Cách mưu cầu lẽ thật (16)

Nội dung thông công mới đây của chúng ta là về chuyện phân định các loại người – phân biệt các thể loại và thuộc tính khác nhau của người ta dựa trên nguồn gốc của họ, rồi phân định thực chất của các loại người khác nhau thông qua các loại biểu hiện của họ trong cuộc sống thực. Học cách phân định các loại người thì có lợi cho cách đối đãi đúng đắn với các loại người khác nhau và cách đối đãi đúng đắn với bản thân hay không? (Thưa, có.) Có phải thông công những chuyện này cũng giải quyết được các loại quan niệm và tưởng tượng trước đây của người ta về người tin Đức Chúa Trời hay không? Chẳng hạn như, trước đây nhiều người luôn đối đãi với hết thảy những ai tin Đức Chúa Trời như anh chị em – chỉ cần ở trong hội thánh và nhiệt tình làm bổn phận, thì bất kể người ta làm bao nhiêu việc ác, có nhân tính xấu thế nào, có tâm tính kiêu ngạo, gian xảo, giả dối ra sao, cũng đều được đối đãi như anh chị em và được giúp đỡ với lòng yêu thương. Dạng người như vậy thì có sự phân định không? (Thưa, không có.) Thông qua mấy năm được chăm tưới và nuôi dưỡng, quan điểm của các ngươi đã chuyển biến nhiều rồi phải không? (Thưa, phải.) Quan điểm chuyển biến rồi, vậy các ngươi đã tương đối có nguyên tắc trong việc đối đãi với các loại người khác nhau rồi phải không? (Thưa, phải.) Quan điểm và thái độ của các ngươi đối với các loại người khác nhau đã khác với trước đây rồi phải không? (Thưa, đã khác trước rồi.) Trước đây, lúc chưa thông công về vấn đề này, thì người ta chưa có sự phân định về các loại người khác nhau, cho rằng chỉ cần là người tin Đức Chúa Trời thì đều là người tốt, đều là người của nhà Đức Chúa Trời, cho dù nhân tính có xấu thì vẫn là đối tượng được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Bây giờ nhìn lại, thì chuyện có phải như vậy không? (Thưa, không phải.) Bây giờ nhìn lại thì thấy chuyện không phải là vậy nữa. Vậy bây giờ các ngươi thấy người tốt đông hơn hay người xấu đông hơn? (Thưa, con thấy người xấu đông hơn. Trước đây, con thấy rất nhiều người đều rất tốt, nhưng thông qua những lời thông công của Đức Chúa Trời và liên hệ với biểu hiện của các loại người, thì con cảm thấy người xấu đông hơn.) Trước đây, cùng lắm là các ngươi có chút phân định về những kẻ chẳng tin, phần tử đầu cơ, tà linh và ô quỷ rành rành, cùng những người có thể làm ra việc gây gián đoạn và nhiễu loạn rành rành, biết họ không phải là người tốt, không phải là anh chị em. Bây giờ, thông qua mối thông công như vậy, các ngươi không những có sự phân định về những người có biểu hiện rành rành đó, mà về cơ bản còn biết phân định tất cả mọi người dựa trên sự bộc lộ và biểu hiện của họ, phải vậy không? (Thưa, phải.) Vậy sau mối thông công như vậy, giờ tiếp xúc lại với người ta, thì có phải cảm giác của các ngươi đã khác với trước đây không? (Thưa, hơi khác. Bây giờ, khi tiếp xúc với người khác thì con biết chú trọng quan sát xem khi gặp chuyện thì họ bộc lộ những gì và bày tỏ quan điểm nào, từ đó đánh giá xem người này rốt cuộc là do con người đầu thai, động vật đầu thai, hay là do ma quỷ đầu thai. Con biết chú trọng phân định người khác từ thực chất và thuộc tính của họ.) Như vậy là ngươi học được cách phân định rồi. Vậy ngươi biết phân định bản thân không? (Thưa, cũng biết phân định phần nào.) Tóm lại, thông công về chủ đề này thì có ích cho việc phân định con người. Nó có thể giúp ngươi phân định hành vi và quan điểm của các loại người, nhìn thấu thực chất của các loại người. Như vậy thì ngươi sẽ đối đãi với các loại người một cách có nguyên tắc, khi gặp một vài con người, sự việc và sự vật đặc biệt thì sẽ không đối đãi theo quan niệm và tưởng tượng, còn có thể nắm vững một vài nguyên tắc cơ bản để xử lý vấn đề, từ đó bớt làm việc ngu muội đi. Chẳng hạn như, trước đây mà thấy một vài người có hành vi bất thường, hoặc tư tưởng và quan điểm lệch lạc, thì ngươi sẽ cảm thấy dạng người này có tố chất kém và không có năng lực lĩnh hội, hoặc ngươi cho rằng những người này nghe giảng đạo ít, nền tảng quá nông cạn, do đó ngươi nên dốc thêm chút công sức mà chăm tưới và giúp đỡ thêm cho họ. Bây giờ, thông qua mối thông công về hai loại người do động vật đầu thai và ma quỷ đầu thai, ngươi đã có sự phân định rồi, nên ngươi sẽ từ bỏ những cách làm ngu muội trước đây, không còn làm những việc vô ích nữa. Vậy các ngươi có thể đối đãi với người ta theo nguyên tắc lẽ thật không? (Thưa, có thể làm được phần nào rồi.) Vậy khi thực hành có bị sai lệch không? (Thưa, nếu nhìn nhận không chính xác về thực chất của người đó, thì có khả năng con sẽ thực hành sai lệch.) Vậy trong tình huống nào thì ngươi sẽ thực hành sai lệch? Nếu hành vi bề ngoài của họ rất phù hợp với quan niệm của đa số mọi người – có thể trả giá và vứt bỏ, thường xuyên nói ra một vài lời đúng đắn, còn có thể thường xuyên bố thí và giúp đỡ cho người khác – xét từ góc độ nhân tính thì người này được xem là lương thiện, nhưng đồng thời, họ đơn giản là không bình thường, thường xuyên có một vài hành vi cực đoan, một vài biểu hiện siêu nhiên, vậy ngươi có biết phân định dạng người này không? Có biết cách đối đãi với họ không? (Thưa, thông qua mối thông công lần trước của Đức Chúa Trời, con mới biết dạng người này thuộc số những người do ma quỷ đầu thai.) Ngươi có thể xác định tính chất và nhìn thấu thực chất của họ là của ma quỷ, nhưng thông qua biểu hiện của họ trong cuộc sống thường nhật và trạng thái hiện thời của họ, thì ngươi có thể xác định được cách thích hợp để đối đãi với họ không? Chuyện này liên quan đến nguyên tắc đối đãi với người khác. Vậy đối đãi với loại người này như thế nào thì thích hợp? Nếu trạng thái sinh hoạt của họ về cơ bản là bình thường, không gây ra sự quấy nhiễu nào đối với công tác của hội thánh, không gây ra sự quấy rầy nào cho người khác, thì hãy đối đãi với họ một cách đúng đắn – họ có thể phục vụ thì để họ phục vụ, nếu họ không thể phục vụ, còn gây ra sự quấy nhiễu cho người khác, và đa số mọi người đã nhìn thấu được những biểu hiện cùng sự bộc lộ của họ, đều xác định được thực chất của họ là của ma quỷ, lúc đó xử lý họ bằng cách thanh trừ cũng chưa muộn. Đây có phải là nguyên tắc không? (Thưa, phải.) Đây chính là nguyên tắc, ngươi phải rõ chuyện này trong lòng. Bất kể sau đó xử lý thế nào, thì thời điểm xử lý phải thích hợp. Nếu ngươi nhìn thấu họ rồi, nhưng đa số mọi người còn chưa tiếp xúc với họ, càng không nhìn thấu họ, mà ngươi cứ xác định tính chất và xử lý thẳng khi còn chưa thông công lẽ thật và giải thích về cách phân định họ, như vậy là quá hấp tấp rồi. Ngươi nhìn thấu thực chất của họ là gì rồi, thì sẽ bắt đầu thấy phản cảm với họ, sau đó sẽ tìm cơ hội tỉa sửa họ, hoặc khi nói chuyện và hành động thì luôn nhắm vào họ, khi thông công lẽ thật cũng nhắm vào họ, làm vậy có tốt không? (Thưa, không tốt.) Tại sao lại không tốt? (Thưa, bởi vì đối đãi với họ kiểu đó thì đa số mọi người chẳng biết chuyện là thế nào, có khi còn nảy sinh hiểu lầm. Phải dùng sự thật mà tỏ lộ và làm bại lộ thực chất của người này, khi mọi người đã có sự phân định về họ rồi, thì tiếp tục vạch trần và mổ xẻ họ, hoặc là tỉa sửa họ, làm vậy mới thích hợp, mọi người cũng có thể hiểu được. Nếu người này không phải là người mưu cầu lẽ thật, nhưng cũng không quấy nhiễu, lại còn có thể phục vụ một chút, vậy thì cứ để họ phục vụ. Nếu biết rõ họ không phải là người mưu cầu lẽ thật, mà còn luôn tỉa sửa họ, thì sẽ ảnh hưởng đến việc làm bổn phận của họ.) Làm như vậy là không có nguyên tắc. Đối đãi với loại người do ma quỷ đầu thai và loại người do động vật đầu thai, thì ngay cả khi ngươi thông qua thời gian dài tiếp xúc và quan sát mà nhìn thấu được thực chất của họ rồi, thì cũng nên dùng chút sự khôn ngoan và dựa vào nguyên tắc mà đối đãi với họ. Dùng sự khôn ngoan cũng được, nhưng không được vi phạm nguyên tắc. Trong việc đối đãi với người khác theo nguyên tắc có rất nhiều chi tiết, một điều trong số đó là ngay cả khi ngươi nhìn thấu họ là người chán ghét lẽ thật và có thực chất của ma quỷ rồi, thì ngươi cũng không được luôn bới móc khuyết điểm và bắt lỗi để tỉa sửa họ, hoặc hở ra là vạch trần họ. Họ còn chưa biết chuyện là thế nào, chẳng rõ đầu cua tai nheo gì, chẳng biết vì sao ngươi tỉa sửa họ và nhắm vào họ. Ngươi làm như thế thì sẽ ảnh hưởng đến việc làm bổn phận của họ. Ngay cả khi trong mắt người khác thì những gì ngươi nói và làm đều không sai, nhưng ngươi làm như vậy chẳng những không đem lại kết quả gì, mà còn dẫn đến hậu quả xấu, như vậy cũng không phù hợp với nguyên tắc lẽ thật. Do đó, bất kể đối đãi với loại người nào cũng phải đối đãi theo nguyên tắc, công tư phân minh, đừng hành động theo cảm giác cá nhân. Dùng chút sự khôn ngoan thì được, nhưng phải dựa vào nguyên tắc. Hành động như vậy thì một mặt có trật tự, có khuôn phép, không dễ gây gián đoạn, mặt khác, cũng chứng tỏ ngươi có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, không làm xằng làm bậy, không tùy ý làm càn theo ý mình. Đối đãi với loại người nào cũng phải có nguyên tắc. Bất kể họ thuộc ma quỷ, động vật hay nhân loại, ngươi đều phải dựa vào nguyên tắc mà đối đãi với họ. Ngươi phải biết phân định mấy loại người này và nắm vững nguyên tắc để đối đãi. Ngươi không nên lĩnh hội lệch lạc trong chuyện này, phải không? (Thưa, phải.) Đừng làm việc gì gây gián đoạn. Nếu ngươi làm ra việc gây gián đoạn và nhiễu loạn, thì ngươi quá ngu xuẩn rồi, đấy không phải là việc mà con người nên làm. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu rồi.)

Trước đây, chúng ta đã thông công về những biểu hiện về thực chất của loại người do động vật đầu thai và loại người do ma quỷ đầu thai, hai loại người có thuộc tính khác nhau. Thông công như vậy làm cho người ta thấy được rằng mặc dù mọi loại người đều có bề ngoài của con người, nhưng thông qua thái độ khác nhau của họ đối với lẽ thật thì có thể phân định được thực chất và thuộc tính khác nhau của họ. Bất kể bề ngoài của một người như thế nào – có thể họ có những nét rất đoan chính, trông rất tao nhã và lương thiện, hoặc trông rất có văn hóa, có sự tu dưỡng, có thân phận và phong độ, thậm chí còn có vẻ có tôn nghiêm và rất vĩ đại, chẳng phải người thường – nhưng những điều này không phải là căn cứ để xác định thực chất họ. Bất kể tướng mạo họ thế nào, cao hay thấp, béo hay gầy, mang sắc da nào, cũng bất kể cuộc sống họ giàu sang hay bần cùng, thì những điều này đều không cho thấy được thực chất của họ rốt cuộc là gì. Khi xác định thực chất của một người thì không thể dựa vào tiêu chuẩn của truyền thống văn hóa trong nhân loại hoặc tiêu chuẩn của các câu nói về đức hạnh, cũng không thể dựa vào những phương châm hoặc danh ngôn của danh nhân được tổng kết qua dòng lịch sử, hay những tuyên bố mang tính mê hoặc người của đảng cầm quyền. Vậy thì phải dựa vào điều gì? Phải dựa vào lời Đức Chúa Trời, dựa vào lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ và yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người, mà đánh giá và phán đoán về thực chất của các loại người. Tuyệt đối không được dựa vào bề ngoài, ân tứ hay tri thức đã nắm vững của người ta, đương nhiên cũng không thể dựa vào địa vị hoặc vai trò của người ta trong xã hội và giữa mọi người. Dựa vào những điều này mà đánh giá người ta thì đều sai lầm. Phải dựa vào lời Đức Chúa Trời, chỉ có lời Đức Chúa Trời mới là lẽ thật. Một mặt, phải dựa vào lẽ thật, mặt khác, phải dựa vào thái độ của người ta với lẽ thật và chuyện họ có thể lĩnh hội được lẽ thật hay không. Dựa vào lẽ thật mà phân định thực chất của một con người và phán đoán thuộc tính của một con người thì không thể nào chính xác hơn được nữa. Chắc chắn sẽ không có sai lệch.

Sau khi thông công về biểu hiện của hai loại người do động vật đầu thai và do ma quỷ đầu thai, tiếp theo, chúng ta sẽ thông công về biểu hiện của loại người do con người đích thực đầu thai. Giờ chúng ta đã đến phần quan trọng nhất rồi. Những người do động vật đầu thai thì có một vài biểu hiện và đặc trưng thể hiện điều đó, những người do ma quỷ đầu thai cũng vậy. Thế thì có phải những người do con người đầu thai cũng có những biểu hiện và đặc trưng tương ứng không? (Thưa, phải.) Đây là điều chắc chắn. Trước đây, chúng ta đã nói qua về những biểu hiện và đặc trưng cơ bản của nhân tính mà con người đích thực có sẵn. Hôm nay, chúng ta sẽ thông công về các biểu hiện và đặc trưng cụ thể của loại người do con người đầu thai. Trước khi chính thức thông công, hãy nghĩ xem, vì thuộc tính của loại người này là con người, vậy đặc trưng cơ bản của con người nên là gì? Hoặc ngươi hãy thông qua bao nhiêu năm tiếp xúc và qua lại với con người, mà nói xem các ngươi quan sát được nơi dạng người có thuộc tính của con người có những đặc trưng gì? Có những biểu hiện gì? Các ngươi nói trước đi. (Thưa, loại người có thuộc tính của con người thì có lương tâm và lý trí. Chẳng hạn như họ làm việc sai trái nào đó, làm việc gì đó có lỗi với người khác, hoặc làm việc gì đó trái với lẽ thật, thì lương tâm họ sẽ thấy bị khiển trách.) (Thưa, loại người này ít nhất có thể lĩnh hội được lẽ thật, yêu thích những điều tích cực và ghê tởm những điều tiêu cực. Lương tâm và lý trí của họ kiện toàn.) Có thể lĩnh hội lẽ thật là tiêu chuẩn tương đối cao. Lúc chưa tiếp xúc với lẽ thật thì loại người này có những đặc trưng nhân tính nào? Hành động và lời nói, cùng cách đối nhân xử thế của họ có những đặc trưng nào? Có những biểu hiện và sự bộc lộ nào của nhân tính bình thường? Nghĩa là, lúc tiếp xúc và qua lại với người khác thì họ có những biểu hiện nào có thể khiến người khác cảm thấy họ là nhân vật chính diện? (Thưa, họ tương đối có lý tính, lương thiện, không làm những việc lừa người hại người, cũng không có lòng hại người.) Những điều các ngươi nghĩ ra được chính là những biểu hiện tích cực tương đối phù hợp nhân tính, cũng chính là những biểu hiện của người tốt trong tâm trí người ta. Có lòng lương thiện, không lừa người hại người, tương đối giữ chữ tín, có tinh thần trách nhiệm, có thể chung sống hòa hợp với người khác, khao khát những điều tích cực, ghê tởm những điều tiêu cực – đây là một vài biểu hiện tích cực của nhân tính. Còn gì nữa? (Thưa, còn có hiểu biết thuộc linh, nghe thì có thể hiểu lời Đức Chúa Trời.) Có hiểu biết thuộc linh thì không liên quan đến nhân tính mà chúng ta đang nói. Chúng ta chủ yếu đang nói về các loại quan điểm xử sự của người có nhân tính, cả biểu hiện về thực chất của họ trong việc làm người và đối đãi với người khác, nguyên tắc và ranh giới tối thiểu của họ trong việc làm người và hành động, v.v.. Những biểu hiện tích cực của nhân tính mà người ta có thể nhìn thấy và hiểu rõ thì không nhiều. Có vẻ trong nhân loại này, người hiểu cách làm người thực sự quá ít. Chẳng trách quá nhiều người đều nói mình làm người thất bại rồi. Ngươi xem, khi các nhân vật chính diện trên phim ảnh và truyền hình bộc lộ quan điểm nào đó, có biểu hiện và thái độ sao đó trong một chuyện nào đó, thì diễn viên chẳng biết cách diễn, chẳng biết cách thể hiện, nhận thức của họ về phương diện này chỉ là con số không. Nếu để họ diễn vai lưu manh, côn đồ, ông trùm xã hội đen, kỹ nữ, phụ nữ phóng đãng, hoặc danh nhân, vĩ nhân, thì họ diễn tốt lắm, từng cử chỉ, từng lời nói việc làm, thậm chí là một ánh mắt, đều được họ diễn tròn vai và cụ thể biết bao. Thậm chí họ diễn vai phản diện rồi, thì có những khán giả nhận lầm họ là người xấu trong phim đó, khi gặp thì muốn đánh họ, thậm chí có người còn nhổ nước bọt vào họ. Ngươi xem, họ diễn tròn vai đến vậy, thực sự làm cho nhân vật đó sống động. Còn họ diễn vai người tốt thì sao? Họ có thể khiến người ta xem màn diễn của mình mà được truyền cảm hứng và biết cách làm người có nhân tính không? Thực sự chẳng có dạng diễn viên này. Về cách làm người có nhân tính thì nhân loại mù tịt. Không những biên kịch và đạo diễn mù tịt, mà khán giả cũng mù tịt – chẳng ai hiểu có nhân tính là gì. Cho nên các bộ phim điện ảnh và truyền hình mới trống rỗng như vậy. Chẳng hạn như, khi diễn viên vào vai đảng viên Cộng sản đang nhắm mắt trước khi chết, thì khán giả nói rằng: “Chắc chắn chưa chết đâu, còn chưa nộp đảng phí mà”. Quả nhiên, chưa đầy một giây sau, người đó mở mắt ra, run run lấy ra vài xu trong túi, nói rằng: “Đây là đảng phí của tôi, tôi không thể mắc nợ Đảng. Mong Đảng yên lòng, tôi vẫn sẽ kiên định với Đảng, đến chết cũng không thay đổi!”, sau đó mới chịu qua đời. Đây là một người có nhân tính được mô tả trên các bộ phim điện ảnh và truyền hình. Trong mắt khán giả thực ra nó hoàn toàn trống rỗng. Làm gì có dạng người này trong đời thực, người ta cũng khó mà làm được như vậy. Do đó, nhân loại căn bản không hiểu nhân tính đích thực là gì, cũng rất khó xác định được tiêu chuẩn cho nhân tính đích thực. Họ không xác định tiêu chuẩn quá cao, quá rỗng tuếch, thì cũng mù tịt và xác định bừa. Thực ra, nhân tính mà con người đích thực có rất đơn giản. Đơn giản đến mức nào? Đến mức trong tầm tay và có thể với tới được. Trong tầm tay nghĩa là gì? Nghĩa là rất thực tế, rất chân thực, rất khách quan, chẳng có chút gì là trống rỗng cả. Bởi vì nó rất khách quan, rất thực tế, cho nên người ta cảm thấy nó rất thông thường, chẳng đáng nhắc đến chút nào, lại càng cảm thấy những biểu hiện này chỉ là những biểu hiện mà nhân loại hẳn phải có. Nhân loại này đề xướng những thứ cao quý, vĩ đại và đẳng cấp. Rất nhiều người chẳng những không có những biểu hiện của nhân tính đích thực, mà ngược lại còn khinh thường những biểu hiện này vì chúng quá thực tế, thông thường và bình thường, thay vào đó, họ mưu cầu và tôn sùng tri thức. Cứ như vậy, trong xã hội hình thành một trào lưu tà ác, khinh thường và xem thường những biểu hiện của con người đích thực. Bản thân người thực sự có nhân tính cũng không cảm thấy làm người như vậy thì mình chính là con người đích thực hoặc người có nhân tính. Ngược lại, họ còn mưu cầu làm cái gọi là người cao quý và không tầm thường mà trào lưu tà ác của xã hội đề xướng. Như vậy là phủ định và che đậy thực chất nhân tính có nơi một bộ phận người có nhân tính. “Che đậy” nghĩa là gì? Nghĩa là chẳng có ai cho rằng ngươi là người có nhân tính. Bất kể ngươi làm việc gì thì người khác cũng bài xích ngươi, xem thường ngươi và ở giữa mọi người thì ngươi chẳng có đất dụng võ, chẳng có chỗ lên tiếng, cũng chẳng có cơ hội phát huy sở trường của mình. “Phủ định” nghĩa là nhân tính bình thường của ngươi căn bản chẳng đáng được nhắc đến chút nào giữa nhân loại bại hoại, người ta đâu đề xướng chuyện có nhân tính. Họ đề xướng điều gì? Họ đề xướng phải biết góp vui lấy lệ, thuận lợi suôn sẻ, nịnh hót bợ đỡ, nói dối và lừa gạt, có thể nói ra được những lời sến súa và trái lòng mình đến bất kỳ mức độ nào. Ngươi nói thật thì sẽ không thuận lợi trong xã hội này, nhân tính của ngươi có tốt đến đâu thì xã hội này cũng không đề xướng, cũng đều phủ nhận. Ngươi nói chút lời tích cực, chính nghĩa, công bằng hoặc có lương tâm, ngươi đứng đúng vị trí của mình mà nói ra một vài lời có lý tính, thì họ sẽ bài xích ngươi, phủ nhận ngươi, và hạ thấp ngươi. Thậm chí còn có người giễu cợt ngươi, chế nhạo ngươi và sỉ nhục ngươi, sau đó tập hợp hết mọi thế lực và lực lượng tà ác để công kích ngươi và tẩy chay ngươi, cuối cùng khiến ngươi xấu hổ không dám ló mặt ra, khiến ngươi phủ nhận bản thân. Ngươi sẽ nghĩ: “Mình không ổn rồi, mình không thích ứng được với trào lưu xã hội này, cũng không thích ứng được với nhóm người này. Mình chẳng biết âm mưu, chẳng biết dùng quỷ kế và thủ đoạn. Cho nên ở trong nhóm người này thì mình khó mà sống sót”. Ngươi trở nên rất tự ti, cảm thấy mình không thể hòa nhập với nhóm người này. Thực ra, ngươi không thể hòa nhập với triết lý xử thế của họ, phương thức và thủ đoạn xử sự của họ, cùng đường lối sinh tồn của họ. Ngươi bị trào lưu tà ác và nhóm người tà ác này phủ nhận rồi, thì ngươi sẽ phủ nhận nhân tính của mình, sau đó nghĩ đủ mọi cách để thích ứng với họ, đi theo họ, hòa nhập vào xã hội này, hòa nhập với nhóm người tà ác này, và hòa nhập vào trào lưu tà ác này. Ngươi học cách người ta vận dụng thủ đoạn, vận dụng âm mưu và quỷ kế, cũng học cách người ta nói năng nịnh hót bợ đỡ, nói năng sến súa và trái lòng. Nhưng bất kể ngươi học kiểu gì, bất kể ngươi dốc công sức đến đâu, chung quy lại, ngươi cảm thấy đấy không phải là lời ngươi muốn nói, cũng không phải là việc ngươi muốn làm. Mỗi một lời ngươi nói đều trái lòng quá đỗi, mỗi một việc ngươi làm đều khiến lương tâm ngươi bị khiển trách, ngươi cảm thấy đây không phải là điều ngươi nên nói, cũng không phải là việc ngươi nên làm. Mỗi ngày ngươi mang mặt nạ như vậy mà sống. Mặc dù bề ngoài có vẻ là về mặt hành vi, lời nói, hoặc một vài tư tưởng và quan điểm, ngươi đã hòa nhập vào trào lưu tà ác này và nhân loại bại hoại này rồi, nhưng trong sâu thẳm nội tâm, ngươi lại đau khổ, bị đè nén và căm phẫn. Sau khi thể nghiệm dạng cuộc sống như vậy rồi, ngươi sẽ khao khát được đối đãi công bằng và chính đáng, khao khát những điều tích cực, và khao khát sự sáng. Vậy dạng người này rốt cuộc có những đặc trưng nhân tính nào, mà có thể khiến họ có dạng cảm nhận, dạng trải nghiệm và thể nghiệm như vậy khi ở giữa mọi người và ở trong trào lưu tà ác này? Thực ra chuyện này rất đơn giản. Chính là khi một người có thực chất nhân tính của lương tâm và lý trí, thì sẽ có dạng trải nghiệm và thể nghiệm như vậy lúc sống giữa mọi người.

Lương tâm và lý trí là hai điều cơ bản nhất mà nhân tính phải có. Mặc dù hai điều này đã được nói mãi đến nhàm, nhưng chúng lại vô cùng quan trọng với con người, cũng là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá xem một người nào đó có thuộc tính của con người hay không. Cụ thể thì lương tâm nói đến điều gì? Trước đây, Ta từng nói rằng lương tâm là một dạng chức năng nảy sinh từ trong tâm hồn của con người, đặt ra yêu cầu cho con người, và chủ yếu được thể hiện trong những nguyên tắc làm người và ranh giới tối thiểu trong việc làm người. Nói một cách cụ thể, tín điều làm người, nguyên tắc làm người và xử thế, cùng sự bộc lộ nhân tính của một người có thể chứng tỏ người đó có lương tâm hay không. Vừa rồi, khi Ta hỏi cụ thể thì lương tâm nói đến điều gì, thì các ngươi không trả lời được. Các ngươi chỉ toàn chú trọng những lẽ thật mà các ngươi cho là cao thâm. Còn về loại lẽ thật này thì các ngươi cảm thấy quá nhỏ bé, quá thông thường, quá mờ nhạt, chẳng đáng để nhắc đến, cho nên các ngươi căn bản không để ý và không xem ra gì. Một người có lương tâm thì nghĩa là trong nhân tính của người đó có hai đặc trưng này: một là chính trực, hai là lương thiện. Nhìn bề ngoài thì có khả năng ngươi không thể thấy ra được một người nào đó có lương thiện hay không, nhưng nếu người đó có tâm địa lương thiện, thì ngươi giao tiếp với họ một lần là biết. Để đánh giá một người có chính trực hay không thì dựa vào điều gì? Dựa vào chuyện nguyên tắc làm người và xử thế của họ là gì. Nếu họ làm người và xử thế một cách gian trá, xảo quyệt, nham hiểm, lõi đời, bụng dạ thâm sâu, thì họ tuyệt đối không phải là người chính trực. Nếu họ làm người và xử thế một cách đơn giản, rất trực tiếp, rất thẳng thắn, khi nói chuyện với người khác thì rất thẳng, qua lại với người khác thì không bày trò lươn lẹo hoặc giả dối, nói năng và hành động thì có sao nói vậy – đen thì nói là đen, trắng thì nói là trắng, rất rạch ròi – có thể tuân giữ những điều tích cực, không thỏa hiệp với thế lực tà ác, vậy thì người này rất chính trực. Nếu một người vừa chính trực vừa lương thiện, thì người đó có lương tâm, có đặc trưng tối thiểu của nhân tính. Một đặc trưng nữa của nhân tính là lý trí. Lý trí cũng là một thuật ngữ, một chủ đề mà chúng ta thường nói đến, nhưng chưa bao giờ có ai định nghĩa rõ ràng về lý trí. Trong lý trí bao gồm những nội dung nào, có biểu hiện như thế nào mới là biểu hiện có lý trí – các ngươi rõ ràng về những chuyện này không? Đa số mọi người vẫn chưa rõ ràng lắm, vẫn còn tương đối mơ hồ về khái niệm này. Vậy có lý trí nghĩa là gì? Nghĩa là người ta có thể đứng ở lập trường đúng đắn mà nói lời nên nói và làm việc nên làm, như vậy chính là có lý trí. Nếu ngươi là người có nhân tính, thì ngươi nói năng và hành động sẽ có chừng mực, sẽ biết trong hoàn cảnh hiện có và dựa theo thân phận, địa vị của mình thì nên nói những lời nào, nên làm những việc gì, nên đứng ở lập trường nào để nói những lời đó, và nên dùng cách nói như thế nào để diễn đạt một chuyện nào đó. Trong lòng ngươi sẽ có tiêu chuẩn và sự tiết chế về những chuyện này. Nghĩa là lý trí của ngươi có thể đưa ngôn ngữ và hành vi của ngươi vào khuôn phép, làm cho ngôn ngữ và hành vi của ngươi trở nên thích hợp, để cho người khác nhìn vào bề ngoài thì thấy ngươi có lý tính, có chừng mực, nói năng và hành động đúng mực và có thể đem lại sự gây dựng cho người khác. Bất kể xét về tố chất, trình độ văn hóa hoặc tuổi tác thì những lời ngươi nói và những việc ngươi làm có hoàn toàn thích hợp hay không, nhưng ít nhất trong lòng ngươi có ranh giới tối thiểu, có một tiêu chuẩn để kiểm soát ngươi, cho phép ngươi có thể nói năng và hành động trong trạng thái có lý tính – như vậy chính là có lý trí. Người có lý trí thì bất kể đối diện với bất kỳ người nào, dù là người nghèo hay người giàu, người có địa vị hay không có địa vị, trong bất kỳ tình huống nào, lời nói và hành động của họ đều không bị kìm kẹp bởi tâm trạng tốt xấu, họ cũng không cân nhắc xem chuyện đó có lợi cho mình hay không, trong lòng họ luôn có một sự ràng buộc, có một tiêu chuẩn hoặc ranh giới cuối cùng có thể đưa họ vào khuôn phép. Họ sẽ không cố ý nói lý lẽ méo mó, cũng sẽ không làm càn làm bậy, ngay cả khi có lúc họ nổi nóng trong lòng, lửa giận bừng bừng, nói chuyện thì dùng từ không thích hợp cho lắm, nhưng những lời họ nói không phải là lý lẽ méo mó và luận điệu sai lầm, mà là những lời có thể nói ra và đứng vững được. “Đứng vững được” nghĩa là gì? Nghĩa là cho dù những điều họ nói không hẳn phù hợp lẽ thật, nhưng trong mắt đa số mọi người thì cái “lý” của họ có thể đứng vững được và được công nhận là điều đúng đắn, không bị ai phản đối. Dạng người như vậy chính là người có lý trí.

Hai điều, lương tâm và lý trí, đều đã được giải thích rõ ràng. Biểu hiện có nhân tính chủ yếu là hai điều này, một là có lương tâm, hai là có lý trí. Các ngươi nói xem, hai điều này có sáo rỗng không? (Thưa, không.) Có phải hai điều này rất thực không? (Thưa, phải.) Chúng rất thực, chẳng sáo rỗng. Vậy tại sao nhân loại không đề xướng chúng? Bởi vì người có lương tâm thì có sự chính trực và lương thiện, nhưng ở trong trào lưu tà ác và nhân loại bại hoại tà ác thì người chính trực và lương thiện lại khiến người ta thấy phản cảm, bị xem là vô cùng nhỏ bé, ai cũng xem thường. Nếu ngươi là người chính trực và lương thiện, thì họ còn chất vấn ngươi: “Anh chính trực và lương thiện như vậy thì có ích gì? Anh có tri thức sao? Anh có địa vị xã hội sao? Anh có danh vọng, có thế lực trong xã hội sao?”. Ngươi trả lời: “Tôi chẳng có danh vọng hay thế lực gì, tôi chỉ là một người khá chính trực và lương thiện thôi”. Người ta sẽ đều cười nhạo ngươi và khinh bỉ ngươi. Trong mắt họ, chuyện có lương tâm, chính trực và lương thiện chẳng phải là vốn liếng – nếu không có tri thức, không có địa vị, danh vọng và thế lực thì chẳng được chào đón trong xã hội. Họ nói: “Lương tâm và lý trí của anh đáng giá bao nhiêu? Anh có thể làm được gì? Anh có thể bày âm mưu, quỷ kế, có thể lừa người được không? Anh có thể lung lạc và mua chuộc lòng người được không?”. Những việc đó, ngươi đều không làm được. Có lương tâm, có hai phương diện chính trực và lương thiện trong nhân tính, thì ngươi sẽ không có hứng thú với những chuyện trong trào lưu tà ác của xã hội, ngươi sẽ không chạy theo những trào lưu này, cho nên ngươi sẽ không được chào đón, sẽ bị người khác tẩy chay. Tại sao họ muốn tẩy chay ngươi? Bởi vì đa số mọi người đều tôn sùng trào lưu tà ác, trào lưu tà ác đã trở thành trào lưu chính của xã hội – nếu chuyện gì ngươi cũng hành động theo lương tâm, việc nào ra việc đó, thì người ta sẽ xem ngươi là thứ lạc loài và sẽ bài xích ngươi. Nếu ở trong hội thánh mà ngươi có thể dựa theo lương tâm và tuân giữ nguyên tắc lẽ thật trong lời nói, việc làm, dám vạch trần và mổ xẻ những kẻ ác, thì những người thuộc về ma quỷ sẽ không thể đứng vững được, sẽ bị tỏ lộ, âm mưu, quỷ kế và bản tính Sa-tan thù hận lẽ thật của họ sẽ hoàn toàn bị bại lộ. Do đó, những người thuộc về ma quỷ này đặc biệt sợ trong hội thánh có những người tuân giữ nguyên tắc lẽ thật. Họ thấy ai hiểu lẽ thật thì sẽ ra tay bài xích và áp chế. Họ rất sợ những người hiểu lẽ thật đứng lên vạch trần họ, tỏ lộ và đào thải họ. Họ làm như vậy là vì bị bản tính Sa-tan chi phối. Ở trong nhà Đức Chúa Trời thì những người thuộc về ma quỷ không đứng vững được, chính là vì ở trong nhà Đức Chúa Trời thì lẽ thật nắm quyền và Đức Chúa Trời nắm quyền. Nhưng ở thế gian ngoại đạo thì không như vậy, bởi vì thuyết vô thần và trào lưu tà ác chiếm thế thượng phong trong thế gian này, cho nên người có nhân tính mà ở trong trào lưu tà ác và trong nhân loại bại hoại tà ác thì không đứng vững được. Còn những người có thủ đoạn tàn độc, nham hiểm, xảo quyệt lại thường là thủ lĩnh, người nổi bật nhất, người được gọi là tinh anh giữa mọi người. Người có nhân tính thì bất kể có tố chất, ân tứ và sở trường thế nào, cũng đều là đối tượng bị bài xích, chẳng có cơ hội vươn lên, chỉ cần họ nói một câu công bằng, việc nào ra việc đó, thì sẽ bị những kẻ ác và ma quỷ trừng trị. Cho nên, nhân loại tà ác thuộc về ma quỷ này đều bất chấp lương tâm, chỉ người có nhân tính mới có lương tâm. Về phương diện lý trí, biểu hiện có lý trí chính là bất kể gặp phải chuyện gì, người ta cũng có thể đối đãi một cách lý tính, có thể nói năng và hành động một cách công bằng, không dựa theo tình cảm, danh vọng hoặc địa vị, không cưỡng ép hay kìm kẹp người khác. Như vậy nghĩa là đối với một chuyện nào đó, họ có thể đối đãi một cách có lý tính, chuyện đó đúng thì là đúng, sai thì là sai, phải thì là phải, trái thì là trái. Họ đánh giá mọi chuyện một cách công bằng, làm mọi chuyện một cách công bằng và theo nguyên tắc, không vượt quá ranh giới đạo đức của nhân tính, như vậy chính là biểu hiện của người có lý trí. Lương tâm và lý trí, ở trong xã hội thì hai điều này chẳng khả thi, nhất là ở trong các quốc gia tà ác và trào lưu tà ác thì càng không khả thi và không đứng vững được. Nhưng lương tâm và lý trí là hai đặc trưng lớn mà nhân tính bình thường có, cũng là đặc trưng mà nhân loại phải có. Có hai đặc trưng này thì ngươi mới là con người đích thực. Nếu ngươi là người có lương tâm và nhân tính, thì một mặt, ngươi đặc biệt có nguyên tắc trong việc làm người, và ngươi đối đãi với người khác một cách tương đối công bằng. Bất kể mối quan hệ giữa ngươi với người khác như thế nào, bất kể họ có làm tổn thương ngươi không, thì ngươi đều có thể đối đãi với họ một cách đúng đắn và đánh giá họ một cách khách quan, như vậy là chính trực, một đặc trưng của nhân tính. Ngoài ra, nếu ngươi có một đặc trưng khác của nhân tính là lương thiện, thì lúc đối đãi với người khác hoặc lúc hành động, ngươi sẽ có ranh giới nhất định, và ranh giới này có thể ràng buộc ngươi không nói năng hay hành động trái lương tâm. Chẳng hạn như, kẻ ác toàn nói lời méo mó, toàn tuôn ra lý lẽ méo mó, đổi trắng thay đen và bóp méo sự thật, thấy ai gây bất lợi cho mình, từng làm tổn thương mình, hoặc từng nhắm vào mình, thì trong lòng sẽ ghi hận, sẽ nghĩ đủ mọi cách để tìm cơ hội trừng trị và trả đũa người đó. Nhưng người có nhân tính, vì có sự chính trực và lương thiện trong lương tâm, nên cho dù có người hại mình, lừa mình, và bản thân muốn trả đũa, trả thù người đó, nhất thời kích động thì cũng nói ra đôi lời cay nghiệt như: “Tôi hận họ đến chết!”, nhưng đến lúc thực sự có cơ hội trả đũa, thì lại yếu lòng, chùn tay, không xuống tay được, không tàn nhẫn được, và sau một thời gian thì không còn hận nữa, người lương thiện chính là vậy. Nếu có người lừa ngươi, hại ngươi, và ngươi có cơ hội để báo thù, để nhìn thấy kẻ thù của mình chịu sự trừng phạt và báo ứng, thì ngươi có thể tự tay hành động và ra tay trả đũa họ không? Lúc nóng giận thì có lẽ ngươi nói: “Chắc chắn tôi sẽ trả đũa họ. Họ quá xấu xa, quá tàn nhẫn!”. Nhưng đến lúc thực sự có cơ hội trả thù, thì ngươi lại không xuống tay được, ngươi sẽ nói: “Thôi bỏ đi, chuyện này xảy ra đã lâu lắm rồi. Đến đây dừng là được rồi!”. Ngươi không truy cứu đến cùng, cũng không nhất quyết phải thấy kẻ thù bị trừng phạt hoặc có cái kết xấu nào đó. Ngươi sẽ không ôm hận mãi trong lòng và sống tiếp với mối thù hận đó, mà qua một thời gian thì mối hận đó sẽ tan biến. Đấy là biểu hiện của tâm địa lương thiện. Lương thiện là biểu hiện mang tính đặc trưng của người có lương tâm, cũng là một đặc trưng của người có thuộc tính con người. Đương nhiên, cũng có khả năng, trong mắt một số người, lương thiện là một nhược điểm. Có một số người ngoại đạo còn cảm thấy ngươi khiếp nhược, thậm chí còn xúi giục ngươi, nói rằng: “Anh phải tàn nhẫn, phải nhẫn tâm, khi thực sự có cơ hội để báo thù thì phải lấy răng đền răng, đích thân khống chế họ, tự tay giết kẻ thù”. Nhưng ngươi ngẫm nghĩ: “Nếu mình tự tay giết kẻ thù, thì chẳng phải mình sẽ hành ác sao? Họ sống cũng đâu ảnh hưởng đến mình, họ làm việc đó một cách quá đáng và làm tổn thương mình, nhưng chuyện cũng đã qua rồi”. Qua thời gian, ngươi sẽ không cảm thấy hận họ nữa. Có những người nói ngươi quá hèn nhát và chẳng tàn nhẫn, thì ngươi cũng cảm thấy bối rối: “Tại sao mình không tàn nhẫn được? Tại sao mình luôn yếu lòng với kẻ thù, chẳng ghi hận được vậy?”. Trong mắt một số người, thì tâm địa lương thiện là một nhược điểm của nhân tính. Nhưng thực ra nó là một đặc trưng của nhân tính, có đúng vậy không? (Thưa, đúng.)

Chúng ta sẽ không nói chi tiết về hai thành phần quan trọng trong các đặc trưng của nhân tính, là lương tâm và lý trí nữa. Hãy tiếp tục nói về hai điều khác, hai phương diện cụ thể nhất mà người ta rất dễ bỏ qua hoặc chẳng bao giờ nhận ra được. Nếu chỉ nói rằng một người nào đó có lương tâm và lý trí của nhân tính, thì trong mắt mọi người sẽ thấy tương đối chung chung, cũng rất khó xác định được người này đã làm những việc gì hoặc có những biểu hiện nào là thực sự có lương tâm và lý trí, rất khó đánh giá được liệu người này có thực sự có nhân tính bình thường hay không. Cho nên, chúng ta sẽ không thông công từ phương diện các biểu hiện cụ thể của lương tâm và lý trí, mà sẽ thông công từ hai phương diện khác. Đó là, nếu một người có thực chất của nhân tính, thì một mặt, họ rõ phải trái, mặt khác, họ cũng biết đúng sai. Người ta có hai phương diện này hay không là đủ để cho thấy họ có lương tâm và nhân tính hay không. Đây là cách cụ thể hơn để mổ xẻ xem liệu một người có lương tâm và lý trí hay không. Có hai phương diện rõ phải trái và biết đúng sai thì mới thực sự cho thấy một người có lương tâm và lý trí hay không. Người nào không có hai phương diện này mà nói mình có lương tâm và lý trí, thì đó là giả và không phù hợp với sự thật. Trước hết, chúng ta hãy xem xét phương diện rõ phải trái. “Rõ” nghĩa là hiểu rõ, là biết, hiểu và lý giải được. “Phải trái” nghĩa là gì? Phải trái là nói đến những điều tích cực và những điều tiêu cực. Vậy, biết đúng sai nghĩa là gì? Ví dụ nhé, “Loài người do Đức Chúa Trời tạo ra”, câu này đúng hay sai? (Thưa, đúng.) “Loài người tiến hóa từ khỉ”, câu này đúng hay sai? (Thưa, sai.) Ngươi biết phân định và phán đoán xem quan điểm nào đúng và quan điểm nào sai, đấy chính là biết đúng sai. Ma quỷ nói: “Loài người tiến hóa từ khỉ”, ngươi nghe xong thì nói: “Không đúng, loài người do Đức Chúa Trời tạo ra”, vậy thì trong chuyện này, ngươi không hồ đồ, và ngươi biết đúng sai. Vậy giữa đúng và sai, phải và trái, có khác biệt gì không? (Thưa, có.) “Đức Chúa Trời tể trị số phận của toàn nhân loại”, câu này đúng hay sai? (Thưa, đúng.) “Số phận của nhân loại nằm trong tay mình”, câu này đúng hay sai? (Thưa, sai.) “Người ta sống đến được tuổi nào là tùy vào cách họ chăm sóc và giữ gìn sức khỏe”, câu này đúng hay sai? (Thưa, sai.) “Tuổi thọ của con người do Đức Chúa Trời tiền định”, đúng hay sai? (Thưa, đúng.) Giờ các ngươi đã biết ý nghĩa của biết đúng sai rồi phải không? (Thưa, đã biết rồi.) Vậy giờ hay xem xét chuyện rõ phải trái. Chúng ta vừa nói “phải trái” là chỉ điều gì? (Thưa, chỉ những điều tích cực và những điều tiêu cực.) Ví dụ nhé, làm người trung thực là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tích cực.) Còn “Có tiền mua tiên cũng được”? (Thưa, là điều tiêu cực.) Ai có thể đưa ra thêm ví dụ nào? (Thưa, con người thờ phượng Đức Chúa Trời là việc thiên kinh địa nghĩa, là điều tích cực.) Còn thắp hương bái Phật? (Thưa, là điều tiêu cực.) Tìm kiếm lẽ thật trong hành động. (Thưa, là điều tích cực.) Làm việc gì cũng dựa vào ý riêng và tự mình ra quyết định. (Thưa, là điều tiêu cực.) Ngươi biết những điều nào là điều tích cực và những điều nào là điều tiêu cực, ngươi cũng biết phán đoán xem những quan điểm nào là đúng đắn và những quan điểm nào là không đúng đắn, như vậy gọi là rõ phải trái và biết đúng sai. Có những kiến thức và nhận thức này, thì trong lòng ngươi sẽ có năng lực để phân định những sự vật này, như vậy thì ngươi chính là người có phẩm chất của nhân tính. Rõ phải trái và biết đúng sai nghĩa là trong nhân tính của người ta bẩm sinh đã có năng lực nhận diện một vài điều tích cực và tiêu cực, ngoài ra trong lòng cũng có một vài ý thức và cảm giác rằng chuyện gì đó đúng hay sai. Cho dù chưa nghe lẽ thật, chưa hiểu lẽ thật, thì trong nhân tính họ cũng đã có năng lực phân định này rồi. Cho dù không nói rõ được, nhưng trong lòng người ta cũng biết điều gì là điều tích cực và điều gì là điều tiêu cực, biết rằng điều tiêu cực thì không đúng đắn. Nếu trong lòng người ta còn có cảm giác ghê tởm và có thể vứt bỏ, không đi theo những điều đó, thì càng tốt. Khi người ta chưa hiểu lẽ thật, ngay cả khi không phân định được quá rõ ràng về những điều tích cực và tiêu cực, trong lòng họ vẫn có cảm giác khác nhau và cách đối đãi khác nhau đối với những điều tích cực và tiêu cực. Chẳng hạn như, đối với một vài trào lưu tà ác trong xã hội, người có nhân tính mà nhìn thấy những trào lưu tà ác này thì trong lòng sẽ cảm thấy ghê tởm sâu sắc, cảm thấy đó không phải là con đường đúng đắn, không phải là điều tích cực, cũng không phải là điều nên theo đuổi hay là việc nên làm. Ngay cả khi vì sinh tồn trong hoàn cảnh xã hội này mà bất đắc dĩ phải đi theo trào lưu tà ác, thì nơi sâu thẳm nội tâm họ vẫn khinh bỉ chúng, đồng thời còn tìm đủ mọi cơ hội để thoát khỏi dạng hoàn cảnh đó, hoặc là nghĩ đủ mọi cách để tránh né và không đi theo những trào lưu tà ác này.

Rõ phải trái là điều rất quan trọng đối với một con người. Vì chuyện phải trái liên quan đến những điều tích cực và những điều tiêu cực, vậy các ngươi nói xem, có những điều tích cực nào và những điều tiêu cực nào? (Thưa, tin Đức Chúa Trời, đi theo Đức Chúa Trời, thờ phượng Đức Chúa Trời, thuận phục Đức Chúa Trời, còn có làm bổn phận, làm người trung thực, những điều này đều là điều tích cực. Nói dối, lừa gạt, chống đối Đức Chúa Trời, phản nghịch Đức Chúa Trời, phản bội Đức Chúa Trời, đấy là những điều tiêu cực.) (Thưa, những điều tích cực chủ yếu đến từ Đức Chúa Trời và phù hợp lẽ thật. Chẳng hạn như, các kết quả khác nhau mà công tác của Đức Chúa Trời đạt được, nhận thức thực sự của con người về tâm tính và thực chất của Đức Chúa Trời, đấy đều là những điều tích cực, đều phù hợp lẽ thật.) Đừng nghĩ rằng những điều tích cực quá sáo rỗng, quá cao vời, thực ra những điều tích cực là đủ loại người, sự việc và sự vật tích cực, đúng đắn và có ích cho con người. Hễ là điều gì có ích cho con người, có ích chứ không có hại cho cuộc sống bình thường của con người, thì đều là điều tích cực. Chẳng hạn như, quy luật và quy tắc tự nhiên có phải là điều tích cực không? (Thưa, phải.) Lời Đức Chúa Trời đều là lẽ thật, đều là điều tích cực, hễ liên quan đến lời Đức Chúa Trời thì đều là điều tích cực. Sự cung ứng sự sống và lẽ thật từ Đức Chúa Trời cho nhân loại, những nội dung được bao hàm trong công tác quản lý và cứu rỗi nhân loại mà Đức Chúa Trời làm đều là những điều tích cực có liên quan đến lẽ thật. Mọi yêu cầu của Đức Chúa Trời, mỗi một câu Đức Chúa Trời phán và nguyên tắc thực hành các lẽ thật khác nhau, đều là những điều tích cực. Vậy ngoài công tác quản lý nhân loại của Đức Chúa Trời ra, còn có rất nhiều điều tích cực có ích cho sự sinh tồn của nhân loại và không gây tổn hại cho con người. Các ngươi có thể thấy được những điều này không? Có thể nhận diện được chúng không? Có thể tiếp nhận và công nhận chúng nơi sâu thẳm nội tâm không? Có thể thuận theo, thích ứng và tuân theo chúng không? Chẳng hạn như, quy luật của bốn mùa có phải là điều tích cực không? (Thưa, phải.) Vào mùa xuân, trời ấm lên và hoa nở, vạn vật sinh sôi và hồi phục, băng tuyết tan ra, đây có phải là điều tích cực không? (Thưa, phải.) Vào mùa hè, nắng chiếu chói chang, nóng đến cháy bỏng, vạn vật sinh trưởng nhanh chóng, hưởng thụ ánh mặt trời, đây có phải là điều tích cực không? (Thưa, phải.) Vào mùa thu, ánh nắng chang chang dần chuyển sang trời thu mát mẻ, các loài cây cỏ dần chín, kết quả, kết hạt, và mùa thu hoạch đến, đây có phải là điều tích cực không? (Thưa, phải.) Vào mùa đông, nhiệt độ giảm xuống, trời trở lạnh, có lúc còn đổ tuyết. Mặc dù không được hưởng thụ, dễ chịu và tự do cho bằng mấy mùa khác, nhưng trong mùa đông, vạn vật đều tích trữ năng lượng, nhân loại cũng nghỉ ngơi và hồi phục. Quy luật này có phải là điều tích cực không? (Thưa, phải.) Lúc bình minh, chim sơn ca cất tiếng hót, những loài chim sớm hót vang, nhắc nhở mọi người rằng đã sáng rồi, dậy đi thôi, nên bắt đầu làm lụng vì cuộc sống, vì sinh kế và để cho nhân loại tiếp tục tồn tại. Đây có phải là điều tích cực không? (Thưa, phải.) Nhân loại theo tiếng những loài chim sớm và chim sơn ca mà thức dậy, bắt đầu một ngày làm lụng, đây là điều tích cực. Đến tối, các loại côn trùng và sinh vật chiếu theo quy luật của chúng mà tiến hành đủ loại hoạt động, có con ra ngoài săn mồi, có con bắt đầu cất tiếng kêu. Trong thời gian này, loài người lặng lẽ dần và chìm vào giấc ngủ. Nghe tiếng kêu của dế, cùng tiếng kêu của đủ loài sinh vật và hoạt động ban đêm của chúng, loài người bước vào xứ sở mộng mơ, ngủ rất ngọt ngào, rất hạnh phúc và yên ổn. Đây có phải là điều tích cực không? (Thưa, phải.) Đối với con người, những điều tích cực này đều là những chuyện thường xuyên xảy ra, ngươi có thể tiếp nhận được các loại thông điệp và tín hiệu của chúng, cũng có thể cảm nhận được những ích lợi chúng đem lại cho cuộc sống của ngươi, cùng những ảnh hưởng và thay đổi khác nhau mà chúng đem lại cho ngươi trong quá trình ngươi sinh tồn. Nếu ngươi có phản ứng đúng đắn và sự lĩnh hội đúng đắn đối với sự tồn tại của đủ loại sự vật tích cực quanh mình, cũng có phương thức đối đãi đúng đắn với chúng, thì điều đó cho thấy ngươi hiểu được chút phải trái, có cảm ứng, cảm giác và tri giác đối với hoàn cảnh sinh tồn được tạo nên bởi vạn vật mà Đức Chúa Trời tạo dựng, hơn nữa, ngươi còn có lòng biết ơn đối với sự ảnh hưởng của vạn vật quanh mình hoặc sự bầu bạn của chúng trong cuộc sống của mình. Điều đó cho thấy ngươi có thể cảm nhận được sự tồn tại của Đức Chúa Trời, cảm nhận được vạn vật Ngài tạo dựng đều rất thực, cảm nhận được lợi ích và sự ảnh hưởng về đủ mọi phương diện của vạn vật đối với mình. Ngươi có thể thu hoạch được dạng thông điệp như vậy và có những cảm giác đó, thì ngươi chính là một người có thể hiểu phải trái và có nhân tính. Đối với những điều tích cực, ngươi có thể lĩnh hội một cách đúng đắn, có thể thích ứng với chúng, thuận theo chúng và đồng tồn tại với chúng. Chẳng những không thấy phản cảm gì về chúng, mà thay vào đó, vì tin Đức Chúa Trời và hiểu được một vài lẽ thật, mà ngươi càng thêm xác tín rằng mọi điều tích cực này đều đến từ Đức Chúa Trời, đến từ Đấng Tạo Hóa, và ngươi có thể càng thêm biết ơn sự tồn tại của những điều tích cực này. Tương ứng với chuyện đó, trong lòng ngươi sẽ thấy phản cảm và ghê tởm những điều tiêu cực. Vậy những điều nào là tiêu cực? (Thưa, làm ô nhiễm môi trường, khai thác quá mức.) Phá hoại môi trường, làm ô nhiễm môi trường, chặt cây phá rừng, khai thác và khai phá quá mức, đây đều là những điều tiêu cực. Ngoài những điều này ra, còn có những điều nào khiến các ngươi cảm thấy là điều tiêu cực, khiến trong lòng các ngươi có cảm giác chán ghét rõ ràng? Nhân loại luôn muốn chinh phục tự nhiên, đây là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tiêu cực.) Chẳng hạn như, có nơi thường xảy ra bão, có người luôn ngẫm nghĩ: “Những cơn bão này thổi bụi bay tứ tung, phá hủy nhà cửa và ruộng đồng. Chúng ta phải nghĩ đủ cách để xây được một bức tường chặn đứng nó, thể hiện sự tiến bộ công nghệ của nhân loại và năng lực trở nên hùng cường của nhân loại”. Đây là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tiêu cực.) Các ngươi nghe xong những lời đó thì trong lòng cảm thấy thế nào? (Thưa, cảm thấy người ta không biết tự lượng sức mình.) Như vậy chính là không biết tự lượng sức. Có nơi toàn là đồng cỏ bạt ngàn, nên có người nói rằng: “Người chăn nuôi sống cuộc đời của dân du mục ở thảo nguyên, suốt cả năm cũng chẳng được mấy bữa ngon. Suốt nửa năm phải đi xa, chăn cừu chăn dê ở đồng cỏ. Khi nào những ngày cơ cực này mới chấm dứt đây? Mình phải nghĩ biện pháp cải thiện cuộc sống của người chăn nuôi, phải biến thảo nguyên và đồng cỏ thành những tòa nhà và thành phố, để người chăn nuôi không cần phải sống bằng việc chăn nuôi nữa. Như vậy họ có thể sống cuộc sống tốt đẹp, và họ sẽ cảm ơn quốc gia, cảm ơn chính phủ”. Đây là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tiêu cực.) Các ngươi có thể cảm nhận được rằng làm như vậy là điều tiêu cực không? Biến thảo nguyên thành các tòa nhà và thành phố, đây là tư tưởng và quan điểm sai lầm, cách làm này quá hoang đường rồi! Các ngươi không nhìn thấu được chuyện này, phải vậy không? Các ngươi cảm thấy: “Đây là chuyện của chính phủ, chúng ta đâu quản được”, và các ngươi vô cảm về chuyện này. Còn nữa, nhân loại luôn phát triển ngành hàng không vũ trụ, luôn muốn lên Mặt Trăng, Sao Hỏa, Sao Mộc mà thăm dò, còn muốn thăm dò Mặt Trời một phen, nhưng vì nhiệt độ quá cao nên không đến đó được, thế là họ chế tạo tàu vũ trụ để vượt qua lực hấp dẫn của Trái Đất mà đến Mặt Trăng và Sao Hỏa. Đây là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tiêu cực.) Đây là điều tiêu cực. Vậy những thứ liên quan đến khoa học thì có điều gì tích cực không? Có tuyên bố nào tích cực và phù hợp quy luật tự nhiên của vạn vật do Đức Chúa Trời tạo dựng không? (Thưa, một vài công cụ được phát minh và chế tạo thông qua khoa học, chẳng hạn như máy tính, có thể nâng cao hiệu suất làm việc. Chúng là những điều tích cực.) Những điều này chưa đến mức là điều tích cực hay tiêu cực, mà chỉ là công cụ, chẳng liên quan đến một dạng tư tưởng hay lý luận, luận điệu nào. Những điều tích cực và tiêu cực mà chúng ta nói đến thì liên quan đến thực chất và nguyên lý của sự vật, cũng liên quan đến xuất phát điểm của đủ loại dự án nghiên cứu khoa học mà nhân loại đang làm. Chúng ta dựa vào những điều này mà xác định một điều gì đó là tích cực hay tiêu cực. Vậy còn có những điều tiêu cực nào nữa? (Thưa, hiện tại, nhân loại không tuân theo quy luật sinh trưởng của vạn vật, thay vào đó, dùng các phương tiện khoa học để thay đổi dạng quy luật này. Chẳng hạn như, nuôi gà thì cho ăn thức ăn có hóc-môn, 30 ngày là đã lớn đủ, lại còn trồng rau và trái cây trái mùa. Có vẻ như khoa học và kỹ thuật đã được nâng cao, nhưng như vậy là làm trái với quy luật sinh trưởng của vạn vật, là để thỏa mãn của cái miệng. Đây là điều tiêu cực.) Đây là điều tiêu cực. Còn có những người muốn chinh phục hổ và sư tử, họ thấy hổ đầy uy phong, ngáp một cái cũng khiến những người xung quanh không dám đến gần, thế là họ muốn chinh phục hổ, nhổ nanh rồi nuôi trong vườn, biến con hổ thành một dạng chó giữ nhà. Đây là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tiêu cực.) Đây là điều tiêu cực. Hết thảy những việc mà nhân loại làm hoặc đủ thứ mà nhân loại phát minh để mưu cầu sự hưởng thụ xác thịt bằng đủ loại phương tiện khoa học và làm trái quy luật tự nhiên, chúng đều là điều tiêu cực, đều không phải là điều tích cực, bởi vì chúng gây tổn hại cho nhân loại quá nhiều và phá hoại môi trường sống của nhân loại quá nghiêm trọng. Một ví dụ nhé, có những nơi đặc biệt khô hạn, chính phủ sẽ dùng máy bay rải chất tạo mây để giục mưa, đây là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tiêu cực.) Có những nơi mưa quá nhiều, gây ra lũ lụt, thế là chính phủ cho máy bay đi làm tan mây để kiểm soát mưa, làm vậy chẳng phải là làm trái và phá hoại quy luật tự nhiên sao? (Thưa, phải.) Phá hoại và làm trái quy luật tự nhiên, không thuận theo quy luật tự nhiên, tùy ý làm càn, phô trương công nghệ cao của nhân loại, chúng là những điều tiêu cực. Ngoài những điều đó ra, còn có những điều tiêu cực nào nữa? Nghiên cứu vi khuẩn sinh hóa và điều chỉnh gen là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tiêu cực.) Thông qua nghiên cứu gen mà người ta có thể ăn nhiều thực phẩm biến đổi gen hơn, vậy thực phẩm biến đổi gen là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tiêu cực.) Tại sao lại nói nó là điều tiêu cực? Có những người nói: “Đây là thành quả khoa học mà. Làm vậy để thêm nhiều người có thể đủ ăn, không bị đói. Hơn nữa, người ta ăn thực phẩm biến đổi gen mấy chục năm rồi, vừa cao vừa to, nhất là giới trẻ thời nay cao hơn thế hệ trước. Đây đều là sự cống hiến của khoa học cho nhân loại. Thực phẩm biến đổi gen đem lại ích lợi lớn đến vậy, tại sao lại nói nó là điều tiêu cực chứ?”. Các ngươi có thể giải thích rõ chuyện này không? (Thưa, con người thời nay mặc dù cao hơn, nhưng thể chất lại ngày càng kém, bệnh tật cũng ngày càng nhiều. Chuyện này đều là do ăn những thứ đã bị khoa học chỉnh sửa. Cho nên mới nói nó là điều tiêu cực.) Nhìn bề ngoài thì thực phẩm biến đổi gen đem lại ích lợi cho người ta, người ta đã cao hơn, to hơn, nhưng tố chất của cơ thể lại kém đi, tóm lại là nó gây ra ảnh hưởng không tốt cho người ta, lợi bất cập hại. Bất kể người ta cảm thấy nó là lợi hay hại, tóm lại nó là điều tiêu cực, tuyệt đối không phải là điều tích cực, bởi vì nó trái với quy luật tự nhiên do Đức Chúa Trời tạo ra, trái với vai trò mà các loại sinh vật nguyên thủy nhất do Đức Chúa Trời tạo dựng đảm nhiệm đối với thể lý con người. Có khả năng ban đầu người ta không cảm nhận được ảnh hưởng của nó lên mình, nhưng 20 năm sau thì hậu quả xấu sẽ lộ rõ. Rất nhiều người mắc đủ các thứ bệnh lạ, thậm chí ảnh hưởng đến năng lực sinh sản. Điều này đủ để chứng minh rằng loại thực phẩm này không phải là điều tích cực. Mặc dù nhân loại xem những thực phẩm biến đổi gen là sản phẩm của công nghệ, là sự cống hiến của khoa học cho nhân loại, nhưng xét từ góc độ về những điều tích cực và tiêu cực, thì nó tuyệt đối không phải là điều tích cực.

Nhân loại luôn muốn nghiên cứu Mặt Trăng, nghiên cứu để xem các hành tinh có thể thích hợp để nhân loại sống không. Hạng mục nghiên cứu khoa học này, quan điểm này, là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tiêu cực.) Tại sao lại là điều tiêu cực? (Thưa, Đức Chúa Trời tạo dựng con người là để cho con người sống ở Trái Đất, đâu phải để cho chúng ta đến sinh sống ở một hành tinh khác. Con người luôn có dã tâm và muốn đi nơi khác. Kết quả là chỉ phí công, đi đâu cũng không được.) Trong mắt con người thì việc nghiên cứu những điều này là rất bình thường, là tạo ra điều kiện sinh tồn cho tương lai của nhân loại, là chuyện tốt. Nhiều chức năng mà Đức Chúa Trời thiết lập trên Trái Đất này đều đã bị phá hoại, các loại tai họa thường xuyên xảy ra, môi trường sống ở Trái Đất bị phá hoại, không khí, nước và đất bị ô nhiễm nghiêm trọng, các loài sinh vật đều đối diện với sự tuyệt chủng. Trái Đất trở nên khó sống. Có một vài tổ chức nghiên cứu khoa học đã bắt đầu nghiên cứu các hành tinh khác, hy vọng nhân loại có thể đến các hành tinh khác mà định cư. Họ cho rằng nếu muốn các thế hệ sau của nhân loại có thể sinh tồn thì người ta phải chuẩn bị trước, nếu bây giờ mà không chuẩn bị, rồi sau này nhân loại không thể sinh tồn trên Trái Đất nữa, thì chẳng phải là nhân loại sẽ không còn đường thoát sao? Dạng quan điểm, dạng nghiên cứu khoa học này, rốt cuộc là điều tiêu cực hay là điều tích cực? (Thưa, là điều tiêu cực.) Dựa vào đâu mà nói nó là điều tiêu cực? (Thưa, dựa vào chuyện Đức Chúa Trời đơn giản là không chuẩn bị điều kiện thích hợp để sinh tồn cho con người ở các hành tinh khác. Chưa nói đến các hành tinh khác, ngay cả những nơi quá nóng hay quá lạnh trên Trái Đất cũng không thích hợp để con người cư trú. Nhưng con người luôn có dã tâm, luôn muốn vượt ra khỏi sự tể trị và sắp đặt của Đức Chúa Trời, muốn đến sống ở hành tinh khác. Như vậy là làm trái với sự an bài và ấn định của Đức Chúa Trời. Cho nên, nó là điều tiêu cực.) Đức Chúa Trời tạo ra cho nhân loại Trái Đất – một môi trường sống tốt đến vậy, thế mà con người chẳng quản lý cho đàng hoàng, cứ luôn phát triển khoa học và công nghiệp hiện đại, kết quả là phá hoại môi trường sinh thái của Trái Đất, làm ô nhiễm không khí, nước, thậm chí cả đất. Người ta không còn được ăn lương thực và rau quả hữu cơ, bị đủ loại bệnh tật, và khó mà sống sót được ở Trái Đất nữa, thế là họ nghĩ tới chuyện đến hành tinh khác, mà chẳng suy xét chuyện xác phàm này có thể đến đó hay không. Con người, xác phàm này, chỉ thích hợp sống ở Trái Đất, cũng chỉ có thể sống ở Trái Đất, đây là điều mà Đức Chúa Trời ấn định. Ngươi xem, dựa vào điều kiện bẩm sinh của mình thì con người có thể đi đến nơi nào chứ? Con chim vỗ cánh là có thể bay cao hàng ngàn mét, nhưng con người đâu tự mình bay lên được, chỉ có thể mượn sức của máy bay, nhưng ngồi máy bay thì có lúc nguy hiểm. Cho nên, con người sống ở Trái Đất là thích hợp nhất. Thuộc tính thể lý của con người tương hợp với thổ nhưỡng của Trái Đất, tương hợp với đủ mọi điều kiện sinh tồn trên Trái Đất, như vạn vật, bốn mùa và quy luật tự nhiên. Do đó, nhân loại chỉ có thể được gọi là người Trái Đất. Những quy luật sinh tồn và điều kiện sinh tồn của nhân loại này đã được tiền định cho con người khi Đức Chúa Trời tạo dựng vạn vật. Do đó, nhân loại chỉ thích hợp sinh tồn ở Trái Đất, chứ không thích hợp cư trú ở hành tinh khác. Nhân loại đã chà đạp và phá hoại Trái Đất đến mức không có cách nào sinh sống được nữa, và họ muốn rời đi cho xong, luôn muốn tìm một hành tinh khác để cư trú. Vậy là đang vật lộn vô ích, không phải là cách làm thuận theo quy luật tự nhiên mà Đức Chúa Trời đã ấn định cho người Trái Đất, mà là cách làm trái với quy luật sinh tồn thể lý của người Trái Đất, là một cách làm rất thiếu sáng suốt, cho nên nó là điều tiêu cực. Ngay cả khi có vài hành tinh khác có không khí, và người Trái Đất có thể đến đó xem, thì như vậy đâu có nghĩa là nhân loại có thể sinh tồn được ở những hành tinh đó. Ngay cả Nam Cực và Bắc Cực của Trái Đất, ngươi đến xem một chút, đứng một chút thì còn khả dĩ, nhưng để ngươi sinh sống ở đó nhiều năm thì liệu ngươi có chịu nổi không? Còn có một vài nơi tương đối nóng, quanh năm đều trên 60 độ C, vậy thì cũng không phù hợp cho nhân loại sinh tồn. Vì một vài nguyên nhân về môi trường địa lý đặc biệt mà nhân loại không phù hợp để sinh sống lâu dài ở một vài nơi cá biệt trên Trái Đất, huống hồ chuyện đến sống ở một hành tinh khác. Chuyện đó không nằm trong sự an bài của Đức Chúa Trời. Dựa vào tính chất thể lý của nhân loại, thì nhân loại này chỉ phù hợp sinh tồn ở Trái Đất, chuyện này có căn cứ cả. Mục đích Đức Chúa Trời tạo dựng Trái Đất là để an bài cho nhân loại một môi trường cư trú thích hợp. Ngươi muốn thoát khỏi dạng môi trường này mà tìm ra một con đường khác, thì chỉ có thể đâm đầu vào ngõ cụt, vì vậy mới nói nó là điều tiêu cực. Nếu ngươi biết rằng luôn nghiên cứu chuyện đến cư trú ở hành tinh khác là điều tiêu cực, nhưng trong lòng vẫn tán thành chuyện nhân loại nghiên cứu khoa học để tìm đường đến hành tinh khác sinh sống, thì chứng tỏ nhân tính của ngươi có vấn đề, không hiểu phải trái và không biết phân định đúng sai. Nếu ngươi biết rõ con đường này không thông, thế mà còn khao khát và kỳ vọng sang thời đại sau sẽ có thể bắt đầu sống ở hành tinh khác, vậy thì ngươi không phải là người bình thường, mà là kẻ quái đản.

Người hiểu phải trái thì một mặt có thể yêu thích và tiếp nhận những điều tích cực, hơn nữa còn có thể có nhận thức rõ ràng về những điều tích cực. Mặt khác, họ cũng có khả năng phân định những điều tiêu cực, hơn nữa, vì có lương tâm và lý trí mà trong lòng họ còn thấy phản cảm và ghê tởm những điều tiêu cực, đương nhiên họ cũng có thể từ nền tảng là hiểu được một vài lẽ thật mà xem thường, phê phán và phủ nhận những điều tiêu cực. Nếu ngươi không làm được điểm này, thì ngươi không phải là người hiểu phải trái, cũng có thể nói là ngươi thiếu gì đó về phương diện nhân tính. Nếu trong nhân tính ngươi thiếu điều kiện rõ phải trái này, thì nhân tính của ngươi thiếu mất một điều kiện rất quan trọng, một thành phần rất quan trọng. Như vậy nghĩa là ngươi không có nhân tính bình thường, không thể được gọi là con người đích thực. Một số người sẽ nói: “Những ví dụ vừa nêu liên quan đến một vài chuyện ăn, mặc, ở, đi lại trong cuộc sống thực, cũng liên quan đến khoa học. Nếu chúng là điều tiêu cực, và chúng con cần phân định chúng, vậy chẳng phải chúng con nên vứt bỏ chúng sao?”. Cũng không cần thiết như vậy. Rõ phải trái chỉ có nghĩa là trong lòng ngươi có sự phân định đối với những điều tích cực và tiêu cực, trong nhân tính của ngươi có tiêu chuẩn để đánh giá, biết điều gì là điều tích cực và điều gì là điều tiêu cực, và ngươi cũng có một thái độ rõ ràng, biết nên tiếp cận thế nào đối với những điều tích cực và tiêu cực. Đối với những điều tích cực thì ngươi có thể tiếp nhận, thuận theo và thích ứng, hơn nữa trong sâu thẳm nội tâm không chống đối hay thấy phản cảm. Nhưng đối với những điều tiêu cực thì ngươi có thể có sự phân định từ trong sâu thẳm nội tâm, có thể xem thường, thấy phản cảm và ghê tởm, thậm chí có thể có quan điểm riêng để phê phán chúng. Đấy chính là thái độ và biểu hiện mà loại người rõ phải trái nên có. Nếu điều gì đó rõ ràng là điều tích cực, mà sâu thẳm nội tâm ngươi lại khinh bỉ và ghê tởm nó, thậm chí còn cảm thấy so với những điều tiêu cực thì nó quá mờ nhạt, quá tầm thường, quá dung tục, chẳng đáng được nhắc đến. Ngươi lại còn ngưỡng mộ, khao khát và mưu cầu những điều tiêu cực trong sâu thẳm nội tâm, thậm chí tán thành những điều tiêu cực trong xã hội và thế gian. Dù được thông công về lẽ thật, về nguyên tắc phân định thế nào thì ngươi chẳng hề nghe lọt tai, cũng chẳng tiếp nhận. Thế thì nhân tính của ngươi không bình thường rồi. Nếu vì tuổi ngươi còn nhỏ, chưa có sự từng trải hay kiến thức gì, hoặc là vì những thứ này chẳng liên quan đến ngươi, chẳng đi vào cuộc sống của ngươi, cho nên ngươi vẫn chưa có ý thức gì, cũng chẳng có quan điểm rõ ràng gì về những điều tích cực và tiêu cực, thì vẫn chưa thể nói ngươi không phải là người rõ phải trái. Nhưng sau khi được thông công về chuyện điều gì là điều tích cực và điều gì là điều tiêu cực, mà ngươi vẫn cứ không thể tiếp nhận hoặc thuận theo những điều tích cực nơi sâu thẳm nội tâm, hơn nữa trong lòng còn nảy sinh sự phản cảm và khinh bỉ, trong khi đó lại cực lực chạy theo và khao khát những điều tiêu cực, vậy thì ngươi không phải là người rõ phải trái. Từ một điểm này là quá đủ để xác định rằng dạng người này không có nhân tính. Chuyện phân biệt phải trái này sẽ tỏ lộ chiều hướng của một người đối với những điều tích cực và những điều tiêu cực, từ đó là đủ để xác định thuộc tính của người này rốt cuộc là gì. Bất kể gặp phải điều gì, nếu họ có chiều hướng ngả về những điều tiêu cực hơn là những điều tích cực, thì quá rõ ràng, họ chẳng có nhân tính, cũng chẳng có lương tâm và lý trí. Tại sao lại nói vậy? Họ khao khát những điều tà ác, khao khát các loại nghề nghiệp, các việc nghiên cứu, hoặc khía cạnh công nghệ nào đó mà Sa-tan và nhân loại tà ác tôn sùng, tán thành và tham gia vào, chứ họ không khao khát và tuân theo những quy luật, quy tắc nguyên thủy của những điều tích cực vốn phát xuất từ Đức Chúa Trời. Dạng người này chắc chắn không phải là con người. Phương diện này đã được nói rõ ràng hay chưa? (Thưa, rõ ràng rồi.)

Chúng ta vừa nói đến năng lực rõ phải trái trong nhân tính, cũng có nghĩa là chuyện người ta có thể nhận diện những điều tích cực và những điều tiêu cực hay không. Không nhiều người có thể phân định được chuyện này, nhưng trong cuộc sống của mình, người ta thường tiếp xúc với những điều tích cực lẫn những điều tiêu cực. Chẳng hạn như, hỉ nộ ai lạc bình thường của con người, chúng là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tích cực.) Vậy sự phản nghịch của con người đối với Đức Chúa Trời là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tiêu cực.) Còn nữa, dục vọng xa xỉ của con người đối với Đức Chúa Trời là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tiêu cực.) Trong cuộc sống thường nhật, thực ra người ta chẳng có tri giác về rất nhiều chuyện mà mình có thể tiếp xúc được. Có một vài điều tích cực luôn đồng hành với cuộc sống và sự sinh tồn của con người, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người, và ảnh hưởng tích cực của chúng đối với sự sinh tồn của con người thì không một điều tiêu cực nào có thể thay thế nổi. Tuy nhiên, người ta thường lơ là những điều tích cực này, ngược lại còn cho rằng chính nhiều điều tiêu cực luôn ở bên con người, nâng đỡ cuộc sống của con người và bầu bạn với con người trong cuộc sinh tồn. Từ điểm này, có thể thấy rất nhiều người thực ra chẳng có cảm giác gì đối với những điều tích cực. Không có cảm giác cũng không quan trọng, chỉ cần ngươi biết đó là điều tích cực, không thấy phản cảm, mà còn có thể khao khát và yêu thích chúng trong sâu thẳm nội tâm, vậy thì chứng tỏ nhân tính của ngươi vẫn còn khao khát điều tích cực. Nếu ngươi đã biết điều gì là điều tích cực, cũng biết điều gì là điều tiêu cực, mà vẫn không thích nổi những điều tích cực, thay vào đó trong lòng lại có thiện cảm đối với điều tiêu cực, thậm chí còn đặc biệt hứng thú với chúng, hơn thế nữa, nếu có điều kiện hoặc cơ hội thì ngươi nhất định sẽ chạy theo và cố đạt được chúng. Như vậy cho thấy trong chiều hướng đối với những điều tích cực và tiêu cực, thì ngươi yêu thích những điều tiêu cực, chứ chẳng yêu thích những điều tích cực. Chuyện ngươi không yêu thích những điều tích cực cho thấy ngươi không phải là nhân vật chính diện, mà nếu ngươi không phải là nhân vật chính diện thì chắc chắn ngươi không phải là người có lương tâm và lý trí, mà chính là nhân vật phản diện. Nếu ngươi không phải là người có lương tâm và lý trí, thì ngươi chính là thứ không phải người, ngươi không phải là con người. Chẳng hạn như, có người trồng cà chua. Họ nghe nói khi cà chua chín, nếu dùng thuốc hóa học thì có thể khiến trái đổi từ màu xanh sang màu đỏ trong vòng một đêm, và có thể đem đi bán ngay lập tức. Họ cảm thấy: “Vậy tốt quá, ai cũng bán kiểu này, thì mình cũng phải bán kiểu này. Như vậy mình có thể phát tài, còn có thể được ăn cà chua sớm. Làm vậy là quá chuẩn!”. Thế là họ bán thứ cà chua đó, cũng tự mình ăn thứ cà chua đó. Có người nhắc nhở họ rằng thuốc hóa học giục cà chua chín sớm có hại cho con người, bán thứ đó là lừa người, hại người. Nhưng họ chẳng tiếp thu, nói rằng: “Sao làm vậy có thể là lừa người, hại người chứ? Đây là thành quả nghiên cứu khoa học, là điều tích cực. Khoa học phục vụ nhân loại, vì khoa học đã phát minh ra thứ này, thì phải áp dụng rộng rãi nó vào cuộc sống của con người. Cuộc sống của con người không thể tách rời khỏi khoa học, con người phải dựa vào khoa học”. Có những người thậm chí xem khoa học là lẽ thật, còn dạy dỗ người ta yêu khoa học, học khoa học, dùng khoa học và chuyện gì cũng dựa vào khoa học. Hiện tại, có lẽ có một số người đã phát hiện ra khoa học không hẳn cái gì cũng đúng, có một vài thứ mà khoa học phát minh ra lại có hại cho con người. Chẳng hạn như vũ khí hóa học và vũ khí tân tiến có thể tàn sát nhân loại, nhất là thực phẩm biến đổi gen gây ra mối họa bất tận cho nhân loại. Nhưng lại có nhiều người không nghĩ như vậy, nói rằng: “Khoa học còn có thể sai sao? Khoa học mà sai thì quốc gia còn có thể ủng hộ khoa học sao? Toàn thể nhân loại đều học và dùng khoa học, chẳng lẽ toàn nhân loại đều sai sao?”. Lời này có đúng không? Họ cho rằng vì toàn thể nhân loại đều tôn sùng khoa học và vận dụng khoa học, trào lưu xã hội là vậy, cho nên bất kể nó tiêu cực đến thế nào đi nữa thì cũng có thể được biến thành điều tích cực. Những người như vậy có phải là người rõ phải trái không? (Thưa, không phải.) Những lời họ nói là lời gì? (Thưa, là lý lẽ sai lầm.) Là lý lẽ sai lầm, tà thuyết và lý lẽ méo mó. Mặc dù những cách nói này được đa số nhân loại tà ác tán đồng và thừa nhận, nhưng bất kể có bao nhiêu người thừa nhận và công nhận những cách nói này, thì những thứ sai lầm mãi mãi là sai lầm, những điều tiêu cực mãi mãi là điều tiêu cực, và lý lẽ méo mó thì mãi mãi là lý lẽ méo mó. Chúng không thể nào trở thành điều tích cực, cũng không thể nào trở thành lẽ thật.

Có phải những người luôn chạy theo trào lưu xã hội và mê nói lý lẽ sai lầm thì đặc biệt yêu thích những điều tiêu cực không? (Thưa, phải.) Họ có thể tiếp nhận lẽ thật và những điều tích cực không? (Thưa, không thể.) Họ không tiếp nhận được những điều tích cực. Chẳng hạn như, có người mắc bệnh, thực ra bệnh đó chỉ cần tập thể dục và điều chỉnh thời gian làm việc-nghỉ ngơi là có thể trị được, nhưng họ cứ nhất quyết phải dùng những biện pháp và phương thức công nghệ cao để trị bệnh. Ngươi nói: “Mặc dù y học phát triển rồi, và dùng những phương thức này để trị bệnh thì có kết quả rõ ràng, nhưng nó sẽ để lại di chứng, và một khi đã để lại di chứng rồi thì không thể đảo ngược được. Anh nên dùng phương thức tự nhiên, thông qua vận động và điều chỉnh thời gian làm việc-nghỉ ngơi, điều chỉnh thói quen và quy luật ăn uống, thì dần dần cơ thể anh sẽ đi vào quy luật bình thường và tự nhiên, sau đó một vài triệu chứng sẽ dần giảm bớt”. Có người có thể tiếp nhận dạng tư tưởng và quan điểm này, có người thì không tiếp nhận được. Họ cho rằng: “Cái anh nói lạc hậu rồi. Đấy là phương thức và triết lý trị bệnh của nhân loại từ mấy ngàn năm trước. Cái gì mà ba phần điều trị, bảy phần chăm sóc chứ, nó chẳng thích hợp để dùng nữa rồi! Hiện tại y học đã phát triển, dùng phương thức công nghệ cao mà trị bệnh thì có hiệu quả nhanh chóng, uống thuốc một cái là khỏi bệnh liền!”. Chiếu theo tư tưởng và quan điểm của họ, chỉ cần y học phát triển, có thể trị đủ loại bệnh của nhân loại và làm cho con người trường thọ, thì y học trở thành điều tích cực và con người nên tin tưởng y học, tin tưởng khoa học, để khoa học tể trị số phận của con người. Họ cho rằng nhân loại mắc bao nhiêu bệnh cũng không cần sợ, có biện pháp công nghệ cao thì bất kỳ chứng bệnh phức tạp hay khó chữa nào cũng đều trị được hết, ngay cả khi để lại di chứng cũng không có gì phải sợ. Cách nói như vậy có chính xác không? Đấy là luận điệu sai lầm. Ngươi nói xem, ngươi mà nói với loại người này về những điều gì là tích cực, thì có thông không? Họ có thể tiếp nhận không? (Thưa, không thể, nói với họ thì không thông được.) Nói không thông, một mặt là vì bản thân họ không tiếp nhận được những cách nói tích cực, mặt khác, toàn thể nhân loại trên thế gian này đều bị trào lưu tà ác cuốn theo rồi, chẳng có ai ngoại lệ. Mặc dù họ tin Đức Chúa Trời đấy, nhưng sâu thẳm nội tâm họ không tiếp nhận lẽ thật, không tiếp nhận những điều tích cực, cũng không lấy lời Đức Chúa Trời làm căn cứ để nhìn nhận con người và sự việc. Thay vào đó, họ vẫn cứ lấy tư tưởng và quan điểm của Sa-tan, cùng trào lưu tà ác của Sa-tan làm căn cứ để nhìn nhận hoặc tiếp cận với mọi chuyện. Do đó, loại người này dù đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm, đã nghe được vài bài giảng, cũng đang làm bổn phận, ngoài miệng cũng nói sẵn lòng tiếp nhận lẽ thật, nhưng trong cuộc sống thực, quan điểm nhìn nhận sự việc của họ vẫn chẳng thay đổi gì, sự chọn lựa của họ giữa những điều tiêu cực và tích cực cũng chẳng thay đổi gì. Những điều tiêu cực họ tiếp nhận đã ăn sâu bén rễ trong lòng họ rồi, ngay cả khi đã biết chúng không phải là lẽ thật, họ vẫn cứ bám giữ chúng. Như vậy cho thấy lòng họ yêu thích những điều tiêu cực, chứ chẳng yêu thích những điều tích cực. Cho dù họ đã đọc lời Đức Chúa Trời, đã nghe các bài giảng về lẽ thật, về mặt đạo lý cũng hiểu được rằng những lời này đúng đắn, nhưng họ vẫn không nỡ từ bỏ những điều tiêu cực mà mình đã tiếp nhận từ lâu trong sâu thẳm nội tâm, hơn nữa, họ chẳng bao giờ lấy lời Đức Chúa Trời làm căn cứ để phân định những điều tiêu cực. Khi gặp chuyện cụ thể, thì trong lòng họ vẫn bám giữ quan điểm sai lầm vốn có, vẫn xem điều tiêu cực là điều tích cực, xem quan điểm sai lầm là quan điểm đúng đắn. Còn đối với những điều tích cực, mặc dù họ không nói rõ ràng rằng đó là điều tiêu cực, nhưng trong nội tâm họ không chịu từ bỏ những điều tiêu cực và tiếp nhận những điều tích cực, bởi vì họ cảm thấy: “Những điều tích cực có vẻ có sức ảnh hưởng quá nhỏ, người tiếp nhận thì quá ít, chẳng khả thi trong xã hội – đây là sự thật khách quan”. Như vậy chứng thực rằng trong lòng người này không rõ phải trái và nhân tính của họ có vấn đề. Loại người này chẳng thấy hứng thú với những điều tích cực, thường xuyên muốn thay đổi tự nhiên, thay đổi quy luật sinh tồn của thế giới tự nhiên, thay đổi quy luật sinh lý và sinh tồn của con người, luôn muốn chinh phục tự nhiên và các loại sinh vật. Chẳng hạn như, họ luôn ngẫm nghĩ: “Làm thế nào để có thể đưa gen của mèo vào trong chó, để cho chó có thể bắt chuột như mèo? Nếu mèo có thể vừa bắt chuột vừa giữ nhà như chó, thì chẳng phải quá tốt sao?” hoặc “Nếu gà mái vừa có thể đẻ trứng vừa có thể gáy báo sáng, thì chỉ cần nuôi gà mái là được, vậy thì quá tốt rồi!”. Ngươi xem, họ luôn ngẫm nghĩ những chuyện chẳng theo chính đạo. Nếu là người rõ phải trái, thì họ sẽ cảm thấy: “Những động vật Đức Chúa Trời tạo dựng quá tuyệt vời! Gà trống có thể gáy báo sáng, còn có thể bầu bạn với gà mái, còn gà mái có thể đẻ trứng, ấp nở gà con, loài người có thể ăn thịt gà mái hay gà trống đều được. Nuôi chó thì nó có thể giữ nhà và bầu bạn với chủ nhân, nuôi mèo thì nó có thể bắt chuột, có lúc còn có thể trở thành một thành viên thầm lặng trong gia đình. Con gì cũng tốt cả, loài nào có công dụng nấy, mọi sự Đức Chúa Trời tạo dựng đều tốt!”. Nhưng người không thể lĩnh hội những điều tích cực thì sẽ dùng những quan điểm của Sa-tan mà phủ nhận và kết tội những điều tích cực, còn lăm le dựa vào những quan điểm của Sa-tan mà thay đổi quy luật sinh tồn của các loài sinh vật, thay đổi các loại quy luật của thế giới tự nhiên, thậm chí thay đổi cả quy luật sinh tồn của con người, hòng đạt được mục đích là để khoa học nắm quyền. Dạng người này chắc chắn không có nhân tính bình thường, trong nhân tính họ không có đặc điểm rõ phải trái. Ngoài ra, họ không biết dựa vào quy luật tự nhiên mà quản lý cuộc sống riêng của mình, và luôn muốn dựa vào ý của con người mà làm một vài việc, vận dụng một vài biện pháp công nghệ hoặc biện pháp của con người mà thay đổi quy luật bình thường của cuộc sống thể lý. Chẳng hạn như, người bình thường mỗi ngày nghỉ ngơi bảy đến tám tiếng thì mới có thể tràn đầy sinh lực, mới có thể chống chịu nổi một ngày sống và làm việc. Nhưng loại người này ngẫm nghĩ: “Nếu người ta không ngủ, cũng không ăn, mà vẫn có thể sống và làm việc bình thường mỗi ngày thì chẳng phải quá tốt sao? Vận dụng biện pháp công nghệ nào thì có đạt được điều này nhỉ?”. Trong đầu họ sẽ có thể nảy sinh ra một vài ý nghĩ hoang đường và kỳ quái, họ không đứng ở góc độ của nhân tính bình thường mà ngẫm nghĩ xem làm thế nào để thích ứng và tuân theo những quy luật này, hầu đối diện một cách đúng đắn với đủ loại nhu cầu và vấn đề của xác thịt, thay vào đó, họ luôn muốn thay đổi những quy luật này, đạt đến chuyện khác với người thường, có thể vượt qua bản năng thể lý của mình, có thể không chịu sự khống chế và ràng buộc của xác thịt. Có phải chuyện này rất đáng sợ không? Họ luôn muốn khác với người thường, người khác mỗi ngày ngủ tám tiếng, họ thì muốn chỉ ngủ mười phút hoặc cùng lắm là một, hai tiếng mà vẫn đủ sinh lực, đây là chuyện mà người bình thường không có cách nào đạt đến được. Quy luật tự nhiên của xác thịt con người đã được cố định dưới sự ấn định của Đức Chúa Trời rồi. Một người thèm ăn đến mức nào, quy luật vận hành lục phủ ngũ tạng của họ ra sao, họ có bao nhiêu sinh lực, một ngày có thể làm bao nhiêu công việc, bộ não họ một ngày có thể suy nghĩ về bao nhiêu vấn đề, có thể suy nghĩ về vấn đề trong bao nhiêu lâu – những chuyện này đều được cố định cả rồi. Xét từ góc độ của nhân tính, thì những quy luật này thực ra đều bình thường và là điều tích cực. Chỉ có tuân theo những quy luật nhất định, thì nhân loại mới có thể tiếp tục sống năm này qua năm khác, mới có thể sinh sôi và sống từ thế hệ này qua thế hệ khác, như vậy thì sự sinh tồn của nhân loại mới có thể tiếp diễn. Các loài sinh vật cũng vậy, tuân theo những quy luật tự nhiên và quy luật sống nhất định, có tĩnh có động thì mới có thể duy trì sự sống tiếp diễn. Nếu làm trái quy luật tự nhiên, thì sự tiếp diễn của sự sống sẽ nảy sinh vấn đề, cũng có khả năng sẽ không sống được lâu. Nếu tình trạng cơ thể của người ta nảy sinh vấn đề, thì cuộc sống bình thường, bữa ăn thường ngày, cả tư duy và sự phán đoán bình thường, cùng khối lượng công việc có thể làm trong ngày, v.v. đều sẽ bị ảnh hưởng. Do đó mới nói, quy luật tự nhiên của nhân loại đang bảo vệ sự sinh tồn bình thường của nhân loại, đây là điều tích cực, không nên bị người ta xem thường, và người ta cũng không nên chán ghét chúng, thay vào đó nên tôn trọng và tuân theo chúng. Những kẻ chẳng phải người và thuộc về Sa-tan thì luôn cảm thấy: “Tuân theo những quy luật tự nhiên này của nhân loại thì lộ rõ là con người quá bất lực, quá vô tích sự! Chúng ta luôn chịu sự hạn chế của những quy luật tự nhiên này, mệt thì phải ngủ, đói thì phải ăn, nếu không thì lời nói và tư duy sẽ không theo kịp, tay cũng bắt đầu run, tim đập thình thịch, hai chân nhũn ra đứng không nổi. Phiền phức quá đi! Giá mà có loại thuốc gì đó, uống vào là có thể sống một cách bình thường, cả ngày không nghỉ ngơi mà vẫn tràn trề sinh lực, lợi hại hơn cả robot. Hoặc là đến lúc đói thì ấn vào huyệt nào đó là lập tức không đói nữa, vài ngày không ăn gì cũng chẳng sao, xác thịt chẳng teo tóp, sinh lực cũng chẳng giảm, cơ thể vẫn bình thường và khỏe mạnh. Được vậy thì tốt quá!”. Người ta luôn muốn thay đổi những quy luật tự nhiên này, như vậy chẳng phải là đang phủ định và đối đầu những điều tích cực sao? (Thưa, phải.) Sự tồn tại của những điều tích cực này đều là để bảo vệ sự sinh tồn bình thường của nhân loại, đều là để duy trì cuộc sống bình thường của nhân loại. Do đó, con người không những phải tuân theo những điều tích cực này, mà còn phải tiếp cận chúng một cách có lý tính, không được làm trái hoặc khắc chế chúng, cũng không được kiếm chuyện với chúng, càng không được đối đầu với chúng. Ngược lại, những thứ vượt quá quy luật tự nhiên của nhân loại, những tưởng tượng của con người, những ý nghĩ bất thường cùng những hoạt động siêu nhiên của con người đều là những điều tiêu cực. Nếu chúng đã là điều tiêu cực, thì người ta nên phân định và vứt bỏ chúng, chứ đừng tiếp nhận chúng. Nếu ngươi có sự phân định về những điều tích cực và tiêu cực, còn có thể tiếp cận chúng một cách đúng đắn và xử lý chúng một cách có lý tính trong quá trình sinh tồn, thì nhân tính của ngươi bình thường. Nếu ngươi thường không cảm nhận được tác dụng tích cực của những điều tích cực này nơi mình, còn thường xuyên muốn đối đầu với chúng, muốn làm những việc trái ngược với chúng, thường xuyên dựa vào một vài câu nói và quan điểm tiêu cực mà cố thay đổi những điều tích cực này, làm trái với quy luật khách quan của sự vật, vậy thì chứng tỏ trong nhân tính của ngươi không có năng lực hiểu phải trái. Thông công như vậy, các ngươi đã hiểu được chưa? (Thưa, đã hiểu.)

Nếu một người có nhân tính, thì chẳng phải người đó nên hiểu được điều gì là điều tích cực và nên tiếp nhận chúng sao? (Thưa, phải.) Vậy chẳng phải người đó nên có sự phân định đối với những điều tiêu cực, đồng thời trong lòng có thể ghê tởm và vứt bỏ chúng sao? (Thưa, phải.) Vậy còn có những điều tích cực và tiêu cực nào mà người ta vẫn chưa rõ? Tin Đức Chúa Trời và đi theo Đức Chúa Trời là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tích cực.) Sự tể trị của Đức Chúa Trời đối với số phận của con người là điều tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là điều tích cực.) Sự tể trị của Đức Chúa Trời đối với số phận của con người là điều tích cực, vậy khi nhân loại bại hoại đối đầu với sự tể trị và sắp đặt của Đức Chúa Trời, thì quan điểm chính của họ là gì? (Thưa, họ cho rằng số phận của mình nằm trong tay mình, và tri thức có thể thay đổi số phận.) Đây là quan điểm nền tảng cho việc phủ nhận và chống đối Đức Chúa Trời của nhân loại, thực sự là điều tiêu cực. Vậy người ta nên lĩnh hội như thế nào về chuyện Đức Chúa Trời tể trị số phận của con người? Có những người mặc dù về mặt đạo lý thì thừa nhận chuyện Đức Chúa Trời tể trị số phận của con người là đúng và là điều tích cực, nhưng trong lòng họ vẫn cứ tin rằng nỗ lực của con người có thể thay đổi số phận mình và số phận có thể nằm trong tay mình, do mình định đoạt. Họ cảm thấy nếu không chăm chỉ học tập, không chịu khó nỗ lực thì sẽ không thể vào đại học tốt, không thể có công việc tốt, không thể có tiền đồ tốt và điều kiện sống tốt, vậy thì họ có phải là người rõ phải trái không? (Thưa, không phải.) Sống đến 30 tuổi mà vẫn không biết câu “Đức Chúa Trời tể trị số phận của con người” nghĩa là gì, tin Đức Chúa Trời nhiều năm mà vẫn cứ cho rằng số phận nằm trong tay mình và tri thức có thể thay đổi số phận, cho rằng nếu muốn có đích đến tốt đẹp, muốn được hưởng thụ thỏa thích và sống cho sung sướng, thì phải dựa vào nỗ lực của bản thân, giống như câu “Nỗ lực hết mình thì mới chiến thắng” của người ngoại đạo, người như vậy có phải là người rõ phải trái không? (Thưa, không phải.) Người không rõ phải trái thì có phải là người không? (Thưa, không.) Họ hưởng thụ cuộc sống sung sướng, ăn ngon, mặc đẹp, ở trong xã hội cũng có thể hưởng thụ sự xem trọng của người khác, thế là họ cảm thấy cuộc sống hiện tại của mình là do bản thân chuyên cần lao động mà có, do đó họ cho rằng câu “Nỗ lực hết mình thì mới chiến thắng, số phận của mình thì phải dựa vào chính mình, không thể dựa vào người khác” mới là thật và là quan điểm đúng đắn. Như vậy có phải là biểu hiện của nhân tính bình thường không? (Thưa, không phải.) Khi con người chưa học tri thức thì chưa hiểu những điều này, nhưng một khi nắm vững tri thức rồi thì họ hoàn toàn phủ nhận câu “Đức Chúa Trời tể trị số phận của con người”, và cho rằng “Vận mệnh nằm trong tay ta, dựa vào đôi tay mình thì có thể tạo dựng hạnh phúc”. Người như vậy thì có rõ phải trái không? (Thưa, không phải.) Vậy dạng người này là thứ gì? Chẳng phải họ không có nhân tính sao? (Thưa, phải.) Dạng người này đơn giản là không có lương tâm và lý trí, người không có lương tâm và lý trí thì không rõ phải trái. Kể cả khi đã thực sự trải nghiệm sự thật cuộc sống rồi, họ vẫn không thể thực sự lĩnh hội được những điều tích cực là gì, cũng không thể thực sự lĩnh hội được thực chất của những điều tích cực là gì. Vậy nghĩa là họ không rõ phải trái, dạng người này không có nhân tính, tuyệt đối không phải là con người. Còn có một số người về mặt đạo lý thì có thể nói rằng: “Quy luật của hết thảy mọi sự vật đều phát xuất từ Đức Chúa Trời, đều là những điều tích cực, đều có ích cho nhân loại, đều là điều mà nhân loại nên tuân theo, cũng là điều mà nhân loại nên khao khát và mưu cầu”. Kết quả là sau khi tiếp xúc với một vài thông tin công nghệ cao, một vài thứ công nghệ cao, thì họ thay đổi cách nhìn về những chuyện này. Thay đổi thành luận điệu gì nào? Họ nói: “Chúng ta tin Đức Chúa Trời thì luôn nói cái gì mà quy luật sống, quy tắc của vạn vật và quy luật sinh tồn của vạn vật, lại còn cảm thấy chúng là điều tích cực. Như vậy là quá lạc hậu rồi! Như vậy là không có kiến thức, là ếch ngồi đáy giếng! Công nghệ hiện nay đã phát triển rồi, rất nhiều chuyện không cần tự tay làm, có sản phẩm công nghệ làm thay rồi, vậy gọi là tiên tiến! Anh xem, có những chiếc xe tự lái, anh lên xe, thiết lập điểm đến, rồi nói một câu là xe bắt đầu chạy. Cái đó đích thực là công nghệ cao, thật đáng ngưỡng mộ! Nhân loại đã phát triển được công nghệ cao, không cần làm gì mà cũng trở thành chủ nhân của vạn vật. Do đó, khoa học mới là đạo lý vững chắc nhất! Người ta mà không có tri thức và văn hóa, không hiểu khoa học thì sẽ lạc hậu và thấp kém!”. Cách nói của họ thay đổi rồi phải không nào? Trong lòng họ không phân định được sự khác biệt giữa những điều tích cực và những điều tiêu cực. Còn có người đến thăm bảo tàng hàng không thì cảm thán: “Ôi trời, mình đã được mở mang tầm mắt, khoa học quá phát triển rồi! Dân thường đến đây thì quá choáng ngợp, nhìn cái gì cũng không hiểu. Thật không tưởng tượng nổi khoa học hiện nay phát triển đến mức độ nào rồi. Chúng ta chưa hề tiếp xúc với những công nghệ cao và hiện đại này! Chúng ta vẫn còn tin Đức Chúa Trời, còn nói quy luật và quy tắc tự nhiên gì đó, quá lạc hậu rồi!”. Khi người ta thấy những thứ chói mắt này của xã hội hiện đại, thì những lý luận trước đây họ hiểu về những điều tích cực và tiêu cực đã hoàn toàn bị phủ nhận nơi sâu thẳm nội tâm họ rồi. Họ không nhận định rõ ràng hơn về điều gì là điều tích cực, mà thay vào đó, lại cho rằng những điều tích cực là thứ lạc hậu, không theo nổi công nghệ hiện đại và bước tiến phát triển của nhân loại hiện đại. Không những vậy, họ còn đặc biệt khen ngợi, đặc biệt khao khát những điều tiêu cực này, hy vọng trở thành một người phát triển công nghệ cao và hiện đại. Loại người này có phải là người rõ phải trái không? (Thưa, không.) Bởi vì rõ phải trái là một đặc trưng nên có trong nhân tính, vậy thì nó là một điều tự phát và vốn có, chứ không phải sau này mới hình thành. Nghĩa là đặc trưng rõ phải trái của nhân tính sẽ không thay đổi theo thời gian, hoàn cảnh địa lý hay con người, sự việc và sự vật. Không một người nào thay đổi nó được, cũng không một thứ gì thay đổi hay loại bỏ nó được. Trong sâu thẳm nội tâm của loại người rõ phải trái, những điều tích cực mãi mãi là điều mà họ khao khát, còn những điều tiêu cực mãi mãi là điều mà họ thấy phản cảm và ghê tởm, không phải là điều mà nhân tính họ cần. Cái họ cần là gì? Cái họ cần là những gì có ích cho quy luật của cuộc sống thể lý và sự sinh tồn thể lý của mình, là những gì tự nhiên, những gì làm cho người ta yên bình và bình lặng, là những gì phù hợp với lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường, chứ không phải là những thứ cao quý, hoành tráng, đẳng cấp gì cả. Ngươi xem, cùng làm người như nhau, có người thì thích cuộc sống đơn giản một chút, kín tiếng một chút, không thích sống kiểu rầm rộ, mà thích bình lặng, bình an và vui vẻ, sống một cách rất yên tĩnh. Nhưng lại có người không thích như vậy, họ thích rầm rộ, thích cao quý, hoành tráng và đẳng cấp, thích biểu diễn, thích nên người xuất chúng và nổi danh, chứ chẳng thích bình dị, chẳng thích tự nhiên. Đây chính là sự khác biệt về nhân tính.

Loại người không rõ phải trái có lẽ cũng sẽ thuận theo một vài câu nói đúng đắn và tích cực, hoặc bề ngoài họ cũng làm theo người khác mà thích và khao khát một vài điều tích cực. Nhưng một khi thời gian trôi qua, môi trường khác đi, con người, sự việc và sự vật thay đổi, thì trong sâu thẳm nội tâm họ, những điều tích cực sẽ lập tức trở thành những điều tiêu cực, đồng thời những điều tiêu cực mà họ thực sự thích sẽ theo đó mà trở thành những điều tích cực, thành đối tượng theo đuổi của họ. Nói cách khác, trước khi chưa thấy được bất kỳ điều tiêu cực nào mà mình thích, thì đối với họ, những điều tích cực chỉ là một dạng đạo lý, và họ có thể hùa theo số đông, gió chiều nào theo chiều đấy, nhưng theo tuổi tác tăng dần và thời gian trôi qua, những thứ họ thực sự yêu thích trong lòng và những quan điểm thực sự của họ sẽ tự nhiên ngoi lên. Chẳng hạn như, có người thường nói: “Tin Đức Chúa Trời là tốt, người tin Đức Chúa Trời thì đi theo con đường đúng đắn và không hành ác, đều là người tốt”. Nhưng sau khi họ tin Đức Chúa Trời được mấy năm, thấy những bài giảng đạo và mối thông công của nhà Đức Chúa Trời đều bảo người ta làm người trung thực, mưu cầu lẽ thật, thuận phục Đức Chúa Trời và làm bổn phận của loài thọ tạo, thì họ thấy phản cảm, cảm thấy tin Đức Chúa Trời chẳng có ý nghĩa, và muốn rời khỏi hội thánh mà quay về thế gian, lòng họ không còn ở hội thánh nữa. Người không yêu thích lẽ thật chính là vậy. Thực ra, loại người này đâu có yêu thích những điều tích cực, hơn nữa trong lòng họ có rất nhiều lý lẽ méo mó và tà thuyết. Đối với họ, những lý lẽ méo mó và tà thuyết này chính là điều tích cực, đồng thời trong sâu thẳm nội tâm, họ lại thấy phản cảm, ghê tởm và xem thường những điều tích cực, chẳng bao giờ tiếp nhận. Chính vì họ chẳng bao giờ tiếp nhận những điều tích cực, lại còn thích những điều tiêu cực, cho nên trong nhân tính của loại người này không có năng lực rõ phải trái. Cũng như có vài người khi mới tin Đức Chúa Trời thì chỉ tin vì muốn kiếm phúc lành. Sau khi nghe giảng đạo nhiều năm, cuối cùng họ hiểu ra rằng: “Tin Đức Chúa Trời nghĩa là được yêu cầu làm người trung thực, trung thành và chịu trả giá trong khi làm bổn phận, có lòng thành với Đức Chúa Trời, không được tùy ý làm càn, còn phải bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Nhất là vào lúc lợi ích của nhà Đức Chúa Trời xung đột với lợi ích bản thân, thì phải bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và từ bỏ lợi ích bản thân”. Khi đã hiểu được mọi phương diện lẽ thật khác nhau rồi, thì họ hối hận vì đã tin Đức Chúa Trời, nói rằng: “Tôi cứ tưởng tin Đức Chúa Trời nghĩa là sẽ có một đoàn thể lớn, một thế lực lớn để có thể cậy dựa, tưởng rằng chỉ cần người ta vửt bỏ nhiều, chịu khổ và trả giá là có thể vào vương quốc và có đích đến tốt đẹp, oanh liệt bước vào thời đại kế tiếp và làm chủ nhân của thời đại, nắm quyền như vua. Hóa ra không phải như vậy. Việc tin Đức Chúa Trời toàn là về chuyện dạy người ta cách làm người, cách thuận phục Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, nhất là luôn bảo người ta làm người trung thực và nói lời trung thực, luôn yêu cầu người ta thực hành lẽ thật, không để người ta tự mình định đoạt. Vậy thì tin Đức Chúa Trời còn có ý nghĩa gì chứ?”. Trong lòng họ nảy sinh sự oán trách, muốn rút lui và không tin nữa. Nhưng khi nghĩ đến chuyện đã tin Đức Chúa Trời mấy năm rồi, giờ mà không tin nữa thì chẳng phải là đã tin uổng công sao, thế là họ không cam tâm. Nhưng nếu tiếp tục tin, thì họ lại chẳng có hứng thú với lẽ thật. Nhà Đức Chúa Trời lúc nào cũng nói về chuyện mưu cầu lẽ thật và bước vào thực tế, lúc nào cũng nói chuyện thuận phục Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật, và hành động theo nguyên tắc. Họ nghe những chuyện đó thì thấy phiền, không muốn nghe nữa. Nhất là khi nói đến chuyện thực hành lẽ thật thì lòng họ khó chịu và đau khổ, khi nói đến những điều tích cực thì họ thấy phản cảm và khinh thường trong lòng, không sẵn lòng nghe. Có những người biết mình có tin đến cùng thì cũng chẳng đạt được lẽ thật, chẳng đạt được đích đến tốt đẹp gì, nên họ dứt khoát không tin nữa. Có người đi làm công hoặc làm ăn, có người về nhà để kết hôn. Họ không tin Đức Chúa Trời nữa là vì họ không yêu thích lẽ thật. Nhà Đức Chúa Trời luôn nói về lẽ thật và thông công lẽ thật, điều mà họ đặc biệt thấy phản cảm. Điều này cho thấy loại người này không có lương tâm, lý trí, và không rõ phải trái. Không rõ phải trái nghĩa là trong nhân tính của họ không có tiêu chuẩn lẫn năng lực để nhận diện những điều tích cực và những điều tiêu cực, đây là điều mà họ không có. Vậy loại người này có nhân tính bình thường không? (Thưa, không có.) Họ là thứ không phải người. Nếu họ thực sự là người có nhân tính, thì có một điều có thể chứng minh được chuyện đó, chính là trong lòng dạng người này thì yêu thích và khao khát những điều tích cực. Ngay cả khi trong lòng không hiểu lẽ thật, thì họ cũng khao khát một xã hội công bằng và không có bóng tối, khao khát những điều tích cực, khao khát lẽ thật nắm quyền. Nhưng xã hội tà ác này không tạo ra không gian như vậy cho người ta, nếu người ta có thể bộc lộ ra những điều tích cực thì còn bị bài xích và chèn ép. Ở trong bối cảnh như vậy, người có nhân tính không có cách nào đạt được những điều tích cực mà họ thích và khao khát, nên họ thấy phiền não trong lòng. Nhưng sau khi tin Đức Chúa Trời, thông qua việc đọc lời Đức Chúa Trời và nghe giảng đạo, họ hiểu được rất nhiều lẽ thật. Những lẽ thật này ăn khớp và tương hợp với những điều tích cực họ yêu thích trong nhân tính, vừa hay thỏa mãn nhu cầu của họ đối với những điều tích cực, cho nên lòng họ càng thêm khao khát những điều tích cực. Mặc dù hiện tại, vì bị hoàn cảnh hạn chế, vì vóc giạc còn kém, vì bị phương diện tâm tính bại hoại nào đó của mình kìm kẹp và trói buộc, mà họ chưa thể hoàn toàn thực hành được lẽ thật, nhưng họ có ý chí và có nguyện vọng sau này sẽ có một ngày họ có thể hoàn toàn thực hành theo lẽ thật và lời Đức Chúa Trời, đạt đến việc thuận phục lời Đức Chúa Trời và thỏa mãn nhu cầu của bản thân đối với những điều tích cực. Dạng người như vậy chính là dạng người mà trong nhân tính có phẩm chất rõ phải trái, họ chính là người có nhân tính. Nếu ngươi chỉ nói là mình yêu thích những điều tích cực và ngoài miệng thừa nhận mọi việc Đức Chúa Trời làm đều tốt, thì đó chỉ là nói đạo lý và hô khẩu hiệu. Nói những lời dễ nghe và lý luận đúng đắn hoặc nói chuyện trên trời – mấy việc đó ai cũng làm được. Như vậy không thể cho thấy ngươi thực sự yêu thích những điều tích cực. Nhưng nếu khi nghe được lẽ thật, ngươi có thể yêu thích và khao khát, càng nghe lẽ thật thì càng khao khát lẽ thật, tinh thần tìm kiếm lẽ thật càng cao, đức tin vào chuyện đi theo Đức Chúa Trời và đạt được sự cứu rỗi càng kiên định, hơn nữa trong quá trình tin Đức Chúa Trời, các phương diện mưu cầu của ngươi đều có thu hoạch, ngươi cũng dần dà thoát khỏi tâm tính bại hoại, những hành vi chống đối và phản nghịch Đức Chúa Trời của ngươi ngày càng ít đi – vậy thì ngươi chính là người yêu thích những điều tích cực, chính là người có thực tế lẽ thật. Dạng người này mà tin Đức Chúa Trời thì sẽ có thành quả và thu hoạch. Ngươi có thể cảm nhận được bản thân đã có sự thay đổi, thái độ của ngươi đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật đã khác với trước đây. Trước đây, ngay cả trong những chuyện rất nhỏ, ngươi cũng có thể phản nghịch Đức Chúa Trời, không thể thuận phục Ngài, và không thể thực hành lẽ thật. Nhưng thông qua mấy năm mưu cầu, thông qua mấy năm làm bổn phận, cùng với sự nỗ lực về mọi mặt của bản thân, mà ngươi đã hiểu được đôi phần lẽ thật, khi gặp chuyện thì có thể tìm kiếm lẽ thật và chống lại dục vọng của xác thịt. Trong một vài chuyện lớn có liên quan đến nguyên tắc, ngươi cũng có thể giữ vững nguyên tắc, không hành động theo ý riêng, lại còn có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và công tác của hội thánh. Như vậy nghĩa là ngươi có được vóc giạc nhất định rồi, cũng có được một vài sự thực hành và lối vào về phương diện chống lại bản thân, tiếp nhận và thuận phục lẽ thật, đồng thời, tâm tính bại hoại khác nhau của ngươi cũng đã có sự thay đổi với những mức độ khác nhau. Đây là biểu hiện về phương diện rõ phải trái của người thực sự có nhân tính.

Người không rõ phải trái thì cũng muốn tiếp nhận lẽ thật, cũng sẵn lòng mưu cầu sự cứu rỗi, nhưng khi gặp chuyện thì họ không thực hành được lẽ thật. Họ vẫn còn sống theo tâm tính bại hoại, thường xuyên phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời mà chẳng ý thức được. Mười năm trước, họ phản nghịch Đức Chúa Trời thế nào, mười năm sau vẫn có thể phản nghịch Đức Chúa Trời thế đó. Họ không tiếp nhận, cũng không thực hành lẽ thật. Chuyện này có hai nguyên nhân: Một là họ căn bản không hiểu lẽ thật là gì, nên họ cứ bám giữ đạo lý của mình, bám giữ câu nói và cách nhìn nhận của mình. Mặt khác, họ căn bản không phải là người tiếp nhận lẽ thật, mười năm trước họ phản nghịch Đức Chúa Trời thế nào thì mười năm sau, họ vẫn cứ như vậy, chẳng thay đổi gì. Họ tin bao nhiêu năm thì cũng chẳng có lời chứng về việc tiếp nhận lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời, càng không có lời chứng về việc chống lại xác thịt và tâm tính bại hoại. Như vậy thì họ không phải là người tiếp nhận lẽ thật. Dạng người này không phải là người rõ phải trái, cũng có thể nói, họ không phải là người có nhân tính, nói trắng ra thì họ không phải là con người. Có những người nghe xong lời này thì trong lòng thấy không phục, nói rằng: “Tôi tin Đức Chúa Trời hơn mười năm rồi và luôn làm bổn phận. Chỉ là thỉnh thoảng tôi có phạm chút sai lầm và bị tỉa sửa một chút, đó chẳng phải là chuyện rất bình thường sao? Con người đều có tâm tính bại hoại, ai mà chẳng có sai lầm? Bất kể nói thế nào, tôi cũng tin thật, tại sao lại nói là tôi không có nhân tính chứ?”. Đúng là ngươi tin thật, nhưng tin thật thì có nghĩa là ngươi có thể tiếp nhận lẽ thật sao? Tin thật thì có nghĩa là ngươi có thể chống lại xác thịt và không tùy theo ý mình sao? Tin thật thì có nghĩa là ngươi có thể thuận phục Đức Chúa Trời sao? Đâu có nghĩa là như vậy. Tin thật không phải là tất cả, không có nghĩa là ngươi có thể được cứu rỗi. Muốn đạt được sự cứu rỗi, thì điều quan trọng là phải xem nhân tính của ngươi có thể tiếp nhận lẽ thật hay không, và ngươi có thể đạt đến chuyện rõ phải trái hay không. Tin thật không phải là điều kiện quan trọng nhất, cũng không phải là điều kiện cơ bản để người ta cuối cùng được cứu rỗi. Ngươi nói mình tin thật, vậy ngươi hiểu được bao nhiêu lẽ thật, đạt được bao nhiêu lẽ thật rồi? Vào những lúc có liên quan đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thì ngươi bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời được mấy lần? Nếu ngươi cảm thấy mình tin thật, mình có lương tâm và nhân tính, mình là con người đích thực, vậy trong những chuyện giống nhau, mười năm trước ngươi có thể phản nghịch Đức Chúa Trời, mười năm sau ngươi còn có thể phản nghịch Đức Chúa Trời không? Ngươi đã thay đổi chưa? Ngươi đã chống lại xác thịt chưa? Nếu ngươi chưa chống lại xác thịt, thì trong mười năm tiếp theo, ngươi có thể chống lại được nó không? Nếu ngươi vẫn không chống lại được xác thịt, vẫn có thể phản nghịch Đức Chúa Trời, thì cho thấy nhân tính của ngươi có vấn đề. Ngươi không thực hành được lẽ thật, thì ngay cả khi ngươi nói mình tin thật cũng vô ích thôi. Ngươi nói mình sẵn lòng chịu khổ và trả giá, sẵn lòng trung thành làm bổn phận, nhưng cái sẵn lòng đó chẳng đáng một xu. Nó chỉ là tiền đề để ngươi có thể thực hành lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời, nhưng cuối cùng ngươi có thể thực hành được không thì còn phải xem ngươi có nhân tính hay không. Nếu lòng ngươi chẳng bao giờ có thể ràng buộc và khống chế tâm tính bại hoại của ngươi, ngươi lại còn chọn bảo vệ lợi ích bản thân, chọn những điều tiêu cực thay vì những điều tích cực, vậy thì nó cho thấy nhân tính của ngươi không yêu thích lẽ thật và không có năng lực khống chế tâm tính bại hoại. Lúc chưa hiểu lẽ thật, nếu ngươi không có năng lực khống chế sự bộc lộ tâm tính bại hoại, thì còn tha thứ được. Nhưng bây giờ khác rồi. Ngươi nghe những bài giảng liên quan đến lẽ thật suốt nhiều năm như vậy, mà vẫn không thể ràng buộc được tâm tính bại hoại của mình để khi gặp chuyện thì có thể thực hành theo nguyên tắc và đưa ra lựa chọn đúng đắn. Ngươi thấy rõ có kẻ ác quấy nhiễu công tác của hội thánh, mà lại không thể đứng ra bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Nhưng khi có người làm tổn hại lợi ích thiết thân của ngươi, thì ngươi lại có thể cực lực bảo vệ lợi ích của mình. Như vậy là đủ chứng tỏ trong nhân tính của ngươi chẳng có lương tâm và lý trí để có thể đưa ngươi vào chuẩn mực, có thể ràng buộc ngươi chọn lựa con đường và nguyên tắc thực hành đúng đắn. Nếu ngươi làm những việc thiếu lý trí như vậy rồi mà vẫn nói mình là con người, thì nó cho thấy lương tâm và lý trí của ngươi không còn tác dụng nữa. Vậy thì ngươi không phải là người bình thường nữa, bởi vì trong nhân tính của ngươi chẳng có lương tâm và lý trí, cũng chẳng có thứ gì có thể khiến ngươi đưa ra lựa chọn đúng đắn. Các ngươi đã hiểu chưa? Có những người nói: “Hiện tại vóc giạc của con còn nhỏ, vì môi trường và sự giáo dục trong gia đình mà con tùy ý, buông thả và ngạo mạn. Nhưng trong cuộc sống thực, con biết cái gì là điều tích cực và cái gì là điều tiêu cực, điều gì nên làm và điều gì không nên làm. Chỉ là vì vóc giạc nhỏ, không có người hiểu lẽ thật khuyên bảo và đốc thúc, nên con mới chưa thực hành lẽ thật và để lại vài vi phạm, cảm thấy có chút hối tiếc trong lòng”. Trong cuộc sống thực, dạng người này cũng có thể dựa vào lương tâm mà chuẩn hóa hành vi của mình và ràng buộc bản thân đi con đường đúng đắn. Người như vậy thì có thể cứu vãn được. Bởi vì họ có thể tiếp nhận lẽ thật, còn có thể thực hành được một chút lẽ thật và có được phần nào sự thay đổi, chỉ là bước tiến của họ chậm hơn một chút và phạm vi tiến bộ của họ hẹp hơn một chút so với người bình thường, nhưng họ vẫn đang thay đổi. Cũng giống như hạt giống được gieo ở nơi đất tốt thì lớn lên nhanh, còn hạt giống gieo vào giữa bãi cát hoặc trong khe đá thì lớn lên chậm hơn một chút, gian nan hơn một chút, nhưng chỉ cần sự sống của nó còn tồn tại thì nó sẽ lớn lên. Con người cũng vậy, chỉ cần trong nhân tính của họ có lương tâm và lý trí mà con người nên có, thì chứng tỏ họ có sự sống của con người – họ tiếp nhận lẽ thật rồi thì sẽ có sự thay đổi. Ngay cả khi thay đổi chậm thôi – người khác qua mười năm đã tiến bộ rất nhiều, họ thì qua 30 năm mới có chút tiến bộ – mặc dù chậm một chút, nhưng họ đang phát triển theo chiều hướng tốt, đang thay đổi, và sự sống của họ đang liên tục lớn lên. Bất kể lớn lên nhanh hay chậm, tóm lại, loại người này có phẩm chất của nhân tính. Nhưng có một loại người, mặc dù đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm rồi mà sự sống chẳng tiến bộ chút nào, được ai thông công về lẽ thật, họ cũng thấy phản cảm và không muốn nghe. Đức Chúa Trời sắp đặt hoàn cảnh gì, họ cũng không thể tìm kiếm lẽ thật và rút ra bài học từ trong đó, không đạt được sự hướng dẫn và giúp đỡ tích cực từ đó. Trong lòng họ chán ghét những điều tích cực, tâm tính và lối sống muốn gì làm nấy của họ chẳng bao giờ thay đổi. Dạng người này chính là người không có lương tâm và lý trí, không phải là loài người, mà là thứ không phải người. Giảng như vậy chẳng phải là càng giảng càng rõ ràng, càng giảng càng dễ hiểu sao? (Thưa, phải.)

Còn có một loại người nữa: Họ cũng biết tin Đức Chúa Trời là tốt, nhưng họ chẳng hiểu được điều tích cực là gì và điều tiêu cực là gì, cũng khỏi nói đến chuyện họ dùng lương tâm mà chuẩn hóa và ràng buộc lời lẽ và hành vi của mình. Những người này thì càng dễ phân định. Loại người này thì khỏi nói đến chuyện yêu thích lẽ thật, họ cũng chẳng đến được mức độ hiểu chuyện. Với họ, mọi chuyện này đều là một mớ hỗn độn khó hiểu. Ngươi hỏi họ xem những điều tích cực là gì, thì họ cũng biết nói về mặt đạo lý rằng mọi lời phán và việc làm của Đức Chúa Trời đều là điều tích cực. Họ nói thì dễ nghe lắm, nhưng gặp chuyện gì, họ cũng không biết liên hệ, không biết phân định, đầu óc họ như hồ dán, ngây ngô ngờ nghệch, chẳng rõ được chuyện gì. Ngươi hỏi xem sau nhiều năm tin Đức Chúa Trời như vậy, họ đã đạt được lẽ thật nào rồi, thì họ trả lời: “Đức Chúa Trời tể trị vạn vật, mọi việc Đức Chúa Trời làm với con người đều tốt, Đức Chúa Trời yêu thương con người. Sa-tan chống đối Đức Chúa Trời, hãm hại, bách hại và tàn hại con người”. Ngươi hỏi xem họ còn đạt được gì nữa không, thì họ nói: “Phải làm bổn phận cho đàng hoàng, phải chịu khổ và trả giá thêm”. Ngươi hỏi tiếp xem nên dựa vào nguyên tắc nào khi làm bổn phận, thì họ nói: “Bên trên nói gì cũng phải nghe, bảo làm gì cũng phải làm, bất kể là việc bẩn thỉu, mệt nhọc thế nào cũng phải làm cho đàng hoàng. Không được gây gián đoạn và nhiễu loạn, không được gây rắc rối. Phải làm việc có ích cho mọi người và cho nhà Đức Chúa Trời”. Họ nói những đạo lý đó đều đúng cả, chẳng có câu nào sai, nhưng khi gặp chuyện thì họ toàn bộc lộ những quan điểm lệch lạc và ngu xuẩn. Ngươi chỉnh đốn họ bao nhiêu lần rồi mà họ vẫn không thay đổi được. Họ là thứ gì vậy? (Thưa, là người hồ đồ.) Người hồ đồ có phải là người không? (Thưa, không phải.) Người hồ đồ là gì? (Thưa, là súc sinh.) Nói kiểu văn minh thì gọi là động vật, nói kiểu thông tục thì là súc sinh. Bất kể đã nghe bao nhiêu bài giảng, họ vẫn không hiểu được lẽ thật là gì, những điều tích cực là gì và những điều tiêu cực là gì. Họ làm biết bao nhiêu việc phản nghịch Đức Chúa Trời mà trong lòng vẫn chẳng có ý thức gì, lại còn cảm thấy bản thân bẩm sinh tốt bụng, có lòng đồng cảm với người khác. Thấy ai chịu khổ, họ cũng đau lòng, chỉ hận không thể chịu khổ thay người ta. Thấy ai không có ăn, không có mặc, thì họ muốn lấy áo quần, lấy đồ ăn của mình cho người ta. Nghe bao nhiêu lời Đức Chúa Trời vạch trần sự bại hoại của nhân loại rồi, mà họ vẫn cảm thấy bản thân mình rất tốt, tốt hơn bất kỳ ai. Họ làm biết bao nhiêu việc sai mà vẫn không biết mình sai ở đâu và chẳng bao giờ thừa nhận bản thân có tâm tính bại hoại. Ngươi mà hỏi họ: “Anh có phải là loài người bại hoại không? Anh có tâm tính bại hoại không?” thì họ nói: “Có chứ, con người ai cũng có sự bại hoại, làm sao tôi không có được chứ? Anh toàn nói những lời ngốc nghếch thôi!”. Họ còn nói ngươi ngốc cơ đấy. Nhưng khi làm sai thì họ không thừa nhận, còn đẩy trách nhiệm sang người khác. Bất kể làm sai gì, họ cũng không thừa nhận, làm việc xấu đến mức nào, họ cũng đều có cái cớ và lý do để biện bạch. Dạng người này có lý trí không? Họ có phải là người rõ phải trái không? (Thưa, họ không có lý trí và không rõ phải trái.) Ngươi thấy họ ngày ngày đều dốc công sức, nghe giảng đạo và đọc lời Đức Chúa Trời từ sáng sớm đến tối mịt, nhưng họ lại không hiểu được một câu lẽ thật nào, cũng chẳng làm được một việc nào phù hợp nguyên tắc lẽ thật, chẳng nói được câu nào phù hợp lẽ thật. Khỏi nói đến những lời phù hợp với lẽ thật, ngay cả những lời phù hợp với lương tâm và lý trí của nhân tính mà họ còn không nói ra được, thay vào đó, họ toàn nói những lời hồ đồ và phi lý, toàn nói lý lẽ méo mó. Dạng người này căn bản không đến được mức có lương tâm và lý trí, họ chỉ là kẻ hồ đồ, miệng toàn là những lý lẽ méo mó. Họ nghe giảng đạo nhiều thì cũng nói được chút lời thuộc linh. Ngươi nghe họ nói những lời thuộc linh thì thấy họ có vẻ thông thạo lắm, thông tỏ lắm, nhưng đến khi làm việc thì ngươi phát hiện ra họ vừa hồ đồ vừa phi lý, họ mà nói lý lẽ méo mó thì có thể khiến ngươi cạn lời. Cạn lời nghĩa là gì? Nghĩa là ngươi không tưởng tượng nổi lại có người có thể nói ra lời phi lý như vậy, có tư duy như vậy, nói thẳng là ngươi không thể tin nổi. Cuối cùng, ngươi chỉ có thể dùng cách lặng thinh mà đối đãi với họ, đấy là biện pháp đối phó tốt nhất.

Nếu người ta là con người và có nhân tính bình thường, thì rõ phải trái là một điều rất quan trọng. Khi chưa đạt được sự cung ứng từ lời Đức Chúa Trời và vẫn chưa hiểu lẽ thật, người ta có thể dựa vào lương tâm và lý trí để hiểu được một vài điều tích cực và tiêu cực đơn giản. Họ có năng lực phân định và nhận biết nhất định đối với một vài điều tích cực và tiêu cực mà họ tiếp xúc trong cuộc sống thực. Họ có thể có sự phân định đối với những thường thức cơ bản của nhân tính, quy luật sinh tồn của con người, cùng một vài con người, sự việc và sự vật thường gặp phải. Họ không phải là người sống một cách hồ đồ, thay vào đó, họ có năng lực phân định và năng lực nhận biết về những điều tích cực và tiêu cực trong nhân gian, đương nhiên họ cũng có tư tưởng, lập trường và thái độ đúng đắn nhất định về chúng. Đến năm 30 tuổi, dạng người này bắt đầu dần tiếp xúc với những chuyện đủ mọi mặt trong đời. Ngay cả khi chưa đọc lời Đức Chúa Trời, cũng chưa đạt được sự cung ứng từ lời Đức Chúa Trời, nhưng sống đến năm 50 hay 60 tuổi thì họ cũng có thể dần dà tổng kết được điều tích cực là gì và điều tiêu cực là gì, sau đó, họ sống theo những điều tích cực mà bản thân có thể lĩnh hội được và tuân theo một vài quy luật của những điều tích cực. Đối với một vài điều tiêu cực, ngoài việc có thể phân định chúng ra, họ còn có thể tránh xa chúng từ sâu thẳm nội tâm. Nếu bất đắc dĩ phải đi theo trào lưu của thế gian, đi theo một vài triết lý xử thế và câu nói lưu hành giữa mọi người, thì họ cũng cảm thấy làm vậy là trái với lương tâm, và lương tâm sẽ khiển trách họ. Từ sâu thẳm nội tâm, họ không tiếp nhận dạng quan điểm đó, chỉ vì mục đích sinh tồn, vì lợi ích nhất thời mà họ bất đắc dĩ phải làm như vậy. Nhưng đó không phải là dự định ban đầu của họ, chỉ là lựa chọn bất đắc dĩ thôi. Dạng người này tin Đức Chúa Trời rồi thì càng chú trọng xem rốt cuộc lời Đức Chúa Trời phán những gì về đủ mọi dạng vấn đề liên quan đến cuộc sống và sự sinh tồn của con người, rốt cuộc Đức Chúa Trời có những câu nói chính xác nào về những vấn đề nan giải trong cuộc sống của con người, rốt cuộc Đức Chúa Trời bảo con người làm như thế nào. Họ khao khát đáp án cho những vấn đề này. Khi có được đáp án rồi, họ không cảm thấy việc thực hành theo lời Đức Chúa Trời là chuyện quá khó khăn hay là quá không phù hợp với nhu cầu của nhân tính. Thay vào đó, họ cảm thấy những lẽ thật này mới là con đường thật, mới là điều mà con người nên có và nên làm được, mới là hình tượng mà con người nên có trong cuộc sống. Họ cảm thấy nếu con người sống như vậy thì sẽ thực sự có thể thỏa mãn nhu cầu của lương tâm và nhân tính của mình, sống như vậy thì mới không trái lòng mình, mới vững vàng, mới bình an và vui vẻ. Họ cũng cảm thấy sống như vậy thì mới có hy vọng và sẵn lòng sống tiếp, mới có thể thoát khỏi các loại thế lực tà ác, các loại trào lưu tà ác và tình trạng cuộc sống trống rỗng của con người. Dưới tác dụng của lương tâm nơi sâu thẳm nội tâm, họ có thiện cảm với những câu nói, sự dạy bảo và sự cung ứng khác nhau của lời Đức Chúa Trời, họ thuận theo những điều này từ trong sâu thẳm nội tâm. Họ có mong muốn mưu cầu và đạt được lẽ thật. Hơn nữa, khi lời Đức Chúa Trời được bày tỏ ngày càng nhiều, sự cung ứng của lời Đức Chúa Trời ngày càng thực tế và chi tiết, thì nhu cầu của họ trong sự khao khát lẽ thật và những điều tích cực ngày càng được thỏa mãn. Họ không phải kiểu càng nghe càng ngồi không yên, càng nghe càng thấy rối rắm, càng nghe càng thấy mù mờ. Ngược lại, họ càng nghe thì càng cảm thấy mọi chuyện rõ ràng, càng cảm thấy mình có thể nhìn thấu chuyện và có con đường. Họ cảm thấy phía trước có hy vọng rồi, đã thấy được sự sáng rồi, cũng có con đường để thực hành lẽ thật và đạt được sự cứu rỗi rồi. Trong lòng họ ngày càng vững vàng, ngày càng cảm thấy con đường tin Đức Chúa Trời là đúng, cảm thấy cái giá đã trả và sinh lực, tâm huyết đã bỏ ra khi tin Đức Chúa Trời đến ngày hôm nay đều xứng đáng và có ý nghĩa. Điều này đã được chứng thực nơi sâu thẳm tâm hồn họ. Mặc dù tâm nguyện đã được thỏa mãn, lòng khao khát lẽ thật cũng được thỏa mãn phần nào, nhưng những người thực sự khao khát lẽ thật sẽ tiếp tục hạ quyết tâm và lên kế hoạch, yêu cầu bản thân thực hành và bước vào mọi phương diện lẽ thật, đem lời Đức Chúa Trời, các nguyên tắc lẽ thật khác nhau và các yêu cầu khác nhau của Đức Chúa Trời thực hiện nơi bản thân mình, để lời Đức Chúa Trời trở thành tiêu chuẩn cho hành động và việc làm người của mình trong cuộc sống thực, thành thực tế sự sống của mình. Trước đây, lúc chưa hiểu lẽ thật, họ chỉ có thể nói chút câu chữ và đạo lý, khi gặp chuyện thì chỉ thấy được một mặt hệt như thầy bói xem voi, họ không thấy được thực chất vấn đề và không biết làm thế nào. Họ cảm thấy cuộc sống quá vô vị, chẳng có mục tiêu, chẳng có hy vọng, và họ cứ sống một cách ngây ngô ngốc nghếch. Nhưng hiện tại họ không như vậy nữa, lời Đức Chúa Trời càng phán thì càng rõ ràng, lẽ thật càng được thông công thì càng rõ ràng. Họ cảm thấy con đường ngày càng sáng sủa và rõ ràng, cảm thấy đã có đường để đi rồi. Và trong mỗi một lời họ nói, mỗi một việc họ làm và đối với mỗi một loại người họ gặp, họ đều có thể lấy lời Đức Chúa Trời làm căn cứ để tuân theo. Họ cảm thấy lời Đức Chúa Trời quá thực tế, quá tốt. Họ khẳng định rằng tin Đức Chúa Trời chính là con đường thật, tin Đức Chúa Trời thì có thể được cứu rỗi, tin Đức Chúa Trời như vậy thì có thể đạt đến việc sống thể hiện ra hình tượng con người, thật quá ý nghĩa và có giá trị! Trong khi khao khát và thực hành lẽ thật, họ cũng không ngừng bước vào những lẽ thật này, không ngừng có được thu hoạch tốt. Khi sự khao khát và nhu cầu trong lương tâm và nhân tính của họ đối với những điều tích cực được thỏa mãn, thì đồng thời sự sống của họ cũng dần có sự biến đổi. Mặc dù họ thường xuyên bộc lộ tâm tính bại hoại, thường xuyên phản nghịch Đức Chúa Trời, thường xuyên không kìm được bản thân mà hành động thuận theo tâm tính bại hoại, xác thịt và những tư tưởng, quan điểm ngu xuẩn và sai lầm của mình, nhưng đồng thời họ cũng có một hiện tượng tốt này: Khi họ làm như vậy thì lương tâm họ thường xuyên cảm thấy bất an, họ cảm thấy tâm tính bại hoại của mình đã thâm căn cố đế và không dễ giải quyết. Sau đó, dưới tác dụng của lương tâm, trong lòng họ thường chịu sự khiển trách, cảm thấy có lỗi và hối hận. Họ thường xuyên phản tỉnh xem việc mình làm rốt cuộc sai ở đâu, cũng thường xuyên hối cải. Đây đều là tác dụng của lương tâm. Người có lương tâm thì sẽ có những cảm giác này và những biểu hiện này. Người có lương tâm thì sẽ có trạng thái cuộc sống như vậy, thường xuyên phản tỉnh, cũng thường xuyên hối cải và xoay chuyển. Mặc dù thường xuyên gặp phải thất bại và trở ngại, còn thường xuyên bị tỉa sửa, phán xét và hành phạt vì làm việc sai trái, nhưng vì thường xuyên hối cải và thay đổi, nên mục tiêu mưu cầu lẽ thật của họ vẫn y nguyên, cuối cùng họ cũng có được một kết quả tốt và thu hoạch tốt. Thường xuyên cảm thấy bị khiển trách, cảm thấy có lỗi, cũng thường xuyên có sự xoay chuyển và hối cải – đây là hiện tượng tốt, nó cho thấy họ đã đi vào con đường đúng đắn, và cuối cùng sẽ có được thu hoạch thực sự. Một mặt, tâm tính bại hoại của họ giảm đi đến một mức độ nhất định, thành phần phản nghịch Đức Chúa Trời trong họ cũng giảm bớt. Trước đây khi gặp chuyện gì không phù hợp với quan niệm của mình là họ có thể buông lời oán trách, nhưng bây giờ họ không oán trách nữa, mà có thể tìm kiếm lẽ thật, họ biết việc dựa vào quan niệm và tưởng tượng mà đối đãi với Đức Chúa Trời và công tác của Ngài là phi lý, hoang đường và không đúng đắn. Mặt khác, trước đây mà gặp khó khăn là họ tiêu cực, nhưng bây giờ họ không tiêu cực nữa, mà có thể tiếp cận với chúng một cách đúng đắn, có thể thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời. Mặc dù có những lúc họ cũng tiêu cực, nhưng chuyện đó không ảnh hưởng đến việc làm bổn phận của họ, và họ có lòng trung thành khi làm bổn phận. Lương tâm họ sẽ nói với họ rằng làm như vậy là đúng. Lúc làm như vậy thì trong lòng họ được bình an, không thấy áy náy, và ngày càng cảm thấy mình nên làm như vậy. Họ càng thực hành như vậy thì càng cảm nhận được tầm quan trọng của việc tìm kiếm và thực hành lẽ thật trong mọi chuyện, càng cảm thấy mình nên tìm kiếm lẽ thật và thực hành theo nguyên tắc lẽ thật, cảm thấy con đường này đúng và dạng thực hành như vậy đem lại thu hoạch. Khi có thu hoạch như vậy, người ta sẽ phát hiện ra mối quan hệ giữa bản thân với Đức Chúa Trời đang biến đổi, sự sống bên trong họ cũng đang biến đổi, tâm tính bại hoại ngày càng mất vai trò làm chủ, ngày càng bớt trói buộc và kìm kẹp họ, nguyện vọng mưu cầu lẽ thật và sự khao khát lẽ thật của họ thì ngày càng lớn, sức mạnh để họ thực hành lẽ thật và chiến thắng tâm tính bại hoại cũng ngày càng lớn. Như vậy, họ sẽ có một dạng cảm giác, cảm thấy mình có hy vọng thoát khỏi tâm tính bại hoại và đạt được sự cứu rỗi rồi, cảm thấy con đường mình đi là đúng, cảm thấy việc tiếp nhận, thực hành và thuận phục lẽ thật là đúng. Người có lương tâm và lý trí của nhân tính thì có thái độ như vậy đối với lẽ thật. Đây là biểu hiện của người ta trong quá trình từng bước tiếp nhận lẽ thật, và đây là biểu hiện bình thường nhất. Người không có những biểu hiện này thì ít nhất lương tâm của họ không thể thực hiện được bất kỳ vai trò chuẩn hóa nào. Nếu ngươi có lương tâm, thì chắc chắn lương tâm của ngươi có thể thực hiện được vai trò chuẩn hóa, nếu lương tâm của ngươi không thực hiện được vai trò chuẩn hóa, thì lương tâm của ngươi không phải là lương tâm, và ngươi không có lương tâm. Nếu có lương tâm, người ta sẽ có thể rõ phải trái, sẽ phân định được điều tích cực và điều tiêu cực, cũng sẽ chọn những điều tích cực và vứt bỏ những điều tiêu cực. Nếu có lương tâm và rõ phải trái, người ta sẽ chọn tiếp nhận, thực hành và thuận phục lẽ thật, chọn hành động theo nguyên tắc lẽ thật. Nếu lần này không thực hành lẽ thật, thì lương tâm sẽ khiển trách họ, đến lần sau không thực hành lẽ thật thì lương tâm vẫn sẽ khiển trách họ. Nếu có tri giác của lương tâm, hiểu phải trái, và đã nghe nhiều lẽ thật rồi, thì khi ngươi làm việc sai trái nhiều lần, lương tâm ngươi sẽ khiển trách và cáo tội ngươi gấp bội, rồi ngươi sẽ có thể thuận phục cảm giác của lương tâm và đưa ra chọn lựa đúng đắn. Có một vài người nói: “Con làm sai, thì cũng bị lương tâm khiển trách. Nhưng sau mười năm, 20 năm bị khiển trách, con vẫn không muốn chọn việc thực hành lẽ thật”. Vậy thì Ta nói cho biết, lương tâm của ngươi chẳng phải là lương tâm. Ngươi nói mình cảm nhận được sự khiển trách của lương tâm, nhưng biết bao nhiêu năm trôi qua, mà ngươi vẫn không thể xoay chuyển và hối cải. Cái gọi là lương tâm của ngươi chẳng có tác dụng kiểm soát việc ngươi chọn con đường đúng đắn, thế thì lương tâm của ngươi chẳng phải là lương tâm, và ngươi cũng chẳng có nhân tính. Ngươi nói: “Con vẫn biết đúng sai, sao lại nói con không có lương tâm chứ?”. Vậy thì chỉ có thể nói rằng lòng ngươi quá cương ngạnh và lương tâm của ngươi đã chẳng còn tác dụng nữa. Nếu ngươi thực sự có lương tâm của nhân tính, thì khi ngươi làm việc sai trái và bị lương tâm khiển trách, nhân tính của ngươi sẽ hướng về điều tích cực và lương tâm sẽ cáo buộc ngươi từ bên trong rằng: “Làm vậy không đúng, làm vậy thì quá thiếu nhân tính!”. Luôn bị khiển trách như thế, dạng người nào lại không có tri giác được chứ? Chỉ có người không có lương tâm mới không có tri giác thôi. Nếu ngươi thực sự có lương tâm và bị lương tâm khiển trách, thì ngươi còn có thể tiếp tục cương ngạnh sao? Ngươi nói: “Con bị khiển trách suốt mười năm, 20 năm, mà cũng chẳng thấy sao cả”, vậy thì ngươi không phải là người có lương tâm. Có phải vậy không? (Thưa, phải.) Ngươi không có lương tâm mà còn nói mình có nhân tính, vậy chẳng phải là lừa người sao? Ngươi có nhân tính thì làm sao lại không có lương tâm? Ngươi không có lương tâm, thì ngươi không có nhân tính. Một dấu hiệu để xác định người ta không có nhân tính chính là họ không hiểu được điều tích cực là gì và điều tiêu cực là gì. Ngươi nói mình có lương tâm, vậy tại sao ngươi lại không rõ phải trái? Đã nghe nhiều bài giảng đến vậy rồi, tại sao ngươi không khao khát mưu cầu lẽ thật? Ngươi nói: “Lòng con sẵn sàng mưu cầu lẽ thật, cũng sẵn sàng thực hành lẽ thật”, vậy ngươi thực hành được những lẽ thật nào rồi? Chứng cứ ở đâu? Nếu lòng ngươi yêu thích lẽ thật và sẵn lòng mưu cầu lẽ thật, vậy tại sao ngươi không thực hành lẽ thật? Vậy chẳng phải là lừa người sao? Vậy chẳng phải giống hệt lời nói dối của kẻ bịp bợm sao? Như vậy cũng giống hệt con rồng lớn sắc đỏ luôn rêu rao rằng mọi việc nó làm đều là để phục vụ nhân dân và cho người ta cuộc sống hạnh phúc, nhưng khi người ta tin Đức Chúa Trời và đi theo con đường đúng đắn, thì nó lại điên cuồng bắt bớ và bách hại. Nó không cho người ta đi theo Đức Chúa Trời, không cho người ta tiếp nhận lẽ thật và đạt được sự cứu rỗi. Nó chỉ cho phép người ta đi theo Đảng, nghe lời Đảng, cuối cùng phải xuống địa ngục và chịu sự trừng phạt, như vậy nó mới vui vẻ. Vậy lời “phục vụ nhân dân” của con rồng lớn sắc đỏ là thật hay giả? Sa-tan luôn nói nó muốn tốt cho con người, nhưng nó đâu thể cung ứng cho người ta lẽ thật, cũng đâu thể hướng dẫn người ta đi vào con đường đúng đắn trong đời. Nó toàn tiêm nhiễm tà thuyết và luận điệu sai lầm cho con người, khiến con người ăn chơi trác táng, đi con đường tà, mưu cầu thế gian, mưu cầu danh lợi, khiến con người tranh đấu với nhau, hãm hại lẫn nhau, chứ chẳng khiến con người đi con đường đúng đắn. Nó bắt con người từ bên cạnh Đức Chúa Trời mà đưa đi. Cuối cùng con người đạt được danh lợi, nhưng thân xác và tâm hồn họ đều bị chà đạp đến nát tan, họ bị tràn ngập tà thuyết và luận điệu sai lầm của Sa-tan, trong lòng họ không còn Đức Chúa Trời nữa, và họ không còn tin nhân loại là do Đức Chúa Trời tạo dựng. Họ bắt đầu phủ nhận Đức Chúa Trời và đối địch với Ngài. Sa-tan làm như vậy là vì muốn tốt cho con người sao? Như vậy chẳng phải là hãm hại và hủy hoại người ta sao? Những người không rõ phải trái thì không nhìn thấu được những chuyện này.

Một số người nói: “Con người con có nhân tính, rõ phải trái, có lương tâm hơn người bình thường”. Vậy ngươi hãy liên hệ bản thân với những nội dung được thông công hôm nay đi, xem thử ngươi có lương tâm hay không, có thể tiếp nhận và thực hành lẽ thật hay không, khi làm sai thì có hối hận và thấy có lỗi không, có sự hối cải và biến đổi thực sự không. Nếu ngươi không có những biểu hiện đó của lối vào sự sống, thì chứng tỏ ngươi tin Đức Chúa Trời và nghe giảng đạo nhiều năm rồi, mà lương tâm của ngươi chưa từng phát huy tác dụng gì. Lương tâm chưa từng phát huy tác dụng là sao? Chỉ có một nguyên nhân có thể giải thích vấn đề này, chính là con người ngươi không có lương tâm. Có vài người nói: “Đừng thấy con không có lối vào sự sống, lẽ thật nào con cũng hiểu đấy”. Ngươi hiểu lẽ thật, vậy tại sao lại không thực hành? Tại sao không có lối vào? Tại sao đến bây giờ, sự sống của ngươi vẫn chưa biến đổi? Ngươi hiểu lẽ thật mà vẫn có thể không thực hành, vậy lương tâm của ngươi đi đâu mất rồi? Có vài người còn tranh cãi: “Con tin Đức Chúa Trời lâu năm như vậy, nếu không có lương tâm, làm sao con có thể từ bỏ nhiều như vậy, chịu khổ nhiều như vậy, trả giá nhiều như vậy chứ? Con có thể cam tâm làm bổn phận sao?”. Nếu ngươi có lương tâm, thế thì ngươi nghe nhiều lẽ thật đến vậy rồi, mà lương tâm của ngươi đã có tác dụng gì nào? Nó có thể ràng buộc ngươi để ngươi hành động theo nguyên tắc lẽ thật không? Nó có thể quản lý hành vi và tâm tư của ngươi không? Ngươi nghe giảng đạo bao nhiêu năm rồi, có thể nói rất nhiều đạo lý, có thể chịu chừng đó cái khổ, trả chừng đó cái giá, vậy tại sao lương tâm của ngươi chẳng có chút vai trò gì trong việc quản lý hành vi của ngươi, khiến ngươi hành động theo nguyên tắc, và ngăn ngươi không làm trái nguyên tắc? Ngươi có lương tâm như vậy, có nhân tính như vậy, hiểu nhiều lẽ thật như vậy, tại sao ngươi không thực hành được? Tại sao ngươi công khai làm trái nguyên tắc, công khai quấy nhiễu công tác của hội thánh? Nếu ngươi đã có lương tâm, vậy ngươi làm bổn phận nhiều năm như vậy, sự sống của ngươi đã biến đổi chưa? Ngươi chẳng có sự biến đổi, cũng chẳng có bất kỳ lối vào sự sống nào, như vậy là thấy được con người ngươi chẳng có lương tâm. Có vài người nói: “Con không có lương tâm thì có thể làm bổn phận được sao?”. Đâu phải ngươi đang làm bổn phận, mà là ngươi đang đem sức lực phục vụ. Việc đem sức lực phục vụ thì không cần có lương tâm, ra chút sức là được rồi. Chuyện này ứng với câu: Người đem sức lực phục vụ là người không có lương tâm, họ không mưu cầu lối vào sự sống hay lẽ thật, mà họ mưu cầu việc đem sức lực phục vụ và sẵn lòng ra sức. Đặc trưng của việc đem sức lực phục vụ là gì? Chính là sẵn lòng chịu khổ và trả giá, từ trong việc chịu khổ và trả giá mà tìm niềm vui cho mình, tìm cảm giác tồn tại và giá trị cho mình, thỏa mãn dục vọng được phúc và dã tâm giao dịch với Đức Chúa Trời của mình, cố dùng việc chịu khổ và trả giá để đổi lấy phúc lành. Bảo họ ra sức làm việc, chịu khổ và trả giá, thì họ hăng hái lắm. Còn bảo họ hành động theo nguyên tắc và thực hành lẽ thật, thì họ sẽ hết hăng, sẽ bối rối, chẳng biết nên thực hành thế nào. Thậm chí có người còn cảm thấy mình bị làm khó, họ nghĩ bụng: “Cứ bảo tôi ra sức, chịu khổ và trả giá. Tôi chịu bao nhiêu cái khổ cũng được, mệt đến mấy tôi cũng không oán trách. Chứ bảo tôi làm việc theo nguyên tắc thì chẳng phải là làm khó tôi sao? Có thể ra sức, có thể chịu khổ và trả giá mà không một lời oán trách, vậy là không tệ rồi, sao còn yêu cầu tôi làm việc theo nguyên tắc chứ? Yêu cầu người ta như vậy là quá cao rồi! Ai muốn làm thế nào thì cứ để họ làm thế ấy, chỉ cần làm xong việc của mình là hết chuyện, họ mà làm không tốt thì từ từ chỉnh đốn họ”. Họ sẵn lòng đem sức lực phục vụ, khi đem sức lực phục vụ thì họ hăng hái lắm, nhưng lúc thực hành lẽ thật thì họ mất hết tinh thần, lúc nói đến lối vào sự sống thì họ càng đầu óc quay cuồng. Thế mà họ còn cảm thấy mình là người tốt, thường xuyên nói: “Tôi chính là người có lương tâm và lương thiện. Khi làm bổn phận, có bao nhiêu sức là tôi dốc ra bấy nhiêu, chẳng bao giờ giữ lại chút gì. Tôi có thể từ bỏ gia đình và sự nghiệp để dâng mình cho Đức Chúa Trời. Sao tôi có tinh thần hăng hái đến vậy chứ? Tôi bẩm sinh là người tốt!”. Thực ra, họ chẳng hiểu được lẽ thật nào, càng không biết hành động theo nguyên tắc lẽ thật, chỉ biết dùng sức mạnh thô, thế mà còn tự nhận mình không tệ. Đến tận nước này mà lương tâm và lý trí của họ chẳng có chút tri giác gì. Nếu thực sự có lương tâm, làm sao họ có thể nói ra lý lẽ méo mó như vậy chứ? Làm sao họ chẳng có sự lĩnh hội thuần khiết về lẽ thật vậy? Ngươi có lương tâm, có nhân tính, vậy sao ngươi ngươi không để tâm mà nghe lời Đức Chúa Trời, nghe xem tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người là gì, và trong mọi việc mình làm thì nên tuân thủ nguyên tắc nào? Nếu ngươi nghe rồi mà không hiểu, không rõ, và chẳng có tri giác gì đối với lẽ thật, vậy thì ngươi chính là thứ không có lương tâm, không có nhân tính. Ngươi cho rằng dựa vào việc dùng sức mạnh thô là có thể đổi lấy sự sống sao? Là có thể đổi lấy sự cứu rỗi sao? Đấy là chuyện bất khả thi, đường đó không thông đâu. Ngay cả khi ngươi sẵn lòng ra sức, thật lòng bán sức, cũng có thể chịu chút khổ, người khác nhìn vào thì thấy ngươi có chút lòng trung thành, nhưng chuyện ngươi có thể trung thành đến cùng hay không thì khó nói lắm. Chưa biết chừng đến lúc nào đó, thú tính của ngươi phát tác và ngươi sẽ gây rối, gây nhiễu loạn và gián đoạn, thế thì phải thanh lọc ngươi đi. Chẳng phải mới đây, hội thánh đã thanh lọc mấy người sao? Loại người này ngoài miệng thì nói rất dễ nghe, ai nghe cũng cảm thấy họ hiểu lẽ thật, nhưng họ đơn giản là chẳng thực hành lẽ thật. Họ nói thì hay mà không làm việc thật. Họ chẳng những đối chọi với người khác, mà còn đối chọi với nhà Đức Chúa Trời, vậy chẳng phải là chống đối Đức Chúa Trời sao? Nhà Đức Chúa Trời có thể dung dưỡng họ sao? Nếu sẵn lòng làm bổn phận thì họ nên làm bổn phận một cách thật thà và có khuôn phép, nhưng họ đâu có làm vậy. Họ còn muốn nắm quyền làm chủ, muốn quấy nhiễu và phá hoại. Họ quấy nhiễu đến mức độ nào? Thậm chí Ta làm việc gì họ cũng muốn xen vào, muốn xoi mói và bình phẩm, muốn cản trở và quấy nhiễu. Quấy nhiễu đến cả Ta thì Ta có thể khách khí với họ sao? Nếu ngươi chỉ quấy nhiễu cuộc sống riêng của Ta, thì Ta có thể gạt ngươi qua một bên và không để ý. Nhưng Ta đang làm công tác ở nhà Đức Chúa Trời, đang làm chút việc thật cho dân được Đức Chúa Trời chọn, vậy mà ngươi vẫn có thể quấy nhiễu và phá ngầm, đây là vấn đề gì? Đối với loại người này thì nên làm thế nào? (Thưa, nên thanh lọc họ đi.) Nhà Đức Chúa Trời có nguyên tắc để xử lý người ta, đối với dạng người này thì nên thanh lọc đi. Có những người nói: “Oan cho con, con đâu biết làm vậy là đắc tội với Ngài. Con đâu biết làm vậy là bật lại Bề trên, bật lại Đức Chúa Trời. Con không cố ý mà”. Chuyện ngươi có thể làm vậy cho thấy ngươi cố ý. Ngươi nghe giảng đạo bao nhiêu năm rồi? Ngươi có lương tâm không, có nhân tính không? Nếu ngươi là con người, có nhân tính, có lương tâm và lý trí, thì bất kể cố ý hay vô ý, ngươi cũng không làm ra chuyện như vậy. Ta làm việc, mà họ cố ý quấy nhiễu, cố ý phá ngầm, thì họ còn là con người nữa sao? Họ chẳng phải là ma quỷ sao? Nếu thực sự có lương tâm và lý trí, thực sự có nhân tính, thì ngay cả khi người bình thường làm việc, chỉ cần là việc có ích cho công tác của hội thánh và anh chị em, thì người ta đều biết là phải bảo vệ và không được phá ngầm việc đó. Huống hồ đây là việc Ta đích thân làm, thế mà họ cứ đòi quấy nhiễu và phá hoại, ai cũng không cản họ được. Vậy chẳng phải họ đã hoàn toàn trở thành ma quỷ rồi sao? Ta nói cho biết, đám người này hành ác nghiêm trọng rồi, không được khách khí với họ. Nhà Đức Chúa Trời có nguyên tắc cho việc xử lý người ta, đối với họ thì phải xử lý bằng cách thanh trừ. Đối đãi với họ như vậy có thích hợp hay không? (Thưa, thích hợp.) Nếu họ chỉ làm theo ý thích cá nhân trong cuộc sống thì còn được. Chẳng hạn như Ta nói: “Ta thích ăn mì”, thì họ nói: “Con chẳng thích ăn mì, khi nấu ăn, con sẽ nấu chút mì cho Ngài, và nấu cơm để con ăn”. Chuyện đó chẳng liên quan đến công tác của hội thánh, cũng chẳng liên quan đến nguyên tắc lẽ thật, càng không liên quan đến nhân tính hoặc lương tâm của người ta. Ngươi thuận theo ý thích của mình cũng được. Nhưng trong chuyện có liên quan đến công tác của hội thánh thì không được làm vậy. Ngươi mà làm xằng làm bậy, gây gián đoạn và nhiễu loạn, thì chính là đang vi phạm sắc lệnh quản trị. Loại người nào có thể trắng trợn vi phạm sắc lệnh quản trị? Loại người nào có thể công khai thách thức lẽ thật, thách thức nhà Đức Chúa Trời? (Thưa, là ma quỷ.) Những kẻ hồ đồ liều mạng và súc sinh thì có thể thách thức và quấy nhiễu như vậy, nhất là ma quỷ thì càng có thể làm như vậy. Bất kể nhà Đức Chúa Trời làm việc gì, ma quỷ cũng luôn quấy nhiễu, họ quấy nhiễu như bị ma nhập, bất kể hậu quả. Họ có thể quấy nhiễu như vậy mà chẳng ý thức được mình đang làm vậy, còn cảm thấy bản thân đâu có quấy nhiễu gì, cảm thấy bản thân rất vô tội, thậm chí còn biện bạch cho mình. Đối với loại người này thì không cần thông công gì với họ cả, việc đúng đắn là trực tiếp thanh trừ họ. Dạng người không có lương tâm và lý trí của nhân tính thế này thì chính là ma quỷ chính cống, họ sẽ không bao giờ thay đổi. Không yêu cầu ngươi buộc phải mưu cầu lẽ thật, cũng không yêu cầu ngươi thực hành lẽ thật trong mọi chuyện, nhưng ít nhất, ngươi phải biết khuôn phép. Ngươi mà không hiểu khuôn phép, không hiểu sắc lệnh quản trị của nhà Đức Chúa Trời, vi phạm sắc lệnh quản trị rồi mà không biết, vậy thì ngươi còn có nhân tính sao? Ngươi chẳng có nhân tính, ngươi chính là ma quỷ. Ma quỷ hành ác là việc chúng không muốn mà vẫn cứ làm. Chuyện ma quỷ chống đối, xét đoán và báng bổ Đức Chúa Trời là sự bộc lộ tự nhiên của bản tính chúng. Không cần người khác xúi giục hay tiêm nhiễm gì, tự nhiên chúng có thể làm ra việc ác như vậy thôi. Chuyện này là do chúng bị bản tính ma quỷ chi phối.

Hôm nay, chúng ta đã thông công về vấn đề rõ phải trái nằm trong lương tâm và lý trí của con người. Thông qua mối thông công này, các ngươi đã thấy rõ về phương diện này chưa? Con người đích thực thì có lương tâm và rõ phải trái, lương tâm của họ có tác dụng. Bất kể gặp con người, sự việc hay sự vật gì, bất kể gặp phải vấn đề gì, thì lương tâm ít nhất phải là cửa ải đầu tiên. Một mặt, nó sẽ giúp ngươi phán đoán và phân biệt những điều tích cực với những điều tiêu cực. Mặt khác, nó có thể giúp ngươi kiểm định và kiểm tra con đường phía trước để ngươi không vượt quá ranh giới tối thiểu trong việc làm người, cuối cùng nó sẽ giúp ngươi đưa ra lựa chọn đánh đổi và chọn được con đường đúng đắn. Đương nhiên, người hiểu lẽ thật hoặc người đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm và đã có nền tảng trong đức tin, thì sẽ ở dưới tác dụng của lương tâm mà cuối cùng chọn những điều tích cực, chọn tìm kiếm lẽ thật và tiếp nhận lẽ thật. Cho nên mới nói, lương tâm đóng vai trò chủ đạo trong nhân tính, đóng vai trò hướng dẫn người ta đi con đường đúng đắn, chuẩn hóa người ta để họ chọn những điều tích cực. Nếu một người không có lương tâm thì có thể hình dung được rằng, họ chẳng những không thể chọn những điều tích cực và con đường đúng đắn, mà còn không có sự ràng buộc và chuẩn hóa tối thiểu của lương tâm khi làm bất kỳ việc gì. Người như vậy thì gặp nguy hiểm lớn rồi, họ rất dễ hành ác và chống đối Đức Chúa Trời. Nếu do động vật đầu thai, thì có khả năng họ sẽ làm ra một vài việc của ác quỷ. Loại người là ác quỷ và ma quỷ thì có thể làm ra việc ác hơn nữa, như vậy thì quá đáng sợ. Do đó, có lương tâm là chuyện rất quan trọng. Chuyện này đã rõ ràng chưa? (Thưa, đã rõ ràng rồi.) Nếu một người không có lương tâm để chuẩn hóa hành vi của họ và hướng dẫn họ đi con đường đúng đắn, thì con đường họ chọn tất nhiên là con đường sai lầm và việc họ làm là điều tiêu cực – hậu quả sẽ thật không dám nghĩ đến. Họ có thể trắng trợn làm trái lẽ thật, làm trái quy luật phát triển của sự vật, còn có thể không chút kiêng dè mà báng bổ và xét đoán lẽ thật, xét đoán hết thảy công tác Đức Chúa Trời làm, thậm chí ngang nhiên chống đối Đức Chúa Trời và vi phạm sắc lệnh quản trị của Đức Chúa Trời, điên cuồng chửi mắng, kết tội và báng bổ Đức Chúa Trời. Vậy thì họ giống hệt ma quỷ và Sa-tan rồi. Họ có thể phạm hết thảy mọi việc ác mà ma quỷ và Sa-tan phạm, làm hết thảy mọi chuyện mà ma quỷ và Sa-tan làm, nói hết thảy mọi tà thuyết, luận điệu sai lầm và lý lẽ méo mó mà ma quỷ và Sa-tan nói. Dạng người này chính là ma quỷ và Sa-tan chính cống.

Các ngươi đã hiểu được gì từ mối thông công hôm nay rồi? (Thưa, con đã hiểu được rằng người có nhân tính thì có lương tâm và lý trí, có thể phân rõ phải trái. Về phương diện rõ phải trái, Đức Chúa Trời đã kết hợp các ví dụ khác nhau mà giải thích cực kỳ rõ điều tích cực là gì và điều tiêu cực là gì, để chúng con có thể phán đoán chính xác khi gặp chuyện, đồng thời có quan điểm mưu cầu chính xác – nên khao khát và mưu cầu những điều tích cực, nên căm ghét và vứt bỏ những điều tiêu cực.) Lương tâm và lý trí có trong nhân tính là điều kiện cơ bản nhất để được cứu rỗi. Nếu ngươi có hai điều kiện cơ bản này, nhưng ngươi vẫn không mưu cầu lẽ thật, khi hiểu được chút lẽ thật cũng không thực hành, và cuối cùng không thể đạt đến việc thuận phục lẽ thật, vậy thì ngươi vẫn cứ là người không thể được cứu rỗi. Lương tâm và lý trí chỉ là điều kiện cơ bản để được cứu rỗi, còn chuyện ngươi đi con đường như thế nào thì tùy vào lựa chọn của riêng ngươi. Nếu ngươi thực sự là người có lương tâm và lý trí, thì ngươi sẽ có cơ hội ở dưới sự chuẩn hóa của lương tâm mà đưa ra lựa chọn đi con đường mưu cầu lẽ thật. Nếu ngươi có lương tâm chuẩn hóa và hướng dẫn để ngươi chọn đi con đường đúng đắn, nhưng ngươi không muốn chịu khổ và trả giá, không sẵn lòng chống lại xác thịt và buông bỏ những thứ liên quan đến lợi ích của xác thịt, và ngươi chưa đi vào con đường mưu cầu lẽ thật, vậy thì ngươi vẫn không có hy vọng được cứu rỗi. Hy vọng được cứu rỗi này, một mặt có quan hệ trực tiếp với lương tâm trong nhân tính của ngươi, mặt khác, cũng có quan hệ trực tiếp với cái giá ngươi có thể trả trong việc mưu cầu lẽ thật, cùng quyết tâm và nguyện vọng thực hành lẽ thật của ngươi. Lương tâm chỉ đem lại cho ngươi một điều kiện cơ bản để được cứu rỗi, cũng tạo ra cho ngươi rất nhiều cơ hội để thực hành lẽ thật, làm cho ngươi có cơ hội dưới sự chuẩn hóa của lương tâm mà đi con đường đúng đắn. Như vậy thì khả năng ngươi đi con đường đúng đắn sẽ tương đối lớn, hy vọng được cứu rỗi của ngươi cũng tương đối lớn, vượt quá 50%, nhưng không phải là 100%. Do đó, cho dù ngươi cảm thấy mình có lương tâm và nhân tính, thì ngươi cũng đừng lấy đó làm tự hào, cho rằng chỉ cần có lương tâm và lý trí thì mình đã là người tốt và có thể đạt được sự cứu rỗi, cho rằng đây là chuyện mười phần chắc chín rồi. Nếu ngươi cho là như vậy, thì Ta nói cho ngươi biết, trong sự lĩnh hội của ngươi về chuyện này có sai lệch rồi. Nếu ngươi có lương tâm, có nhân tính, thì chuyện đó chỉ xác nhận ngươi là đối tượng được Đức Chúa Trời tuyển chọn, là đối tượng được Đức Chúa Trời kêu gọi, nhưng về chuyện cuối cùng ngươi có thể được cứu rỗi hay không, thì nhân tố quyết định nằm ở sự mưu cầu cá nhân của ngươi. Ngay cả khi lương tâm của ngươi thường xuyên có tri giác, thường xuyên chuẩn hóa hành vi của ngươi và chuẩn hóa ngươi để ngươi lựa chọn con đường đúng đắn, nhưng ngươi thường xuyên làm trái lương tâm, không chọn con đường đúng đắn, cũng không chọn thực hành lẽ thật, thay vào đó lại thường bảo vệ lợi ích, danh tiếng và thể diện cá nhân, thường suy xét cho tiền đồ, dã tâm và dục vọng cá nhân, vậy thì cuối cùng, hy vọng được cứu rỗi của ngươi sẽ rất mờ mịt, sẽ bị ngươi hủy hoại hết lần này đến lần khác. Đây là chuyện rất đáng buồn. Các ngươi đã hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Được rồi, hôm nay thông công đến đây thôi. Tạm biệt!

Ngày 9 tháng 3 năm 2024

Trước: Cách mưu cầu lẽ thật (15)

Tiếp theo: Cách mưu cầu lẽ thật (26)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời hằng ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con và hát những bài ca mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 6) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 7) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 8) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 9) Tôi đã quay về với Đức Chúa Trời Toàn Năng như thế nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger