Cách mưu cầu lẽ thật (13)

Chúng ta đã liên tục thông công về chủ đề “buông bỏ” trong “Cách mưu cầu lẽ thật” được một thời gian rồi. Các ngươi có suy ngẫm gì về các hạng mục nội dung khác nhau liên quan đến chủ đề này không? Về những điều con người cần buông bỏ mà chúng ta đã thông công, có dễ để con người buông bỏ chúng không? Nghe xong những mối thông công này, các ngươi có suy ngẫm và kiểm điểm dựa vào nội dung của chúng không? Các ngươi có đối chiếu nội dung này với những bộc lộ, những biểu hiện của các ngươi trong cuộc sống thường nhật không? (Thưa, bình thường con cũng suy ngẫm chút ít. Lần trước Đức Chúa Trời đã thông công về việc buông bỏ sự hun đúc của gia đình với chúng con, con nhận thức được rằng bình thường con cũng sống theo những triết lý xử thế này của Sa-tan, chẳng hạn như “Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện” mà gia đình con đã tiêm nhiễm. Sau khi tiếp nhận những tư tưởng này, con rất coi trọng thể diện và địa vị trong mọi việc con làm, sợ mất thể diện, và không thể làm một người thành thực.) Toàn bộ nội dung mà chúng ta thông công về việc buông bỏ những sự vật khác nhau chủ yếu nhằm vào những tư tưởng và quan điểm của con người về những sự vật khác nhau. Nghĩa là phơi bày những tư tưởng và quan điểm không đúng đắn của họ về những sự vật khác nhau này, từ đó khiến con người phân định được chúng và có nhận thức rõ ràng về chúng, sau đó có thể tích cực buông bỏ chúng và không bị chúng hạn chế. Điều quan trọng nhất là không bị những tư tưởng và quan điểm này trói buộc, mà có thể sống và sinh tồn bằng cách làm theo đúng những lời của Đức Chúa Trời và xem lẽ thật như tiêu chí. Nếu muốn bước vào thực tế của những lẽ thật khác nhau, người ta phải có hiểu biết và trải nghiệm từ mọi góc độ, nhất là phải có hiểu biết rõ ràng về những tư tưởng và quan điểm tiêu cực và xấu về những chuyện khác nhau. Chỉ khi có sự phân định về chúng, họ mới có thể tích cực và chủ động buông bỏ chúng, không còn bị chúng mê hoặc và trói buộc. Vì vậy, để bước vào thực tế của những lẽ thật khác nhau và đạt được hiệu quả trong việc mưu cầu lẽ thật, thì con người nên thường xuyên phản tỉnh và suy xét về việc họ bị những tư tưởng và quan điểm khác nhau trói buộc và kiểm soát trong cuộc sống thường nhật như thế nào, hoặc thường xuyên suy ngẫm xem họ có những tư tưởng và quan điểm nào về những sự vật khác nhau trong cuộc sống thường nhật, phân biệt xem những tư tưởng và quan điểm này có đúng đắn và phù hợp với lẽ thật không, có tích cực và đến từ Đức Chúa Trời không, hay là đến từ những ý định của con người và Sa-tan. Đây là bài học rất quan trọng, nó là một phương diện thực tế mà con người phải bước vào mỗi ngày trong cuộc sống thường nhật. Tức là trong cuộc sống thường nhật, bất kể ngươi cógặp những con người, sự vật và sự việc khác nhau nào hay không ngươi phải luôn kiểm điểm những tư tưởng và quan điểm của mình, xem những suy nghĩ và quan điểm này có đúng đắn và phù hợp với lẽ thật không – đây là bài học rất quan trọng. Trong cuộc sống thường nhật, ngoài thời gian bình thường mà ngươi dành để thực hiện bổn phận, phương diện lối vào này nên chiếm 80 đến 90 phần trăm thời gian của ngươi. Chỉ bằng cách này ngươi mới có hy vọng loại bỏ mọi tư tưởng và quan điểm về những sự việc tiêu cực, và bước vào thực tế lẽ thật. Cũng có thể nói rằng chỉ khi nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động dựa vào lời Đức Chúa Trời, và lấy lẽ thật làm tiêu chí thì ngươi mới có hy vọng, mới có thể mong cuối cùng đạt được sự cứu rỗi. Nếu trong cuộc sống thường nhật, ngoài thời gian dành cho việc thực hiện bổn phận, trong 80 đến 90 phần trăm thời gian còn lại, đầu óc ngươi trống rỗng hoặc chỉ suy xét và suy ngẫm về cuộc sống xác thịt, địa vị và danh dự, ngươi sẽ không dễ bước vào thực tế lẽ thật, không dễ đạt được hiệu quả mưu cầu lẽ thật. Nếu cả hai chuyện này đều không dễ đạt được, thì cơ hội đạt được sự cứu rỗi của ngươi rất mong manh. Vì vậy, được cứu rỗi phụ thuộc vào điều gì? Một mặt, nó phụ thuộc vào việc Đức Chúa Trời công tác như thế nào và Đức Thánh Linh có công tác trong ngươi hay không; mặt khác, nó phụ thuộc vào sự nỗ lực chủ quan của ngươi, ngươi trả giá bao nhiêu, dành bao nhiêu thời gian và sinh lực vào việc mưu cầu lẽ thật cũng như đạt được sự cứu rỗi. Nếu những gì ngươi nghĩ và làm trong phần lớn thời gian đều không liên quan đến việc mưu cầu lẽ thật, thì những gì ngươi làm không liên quan đến việc được cứu rỗi – đây là sự thật và kết quả tất yếu. Vậy tiếp đến ngươi nên làm gì? Một mặt, ngươi nên theo dõi sát sao mỗi chủ đề mà chúng ta thông công, rồi sau đó tích cực và chủ động suy ngẫm, hiểu biết chủ đề này, tức là khi chúng ta thông công xong một chủ đề, ngươi nên rèn ngay khi sắt còn nóng bằng cách kiểm điểm bản thân, để đạt được nhận thức chân thực, đúng đắn và sự ăn năn chân thực. Mục đích của việc hiểu được phương diện lẽ thật này càng sớm càng tốt sau khi thông công xong, hay sau khi ngươi đã hiểu một phần những gì chúng ta thông công, là để ngươi có ý thức căn bản nhất trong tư tưởng và quan điểm của mình, để sau này khi ngươi gặp những vấn đề có liên quan trong cuộc sống thường nhật, những nhận thức và cách hiểu trước đó của ngươi về nguyên tắc lẽ thật sẽ trở thành những tư tưởng và quan điểm nền tảng để ngươi trải qua chuyện này. Ít nhất, sau khi ngươi đã có ý thức, đã có hiểu biết đúng đắn và chính xác, thì thái độ và hiểu biết của ngươi đối với chuyện này sẽ tích cực và tốt. Hay nói cách khác, trước khi chuyện này xảy ra, ngươi đã được tiêm phòng và có một mức độ miễn dịch nhất định, để khi nó thực sự xảy ra, tỷ lệ thất bại của ngươi sẽ được giảm bớt, khả năng ngươi phản bội Đức Chúa Trời cũng giảm bớt, và khả năng ngươi bước vào thực tế lẽ thật sẽ được tăng lên rất nhiều. Giống như khi một bệnh dịch xảy ra: Nếu ngươi không tiêm phòng dịch, ngươi chỉ có thể đóng cửa và không ra ngoài, để giảm hoàn toàn nguy cơ bị nhiễm bệnh. Nhưng nếu ngươi ra ngoài hoạt động và tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thì ngươi phải được tiêm phòng dịch. Tiêm phòng dịch đồng nghĩa với không có khả năng nhiễm bệnh sao? Không, nhưng nó giảm khả năng bị nhiễm. Đủ để nói rằng ngươi sẽ có kháng thể. Quá trình mưu cầu lẽ thật bắt đầu bằng việc biết những lẽ thật khác nhau. Nếu ngươi biết những câu nói và nguyên tắc đúng đắn và tích cực từ trong những lẽ thật khác nhau, đồng thời ngươi cũng có hiểu biết nhất định về những suy nghĩ và quan điểm tiêu cực và phản diện khác nhau mà những lẽ thật khác nhau vạch ra, thì sau đó mỗi khi chuyện tương tự lại xảy ra, những lựa chọn của ngươi sẽ không còn dựa vào tiêu chí của những suy nghĩ và quan điểm tiêu cực, phản diện mà Sa-tan đã tiêm nhiễm vào ngươi, và ngươi sẽ không còn thái độ bám lấy những suy nghĩ và quan điểm như thế nữa. Dù ở giai đoạn này ngươi vẫn chưa bước vào phương diện này của thực tế lẽ thật và những quan điểm của ngươi có thể trung lập, nhưng sau khi tiếp nhận những suy nghĩ và quan điểm tích cực này, ngươi sẽ có một hiểu biết nhất định về những suy nghĩ và quan điểm tiêu cực, để khi gặp chuyện tương tự sau này, ít ra ngươi sẽ có thể phân biệt được những suy nghĩ và quan điểm tích cực và tiêu cực liên quan đến dạng chuyện này, và có tiêu chí nhất định để đối phó với nó. Trên cơ sở tiêu chí này, những người yêu lẽ thật và có nhân tính sẽ luôn có khuynh hướng thực hành lẽ thật, nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động theo tiêu chí của lẽ thật. Ở một mức độ nhất định, điều này sẽ giúp ngươi bước vào thực tế lẽ thật, thực hành theo nguyên tắc lẽ thật, vâng phục Đức Chúa Trời theo yêu cầu của Ngài, tiếp nhận con người, sự vật và sự việc mà Đức Chúa Trời sắp đặt cho ngươi. Từ quan điểm này, có thể nói rằng người ta càng hiểu nhiều lẽ thật thì khả năng họ bước vào thực tế lẽ thật sẽ cao hơn, và khi họ càng biết rõ những điều tiêu cực, thì khả năng họ quay lưng với những điều tiêu cực này càng cao hơn không? (Thưa, có thể). Vì vậy, cho dù ngươi có sẵn lòng mưu cầu lẽ thật hay không, đã hạ quyết tâm mưu cầu lẽ thật hay chưa, ngươi có đi trên con đường mưu cầu lẽ thật hay không, và bất kể tố chất của ngươi ra sao hay ngươi hiểu lẽ thật đến thế nào, thì tóm lại, nếu con người muốn mưu cầu lẽ thật, hiểu những tiêu chí của lẽ thật, thực hành và bước vào lẽ thật, thì người ta cần phải phân định và biết mọi chuyện tiêu cực khác nhau. Đây đều là những tiền đề cho việc mưu cầu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật.

Có người không hiểu lẽ thật, và khi gặp những chủ đề khác nhau mà chúng ta hiện đang thông công, họ luôn cảm thấy: “Con chưa từng nghĩ về những chủ đề này, cũng chưa từng trải nghiệm chúng. Con không thấy được sự tương quan giữa những gì Ngài đang nói về những chủ đề này với những vấn đề, những tâm tính bại hoại, và những bộc lộ của sự bại hoại nơi con, vậy những gì Ngài nói về những chủ đề này có liên quan gì với sự mưu cầu lẽ thật của con? Có vẻ nó không liên quan gì nhiều đến con trong việc bước vào thực tế lẽ thật, đúng không? Tại sao Ngài không nói về những chủ đề cao thâm liên quan đến lối vào tích cực của con người? Sao cứ luôn phơi bày những chuyện tiêu cực vụn vặt của cuộc sống thường nhật?” Quan điểm này đúng hay sai? (Thưa, sai). Những người có quan điểm này cứ hễ nghe nói về những chuyện vụn vặt của cuộc sống thường nhật, nhất là khi đưa ra một số ví dụ về những chuyện này là họ lại cảm thấy ác cảm và không muốn nghe. Họ nghĩ, “Nội dung này quá tầm thường và nông cạn. Chẳng có gì cao xa cả, nó quá đơn giản. Vừa nghe là đã hiểu ngay rồi. Nó quá dễ. Lẽ thật không phải thế này, nó phải sâu sắc hơn, con người cần phải nghe mấy lần mới hiểu được, mà cũng chỉ nhớ được một hai câu. Những gì Ngài đang nói chỉ là những chuyện vụn vặt của cuộc sống thường nhật, cũng như một số biểu hiện của nhân tính bình thường trong cuộc sống thường nhật. Chẳng phải chuyện này có chút nông cạn với chúng con sao?” Về những người có quan điểm này, ngươi nghĩ suy nghĩ và quan điểm của họ đúng hay sai? (Thưa, sai). Tại sao lại sai? Sai ở điểm nào? Trước hết, có phải suy nghĩ và quan điểm của con người tách rời khỏi cuộc sống thường nhật của họ không? (Thưa, không). Có phải những biểu hiện và thái độ của họ tách rời khỏi cuộc sống thường nhật của họ không? (Thưa, không). Đều không tách rời. Những tâm tính bại hoại, suy nghĩ và quan điểm, những ý nghĩ và ý định của con người liên quan đến những chuyện khác nhau, cách hành động cụ thể của họ, cũng như những tâm tư ý niệm xuất hiện trong đầu họ, tất cả đều không thể tách rời khỏi những biểu hiện và bộc lộ của con người trong cuộc sống thường nhật. Hơn nữa, những biểu hiện và bộc lộ khác nhau này của con người trong cuộc sống thường nhật, cũng như những suy nghĩ, quan điểm và thái độ đối với những chuyện khác nhau xảy đến với họ, đều là những thứ cụ thể hơn liên quan đến tâm tính bại hoại của con người. Mục đích của việc mưu cầu lẽ thật là để cải biến những suy nghĩ và quan điểm sai lầm của con người, và bằng cách thay đổi suy nghĩ và quan điểm của con người, bằng cách thay đổi thái độ của họ đối với mọi loại con người, sự vật và sự việc, để loại bỏ những tâm tính bại hoại của con người, và loại bỏ sự phản nghịch và phản bội của họ đối với lẽ thật và Đức Chúa Trời, cũng như thực chất bản tính đối nghịch Đức Chúa Trời của họ. Vì vậy, nếu ngươi muốn mưu cầu lẽ thật, thì loại bỏ và thay đổi những suy nghĩ và quan điểm sai lầm khác nhau của ngươi trong cuộc sống thường nhật có phải là việc tất yếu không? Nó có phải việc quan trọng nhất không? (Thưa, phải). Vì vậy, dù những điều Ta nói có vẻ nông cạn và đời thường đến đâu, các ngươi cũng không nên sinh lòng phản nghịch về chúng. Những thứ này tuyệt đối không phải trò trẻ con. Chúng chiếm cứ suy nghĩ ngươi, chiếm cứ tâm hồn ngươi, kiểm soát những suy nghĩ và quan điểm của ngươi về mọi con người, sự vật và sự việc mà ngươi gặp. Nếu ngươi không cải biến hay loại bỏ những suy nghĩ và quan điểm sai lầm này trong cuộc sống thường nhật, thì lời ngươi nói rằng mình đã tiếp nhận lẽ thật và có được thực tế lẽ thật chỉ là những lời sáo rỗng. Giống như khi ngươi bị ung thư – phải tích cực điều trị. Dù tế bào ung thư đang ở cơ quan nào, dù chúng ở trong máu hay trên da, ở trên bề mặt hay ẩn sâu bên trong, thì tóm lại thứ đầu tiên cần phải giải quyết chính là tế bào ung thư trong cơ thể ngươi. Chỉ sau khi giải quyết tế bào ung thư, những chất dinh dưỡng khác nhau mà ngươi đưa vào mới được hấp thu và có hiệu quả bên trong cơ thể ngươi. Như thế, toàn bộ cơ quan trong cơ thể mới có thể thực hiện chức năng một cách bình thường. Khi căn bệnh được loại bỏ, cơ thể của ngươi sẽ trở nên khỏe mạnh hơn và bình thường hơn. Và những người như vậy đã hoàn toàn khỏi bệnh. Sự mưu cầu lẽ thật của con người là quá trình loại bỏ tâm tính bại hoại, và cũng là quá trình bước vào thực tế lẽ thật. Quá trình loại bỏ tâm tính bại hoại là quá trình con người cải biến và loại bỏ những suy nghĩ và quan điểm tiêu cực, sai lầm, cũng là quá trình để con người tự trang bị cho mình những suy nghĩ và quan điểm tích cực và đúng đắn khác nhau. Những suy nghĩ và quan điểm tích cực là gì? Chúng là những thứ liên quan đến thực tế, nguyên tắc, và tiêu chí của lẽ thật. Để bước vào thực tế lẽ thật, con người phải lần lượt mổ xẻ và hiểu biết những suy nghĩ và quan điểm sai lầm khác nhau của họ về cuộc sống, sự sinh tồn, và đối nhân xử thế bằng cách tìm kiếm lẽ thật, rồi lần lượt giải quyết và loại bỏ chúng. Tóm lại, mưu cầu lẽ thật chính là giúp con người loại bỏ tất cả những suy nghĩ và quan điểm sai lầm, không đúng đắn, để có những suy nghĩ và quan điểm đúng đắn về mọi sự, những suy nghĩ và quan điểm phù hợp với nguyên tắc lẽ thật. Chỉ như thế, con người mới có thể đạt được mục tiêu nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động hoàn toàn căn cứ theo lời Đức Chúa Trời và lấy lẽ thật làm tiêu chí. Đây là kết quả cuối cùng mà con người đạt được nhờ mưu cầu lẽ thật, cũng là thực tế lẽ thật mà cuối cùng con người có thể sống trọn sau khi đạt được sự cứu rỗi. Ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu).

Ở buổi hội họp trước, chúng ta đã thông công về chủ đề “buông bỏ” liên quan đến gia đình. Lần trước chúng ta đã thông công những gì về chủ đề gia đình? (Thưa, chúng ta đã thông công về những phiền phức và trở ngại mà gia đình gây ra cho việc mưu cầu lẽ thật, cũng như những mưu cầu, lý tưởng và mong muốn nào mà chúng ta nên buông bỏ khi nói đến vấn đề gia đình. Đức Chúa Trời đã nhắc đến hai việc, một là buông bỏ thân phận mà chúng ta thừa hưởng từ gia đình, và hai là buông bỏ sự hun đúc mà gia đình áp đặt lên chúng ta). Đúng là hai việc đó. Việc đầu tiên là buông bỏ thân phận mà ngươi thừa hưởng từ gia đình. Ngươi có biết nguyên tắc lẽ thật nào mà con người nên hiểu ở phương diện này không? Sau khi nghe thông công của Ta, nếu Ta không đưa ra tổng kết cụ thể, các ngươi có biết cách tự tổng kết không? Sau khi Ta thông công về nội dung này và những chi tiết cụ thể liên quan đến chúng, các ngươi có tổng kết được những nguyên tắc mà con người nên tuân thủ liên quan đến phương diện lẽ thật này không? Nếu biết cách tổng kết chúng thì ngươi sẽ có thể đưa chúng vào thực hành; nếu không biết tổng kết chúng mà cứ dừng lại trong những sự sáng rải rác, không biết những nguyên tắc lẽ thật liên quan là gì, thì ngươi sẽ không đưa chúng vào thực hành được. Nếu không biết cách đưa chúng vào thực hành, thì ngươi sẽ không bao giờ bước vào phương diện này của thực tế lẽ thật. Cho dù ngươi phát hiện ra vấn đề của mình là gì, ngươi vẫn sẽ không thể đối chiếu chúng với lời của Ta, và không thể tìm được nguyên tắc tương ứng để đưa vào thực hành. Khi thông công về phương diện buông bỏ thân phận mà ngươi thừa hưởng từ gia đình, mục đích chính là để ngươi có thể nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động mà không bị ảnh hưởng bởi những thân phận khác nhau thừa hưởng từ gia đình. Nếu ngươi thừa hưởng từ gia đình thân phận tôn quý, thì ngươi nên có cách tiếp cận đúng đắn với thân phận này, không nên cảm thấy mình tôn quý, không nên cảm thấy mình giá trị hơn người khác hoặc có thân phận đặc biệt. Khi ở trong tập thể, ngươi nên giao tiếp một cách đúng đắn theo nguyên tắc mà Đức Chúa Trời đã dạy cho con người, đối xử với mọi người một cách đúng đắn, thay vì dùng bối cảnh gia đình tôn quý làm vốn liếng để khoe khoang và khiến người khác coi trọng ngươi mọi nơi mọi lúc. Nếu như ngươi không thể buông bỏ thân phận mà ngươi thừa hưởng từ gia đình, và luôn dùng bối cảnh gia đình làm vốn liếng, hành xử cực kỳ kiêu ngạo, tùy ý và hống hách, luôn khoe khoang và thể hiện bản thân giữa mọi người, không ngừng phô trương gia thế, và thân phận đặc biệt mà ngươi thừa hưởng từ gia đình. Thêm vào đó, nếu như ngươi đặc biệt cao ngạo và hách dịch trong thâm tâm, đặc biệt kênh kiệu và xấc xược khi nói chuyện với người khác, thường dùng thân phận của mình làm vốn liếng để dạy đời và chèn ép người khác – nói cách khác, mọi người nghĩ ngươi không có lý trí bình thường – và ngươi coi tất cả mọi người là bình dân, nhất là khi tiếp xúc và giao tiếp với mọi người, ngươi chẳng thèm đếm xỉa gì đến những người xoàng xĩnh hay thấp kém hơn mình, nói chuyện đặc biệt trịch thượng, nhe nanh giương vuốt, ngang ngược độc đoán, lúc nào cũng muốn dạy đời người khác, luôn coi người khác như nô lệ để sai khiến và quát nạt, luôn cho rằng thân phận của mình tôn quý, không thể hòa đồng với người khác, không thể đối xử đúng đắn với những người có địa vị thấp kém hơn ngươi – đây đều là những tâm tính bại hoại, và đều là những thứ mà con người nên loại bỏ. Những tâm tính bại hoại như thế xuất hiện và nảy sinh khi người ta có bối cảnh gia đình và địa vị xã hội tôn quý. Vì vậy, loại người này nên phản tỉnh về những lời nói và việc làm, phản tỉnh những suy nghĩ và quan điểm của mình, nhất là những suy nghĩ và quan điểm liên quan đến thân phận gia đình. Họ nên buông bỏ những suy nghĩ và quan điểm như thế và thoát khỏi những nhân tính khác nhau mà họ đang sống trọn do địa vị xã hội đặc biệt của họ. Nói cách khác, loại người này nên buông bỏ thân phận mà họ thừa hưởng từ gia đình. Đại đa số mọi người nghĩ rằng địa vị xã hội của họ thấp kém, nhất là những người bị coi thường, bị kỳ thị, và bị ức hiếp trong xã hội thường cảm thấy thân phận của họ thấp hèn, và sự sỉ nhục do hoàn cảnh gia đình đặc biệt gây ra khiến họ cảm thấy đặc biệt thấp hèn. Cảm giác này khiến họ thường cảm thấy tự ti và không thể tương tác hòa đồng, bình đẳng với người khác. Đương nhiên, loại người này cũng có nhiều cách biểu hiện khác nhau. Có người đặc biệt ngưỡng mộ những ai có địa vị và thân phận tôn quý, họ nịnh bợ, tâng bốc những người này, nói ngon nói ngọt và quỵ lụy họ, luôn phụ họa theo họ, không có nguyên tắc và tôn nghiêm, và cam lòng làm kẻ theo đuôi những người đó, bị họ sai khiến và thao túng như nô lệ. Nguyên tắc xử sự của những người như thế cũng không phù hợp với lẽ thật, vì trong thâm tâm họ cho rằng thân phận của mình thấp kém và từ khi sinh ra họ đã là tiện nhân, không xứng đứng ngang hàng với những người giàu có hay có thân phận xã hội cao quý, cho rằng họ được sinh ra để làm nô lệ của những người đó, phải nhìn sắc mặt của người ta mà làm việc và bị người ta sai khiến. Họ không cảm thấy như thế là đê hèn, mà nghĩ rằng đây là chuyện bình thường, rằng mọi sự phải như vậy. Đây là kiểu suy nghĩ và quan điểm gì vậy? Những suy nghĩ và quan điểm này có phải là một dạng cam tâm sa đọa không? (Thưa, phải). Còn có một loại người thấy những người giàu sống theo kiểu kiêu ngạo, buông thả, xấc xược và độc đoán, nhưng họ lại vô cùng ngưỡng mộ và đi theo những người như thế, hy vọng rằng nếu có cơ hội đổi đời, họ có thể sống buông thả và kiêu ngạo như những người giàu có đó. Họ nghĩ rằng buông thả và kiêu ngạo chẳng có gì sai cả; thậm chí còn xem chúng là phóng khoáng và lãng mạn. Suy nghĩ và quan điểm của những người như thế cũng không đúng đắn và nên buông bỏ. Bất kể thân phận hay địa vị của ngươi thế nào đều do Đức Chúa Trời tiền định, bất kể Đức Chúa Trời tiền định cho ngươi dạng gia đình hay bối cảnh gia đình nào, thì thân phận mà ngươi thừa hưởng từ nó đều không có gì là sỉ nhục hay vinh hiển. Nguyên tắc trong cách tiếp cận với thân phận của mình không nên dựa vào nguyên tắc của vinh hiển hay sỉ nhục. Dù Đức Chúa Trời đặt ngươi vào dạng gia đình nào, bất kể Ngài cho ngươi đến từ dạng gia đình nào, thì trước Đức Chúa Trời ngươi chỉ có một thân phận duy nhất, là thân phận của một loài thọ tạo. Trước Đức Chúa Trời, ngươi là một loài thọ tạo, nên trong mắt Đức Chúa Trời, ngươi bình đẳng với bất cứ ai trong xã hội, với những người có thân phận và địa vị xã hội khác nhau. Các ngươi đều là thành viên của nhân loại bại hoại, và đều là đối tượng cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Và đương nhiên, trước Đức Chúa Trời, các ngươi đều có cơ hội như nhau để thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo, đều có cơ hội như nhau để mưu cầu lẽ thật và đạt được sự cứu rỗi. Ở mức độ này, dựa vào thân phận của một loài thọ tạo mà Đức Chúa Trời ban cho, ngươi không nên quá coi trọng thân phận của ngươi, cũng không nên coi thường nó. Thay vào đó, ngươi nên có cách tiếp cận đúng đắn với thân phận một loài thọ tạo đến từ Đức Chúa Trời, và có thể hòa đồng với bất kỳ ai trong một mối quan hệ bình đẳng, dựa theo những nguyên tắc mà Đức Chúa Trời dạy và nói cho con người một cách đúng đắn. Bất kể địa vị xã hội hay thân phận xã hội của người khác thế nào, bất kể địa vị xã hội hay thân phận xã hội của ngươi thế nào, bất cứ ai vào nhà Đức Chúa Trời và đến trước Đức Chúa Trời đều chỉ có một thân phận, là thân phận của một loài thọ tạo. Vì vậy, những ai có địa vị xã hội và thân phận thấp kém không nên cảm thấy tự ti. Bất kể ngươi có tài cán hay không, bất kể tố chất của ngươi cao hay thấp, và năng lực thế nào, thì ngươi đều nên buông bỏ địa vị xã hội của mình, buông bỏ những suy nghĩ và quan điểm về việc phân hạng và phân loại con người, hoặc phân họ thành tôn quý hay thấp hèn dựa vào bối cảnh gia đình và lịch sử gia tộc. Ngươi không nên cảm thấy tự ti vì thân phận và địa vị xã hội thấp kém của ngươi. Ngươi nên thấy mừng rằng dù bối cảnh gia đình ngươi không quyền lực và huy hoàng, địa vị ngươi thừa hưởng thấp kém, nhưng Đức Chúa Trời không bỏ rơi ngươi, mà nâng đỡ con người thấp hèn từ đống phân và đất đen, ban cho ngươi thân phận của một loài thọ tạo như những người khác. Trong nhà Đức Chúa Trời và trước Đức Chúa Trời, thân phận và địa vị của ngươi bình đẳng với những người được Đức Chúa Trời chọn khác. Khi nhận ra điều này, ngươi nên buông bỏ tâm lý tự ti, đừng bám vào nó nữa. Khi đối diện với những người có một địa vị xã hội lớn và tôn quý, hoặc những người có địa vị xã hội cao hơn ngươi, ngươi không cần phải cúi đầu hay lúc nào cũng cười giả lả với họ, càng không cần ngưỡng mộ họ. Thay vào đó, ngươi nên coi họ là những người ngang hàng, nhìn thẳng vào mắt họ, và đối xử với họ một cách đúng đắn. Kể cả khi họ thường kênh kiệu và xấc xược, vênh váo hống hách, và coi bản thân là người có địa vị xã hội cao, ngươi phải đối xử với họ một cách đúng đắn và không được cam lòng bị họ ép buộc hoặc bị khí thế của họ áp đảo. Bất kể biểu hiện của họ hay họ đối xử với ngươi thế nào, ngươi nên biết rằng trước Đức Chúa Trời, ngươi và họ giống nhau, đều là loài thọ tạo, đều là nhân loại cần được cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã lựa chọn. Họ chẳng có gì đặc biệt hơn so với ngươi. Cái gọi là thân phận và địa vị xã hội của họ không tồn tại trong mắt Đức Chúa Trời và không được Ngài công nhận. Vì vậy, ngươi không nên để mình bị hạn chế bởi chuyện thân phận mà ngươi thừa hưởng từ gia đình, cũng không nên cảm thấy tự ti vì nó, càng không nên vì địa vị xã hội thấp kém mà phải từ bỏ bất cứ cơ hội nào để giao tiếp bình đẳng với người khác hoặc từ bỏ bất cứ quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ nào mà Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi trong nhà Đức Chúa Trời và trước Đức Chúa Trời. Và đương nhiên, ngươi càng không nên từ bỏ quyền lợi được cứu rỗi và hy vọng đạt được sự cứu rỗi. Trong nhà Đức Chúa Trời, trước Đức Chúa Trời, không có sự phân biệt giàu nghèo, không có sự phân biệt giữa địa vị xã hội cao hay thấp, càng không có ai được đối xử hoặc đãi ngộ đặc biệt vì bối cảnh gia đình đặc biệt. Trước Đức Chúa Trời, tất cả mọi người đều chỉ có một thân phận, chính là thân phận của một loài thọ tạo. Còn nữa, trước Đức Chúa Trời, thực chất bản tính của tất cả mọi người đều giống nhau. Chỉ có một loài người mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi, và đó chính là loài người bại hoại. Vì vậy, bất kể thân phận hay địa vị xã hội của ngươi cao quý hay thấp hèn thì ngươi cũng là con người mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi.

Nếu như có người nói với ngươi, “Nhìn gia đình anh đi, nghèo đến nỗi không có nổi một bộ áo quần tử tế; nghèo đến nỗi anh chỉ học đến tiểu học mà không được học trung học; nghèo đến nỗi anh chỉ ăn canh với rau, và chưa bao giờ được thử qua sôcôla, bánh pizza hay nước cola”, thì ngươi nên xử lý tình huống này thế nào? Ngươi có cảm thấy tự ti hay chán nản không? Trong thâm tâm ngươi có oán trách Đức Chúa Trời không? Ngươi có bị lời người đó nói áp đảo không? (Thưa, bây giờ thì không). Bây giờ thì không nhưng trước đây thì có, đúng không? Trước đây, cứ hễ ngươi thấy gia đình ai có tiền, hay gia đình ai giàu có và tôn quý là ngươi lại nói, “Chà! Họ sống trong biệt thự và có xe sang. Họ đi nước ngoài vô số lần. Mình còn chưa từng ra khỏi làng, chưa từng thấy tàu hỏa nữa. Họ đi những chuyến tàu cao tốc, ở khoang hạng nhất, đi trên những chiếc du thuyền sang trọng, mặc những nhãn hiệu của nhà thiết kế đến từ Pháp và đeo trang sức của Ý. Sao mình chưa từng nghe đến những thứ đó nhỉ?” Cứ hễ ngươi ở gần những người như thế, ngươi cảm thấy nhỏ bé hơn họ. Ngươi có phần tự tin khi thông công về lẽ thật và đức tin vào Đức Chúa Trời. Nhưng khi nói chuyện với những người đó về gia tộc và cuộc sống gia đình, ngươi lại muốn trốn chạy và thoát khỏi đó, cảm thấy ngươi không được như họ, và thà chết đi còn hơn. Ngươi nghĩ, “Tại sao mình lại sống trong một gia đình như thế? Mình chưa được thấy bất cứ thứ gì trên thế giới. Người ta dùng kem dưỡng da tay còn mình thì vẫn dùng Vaseline; người ta không thèm bôi kem lên mặt mà thay vào đó tới thẳng thẩm mỹ viện, còn mình thậm chí không biết thẩm mỹ viện nằm ở đâu; người khác ra đường là lái xe ô tô con nhưng nó quá xa vời đối với mình, mình đi xe đạp đã là may lắm rồi, có lúc còn phải đi xe trâu hay lừa kéo”. Mỗi lần nói chuyện với những người như thế, ngươi cảm thấy không tự tin, cảm thấy thân phận mình chẳng đáng là gì và không dám nhắc đến nó. Trong lòng ngươi cảm thấy phần nào đó oán trách và tức giận Đức Chúa Trời, ngươi nghĩ, “Họ cũng là loài thọ tạo như con. Vậy tại sao Đức Chúa Trời lại cho họ hưởng thụ nhiều như vậy? Tại sao Ngài lại tiền định cho họ có gia đình và địa vị xã hội như vậy? Tại sao gia đình con lại nghèo khó khốn khổ thế này? Tại sao bố mẹ lại con ở dưới đáy xã hội, không có năng lực hay bản lĩnh gì cả? Cứ nghĩ đến là con lại tức giận. Hễ nhắc đến chuyện này là con không muốn nghĩ đến bố mẹ con, họ thật bất tài và kém cỏi! Chưa nói đến chuyện lái xe con và sống trong biệt thự, được ra thành phố đi xe buýt và tàu cao tốc hay chơi ở trong công viên thành phố là con mãn nguyện lắm rồi, nhưng họ chưa bao giờ đưa con tới đó, chưa một lần nào! Con không có trải nghiệm cuộc sống nào cả. Con chưa từng được ăn ngon hay lái xe đẹp, và đi máy bay chỉ là mơ ước”. Nghĩ về những điều đó khiến ngươi cảm thấy tự ti, và ngươi thường bị hạn chế bởi chuyện này, nên ngươi thường đi chơi với các anh chị em có thân phận và địa vị không mấy khác biệt so với mình và tự nhủ: “Người ta nói đúng, người nhóm theo loài, vật tụ theo bầy. Nhìn những người đó đi, họ đều là người giàu có, có cả quan chức cao cấp trong chính phủ, triệu phú, phú nhị đại, tài phiệt, du học sinh và nghiên cứu sinh về nước, cũng như giám đốc điều hành tập đoàn và giám đốc khách sạn. Ngài nhìn lũ chúng con đây, chúng con chỉ toàn là nông dân hoặc thất nghiệp. Gia đình chúng con sống ở vùng quê lạc hậu, chỉ có bậc giáo dục tiểu học, chẳng có kiến thức. Chúng con chăn nuôi gia súc, buôn bán lề đường, sửa giày dép. Chúng con là hạng người gì? Chẳng phải chỉ là một đám khố rách áo ôm sao? Nhìn đám người đó đi, họ ưu tú và phong độ. Còn đám chúng con đây cứ nghĩ đến là con lại cảm thấy mình thật vô dụng và ấm ức”. Tin Đức Chúa Trời nhiều năm như vậy, ngươi vẫn chưa buông bỏ được chuyện này, và thường cảm thấy đặc biệt tự ti và bức bối. Suy nghĩ và quan điểm về mọi sự của những người này rõ ràng là sai lầm, và ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính đúng đắn trong cách họ nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động. Những suy nghĩ và quan điểm này bị ảnh hưởng bởi những trào lưu và xu hướng xã hội. Đương nhiên, nói một cách chính xác hơn, chúng là những suy nghĩ và quan điểm xuất phát từ sự hun đúc của nhân loại tà ác và văn hóa truyền thống. Chúng bại hoại và thuộc về những trào lưu tà ác, vì thế ngươi nên buông bỏ chúng và đừng để những suy nghĩ và quan điểm đó quấy nhiễu hay hạn chế ngươi. Có người nói: “Con được sinh ra trong một gia đình như thế, và sự thật này không thể thay đổi. Những kiểu suy nghĩ và quan điểm này không ngừng quấy nhiễu của con và rất khó buông bỏ”. Đúng là chúng thật sự rất khó buông bỏ, nhưng nếu ngươi cứ dừng lại mãi trong những suy nghĩ và quan điểm sai lầm này, ngươi sẽ không bao giờ buông bỏ được nó. Nếu ngươi tiếp nhận những suy nghĩ và quan điểm đúng đắn, ngươi sẽ dần buông bỏ được những suy nghĩ và quan điểm sai lầm. Ý của Ta là gì? Ý Ta là ngươi không thể buông bỏ chúng ngay lập tức, để ngươi có thể giao tiếp một cách bình thường và bình đẳng với những người giàu có, địa vị cao hay có giá trị bản thân cao. Không thể một lần là có thể làm được, nhưng ít nhất ngươi có thể thoát ra khỏi chuyện này. Kể cả khi ngươi vẫn còn cảm thấy tự ti, kể cả khi thâm tâm ngươi vẫn còn bị nó quấy nhiễu một cách mơ hồ, thì ngươi vẫn đạt được một chút tự do nhất định ở một mức độ nào đó. Đương nhiên, trong quá trình mưu cầu lẽ thật tiếp theo đây, ngươi sẽ dần đạt được thêm sự tự do và giải phóng. Khi mọi sự thật khác nhau được phơi bày, ngươi sẽ càng thấy rõ thực chất của những con người, sự vật và sự việc khác nhau, trình độ hiểu biết của ngươi về lẽ thật sẽ trở nên ngày càng sâu sắc. Khi ngươi nhìn thấu hơn về những chuyện này, kinh nghiệm sống và kiến thức của ngươi về chúng sẽ tăng lên. Đồng thời thái độ của ngươi đối với lẽ thật sẽ trở nên chính diện và tích cực hơn, và ngươi sẽ ngày càng bớt bị những điều tiêu cực hạn chế. Như vậy thì ngươi không phải đã biến đổi rồi sao? Lần sau khi ngươi gặp một người có thân phận và địa vị khác biệt rất lớn so với ngươi, khi trò chuyện và giao thiệp với họ, ít nhất trong thâm tâm ngươi sẽ không còn sợ sệt hay trốn chạy, mà thay vào đó sẽ có thể đối xử với họ một cách đúng đắn, và ngươi sẽ không còn bị họ hạn chế, hoặc không còn cảm thấy họ vĩ đại và tôn quý thế nào nữa. Khi hiểu được thực chất bại hoại của con người, ngươi sẽ có thể đối xử chính xác với mọi hạng người, đồng thời giao tiếp và tương tác với mọi hạng người dựa trên nguyên tắc, không quá ngưỡng mộ mà cũng không coi thường họ, không kỳ thị hay quá coi trọng họ. Như thế thì chẳng phải ngươi đã dần đạt được kết quả đến từ việc mưu cầu lẽ thật rồi sao? (Thưa, phải). Đạt được kết quả này sẽ giúp ngươi yêu lẽ thật hơn, hướng về những điều tích cực nhiều hơn, hướng về lẽ thật nhiều hơn và hướng về việc ngưỡng mộ Đức Chúa Trời và lẽ thật, thay vì ngưỡng mộ bất cứ ai trong xã hội hoặc trên thế giới vì thân phận và địa vị tôn quý của họ. Những đối tượng mà ngươi ngưỡng mộ, coi trọng, cũng như những đối tượng mà ngươi đi theo và tôn sùng sẽ khác đi, và sẽ dần thay đổi từ những điều tiêu cực thành tích cực và thay đổi thành lẽ thật hoặc – chính xác hơn – thay đổi thành Đức Chúa Trời, lời Đức Chúa Trời, thân phận và địa vị của Đức Chúa Trời. Như thế, ngươi sẽ dần bước vào thực tế lẽ thật ở phương diện này. Có nghĩa là ngươi sẽ dần loại bỏ tâm tính bại hoại và sự trói buộc của Sa-tan về phương diện này, và dần đạt được sự cứu rỗi – quá trình này đòi hỏi như thế. Nó không khó; con đường đã được trải ra trước mắt ngươi. Chỉ cần ngươi mưu cầu lẽ thật, thì ngươi có thể bước vào thực thế lẽ thật. Và cuối cùng ngươi sẽ bước vào thực tế nào? Chính là bất kể thừa hưởng dạng thân phận nào từ gia đình, ngươi sẽ không còn phải bận tâm hay băn khoăn việc nó cao quý hay thấp kém. Thay vào đó ngươi sẽ có thể làm tròn bổn phận của một loài thọ tạo, nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động với thân phận một loài thọ tạo, sống trước Đức Chúa Trời với thân phận một loài thọ tạo, và sống mỗi ngày ở hiện tại, bằng thân phận của một loài thọ tạo – đây là kết quả mà ngươi sẽ mưu cầu. Đây có phải kết quả tốt không? (Thưa, tốt). Khi con người bước vào phương diện thực tế này, tâm hồn họ được giải phóng và tự do. Ít nhất ngươi sẽ không còn bị quẫy nhiễu vì chuyện thân phận mà ngươi thừa hưởng từ gia đình, ngươi không còn quan tâm địa vị của ngươi cao hay thấp. Nếu thân phận của ngươi tôn quý và có người ngưỡng mộ ngươi, ngươi sẽ cảm thấy ghê tởm; nếu thân phận của ngươi thấp kém và có người phân biệt đối xử với ngươi, ngươi sẽ không còn bị nó hạn chế hay quấy nhiễu, cũng sẽ không buồn hay tiêu cực về nó. Ngươi sẽ không còn cảm thấy phiền não, đau khổ, và tự ti về những chuyện như đã từng đi tàu cao tốc chưa, đã từng tới thẩm mỹ viện chưa, đã từng đi nước ngoài, ăn đồ ăn phương Tây, hay tận hưởng những tiện nghi vật chất độc quyền như những người giàu có chưa. Ngươi sẽ không còn bị những chuyện này hạn chế và quấy nhiễu, mà sẽ có thể đối xử với mọi người, mọi vật, mọi việc một cách đúng đắn và làm tròn bổn phận một cách bình thường. Đấy chẳng phải là tự do và giải phóng sao? (Thưa, phải). Như vậy lòng ngươi sẽ được giải phóng. Khi ngươi bước vào thực tế của phương diện lẽ thật này, và thoát khỏi sự trói buộc của Sa-tan, ngươi sẽ thực sự trở thành một loài thọ tạo sống trước Đức Chúa Trời, một loài thọ tạo mà Đức Chúa Trời muốn. Thông công đến đây, ngươi hẳn đã rõ hơn về con đường buông bỏ thân phận và địa vị mà ngươi thừa hưởng từ gia đình.

Lần trước, chúng ta còn thảo luận về một chủ đề khác, là buông bỏ sự hun đúc từ gia đình trên ngươi. Sự hun đúc của gia đình trên người ta bắt đầu ngay từ khi họ còn nhỏ tuổi, đến tuổi trưởng thành, người ta dần dần vận dụng chúng vào trong cuộc sống. Đến khi có được một mức độ trải nghiệm sống nhất định, họ đã vận dụng hết sức nhuần nhuyễn những suy nghĩ và quan điểm khác nhau mà gia đình đã hun đúc trên họ, hơn nữa, dựa trên nền tảng này, họ tổng kết ra những nguyên tắc, phương thức và thủ đoạn xử sự cao thâm hơn, cụ thể hơn và có ích hơn cho bản thân họ. Có thể nói rằng sự hun đúc của gia đình như là bài học vỡ lòng cho họ chuyển tiếp vào xã hội và các tập thể, để họ có thể đạt đến mức vận dụng nhuần nhuyễn những phương thức và thủ đoạn xử sự khác nhau khi sống giữa tập thể. Do những sự hun đúc của gia đình này là bài học vỡ lòng, nên chúng đã thâm căn cố đế trong lòng mỗi một người, bén rễ sâu trong thâm tâm họ, ảnh hưởng cuộc sống của họ, ảnh hưởng cách họ hành xử và hành động, ảnh hưởng nhân sinh quan của họ. Nhưng vì những sự hun đúc này không tích cực, nên chúng cũng là những thứ mà người ta nên buông bỏ trong quá trình mưu cầu lẽ thật. Bất kể chúng có hình thành nơi thâm tâm ngươi hay không, có chiếm cứ vị trí chủ đạo trong lòng ngươi hay không, thậm chí bất kể những tư tưởng và quan điểm mà chúng hun đúc cho ngươi đã được ngươi chứng thực hoặc thực hành trong quá trình sống hay chưa, cả trong hiện tại và tương lai, những sự hun đúc này sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của ngươi, ảnh hưởng đến việc ngươi lựa chọn con đường nhân sinh, ảnh hưởng thái độ và các nguyên tắc xử sự của ngươi ở nhiều mức độ khác nhau. Có thể nói rằng hầu hết mọi gia đình đều cho người ta những triết lý và thủ đoạn xử thế tối cơ bản để họ có thể sống và tồn tại trong xã hội. Ví dụ, lần trước, chúng ta đã thông công về những điều mà cha mẹ luôn nói, chẳng hạn như “Cây sống nhờ vỏ, người sống nhờ thể diện” và “Người chết để tên, chim đi để tiếng”, “Chịu được cái khổ nhất thiên hạ, mới đứng được trên thiên hạ”, “Chim ló đầu thì bị bắn”. Còn gì nữa nào? “Phàm chuyện gì cũng nên lấy sự hài hòa, nhẫn nhịn làm mục đích cao nhất”, “Nói nhiều tất sai”. Những suy nghĩ và quan điểm này được gia đình hun đúc trên ngươi, bất luận ngươi có vận dụng chúng một cách rõ ràng, có thực hành chúng trong quá trình sống hay không, thì chúng vẫn là bài học vỡ lòng của ngươi. Ta nói “vỡ lòng” là có ý gì? Nghĩa là một thứ khơi dậy và thúc đẩy ngươi tiếp nhận các triết lý xử thế của Sa-tan. Những câu nói mà gia đình hun đúc này đã tiêm nhiễm vào ngươi một cách xử thế căn bản nhất, một cách sinh tồn căn bản nhất, nên sau khi bước vào xã hội, ngươi sẽ nỗ lực mưu cầu danh lợi và địa vị, mưu cầu cách để che đậy và ngụy trang bản thân tốt hơn, bảo vệ bản thân tốt hơn, làm thế nào để đạt đến trở thành người xuất chúng, đứng trên thiên hạ, chiếm cứ vị trí tối cao trong tập thể. Với ngươi, những thứ mà gia đình hun đúc trên ngươi chính là phép tắc và thủ đoạn xử thế thúc đẩy ngươi bước vào xã hội và hòa mình vào những trào lưu tà ác.

Lần trước, chúng ta đã thông công về một vài sự hun đúc của gia đình trên người ta. Và sự hun đúc của gia đình không chỉ có chừng đó, nên chúng ta hãy tiếp tục thông công về chúng. Chẳng hạn như, có những bậc cha mẹ bảo con cái rằng: “Ba người cùng đi, có thầy ta đó”. Ai nói câu này? (Thưa, là Khổng Tử). Đúng là Khổng Tử nói câu này. Lại có những bậc cha mẹ bảo con cái rằng: “Đi đâu con cũng phải học hỏi kỹ năng. Khi học được rồi, con sẽ có sở trường trong một lĩnh vực chuyên môn, sẽ không bao giờ lo phải thất nghiệp, đi đâu cũng là ông lớn. Thánh nhân thời xưa có câu: ‘Ba người cùng đi, có thầy ta đó’. Mỗi khi ở cạnh người ta, hãy nhìn xem ai có sở trường chuyên môn. Hãy bí mật học nó mà không để họ biết, khi đã nắm vững rồi, nó sẽ trở thành kỹ năng của con, con sẽ có thể kiếm tiền nuôi bản thân và không bao giờ phải thiếu thốn những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống nữa”. Cha mẹ khiến ngươi học hỏi kỹ năng khi ở giữa mọi người, mục đích là gì? (Thưa, để nên người xuất chúng trên thế gian). Học hỏi kỹ năng, mục đích là để tăng cường cho bản thân, đứng trên thiên hạ, khi ở giữa tập thể thì học lấy nghề của người ta và dần dần tăng cường thực lực bản thân. Khi ngươi có thực lực cao trong cộng đồng, thì sẽ có việc làm để kiếm sống, có cả danh và lợi. Khi ngươi có cả danh và lợi rồi, người ta sẽ đánh giá cao ngươi. Ngươi không có kỹ năng thật sự, thì chẳng ai đánh giá cao ngươi cả, nên ngươi phải bí mật học nghề của người khác, học những điểm mạnh và kỹ thuật của người ta, dần dần trở nên mạnh hơn họ, chỉ có như thế ngươi mới đứng trên thiên hạ. Lại có những bậc cha mẹ bảo con cái rằng: “Muốn vinh hiển trước mặt người thì phải đau khổ sau lưng người”, và mục đích vẫn là khiến con họ được người khác trân trọng và đánh giá cao. Nếu sau lưng người khác mà ngươi làm việc chăm chỉ và cần mẫn, chịu nhiều khổ cực để học hỏi kỹ năng, thì khi nắm vững kỹ năng rồi, ngươi có thể khiến tất cả mọi người kinh ngạc trước sự xuất sắc của mình, và mỗi khi bị người ta xem thường hoặc ức hiếp, ngươi có thể thể hiện tài năng của mình, thì sẽ không ai dám ức hiếp ngươi nữa. Dù trông ngươi có vẻ bình thường, không có gì nổi bật và không nói nhiều, nhưng ngươi có một vài kỹ năng về kỹ thuật vượt quá tầm với của người bình thường, cho nên người khác sẽ khâm phục ngươi và cảm thấy mình bé nhỏ trước mặt ngươi, xem ngươi là người có thể giúp đỡ họ. Như thế, giá trị của ngươi trong cộng đồng chẳng tăng lên sao? Khi giá trị của ngươi tăng lên, chẳng phải ngươi sẽ thêm tôn quý và vinh hiển sao? Nếu muốn giành lấy địa vị tôn quý trong cộng đồng, ngươi phải chịu khổ, chịu cực sau lưng người ta. Bất kể chịu bao nhiêu khổ cực, cũng phải gồng mình lên mà tiếp tục, và khi mọi người thấy ngươi có tài đến thế nào thì mọi khổ cực của ngươi sẽ xứng đáng. Khi bảo ngươi “Muốn vinh hiển trước mặt người thì phải đau khổ sau lưng người”, mục đích của cha mẹ ngươi là gì? Mục đích của họ là để khi sống trong cộng đồng, ngươi không bị bị kỳ thị hay ức hiếp, mà lại có địa vị tôn quý và được xem trọng, như thế, ngươi không những có thể hưởng thụ những thứ tốt đẹp trong đời mà còn được người khác tôn trọng và ủng hộ. Trong xã hội, những người có dạng địa vị này không những không bị người khác ức hiếp, mà còn làm gì cũng hanh thông. Hễ thấy ngươi đến là người ta bảo: “Ôi, rồng ghé nhà tôm? Được gặp anh thật là vinh hạnh quá! Anh có chuyện cần làm à? Để tôi làm cho. À, anh đến mua vé à? Anh thì không cần phải xếp hàng. Tôi sẽ lấy chỗ ngồi đẹp nhất cho anh. Chúng ta là bạn bè mà”. Thấy như vậy, ngươi nghĩ: “Chà, nhờ là người có danh tiếng mà mình có được nhiều chuyện thật tuyệt vời. Các cụ bảo ‘Muốn vinh hiển trước mặt người thì phải đau khổ sau lưng người’, quả là không sai. Xã hội thật sự như thế, rất thực tế! Mình mà không có danh tiếng này thì ai thèm để ý đến mình? Nếu phải xếp hàng như người thường, thì có thể bị người khác xem thường và đá cho hai phát, có khi đến lượt rồi cũng không bán vé cho mình”. Khi ngươi xếp hàng chờ khám ở bệnh viện, có đứng từ xa đã nhìn thấy ngươi, “Ông không phải là ông lớn gì đó à? Ông xếp hàng chờ làm gì? Tôi sẽ tìm bác sĩ chuyên khoa cho ông ngay, không phải xếp hàng làm gì”. Ngươi trả lời: “Tôi còn chưa nộp tiền khám mà”. Họ bảo: “Không cần đâu, để tôi trả cho”. Ngươi ngẫm nghĩ: “Làm người có danh tiếng thật tốt. Chịu bao nhiêu đau khổ sau lưng người ta, xét cho cùng chẳng hề vô ích chút nào. Mình thật sự có thể hưởng thụ sự biệt đãi trong xã hội. Xã hội này đúng là quá thực tế, phải có danh tiếng thì mới được tiếp đãi tốt. Thế này thật tuyệt!” Một lần nữa, ngươi vui mừng vì đau khổ ngươi chịu không phải đều vô ích, nghĩ rằng chịu khổ sau lưng người đúng là xứng đáng! Ngươi liên tục lấy làm thích thú về chuyện này: “Mình đi khám ở bệnh viện mà không cần phải xếp hàng chờ. Hễ mua vé máy bay thì được chỗ ngồi tốt, đi đâu cũng được đãi ngộ đặc biệt. Thậm chí còn được đi cửa sau. Thế này thật tuyệt! Xã hội phải như thế này chứ, cần gì bình đẳng. Người ta dốc ra bao nhiêu thì phải được nhận về bấy nhiêu. Không chịu khổ sau lưng người thì làm sao vinh hiển trước mặt người được. Cứ lấy mình làm ví dụ đi. Mình chịu khổ sau lưng người, nên trước mặt người, mình có thể được đãi ngộ đặc biệt như thế này, vì mình xứng đáng mà”. Nếu chuyện là như thế, thì khi muốn kết giao với người khác và hoàn thành việc gì đó trong xã hội, người ta sẽ dựa vào điều gì? Họ dựa vào bản lĩnh và kỹ năng để hỗ trợ cho năng lực làm việc. Trong xã hội, người ta làm việc có hanh thông, năng lực làm việc thế nào, đều không dựa vào tài cán hay nhân tính, cũng không dựa vào việc họ có lẽ thật hay không. Trong xã hội này không có công bằng hay bình đẳng. Chỉ cần ngươi đủ cần cù phấn đấu, có thể chịu khổ sau lưng người khác, đủ ngang ngược và tàn bạo, thì ngươi có thể có được địa vị cao trong cộng đồng. Cũng như thời xưa, khi người ta tranh đoạt chức võ lâm minh chủ, họ sẽ chịu đựng khổ cực ghê gớm, thức khuya dậy sớm để luyện công, cuối cùng khi họ luyện thành võ công của các đại môn phái và nghĩ ra được võ công độc nhất vô nhị của mình, luyện đến mức xuất quỷ nhập thần, đao thương bất nhập. Cuối cùng chuyện sẽ thế nào? Trong đại hội võ lâm, họ đánh bại mọi đối thủ đến từ các đại môn phái và giành được chức võ lâm minh chủ. Để nên vinh hiển trước mặt người khác, họ sẵn sàng chịu đựng bất kỳ đau khổ nào, thậm chí còn lén lút luyện võ công tà môn. Sau tám đến mười năm luyện võ, họ đã lên trình độ thượng thừa đến nỗi trong võ lâm, không ai có thể đánh bại họ trên võ đài hay ám sát họ ngoài võ đài, thậm chí họ có uống thuốc độc thì độc chất cũng tự bài xuất khỏi cơ thể. Do đó họ củng cố địa vị võ lâm minh chủ và không một ai có thể đe dọa vị trí của họ, đây chính là vinh hiển trước mặt người. Để vinh hiển trước mặt người, thời xưa người ta phải đi thi lấy công danh. Thời nay thì người ta vào đại học, thi cao học, nghiên cứu lấy bằng tiến sĩ, họ quá kiên quyết theo đuổi việc học bất chấp gian khổ, và từ sáng đến tối, năm này qua năm khác, trau dồi những kiến thức vô dụng không khác gì một nô lệ. Đôi khi họ quá mệt mỏi, đến nỗi không muốn học nữa, khao khát được nghỉ ngơi một chút, thì lại bị cha mẹ mắng: “Khi nào con mới thể hiện được một chút triển vọng chứ? Con có muốn vinh hiển trước mặt người nữa không? Không chịu khổ sau lưng người thì làm sao mà được vậy? Bỏ qua một khoảng nghỉ ngắn thì con chết được à? Học bài đi! Làm bài đi!” Họ bảo: “Con đã làm bài rồi, đã ôn lại bài học hôm nay rồi. Cho con thoải mái một chút không được à?” Nhưng cha mẹ họ lại bảo: “Tuyệt đối không được! Nếu muốn vinh hiển trước mặt người thì phải đau khổ sau lưng người!” Họ suy ngẫm câu này và nghĩ: “Cha mẹ mình làm mọi chuyện này chỉ để tốt cho mình, tại sao mình cứ cứng đầu và toàn nghĩ chuyện vui chơi vậy? Mình phải làm theo lời cha mẹ. Có câu không nghe lời người lớn, họa đến ngay trước mắt, nên mình phải nghe lời cha mẹ thôi. Cha mẹ mình sẽ như thế này cả đời. Không giúp cha mẹ nở mày nở mặt là mình phụ lòng họ rồi. Hơn nữa, đời mình còn dài, chịu chút khổ cực thì có là gì chứ?” Nghĩ như thế, họ dốc hết sinh lực vào việc học, ôn tập, làm bài tập. Họ thức quá nửa đêm để học, dù mệt mỏi thế nào, họ cũng cố gắng vượt qua được. Trên đường đời, người ta liên tục bị tiêm nhiễm bởi sự hun đúc của gia đình dưới dạng những ý tưởng và biểu đạt như “Nếu muốn vinh hiển trước mặt người thì phải đau khổ sau lưng người”, và chúng liên tục khích lệ, thôi thúc họ. Vì tương lai và tiền đồ, vì để vinh hiển giữa mọi người, họ liên tục học những kỹ năng và tri thức mới sau lưng người. Họ trang bị cho mình kiến thức và những kỹ năng khác nhau để khiến mình mạnh mẽ hơn. Họ còn tìm cách tận dụng nhiều giai thoại về cổ nhân và những người thành công khác nhau để cổ vũ và tăng tinh thần phấn đấu cho mình. Họ làm mọi việc này với mục đích sau này thoát khỏi sự nghèo khổ, tầm thường và thấp hèn, thay đổi số phận bị kỳ thị, để họ có thể đứng trên thiên hạ, đứng vào tầng lớp ưu tú, thành một người được trọng vọng. Những sự hun đúc từ gia đình cứ liên tục đi vào đầu họ hết lần này đến lần khác, cho đến khi những bình luận và câu nói này dần dà trở thành những suy nghĩ và quan điểm cố định của họ, trở thành phương thức xử thế cố định của họ, đồng thời trở thành sinh tồn quan và mục tiêu mưu cầu cố hữu của họ.

Có những bậc cha mẹ bảo con cái rằng: “Con phải học cách kết giao bằng hữu. Như có câu nói “Hàng rào cần ba cây chống, hảo hán cần ba người giúp”. Ngay cả Tần Cối mà cũng có bằng hữu. Hễ đi đâu cũng hãy học cách giao tiếp với người ta và giữ quan hệ cho tốt. Ít nhất, con phải kiếm được vài người bạn thân. Khi bước vào xã hội, con sẽ gặp đủ thứ khó khăn trong cuộc sống, công việc và làm việc. Nếu không có bạn bè giúp sức, con sẽ phải một mình đối diện với đủ mọi loại khó khăn và tình huống khó xử. Nếu con biết thủ thuật để kết được một vài người bạn thân, thì khi gặp phải những chuyện khó xử và khó khăn, những người bạn này sẽ đứng ra giải vây và giúp con làm nên sự nghiệp. Nếu muốn làm nên đại sự, con phải bỏ đi cái tôi cao ngạo mà kết bạn, phải có thể giữ đủ loại bạn bè mạnh mẽ bên mình để hỗ trợ cho sự nghiệp, cho cuộc sống và sự sinh tồn sau này của con, phải có thể lợi dụng được nhiều người khác nhau giúp con làm việc và phục vụ cho con”. Các bậc cha mẹ thường sẽ không nói rõ về dạng suy nghĩ, quan điểm này, cũng không thói thẳng với con cái rằng phải học cách kết bạn, lợi dụng người ta và phải có thể tìm được những bạn bè giúp họ thành công trong sự nghiệp. Tuy nhiên, có những bậc cha mẹ có địa vị và thân phận trong xã hội, hoặc là cực kỳ mưu mô và nhiều thủ đoạn, họ ảnh hưởng đến con cái thông qua cả lời nói lẫn việc làm. Ngoài ra, mỗi khi con cái thấy và nghe những suy nghĩ, quan điểm và cách xử thế của họ, thông qua những lời họ nói việc họ làm trong cuộc sống thường nhật, thì nó cũng tạo nên một sự hun đúc trên con cái họ. Khi ngươi không phán đoán đúng đắn và không phân biệt được đâu là tích cực và đâu là tiêu cực, thì ngươi vô thức bị những lời nói và hành động của cha mẹ ảnh hưởng, tiếp nhận những suy nghĩ và quan điểm của họ, hoặc những suy nghĩ và quan điểm này vô tình được in hằn thâm căn cố đế trong lòng ngươi và trở thành nền tảng và nguyên tắc căn bản nhất để ngươi hành động. Có lẽ cha mẹ ngươi không trực tiếp bảo ngươi “hãy kết thêm bạn, học cách khiến người ta làm việc cho mình, học cách tận dụng điểm mạnh của bạn bè và học cách lợi dụng những người quanh mình”. Tuy nhiên, họ tiêm nhiễm và hun đúc ngươi bằng cách hành động những suy nghĩ và quan điểm mà họ dạy. Do đó cha mẹ ngươi trở thành những người thầy vỡ lòng của ngươi trong chuyện này, họ khơi gợi cho ngươi cách xử sự, cách để giao tiếp với người ta, cách để kết bạn trong xã hội, cũng như mục đích đằng sau việc kết bạn, lý do nên kết bạn, dạng bạn bè nào nên kết thân, làm sao để có chỗ đứng trong xã hội, nền tảng và phương thức để có chỗ đứng, v.v… Do đó, cha mẹ đã hun đúc ngươi bằng cách đích thân thực hành điều họ dạy. Một cách không có ý thức, từ thơ ấu đến trưởng thành, những suy nghĩ và quan điểm này dần dà thành hình, từ một ý thức đơn giản thành những suy nghĩ, quan điểm và cách hành động cụ thể, rồi từng bước một, chúng trở nên thâm căn cố đế trong thâm tâm ngươi, trở thành phương thức và triết lý xử thế của ngươi. Ngươi nghĩ thế nào về cách xử thế trong câu “Hàng rào cần ba cây chống, hảo hán cần ba người giúp”? (Thưa, nó không tốt). Trên đời này có bạn bè thật sự không? (Thưa, không). Tại sao hàng rào cần ba cây chống? Có ba cây chống để làm gì? Chỉ để nó vững vàng hơn. Hai cây chống thì không vững, một cây thì càng vô tác dụng. Vậy nguyên lý xử thế trong chuyện này là gì? Là kể cả bậc hảo hán, dù có bản lĩnh đến đâu thì một bàn tay cũng chẳng thể vỗ thành tiếng, và sẽ chẳng làm nên chuyện. Nếu muốn làm nên chuyện, thì cần có người giúp. Và nếu muốn người ta giúp mình, ngươi cần học cách đối nhân xử thế, học cách quảng giao kết bạn kết bè và hình thành một thế lực thì mới có thể làm nên chuyện. Để làm nên chuyện gì, dù lớn hay nhỏ, dù là làm nên sự nghiệp, tạo chỗ đứng trong xã hội, hoặc là đạt được thành tựu vĩ đại hơn nữa, thì ngươi cần có bên mình những người mà ngươi tin tưởng hoặc đánh giá cao, những người mà ngươi có thể lợi dụng để giúp ngươi làm nên sự nghiệp mà ngươi muốn làm, nếu không thì sẽ như ngươi cố dùng một bàn tay để vỗ vậy. Dĩ nhiên, đây là quy luật để làm bất kỳ điều gì trên thế gian này, bởi vì trong xã hội đâu có công bằng, chỉ có mưu mô và tranh đấu. Nếu ngươi đi theo chính đạo và mang lấy sự nghiệp chính nghĩa, thì chẳng ai tán thành đâu, nó chẳng đi đến đâu trong xã hội này. Bất kể làm việc gì, ngươi cũng cần có một vài người giúp ngươi và hình thành một thế lực trong xã hội. Hễ ngươi đi đâu, nếu có người nhún nhường và e sợ ngươi, thì ngươi sẽ có chỗ đứng vững chắc trong xã hội, ngươi làm việc gì cũng dễ dàng hơn, sẽ có người bật đèn xanh cho ngươi. Đây là một dạng thái độ và phương thức xử thế. Bất kể ngươi muốn làm gì, cha mẹ cũng sẽ bảo ngươi “Hàng rào cần ba cây chống, hảo hán cần ba người giúp”. Vậy nguyên tắc xử thế này đúng hay sai? (Thưa, sai). Nó có gì sai? (Thưa, chuyện người ta có làm nên chuyện hay không đâu có phụ thuộc vào sức mạnh hay tài năng của họ, mà phụ thuộc vào sự chủ tể và an bài của Đức Chúa Trời). Nó phụ thuộc sự chủ tể và an bài của Đức Chúa Trời, một mặt là vậy. Ngoài ra, khi muốn người khác giúp đỡ mình trong xã hội là người ta nhắm đến điều gì? (Thưa, để cho họ có thể nên người xuất chúng). Đúng vậy. Mục đích đằng sau việc có ba cây chống này là để ngươi chiếm cứ một vị trí, tạo lập chỗ đứng vững chắc cho mình. Như thế, không ai có thể đá ngươi xuống, và kể cả khi một cây chống bị hất đổ, thì hai cây còn lại vẫn sẽ nâng đỡ ngươi. Những người có thế lực nhất định thì trong xã hội làm gì cũng có thể êm ái nhẹ nhàng, có thể không phải bận tâm về luật pháp, tình nghĩa hay dư luận xã hội. Mục đích của người ta không phải vậy sao? (Thưa, phải). Như thế, ngươi có thể trở thành một người ra quyết định, có tiếng nói trong xã hội, cả luật pháp hay bất kỳ dư luận nào đều không thể khiến chỗ đứng của ngươi lung lay hay khiến ngươi dao động. Ngươi sẽ có quyền quyết định trong các trào lưu xã hội và trong bất kỳ nhóm xã hội nào. Ngươi sẽ là người có quyền thế. Khi đó, chẳng phải ngươi muốn làm gì thì làm sao? Ngươi có thể đứng trên pháp luật, đứng trên tình nghĩa, đứng trên dư luận, đứng trên đạo đức và đứng trên cả sự cắn rứt của lương tâm. Đây chẳng phải là mục đích người ta muốn đạt được sao? (Thưa, phải). Đây là mục đích người ta muốn đạt được. Đây là cơ sở căn bản cho hành động của người ta, và là điều cho họ đạt được những dã tâm và dục vọng của mình. Ngươi thấy đấy, trong xã hội có những huynh đệ kết nghĩa. Có anh trưởng làm tổng tài tập đoàn này, người em làm chủ tịch công ty nọ, người anh em khác thì là chính trị gia hoặc bang chủ giang hồ. Có người có bạn bè là viện trưởng bệnh viện, hay trưởng khoa ngoại, điều dưỡng trưởng, có người thì kết nhiều bạn tốt trong ngành nghề của mình. Người ta thật sự kết bạn bởi vì họ cùng chung chí hướng sao? Thật sự là vì họ muốn cùng nhau bảo vệ chính nghĩa sao? (Thưa, không phải). Vậy tại sao họ làm thế? Họ làm thế vì muốn hình thành thế lực, mở rộng và tăng cường lực lượng này, cuối cùng dựa vào nó mà có chỗ đứng và tồn tại trong xã hội, hưởng thụ cuộc sống đứng trên thiên hạ, hưởng thụ cuộc sống xa hoa và phóng túng, chẳng ai dám ức hiếp họ, và nếu họ có phạm tội thì luật pháp cũng không dám trừng phạt họ. Nếu họ phạm tội, thì anh em kết nghĩa của họ sẽ đứng ra giúp đỡ. Người bạn này sẽ nói thay cho họ, người bạn kia sẽ đút lót tòa và vận động các chính khách cấp cao khoan hồng họ, nên họ bị giam chưa đến 24 tiếng là đã được thả về. Dù họ có phạm tội nghiêm trọng đến đâu, cũng chẳng bị kết án gì, thậm chí còn không cần nộp phạt. Cuối cùng, dân thường sẽ nói: “Ôi trời, người này đúng là có bản lĩnh. Phạm tội lớn như vậy mà thoát tội quá nhanh, sao mà vậy được chứ? Dân thường chúng ta mà bị vậy là chết chắc rồi, chắc chắn sẽ phải vào tù. Nhìn bạn bè chúng ta đi. Tại sao chúng ta không thể kết thân được bạn bè như vậy nhỉ? Sao những người như thế ngoài tầm với của chúng ta vậy?” Và người ta sẽ cảm thấy ngưỡng mộ họ. Những chuyện này là do sự bất công xã hội và sự xuất hiện liên tục của các trào lưu tà ác trong xã hội tạo thành. Trong xã hội này, con người chẳng có nổi bất kỳ cảm giác an toàn nào. Họ luôn muốn xun xoe những thế lực nhất định, so kè thế lực của nhau. Nhất là với những ai sống dưới đáy xã hội, kể cả có cách kiếm sống rồi, họ vẫn không biết khi nào nguy hiểm hay khó khăn sẽ ập đến, và họ sợ nhất là gặp phải tai họa trên trời rơi xuống hay bất hạnh nào đó, nhất là những chuyện liên quan đến pháp luật, nên cả đời họ chẳng bao giờ muốn phải dính líu đến cảnh sát hay tòa án. Bởi vì trong xã hội này con người không có cảm giác an toàn, nên họ liên tục phải kết bạn và tìm người chống lưng. Ngươi thấy đấy, khi trẻ con đi học ở trường, chúng phải kết thân được hai hoặc ba bạn để chơi cùng. Nếu đơn độc, chúng sẽ bị bắt nạt. Và chúng không dám báo thầy cô giáo chuyện bị bắt nạt, bởi nếu nói ra thì chắc chắn trên đường về nhà, chúng sẽ bị đánh một trận. Ngay cả khi ngươi được thầy cô đối xử tốt và có thành tích học tập tốt, nhưng nếu ngươi không biết kết bạn hay gia nhập băng nhóm nào đó, thì cuối cùng ngươi sẽ gặp hạn nếu lỡ đắc tội với họ. Có những lúc dù ngươi không đắc tội họ, nhưng vì họ không thích thấy ngươi học giỏi nên lôi kéo ngươi làm chuyện xấu, nếu ngươi không nghe theo, thì ngươi sẽ bị đánh đập hoặc bắt nạt. Ngay cả môi trường học đường còn khiến con người thấy không an toàn, thì ngươi nói xem thế giới này đáng sợ đến đâu! Do đó, sự hun đúc từ gia đình trên ngươi về phương diện này, một mặt đến từ ảnh hưởng do tấm gương của cha mẹ, mặt khác đến từ cảm giác bất an về xã hội của cá nhân. Bởi vì trong xã hội này không có bình đẳng, cũng không có thế lực hay lợi thế nào có thể bảo vệ quyền và lợi ích của con người, nên người ta thường xuyên có đầy hoảng sợ và lo lắng với xã hội này. Kết quả là, họ tự nhiên tiếp nhận những sự hun đúc từ tư tưởng “Hàng rào cần ba cây chống, hảo hán cần ba người giúp”. Vì trong môi trường thực tế mà người ta sống, những suy nghĩ và quan điểm này là điều cần thiết để hỗ trợ sự sinh tồn của họ, cho họ đi từ một cuộc sống cô đơn và cô quạnh đến một cuộc sống có nơi nương tựa và có cảm giác an toàn. Do đó, người ta xem việc nương cậy một thế lực hoặc nương cậy bạn bè là điều rất quan trọng trong thế giới này.

Sự hun đúc của gia đình trên con người, ngoài câu nói mà chúng ta vừa nhắc đến “Hàng rào cần ba cây chống, hảo hán cần ba người giúp”, còn có những cách dạy dỗ cụ thể hơn nữa đối với con người. Chẳng hạn như, cha mẹ thường hay dạy con gái những câu như: “‘Kẻ sĩ vì tri kỷ mà chết, nữ nhân vì tri kỷ điểm trang’. Còn có câu ‘Không có phụ nữ xấu, chỉ có phụ nữ lười’. Phụ nữ phải học cách yêu thương bản thân, học cách làm đẹp cho bản thân và làm cho mình xinh đẹp mọi phần. Như thế, con đi đâu cũng được người ta thích và sẽ có thêm nhiều người làm nhiều việc cho con, bật đèn xanh cho con. Nếu người ta thích con thì tự nhiên họ sẽ không kiếm chuyện hay gây khó dễ cho con”. Lại có những bậc cha mẹ bảo con gái rằng: “Con gái phải học cách ăn diện, học cách trang điểm, quan trọng hơn nữa phải học cách nhu mì”. Ý thật sự của họ là ngươi phải học cách thể hiện bản thân. Các bậc cha mẹ còn nói những lời như: “Đừng làm một người phụ nữ mạnh mẽ. Phụ nữ mạnh mẽ và tự lập thì được gì chứ? Những phụ nữ như thế chẳng bao giờ ăn diện, mà cứ sống như đàn ông, chạy đôn chạy đáo cả ngày, cũng chẳng nhu mì. Phụ nữ sinh ra là để đàn ông chiều chuộng, đâu cần phải độc lập hay học hỏi kỹ năng gì. Họ chỉ cần học cách ăn diện, học cách làm vui lòng đàn ông, và làm những việc một người phụ nữ nên làm tốt. Phụ nữ được đàn ông yêu thích và nâng niu thì sẽ hạnh phúc cả đời”. Một số phụ nữ bị cha mẹ hun đúc về phương diện này. Một mặt, họ nhìn cách mẹ họ cư xử như một người phụ nữ như thế nào. Mặt khác, sau khi bị cha mẹ hun đúc, họ biến mình thành người phụ nữ thật sự vừa mắt người khác bằng cách luôn ăn diện và trang điểm. Có loại người như thế không? (Thưa, có). Phụ nữ lớn lên trong dạng môi trường gia đình này thì rất xem trọng diện mạo, trang phục và thân phận nữ giới của mình. Chưa trang điểm và thay đồ thì họ không ra khỏi nhà. Có những phụ nữ dù bận rộn công việc đến đâu, cũng phải bảo đảm gội đầu, đi tắm và xịt nước hoa đã rồi mới ra khỏi nhà, không thì họ không chịu ra khỏi nhà, còn những lúc rảnh rỗi thì họ chỉ toàn đứng trước gương chỉnh sửa tóc tai. Mỗi ngày soi gương không biết bao nhiêu lần! Họ đã bị hun đúc sâu sắc bởi những suy nghĩ và quan điểm như “Kẻ sĩ vì tri kỷ mà chết, nữ nhân vì tri kỷ điểm trang”, nên họ đặc biệt chú trọng dáng vóc và dung nhan của mình. Nếu sắc mặt hơi nhợt nhạt thì họ sẽ không ra khỏi nhà, nếu chưa đánh phấn thì họ sẽ không chường mặt gặp ai. Hôm nào chẳng có tâm trạng để trang điểm thì họ cũng không chịu ra khỏi nhà. Hôm nào đi cắt tóc mà đầu tóc mới không được đẹp, không thuận mắt, thì họ sẽ không đi làm, phòng khi người ta xem thường họ. Những phụ nữ như thế dành cả ngày dài để sống vì những chuyện này. Nếu bị muỗi chích trên tay, họ sẽ không để người khác thấy tay mình, nếu muỗi chích trên chân, họ sẽ che chân lại vì chân bị như vậy thì mặc váy không đẹp, đồng thời họ cũng không ra khỏi nhà, không thực hiện bổn phận. Chuyện gì cũng có thể khiến họ bối rối và cản trở bước chân họ, đến nỗi cuộc sống trở nên cực kỳ vất vả và mệt mỏi với họ. Để duy trì tôn nghiêm của một phụ nữ và tránh trở thành phụ nữ xấu, họ dốc không ít công sức và đặc biệt quan tâm đến chuyện chăm sóc khuôn mặt, dáng người, kiểu tóc; để tránh trở thành phụ nữ xấu, họ bỏ hết những thói quen xấu và sự lười biếng trước đây. Dù bận rộn công việc thế nào, họ cũng phải mặc đồ đẹp và trau chuốt bản thân tỉ mỉ từ đầu đến chân. Nếu lông mày vẽ chưa đẹp thì họ vẽ lại, nếu phấn hồng đánh chưa đều, thì họ đánh lại. Chưa dành ra ít nhất một tiếng, hai tiếng để trang điểm thì họ không chịu ra khỏi nhà. Có những phụ nữ, sáng sớm vừa thức dậy đã bắt đầu loạt nghi thức tắm rửa, trang điểm và thay y phục. Họ nghĩ đi nghĩ lại, thử bộ này rồi bộ kia, cho đến tận trưa mà vẫn chưa ra khỏi nhà. Ngươi nói xem khó khăn này to lớn nhường nào, thời gian và sinh lực có hạn của họ đều bị những thứ vô nghĩa này chiếm mất. Họ chẳng làm bất kỳ việc chính đáng nào, hễ mở mắt ra là chỉ nghĩ đến mỗi chuyện diện đồ và làm đẹp cho bản thân. Những người như thế, có người bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ và quan điểm của mẹ mình, có người thì được mẹ bảo chính xác nên làm gì, có người thì học thông qua ngôn hành và cử chỉ của mẹ. Tóm lại, đây đều là những sự hun đúc từ gia đình.

Có những gia đình có quan điểm “Con gái nuôi bằng giàu sang, con trai nuôi bằng nghèo khó”. Các ngươi có nghe câu này chưa? (Thưa, có nghe rồi). Câu này có nghĩa gì? Chúng đều là con, tại sao con gái lại được nuôi bằng giàu sang, còn con trai thì nuôi bằng nghèo khó. Văn hóa truyền thống thường trọng nam khinh nữ, vậy tại sao câu nói này lại có vẻ trọng nữ khinh nam? Nếu con gái được nuôi bằng giàu sang, thì dạng con gái này sẽ trở thành gì đây? Sẽ trở thành dạng gì? (Thưa, thành người được nuông chiều từ bé, càn quấy và hống hách). Một người buông thả, nhõng nhẽo, không chịu đựng nổi bất kỳ cái khổ nào, không biết quan tâm, không có lý tính, không nói lý lẽ và không biết phân biệt tốt xấu, người như thế thì làm được gì? Đây mà là cách dạy dỗ đúng đắn sao? (Thưa, không phải). Nuôi dạy như thế này thì chỉ hủy hoại người ta. Nếu ngươi nuôi dạy con gái bằng giàu sang, dù nó lớn lên trong một hoàn cảnh gia đình đáp ứng được mọi nhu cầu căn bản của nó, có một chút kiến thức, liệu nó có hiểu được những nguyên tắc làm người thực sự không? Nếu nó không hiểu được, vậy thì cách nuôi dạy con cái này không phải bảo vệ mà đang làm hại nó. Khi nuôi dạy con gái theo nguyên tắc này, xuất phát điểm của các bậc cha mẹ là gì? Con gái được nuôi dạy theo cách này thì sẽ có kiến thức, và không dễ dàng rung động với bất kỳ đàn ông nào mua cho mình quần áo đẹp, cho chút tiền hay là cho chút ân huệ cỏn con. Do đó, đàn ông bình thường sẽ không khuất phục được cô ta. Phải là người cực kỳ giàu có, cực kỳ lịch thiệp, cực kỳ có kiến thức, cực kỳ mưu mô và tính toán, cực kỳ khôn khéo mới có thể làm cô ta rung động, khuất phục được cô ta và kết hôn được với cô ta. Ngươi nghĩ cho con gái ngươi cưới một người như thế là tốt hay xấu? Chắc chắn không phải là chuyện tốt rồi, phải không? Hơn nữa, nếu ngươi nuôi dạy con gái bằng giàu sang, thì ngoài việc biết cách hưởng thụ, ăn diện và ăn ngon, cô ta có thể phân định được người ta không? Cô ta có bất kỳ kỹ năng sinh tồn nào không? Cô ta có thể sống với người khác một thời gian dài được không? Chưa chắc. Có lẽ cô ta sẽ gặp vấn đề ngay cả trong việc xử lý sinh hoạt của mình, mà như thế thì chỉ là người vô dụng. Những người như thế được nuông chiều từ bé, ngang ngược và hống hách, buông thả và láo xược, phóng túng và ngông cuồng, cứng đầu cứng cổ, chỉ biết ăn uống và vui vẻ thôi. Ngoài ra, cô ta còn không có thường thức căn bản để sống trong đời, vô hình trung điểu này sẽ gây phiền phức cho sự sinh tồn và cuộc sống gia đình sau này của cô ta. Cha mẹ dạy dỗ con gái theo cách này thì không phải chuyện tốt cho con gái. Họ chẳng dạy con những nguyên tắc làm người mà chỉ dạy cách để hưởng thụ cuộc sống. Vậy nếu sau này không kiếm được tiền, chẳng phải cô ta sẽ chịu khổ sao? Chẳng phải sẽ thấy khó vượt qua sao? Liệu cô ta có thể chịu đựng nổi không? Chẳng phải mỗi khi gặp khó khăn, cô ta sẽ mềm yếu sao? Cô ta có thể có đủ nghị lực để đương đầu với mọi gian khổ này không? Không chắc đâu. Với những người hưởng thụ cuộc sống vật chất quá nhiều, quá quen với cuộc sống thuận lợi và xa hoa, chưa hề chịu khổ chút nào, thì vấn đề lớn nhất đối với nhân tính của họ là gì? Là họ mềm yếu và không có ý chí để chịu khổ, người như thế sẽ sụp đổ. Vậy nên, sự dạy dỗ con cái nhận được trong gia đình, dù là thông qua cha mẹ hay các trào lưu xã hội, thì tóm lại đều đến từ nhân loại. Dù những câu nói khác nhau này hình thành một suy nghĩ và quan điểm, hay là trở thành một phương thức sống hay phương thức sinh tồn của người ta, thì chúng đều khiến người ta nhìn nhận những chuyện này từ một góc độ vô lý, thiên kiến và cực đoan. Tóm lại, những câu nói từ gia đình này đều sẽ ảnh hưởng đến cách người ta nhìn nhận sự vật và sự việc, cách hành xử và hành động, với những mức độ ít nhiều khác nhau. Vì những thứ này ảnh hưởng ngươi, chúng cũng sẽ ảnh hưởng việc mưu cầu lẽ thật của ngươi. Do đó, bất kể những câu nói, suy nghĩ và quan điểm đến từ cha mẹ này cao thượng và cao thâm, hay là đê hèn và ngu ngốc, thì tất cả mọi người nên xem xét lại chúng, đánh giá lại chúng, và học cách phân định xem chúng thật sự là gì. Nếu chúng hình thành ảnh hưởng nhất định trên ngươi, gây ra nhiễu loạn trong cuộc sống và việc mưu cầu lẽ thật của ngươi, khiến cuộc sống của ngươi rối tung rối mù, hoặc cản trở ngươi tìm kiếm và tiếp nhận lẽ thật mỗi khi đối diện với những con người, sự việc và sự vật, nếu như vậy thì ngươi nên buông bỏ chúng đi.

Trong xã hội còn lưu hành những câu nói liên quan đến các khái niệm về chỉ số trí tuệ cảm xúc hay còn gọi là EQ và chỉ số thông minh hay còn gọi là IQ. Những câu nói này cho rằng người ta không cần có IQ cao, mà chỉ cần có EQ cao. IQ liên quan nhiều hơn đến tố chất, còn EQ liên quan nhiều hơn đến những thủ đoạn mà người đó dùng để xử thế. Cách hiểu căn bản của Ta về hai thuật ngữ này là vậy. Có lẽ chỉ số thông minh của ngươi rất cao, ngươi học hành rất giỏi giang, thật sự có tri thức cao, khả năng truyền đạt tốt, năng lực sinh tồn rất mạnh, nhưng chỉ số trí tuệ cảm xúc của ngươi không cao, không có những thủ đoạn để đối nhân xử thế, hoặc kể cả nếu ngươi có chút thủ đoạn thì cũng không quá cao. Nếu thế thì những tri thức, kỹ năng và sự tinh thông của ngươi trong một lĩnh vực chuyên môn chỉ cho ngươi có được bát cơm và kiếm được sinh kế căn bản trong xã hội. Những người có chỉ số trí tuệ cảm xúc cao thì rất biết cách gian xảo. Họ biết lợi dụng các thế lực khác nhau trong xã hội, các hoàn cảnh địa lý thuận lợi hoặc các thời cơ có lợi và thông tin có lợi để thổi phồng và thao túng mọi sự, thổi phồng một thứ tầm thường thành một thứ có ảnh hưởng nhất định đối với xã hội hay trong một cộng đồng nào đó, để bản thân họ trở nên nổi tiếng và cuối cùng trở nên xuất chúng, có danh vọng, có thân phận. Dạng người này có chỉ số trí tuệ cảm xúc cao và có những thủ đoạn. Những người có thủ đoạn về căn bản chính là những ma vương giữa thế gian hỗn loạn. Xã hội ngày nay đề cao chỉ số trí tuệ cảm xúc, có lẽ một số gia đình còn hun đúc con cái theo cách này, nói rằng: “Con có chỉ số thông minh cao là tốt, nhưng con cũng cần có trí tuệ cảm xúc cao nữa. Con cần nó khi giao tiếp với bạn học, đồng nghiệp, người thân và bạn bè. Điều mà xã hội này đề cao nhất không phải là thực lực của con, mà là phải có thủ đoạn, biết cách đóng gói bản thân, biết cách nâng cao bản thân, biết cách lợi dụng mọi thế lực và điều kiện có lợi khác nhau trong xã hội, khiến chúng làm lợi và phục vụ cho mình – bất kể những việc này nhằm mục đích nắm bắt thời cơ làm giàu hay trở nên nổi tiếng. Những người như thế đều là người có chỉ số trí tuệ cảm xúc cao”. Một số gia đình hay bậc cha mẹ nhất định có danh tiếng và vị thế trong xã hội thường dạy con cái theo cách này, họ nói: “Đàn ông có trí tuệ cảm xúc thì được cả nam giới lẫn nữ giới yêu thích, còn đàn ông không có trí tuệ cảm xúc thì chẳng ai ưa cả. Phụ nữ có trí tuệ cảm xúc thì được vô số đàn ông và phụ nữ yêu thích, sẽ được nhiều đàn ông theo đuổi. Còn phụ nữ mà không có trí tuệ cảm xúc, thì dù có đẹp đến mấy cũng không có nhiều người theo đuổi”. Sống trong xã hội thời nay, nếu người ta không có sự phân định đối với những câu nói của gia đình mình, thì sẽ vô thức bị những suy nghĩ và quan điểm này ảnh hưởng, sẽ thường đánh giá IQ của mình, đặc biệt hơn nữa, họ thường xuyên kiểm tra bản thân bằng những tiêu chuẩn nhất định để xác định xem mình có trí tuệ cảm xúc không, xem chỉ số trí tuệ cảm xúc của mình thật sự cao đến đâu. Bất kể ngươi có ý thức mạnh mẽ và rõ ràng về những thứ này hay không, tóm lại, sự hun đúc của gia đình về phương diện này đã bắt đầu ảnh hưởng trên ngươi. Tuy chúng là vô hình, tuy chúng không chiếm vị trí nổi bật trong suy nghĩ ngươi, nhưng khi ngươi nghe những điều này và không phân định được chúng, thì ngươi đã bắt đầu bị chúng hun đúc đến một mức độ nhất định.

Còn có những sự hun đúc khác đến từ gia đình. Chẳng hạn như, cha mẹ thường bảo con cái rằng: “Mỗi khi ở cạnh người khác, con không biết cảnh giác, lúc nào cũng ngốc nghếch và ngơ ngác. Có câu nói ‘Chiêng đánh nghe tiếng, người nói nghe lời’, Mỗi khi có ai nói chuyện với con, thì con phải lắng nghe lời họ nói, không thì cuối cùng con sẽ bị bán đứng mà không tự biết đấy!” Một số bậc cha mẹ thường nói câu này nhỉ? Ý thật sự họ muốn nói là gì? Đừng làm người trung thực, phải tính toán hơn. Nghĩa là luôn nắm bắt ẩn ý trong lời nói của người khác, luôn lắng nghe để tìm ra lớp nghĩa khác mà họ không nói ra, học cách đoán xem ý thật sự của người ta là gì, rồi dùng những biện pháp hay thủ đoạn tương ứng dựa trên ẩn ý đó. Đừng bị động, không thì cuối cùng ngươi sẽ bị bán đứng mà còn không biết. Từ góc độ của cha mẹ ngươi, những lời này đều có ý tốt, là để bảo vệ ngươi khỏi làm việc ngu ngốc, khỏi bị những người khác trong cộng đồng tà ác này bán đứng, để bảo vệ ngươi khỏi bị lợi dụng hoặc làm việc ngu ngốc. Nhưng câu nói này có tương hợp với lẽ thật không? (Thưa, không). Không tương hợp. Có lúc người ta có thể nghe ra được ẩn ý trong lời nói của người khác, kể cả không chú ý, ngươi vẫn có thể nghe ra được ẩn ý. Vậy ngươi nên làm gì? Theo câu nói mà cha mẹ ngươi dạy “Chiêng đánh nghe tiếng, người nói nghe lời”, thì ngươi nên cảnh giác và đề phòng người khác mọi nơi mọi lúc, đồng thời ngươi phải có biện pháp phòng vệ trước khi họ hại ngươi hay lừa ngươi. Quan trọng hơn nữa, ngươi phải tiên hạ thủ vi cường chứ đừng để mình rơi vào thế bị động hoặc tiến thoái lưỡng nan. Đây chẳng phải là mục đích cuối cùng mà cha mẹ ngươi muốn đạt được khi dạy cho ngươi câu này sao? (Thưa, phải). Chính là mỗi khi giao tiếp với người khác, bất kể họ có hại ngươi hay không, ngươi cũng không được bị động. Ngươi phải nắm quyền chủ động, nắm đằng chuôi, để khi ai đó muốn hại ngươi, thì ngươi không những có thể bảo vệ bản thân mà còn có thể chủ động tấn công và hại họ, ghê gớm và tàn nhẫn hơn họ. Đây mới thật sự là mục đích và ý nghĩa gốc trong lời của cha mẹ ngươi. Nếu phân tích như thế này, rõ ràng câu nói này không phù hợp với lẽ thật, hoàn toàn không tương hợp với ý của Đức Chúa Trời khi bảo con người rằng “Hãy khôn khéo như rắn, đơn sơ như chim bồ câu”. Các nguyên tắc và phương thức khôn ngoan mà Đức Chúa Trời chỉ bảo cho con người là để họ phân định được những âm mưu xảo trá của người khác, bảo vệ bản thân khỏi rơi vào cám dỗ và đứng cùng hàng ngũ với kẻ ác, không dùng những phương thức tà ác để đối phó tà ác, mà dùng các nguyên tắc lẽ thật để đối đãi với bất kỳ việc ác và kẻ ác nào. Trong khi đó, phương pháp mà cha mẹ ngươi dạy “Chiêng đánh nghe tiếng, người nói nghe lời” là lấy ác báo ác, cho nên, nếu người khác tà ác, ngươi phải ác hơn cả họ. Nếu lời họ nói có ẩn ý, ngươi phải cao tay hơn họ, xác định được ẩn ý, đồng thời dựa trên ẩn ý này, ngươi còn có thể dùng những biện pháp và thủ đoạn tương ứng để đối phó với họ, phản công họ, khuất phục họ và khiến họ sợ ngươi, phục ngươi, cho họ biết ngươi không phải kẻ dễ ức hiếp hay dễ kiếm chuyện. Lấy ác trị ác chính là vậy. Rõ ràng, con đường thực hành và tiêu chuẩn thực hành được dạy cho ngươi này, cũng như kết quả đạt được từ câu nói này, sẽ dẫn dắt ngươi làm việc ác và đi lạc xa con đường thật. Khi cha mẹ bảo ngươi làm người như thế, là họ không bảo ngươi trở thành người có lẽ thật hay vâng phục lẽ thật, cũng không bảo ngươi làm một loài thọ tạo đích thực. Họ đang bảo ngươi phản kích và áp đảo cái ác bằng những phương thức còn tà ác hơn phương thức của kẻ ác đang đối đầu ngươi. Ý của cha mẹ ngươi chính là vậy Có bậc cha mẹ nào nói câu này không? “Nếu có kẻ ác tấn công con, thì hãy nhẫn nhịn. Con nên làm ngơ hắn, phân định rõ hắn thật sự thế nào. Một mặt, hãy xác định thực chất của kẻ ác trong hắn, phân định xem hắn là gì. Mặt khác, nhận ra những việc ác và tâm tính bại hoại trong con vốn tương tự hoặc giống như của hắn, rồi tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng”. Có bậc cha mẹ nào dạy con điều này không? (Thưa, không). Khi cha mẹ bảo ngươi “Có câu nói ‘Chiêng đánh nghe tiếng, người nói nghe lời’, con phải cảnh giác, không thì con sẽ bị người khác bán đứng mà không biết, con phải học cách ra tay áp đảo trước”. Khi nói điều này, dù ý định ban đầu của cha mẹ ngươi là gì, thì kết quả cuối cùng mà nó đạt được là khiến ngươi lợi hại hơn, mạnh mẽ hơn, ngang ngược hơn, hống hách hơn, và hung ác hơn, để những kẻ ác phải sợ ngươi, thậm chí thấy ngươi là phải tránh, không dám kiếm chuyện với ngươi. Không phải như thế sao? (Thưa, phải). Vậy, khi cha mẹ ngươi khi nói câu này với ngươi, mục đích không phải là để biến ngươi thành một người có cảm giác chính nghĩa, có lẽ thật, cũng không phải để biến ngươi thành người “khôn khéo như rắn, đơn sơ như chim bồ câu”, mà mục đích là bảo ngươi phải làm người ccó thế lực trong xã hội, thậm chí ác hơn người khác, dùng cái ác để bảo vệ bản thân, phải vậy không? (Thưa, phải). Khi cha mẹ bảo ngươi “Chiêng đánh nghe tiếng, người nói nghe lời”, thì dù đó là ý định ban đầu hay kết quả cuối cùng cần đạt được, dù cha mẹ ngươi nói cho ngươi những nguyên tắc và phương pháp thực hành những điều này hay là nói cho ngươi suy nghĩ và quan điểm của họ về những điều này, thì rõ ràng chúng đều không phù hợp với lẽ thật, đi ngược lại lời Đức Chúa Trời. Cha mẹ khiến ngươi trở thành kẻ ác, chứ không phải người chính trực, cũng không phải người khôn ngoan kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Rõ ràng, sự dạy dỗ và hun đúc từ cha mẹ ngươi không phải là điều tích cực, cũng không phải là con đường đúng đắn. Dù cha mẹ ngươi có ý muốn bảo vệ ngươi, và như vậy là có ý tốt, nhưng kết quả đạt được thì mang tính ác. Chúng không chỉ không bảo vệ được ngươi, mà còn chỉ ngươi đi theo con đường sai trái, khiến ngươi làm việc ác và trở thành kẻ ác. Chúng không bảo vệ được ngươi mà còn thật sự làm hại ngươi khi khiến ngươi rơi vào cám dỗ và bất nghĩa, xa rời sự chăm sóc và bảo vệ của Đức Chúa Trời. Từ góc nhìn này, sự hun đúc của gia đình trên ngươi dễ khiến ngươi ích kỷ, giả tạo, thèm muốn danh lợi và địa vị xã hội, dễ hòa nhập vào các trào lưu tà ác, cho ngươi những thủ đoạn cao hơn để giao tiếp với người khác, khiến ngươi lươn lẹo, hung ác, hống hách và ngang ngược khi ở giữa cộng đồng, đến nỗi không một ai dám kiếm chuyện với ngươi hoặc ra tay với ngươi. Từ góc nhìn của cha mẹ ngươi mà nói, thì họ đã dùng những phương phức này để hun đúc ngươi sao cho ngươi được bảo vệ trong xã hội, hoặc ở một mức độ nào đó, khiến ngươi trở thành một người có tôn nghiêm. Nhưng từ góc nhìn của lẽ thật mà nói, thì chúng không cho ngươi làm một loài thọ tạo đích thực. Chúng khiến ngươi xa rời những lời dạy bảo của Đức Chúa Trời và những phương thức làm người mà Ngài khuyên bảo ngươi, chúng còn khiến ngươi ngày càng lạc xa khỏi mục đích mà Đức Chúa Trời bảo ngươi mưu cầu. Bất kể ý định ban đầu của cha mẹ ngươi khi hun đúc và dạy dỗ ngươi là gì, thì cuối cùng những suy nghĩ mà họ hun đúc trên ngươi chỉ đem lại cho ngươi danh lợi và sự trống rỗng, cùng những việc ác mà ngươi đã sống thể hiện ra và bộc lộ, chúng còn khiến ngươi chứng thực thêm về tính thực dụng của những sự hun đúc này trong xã hội, chỉ thế mà thôi.

Về những câu nói phát xuất từ sự hun đúc của gia đình trên ngươi như “Chiêng đánh nghe tiếng, người nói nghe lời”, nếu tách riêng ra để ngẫm, ngươi sẽ chẳng nghĩ gì về chúng cả. Ngươi sẽ cảm thấy những câu nói này phổ biến và lưu truyền rộng rãi, cảm thấy những câu nói, suy nghĩ và quan điểm này chẳng có vấn đề gì lớn cả. Tuy nhiên, nếu đối chiếu chúng với lẽ thật và dùng lẽ thật mà mổ xẻ chúng thật chi tiết, thì rõ ràng những câu nói này thật sự có vấn đề lớn. Chẳng hạn như, nếu cha mẹ luôn bảo ngươi “Chiêng đánh nghe tiếng, người nói nghe lời”, và ngươi vận dụng phương thức sinh tồn này một cách thành thạo, thì mỗi khi tiếp xúc người khác, một cách vô thức và trong tiềm thức, ngươi sẽ không ngừng phỏng đoán về những chuyện như “Anh ta nói vậy là có ý gì? Tại sao anh ta nói như vậy?” Và tự nhiên ngươi sẽ phỏng đoán về ẩn ý của người khác, liên tục lắng nghe họ nói gì, giao tiếp với họ theo mô thức tư duy đã thành thói quen này, nên ngươi sẽ không thể suy ngẫm về lẽ thật, về cách giao tiếp với người khác, về những nguyên tắc giao tiếp với người khác, những nguyên tắc chuyện trò với người khác, cách đối phó với những ẩn ý mà ngươi phát hiện trong lời người khác, phương thức mà Đức Chúa Trời dạy, cách để phân định dạng người này, cách để đối đãi họ, v.v… cũng như những nguyên tắc thực hành khác mà cha mẹ chưa hề nói cho ngươi. Cha mẹ bảo ngươi phải học cách phỏng đoán ý nghĩ của người khác, và ngươi đã thực hành phương pháp này rất thuần thục, đã đạt đến mức độ vô thức, xuất quỷ nhập thần rồi. Do đó, những chuyện này đòi hỏi con người phải thường xuyên tĩnh tâm, suy ngẫm cẩn thận và dốc nhiều tâm tư để suy ngẫm. Một mặt, ngươi phải mổ xẻ và phân định những chuyện này thật rõ ràng. Mặt khác, mỗi khi những chuyện này phát sinh, ngươi phải nỗ lực để cải biến cách tư duy của mình, cải biến cách ngươi nhìn nhận con người và sự việc. Như thế nghĩa là, ngươi phải cải biến suy nghĩ và quan điểm về cách đối đãi những chuyện đó. Lần sau, khi ngươi nghe ai đó nói chuyện và đang định phỏng đoán xem ý thật sự của họ là gì, thì hãy buông bỏ cách suy nghĩ và cách đối đãi với con người này, hãy suy nghĩ cho kỹ: “Anh ta nói như vậy là có ý gì? Anh ta không nói thẳng, lúc nào cũng quanh co. Người này thật giả dối. Anh ta đang nói về chuyện quái quỷ gì đây? Thực chất của chuyện này là gì? Mình có thể hiểu rõ nó được không? Nếu hiểu rõ được nó, mình sẽ thông công với anh ta bằng những câu nói và cách nhìn phù hợp với lẽ thật, giải thích rõ ràng chuyện này và khiến anh hiểu ra lẽ thật về phương diện này. Mình sẽ giúp anh ta chấn chỉnh những suy nghĩ và quan điểm sai lầm. Hơn nữa, cách nói chuyện của anh ta thật là giả dối. Mình không muốn biết anh ta có ý gì khi nói vậy, cũng không muốn biết tại sao anh ta lại nói năng vòng vo như vậy. Mình không muốn phí tâm tư và sinh lực để phỏng đoán ý thật sự của anh ta. Mình không phải trả giá đó, cũng không muốn làm bất kỳ việc gì liên quan đến chuyện này. Mình chỉ cần phân định được anh ta là người giả dối là được rồi. Dù anh ta giả dối, nhưng mình sẽ không làm chuyện giả dối cùng anh ta. Dù anh ta vòng vo thế nào, mình cũng sẽ thẳng thắn với anh ta, nên nói gì thì sẽ nói nấy, chuyện thế nào nói thế ấy. Như Đức Chúa Jêsus phán ‘Song ngươi phải nói rằng: phải, phải; không, không.’ (Ma-thi-ơ 5:37). Lấy trung thực để đối phó giả dối chính là tiêu chí cao nhất của việc thực hành lẽ thật”. Nếu thực hành theo cách này, ngươi sẽ buông bỏ được những phương thức mà cha mẹ hun đúc và dạy dỗ ngươi, những nguyên tắc thực hành của ngươi cũng sẽ được cải biến. Rồi ngươi sẽ là một người mưu cầu lẽ thật. Bất kể ngươi buông bỏ phương diện nào trong sự hun đúc từ cha mẹ, mỗi khi những chuyện có liên quan lại xảy đến, ngươi sẽ cải biến những suy nghĩ và quan điểm sai lầm của ngươi về chúng, bằng cách xem lời Đức Chúa Trời là căn cứ và lấy lẽ thật làm tiêu chí, biến chúng thành những suy nghĩ và quan điểm đúng đắn và tích cực nhất của ngươi. Như thế nghĩa là, nếu ngươi phán định, nhìn nhận và xử lý chuyện này với căn cứ là lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, thì ngươi chính là đang thực hành lẽ thật rồi. Ngược lại, nếu ngươi vẫn dùng những phương thức mà cha mẹ dạy ngươi hoặc những suy nghĩ và quan điểm mà họ tiêm nhiễm cho ngươi, để làm tiêu chí, căn cứ, và nguyên tắc thực hành để đối đãi với chuyện này, thì cách thực hành đó không phải là thực hành lẽ thật, cũng không phải là mưu cầu lẽ thật. Điều cuối cùng người ta đạt được khi mưu cầu lẽ thật là sự thể nghiệm và trải nghiệm lẽ thật. Nếu không mưu cầu lẽ thật thì ngươi sẽ không đạt được sự thể nghiệm và trải nghiệm lẽ thật. Điều ngươi đạt được chỉ là sự thể nghiệm và trải nghiệm việc thực hành những câu nói mà cha mẹ hun đúc trên ngươi. Vậy nên, khi người khác nói đến thể nghiệm và trải nghiệm của họ về lời Đức Chúa Trời, thì ngươi chẳng nói được gì vì ngươi chẳng có gì để nói. Ngươi chỉ có thể nghiệm và trải nghiệm thực tế về những suy nghĩ và quan điểm mà gia đình hun đúc trên ngươi. Ngươi không thể nói được gì và chẳng có cách nào để chia sẻ. Do đó, ngươi thực hành điều gì thì cuối cùng sẽ thể nghiệm điều ấy. Nếu thực hành lẽ thật thì ngươi sẽ đạt được sự thể nghiệm và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Nếu ngươi thực hành sự dạy dỗ và gửi gắm từ cha mẹ thì ngươi sẽ thể nghiệm và trải nghiệm sự hun đúc và giáo dục truyền thống của gia đình, những gì ngươi đạt được chỉ là những suy nghĩ mà Sa-tan tiêm nhiễm cho ngươi và sự bại hoại mà Sa-tan gây ra cho ngươi. Càng thể nghiệm sâu sắc những thứ này, ngươi sẽ càng cảm thấy những suy nghĩ và quan điểm bại hoại của Sa-tan là hữu dụng và đem lại lợi ích thực tế, ngươi sẽ càng bị Sa-tan làm cho bại hoại sâu sắc hơn. Nếu ngươi thực hành lẽ thật thì sẽ thế nào? Ngươi sẽ ngày càng có thêm sự thể nghiệm, lĩnh hội và trải nghiệm về lẽ thật, về những lời và nguyên tắc mà Đức Chúa Trời nói cho ngươi, và ngươi sẽ cảm thấy lẽ thật là điều giá trị nhất, cảm thấy Đức Chúa Trời là nguồn gốc sự sống của con người, và lời Đức Chúa Trời là sự sống của con người.

Ngoài nuôi ngươi khôn lớn, cho ngươi cái ăn, cái mặc và sự giáo dục, gia đình còn cho ngươi gì nữa? Chỉ toàn phiền phức, phải không nào? (Thưa, phải). Nếu ngươi không sinh ra trong một gia đình như thế, thì đã không có mọi sự hun đúc của gia đình trên ngươi. Sẽ không có sự hun đúc của gia đình, nhưng vẫn sẽ có sự hun đúc của xã hội, ngươi không thể nào thoát khỏi. Bất kể nhìn từ góc độ nào, dù những sự hun đúc này đến từ gia đình hay xã hội, thì những suy nghĩ và quan điểm và quan điểm này cơ bản đều phát xuất từ Sa-tan. Chỉ là mỗi gia đình tiếp nhận những câu nói khác nhau từ xã hội với mức độ khinh trọng khác nhau nên họ nhấn mạnh các trọng điểm khác nhau. Rồi họ dùng những phương thức tương ứng để dạy dỗ và hun đúc thế hệ kế tiếp của gia đình. Mỗi thành viên của gia đình đều tiếp nhận đủ mọi loại hun đúc với nhiều mức độ khác nhau, tùy vào gia đình của họ. Nhưng sự thật là, những sự hun đúc này đều phát xuất từ xã hội và Sa-tan. Chỉ là thông qua những lời nói và hành động cụ thể hơn của các bậc cha mẹ, thông qua những phương thức trực tiếp hơn mà con người dễ tuân theo hơn, chúng được tiêm nhiễm sâu hơn vào thâm tâm người ta, khiến người ta tiếp nhận sự hun đúc này và biến nó trở thành những nguyên tắc và phương thức xử thế của họ, trở thành căn cứ để họ nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động. Chẳng hạn như, suy nghĩ và quan điểm mà chúng ta vừa nói đến “Chiêng đánh nghe tiếng, người nói nghe lời” cũng là một sự hun đúc đến từ gia đình. Bất kể gia đình hun đúc như thế nào, thì con người đều nhìn nhận nó từ góc độ của thành viên trong gia đình và từ đó xem nó như một điều tích cực, như lá bùa hộ thân, dùng nó để bảo vệ bản thân. Điều này là bởi người ta nghĩ rằng mọi sự đến từ cha mẹ là kết quả từ sự kinh qua thực tế và thể nghiệm của cha mẹ. Trên đời, chỉ có cha mẹ là không bao giờ làm hại họ, chỉ có cha mẹ muốn họ sống cuộc sống tốt đẹp hơn và muốn bảo vệ họ. Do đó, con người tiếp nhận những suy nghĩ và quan điểm khác nhau từ cha mẹ mà không hề phân định. Cứ như thế, họ tự nhiên tiếp nhận sự hun đúc của những suy nghĩ và quan điểm của cha mẹ. Một khi đã tiếp nhận sự hun đúc từ những suy nghĩ và quan điểm đến từ cha mẹ này, người ta chẳng bao giờ hoài nghi hay phân định chúng thật sự là gì, bởi vì họ thường xuyên nghe cha mẹ nói những lời như vậy rồi. Chẳng hạn như “Cha mẹ luôn đúng”. Câu này có nghĩa gì? Nghĩa là dù cha mẹ đúng hay sai, thì tóm lại, vì họ đã sinh ra và nuôi dưỡng ngươi, nên đối với ngươi, mọi điều cha mẹ ngươi làm đều đúng. Ngươi không được đánh giá họ đúng hay sai, cũng không được phủ định họ, càng không được phản kháng. Đây gọi là lòng hiếu thảo. Kể cả khi cha mẹ ngươi có làm sai đi nữa, kể cả khi một vài suy nghĩ và quan điểm của họ đã lạc hậu hoặc sai lầm, kể cả khi cách dạy dỗ của họ và những suy nghĩ, quan điểm giáo dục của họ không đúng đắn, không tích cực, ngươi cũng không được hoài nghi hay từ chối họ, bởi vì câu nói “Cha mẹ luôn đúng” này. Đối với cha mẹ, ngươi vĩnh viễn không được phân định hay đánh giá xem họ đúng hay sai, bởi vì sự sống và mọi thứ con cái có đều nhờ cha mẹ mà có. Cha mẹ là chí cao vô thượng, nên nếu có lương tâm, thì ngươi không được phê phán họ. Bất kể họ sai trái, lầm lạc hay thiếu sót đến thế nào, thì họ vẫn là cha mẹ ngươi. Họ là những người thân thiết với ngươi nhất, họ nuôi dạy ngươi, đối xử với ngươi tốt nhất và cho ngươi sự sống. Chẳng phải ai ai cũng tiếp nhận câu nói này sao? Và chính bởi vì có tâm thức này mà cha mẹ ngươi nghĩ họ có thể tùy ý đối xử với ngươi thế nào cũng được, dùng những phương thức khác nhau để hướng ngươi theo đủ mọi cách hành động và tiêm nhiễm vào ngươi nhiều suy nghĩ khác nhau. Từ góc nhìn của mình, các bậc cha mẹ nghĩ “Xuất phát điểm của cha mẹ là đúng đắn, đều để tốt cho con mà thôi. Mọi điều con có là do cha mẹ cho con. Con được cha mẹ sinh ra và nuôi dạy, nên cha mẹ có đối xử với con thế nào, cha mẹ cũng không thể sai được, vì mọi việc cha mẹ làm đều vì lợi ích của con, và cha mẹ sẽ không lừa con, không hại con đâu”. Từ góc nhìn của con cái, thái độ của chúng đối với cha mẹ cứ dựa trên câu nói “Cha mẹ luôn đúng” thì có đúng đắn không? (Thưa, không). Chắc chắn là sai. Vậy ngươi nên phân định câu nói này như thế nào? Chúng ta có thể mổ xẻ sai lầm của câu nói này từ bao nhiêu phương diện? Nếu nhìn từ góc độ của con cái, thì cha mẹ cho chúng sự sống và thân xác này, lại còn có ơn nuôi dạy chúng, nên con cái phải nghe theo mọi lời của cha mẹ, hoàn thành nghĩa vụ hiếu thảo, không được tìm lỗi của cha mẹ. Ẩn ý của những lời này là ngươi không được phân định xem cha mẹ mình thật sự là người thế nào. Nếu phân tích từ góc độ này, thì quan điểm này có đúng đắn không? (Thưa, không). Vậy chúng ta nên đối đãi với chuyện này theo lẽ thật như thế nào? Câu nói này đúng ra phải là gì? Thân xác và sự sống của con cái là do cha mẹ ban cho sao? (Thưa, không). Thân xác của con người là do cha mẹ sinh ra, nhưng năng lực sinh con của cha mẹ là từ đâu mà có? (Thưa, do Đức Chúa Trời ban và đến từ Đức Chúa Trời). Còn linh hồn của con người, nó từ đâu mà có? Nó cũng đến từ Đức Chúa Trời. Vậy nên, xét tận cùng, con người được Đức Chúa Trời tạo thành, và mọi chuyện này đều được Đức Chúa Trời tiền định. Chính Đức Chúa Trời tiền định cho ngươi được sinh ra trong gia đình này. Đức Chúa Trời cho một linh hồn đến gia đình này, rồi ngươi được sinh ra trong gia đình này, được tiền định có mối duyên phận với cha mẹ ngươi, mọi chuyện này đã được Đức Chúa Trời tiền định. Do sự tiền định và chủ tể của Đức Chúa Trời, cha mẹ ngươi có thể có ngươi và ngươi có thể được sinh ra trong gia đình này, nhìn từ căn nguyên là vậy. Nhưng lỡ như Đức Chúa Trời không tiền định mọi sự theo cách này thì sao? Vậy thì cha mẹ ngươi sẽ không bao giờ có ngươi, ngươi sẽ không bao giờ có mối quan hệ cha mẹ-con cái với họ, sẽ không có quan hệ huyết thống hay tình cảm gia đình, không có quan hệ gì hết. Do đó, nói sự sống của người ta là do cha mẹ ban cho là sai. Mặt khác, nhìn từ góc độ của người con, tuy cha mẹ là thế hệ đời trước của họ, nhưng xét theo toàn thể nhân loại, cha mẹ cũng như mọi người khác, đều là thành viên trong nhân loại bại hoại, đều có tâm tính bại hoại của Sa-tan. Họ chẳng khác gì mọi người khác, chẳng khác gì ngươi cả. Dù họ sinh ra ngươi về mặt thể xác, có quan hệ huyết thống với ngươi, là thế hệ đời trước của ngươi, nhưng về mặt thực chất tâm tính con người, thì các ngươi đều sống dưới quyền lực của Sa-tan, đều bị Sa-tan làm cho bại hoại, đều có tâm tính bại hoại của Sa-tan. Từ góc độ sự thật của việc có tâm tính Sa-tan bại hoại, thì thực chất của tất cả mọi người đều như nhau. Bất luật vai vế, tuổi tác, vào đời trước hay sau, thì về mặt thực chất, thực chất tâm tính bại hoại của con người đều giống nhau, đều là con người bị Sa-tan làm cho bại hoại, và chẳng có gì khác nhau về phương diện này. Bất luận nhân tính của họ ác hay thiện, vì đều có tâm tính bại hoại, nên họ đều dùng những góc độ và lập trường như nhau khi nhìn nhận con người và sự việc, khi đối đãi với lẽ thật. Về mặt này, họ không có gì khác nhau cả. Còn nữa, tất cả mọi người sống giữa nhân loại tà ác đều tiếp nhận những suy nghĩ và quan điểm khác nhau đến từ thế giới tà ác này, dù là lời lẽ hay suy nghĩ, hình thức hay hay hệ tư tưởng, ai nấy đều tiếp nhận mọi dạng suy nghĩ từ Sa-tan, dù là qua sự giáo dục của quốc gia hay sự hun đúc của phong tục xã hội. Những thứ này hoàn toàn không phù hợp với lẽ thật. Chúng không có chút lẽ thật nào, và người ta chắc chắn không hiểu lẽ thật là gì. Từ góc nhìn này, cha mẹ và con cái bình đẳng và đều có những suy nghĩ và quan điểm giống nhau. Chỉ là cha mẹ ngươi tiếp nhận những suy nghĩ và quan điểm này trước ngươi 20, 30 năm, còn ngươi tiếp nhận sau họ một chút. Như thế nghĩa là, với bối cảnh xã hội giống nhau, miễn là người bình thường, thì cả ngươi và cha mẹ người đều đã tiếp nhận sự bại hoại như nhau từ Sa-tan, sự hun đúc của phong tục xã hội, cũng như những suy nghĩ và quan điểm phát xuất từ những trào lưu tà ác trong xã hội. Từ góc nhìn này, con cái cũng cùng loại với cha mẹ. Từ góc nhìn của Đức Chúa Trời, ngoài tiền đề mà Ngài đã tiền định, ấn định và tuyển chọn, thì trong mắt Đức Chúa Trời, cả cha mẹ và con cái cũng tương tự nhau về mặt họ đều là loài thọ tạo, bất kể có phải là loài thọ tạo thờ phượng Đức Chúa Trời hay không thì họ đều được xem là loài thọ tạo, đều tiếp nhận sự chủ tể, sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời. Từ góc nhìn này, cha mẹ và con cái thật sự có địa vị bình đẳng trong mắt Đức Chúa Trời, đều tiếp nhận sự chủ tể và an bài của Đức Chúa Trời tương tự nhau và bình đẳng với nhau. Đây là sự thật khách quan. Nếu đều được Đức Chúa Trời tuyển chọn, thì họ đều có cơ hội mưu cầu lẽ thật bình đẳng như nhau, dĩ nhiên, họ cũng có cơ hội tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời bình đẳng như nhau, có cơ hội được cứu rỗi bình đẳng như nhau. Ngoài những sự tương đồng trên, giữa cha mẹ và con cái chỉ có một khác biệt, đó là trong cái gọi là cơ cấu gia đình, vai vế của cha mẹ cao hơn của con cái. Vai vế trong cơ cấu gia đình nghĩa là gì? Nghĩa là họ chỉ lớn tuổi hơn một thế hệ, hơn 20, 30 năm, chỉ là sự khác biệt về tuổi tác mà thôi. Và vì thân phận đặc biệt này của cha mẹ, mà con cái tất yếu phải hiếu thảo và làm nghĩa vụ với cha mẹ. Đây là trách nhiệm duy nhất của một con người đối với cha mẹ mình. Nhưng vì cha mẹ và con cái đều nằm trong cùng một nhân loại bại hoại, nên cha mẹ không phải là tấm gương đạo đức cho con cái, cũng không phải là tiêu chuẩn hay hình mẫu cho việc mưu cầu lẽ thật của con cái, càng không phải là hình mẫu cho con cái về việc thờ phượng và vâng phục Đức Chúa Trời. Dĩ nhiên, cha mẹ không phải là hiện thân của lẽ thật. Người ta không có nghĩa vụ hay trách nhiệm xem cha mẹ là tấm gương đạo đức và là người mà họ phải nghe lời vô điều kiện. Con cái không nên không dám phân định việc làm, hành động và thực chất tâm tính của cha mẹ mình. Như thế nghĩa là, khi đối đãi với cha mẹ, người ta không nên bám chặt những suy nghĩ và quan điểm như “Cha mẹ luôn đúng”. Quan điểm này dựa trên việc cha mẹ có thân phận đặc biệt, đã sinh ra ngươi dưới sự tiền định của Đức Chúa Trời, lớn hơn ngươi 20, 30, hay thậm chí là 40, 50 tuổi, Cha mẹ khác với con cái chỉ khi nhìn nhận theo góc độ mối quan hệ huyết thống, về thân phận và vai vế trong cơ cấu gia đình. Nhưng vì sự khác biệt này mà người ta xem cha mẹ là người làm gì cũng không hề có sai lầm, vậy thì có đúng không? Nghĩ như thế là sai, là vô lý tính và không phù hợp với lẽ thật. Có người thắc mắc rằng vì cha mẹ và con cái có mối quan hệ huyết nhục, vậy con cái nên đối xử với cha mẹ mình như thế nào? Nếu cha mẹ tin Đức Chúa Trời, thì nên đối xử với cha mẹ như tín hữu, nếu cha mẹ không tin Đức Chúa Trời thì nên đối xử với cha mẹ như người không tin. Dù cha mẹ là dạng người nào, cũng nên được đối xử theo các nguyên tắc lẽ thật tương ứng. Nếu cha mẹ là ma quỷ, thì ngươi nên nói họ là ma quỷ. Nếu cha mẹ không có nhân tính, thì ngươi nên nói họ không có nhân tính. Nếu những suy nghĩ và quan điểm mà họ dạy cho ngươi không phù hợp với lẽ thật, thì ngươi không cần phải lắng nghe hay tiếp nhận, thậm chí còn có thể phân định chính xác chúng là gì và phơi bày chúng. Nếu cha mẹ ngươi nói: “Cha mẹ làm thế này để tốt cho con thôi mà”, và khóc lóc làm loạn lên, liệu ngươi có quan tâm không? (Thưa, không quan tâm). Nếu cha mẹ ngươi không có đức tin, thì đừng bận tâm đến họ làm gì, cứ mặc kệ vậy. Nếu họ làm loạn lên, ngươi sẽ thấy được họ là ma quỷ thực sự, không sai một phân nào. Những lẽ thật liên quan đến đức tin vào Đức Chúa Trời này chính là những suy nghĩ và quan điểm mà người ta cần tiếp nhận nhất. Nếu không thể tiếp nhận và nghe lọt tai những điều này, thì họ là dạng gì đây? Họ không hiểu lời Đức Chúa Trời, nên họ không bằng con người, phải không? Ngươi phải suy nghĩ như thế này: “Dù cha mẹ là cha mẹ của con, nhưng cha mẹ không có nhân tính. Con thật sự hổ thẹn vì mình do cha mẹ sinh ra. Giờ con có thể phân định cha mẹ thật sự là ai rồi. Cha mẹ không có linh hồn con người, nghe mà không hiểu lẽ thật, còn không thể lắng nghe những giáo lý đơn giản và rõ ràng, thế mà vẫn nói nhăng nói cuội và nói những lời báng bổ. Giờ con hiểu rõ rồi, và trong lòng con đã vạch rõ ranh giới với cha mẹ. Nhưng bề ngoài, là con cái của cha mẹ, con vẫn phải làm vui lòng cha mẹ, vẫn phải chu toàn một số trách nhiệm và nghĩa vụ của con cái. Nếu đủ sức, con sẽ mua chút sản phẩm chăm sóc sức khỏe cho cha mẹ, nhưng nếu không đủ sức, con sẽ về thăm cha mẹ, thế thôi. Con sẽ không phản bác ý kiến, hay bất kỳ điều gì cha mẹ nói. Cha mẹ thật vô lý, con sẽ mặc kệ cha mẹ như vậy. Cha mẹ là ma quỷ, không nói lý lẽ được, thì còn gì để nói nữa đây? Vì sự thật là cha mẹ sinh ra con và đã dành nhiều năm trời nuôi dạy con, nên con sẽ tiếp tục đến thăm và chăm sóc cha mẹ. Nếu không, con sẽ không để tâm đến cha mẹ chút nào nữa, và cả đời này cũng không muốn gặp lại cha mẹ”. Tại sao ngươi không muốn gặp lại hay có liên quan gì đến họ? Bởi vì ngươi hiểu lẽ thật, đã nhìn thấu thực chất của họ, đã nhìn thấu mọi suy nghĩ và quan điểm sai lầm khác nhau của họ, và từ những suy nghĩ và quan điểm sai lầm này, ngươi thấy được sự ngu xuẩn, ương ngạnh và tà ác của họ, thấy rõ họ là ma quỷ, cho nên ngươi cảm thấy chán ghét và ghê tởm họ, không muốn gặp họ nữa. Chỉ vì chút lương tâm trong mình mà ngươi cảm thấy mình buộc phải thực hiện một vài trách nhiệm và nghĩa vụ hiếu thảo của một người con, nên ngươi thăm họ vào dịp Tết, dịp lễ, chỉ vậy thôi. Chỉ cần họ không ngăn cản ngươi tin Đức Chúa Trời hay thực hiện bổn phận, thì cứ đi thăm họ nếu ngươi có thời gian. Nếu ngươi thật sự không muốn gặp họ, thì cứ gọi điện hỏi thăm xem họ thế nào, thỉnh thoảng gửi tiền cho họ qua đường bưu điện, và mua cho họ vài món đồ hữu dụng là được rồi. Dù là chăm sóc, thăm viếng, mua áo quần, hỏi thăm sức khỏe của họ, hay là chăm sóc họ khi ốm đau, tất cả chỉ là để thực hiện nghĩa vụ hiếu thảo và đáp ứng nhu cầu về tình cảm và lương tâm của người ta. Chỉ vậy thôi, và việc này không được tính là thực hành lẽ thật. Bất kể ngươi ghê tởm họ đến đâu, hay nhìn thấu bản chất họ thế nào, miễn họ còn sống thì ngươi phải thực hiện nghĩa vụ tất yếu của một người con và gánh vác những trách nhiệm tất yếu. Cha mẹ đã chăm sóc cho ngươi khi còn nhỏ, khi họ già đi thì ngươi phải chăm sóc cho họ nếu có điều kiện. Nếu họ muốn mè nheo, cứ để họ mè nheo. Chỉ cần ngươi không tiếp nhận những suy nghĩ và quan điểm mà họ cố tiêm nhiễm cho ngươi, không tiếp nhận những gì họ nói và không để họ quấy nhiễu hay kìm kẹp ngươi, thế thì ổn cả, và chứng tỏ ngươi đã trưởng thành trong vóc giạc, đã đứng vững làm chứng trước Đức Chúa Trời. Ngài sẽ không lên án ngươi vì đã chăm sóc cho họ, sẽ không nói “Tại sao ngươi nặng tình cảm vậy? Ngươi đã tiếp nhận lẽ thật, đang mưu cầu lẽ thật, sao ngươi vẫn có thể chăm sóc cho họ chứ?” Đây là trách nhiệm và nghĩa vụ căn bản nhất trong việc làm người, là thực hiện nghĩa vụ của ngươi nếu điều kiện cho phép. Làm như vậy không có nghĩa là ngươi nặng tình cảm, và Đức Chúa Trời sẽ không lên án ngươi vì chuyện này. Dĩ nhiên, trong thế giới này, ngoài cha mẹ ngươi ra, ai là người mà ngươi có nghĩa vụ và trách nhiệm nào, không ai cả, dù là anh chị em ruột, bạn bè hay cô dì chú bác. Ngươi không có trách nhiệm hay nghĩa vụ làm bất kỳ điều gì để làm vui lòng họ, xun xoe họ hay giúp đỡ họ. Có phải như thế không? (Thưa, phải).

Ta đã nói rõ về câu nói “Cha mẹ luôn đúng” chưa? (Thưa, đã rõ rồi). Cha mẹ là ai? (Thưa, là con người bại hoại). Đúng vậy, cha mẹ là con người bại hoại. Nếu thỉnh thoảng ngươi nhớ cha mẹ và nghĩ: “Hai năm qua, không biết cha mẹ mình sống thế nào? Có nhớ mình không? Đã nghỉ hưu chưa? Có khó khăn gì trong cuộc sống không? Lúc bị bệnh thì có ai chăm sóc không?” Giả dụ ngươi nghĩ về những chuyện này, rồi còn nghĩ thêm: “Cha mẹ luôn đúng. Cha mẹ từng đánh mình, la mắng mình đều là vì bực bội khi mình không thể sống đúng kỳ vọng của cha mẹ, và còn vì cha mẹ yêu thương mình vô cùng. Cha mẹ tốt hơn bất kỳ ai, là người yêu thương mình nhất đời. Giờ nghĩ về những tính xấu của cha mẹ, mình không còn thấy đó là tính xấu, vì cha mẹ luôn đúng mà”. Càng nghĩ về chuyện này, ngươi càng muốn gặp họ. Nghĩ như thế có tốt không? (Thưa, không tốt). Đúng, không tốt. Vậy ngươi nên nghĩ thế nào? Ngươi suy ngẫm về chuyện này: “Hồi nhỏ, cha mẹ từng đánh mình, mắng mình, làm tổn thương lòng tự tôn của mình, chẳng bao giờ nói lời ân cần hay khích lệ mình. Cha mẹ bắt mình học hành, còn ép mình học khiêu vũ và ca hát, học thi Olympic Toán, toàn những chuyện mình không thích. Cha mẹ mình thật sự phiền toái. Giờ mình tin Đức Chúa Trời và tự do rồi. Chưa xong đại học, mình đã rời gia đình để thực hiện bổn phận. Đức Chúa Trời là Đấng tốt lành. Mình không nhớ cha mẹ. Chính họ ngăn cản mình tin Đức Chúa Trời. Cha mẹ mình là ác quỷ”. Rồi ngươi lại suy ngẫm: “Như vậy không đúng. Cha mẹ luôn đúng. Cha mẹ mình là người thân thiết nhất với mình, nên mình nhớ cha mẹ là hoàn toàn đúng đắn”. Suy nghĩ như thế có đúng không? (Thưa, không đúng). Vậy nghĩ như thế nào mới đúng? (Thưa, chúng con từng nghĩ rằng bất kể cha mẹ làm gì, thì cũng làm vì quan tâm chúng con, nghĩ cha mẹ làm việc gì cũng để tốt cho chúng con và không bao giờ làm hại chúng con. Mối thông công vừa rồi của Đức Chúa Trời đã khiến chúng con nhận ra rằng cha mẹ chúng con cũng là con người bại hoại, cũng đã tiếp nhận những suy nghĩ và quan điểm khác nhau từ Sa-tan. Cha mẹ đã vô tình tiêm nhiễm nhiều quan điểm của Sa-tan vào chúng con, khiến chúng con chệch quá xa khỏi lẽ thật trong cách hành xử và hành động, khiến chúng con cứ sống theo triết lý Sa-tan. Giờ con đã có được đôi chút phân định về những gì trong lòng của cha mẹ con, con sẽ nhớ và nghĩ về họ ít hơn nhiều). Khi đối đãi với cha mẹ, trước hết ngươi phải dùng lý tính mà bước khỏi mối quan hệ huyết thống và phân định cha mẹ ngươi bằng những lẽ thật mà ngươi đã tiếp nhận và đã hiểu biết. Phân định cha mẹ ngươi dựa trên suy nghĩ, quan điểm và xuất phát điểm của họ về cách hành xử và hành động, dựa trên nguyên tắc và phương thức hành xử và hành động của họ, từ đó sẽ xác thực được họ cũng là những con người bị Sa-tan làm bại hoại. Hãy nhìn nhận và phân định họ từ góc độ của lẽ thật, thay vì lúc nào cũng nghĩ cha mẹ ngươi thật vĩ đại, vô tư và có ơn với ngươi, nếu nhìn nhận họ như thế, ngươi sẽ không bao giờ phát hiện được họ có vấn đề gì. Đừng nhìn nhận cha mẹ ngươi từ góc độ tình thân gia đình, hoặc từ vai trò con cái của ngươi. Hãy bước ra khỏi phạm vi đó và nhìn xem cách họ đối xử với thế giới, với lẽ thật, với con người, sự việc và sự vật. Cụ thể hơn nữa, hãy nhìn vào những suy nghĩ và quan điểm mà cha mẹ ngươi đã hun đúc trên ngươi về cách nhìn nhận con người và sự việc, cách ngươi hành xử và hành động – ngươi phải nhận ra và phân định họ như thế. Theo cách này, phẩm chất nhân tính của họ và sự thật là họ đã bị Sa-tan làm cho bại hoại sẽ dần rõ ràng hơn. Họ rốt cuộc là dạng người nào? Nếu họ không tin Đức Chúa Trời, thì họ có thái độ nào với những người tin Đức Chúa Trời? Nếu họ tin Đức Chúa Trời, thì họ có thái độ nào với lẽ thật? Họ có phải là người mưu cầu lẽ thật không? Họ có yêu lẽ thật không? Họ có thích những điều tích cực không? Nhân sinh quan và thế giới quan của họ như thế nào? Vân vân… Nếu ngươi có thể phân định cha mẹ mình dựa trên những điều này thì ngươi sẽ thấy được rõ ràng. Một khi những chuyện này đã rõ ràng, thì địa vị vĩ đại, cao quý và không thể lay chuyển của cha mẹ trong tâm hồn ngươi sẽ thay đổi. Khi nó thay đổi rồi, thì tình phụ tử, mẫu tử mà cha mẹ ngươi thể hiện, cùng những lời nói hành động cụ thể của họ, những hình tượng vĩ đại mà ngươi nghĩ về họ, sẽ không còn in sâu trong tâm hồn ngươi nữa. Sự vô tư và vĩ đại trong tình yêu của cha mẹ dành cho ngươi, sự tận tâm chăm sóc ngươi, bảo vệ ngươi thậm chí là chiều chuộng ngươi, vô hình trung, sẽ không còn hiếm một vị trí quan trọng trong tâm hồn ngươi nữa. Người ta thường nói: “Cha mẹ thương tôi rất nhiều. Mỗi khi tôi xa nhà là mẹ tôi đều hỏi: ‘Con ăn chưa? Con ăn uống có đều độ không?’ Cha tôi thì luôn hỏi: ‘Con có đủ tiền không? Nếu không có tiền, cha sẽ gửi cho con thêm một ít’. Rồi tôi bảo cha: ‘Con có tiền mà, không cần đâu ạ’, cha tôi vẫn khăng khăng ‘Không được, dù con nói là có tiền rồi, cha vẫn cứ gửi cho con’.” Sự thật là cha mẹ ngươi sống tằn tiện và rất ngại chi tiêu cho bản thân. Họ dùng tiền của mình để hỗ trợ ngươi, để ngươi có thêm chút tiền tiêu khi xa nhà. Cha mẹ ngươi luôn nói: “Ở nhà thì tằn tiện, nhưng đi xa thì cần thêm tiền. Khi đi đây đó thì cầm thêm một ít tiền. Nếu không đủ tiền thì cứ báo mẹ, mẹ sẽ gửi thêm một ít, hoặc chuyển vào thẻ cho con”. Sự quan tâm, chăm sóc, yêu chiều và thậm chí là vỗ về và chiều chuộng ngươi một cách vô tư sẽ luôn là một dấu ấn không phai về sự dâng hiến vô tư của họ trong mắt người. Sự dâng hiến vô tư này đã trở thành một cảm giác ấm áp mạnh mẽ sâu trong lòng ngươi, ràng buộc mối quan hệ giữa ngươi với cha mẹ. Nó khiến ngươi không thể nào buông bỏ họ, khiến ngươi lo lắng cho họ, cứ băn khoăn về họ, luôn nhớ đến họ, thậm chí còn khiến ngươi luôn sẵn lòng mắc kẹt trong tình cảm này và và bị họ uy hiếp bằng tình cảm. Đây là dạng hiện tượng gì? Tình yêu của cha mẹ ngươi đúng thật là vô tư. Bất kể cha mẹ quan tâm ngươi đến đâu, bất kể họ chắt bóp và tiết kiệm để cho ngươi tiền tiêu hoặc mua cho ngươi những thứ ngươi cần, thì đối với ngươi mà nói, bây giờ có lẽ đó là một phước phần của ngươi, nhưng về lâu dài thì không tốt cho ngươi. Họ càng vô tư, càng đối xử tốt với ngươi, càng quan tâm ngươi, thì ngươi càng khó cắt đứt tình cảm này, khó buông bỏ và quên đi nó, đồng thời ngươi sẽ càng nhớ họ nhiều hơn. Khi không làm tròn được hiếu đạo và không làm được nghĩa vụ đối với họ, ngươi sẽ càng cảm thấy có lỗi với họ. Trong tình huống này, ngươi không nhẫn tâm phân định họ, nhẫn tâm quên đi tình yêu, sự dâng hiến và mọi việc họ làm cho ngươi, để xem mọi điều đó là không đáng nhắc đến, đây chính là ảnh hưởng của lương tâm ngươi. Lương tâm có đại diện cho lẽ thật không? (Thưa, không). Tại sao cha mẹ lại như thế với ngươi? Bởi vì họ có tình cảm dành cho ngươi. Vậy thì họ đối tốt với ngươi có đại diện cho thực chất nhân tính của họ không? Nó có thể đại diện cho thái độ của họ đối với lẽ thật không? Không thể. Cũng như các bà mẹ luôn nói: “Con là máu thịt của mẹ, mẹ đã cày cuốc cực khổ để nuôi con. Sao mẹ không biết con nghĩ gì trong lòng được?” Họ tốt với ngươi do tình thân gia đình và do mối quan hệ huyết thống, nhưng họ thật sự tốt với ngươi không? Đây có phải là chân tướng thật sự của họ không? Đây có phải là bộc lộ thực sự của thực chất nhân tính họ không? Không hẳn. Bởi vì ngươi có quan hệ huyết thống với họ, mà họ nghĩ mình nên đối tốt với ngươi vì ý thức bổn phận. Nhưng ngươi là con cái họ mà lại nghĩ họ đối tốt với ngươi thì đó là ân tình, cảm thấy mình không bao giờ đền đáp nổi. Nếu ngươi không thể thể đền đáp tình yêu của họ cho trọn vẹn hoặc được phần nào đó thì lương tâm của ngươi sẽ cắn rứt. Cảm giác của ngươi khi lương tâm cắn rứt có phù hợp với lẽ thật không? Nói cách khác, nếu họ không phải là cha mẹ ngươi, mà chỉ là người thường giao tiếp với ngươi một cách bình thường trong tập thể, liệu họ có đối xử với ngươi theo cách này không? (Thưa, không). Chắc chắn là không. Nếu họ không phải là cha mẹ ngươi và không có quan hệ huyết thống với ngươi, thì cách cư xử và thái độ của họ đối ngươi sẽ khác đi theo nhiều kiểu. Chắc chắn họ sẽ không chăm sóc, bảo vệ, chiều chuộng, quan tâm hay dâng hiến vô tư vì ngươi. Vậy họ sẽ đối xử với ngươi như thế nào? Có lẽ họ sẽ ức hiếp ngươi vì ngươi trẻ tuổi và chưa từng trải xã hội, hoặc kỳ thị ngươi vì ngươi có thân phận và địa vị thấp, luôn nói năng với ngươi bằng giọng quan liêu và luôn dạy đời ngươi, hoặc có lẽ họ sẽ nghĩ ngươi có ngoại hình trung bình, và nếu ngươi nói chuyện với họ thì họ sẽ không thèm để ý ngươi, xem ngươi không xứng với họ; có lẽ họ sẽ không xem ngươi là hữu dụng, không giao tiếp hay dính líu gì đến ngươi, có lẽ họ sẽ nghĩ ngươi thật thà nên nếu muốn biết chuyện gì, họ luôn sẽ hỏi ngươi trước và cố moi câu trả lời từ ngươi; có lẽ họ sẽ muốn lợi dụng ngươi theo cách nào đó, chẳng hạn mỗi khi ngươi mua được món hời nào đó thì họ luôn đòi ngươi chia phần, luôn muốn chiếm chút gì đó; có lẽ khi ngươi vấp ngã trên đường và cần người đỡ dậy, họ thậm chí còn không nhìn ngươi, thay vào đó còn đá ngươi; hoặc có lẽ khi ngươi lên xe buýt mà không nhường chỗ cho họ thì họ sẽ bảo: “Tôi già rồi, sao cậu không nhường chỗ cho tôi? Sao cậu trẻ tuổi không hiểu chuyện vậy? Cha mẹ không dạy cậu cách cư xử hả?” rồi họ còn mắng ngươi một trận. Nếu là thế, ngươi cần phải khám phá xem rốt cuộc tình phụ tử và mẫu tử ẩn sâu trong lòng ngươi có phải là sự bộc lộ thật sự của nhân tính họ không. Ngươi thường xuyên cảm động vì sự dâng hiến vô tư của họ dành cho mình và vì tình phụ tử, mẫu tử vĩ đại của họ, ngươi gắn bó với họ vô cùng, nhớ họ và không ngừng muốn đền đáp họ bằng cả mạng sống mình. Lý do cho chuyện này là gì? Nếu nó chỉ là do lương tâm nảy sinh, thì vấn đề không sâu sắc lắm và có thể cứu vãn được. Nhưng nếu nó phát sinh do tình cảm dành cho họ, thì rất phiền phức. Ngươi sẽ bị mắc kẹt ngày càng sâu hơn vào đó và không thể thoát ra. Ngươi sẽ thường xuyên bị kẹt trong tình cảm này và nhớ cha mẹ ngươi, thi thoảng ngươi còn phản bội Đức Chúa Trời để đền đáp ân tình của cha mẹ. Chẳng hạn như, nghe tin cha mẹ bị bệnh nặng và đang ở bệnh viện, hoặc cha mẹ gặp chuyện nghiêm trọng nào đó và đang rất khó khăn đến nỗi không thể vượt qua, vô cùng khổ sở và đau lòng, hoặc khi ngươi nghe tin cha mẹ ngươi sắp qua đời, những lúc đó ngươi sẽ làm gì? Vào lúc đó, không thể nào biết được liệu tình cảm của ngươi sẽ chỉ đạo lương tâm ngươi, hay là lẽ thật và lời Đức Chúa Trời đã dạy ngươi sẽ chỉ đạo lương tâm ngươi đưa ra quyết định. Kết quả của những chuyện này rốt cuộc sẽ ra sao đều phụ thuộc vào khuynh hướng thông thường của ngươi trong việc nhìn nhận mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, vào mức độ ngươi bước vào lẽ thật về cách đối đãi với cha mẹ, vào mức độ ngươi nhìn thấu họ, mức độ hiểu biết của ngươi về thực chất bản tính của con người, và mức độ hiểu biết của ngươi về phẩm chất và thực chất nhân tính của cha mẹ ngươi, cũng như những tâm tính bại hoại của họ. Quan trọng nhất, kết quả của những chuyện này phụ thuộc vào cách ngươi đối đãi những mối quan hệ trong gia đình và những quan điểm đúng đắn mà ngươi nên gìn giữ – đây là những lẽ thật khác nhau mà ngươi nên trang bị cho mình trước khi bất kỳ chuyện gì như thế này xảy đến với ngươi. Mọi người khác, thân nhân, bạn bè, cô dì chú bác, ông bà và những người ngoài khác, đều có thể dễ dàng buông bỏ, vì họ không chiếm một vị trí quan trọng trong tình cảm của con người. Những người này thì dễ buông bỏ, nhưng cha mẹ là ngoại lệ. Chỉ có cha mẹ là người thân cận nhất của người ta trên đời. Họ là những người đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng quan trọng trong cuộc đời con người, nên không dễ để buông bỏ họ. Nếu hôm nay các ngươi có được chút hiểu biết về các suy nghĩ khác nhau nảy sinh từ sự hun đúc của gia đình trên ngươi, thì nó có thể giúp ngươi buông bỏ những tình cảm dành cho cha mẹ mình, bởi vì toàn bộ sự hun đúc của gia đình trên ngươi chỉ là những câu nói vô hình, trong khi đó sự hun đúc cụ thể nhất thật ra đến từ cha mẹ ngươi. Một câu nói của cha mẹ, thái độ của họ đối với chuyện gì đó, phương thức và phương tiện họ dùng để xử lý chuyện gì đó, đây đều là những cách chính xác nhất để mô tả việc ngươi bị hun đúc. Một khi ngươi đã có nhiều kiểu phân định và hiểu biết cụ thể khác nhau đối với những suy nghĩ, hành động và lời nói mà cha mẹ hun đúc ngươi, thì ngươi sẽ có sự đánh giá và hiểu biết chính xác về thực chất vai trò, nhân phẩm, nhân sinh quan và phương thức xử sự của cha mẹ ngươi. Khi đã có đánh giá và hiểu biết chính xác này rồi, thì vô hình trung trong tâm hồn ngươi, vai trò của cha mẹ ngươi sẽ sẽ dần dần thay đổi từ tích cực sang tiêu cực. Khi vai trò của cha mẹ ngươi trong thâm tâm ngươi hoàn toàn trở nên tiêu cực, thì ngươi có thể dần buông bỏ những gửi gắm về tình cảm, sự gắn bó về tinh thần, và những dạng tình yêu lớn lao mà họ dành cho ngươi. Đến lúc đó, ngươi sẽ cảm thấy hình ảnh ngươi đã có về cha mẹ trong lòng mình từng một thời cao ngất, như trong bài văn “Tấm lưng của cha” mà các ngươi học trong sách giáo khoa ở trường, hay như trong bài hát thịnh hành nhiều năm trước “Trên đời này chỉ có mẹ là tốt nhất” vốn là nhạc phim Đài Loan và thịnh hành khắp xã hội Hoa ngữ, đây là những cách mà xã hội và thế giới giáo dục con người. Khi ngươi còn chưa nhận ra thực chất hay chân tướng của những chuyện này, ngươi sẽ cảm thấy những phương pháp giáo dục này là tích cực. Dựa trên nền tảng nhân tính sẵn có của ngươi, chúng khiến ngươi công nhận hơn nữa và tin tưởng hơn nữa vào sự vĩ đại trong tình yêu cha mẹ dành cho ngươi, hậu quả là chúng để lại cho ngươi một ấn tượng sâu trong lòng rằng tình yêu của cha mẹ là vô tư, vĩ đại và thần thánh, bất khả xâm phạm. Do đó, bất kể cha mẹ ngươi xấu xa đến đâu, tình yêu của họ vẫn cứ vô tư và vĩ đại, đây là sự thật không thể chối cãi mà không ai có thể phủ nhận và không ai được phép nói xấu về cha mẹ ngươi. Vì thế mà ngươi không muốn phân định hay phơi bày họ, đồng thời ngươi cũng muốn giữ cho họ một vị trí nhất định trong thâm tâm ngươi, bởi vì ngươi tin rằng tình yêu của cha mẹ luôn luôn vượt trên tình yêu của mọi người khác, luôn hoàn hảo, vĩ đại và thần thánh không thể xâm phạm, và đấy là sự thật không ai có thể phủ nhận. Đây là ranh giới cuối cùng cho lương tâm và cách làm người của ngươi. Nếu ai đó nói tình yêu của cha mẹ không vĩ đại, không hoàn hảo thì ngươi sẽ liều chết với họ, làm như thế là không có lý tính. Trước khi con người hiểu lẽ thật, ảnh hưởng của lương tâm sẽ thôi thúc họ bám vào một số suy nghĩ và quan điểm truyền thống, hoặc nảy sinh một số suy nghĩ và quan điểm mới. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ của lẽ thật, những suy nghĩ và quan điểm này thường không có lý tính. Khi hiểu lẽ thật rồi, ngươi có thể đối đãi những chuyện này trong phạm vi lý trí bình thường. Do đó, trong nhân tính của con người bao hàm cả lương tâm và lý trí. Nếu lương tâm không thể vươn tới hoặc đạt đến những điều này, hay là những điều này dưới sự ảnh hưởng của lương tâm thì không có chuẩn mực, không tích cực, thì người ta có thể dùng lý tính để đưa chúng vào chuẩn mực và chỉnh đốn chúng. Vậy người ta đạt đến lý tính như thế nào? Chính là người ta phải hiểu lẽ thật. Khi hiểu lẽ thật rồi, người ta sẽ đối đãi với mọi sự, chọn lựa và phân định mọi sự một cách đúng đắn và chính xác hơn. Từ đó, họ sẽ đạt được lý tính thực sự, đạt đến mức độ lý trí vượt trên lương tâm. Đây là một biểu hiện sau khi người ta đã bước vào thực tế lẽ thật. Có lẽ hiện giờ các ngươi không thật sự hiểu những lời này, nhưng khi đã có trải nghiệm thực sự và hiểu lẽ thật rồi thì các ngươi sẽ hiểu. Câu nói “Cha mẹ luôn đúng” có đến từ lương tâm và lý trí không? Nó không lý tính, mà phát xuất từ tình cảm của người ta dưới tác dụng của lương tâm. Vậy câu nói này có lý tính không? Không, nó không lý tính. Tại sao nó không lý tính? Bởi vì nó phát xuất từ tình cảm của người ta và không phù hợp với lẽ thật. Vậy lúc nào ngươi có thể nhìn nhận và đối đãi với cha mẹ một cách có lý tính? Khi ngươi hiểu được lẽ thật và đã nhìn thấu thực chất, căn nguyên của chuyện này. Khi đã làm được thế rồi, ngươi sẽ không còn đối đãi với cha mẹ dưới tác dụng của lương tâm, tình cảm và cả lương tâm sẽ không còn tác dụng, rồi ngươi sẽ có thể nhìn nhận và đối đãi cha mẹ mình theo lẽ thật, như thế là có lý tính.

Ta đã thông công rõ ràng về vấn đề cách đối đãi với cha mẹ rồi chứ? (Thưa, rồi). Đây là một chuyện quan trọng. Người trong gia đình ai cũng nói “Cha mẹ luôn đúng”, và ngươi không biết liệu câu đó có đúng hay không, nên ngươi cứ tiếp nhận nó đã. Rồi mỗi khi cha mẹ ngươi làm gì đó quá đáng, ngươi suy ngẫm: “Người ta nói ‘Cha mẹ luôn đúng’, nên làm sao mình có thể nói cha mẹ mình không đúng được? Chớ vạch áo cho người xem lưng, đừng kể với ai, cứ chấp nhận vậy thôi”. Ngoài sự hun đúc của câu nói sai lầm “Cha mẹ luôn đúng”, còn có câu nói khác: “chớ vạch áo cho người xem lưng”. Cho nên ngươi nghĩ: “Cha mẹ mình đấy thì trách ai được? Mình không được kể người ngoài về chuyện đáng hổ thẹn này. Mình phải che đậy nó. Làm căng với cha mẹ mình để làm gì chứ?” Những sự hun đúc từ gia đình này cứ luôn hiện hữu trong cuộc sống thường nhật của con người, trong đường đời của họ, và trong quá trình sinh tồn của họ. Trước khi hiểu lẽ thật và đạt được lẽ thật, người ta nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động dựa trên những suy nghĩ và quan điểm khác nhau được gia đình hun đúc này. Họ thường bị những suy nghĩ này chi phối, quấy nhiễu, kìm kẹp, và trói tay trói chân. Họ còn bị những suy nghĩ này dẫn dắt, thường nhìn nhận sai con người và làm việc sai trái, cũng như thường vi phạm lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Thậm chí cả khi đã nghe nhiều lời Đức Chúa Trời, thường xuyên cầu nguyện, đọc lời Đức Chúa Trời và thông công lời Đức Chúa Trời, nhưng vì những quan điểm do gia đình hun đúc đã thâm căn cố đế trong suy nghĩ và thâm tâm họ, nên họ không phân định được những quan điểm này, cũng không có năng lực để chế ngự nó. Kể cả khi đang tiếp nhận sự dạy bảo và cung dưỡng từ lời Đức Chúa Trời, họ vẫn bị những suy nghĩ này chi phối, đồng thời chúng dẫn dắt lời nói hành động và cách sống của họ. Do đó, dưới sự dẫn dắt của những suy nghĩ được gia đình hun đúc trên mình, người ta thường khó lòng tránh khỏi vi phạm lời Đức Chúa Trời và các nguyên tắc lẽ thật. Thế mà họ vẫn nghĩ mình đang thực hành lẽ thật và mưu cầu lẽ thật. Họ chẳng hề hay biết rằng những câu nói khác nhau do gia đình hun đúc trên họ căn bản là không phù hợp với lẽ thật. Nghiêm trọng hơn nữa, những câu nói mà gia đình hun đúc trên người ta dẫn dắt họ theo con đường vi phạm lẽ thật hết lần này đến lần khác mà họ chẳng hề hay biết. Do đó, nếu con người muốn mưu cầu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật, thì trước hết con người phải phân định và nhận ra những sự hun đúc khác nhau đến từ gia đình, rồi nỗ lực loại bỏ những suy nghĩ khác nhau mà gia đình hun đúc trên ngươi. Dĩ nhiên, có thể nói chắc chắn rằng ngươi phải đoạn tuyệt với sự hun đúc của gia đình. Đừng nghĩ vì ngươi đến từ gia đình đó, nên ngươi phải làm thế này hay sống thế kia. Ngươi không có trách nhiệm hay nghĩa vụ kế thừa truyền thống gia đình hay những phương thức và phương pháp làm việc và hành động của họ. Sự sống của ngươi đến từ Đức Chúa Trời. Ngày hôm nay, ngươi đã được Đức Chúa Trời tuyển chọn, mục tiêu ngươi muốn mưu cầu là sự cứu rỗi, nên ngươi không được dùng những suy nghĩ mà gia đình hun đúc trên ngươi để làm nền tảng cho cách ngươi nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động. Thay vào đó, ngươi phải nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động căn cứ trên lời Đức Chúa Trời và các lời dạy khác nhau của Ngài. Chỉ như thế, cuối cùng ngươi mới đạt được sự cứu rỗi. Dĩ nhiên, sự hun đúc của gia đình trên ngươi không chỉ giới hạn trong những câu đã liệt kê ra ở đây. Ta chỉ nói đến một vài câu thôi. Còn có nhiều dạng giáo dục khác nhau trong gia đình nảy sinh từ những gia đình, gia tộc, xã hội, chủng tộc và tôn giáo khác nhau, chúng hun đúc suy nghĩ của con người theo đủ mọi cách. Bất kể những sự hun đúc này đến từ chủng tộc hay văn hóa tôn giáo nào, chỉ cần nó không phù hợp với lẽ thật, không đến từ Đức Chúa Trời mà đến từ con người, thì phải buông bỏ nó đi, và nó là thứ mà người ta nên cự tuyệt. Họ không nên bám giữ nó, càng không nên kế thừa nó. Những thứ này đều là những thứ mà con người nên buông bỏ và loại bỏ. Chỉ có như thế người ta mới thật sự bước đi trên con đường mưu cầu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật.

Những câu nói đến từ hun đúc của gia đình mà chúng ta đã thông công, một mặt chúng mang tính đại diện, mặc khác chúng là những câu nói thường được người ta nhắc đến. Về một số câu nói đặc biệt và không mang tính đại điện, hiện giờ chúng ta sẽ không bàn đến. Các ngươi nghĩ sao về mối thông công về chủ đề gia đình? Các ngươi có được chút ích lợi nào không? (Thưa, có). Có cần thiết thông công về chủ đề này không? (Thưa, cần thiết). Ai cũng có gia đình và bị gia đình hun đúc. Những thứ mà gia đình tiêm nhiễm vào ngươi đều là chất độc và thuốc phiện tinh thần, hại ngươi chịu nhiều đau khổ. Khi cha mẹ tiêm nhiễm những thứ này vào ngươi, lúc đó ngươi cảm thấy rất tuyệt, hệt như dùng thuốc phiện vậy. Ngươi cảm thấy hoàn toàn thoải mái, như thể bước vào thế giới thần tiên. Nhưng sau một thời gian, thuốc tan dần, nên ngươi phải tiếp tục tìm kiếm dạng kích thích này. Dạng thuốc phiện tinh thần này gây ra cho ngươi khổ não và nhiễu loạn triền miên không dứt. Đến hôm nay, ngươi rất khó rũ bỏ nó, và nó không phải là thứ ngươi có thể loại bỏ trong thời gian ngắn. Nếu muốn buông bỏ những suy nghĩ và quan điểm được hun đúc này, thì người ta phải dành thời gian và sinh lực để nhận ra chúng, lột dần từng lớp để nhận ra chúng một cách rõ ràng và nhìn thấu chúng. Rồi mỗi khi có chuyện liên quan xảy ra, họ phải có thể buông bỏ những thứ này, quay lưng lại với nó và không hành động theo những nguyên tắc của các suy nghĩ và quan điểm này, mà thay vào đó, thực hành và hành động theo cách mà Đức Chúa Trời dạy cho con người. Nhưng lời này có vẻ đơn giản thôi, nhưng phải mất 20, 30 năm hay thậm chí cả đời để con người thực hành được nó. Có lẽ ngươi sẽ dành cả đời để đấu tranh với những suy nghĩ và quan điểm nảy sinh từ những câu nói mà gia đình tiêm nhiễm vào ngươi, để tách khỏi chúng và đoạn tuyệt với chúng. Để làm được thế, ngươi phải trả giá bằng tình cảm và sinh lực của mình, đồng thời phải chịu một vài khổ sở về xác thịt. Ngươi cũng phải có lòng khao khát Đức Chúa Trời mãnh liệt, phải có ý chí khao khát và mưu cầu lẽ thật. Chỉ khi có được những điều này, ngươi mới có thể dần đạt được sự biến đổi và dần bước vào thực tế lẽ thật. Đạt được lẽ thật và sự sống khó đến vậy đấy. Khi đã nghe quá nhiều bài giảng, con người hiểu được một vài giáo lý về đức tin nơi Đức Chúa Trời, nhưng không dễ để họ thật sự đạt được hiểu biết về lẽ thật và có thể phân định những sự hun đúc từ gia đình, những suy nghĩ và quan điểm của người ngoại đạo. Kể cả khi ngươi hiểu được lẽ thật sau khi nghe các bài giảng, thì việc bước vào thực tế lẽ thật vẫn không phải là chuyện một sớm một chiều, phải không? (Thưa, phải). Được rồi, buổi thông công hôm nay kết thúc ở đây! Tạm biệt!

Ngày 25 tháng 2 năm 2023

Trước: Cách mưu cầu lẽ thật (12)

Tiếp theo: Cách mưu cầu lẽ thật (14)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ The Responsibilities of Leaders and Workers Về việc mưu cầu lẽ thật I Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con và hát những bài ca mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Tôi đã quay về với Đức Chúa Trời Toàn Năng như thế nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger