Làm thế nào để biết sự tể trị của Đức Chúa Trời
Biết về sự tể trị của Đức Chúa Trời là một bài học sâu sắc. Để thấy được sự tể trị của Đức Chúa Trời trên mọi sự, con người phải có hiểu biết thuộc linh và cũng phải hiểu nhiều lẽ thật. Về việc biết Đức Chúa Trời, đầu óc con người thường rất hạn hẹp và chỉ nhìn vào những gì trước mắt họ. Họ luôn đánh giá Đức Chúa Trời dựa trên quan điểm của họ về phải trái, đúng sai, đen trắng, hoặc dựa trên những quan niệm và sự tưởng tượng của con người, nói rằng Đức Chúa Trời làm thế này không đúng, làm thế kia không đúng. Vậy thế nào là đúng? Chỉ cần là điều Đức Chúa Trời làm thì đều đúng cả. Nếu Đức Chúa Trời hủy diệt con người thì Ngài có đúng không? (Thưa, có.) Đức Chúa Trời đã nâng đỡ một chủng tộc và khiến nó phồn thịnh, nhưng ngươi lại cảm thấy rằng chủng tộc này không nên phồn thịnh. Vậy thì làm thế nào mà chủng tộc này trở nên phồn thịnh? Người Do Thái đã chống đối Đức Chúa Trời đến như vậy, trong mắt con người, một khi Đức Chúa Trời đã nổi giận và rủa sả họ thì Ngài nên diệt trừ họ. Nhưng đó chỉ là quan niệm và sự tưởng tượng của con người. Sau khi Đức Chúa Trời rủa sả và trừng phạt người Do Thái, Ngài để cho họ sống sót, và Ngài đã hứa với họ rằng nguồn cội của họ sẽ còn đó, họ sẽ phải tứ tán đến các quốc gia khác trên khắp thế giới, và cuối cùng sẽ phục quốc. Lời hứa của Đức Chúa Trời không thể thay đổi, và những lời trừng phạt mà Đức Chúa Trời đã phán cũng phải được thực hiện. Sự tể trị của Đức Chúa Trời kỳ diệu như vậy đấy. Nếu ngươi cố phán xét công tác của Đức Chúa Trời và những chuyện xảy đến với con người từ góc nhìn phải trái, đúng sai thì ngươi sẽ loại bỏ chúng. Ngươi sẽ nghĩ rằng chúng không có vẻ giống với công tác của Đức Chúa Trời, rằng chúng không phù hợp với những quan niệm cũng như sự tưởng tượng của ngươi, và ngươi sẽ loại bỏ chúng. Nếu ngươi loại bỏ chúng thì làm sao ngươi có thể vâng phục chúng như vâng phục lẽ thật? Ngươi sẽ không thể. Tại sao con người lại loại bỏ chúng? Đây là do những quan niệm của con người, có nghĩa là những gì trí óc con người có thể nhận ra, những gì con người có thể thấy về các việc làm của Đức Chúa Trời và những lẽ thật mà con người có thể tiếp nhận là có hạn. Làm thế nào để có thể vượt qua những giới hạn này để thực sự biết Đức Chúa Trời? Ngươi phải đón nhận từ Đức Chúa Trời, gặp phải chuyện gì không thể nhìn thấu thì không được tùy tiện định nghĩa, có vấn đề gì không thể giải quyết thì cũng không được mù quáng đưa ra kết luận. Đây là lý trí mà con người nên có nhất. Nếu ngươi nói: “Đó không phải là do Đức Chúa Trời làm, Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ làm thế!” thì ngươi không có lý trí. Ngươi có thể thực sự hiểu được gì? Nếu ngươi dám thay mặt Đức Chúa Trời đưa ra kết luận thì ngươi thực sự không có lý trí. Đức Chúa Trời không chắc sẽ hành động đúng y như ngươi nghĩ hoặc trong phạm vi trí tưởng tượng của ngươi. Đức Chúa Trời quá vĩ đại, quá khó dò đoán, quá huyền bí, quá kỳ diệu, và quá khôn ngoan! Tại sao Ta thêm từ “quá”? Bởi vì con người không thể dò đoán Đức Chúa Trời. Ngươi là loài thọ tạo, vì vậy đừng cố dò đoán Đức Chúa Trời. Một khi không còn suy nghĩ này, ngươi sẽ có chút lý trí. Đừng cố đặt ra quy tắc cho Đức Chúa Trời, và nếu ngươi có thể không làm như vậy thì ngươi sẽ có lý trí. Có nhiều người luôn đặt quy tắc cho Đức Chúa Trời và nói rằng Đức Chúa Trời nên hành động theo một cách nhất định, rằng Đức Chúa Trời tuyệt đối sẽ làm thế này hoặc Đức Chúa Trời tuyệt đối sẽ không làm thế kia, rằng điều này tuyệt đối là hành động của Đức Chúa Trời, và điều kia tuyệt đối không phải là hành động của Đức Chúa Trời. Từ “tuyệt đối” này được thêm vào như thế nào? (Thưa, thêm vào một cách không có lý trí.) Ngươi nói rằng Đức Chúa Trời quá kỳ diệu và quá khôn ngoan nhưng sau đó ngươi lại nói rằng Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ hành động theo một cách nhất định. Chẳng phải như thế là mâu thuẫn sao? Đó không phải là hiểu biết Đức Chúa Trời thực sự. Nếu người ta luôn luôn khăng khăng với quan điểm của riêng mình và luôn đặt quy tắc cho Đức Chúa Trời thì họ hoàn toàn không có lý trí.
Đức Chúa Trời đang thực hiện giai đoạn cuối của công tác, và không ai nghĩ rằng Ngài có thể xuất hiện cũng như làm công tác ở Trung Quốc. Ngươi không nghĩ ra được, có phải là do trong lòng ngươi có quan niệm, tưởng tượng và có hạn chế về tư tưởng không? Ngươi có thể nghĩ đến Mỹ, Vương quốc Anh hay Israel, đều có khả năng ở những nơi này, nhưng không thể tưởng tượng được rằng Đức Chúa Trời lại làm công tác ở Trung Quốc. Đối với ngươi, điều này thật không thể tưởng tượng nổi. Điều này vượt xa những quan niệm và sự tưởng tượng của con người, Đức Chúa Trời vừa mới bắt đầu công tác của Ngài ở Trung Quốc, thực hiện công tác cuối cùng và quan trọng nhất của Ngài. Điều này rất không hợp với những quan niệm của con người. Vậy, ngươi đã biết được gì từ điều này? (Thưa, biết được rằng công tác của Đức Chúa Trời không phù hợp với những quan niệm của con người, kỳ diệu và khó dò đoán.) Công tác của Đức Chúa Trời vượt xa tưởng tượng của con người, kỳ diệu khó đoán, khôn ngoan và sâu xa khó hiểu – đây là những từ mà con người dùng để mô tả mọi thứ về việc Đức Chúa Trời có gì và là gì, tâm tính và thực chất của Ngài, và đây coi như là có lý trí. Chính thông qua việc Đức Chúa Trời làm những chuyện không phù hợp quan niệm của con người mà họ mới đúc kết ra được những lời này – công tác của Đức Chúa Trời kỳ diệu và khó đoán, không phù hợp với quan niệm của con người. Người ta có thể biết được gì khác từ điều này? Biết rằng những quan niệm và sự tưởng tượng trước đây của loài người đều đã bị lật đổ hết. Vậy thì những quan niệm này từ đâu đến? Căn cứ vào những điều ngươi thấy, Trung Quốc nghèo nàn lạc hậu, Đảng Cộng sản cầm quyền, các Cơ Đốc nhân bị bức hại, không có tự do, không có nhân quyền, và người Trung Quốc có học thức kém, có vị trí thấp trên thế giới, hơn nữa bộ dạng của người Trung Quốc cũng là bộ dạng đáng thương của một “Đông Á bệnh phu”. Làm sao Đức Chúa Trời có thể nhập thể ở Trung Quốc để làm công tác của Ngài chứ? Chẳng phải đây là một quan niệm sao? Bây giờ, hãy xem quan niệm này là đúng hay sai. (Thưa, hoàn toàn sai.) Trước hết, chúng ta không nói về lý do tại sao Đức Chúa Trời lại hoạt động theo cách này, không nói liệu đó có phải là vì Ngài muốn khiêm nhường và ẩn giấu, hay liệu việc hoạt động theo cách này có mang ý nghĩa và giá trị sâu sắc hay không. Chúng ta đừng thảo luận ở cấp độ này mà hãy nói về việc liệu Đức Chúa Trời làm việc theo cách này thì có mâu thuẫn nhiều với những quan niệm của con người hay không. Mâu thuẫn rất nhiều! Con người không thể tưởng tượng được. Đó là thiên cơ và không ai biết được. Dù có tìm đến các nhà thiên văn học, các nhà địa lý học, sử gia và tiên tri, thì liệu có ai có thể luận ra được không? Không ai có thể làm được, ngay cả khi triệu tập tất cả những người có năng lực, dù còn sống hay đã chết, để phân tích và nghiên cứu thảo luận, hoặc để quan sát và nghiên cứu bằng kính thiên văn – thì tất cả đều vô ích. Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là loài người quá nhỏ bé, quá vô tri, thiếu kiến thức nên không thể dò đoán việc của Đức Chúa Trời. Không dò đoán được thì ngươi đừng dò đoán nữa, ngươi dò đoán đến cuối cùng thì kết quả là gì? Những quan niệm của ngươi không tương đương với lẽ thật, và thực ra rất xa với những gì Đức Chúa Trời muốn làm. Chúng hoàn toàn không phải là cùng một thứ. Chút kiến thức mà con người có chỉ là vô dụng, không thể dò đoán ra bất cứ điều gì hay giải quyết bất cứ vấn đề gì. Giờ đây, khi các ngươi đọc lời Đức Chúa Trời, lắng nghe các bài giảng và thông công, trong lòng các ngươi có hiểu được thêm một chút không? Có phải các ngươi sẽ có được chút hiểu biết về Đức Chúa Trời không? Có người nói: “Đức Chúa Trời không bàn luận về những gì Ngài làm với chúng ta, giá mà Ngài cho chúng ta một dấu hiệu từ trên trời để chúng ta có thể hiểu Ngài dự định làm gì, hay gợi ý cho một nhà tiên tri để họ đưa ra lời tiên đoán cũng được”. Ngay cả khi có một dấu hiệu từ trên trời thì ngươi cũng sẽ không thể thấy được, và nhà tiên tri cũng không có bản lĩnh đó. Những điều Đức Chúa Trời làm trong cõi thuộc linh mãi là bí mật từ ngàn xưa đến nay, và quá bí mật đến nỗi không một con người nào có thể biết được. Dù một tiên tri hay nhà thiên văn học, học giả, chuyên gia, hay nhà khoa học trong bất kỳ lĩnh vực nào, bất luận họ có tài năng đến đâu đi nữa, có nghiên cứu cách mấy họ cũng không thể nghiên cứu được những việc của Đức Chúa Trời. Con người có thể nghiên cứu công tác trước đây của Đức Chúa Trời, họ có thể phân tích ra được một vài điều thần bí và nội hàm bên trong, và có lẽ suýt chạm vào được ý nghĩa của sự việc mà Đức Chúa Trời đã làm, nhưng không ai biết Đức Chúa Trời sẽ làm gì trong tương lai, cũng không biết trong lòng Ngài dự định thế nào. Do vậy, con người đừng lúc nào cũng muốn dò đoán Đức Chúa Trời, cũng đừng lúc nào cũng nghĩ rằng thông qua quan sát và nghiên cứu, khảo sát và thể nghiệm trong thời gian dài, phân tích nhiều mặt, thật cần cù và làm việc chăm chỉ, thì cuối cùng sẽ có thể dò đoán được Đức Chúa Trời. Điều này là không thể, và sẽ không bao giờ có kết quả. Vậy, nếu con người không thể dò đoán Đức Chúa Trời thì họ nên làm gì? (Thưa, họ nên vâng phục.) Đối với con người, vâng phục là có lý trí nhất và phù hợp nhất với tâm ý của Đức Chúa Trời; sự vâng phục là tiền đề. Mục đích của sự vâng phục là gì? Là để có thể biết Ngài nhiều hơn, đạt được lẽ thật, và có được sự sống dựa trên cơ sở trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Đây là điều các ngươi phải có được và là của báu mà các ngươi nên khao khát. Về các sự kiện lớn bên ngoài, chẳng hạn như các sự vụ quốc tế lớn, cách Đức Chúa Trời làm việc, và cách Ngài dẫn dắt loài người – nếu các ngươi có thể hiểu ra được những điều này thì càng tốt. Các ngươi nói như thế này cũng được: “Tôi không thực sự quan tâm đến những chuyện ấy. Tôi không có tố chất hay tâm trí cho chuyện đó; tôi chỉ quan tâm đến cách Đức Chúa Trời chu cấp lẽ thật cho tôi và thay đổi tâm tính của tôi”. Miễn sao ngươi có lòng vâng phục và kính sợ Đức Chúa Trời thì ngươi cuối cùng sẽ có thể có được lẽ thật và sự khôn ngoan từ Ngài. Lẽ thật thay đổi tâm tính của con người; đó là sự sống mà con người nên tìm kiếm để có được, và là con đường họ nên bước đi. Vậy, con người sẽ có được sự khôn ngoan gì? Tự lúc nào không hay, các ngươi sẽ có thể thấy được cách Đức Chúa Trời làm nhiều việc, tại sao Ngài làm những việc đó, ý định và mục tiêu của Ngài là gì, và nguyên tắc của Ngài khi làm một số chuyện là gì. Bất giác, ngươi sẽ có thể nhận ra điều này trong quá trình trải nghiệm lẽ thật của lời Đức Chúa Trời. Có thể những lời này, những việc này quá sâu sắc, và ngươi sẽ không thể diễn tả thành lời, nhưng ngươi sẽ cảm nhận được trong lòng, và có được sự hiểu biết thực sự tự lúc nào không hay.
Chúng ta bắt đầu với câu chuyện về Áp-ra-ham. Khi ông đã 85 tuổi mà vẫn chưa có con trai, Đức Chúa Trời đã hứa sẽ ban cho ông một người con trai. Phản ứng của vợ ông, Sa-rai, thế nào? Bà nghĩ thầm: “Mình đã già và không còn khả năng sinh đẻ. Làm sao mình có thể sinh ra một đứa con trai được?”. Chẳng phải đây là những quan niệm của con người sao? Bà đã sử dụng những quan niệm của con người để đánh giá công tác của Đức Chúa Trời, do đó có thể nghi ngờ và nghĩ rằng chuyện như thế là không thể. Sau đó bà đã sử dụng biện pháp gì? Bà đã cho con đòi A-ga làm vợ lẽ của Áp-ra-ham. Vậy, nói Ta nghe, Đức Chúa Trời có thấy việc bà đã làm không? Đức Chúa Trời có biết. Năm sau đó, A-ga sinh một con trai được đặt tên là Ích-ma-ên. Khi Áp-ra-ham 99 tuổi, Đức Giê-hô-va đã xuất hiện và hứa rằng Sa-rai sẽ sinh cho ông một con trai vào khoảng cùng thời gian này năm sau, và toàn bộ đất Ca-na-an sẽ được ban cho ông cùng con cháu ông để làm tài sản vĩnh viễn. Năm sau đó, Sa-rai đã sinh một con trai được đặt tên là Y-sác. Là con của bà chủ, Y-sác trở thành người thừa kế, trong khi Ích-ma-ên, con của vợ lẽ, thì không được thừa kế. Sau đó, A-ga cùng Ích-ma-ên đã bị đuổi đi, và A-ga đưa cậu đến sa mạc, nơi không có thức ăn cũng không có nước uống. Đối mặt với cái chết, A-ga đã cầu nguyện với Giê-hô-va Đức Chúa Trời rằng: “Con không còn đường sống nữa. Con có một đứa con và con muốn sống”. Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã sai một thiên sứ đến để cho họ nước, và họ đã sống sót. Sau đó, sa mạc trở thành nhà của họ, và họ định cư ở đó, có nhiều con cháu – chính là người Trung Đông và người Ả Rập hiện nay. Các ngươi thấy đó, Đức Chúa Trời có ý tốt khi cho phép điều này xảy ra. Đây là một sự kiện lớn bên ngoài, không ai nghiên cứu, nhưng không có nghĩa là hành động của Đức Chúa Trời không tồn tại – ở đây có hành động của Đức Chúa Trời. Không phải ai đó lén lút làm một chuyện gì đó mà Đức Chúa Trời không thấy, tuyệt đối không có chuyện này. Ở đây có ý tốt của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời cho phép và hứa rằng bộ tộc Ích-ma-ên sẽ sinh tồn để cân bằng thế gian và được dùng đến khi cần. Họ luôn đánh nhau với người Y-sơ-ra-ên để giành lãnh thổ, dải Gaza và Giê-ru-sa-lem. Các ngươi phải thấy được hành động của Đức Chúa Trời trong việc này. Đức Chúa Trời đã làm điều mà con người coi là xấu, và họ nghĩ rằng có thể Ngài đã tính sai, hoặc không quan sát đủ kỹ, và rằng con người đã lợi dụng sơ hở. Đây là những gì trí óc của người bình thường có khả năng nghĩ tới và tưởng tượng ra. Con người nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã ngủ gật và không để mắt đến các sự việc, kết quả là A-ga đã sinh ra Ích-ma-ên, và Đức Chúa Trời thương hại họ, cho phép họ sinh tồn, sắp xếp cho họ sống trong sa mạc. Có thật là như vậy không? (Thưa, không phải như vậy.) Đức Chúa Trời có một kế hoạch, và sự ra đời cũng như sự tồn tại của các giống người khác nhau – tức là các chủng tộc và màu da khác nhau của loài người – đều đóng vai trò nhất định trong việc cân bằng toàn bộ loài người, cụ thể có tác dụng gì thì ngươi nhìn vào tình hình thế giới là biết. Đây có phải là hành động của Đức Chúa Trời không? Đức Chúa Trời kiểm soát việc một chủng tộc sinh sôi nhanh như thế nào, dân số toàn cầu của chủng tộc đó, vai trò của họ trên trái đất và giữa toàn thể loài người, và những gì mà người của chủng tộc đó làm, cả điều tốt lẫn điều xấu. Nói về điều xấu, con người tin rằng những điều như vậy không thể đến từ Đức Chúa Trời, và tất cả đều là do Sa-tan làm ra. Nhưng chẳng phải Sa-tan cũng nằm trong tay Đức Chúa Trời sao? Một số người nói: “Sa-tan muốn làm gì thì làm, và Đức Chúa Trời không kiểm soát được”. Có thể giải thích như vậy không? Nếu lý giải chuyện này theo lô-gích thì sai rồi, chuyện này không thể lý giải theo lô-gích. Nhìn từ bên ngoài, một số chuyện có vẻ xấu và một số chuyện thì có vẻ tốt, nhưng tất cả đều nằm dưới sự tể trị của Đức Chúa Trời. Ngươi không được nói rằng Đức Chúa Trời chỉ tể trị chuyện tốt chứ không tể trị chuyện xấu, bởi vì cả hai đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, được Ngài sắp đặt và kiểm soát, và đằng sau mọi việc đều có ý tốt của Ngài. Đây chính là lẽ thật, và nếu ngươi có thể thấy rõ điều này thì ngươi hiểu lẽ thật. Nếu ngươi kết luận rằng các sự việc là xấu và chỉ nhìn từ góc độ đó thì như vậy là không chính xác, ngươi sẽ dễ hiểu lầm và chống đối Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời có ý tốt trong mọi việc Ngài làm. Vậy, ý tốt của Đức Chúa Trời là gì? Con người chỉ thấy những chuyện xấu xảy ra ngay trước mắt họ, và không bao giờ có thể thấy được hậu quả có thể là gì sau mười hoặc hai mươi năm sau khi chuyện xấu xảy ra. Điều gì sẽ xảy ra sau một hoặc hai ngàn năm, chuyện đó đi về đâu và đóng vai trò chủ chốt gì trong việc định hình tình hình thế giới và toàn thể loài người – con người không thể thấy được điều này, nhưng đây chính là sự tể trị của Đức Chúa Trời. Sự phát triển của tình hình thế giới và toàn thể loài người có phải là chuyện đơn giản không? Nơi nào xảy ra chuyện gì, nơi nào có sự kiện lớn, nơi nào xảy ra dịch bệnh hay động đất, Đức Chúa Trời đều đang kiểm soát! Một số người ngớ ngẩn không có hiểu biết thuộc linh sẽ nghĩ rằng: “Nếu như Đức Chúa Trời kiểm soát mọi thứ, vậy thì chuyện ma quỷ đàn áp và tàn sát dân được Đức Chúa Trời chọn, chuyện bức hại tàn bạo dân được Đức Chúa Trời chọn cũng nằm trong sự kiểm soát của Ngài sao? Là Đức Chúa Trời đã điều động sao?”. Nhìn nhận sự việc theo cách này có đúng không? Có hợp lý không? Cách nhìn nhận này đặt Đức Chúa Trời vào một lập trường tiêu cực, và như thế là sai. Vậy, các ngươi nên nhìn nhận việc này như thế nào? Đức Chúa Trời điều động vạn sự vạn vật, và “vạn sự vạn vật” bao gồm những gì? Bao gồm mọi thứ: bất cứ thứ gì mắt thường có thể nhìn thấy như sông núi, cây cối, thực vật, con người, v.v.. Và cũng bao gồm vi sinh vật mà mắt thường không thể nhìn thấy, còn bao gồm cả ma quỷ, Sa-tan, mọi loại tà linh và ma quỷ của cõi thuộc linh. Những thứ này đều nằm dưới sự kiểm soát của Đức Chúa Trời. Chúng làm những gì Đức Chúa Trời muốn chúng làm. Ngài thả chúng ra bất cứ khi nào cần thiết, và chúng làm những gì nên làm. Đây là sự tể trị của Đức Chúa Trời. Dù Đức Chúa Trời tể trị và sắp xếp như thế nào, cuối cùng ngươi cũng sẽ có thể thấy ý chỉ của Đức Chúa Trời được thực hiện, và mỗi một lời của Đức Chúa Trời đều sẽ được ứng nghiệm.
Có lẽ con người hiện không thể thấy được hiệu quả của điều gì đó mà Đức Chúa Trời làm, không biết mục đích của điều đó, không biết tại sao Đức Chúa Trời làm điều đó, không biết tâm ý của Ngài là gì. Sau hai trăm năm, người ta có lẽ vẫn chưa nhìn ra, và nhân loại vẫn không biết, nhưng sau một ngàn năm thì họ sẽ chịu phục: “Đức Chúa Trời làm điều này thật quá đúng và tuyệt vời! Đức Chúa Trời quả thực là Đức Chúa Trời!”. Nhân loại sẽ phát hiện ra rằng mọi việc Đức Chúa Trời làm đều là lẽ thật và không có gì là sai cả. Ví dụ như việc Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh vào thập tự giá và chết trong Thời đại Ân điển bị thế giới khi ấy coi là thất bại của giai đoạn công tác đó. Họ nghĩ rằng: “Đức Chúa Jêsus không phải chịu số phận phàm nhân là sinh, lão, bệnh, tử, Ngài còn chưa làm bất cứ công tác nào thì đã bị Giu-đa phản bội, bị lính bắt, bị đánh, phải đội mão gai, bị chế nhạo, và cuối cùng bị đóng đinh vào thập tự giá. Chẳng phải đây là thất bại sao?”. Sự đóng đinh vào thập tự giá có phải là thất bại không? Giu-đa bán đứng Đức Chúa Jêsus cho chính quyền, nhưng chính quyền đại diện cho điều gì? Đại diện cho các thế lực của Sa-tan. Việc Đấng Christ bị giao vào tay Sa-tan là tốt hay xấu? (Thưa, nhìn từ bên ngoài thì là xấu.) Con người nghĩ: “Ôi không! Công tác của Đức Chúa Trời đã bị ma quỷ làm nhiễu loạn. Không hay rồi, đây là điềm báo xấu, bởi vì Đức Chúa Trời không để ý xem và không quyền năng cho lắm! Làm thế nào mà Đấng Christ nhập thể vẫn có thể bị phản bội và giao vào tay những kẻ cai trị chứ? Chẳng phải đó rành rành là giao vào tay Sa-tan để nó mặc sức sắp xếp sao? Đức Chúa Jêsus phải nhanh chóng tìm cách thoát thân, nếu không thì chẳng phải công tác đến đây sẽ chấm hết sao? Đấng Christ vẫn còn chức vụ mà”. Chẳng phải đây là suy nghĩ của con người sao? Vì vậy, Phi-e-rơ đã nói: “Hỡi Chúa, Ðức Chúa Trời nào nỡ vậy! Sự đó sẽ không xảy đến cho Chúa đâu!” (Ma-thi-ơ 16:22), và những quan niệm của con người liền xuất hiện. Họ nghĩ: “Đức Chúa Trời không thể nào bị giao vào tay những kẻ cai trị, cho nên nếu Ngài bị như vậy thì Ngài không phải là Đức Chúa Trời”. Chẳng phải đây là quan niệm của con người sao? Chính vì có dạng quan niệm như vậy mà con người mới có thể nói những lời ấy, hành động hoặc cư xử theo cách ấy, và cản trở việc thực hiện ý chỉ của Đức Chúa Trời. Jêsus đã phán gì với Phi-e-rơ? “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta!” (Ma-thi-ơ 16:23). Đức Chúa Jêsus đã coi Phi-e-rơ như Sa-tan. Cuối cùng, Đức Chúa Jêsus đã bị giao vào tay Sa-tan, và những người đó đã trở thành vật phục vụ để hoàn thành việc Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh vào thập tự giá. Việc Đức Chúa Jêsus bị giao vào tay Sa-tan là tốt hay xấu? (Thưa, là tốt.) Nhìn theo cách này thì việc đó là tốt, không phải xấu, vì công tác của Đức Chúa Trời đã được hoàn thành bằng cách thức này. Đức Chúa Trời có làm gì từ lúc Giu-đa phản bội cho đến khi Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh vào thập tự giá không? Ngài có ý định trốn thoát hay có bất kỳ ai đến giải cứu Ngài không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời có nghĩ cách tỏ ra một phép lạ, nâng Đức Chúa Jêsus thẳng lên trời và giấu Ngài sau những đám mây nơi không ai có thể nhìn thấy Ngài không? Sự thăng thiên ấy mới huy hoàng, tráng lệ làm sao! Nhưng không ai nhìn thấy những điều này, vì Đức Chúa Trời đã không làm thế. Việc Đức Chúa Trời không làm có chứng minh rằng Ngài không thể làm không? Đức Chúa Trời có thể làm được không? (Thưa, Ngài có thể.) Vậy tại sao Ngài lại không làm? (Thưa, Đức Chúa Trời có ý tốt, và Ngài có kế hoạch.) Kế hoạch của Đức Chúa Trời là gì? Đó là tự giao nộp Ngài vào tay Sa-tan, sau đó đứng vào vị trí của những tội nhân ấy trên thập tự giá, hy sinh chính Ngài để cứu chuộc loài người. Đây là điều Đức Chúa Trời muốn làm; Ngài không làm những điều mà con người tưởng tượng trong quan niệm của họ. Nhiều người nghĩ: “Đức Chúa Trời nên cho thêm sấm sét để đánh chết tất cả những kẻ đồi bại đã chống đối Ngài, và sau khi đánh chết họ, Đức Chúa Jêsus sẽ thăng thiên lên thiên đàng. Thật huy hoàng và oai phong biết bao, như vậy thì mới tỏ lộ thẩm quyền của Đức Chúa Trời! Hãy để cho những thứ ma quỷ và Sa-tan, những con người này đều thấy hậu quả của việc đóng đinh Đức Chúa Trời vào thập tự giá, sau đó thì họ sẽ không dám như vậy nữa, phải không?”. Con người có thể không dám chống đối, nhưng chẳng phải nếu công tác của Đức Chúa Trời không được hoàn thành thì đó sẽ là trở ngại sao? Những quan niệm của con người luôn làm gián đoạn công tác của Đức Chúa Trời, vì vậy Ngài không làm việc theo cách đó. Một số người thực sự tin Đức Chúa Jêsus vì Ngài đã bị đóng đinh vào thập tự giá để làm công tác cứu chuộc, nhưng đồng thời cũng sẽ nói với thiện ý rằng: “Đức Chúa Jêsus không nên bị đóng đinh vào thập tự giá. Việc nhập thể không dễ dàng gì, Ngài phải làm việc trong sự khiêm nhường và ẩn giấu, bị người ta ruồng bỏ, bị các kinh sư và người Pha-ri-si vu khống. Thật đáng thương. Ngài lẽ ra nên tránh việc bị đóng đinh vào thập tự giá, không nên hạ mình đến mức đó, không cần thiết phải như vậy”. Liệu con người nhìn nhận sự việc như vậy có đúng không? (Thưa, không đúng.) Bây giờ nhìn lại, sau hai nghìn năm, cách suy nghĩ này là sai. Trong tâm trí con người có lẽ thật không? (Thưa, không có.) Vậy, trong tâm trí con người có gì? Có mọi sự tưởng tượng và quan niệm của con người, cũng như lòng hảo tâm, tình cảm, sự đồng tình và ích kỷ. Những thứ này có thể làm cho công tác của Đức Chúa Trời hoàn thành không? Chúng có thể thực hiện ý chỉ của Ngài không? Không thể, do đó lời Đức Chúa Jêsus phán: “Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta!”. Đức Chúa Trời muốn tự giao nộp chính Ngài vào tay Sa-tan, cho phép chính Sa-tan đóng đinh Đấng Christ vào thập tự giá, và thông qua sự đóng đinh đó mà hoàn thành công tác cứu chuộc. Đức Chúa Trời đã không biểu hiện bất kỳ phép lạ nào. Đức Chúa Trời đã vài lần phán rằng: “Đức Chúa Trời giữ im lặng”. Câu này nghĩa là gì? Có phải nghĩa là Đức Chúa Trời không thấy, không quan tâm, không chú ý, không nói một lời nào, và hoàn toàn giữ im lặng không? (Thưa, không phải.) Vậy, “giữ im lặng” nghĩa là gì? Điều này chứa đựng tâm ý, sự khôn ngoan và tâm tính của Đức Chúa Trời. Tâm tính nào của Đức Chúa Trời được tỏ lộ qua việc Đức Chúa Trời giữ im lặng? Ở đây có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Ngài muốn hoàn thành công tác quản lý của mình. Dù con người có bao nhiêu quan niệm hay tưởng tượng thì trước hết, Ngài tránh chúng mà không đưa ra lời giải thích, chỉ làm việc theo cách âm thầm và thực tế cho đến một ngày dân được chọn của Ngài hiểu lẽ thật và có thể vâng phục Ngài, ý chỉ của Ngài được thực hiện và công tác của Ngài nơi họ hoàn thành, và Ngài hoàn toàn đánh bại Sa-tan cũng như đạt được vinh quang. Ngài sử dụng những sự thật và kết quả này làm bằng chứng để toàn thể nhân loại và Sa-tan nhìn thấy, đây là tâm tính và tâm ý của Đức Chúa Trời được tỏ lộ qua việc Đức Chúa Trời giữ im lặng. Đây là khía cạnh tâm tính gì của Đức Chúa Trời? Khía cạnh này có thể hiện sự kiên nhẫn của Đức Chúa Trời không? (Thưa, có.) Tại sao Đức Chúa Trời lại kiên nhẫn vào lúc này? Tại sao Ngài lại giữ im lặng? Ở đây có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Có những chuyện thuộc về sự huyền bí mà không một loài thọ tạo, phi thọ tạo hay thiên sứ nào được phép hiểu hoặc nắm bắt. Đây là sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không thể cứ phán ra như vậy, và nếu Ngài phán thêm một chữ thì có lợi ích gì không? Không có lợi ích gì, bởi vì họ không hiểu. Nếu Ngài phán với con người thì họ có hiểu không? (Thưa, họ sẽ không hiểu.) Trong trường hợp đó, có phán cũng không có lợi ích gì. Liệu con người có hiểu được không nếu hai nghìn năm trước, Đức Chúa Trời phán với nhân loại: “Ta muốn bị đóng đinh vào thập tự giá, dâng báu huyết của mình để chuộc tội cho nhân loại trong hình tượng của thân xác tội lỗi”? (Thưa, họ sẽ không hiểu.) Những lời duy nhất của Đức Chúa Trời là gì? Ngài phán: “Hãy ăn năn, vì nước thiên đàng đã đến gần” và bảo mọi người thực hành sự kiên nhẫn và khoan dung. Đức Chúa Trời có nói thêm gì với con người không? (Thưa, Ngài không nói thêm gì.) Tại sao Ngài không nói thêm gì? (Thưa, vì con người không thể hiểu được.) Con người không tài nào có thể hiểu được. Đây là lý do tại sao Đức Chúa Trời bất đắc dĩ phải tỏ lộ tâm tính và suy nghĩ của Ngài trong sự im lặng. Ngay cả khi Đức Chúa Trời nói chuyện với bất kỳ loài thọ tạo hay phi thọ tạo nào, họ cũng sẽ không hiểu. Vì vậy, Ngài chỉ có thể sử dụng những hành động của Ngài và những sự thật để chứng minh cho nhân loại cũng như thực hiện ý chỉ của Ngài. Mãi đến bây giờ, sau hai nghìn năm, Đức Chúa Trời mới mặc khải những điều này khi Ngài làm công tác phán xét trong thời kỳ sau rốt; con người nhìn lại chuyện hai ngàn năm trước mới hiểu được ý nghĩa của việc Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh lên thập tự giá khi đó. Về lý do Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh vào thập tự giá, bị giao cho Sa-tan, bị Giu-đa phản bội trong hoàn cảnh đó và, sau khi bị phản bội, Đức Chúa Jêsus đã phải chịu đựng rất nhiều, đổ đến giọt máu cuối cùng để thực hiện ý chỉ của Đức Chúa Trời, tại sao Đức Chúa Trời lại làm như vậy, và ý nghĩa của việc này nằm ở đâu – Đức Chúa Trời chỉ nói về những điều này khi làm chứng cho sự nhập thể khi Ngài xuất hiện và làm việc trong thời kỳ sau rốt, ngoài ra, còn mặc khải nhiều điều huyền bí chẳng hạn như ý chỉ và sự quản lý của Đức Chúa Trời. Giờ đây, khi mọi người đã thấy sự liên kết giữa ba giai đoạn công tác, họ cuối cùng cũng biết được khải tượng của kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời, và hiểu những lẽ thật này cũng như những ý định tốt của Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời phán với nhân loại trước một nghìn năm thì liệu họ có hiểu không? (Thưa, họ sẽ không hiểu.) Vì vậy, Đức Chúa Trời thường làm mọi thứ trong im lặng. Lý do cho sự im lặng này là gì? Đó là bởi vì công tác mà Đức Chúa Trời làm quá khôn ngoan, quá kỳ diệu, và quá sâu sắc – nếu Đức Chúa Trời phán sớm hơn, dù là phán gì đi nữa, thì con người cũng sẽ không thể hiểu hoặc lĩnh hội được. Vì vậy Đức Chúa Trời chỉ có thể tiếp tục im lặng tiến về phía trước, tiếp tục lên tiếng và phán dạy để làm công tác của Ngài và dẫn dắt nhân loại. Con người đi theo Đức Chúa Trời là đúng, và càng đi xa thì con đường này càng trở nên sáng sủa. Đức Chúa Trời sẽ không dẫn ngươi đi lạc lối, và ngay cả khi giao ngươi cho Sa-tan thì Đức Chúa Trời vẫn có trách nhiệm đến cùng. Ngươi phải có đức tin này, và đây là thái độ mà loài thọ tạo nên có đối với Đức Chúa Trời. Nếu ngươi có thể nói: “Ngay cả khi Đức Chúa Trời giao mình cho Sa-tan làm đồ chơi thì Ngài cũng vẫn là Đức Chúa Trời, và mình không được đổi ý mà không đi theo Ngài, không được thay đổi đức tin nơi Ngài”, thì đó mới chính là thực sự tin Đức Chúa Trời.
Đã hai nghìn năm kể từ khi Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá, hiện tại những người tiếp nhận công tác trong thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời đã nghe được tiếng Ngài, hằng ngày nghe giảng đạo và thông công về lẽ thật, hiểu được ba bước công tác của Đức Chúa Trời và biết những lẽ mầu nhiệm trong kế hoạch quản lý của Ngài. Còn những người tin Chúa trong tôn giáo có hiểu điều này không? Đến giờ họ vẫn không hiểu và vẫn bám víu vào những quan niệm của mình. Khi có người nói: “Đức Chúa Jêsus là con trai của một thợ mộc nghèo, Chúa mà các người tin là như thế này, như thế kia”, họ bất lực và không phản bác được, thậm chí không thể làm chứng cho Đức Chúa Trời. Con người thật thấp kém! Đức Chúa Trời đã bày tỏ rất nhiều lẽ thật và làm biết bao điều tốt đẹp cho nhân loại, nhưng nếu Ngài không đích thân phán cho con người biết ý nghĩa, giá trị và lẽ thật trong những điều này thì không ai có thể đứng ra để lên tiếng hay làm chứng cho Ngài. Lên tiếng cho Đức Chúa Trời nghĩa là gì? Nghĩa là làm chứng cho những việc làm và sự tể trị của Đức Chúa Trời, làm chứng cho cái giá mà Ngài đã trả để cứu chuộc nhân loại, cho tâm tư của Ngài và ý nghĩa của mọi việc Ngài làm. Các ngươi lĩnh hội được gì từ điều này? (Thưa, công tác của Đức Chúa Trời, con người không cách nào tưởng tượng được.) Công tác của Đức Chúa Trời, con người không có cách nào tưởng tượng được, cũng không có cách nào hiểu thấu được. Vì vậy, con người phải có quan điểm và lập trường đúng đắn khi nhìn nhận hoặc đối đãi công tác của Đức Chúa Trời, sự dẫn dắt của Ngài dành cho con người và ý chỉ của Ngài. Con người phải có lập trường đúng đắn, điều này rất quan trọng. Ngươi phải biết mình là ai và Đức Chúa Trời là ai, ngươi cần những gì để hiểu lời phán và công tác của Ngài, ngươi căn bản không thể nhìn thấu hoặc hiểu thấu những gì, và ngươi nên có thái độ như thế nào. Đây là lý trí mà ngươi nên có. Như thế, mối quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời sẽ bình thường và hòa hợp hơn. Nếu ngươi luôn dùng thái độ chờ xem, suy đoán, hoài nghi hoặc thậm chí là đối kháng để nghiên cứu và suy đoán về Đức Chúa Trời, hoặc thăm dò mọi việc Ngài làm, vậy thì phiền phức rồi. Làm vậy là học thuật, là nghiên cứu – là kẻ chẳng tin. Ngươi phải đối đãi với sự tể trị của Đức Chúa Trời bằng quan điểm và thái độ vâng phục, tìm kiếm và kính sợ. Chỉ như vậy ngươi mới thực sự biết và hiểu Đức Chúa Trời. Khi hiểu được Đức Chúa Trời rồi thì ngươi không còn đứng đối lập với Ngài nữa, hoặc ít nhất ngươi sẽ không hiểu lầm Ngài. Ngươi sẽ có thể vâng phục và nói: “Tuy con vẫn không hiểu Đức Chúa Trời làm vậy rốt cuộc có ý nghĩa gì, nhưng con hiểu mọi điều Ngài làm đều là đúng đắn”. “Hiểu” ở đây là gì vậy? Nghĩa là trong lòng ngươi tin phục hoàn toàn rằng mọi điều Đức Chúa Trời làm đều có ý nghĩa và con người nên vâng phục. Đức Chúa Jêsus đã giao mình vào tay Sa-tan và bị Sa-tan đóng đinh trên thập tự giá – trong mắt con người thì đây không phải chuyện tốt, nhưng Ngài đã hoàn thành ý chỉ của Đức Chúa Trời và hoàn thành công tác cứu chuộc nhân loại. Đây là một chuyện vĩ đại, có ý nghĩa và giá trị to lớn đối với toàn nhân loại, nhưng nhân loại có nhìn thấu được không? (Thưa, không.) Nhân loại không nhìn thấu được. Nhân loại không thấy được tâm ý của Đức Chúa Trời trong chuyện này, không lĩnh hội được Ngài làm vậy là có ý nghĩa và giá trị gì, cũng có nghĩa là họ chưa nhìn thấy lợi ích to lớn của chuyện này đối với nhân loại. Con người chỉ thấy Đức Chúa Jêsus sau khi bị đóng đinh ba ngày thì phục sinh, xuất hiện trước mặt mọi người và gặp gỡ, trò chuyện, ôn lại chuyện cũ rồi rời đi; nhưng ý chỉ của Đức Chúa Trời đã được hoàn thành. Điều này có ý nghĩa lớn không? (Thưa, lớn.) Con người đã hiểu ra chưa? Họ chưa hiểu. Từ chuyện này, con người phải có sự đánh giá chính xác về bản thân và có thái độ chính xác đối với Đức Chúa Trời. Bất kể con người có hiểu việc Đức Chúa Trời làm hay không, họ đều phải che miệng lại, làm vậy mới là đúng. Đừng có chuyện gì cũng nghiên cứu, làm vậy là không được. Tại sao lại không được? Không có quy định nào bảo rằng ngươi không được phép làm vậy, nhưng ngươi sẽ vấp váp và gặp nguy hiểm. Ngươi không thể nhìn thấu và hiện tại cũng không lĩnh hội được, vậy mà ngươi luôn muốn nghiên cứu và luôn đứng về phía đối lập với Đức Chúa Trời. Ngươi nghiên cứu không ra, nhưng cũng không tìm kiếm lẽ thật, như vậy sẽ dễ dàng phát sinh vấn đề gì? Ngươi sẽ dễ hiểu lầm Đức Chúa Trời. Ban đầu thì chỉ là hiểu lầm, nếu ngươi không thể nhìn thấu mọi việc và tiếp tục hiểu lầm, thì ngươi sẽ tiêu cực và yếu đuối. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện bổn phận và lối vào sự sống của ngươi – những chuyện này đều có liên quan đến nhau. Có nhiều chuyện không phải chỉ một hai năm là hiểu hết được, và lẽ thật thì quá thâm sâu. Cho dù bây giờ Đức Chúa Trời khai sáng cho ngươi, với vóc giạc nhỏ bé của mình thì ngươi có hiểu nổi không? Dù hiểu được chút ít đi nữa thì ngươi có thể hiểu triệt để lẽ thật không? Ngươi nói: “Tôi biết luật vạn vật hấp dẫn. Tại sao mọi thứ trên trái đất đều rơi xuống mà không bay lên, nhưng một khi con người rời khỏi bầu khí quyển và đi vào vũ trụ thì họ lại trôi lơ lửng? Bởi vì họ đã thoát khỏi lực hấp dẫn của trái đất. Tôi hiểu được điều này thì chẳng phải cũng hiểu được việc làm của Đức Chúa Trời sao?”. Ngươi không biết rốt cuộc Đức Chúa Trời tể trị lực hấp dẫn như thế nào. Ngươi chỉ nhìn thấu hiện tượng, nhưng điều đó không có nghĩa là ngươi đã hiểu thấu cách Đức Chúa Trời tể trị lực hấp dẫn. Ngay cả khi ngươi hiểu, thì ngươi có tể trị được nó không? Con người sẽ gặp rắc rối to nếu rời khỏi bầu khí quyển. Không có trọng lực, họ sẽ luôn trôi lơ lửng khắp nơi. Ngươi thấy được gì từ điều này? (Thưa, có nhiều điều mà con người không thể hiểu thấu.) Con người không thể hiểu thấu nhưng lại luôn đứng ở phía đối lập với Đức Chúa Trời để nghiên cứu và quan sát Ngài. Lòng họ luôn nghi kỵ và nói: “Nếu tôi không hiểu được chuyện này, thì Ngài không phải Đức Chúa Trời”. Đây là quan điểm gì vậy? Quan điểm và lập trường này là sai lầm, là đối nghịch với Đức Chúa Trời, và thật sai lầm khi luôn luôn nghiên cứu. Ngươi phải hiểu Đức Chúa Trời và nói rằng: “Tôi không hiểu được vấn đề này. Nó quá sâu sắc. Dù được Đức Chúa Trời khai sáng thì tôi vẫn không hiểu được. Vậy nên tôi sẽ tìm kiếm trong vài năm với tấm lòng vâng phục. Nếu Đức Chúa Trời không cho tôi đáp án, thì tôi sẽ tạm gác chuyện này sang một bên. Giữa tôi và Đức Chúa Trời không có khoảng cách hay hiểu lầm nào cả. Không hiểu lầm hoặc oán trách Đức Chúa Trời thì sẽ không chống đối Ngài. Không chống đối Ngài thì sẽ không phản nghịch Ngài. Không phản nghịch Ngài thì sẽ không chối bỏ hay rời xa Ngài. Tôi sẽ vĩnh viễn đi theo Đức Chúa Trời”. Nền tảng của việc “vĩnh viễn đi theo Đức Chúa Trời” là gì? Đó là: “Dù những gì Đức Chúa Trời làm có phù hợp với quan niệm của tôi hay không, tôi cũng sẽ vâng phục và nghe theo. Đức Chúa Trời vẫn là Đức Chúa Trời của tôi, tôi vẫn là loài thọ tạo và là một con người. Bất kể Đức Chúa Trời đối đãi tôi như thế nào, dù Ngài ném tôi vào địa ngục, biển lửa hay vào tay Sa-tan, ma quỷ, tôi đều sẽ vâng phục Ngài mà không một lời oán trách. Địa vị của Đức Chúa Trời không thể thay đổi, thân phận thọ tạo của tôi cũng không thể thay đổi. Chỉ cần sự thật này không thay đổi, thì tôi phải đi theo Đức Chúa Trời, và Ngài sẽ vĩnh viễn là Đức Chúa Trời của tôi”. Một khi đức tin của ngươi vào Đức Chúa Trời đã bám rễ, ngươi sẽ không rời khỏi Ngài. Đây là mối quan hệ giữa thân phận thọ tạo của ngươi và Đức Chúa Trời. Một khi hoàn toàn hiểu được thân phận và địa vị của Đức Chúa Trời trong lòng ngươi, cũng như thân phận và địa vị thọ tạo mà ngươi nên giữ vững, và khi những điều này đã bén rễ trong lòng ngươi, thì ngươi sẽ không bao giờ rời xa Đức Chúa Trời. Có những lúc ngươi yếu đuối, tiêu cực, buồn bã hoặc gặp phải những điều không phù hợp với quan niệm của mình, và ngươi không thể nhìn rõ hay hiểu thấu, điều đó có thể ảnh hưởng đến quan hệ của ngươi và Đức Chúa Trời không? (Thưa, không ảnh hưởng.) Miễn là ngươi hiểu rõ lẽ thật về khải tượng, đã thiết lập nền tảng, trải nghiệm nhiều hoàn cảnh và nhận ra rằng mọi điều Đức Chúa Trời làm đều có ý nghĩa, thì ngươi sẽ biết công tác của Đức Chúa Trời, không dễ nảy sinh quan niệm nữa. Một số người chỉ có thể biết được một phần. Chẳng hạn, về sự phán xét và hình phạt, người ta thừa nhận rằng những gì Đức Chúa Trời làm là có ý nghĩa, nhưng khi đối mặt với sự tỉa sửa thì họ lại nảy sinh quan niệm. Bất kể ai tỉa sửa họ, họ đều không sẵn lòng tiếp nhận và không thừa nhận rằng điều này đến từ Đức Chúa Trời. Họ nghĩ rằng đó là việc làm của con người và đến từ Sa-tan. Đây có phải là một sai lầm khác không? Một vấn đề khác xuất hiện và công cuộc tìm kiếm lẽ thật phải được tiếp tục. Nếu không thể vượt qua phương diện này, liệu ngươi có thể hoàn toàn vâng phục công tác của Đức Chúa Trời không? Ngươi chỉ có thể vâng phục những điều phù hợp với quan niệm của mình, chứ không vâng phục những gì không phù hợp với quan niệm của ngươi. Người như vậy rất dễ chống đối Đức Chúa Trời, tâm tính của họ chưa hề thay đổi.
Bên trong con người có nhiều tâm tư, ý niệm và tình trạng, chúng thường ảnh hưởng đến cách nghĩ, quan điểm và lập trường của họ. Nếu ngươi có thể tìm kiếm lẽ thật để giải quyết từng tâm tư, ý niệm và tình trạng này, thì chúng sẽ không ảnh hưởng đến quan hệ giữa ngươi và Đức Chúa Trời. Có thể hiện tại vóc giạc của ngươi còn nhỏ, hiểu biết về lẽ thật còn nông cạn, và vì ngươi tin Đức Chúa Trời chưa lâu hoặc do nhiều yếu tố khác nên ngươi chưa hiểu nhiều lẽ thật – nhưng ngươi nên nắm vững một nguyên tắc: Mọi việc Đức Chúa Trời làm, bất kể bề ngoài trông tốt hay xấu, đúng hay sai, có phù hợp với quan niệm của con người hay không, tôi đều phải vâng phục. Tôi không có quyền chỉ trích, đánh giá, phân tích hay nghiên cứu xem nó đúng hay sai. Điều tôi nên làm là hoàn thành bổn phận của loài thọ tạo, sau đó thực hành những lẽ thật mà mình hiểu để thỏa mãn Đức Chúa Trời và không đi lệch khỏi con đường thật. Đức Chúa Trời cho tôi hiểu bao nhiêu thì tôi sẽ thực hành bấy nhiêu. Nếu Đức Chúa Trời chưa khai sáng cho tôi thì tôi cũng phải tìm kiếm điều mà mình nên thực hành. Nếu Đức Chúa Trời chưa khai sáng cho tôi về điều mà tôi không cần phải hiểu, thì tôi sẽ vâng phục và chờ đợi. Có lẽ một ngày nào đó Ngài sẽ cho tôi hiểu. Cũng giống như việc Đức Chúa Jêsus bị đóng đinh, sau hai nghìn năm, những người tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời đều cơ bản hiểu được, ngay cả những người không quá nhiệt tâm mưu cầu cũng hiểu chuyện đó là như thế nào. Có những công tác lớn liên quan đến kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời mà hiện tại ngươi không hiểu được, nhưng vì không hiểu lẽ thật nên ngươi hiểu lầm Đức Chúa Trời và phủ nhận sự tồn tại của Ngài, điều này hủy hoại mối quan hệ bình thường giữa ngươi và Đức Chúa Trời. Đây là một sai lầm nghiêm trọng. Ngươi nên có một thái độ, quan điểm và lập trường rằng: “Với những điều tôi không hiểu thì tôi sẽ chờ. Đợi đến một ngày khi Đức Chúa Trời khai sáng cho nhân loại hiểu, thì tôi sẽ có thể hiểu hết tất cả”. Khi rời đi, Đức Chúa Jêsus đã nói: “Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi”. Tại sao lại “cao quá sức các ngươi”? Chính là vì vóc giạc của con người còn quá nhỏ, không cách nào hiểu được. Giống như khi nói với một đứa trẻ ba tuổi về việc kiếm tiền và nuôi sống gia đình; nó biết nghe, nhưng lại cảm thấy điều đó quá xa vời với mình, nên nó nghe không hiểu, với không tới. Đức Chúa Trời muốn nói với con người nhiều điều mà họ nên hiểu, nhưng vì vóc giạc con người còn nhỏ bé, hoặc quá trình công tác của Đức Chúa Trời chưa được tỏ lộ đầy đủ với con người, họ cũng chưa trải nghiệm chúng, nên nếu biết quá sớm thì họ nghe cũng không hiểu. Dù có nghe thì họ cũng sẽ xem chúng là đạo lý và chỉ hiểu theo nghĩa đen mà không thực sự biết Đức Chúa Trời đang phán gì, thế nên Đức Chúa Trời không phán. Đức Chúa Trời không phán thì có phù hợp không? Có mang lại lợi ích gì cho con người không? (Thưa, có.) Có trì hoãn sự phát triển sự sống của con người không? Tuyệt đối không, không có gì bị trì hoãn cả, cũng không ảnh hưởng đến cuộc sống thường nhật hay sự mưu cầu bình thường của ngươi. Vì vậy, ngươi chỉ cần thả lỏng lòng mình và mưu cầu lẽ thật, vì đây là điều quan trọng nhất; suy cho cùng thì quan trọng nhất vẫn là mưu cầu lẽ thật. Nếu ngươi theo đuổi lẽ thật, thì lẽ mầu nhiệm trong một số điều mà Đức Chúa Trời làm, sự khôn ngoan, sự kỳ diệu và tâm tính của Đức Chúa Trời trong mọi điều Ngài làm, cũng như những điều mà nhân loại nên hiểu, sẽ dần dần trở nên sáng tỏ trong quá trình đi theo Đức Chúa Trời. Có nhiều phương diện liên quan đến việc biết Đức Chúa Trời. Trong quá trình tương tác, giao tiếp và tiếp xúc với Đức Chúa Trời, ngươi phải trải nghiệm và chiêm nghiệm lời Đức Chúa Trời, chiêm nghiệm công tác của Ngài, cũng như chiêm nghiệm sự khai sáng và dẫn dắt của Ngài trên ngươi. Trong quá trình này, một cách vô thức, ngươi sẽ biết Đức Chúa Trời, tức là dần dần biết Đức Chúa Trời trong quá trình trải nghiệm sự tể trị và sự an bài của Đức Chúa Trời trên ngươi. Nếu không trải nghiệm những quá trình này, mà chỉ mỗi ngày mở to mắt nhìn lên trời và dùng trí tưởng tượng để thấy công tác của Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ vĩnh viễn không bao giờ nhìn thấy. Cuối cùng ngươi sẽ hoài nghi và hỏi: “Đức Chúa Trời ở đâu? Mặt trăng có phải do Ngài tạo ra? Mặt trời mọc vào buổi sáng và lặn vào ban đêm – đây là cách mà Đức Chúa Trời tể trị vạn vật sao?”. Đây là dạng hiểu biết trống rỗng, và tín ngưỡng của ngươi sẽ chỉ là những câu chữ rỗng tuếch. Người ta hỏi ngươi có tin Đức Chúa Trời không, ngươi trả lời: “Tôi tin Đức Chúa Trời, tôi có tín ngưỡng, tôi là Cơ Đốc nhân”. Họ lại hỏi: “Tại sao anh không tin vào Phật giáo?” Ngươi trả lời: “Phật giáo không phải con đường đúng đắn, Cơ Đốc giáo mới là con đường đúng đắn”. Ngươi chỉ có thể nói vậy, chứng tỏ ngươi không có trải nghiệm và chẳng thu được gì cả. Mọi điều về Đức Chúa Trời, Ngài có gì và là gì, tâm tính của Ngài, sự tể trị và sự an bài của Ngài đối với nhân loại và vạn vật, tính chân thực và chuẩn xác của những lời Ngài phán, ý nghĩa, sự khai trí và giá trị của lời Ngài đối với nhân loại, cũng như các phương thức công tác của Ngài như thử luyện, sửa dạy, khai sáng, soi sáng, an ủi và khích lệ, cùng một vài hướng dẫn đặc biệt của Ngài dành cho con người – nếu ngươi chưa từng đích thân trải nghiệm và chiêm nghiệm chúng, thì liệu mối quan hệ giữa ngươi và Đức Chúa Trời có thể bình thường được không? Ngươi có thể thực sự vâng phục Ngài không? Sự hiểu biết của ngươi đối với Đức Chúa Trời sẽ luôn là một dấu chấm hỏi, một loạt những dấu chấm hỏi, và không có sự hiểu biết thực sự nào cả. Vậy thì quan hệ giữa ngươi và Đức Chúa Trời có bình thường không? Có thực sự là mối quan hệ giữa loài thọ tạo và Đấng Tạo Hóa không? Dấu chấm hỏi này rốt cuộc đại diện cho điều gì? Đức Chúa Trời sẽ luôn xa lạ đối với ngươi, dù là về thân phận, địa vị hay thực chất của Ngài. Ngài không phải người thân hay họ hàng của ngươi. Ngài sẽ vĩnh viễn giống như một vị khách xa lạ mà ngươi chưa từng biết. Vậy nên thật khó để giải thích mối quan hệ giữa ngươi và Đức Chúa Trời rốt cuộc là gì, nhưng tuyệt đối không đủ để là mối quan hệ giữa loài thọ tạo và Đấng Tạo Hóa.
Đâu là những điểm quan trọng nhất khi tin Đức Chúa Trời? Làm sao để biến đức tin nơi Đức Chúa Trời thành thực tế mà con người nên có trong cuộc sống? Làm thế nào để vâng phục và đạt được Đức Chúa Trời? Ngươi phải dựa vào việc trải nghiệm lời Ngài, và quan trọng nhất là trải nghiệm sự phán xét, hình phạt của Ngài, như vậy thì mới có thể vâng phục và đạt được Đức Chúa Trời. Mặc dù có nhiều người sẵn sàng thực hiện bổn phận của mình, nhưng họ không biết cách trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Để trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, ngươi phải trải nghiệm sự phán xét và hình phạt, sự tỉa sửa, sự thử luyện và tinh luyện của Ngài. Mọi yêu cầu của Đức Chúa Trời đều phải được thực hành, bước vào và đạt được. Đây gọi là trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Để trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, ngươi phải thiết lập mối quan hệ bình thường với Ngài, luôn cầu nguyện và tìm kiếm Ngài với tấm lòng vâng phục. Bất kể có chuyện gì xảy ra hay đối mặt với khó khăn nào, ngươi cũng phải cậy dựa và ngưỡng vọng Đức Chúa Trời, tìm kiếm đáp án và con đường từ lời Ngài, luôn cầu nguyện và thông công với Ngài. Trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời cũng là tiếp xúc với Ngài, vâng phục lời phán và công tác của Ngài, cầu nguyện và tìm kiếm Ngài khi gặp vấn đề hoặc khó khăn. Sau khi trải nghiệm thật nhiều theo cách đó và hiểu được lẽ thật, ngươi sẽ học được cách vận dụng lời Đức Chúa Trời khi gặp chuyện. Có nhiều phương thức để vận dụng lời Đức Chúa Trời, chẳng hạn như khi có chuyện xảy ra, hãy cầu nguyện và tìm kiếm để thấy rằng lời Đức Chúa Trời phán rõ ràng về việc con người nên hành xử thế nào, các nguyên tắc là gì, tâm ý và yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người là gì. Một khi biết được những điều này và hiểu được ý của Đức Chúa Trời, thì ngươi sẽ biết và hiểu được một chút về Ngài. Khi gặp những thử luyện, ngươi nên tìm kiếm: “Lời Đức Chúa Trời đã phán ra sao về thử luyện lớn như thế này? Việc Đức Chúa Trời thử luyện con người có ý nghĩa gì? Tại sao Đức Chúa Trời lại thử luyện con người?”. Lời Đức Chúa Trời phán rằng ngươi bại hoại, luôn phản nghịch và không nghe lời, không vâng phục Đức Chúa Trời, lại luôn có những tưởng tượng, quan niệm, và Đức Chúa Trời muốn làm tinh sạch ngươi bằng các thử luyện. Bất kể ngươi trải nghiệm những gì, dù là sự bách hại, thử luyện, tỉa sửa, sửa dạy hay trừng phạt, và bất kể Đức Chúa Trời bày ra cho ngươi loại hoàn cảnh nào hay Ngài sử dụng phương pháp nào, thì ngươi đều phải tìm đáp án và căn cứ trong lời Ngài, tìm kiếm tâm ý và yêu cầu của Ngài dành cho ngươi. Nói vậy nghĩa là, bất kể điều gì xảy ra, trước tiên ngươi phải nghĩ về những gì Đức Chúa Trời đã phán, Ngài muốn con người thực hành thế nào, Ngài yêu cầu ở con người những gì, và tâm ý của Ngài là gì. Hiểu được những điều này thì ngươi sẽ biết cách trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Nếu trong lòng ngươi không có chỗ cho Đức Chúa Trời và ngươi không yêu lẽ thật, luôn nghĩ về những gì con người nói, những gì sách vở nói, những gì mà danh nhân, vĩ nhân nói, hay những gì mà người ngoại đạo làm khi có chuyện xảy ra, nếu ngươi tìm kiếm và thực hành theo cách này thì ngươi thuộc những kẻ chẳng tin, bởi vì tư tưởng và con đường của ngươi cũng giống như những người ngoại đạo. Nếu ngươi tin Đức Chúa Trời nhưng lại có tư tưởng như những người ngoại đạo và đi theo con đường của những người ngoại đạo, thì đây không phải là con đường đúng đắn, mà là ngõ cụt. Đó không phải điều mà người tin Đức Chúa Trời nên làm, cũng không phải con đường mà họ nên đi. Có những người như vậy trong hội thánh, họ thuộc những kẻ chẳng tin và là người ngoại đạo ẩn mình trong hội thánh.
Mối quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời được liên kết như thế nào? Ngươi làm thế nào để biết Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời công tác trên con người ra sao? Đó là dùng lời Ngài để tỏ lộ tâm ý của Ngài, dẫn dắt ngươi trên con đường ngươi nên đi, thử luyện ngươi, và cho ngươi biết tất cả những yêu cầu và tiêu chuẩn của Ngài dành cho ngươi. Một cách vô thức, con người hiểu mọi phương diện của lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời: nguyên tắc đối nhân xử thế, nguyên tắc xử lý công việc, cách đối đãi với anh chị em, với công tác hội thánh và bổn phận của mình, cách trải nghiệm những thử luyện, cách trung thành với Đức Chúa Trời, cách vứt bỏ và đối đãi với thế giới của những người ngoại đạo, vân vân. Những điều này đều nằm trong lời Đức Chúa Trời, và Ngài đều đã phán với con người, nhưng cuối cùng con người trải nghiệm chúng đến mức độ nào? Con người có thể nhìn thấy Đức Chúa Trời trong lời Ngài, và mặt đối mặt với Đức Chúa Trời. Có người hỏi: “Đức Chúa Trời mà anh tin đang ở đâu?”. Những người chưa từng trải nghiệm điều đó thì không thể hiểu được: “Phải, Đức Chúa Trời ở đâu? Đức Chúa Trời chưa bao giờ xuất hiện trước mặt tôi. Nghe nói Ngài luôn ở tầng trời thứ ba, nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy Ngài. Tôi không biết rốt cuộc Đức Chúa Trời to bao nhiêu hay cao cỡ nào, Ngài toàn năng và toàn tri đến đâu”. Những người có trải nghiệm sẽ nói: “Những điều đó không quan trọng. Tôi đã tiếp xúc với những lời của Đức Chúa Trời kể từ ngày đầu tiên tin Ngài. Tôi đã tin Ngài hai mươi, ba mươi năm nay, nhìn thấy tâm tính và thực chất của Đức Chúa Trời trong lời Ngài, có chút ít hiểu biết về Ngài. Sau bao nhiêu năm trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, nếu một ngày nào đó Đức Chúa Trời đến cạnh tôi, trò chuyện và giao tiếp với tôi, tôi sẽ có thể chứng thực rằng Ngài chính là Đức Chúa Trời đã phán những lời này, Ngài là Đấng mà tôi tin, không nghi ngờ gì nữa! Bất kể Ngài trông như thế nào, chỉ cần lời Ngài và những lời này có cùng một nguồn gốc, thì Ngài chính là Đức Chúa Trời mà tôi tin, Đức Chúa Trời đến từ trời, Đấng tể trị vạn vật và vận mệnh của tôi. Chính là Ngài”. Lúc đó còn cần Đức Chúa Trời nói chuyện với ngươi từ trên trời hay không? (Thưa, không cần nữa.) Dù Đức Chúa Trời biến thành hình dáng hay hình tượng nào, thì ngươi cũng không cần phải nhìn thấy. Không cần nữa. Ngươi sẽ không còn sự tò mò đó nữa. Tại sao? Sau ngần ấy năm tiếp xúc với Đức Chúa Trời, mặc dù không thể nói rằng ngươi biết Đức Chúa Trời hoặc quá quen thuộc với Ngài, nhưng thông qua trải nghiệm của ngươi về lời Ngài hoặc công tác của Ngài, ít nhất ngươi đã không còn xa lạ với Ngài nữa. Ngài ở bên cạnh ngươi, dẫn dắt cuộc sống của ngươi, tể trị mỗi ngày ngươi sống và tể trị vận mệnh của ngươi. Ngài hiểu quá rõ hỷ, nộ, ai, lạc của ngươi và ngươi cũng biết hỷ, nộ, ai, lạc của Ngài. Ngươi không còn hiểu lầm hay oán trách Ngài. Trong lòng ngươi đã có chỗ cho Đức Chúa Trời, thậm chí có thể nói Ngài đã lên ngôi và làm Vua ngự trị trong trái tim ngươi, có thể quản lý toàn bộ con người ngươi. “Làm Vua ngự trị” nghĩa là gì? Nghĩa là ngươi dùng lời Đức Chúa Trời để giải quyết mọi vấn đề xảy ra, lời Đức Chúa Trời làm chủ trong lòng ngươi, chứ bản thân ngươi không còn là chủ nữa. Những kiến thức và văn hóa ngươi đã học, những cuốn sách ngươi đã đọc, những trải nghiệm và sự kiện trong đời ngươi – những thứ này không thể dẫn dắt ngươi nữa. Lời của Đức Chúa Trời sẽ dẫn dắt ngươi trong mọi việc, trở thành kim chỉ nam trong cuộc sống của ngươi, được bộc lộ và sống thể hiện ra trong đời sống thực tế hàng ngày của ngươi. Bằng cách này, ngươi sẽ có được thực tế lẽ thật. Lúc đó nếu có người hỏi ngươi: “Anh tin Đức Chúa Trời, vậy anh có biết Đức Chúa Trời không?”. Thì ngươi sẽ nói: “Tôi biết một chút về Đức Chúa Trời. Tôi không dám dùng từ ngữ để hình dung sự cao cả và khôn ngoan của Ngài, cũng không dám quy định Ngài, nhưng ít nhất tôi biết rằng Đức Chúa Trời là không thể dò lường, Ngài quá khôn ngoan, kỳ diệu và yêu thương con người quá nhiều. Tình yêu của Đức Chúa Trời quá vĩ đại, chân thật, và tâm tính của Ngài quá công chính!”. Chút ít hiểu biết này chẳng phải giá trị hơn so với những quan niệm, tưởng tượng mơ hồ và viển vông của con người hay sao? (Thưa, phải.) Những điều giá trị này đến từ đâu? Chúng đến từ việc trải nghiệm lời Đức Chúa Trời. Tức là, sau bao nhiêu năm được cung ứng lời Đức Chúa Trời, chúng bén rễ, nảy mầm, đơm hoa, kết trái trong ngươi, và ngươi đã sống thể hiện ra thực tế của lời Ngài. Làm thế nào để đạt được hiệu quả này khi ngươi sống thể hiện ra lời Đức Chúa Trời? (Thưa, bằng cách trải nghiệm từng chút một những con người, sự việc và sự vật do Đức Chúa Trời an bài.) Nó đến từ sự chiêm nghiệm, cụ thể là không ngừng nghiệm chứng lời Đức Chúa Trời trong khoảng thời gian đó, và chứng thực rằng từng câu từng lời của Đức Chúa Trời đều là lẽ thật, là điều mà ngươi cần trong đời. Khi đó, nếu ai đó nói: “Đức Chúa Trời mà anh tin không phải là Đức Chúa Trời, Ngài không tồn tại và không thể nhìn thấy được”, thì ngươi sẽ nói: “Sự tồn tại và tể trị của Đức Chúa Trời không phải do một con người quyết định, mà được quyết định bởi Đức Chúa Trời, bởi chính việc Đức Chúa Trời tồn tại và tể trị vạn vật, bởi trải nghiệm thực tế của tôi về công tác của Ngài bao năm qua, bởi tất cả những chứng ngôn trải nghiệm về công tác của Ngài, đây chính là chứng cứ”. Đây là chứng ngôn cho Đức Chúa Trời. Nếu lại có người hỏi: “Đức Chúa Trời ở đâu?”, ngươi sẽ trả lời thế nào? (Thưa, trong lòng của mỗi người tin Đức Chúa Trời.) Đức Chúa Trời vốn sống trong lòng con người, nhưng đồng thời Ngài cũng ở trong và giữa vạn vật xung quanh chúng ta. Đây là sự tồn tại của Đức Chúa Trời. Ngươi không thể phủ nhận, và những gì ngươi trải nghiệm còn thực tế hơn những gì ngươi nhìn thấy. Ngay cả khi nhìn thấy Đức Chúa Trời, thì ngươi có nhận ra Ngài không? (Thưa, không, con sẽ không nhận ra.) Nếu linh thể của Đức Chúa Trời giáng xuống giữa con người và nói: “Ta là Đức Chúa Trời”, ngươi sẽ hoảng hốt và hỏi: “Ngài là Đức Chúa Trời ư? Sao con lại không nhận ra Ngài? Con không chấp nhận một Đức Chúa Trời như Ngài”. Trái lại, ngươi sẽ sợ hãi. Tại sao ngươi lại có phản ứng đó? Bởi vì ngươi không biết Đức Chúa Trời nên mới có thái độ và biểu hiện như vậy đối với Ngài.
Khi tin Đức Chúa Trời, điều quan trọng nhất cần chú trọng là gì? Có thể nói rằng trải nghiệm lời Đức Chúa Trời là điều quan trọng nhất. Trong quá trình trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, bất kể con người có tình trạng sai lầm, tình trạng chống đối Đức Chúa Trời hay tình trạng phản nghịch, hoặc bất kỳ quan điểm sai lầm nào, chúng đều phải được xoay chuyển và giải quyết bằng lẽ thật. Bằng cách đó, tình trạng bên trong ngươi sẽ từng bước cải thiện, đồng thời mối quan hệ giữa ngươi và Đức Chúa Trời sẽ ngày càng trở nên bình thường, ngươi sẽ cảm nhận được sự tồn tại của Đức Chúa Trời. Nếu mối quan hệ giữa ngươi và Đức Chúa Trời không bình thường, ngươi sẽ không cảm nhận được sự tồn tại của Ngài. Chẳng phải có lẽ thật trong chuyện này sao? Tất cả đều có lẽ thật. Nếu mọi người tin Đức Chúa Trời như thể họ đang sống trong chân không, không tiếp xúc với bất cứ thứ gì, không nhìn thấy gì, không biết gì, không quan tâm đến thế giới bên ngoài, giống như các đạo cô và hòa thượng tu đạo, vậy thì đó không phải con đường đúng đắn. Nếu con người có thể quan sát, lĩnh hội và trải nghiệm, thì họ sẽ thấy được hành động của Đức Chúa Trời trong nhiều việc. Nhưng hiện tại có những chuyện quá thâm sâu đối với đa số mọi người và nằm ngoài tầm với của họ, vậy nên ngươi đừng bỏ cái gần mà đi tìm cái xa. Hãy bỏ sức vào lời Đức Chúa Trời và học cách đối chiếu bản thân với lời Ngài. “Đối chiếu bản thân với lời Ngài” nghĩa là sao? Tức là nhìn xem ngươi có tình trạng nào trong số các loại tình trạng được phơi bày trong lời Đức Chúa Trời hay không, ngươi đang ở trong tình trạng nào, lời Ngài chỉ đến điều gì, và Ngài đang nói đến tình trạng nào của con người. Tất cả những điều này cần phải được kiểm điểm và nhận biết rõ ràng. Đôi khi người ta nghe lời Đức Chúa Trời một lần, nhưng vào lỗ tai này lại ra lỗ tai kia, và họ nghĩ: “Lời Đức Chúa Trời không nhắm vào tôi, tôi không có trạng thái này, Ngài đang nói về người khác”. Đây là cách lĩnh hội sai lầm, cho thấy ngươi vẫn không hiểu lời Đức Chúa Trời, lời Ngài vẫn chưa có tác dụng đối với ngươi vì ngươi chưa tiêu hóa chúng. Hãy trải nghiệm cho đến một ngày, khi nghe lời Đức Chúa Trời vạch rõ con người, ngươi sẽ có thể nói: “Lời này của Đức Chúa Trời là đang nói về tôi”. Đây chính là đối chiếu bản thân với lời Đức Chúa Trời. Nhưng đó mới chỉ là sự khởi đầu trong việc bước vào lời Đức Chúa Trời, ngươi có thể vẫn không biết tình trạng mà Ngài phán rốt cuộc là đang chỉ điều gì. Vẫn còn một giai đoạn tìm kiếm xem lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời là gì, yêu cầu của Ngài là gì, con đường mà Ngài ban cho con người là gì. Trong đó còn có nhiều chi tiết, không phải chỉ cần kiểm điểm và mổ xẻ tình trạng bên ngoài là coi như xong. Đức Chúa Trời có mục đích gì khi mổ xẻ tình trạng của con người và bắt họ kiểm điểm? Mục đích là để khiến họ xoay chuyển. Đức Chúa Trời phán rằng đây là một tình trạng sai trái, và nếu ngươi sống trong tình trạng như vậy hoặc có quan điểm như thế, thì ngươi có thể chống đối Đức Chúa Trời. Đây là sự phản nghịch, khiến cho Đức Chúa Trời không hài lòng, là tâm tính bại hoại thuộc về Sa-tan và không phù hợp với lẽ thật, ngươi phải xoay chuyển. Trong lúc xoay chuyển, ngươi phải hiểu những yêu cầu của Đức Chúa Trời là gì, trong những yêu cầu đó có lẽ thật, ngươi phải hiểu tâm ý của Ngài và suy ngẫm: “Đức Chúa Trời yêu cầu gì trong chuyện này? Làm sao để mình xoay chuyển, giải thoát bản thân và giải quyết tình trạng này?”. Điều này liên quan đến việc tìm kiếm lẽ thật. Chỉ đối chiếu bản thân với lời của Đức Chúa Trời thôi thì chưa đủ – ngươi còn phải hiểu lẽ thật và biết bản thân mình. Sau đó ngươi sẽ cảm thấy những yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người quá tốt, và ngươi sẽ có thể ca ngợi Ngài từ tận đáy lòng: “Đức Chúa Trời dò xét tận đáy lòng con người, Ngài thật khôn ngoan! Ngài đã vạch rõ tình trạng của tôi, thứ mà tôi còn không biết mình có, nhưng Ngài biết tất cả!”. Chỉ nhiêu đó thôi sao? Nhiêu đó còn lâu mới đủ, và đó không phải là điều Đức Chúa Trời yêu cầu. Ngài yêu cầu ngươi buông bỏ những tình trạng tiêu cực và sai trái – chúng là những tâm tính bại hoại, và sau khi giải quyết chúng thì hãy thực hành theo lẽ thật. Khi sự hiểu biết của ngươi về lẽ thật dần dần sâu sắc hơn, tình trạng bên trong ngươi sẽ biến đổi triệt để, ngươi sẽ buông bỏ quan điểm ban đầu của mình về mọi việc, thấy rằng quan điểm đó là những thứ sai lầm, biết lỗi sai nằm ở đâu và thực chất của nó là gì, từ đó có thể giải quyết nó. Khi hoàn toàn buông bỏ những thứ trần tục và các quan điểm Sa-tan, dù lúc đó ngươi có thể cảm thấy bên trong mình bị rút rỗng, nhưng lẽ thật mà ngươi hiểu sẽ bắt đầu chiếm lấy lòng ngươi. Quan điểm đúng đắn mà Đức Chúa Trời muốn con người phải có là gì, Ngài muốn con người sở hữu điều gì, quan điểm nào là đúng và quan điểm nào là sai? Muốn hiểu được những điều này cần cả một quá trình, đòi hỏi con người phải không ngừng tìm kiếm và đào sâu vào lẽ thật. Khi thực sự hiểu được lẽ thật, lòng ngươi sẽ hoàn toàn trở nên phong phú và vững vàng. Con người không dễ dàng tin và tiếp nhận lẽ thật. Họ đều có tư tưởng sinh động, có những tâm tư, ý niệm và tâm tính bại hoại, khi không có việc gì làm thì họ luôn nghiên cứu và phân tích xem lời Đức Chúa Trời là đúng hay sai. Nếu được một người hiểu lẽ thật chia sẻ chứng ngôn trải nghiệm, thì họ sẽ hưởng lợi và được khai trí; còn nếu gặp phải một người có những phát ngôn và quan điểm lố bịch, họ sẽ bị dao động. Đây là tình trạng bình thường. Nhưng sau khi trải nghiệm đủ nhiều, đến một ngày họ sẽ hoàn toàn thừa nhận rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, đồng thời hiểu được mình đã sai ở đâu. Khi hiểu rồi thì họ có thể thực hành lẽ thật chưa? (Thưa, chưa thể.) Họ vẫn không cam tâm và thầm nghĩ: “Mình cứ thế mà phủ nhận bản thân ư?”. Họ vẫn muốn tiếp tục nghiên cứu mọi thứ. Bất kể trong lòng họ nghĩ gì, thì tâm tính phản nghịch và bại hoại của họ vẫn luôn tồn tại. Không dễ để họ tiếp nhận lẽ thật; họ không thể trực tiếp tiếp nhận lẽ thật một cách đơn giản và đơn thuần. Ngay cả khi họ biết rõ đó là lẽ thật, họ cũng không thể thực hành nó một cách nhanh chóng và tuyệt đối. Điều này chứng thực sự thật rằng: bên trong con người có tâm tính bại hoại và thực chất Sa-tan. Đức Chúa Trời công tác và bày tỏ lẽ thật là nhằm mục đích giải quyết tâm tính bại hoại của con người, nghĩa là khai quật sự bại hoại của con người, giải quyết và làm tinh sạch nó từng chút một. Quan điểm của con người sẽ dần dần tương hợp với quan điểm của Đức Chúa Trời, và những gì con người làm sẽ phù hợp với lẽ thật. Ngươi tương hợp với Đức Chúa Trời ở phương diện nào thì sẽ không hiểu lầm Ngài ở phương diện đó. Ngươi hiểu lầm Đức Chúa Trời ở phương diện nào thì nên tìm kiếm lẽ thật ở phương diện đó, và dùng lẽ thật để giải quyết hiểu lầm. Tuyệt đối không được lúc nào cũng khăng khăng bám lấy quan điểm riêng và nghĩ rằng việc mình hiểu lầm là đúng đắn và có lý, rằng áp dụng nó vào chỗ nào cũng có lý và có thể giải thích được. Làm thế là lố bịch. Con người có tâm tính bại hoại và kiêu ngạo một chút là chuyện bình thường, chỉ cần tiếp nhận lẽ thật thì họ có thể thay đổi. Nếu họ lố bịch và có quan điểm sai lầm về mọi việc thì sẽ rất nguy hiểm, họ sẽ khó tiếp nhận lẽ thật và dễ dàng hiểu sai lẽ thật. Những người như vậy rất dễ có những quan niệm về Đức Chúa Trời và đối kháng với Ngài; họ thuộc chủng loại của Sa-tan. Về việc hiểu lầm Đức Chúa Trời, nếu con người không tìm kiếm lẽ thật, họ sẽ nghĩ những gì Ngài làm là sai. Nếu họ luôn “kiện cáo” Đức Chúa Trời, cạnh tranh và đấu tranh với Ngài như thế này, thì kết quả cuối cùng sẽ là thất bại, họ sẽ hoàn toàn bị bẽ mặt. Lẽ thật và Đức Chúa Trời luôn chiến thắng. Nếu ngươi có thể tìm kiếm và tiếp nhận lẽ thật với tấm lòng vâng phục trong khi cạnh tranh và đấu tranh với Đức Chúa Trời, thì lòng ngươi mới có thể xoay chuyển, và cuối cùng ngươi sẽ phải chịu phục trước lời của Đức Chúa Trời. Trải nghiệm quá trình này là quá trình Đức Chúa Trời cứu rỗi và thu phục con người, những ai thà chết chứ không tiếp nhận lẽ thật sẽ bị tỏ lộ và đào thải. Nếu ngươi có thể tiếp nhận lẽ thật và thuận phục trước Đức Chúa Trời, thì ngươi là người vâng phục Đức Chúa Trời, có thể đạt được sự tương hợp với Ngài, và sẽ không bao giờ phản nghịch hay chống đối Ngài nữa. Một người dù đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, miễn là có thể tiếp nhận lẽ thật và vâng phục Đức Chúa Trời, thì cuối cùng họ sẽ có thể đạt được sự thay đổi trong tâm tính sự sống. Để Ta cho ngươi một ví dụ. Giả sử ngươi học thực vật học hoặc nghiên cứu nông nghiệp, ngươi gieo mười hạt giống cây ăn quả xuống đất. Theo kiến thức đã học, ngươi biết rằng mười hạt giống có thể mọc lên thành mười cây. Điều này dựa trên căn cứ và lý thuyết khoa học, ngươi tuân theo kết luận đó. Nên khi Đức Chúa Trời nói mười hạt giống có thể mọc lên mười một cây, ngươi sẽ không tin: “Có khả năng đó không? Làm sao mười hạt giống có thể mọc lên mười một cây được?”. Kỳ thực, có một hạt giống ẩn giấu mà ngươi không nhìn thấy. Dựa vào căn cứ nào mà ngươi bám chặt lấy quan điểm của mình? Đó là những bằng chứng khoa học và tri thức mà ngươi học được – những thứ này khống chế tư tưởng của ngươi, và ngươi không thể nhìn ra khỏi phạm vi đó. Nếu ngươi lấy chúng làm tiêu chuẩn thì tức là ngươi không lấy lời Đức Chúa Trời làm tiêu chuẩn – đây chính là sự phản nghịch của con người. Ngươi sẽ nghĩ: “Tôi có căn cứ, sao Ngài lại bảo kết luận của tôi không phải lẽ thật? Ngài phán một câu không có căn cứ như vậy, sao Ngài có thể nói chúng là lẽ thật? Lời Ngài nói không có căn cứ! Có bao nhiêu người chứng minh được? Ai làm chứng? Ai đã nhìn thấy rồi? Sự thật nằm ở đâu?”. Ngươi phủ nhận lời Đức Chúa Trời trước khi nhìn thấy sự thật, ngươi luôn gắn dấu hỏi vào lời Ngài, luôn phủ nhận Ngài và luôn cảm thấy rằng: “Những gì Đức Chúa Trời nói là sai, kết luận của tôi mới là đúng, bởi vì nó đã được chứng minh. Tôi là một học giả trong lĩnh vực này, một người chuyên nghiệp, kết luận của tôi nên được xem là đúng”. Mười hạt giống thì sẽ có thể mọc lên mười cây, ngươi đã đặt dấu bằng ở đây, Đức Chúa Trời lại bảo rằng sẽ mọc lên mười một cây, thế là ngươi không tin lời Ngài. Nhưng nếu kết quả và sự thật cuối cùng là mười một cây mọc lên, thì ngươi có phục hay không? (Thưa có, con phục.) Con người có hoàn toàn bị thuyết phục không? Bằng cách nào? (Thưa, khi họ đã nhìn thấy sự thật.) Khi nhìn thấy sự thật, ngươi bắt đầu phủ định những kiến thức học được và chính kết luận của mình, và ngươi hẳn sẽ đấu tranh nội tâm: “Sao mình lại sai chứ? Lẽ nào khoa học cũng sai ư?”. Trong quá trình này, con người sẽ nghiên cứu và phân tích xem lời Đức Chúa Trời là đúng hay sai, rồi đối chiếu chúng: “Cái nào đúng, lời Đức Chúa Trời hay luận chứng khoa học? Bên nào có nhiều khả năng đúng hơn?”. Sự thật ở ngay trước mắt, nhưng con người vẫn chưa hoàn toàn tiếp nhận được, phải đợi vài năm sau họ mới tâm phục khẩu phục bởi sự thật việc làm của Đức Chúa Trời và có thể thực sự tiếp nhận. Đức Chúa Trời không phán lời hay làm việc mà không có căn cứ; quá trình làm việc của Ngài cũng cho phép ngươi trải nghiệm và thể nghiệm, cho đến khi ngươi nhìn thấy kết quả. Ngươi đạt được gì từ quá trình này? Nó cho phép ngươi có được khẳng định đích thực về việc làm của Đức Chúa Trời. Ngài không để ngươi nói một cách vô căn cứ rằng: “Ngài là Đức Chúa Trời, Ngài vĩ đại và cao thượng, khôn ngoan và kỳ diệu”. Ngài không để ngươi làm chứng kiểu này, mà thay vào đó, Ngài dùng những sự thật này để ngươi trải nghiệm và tự mình nhìn ra. Đức Chúa Trời sẽ không bảo ngươi rằng mười hạt giống mọc lên mười cây là sai. Ngài sẽ không phủ định hay tranh cãi với ngươi, mà sẽ dùng những sự thật để giải thích vấn đề và để ngươi tận mắt chứng kiến. Có khả năng Đức Chúa Trời đã nói với ngươi điều này khi ngươi hai mươi tuổi, nhưng Ngài không nói: “Ta là lẽ thật, ngươi phải nghe lời Ta”. Đức Chúa Trời không nói như vậy, mà Ngài chỉ hành động, và đến khi ba mươi tuổi thì ngươi sẽ nhìn thấy kết quả. Tốn chừng đó thời gian. Trong khoảng thời gian đó, Đức Chúa Trời có tranh cãi với ngươi không? (Thưa, không.) Vậy ai là người đang tranh cãi đây? Chính con người tranh cãi với Đức Chúa Trời và luôn nghĩ rằng: “Đức Chúa Trời sai rồi. Những gì Ngài nói và làm đều không phù hợp với khoa học và đều không phù hợp với đạo lý”. Con người thích tranh cãi với Đức Chúa Trời, nhưng Ngài im lặng và tiếp tục hành động. Mười năm sau, khi phát hiện ra sự thật, ngươi sẽ sợ hãi: “Ôi, thì ra quan điểm của mình sai rồi!”. Đến lúc ngươi thừa nhận mình sai thì kết luận về vấn đề đó thực ra đã thành hình rồi, nhưng liệu ngươi có tiếp nhận không? Ngươi chỉ tiếp nhận một hiện tượng, còn trong lòng thì vẫn không biết chuyện này là thế nào. Ngươi còn cần trải nghiệm bao nhiêu năm nữa? Ngươi có thể cần trải nghiệm thêm mười năm nữa, dùng thời gian mười năm này đi thể nghiệm, rồi sau đó lại chứng thực rằng kết luận về những gì Đức Chúa Trời làm là đúng, rằng Đức Chúa Trời là lẽ thật, rằng Ngài đúng, còn ngươi thì sai. Đến khi bốn mươi tuổi thì ngươi sẽ hoàn toàn bị thuyết phục và nói: “Đức Chúa Trời mới là lẽ thật, Ngài thực sự là Đức Chúa Trời, những điều Ngài làm thật kỳ diệu và thực tế! Đức Chúa Trời thật khôn ngoan!”. Ngươi phủ nhận chính mình. Nhìn xem, ngươi cần trải nghiệm bao nhiêu năm? (Thưa, hai mươi năm.) Đức Chúa Trời đã làm gì trong hai mươi năm đó? Ngài không dùng công thức để nói với ngươi, chẳng hạn như giải thích định luật Newton là gì – Ngài dùng sự thật để cho ngươi nhìn thấy một vài chuyện, rồi khai sáng và dẫn dắt ngươi hiểu những điều đó thông qua một số hiện tượng và sự việc xảy ra quanh ngươi. Sau ba hoặc năm năm, ngươi sẽ hiểu được một chút và nói: “Tôi đã sai, nhưng có sai hoàn toàn không?”. Hãy trải nghiệm nhiều hơn và Đức Chúa Trời sẽ bày ra cho ngươi một vài sự thật. Đến khi ngươi bốn mươi tuổi – lại thêm mười năm nữa – ngươi sẽ thừa nhận là mình sai. Đây là cách mà Đức Chúa Trời làm việc, đây là những việc Ngài làm. Thông qua quá trình đó, liệu ngươi có thể nhận ra rằng mình đã sai và Đức Chúa Trời đã đúng không? Chính trong quá trình đối mặt với những sự thật, và dưới sự khai sáng, dẫn dắt của Đức Chúa Trời, ngươi mới nhận ra điều này. Đó là quá trình mà Đức Chúa Trời không chỉ đưa ra cho ngươi một kết luận và khiến ngươi tin vào kết luận đó một cách vô căn cứ. Nếu Đức Chúa Trời ép buộc ngươi phải hiểu, vậy thì có được không? Nếu Đức Chúa Trời khống chế để bắt ngươi hiểu, thì ngươi cũng có thể hiểu và biết rằng dù sao Đức Chúa Trời vẫn đúng. Nhưng tâm ý của Đức Chúa Trời không phải là biến con người thành người máy. Đây không phải điều Ngài muốn. Ngài muốn con người hiểu lẽ thật, tự mình lựa chọn, và có thể vâng phục Ngài. Để đạt được hiệu quả này thì cần phải có thời gian.
Hiện tại ngươi đã thể nghiệm được rằng công tác của Đức Chúa Trời là thực tế chưa? (Thưa, rồi.) Vô cùng thực tế. Sự thực tế trong công tác của Đức Chúa Trời trái ngược với những quan điểm mơ hồ và tưởng tượng của con người, vì vậy ngươi phải cân nhắc xem bên trong ngươi có những điều nào là tưởng tượng, rỗng tuếch và phi thực tế, hoặc không có căn cứ trong lời Đức Chúa Trời. Hãy bác bỏ những điều đó, làm vậy là đúng đắn, nhất định không sai, và ngươi phải trải nghiệm nó theo cách này. Đức Chúa Trời – Đấng Tạo Hóa của vạn vật – đã sáng tạo ra bao nhiêu thứ? Ngài phải khôn ngoan đến mức nào? Ngươi tưởng chỉ cần ba đến năm năm là có thể trải nghiệm và nhìn thấu chuyện này, điều đó là không thể. Ngươi có trải nghiệm cả đời cũng không nhìn thấu được. Vì vậy, ngươi phải trải nghiệm lời Đức Chúa Trời một cách thực tế; bắt đầu từ những điều nhỏ, từng chút từng chút một, và tìm kiếm các nguyên tắc của lẽ thật. Khi gặp phải điều gì đó mà ngươi không thể nhìn thấu, hãy học cách an tĩnh trước Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật, đừng sốt ruột và nóng nảy. Làm thế nào để an tĩnh trước Đức Chúa Trời? Lòng ngươi phải cầu nguyện và tương giao với Đức Chúa Trời. Nếu không thể an tĩnh, ngươi có thể đọc và suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, hoặc hát những bài thánh ca lời Đức Chúa Trời. Những cách này có thể giúp ngươi an tĩnh trước Đức Chúa Trời. Lòng người sẽ trở nên yên tĩnh khi trở về trước Đức Chúa Trời; họ cảm thấy chẳng có ý nghĩa gì và chẳng đạt được gì cả nếu cứ làm việc hoặc chạy loanh quanh bên ngoài. Chỉ cần họ an tĩnh trước Đức Chúa Trời – dù là đọc lời Ngài, thông công về lẽ thật, hay hát thánh ca ca ngợi Ngài – thì tâm linh của họ sẽ đạt được gì đó và được khai sáng, lòng họ sẽ cảm thấy được nuôi dưỡng và đong đầy. Dần dần, ngươi sẽ thấy rõ công tác của Đức Chúa Trời, có thể vâng phục Ngài, đạt được lẽ thật và sự sống. Nếu muốn đạt được lẽ thật và Đức Chúa Trời, con người phải trả giá, chịu khổ thật nhiều, dành thời gian và sức lực để trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời trong nhiều năm. Chỉ khi đó họ mới có thể đạt được lẽ thật, sự sống và toàn bộ sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Ngày 11 tháng 10 năm 2017