoại vẫn còn trong con người. Lần nhập thể thứ hai không còn để làm một của lễ chuộc tội nữa, mà là để cứu rỗi hoàn toàn những ai đã được cứu chuộc khỏi tội lỗi. Điều này được thực hiện hầu cho những ai đã được tha thứ có thể được giải thoát khỏi tội lỗi của mình và được làm thanh sạch hoàn toàn, và qua việc đạt được một tâm tính thay đổi, mà thoát khỏi ảnh hưởng bóng tối của Sa-tan và trở lại trước ngôi của Đức Chúa Trời. Chỉ bằng cách này, con người mới có thể được nên thánh hoàn toàn. Sau khi Thời đại Luật pháp kết thúc, và bắt đầu với Thời đại Ân điển, Đức Chúa Trời đã bắt đầu công tác cứu rỗi, tiếp tục cho đến thời kỳ sau rốt, khi mà thông qua việc phán xét và hành phạt loài người vì sự phản nghịch của họ, Ngài sẽ hoàn toàn làm tinh sạch loài người. Chỉ khi đó Đức Chúa Trời mới kết thúc công tác cứu rỗi của Ngài và bước vào sự nghỉ ngơi. Do đó, trong ba giai đoạn công tác, chỉ có hai lần Đức Chúa Trời đã đích thân trở nên xác thịt để thực hiện công tác của Ngài giữa con người. Đó là bởi vì chỉ có một trong ba giai đoạn công tác là hướng dẫn con người sống cuộc sống của họ, trong khi hai giai đoạn còn lại bao gồm công tác cứu rỗi. Chỉ bằng cách trở nên xác thịt, Đức Chúa Trời mới có thể sống bên cạnh con người, trải nghiệm sự đau khổ của trần gian, và sống trong một thân thể xác thịt bình thường. Chỉ bằng cách này, Ngài mới có thể cung cấp cho con người con đường thực tế mà loài thọ tạo như họ cần. Chính nhờ thông qua sự nhập thể của Đức Chúa Trời mà con người nhận được sự cứu rỗi hoàn toàn từ Đức Chúa Trời, chứ không phải trực tiếp từ thiên đàng để đáp lại những lời cầu nguyện của họ. Vì con người thuộc về thịt và máu, nên họ không có cách nào nhìn thấy Thần của Đức Chúa Trời, càng không tiếp cận được Thần của Ngài. Tất cả những gì con người có thể tiếp xúc là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời, và chỉ bằng cách này, con người mới có thể nắm bắt được mọi con đường cùng mọi lẽ thật và nhận được sự cứu rỗi trọn vẹn”. “Vào thời điểm Jêsus đang thực hiện công tác của Ngài, sự hiểu biết của con người về Ngài vẫn còn mơ hồ và không rõ ràng. Con người đã luôn tin Ngài là con trai của Đa-vít, và tuyên bố Ngài là một tiên tri vĩ đại, vị Chúa nhân từ đã cứu chuộc tội lỗi của con người. Một số người, dựa trên đức tin của mình, đã được chữa lành chỉ bằng cách chạm vào mép áo của Ngài; người mù đã có thể nhìn thấy và thậm chí người chết đã có thể được sống lại. Tuy nhiên, con người đã không thể phát hiện ra tâm tính Sa-tan bại hoại ăn sâu bên trong mình, họ cũng không biết làm sao để loại bỏ nó. … Do đó, sau khi giai đoạn công tác đó đã kết thúc, vẫn còn công tác phán xét và hành phạt. Giai đoạn này là để làm cho con người tinh sạch thông qua lời, và từ đó cho họ một con đường để đi theo. Giai đoạn này sẽ không có kết quả hoặc ý nghĩa nếu nó tiếp tục với việc đuổi quỷ, vì nó sẽ không tiệt trừ được bản tính tội lỗi của con người, và con người sẽ đi vào bế tắc trước sự tha thứ cho tội lỗi của họ. Nhờ của lễ chuộc tội, con người đã được tha tội, vì công tác chịu đóng đinh đã kết thúc và Đức Chúa Trời đã đánh bại Sa-tan. Nhưng tâm tính bại hoại của con người vẫn còn trong họ, con người vẫn có thể phạm tội và chống lại Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời vẫn chưa thu phục được loài người. Đó là lý do tại sao trong giai đoạn công tác này, Đức Chúa Trời dùng lời để phơi bày tâm tính bại hoại của con người, khiến họ phải thực hành theo con đường đúng đắn. Giai đoạn này có ý nghĩa hơn giai đoạn trước, cũng như có hiệu quả hơn, vì bây giờ chính lời trực tiếp cung cấp cho sự sống của con người và cho phép tâm tính của con người được đổi mới hoàn toàn; đó là một giai đoạn công tác triệt để hơn nhiều. Do đó, sự nhập thể trong thời kỳ sau rốt đã hoàn tất ý nghĩa sự nhập thể của Đức Chúa Trời và hoàn thành trọn vẹn kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời cho việc cứu rỗi con người(Lẽ mầu nhiệm của sự nhập thể (4), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).

Từ lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng chúng ta thấy trong Thời đại Ân Điển, Đức Chúa Trời đã nhập thể lần đầu tiên chỉ để thực hiện công tác cứu chuộc, dùng việc đóng đinh vào thập giá như của lễ chuộc tội để cứu chuộc con người khỏi tội lỗi, để giải thoát con người khỏi lời nguyền và sự lên án của luật pháp. Ta chỉ phải thú nhận và ăn năn, và tội lỗi của chúng ta sẽ được tha thứ. Rồi chúng ta có thể tận hưởng ân điển và lẽ thật dồi dào. Đây là công tác cứu chuộc mà Đức Chúa Jêsus thực hiện, là ý nghĩa thực sự của việc được cứu rỗi bởi đức tin vào Chúa. Ta được cứu rỗi qua đức tin vào Chúa và được tha thứ cho tội lỗi của mình, nhưng ta có thực sự được giải thoát khỏi tội lỗi? Dù Đức Chúa Jêsus đã tha thứ cho tội lỗi của chúng ta, ta vẫn chưa tự mình thoát khỏi sự trói buộc của tội lỗi, vì chúng ta vẫn bị bản tính tội lỗi và tâm tính Sa-tan chiếm hữu. Dù chúng ta thừa nhận tội lỗi với Chúa, và được Ngài tha thứ, chúng ta vẫn không hiểu được bản tính tội lỗi của mình, và thậm chí chẳng hiểu gì về tâm tính bại hoại của mình, tình trạng này còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi. Ta chỉ có thể nhận thức rằng tội lỗi bên trong mình chứa đựng sự vô pháp, điều đó dẫn đến sự kết tội trong lương tâm. Nhưng chúng ta không nhận ra tội lỗi sâu xa hơn, tội lỗi chống đối Đức Chúa Trời. Chẳng hạn, ta không hiểu được nguồn gốc sự chống đối Đức Chúa Trời, hay tâm tính Sa-tan của ta bị phơi bày như thế nào, bản tính Sa-tan của ta xuất hiện như thế nào, chất độc nào của Sa-tan tồn tại bên trong bản tính của chúng ta, triết lý Sa-tan của con người, lôgic và phép tắc của Sa-tan từ đâu xuất hiện. Vậy tại sao con người không hiểu biết những điều về Sa-tan này? Cứ cho là con người đã được tha thứ khỏi tội lỗi bởi Đức Chúa Jêsus, tại sao họ không thể tự thoát khỏi trói buộc của tội lỗi, và còn tiếp tục phạm phải tội lỗi giống nhau? Con người có thật sự tinh sạch khi được tha thứ khỏi tội lỗi? Họ có thực sự thánh khiết? Đây là vấn đề rất thực tế mà không một ai ở Thời đại Ẩn Điển hiểu được. Dù trong niềm tin vào Chúa, chúng ta được tha thứ tội lỗi của mình, chúng ta vẫn vô thức phạm tội, chống đối và phản bội Đức Chúa Trời. Các tín hữu chúng ta đều mắt thấy tai nghe điều này. Chẳng hạn, sau khi đặt đức tin vào Chúa, chúng ta tiếp tục lừa dối, tham hư vinh, xem thường lẽ thật và sùng thượng sự ác. Chúng ta vẫn kiêu ngạo, phản nghịch, ích kỉ và tham lam, chúng ta bất lực để mình bị cuốn vào tâm tính bại hoại của Sa-tan. Nhiều người làm việc không mệt mỏi vì Chúa, nhưng họ làm vậy để mong được ban thưởng và bước vào vương quốc thiên đàng. Khi họ tận hưởng ân điển của Chúa, họ cao hứng và kiên quyết trong đức tin vào Chúa, nhưng ngay khi họ đối mặt với tai họa, hoặc bi kịch trong gia đình, họ hiểu nhầm, trách móc và thậm chí phủ nhận và phản bội Chúa. Ngay khi công tác của Đức Chúa Trời không phù hợp với quan niệm và ảo tưởng của họ, họ cư xử như những người Pha-ri-si đạo đức giả, chống đối và lên án Đức Chúa Trời. Chứng tỏ rằng dù chúng ta tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Jêsus, và được tha thứ tội lỗi của mình, không có nghĩa chúng ta hoàn toàn tự giải thoát khỏi tội lỗi và trở nên thánh khiết, cũng không có nghĩa là ta trở thành người của Đức Chúa Trời và được Ngài cất lên. Vậy nên, khi Đức Chúa Jêsus tái lâm để thực hiện công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt, nhiều người trong giới tôn giáo phán xét, lên án và báng bổ Đức Chúa Trời, tuyên bố công khai Ngài là kẻ thù và đóng đinh Ngài vào thập giá lần nữa. Liệu những người công khai lên án và chống đối Đức Chúa Trời đó có được cất lên vương quốc thiên đàng chỉ vì tội lỗi của họ được tha thứ không? Liệu Đức Chúa Trời có cho phép các thế lực tà ác này chống đối Ngài bên trong vương quốc thiên đàng? Liệu Đức Chúa Trời có cất những kẻ địch lại Đấng Christ, những kẻ căm ghét lẽ thật, lên vương quốc thiên đàng? Không! Vì Đức Chúa Trời là thánh khiết và công chính! Như mọi người thấy, dù được tha thứ tội lỗi nhờ đức tin vào Chúa, chúng ta chưa hoàn toàn tự giải thoát khỏi tội lỗi, tự giải thoát khỏi ảnh hưởng của Sa-tan, và thậm chí chưa được Đức Chúa Trời cất lên và trở thành người của Ngài. Vậy nếu con người muốn tự giải thoát khỏi tội lỗi và đạt được sự tinh sạch, để hoàn toàn được Đức Chúa Trời cất lên, chúng ta phải hoàn toàn được tinh sạch và cứu rỗi bởi công tác của sự nhập thể thứ hai của Đức Chúa Trời.

Chúng ta có cái nhìn quá đơn giản về công tác cứu rỗi, như thể ngay khi tội lỗi của con người được tha thứ thì sẽ không còn vấn đề gì nữa, và chỉ cần chờ được Chúa cất lên vương quốc thiên đàng. Con người bại hoại thật ngây thơ và ấu trĩ! Quan niệm và ảo tưởng của nhân loại bại hoại thật lố bịch! Có phải tội lỗi là vấn đề duy nhất làm nhân loại đau khổ sau khi bị Sa-tan làm bại hoại? Nguồn gốc tội lỗi của con người là gì? Tội lỗi là gì? Tại sao Đức Chúa Trời lại căm ghét nó? Cho tới hôm nay, chưa có ai hiểu chính xác. Con người đã bị Sa-tan làm bại hoại hoàn toàn, sự bại hoại của họ lớn tới mức nào? Không ai biết rõ. Thực tế sự bại hoại hoàn toàn của con người đã được làm rõ trong lúc Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh vào thập giá. Việc con người có thể đóng đinh Đức Chúa Jêsus nhân từ, người đã bày tỏ rất nhiều lẽ thật, thật sự chứng tỏ rằng con người đã trở thành hậu duệ của Sa-tan, đứa con của Sa-tan, và hoàn toàn mất đi nhân tính, họ thậm chí không còn một chút lý trí hay lương tâm nào. Còn ai giữa con người vẫn còn có nhân tính bình thường? Có phải sự chống đối và thù địch đối với Đức Chúa Trời chứng tỏ con người đã sa ngã tới mức phải chọn hoặc là họ hoặc là Ngài, mà không thể hòa giải với Ngài? Liệu có thể giải quyết vấn đề này bằng cách tha thứ tội lỗi cho họ? Ai dám đảm bảo rằng nếu được tha thứ tội lỗi, con người sẽ không chống đối Đức Chúa Trời hay coi Ngài là kẻ thù? Không ai dám đảm bảo! Tội lỗi của con người có thể được tha thứ, nhưng liệu Đức Chúa Trời có tha thứ cho bản tính chống đối Ngài? Liệu Đức Chúa Trời có thể tha thứ cho tâm tính Sa-tan chất đầy trong họ? Vậy thì Đức Chúa Trời giải quyết những vấn đề thuộc về Sa-tan như thế nào? Không nghi ngờ gì nữa, Đức Chúa Trời dùng sự phán xét và hành phạt. Công bằng mà nói, không có sự hành phạt và phán xét công chính của Đức Chúa Trời, con người bại hoại sẽ không bị chinh phục, chứ đừng nói đến việc họ phủ phục với sự hạ mình sâu sắc. Đây là lý do chính tại sao Đức Chúa Trời phải nhập thể để thực hiện công tác phán xét. Nhiều người thắc mắc và có quan niệm đối với việc Đức Chúa Trời nhập thể để thực hiện công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt. Sao lại như vậy? Là bởi họ không thấy được thực tế sự bại hoại hoàn toàn của con người. Nên họ không có hiểu biết căn bản về ý nghĩa của công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt. Họ vội vàng bám vào quan niệm, và không thể tìm kiếm và tìm hiểu con đường thật. Theo cách này, sao họ có thể tiếp nhận và vâng phục công tác của Đức Chúa Trời được?

Con người chúng ta không thể lĩnh hội được sự sâu sắc trong ý nghĩa của hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời. Còn về lý do Đức Chúa Trời lại nhập thể hai lần và ý nghĩa của hai sự nhập thể là gì, với khía cạnh này của lẽ thật, hãy giở tới hai đoạn trong lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Ý nghĩa của sự nhập thể là một con người bình thường, thông thường thực hiện công tác của chính Đức Chúa Trời; nghĩa là, Đức Chúa Trời thực hiện công tác thần thánh của Ngài trong nhân tính và qua đó đánh bại Sa-tan. Sự nhập thể có nghĩa là Thần của Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, tức là, Đức Chúa Trời trở nên xác thịt; công tác xác thịt làm là công tác của Thần, là điều được thực hiện trong xác thịt, được bày tỏ bởi xác thịt. Không có ai ngoài xác thịt của Đức Chúa Trời có thể hoàn thành chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể; nghĩa là, chỉ có xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời, nhân tính bình thường này – và không một ai khác – mới có thể bày tỏ công tác thần thánh. … Việc Ngài có nhân tính bình thường chứng tỏ Ngài là Đức Chúa Trời nhập thể trong xác thịt; việc Ngài trải qua một quá trình phát triển của một con người bình thường càng chứng minh rằng Ngài là một xác thịt bình thường; hơn nữa, công tác của Ngài là bằng chứng đầy đủ cho thấy Ngài là Lời Đức Chúa Trời, Thần của Đức Chúa Trời, trở nên xác thịt. Đức Chúa Trời trở nên xác thịt bởi vì những nhu cầu trong công tác của Ngài; nói cách khác, giai đoạn công tác này phải được thực hiện trong xác thịt, nó phải được thực hiện trong nhân tính bình thường. Đây là điều kiện tiên quyết cho ‘Lời trở nên xác thịt’, cho ‘sự xuất hiện của Lời trong xác thịt’, và là câu chuyện thật đằng sau hai lần nhập thể của Đức Chúa Trời”. “Tại sao Ta phán rằng ý nghĩa của sự nhập thể chưa được trọn vẹn trong công tác của Jêsus? Bởi vì Lời chưa hoàn toàn trở nên xác thịt. Những gì Jêsus đã làm chỉ là một phần công tác của Đức Chúa Trời trong xác thịt; Ngài chỉ thực hiện công tác cứu chuộc, và đã không thực hiện công tác hoàn toàn thu phục con người. Vì lý do này, Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt một lần nữa trong thời kỳ sau rốt. Giai đoạn công tác này cũng được thực hiện trong một xác thịt bình thường; nó được thi hành bởi một con người hoàn toàn bình thường, một con người mà nhân tính không có chút gì siêu việt. Nói cách khác, Đức Chúa Trời đã trở thành một con người hoàn chỉnh; Ngài là một con người có thân phận của Đức Chúa Trời, một con người hoàn chỉnh, một xác thịt hoàn chỉnh, là Đấng đang thực hiện công tác(Thực chất của xác thịt mà Đức Chúa Trời ngự vào, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).

Lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bày tỏ ý nghĩa và lẽ nhiệm mầu của sự nhập thể. Đọc những lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng, ta hiểu rằng sự nhập thể là nói đến Thần của Đức Chúa Trời mặc lấy xác thịt và biến thành một người thường để thực hiện công tác của chính Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời nhập thể phải có nhân tính bình thường, phải công tác và phán bên trong nhân tính bình thường. Kể cả khi Ngài thực hiện phép lạ, cũng phải thực hiện bên trong nhân tính bình thường. Bề ngoài, Đức Chúa Trời nhập thể rất bình thường. Ngài thực hiện công tác như một người phổ thông, bình thường. Nếu ngài không có nhân tính bình thường và công tác trong nhân tính bình thường của Ngài, Ngài sẽ không phải sự nhập thể của Đức Chúa Trời. Sự nhập thể nghĩa là Thần của Đức Chúa Trời được hóa trong xác thịt. Bên trong nhân tính bình thường, Ngài bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác của chính Đức Chúa Trời, cứu chuộc và cứu rỗi nhân loại. Đây chính là ý nghĩa của sự nhập thể. Vậy thì ý nghĩa của hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời là gì? Ý nghĩa chủ yếu là hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời đã hoàn thành ý nghĩa của sự nhập thể, hoàn thành công tác của Lời xuất hiện trong xác thịt và hoàn thành kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời để cứu rỗi nhân loại. Đây chính là ý nghĩa của hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời. Chúng ta đều nên hiểu rõ mục đích sự nhập thể đầu tiên của Đức Chúa Trời là để thực hiện công tác cứu chuộc và để mở đường cho công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt. Vậy nên, sự nhập thể đầu tiên của Đức Chúa Trời không hoàn thành ý nghĩa của sự nhập thể. Mục đích sự nhập thể lần thứ hai của Đức Chúa Trời là làm công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt và hoàn toàn giải thoát nhân loại khỏi bàn tay Sa-tan, để trút bỏ tâm tính Sa-tan cho nhân loại, giải thoát họ khỏi sự ảnh hưởng của Sa-tan để quay về bên Đức Chúa Trời và được Ngài thu phục. Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ vào thời kỳ sau rốt, đã bày tỏ hết lẽ thật để tinh sạch và cứu rỗi nhân loại, hoàn thành toàn bộ công tác của Đức Chúa Trời trong xác thịt, và bày tỏ toàn bộ những gì Đức Chúa Trời phải bày tỏ trong xác thịt nhập thể của Ngài. Chỉ như vậy Ngài mới hoàn thành công tác của Lời xuất hiện trong xác thịt. Hãy đọc hai đoạn nữa từ Đức Chúa Trời Toàn Năng. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Đức Chúa Trời sẽ sử dụng lời để chinh phục vũ trụ. Ngài sẽ không làm điều này bằng xác thịt nhập thể của Ngài, mà bằng cách sử dụng lời phán từ môi miệng của Đức Chúa Trời trở nên xác thịt để chinh phục tất cả con người trong toàn vũ trụ; chỉ đây mới là Lời trở nên xác thịt, và chỉ đây mới là sự xuất hiện của Lời trong xác thịt. Có lẽ, đối với con người, có vẻ như Đức Chúa Trời chưa làm được nhiều công tác – nhưng Đức Chúa Trời chỉ cần phán lời Ngài, và họ sẽ hoàn toàn được thuyết phục và kính sợ. Không có sự thật, con người kêu la và hò hét; với lời của Đức Chúa Trời, họ trở nên im lặng. Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ hoàn thành điều này vì đây là kế hoạch từ lâu của Đức Chúa Trời: hoàn thành việc Lời đến trên đất(Vương quốc Một Nghìn năm đã đến, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Giai đoạn công tác này đáp ứng chính xác ý nghĩa bên trong của ‘Lời trở nên xác thịt’, làm sâu sắc hơn ý nghĩa của ‘Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Lời là Đức Chúa Trời’, và để cho ngươi tin tưởng chắc chắn vào những từ ‘Ban đầu có Lời’. Điều đó có nghĩa là, vào lúc sáng thế Đức Chúa Trời đã sở hữu lời, lời của Ngài ở cùng Ngài và không thể tách rời Ngài, và ở thời đại cuối cùng, Ngài càng làm rõ hơn về quyền năng và thẩm quyền của lời Ngài, và cho phép con người nhìn thấy toàn bộ lời đường lối của Ngài – nghe thấy toàn bộ lời của Ngài. Đó là công tác của thời đại cuối cùng. Ngươi phải bắt đầu hiểu thấu đáo được những điều này. Vấn đề không phải là việc hiểu biết về xác thịt, mà là việc ngươi hiểu xác thịt và Lời như thế nào. Đây là lời chứng mà ngươi phải mang, là điều mọi người phải biết đến. Bởi vì đây là công tác của sự nhập thể lần thứ hai – và lần cuối cùng Đức Chúa Trời trở nên xác thịt – nên nó hoàn thành đầy đủ ý nghĩa của sự nhập thể, thực hiện thấu đáo và tỏ ra toàn bộ công tác của Đức Chúa Trời trong xác thịt, và kết thúc kỷ nguyên Đức Chúa Trời ở trong xác thịt(Sự thực hành (4), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời hoàn thành toàn bộ công tác của Ngài trong xác thịt, đó là công tác cứu rỗi hoàn toàn con người của Đức Chúa Trời. Vậy nên trong tương lai, Đức Chúa Trời sẽ không nhập thể lần nào nữa. Sẽ không có lần thứ ba hay lần thứ tư. Vì công tác của Đức Chúa Trời trong xác thịt đã được hoàn thành trọn vẹn. Lời tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã nhập thể hai lần để hoàn thành ý nghĩa của sự nhập thể nghĩa là như vậy.

Đức Chúa Trời đã nhập thể hai lần để hoàn thành ý nghĩa của sự nhập thể. Với những ai chưa nếm trải công tác phán xét của Đức Chúa Trời vào thời kỳ sau rốt, điều này thực sự khó hiểu. Chỉ những ai nếm trải công tác cứu chuộc trong Thời đại Ân Diển mới hiểu rằng Đức Chúa Jêsus chính là Đức Chúa Trời nhập thể. Nhưng ít người hiểu rằng công tác của Đức Chúa Jêsus chỉ giới hạn trong sự cứu chuộc và Ngài đã không hoàn thành công tác Lời xuất hiện trong xác thịt. Ý nói rằng, Đức Chúa Jêsus đã không bày tỏ toàn bộ lẽ thật của sự cứu rỗi hoàn toàn nhân loại của Đức Chúa Trời nhập thể. Đức Chúa Jêsus đã phán: “Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến(Giăng 16:12-13). Bây giờ Đức Chúa Jêsus đã tái lâm trong xác thịt làm Con người, chính là Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ vào thời kỳ sau rốt. Ngài đến để thực hiện công tác phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời, đến để bày tỏ trọn vẹn lẽ thật sẽ tinh sạch và cứu rỗi nhân loại, lẽ thật nằm trong “Lời xuất hiện trong xác thịt”. Đức Chúa Trời nhập thể lên tiếng lần đầu trong thân phận của Đức Chúa Trời với toàn bộ vũ trụ, tuyên bố lời của Ngài. Ngài công bố những chi tiết trong kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời để cứu rỗi nhân loại. Ngài bày tỏ ý muốn của Đức Chúa Trời, yêu cầu của Ngài tới toàn bộ nhân loại và đích đến của con người. Hãy xem Đức Chúa Trời Toàn Năng giải thích điều này như thế nào. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Công bằng mà nói đây là lần đầu tiên kể từ khi sáng thế, Đức Chúa Trời đã nói chuyện với toàn thể nhân loại. Trước đó, Đức Chúa Trời chưa bao giờ nói chuyện với loài người thọ tạo một cách chi tiết và hệ thống như vậy. Tất nhiên, đây cũng là lần đầu tiên Ngài nói chuyện với toàn thể nhân loại nhiều và lâu đến thế. Điều này hoàn toàn chưa có tiền lệ. Hơn nữa, những lời này tạo thành văn bản đầu tiên được bày tỏ bởi Đức Chúa Trời giữa loài người, trong đó Ngài phơi bày con người, chỉ dẫn họ, phán xét họ, và nói chuyện chân tình với họ; và đây cũng là những lời đầu tiên Đức Chúa Trời để con người biết về những bước chân của Ngài, nơi Ngài nằm, tâm tính của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời có gì và là gì, những suy nghĩ của Đức Chúa Trời và sự quan tâm của Đức Chúa Trời đối với loài người. Có thể nói rằng đây là những lời đầu tiên Đức Chúa Trời phán với loài người từ tầng trời thứ ba kể từ khi sáng thế, và lần đầu tiên Đức Chúa Trời sử dụng thân phận vốn có của Ngài để xuất hiện và bày tỏ tiếng lòng của Ngài với loài người trong những lời phán(Những lời của Đức Chúa Trời với toàn vũ trụ – Lời giới thiệu, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Điều này là do Ta mang hồi kết của nhân loại đến cho thế gian, và kể từ thời điểm này trở đi, Ta phơi bày toàn bộ tâm tính của Ta trước nhân loại, để tất cả những người biết Ta và tất cả những người không biết có thể mãn nhãn và thấy rằng Ta thực sự đã đến với thế giới loài người, đã đến trần gian nơi vạn vật sinh sôi. Đây là kế hoạch của Ta, và ‘lời thú nhận’ duy nhất của Ta kể từ khi Ta tạo dựng nên loài người. Ta mong rằng các ngươi dành sự chú ý hoàn toàn của mình vào mọi động thái của Ta, vì cây gậy của Ta một lần nữa dấn sát đến nhân loại, đến tất cả những ai chống lại Ta(Hãy chuẩn bị đầy đủ những việc lành cho đích đến của mình, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).

Nói về hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời để hoàn thành ý nghĩa của sự nhập thể, có những người vẫn không hiểu nổi, vì họ thiếu sự nếm trải. Khi họ nghe thấy, họ không hiểu được. Lẽ thật của sự nhập thể quả thật rất thâm sâu, sẽ phải mất vài buổi tương giao để mọi người có thể hiểu. Giờ hãy bàn chi tiết công tác mà hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời thực hiện. Trong lần nhập thể đầu tiên của Đức Chúa Trời, Ngài đã thực hiện công tác cứu chuộc, hiển lộ nhiều phép lạ. Ngài đã cho năm ngàn người ăn chỉ với năm ổ bánh và hai con cá. Ngài phán một lời là gió yên biển lặng. Ngài đã hồi sinh La-da-rô. Đức Chúa Jêsus còn ăn chay và chịu cám dỗ ở hoang địa bốn mươi ngày. Ngài đã bước đi trên mặt biển, vâng vâng… Vì xác thịt của Đức Chúa Jêsus thực hiện phép lạ, và Ngài đã biến hình trên đỉnh núi, trong mắt của con người, dù Đức Chúa Jêsus là nhập thể trong xác thịt, Ngài vẫn sở hữu những yếu tố siêu nhiên. Ngài khác biệt so với người thường, bất cứ đâu Ngài xuất hiện đều có phép lạ. Còn nữa, Đức Chúa Jêsus chỉ thực hiện một giai đoạn công tác, công tác cứu chuộc. Ngài chỉ bày tỏ lẽ thật của công tác cứu chuộc, chủ yếu biểu lộ tâm tính yêu thương và nhân từ của Đức Chúa Trời. Ngài không bày tỏ toàn bộ lẽ thật của công tác phán xét và cứu rỗi, cũng không bày tỏ tâm tính công chính, thánh khiết và không thể xúc phạm của Đức Chúa Trời. Nên không thể nói rằng sự nhập thể đầu tiên đã hoàn thành ý nghĩa của sự nhập thể. Như Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Giai đoạn công tác mà Jêsus đã thực hiện chỉ làm trọn thực chất của ‘Lời ở cùng Đức Chúa Trời’: Lẽ thật của Đức Chúa Trời ở cùng Đức Chúa Trời, và Thần của Đức Chúa Trời ở cùng xác thịt và không thể tách rời khỏi xác thịt. Nghĩa là, xác thịt của Đức Chúa Trời nhập thể đã ở cùng Thần của Đức Chúa Trời, điều này là bằng chứng vĩ đại hơn cho việc Jêsus nhập thể là sự nhập thể lần thứ nhất của Đức Chúa Trời(Sự thực hành (4), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sự nhập thể của Đức Chúa Trời vào thời kỳ sau rốt rất khác so với sự nhập thể đầu tiên. Ở sự nhập thể thứ hai, Đức Chúa Trời không thực hiện phép lạ, Ngài không có gì siêu nhiên cả. Bề ngoài, Ngài trông như một người phổ thông và bình thường, thực hiện công tác và nói lời Ngài một cách thực tế và chân thật giữa con người. Ngài đã bày tỏ lẽ thật để phán xét, làm tinh sạch và hoàn thiện con người. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã mặc khải toàn bộ lẽ nhiệm mầu trong kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời, biểu lộ tâm tính công chính và thánh khiết của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời có gì và là gì, ý muốn của Đức Chúa Trời, và yêu cầu của Ngài cho con người. Còn nữa, Ngài đã phán xét và phơi bày bản tính Sa-tan và tâm tính bại hoại của con người chống đối Đức Chúa Trời, và nhờ vậy đã chinh phục, hoàn thiện, phơi bày và loại bỏ con người, tùy vào bản tính mỗi người. Toàn bộ lẽ thật mà Đức Chúa Trời ban cho con người vào thời kỳ sau rốt được bày tỏ bên trong nhân tính bình thường của xác thịt Ngài, chẳng có gì siêu nhiên về chuyện đó. Toàn bộ những gì ta thấy là một con người bình thường đang nói lời của Ngài và thực hiện công tác của Ngài, nhưng lời mà Đấng Christ nói đều là lẽ thật. Nó có thẩm quyền và quyền năng, nó có thể làm tinh sạch và cứu rỗi con người. Từ lời của Đấng Christ vốn phán xét, phơi bày lẽ thật và thực chất sự bại hoại của con người, ta thấy cách mà Đức Chúa Trời nhìn thấu tâm can con người qua sự quan sát của Ngài, và Ngài hiểu rõ họ thế nào. Con người cũng hiểu được tâm tính công chính, thánh khiết và không thể xúc phạm của Đức Chúa Trời. Từ sự khuyên răn và cổ vũ của Đấng Christ, ta nhận thức được sự cảm thương và quan tâm của Đức Chúa Trời cho con người. Từ nhiều cách mà Đấng Christ phán và công tác, chúng ta hiểu rõ sự toàn năng và khôn ngoan của Đức Chúa Trời, ý định nhiệt tâm khi Ngài công tác để cứu rỗi nhân loại, sự cứu rỗi và tình yêu chân thật của Ngài dành cho con người. Từ cách mà Đấng Christ đối xử với toàn bộ mọi người, mọi sự, mọi vật, ta hiểu rằng hỷ, nộ, ai, lạc của Đức Chúa Trời đều chính là thực tế của những điều tích cực, chúng đều là sự bày tỏ tâm tính của Ngài và biểu lộ tự nhiên của thực chất sự sống của Đức Chúa Trời. Từ lời và công tác của Đấng Christ, ta thấy Đức Chúa Trời tối cao và vĩ đại, khiêm tốn và ẩn mình như thế nào, chúng ta đạt được tri thức và hiểu biết về tâm tính nguyên thủy và dung mạo thật của Đức Chúa Trời, khiến ta càng khao khát lẽ thật và tôn kính Đức Chúa Trời trong tim, để thực sự yêu thương và vâng phục Ngài. Đây là hiệu quả của công tác và lời của Đức Chúa Trời nhập thể lần thứ hai đối với chúng ta. Lời và công tác của sự nhập thể lần thứ hai của Đức Chúa Trời không chỉ cho phép con người thấy Đức Chúa Trời trở nên xác thịt mà còn cho họ thấy sự thật của Lời Đức Chúa Trời xuất hiện trong xác thịt. Lời của Đức Chúa Trời hoàn thành mọi sự. Xác thịt bình thường, phổ thông này chính là hiện thân của Thần lẽ thật. Đức Chúa Trời nhập thể chính là lẽ thật, con đường, và sự sống! Ngài là sự xuất hiện của Đức Chúa Trời thật duy nhất! Chỉ với sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng, ý nghĩa của sự nhập thể mới được hoàn thành.

Hãy đọc hai đoạn nữa trong lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng, để chúng ta càng hiểu rõ về lẽ thật và lẽ nhiệm màu. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Giai đoạn công tác này đáp ứng chính xác ý nghĩa bên trong của ‘Lời trở nên xác thịt’, làm sâu sắc hơn ý nghĩa của ‘Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Lời là Đức Chúa Trời’…(Sự thực hành (4), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Suốt trong Thời đại Vương quốc, Đức Chúa Trời nhập thể phán lời để chinh phục hết thảy những ai tin ở Ngài. Đây là ‘Lời xuất hiện trong xác thịt’; Đức Chúa Trời đã đến trong thời kỳ sau rốt để làm công tác này, nghĩa là, Ngài đã đến để hoàn tất ý nghĩa thực sự của Lời xuất hiện trong xác thịt. Ngài chỉ phán lời, và hiếm khi có sự kiện nào xảy đến. Đây chính là thực chất của Lời xuất hiện trong xác thịt, và khi Đức Chúa Trời nhập thể phán ra lời Ngài, đấy là sự xuất hiện của Lời trong xác thịt, và là Lời đến trong xác thịt. ‘Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Ðức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Ðức Chúa Trời, Ngôi Lời đã trở nên xác thịt’. Việc này (việc xuất hiện của Lời trong xác thịt) là công tác mà Đức Chúa Trời sẽ hoàn tất trong thời kỳ sau rốt, và là chương cuối của toàn bộ kế hoạch quản lý của Ngài, và như vậy Đức Chúa Trời phải đến trần thế và bày tỏ lời Ngài trong xác thịt. Những gì được thực hiện ngày nay, những gì sẽ được thực hiện trong tương lai, những gì sẽ được hoàn tất bởi Đức Chúa Trời, đích đến cuối cùng của con người, những ai sẽ được cứu rỗi, những ai sẽ bị hủy diệt, v.v. – toàn bộ công tác phải đạt được sau cuối đều đã được thông báo rõ ràng, và đều nhằm hoàn tất ý nghĩa thực sự của Lời xuất hiện trong xác thịt. Các sắc lệnh quản trị và hiến pháp đã được ban ra trước đây, những ai sẽ bị hủy diệt, những ai bước vào sự nghỉ ngơi – hết thảy những lời này đều phải được ứng nghiệm. Đây là công tác chủ yếu do Đức Chúa Trời nhập thể hoàn tất trong thời kỳ sau rốt. Ngài khiến con người hiểu được những người được Đức Chúa Trời tiền định thì thuộc về đâu và những người không được Đức Chúa Trời tiền định thì thuộc về đâu, những dân sự và các con trai của Ngài thì được phân định như thế nào, điều gì sẽ xảy ra với Y-sơ-ra-ên, điều gì sẽ xảy ra với Ai Cập – trong tương lai, từng lời một trong những lời này đều sẽ được thực hiện. Công tác của Đức Chúa Trời đang tăng tốc. Đức Chúa Trời dùng lời làm phương tiện để tiết lộ cho con người những việc phải làm trong mỗi thời đại, những việc phải được Đức Chúa Trời nhập thể thực hiện trong thời kỳ sau rốt, cũng như chức vụ Ngài cần phải thực hiện, và hết thảy những lời này đều nhằm hoàn thành ý nghĩa thực sự của Lời xuất hiện trong xác thịt(Mọi thứ đều đạt được bởi lời Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).

Sau khi đọc những đoạn này trong lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi tin mọi người đều đã hiểu hơn về cách mà hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời hoàn thành ý nghĩa của sự nhập thể! Giờ chúng ta đã biết sự thật rằng công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời đã được hoàn thành qua công tác của sự nhập thể. Giai đoạn công tác mà Đức Chúa Jêsus thực hiện là công tác cứu chuộc. Lẽ thật Ngài bày tỏ rất hạn chế, nên dù nếm trải công tác của Đức Chúa Trời, nhưng hiểu biết về Đức Chúa Trời của ta vẫn còn hạn chế. Đức Chúa Trời Toàn Năng đến để thực hiện công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt, và bày tỏ mọi lẽ thật trong sự phán xét công chính của Đức Chúa Trời đối với sự bại hoại của con người. Điều này cho con người thấy tâm tính vốn có của Đức Chúa Trời và hiểu thực chất công chính và thánh khiết của Ngài. Vậy nên, Đức Chúa Trời nhập thể vào thời kỳ sau rốt đã hoàn thành hoàn hảo công tác của Đức Chúa Trời trong xác thịt. Ngài đã bày tỏ trọn vẹn lẽ thật mà Đức Chúa Trời vốn phải bày tỏ trong xác thịt, qua đó ứng nghiệm sự thật của Lời xuất hiện trong xác thịt. Đây là cách mà hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời hoàn thành ý nghĩa của sự nhập thể. Hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời là rất cần thiết, bổ sung và phụ trợ cho nhau. Vậy nên không thể nói Đức Chúa Trời chỉ nhập thể một lần, hay Ngài sẽ nhập thể ba hay bốn lần. Vì hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời đã hoàn thành công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời, và bày tỏ trọn vẹn lẽ thật cứu rỗi nhân loại mà sự nhập thể mà Đức Chúa Trời vốn phải bày tỏ. Vì vậy, hai sự nhập thể của Đức Chúa Trời đã hoàn thành ý nghĩa của sự nhập thể.

Trích từ kịch bản phim Lẽ nhiệm mầu của sự tin kính: Phần hai

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger