Cách mưu cầu lẽ thật (3)

Trong buổi thông công lần nhóm họp vừa rồi, chúng ta đã nói đến đâu rồi? Chúng ta đang thông công về cách mưu cầu lẽ thật, liên quan đến hai chủ đề chính, chủ yếu là hai khía cạnh thực hành. Chủ đề đầu tiên là gì? (Thưa, đầu tiên là buông bỏ.) Còn cái thứ hai là gì? (Thưa, thứ hai là dốc mình.) Thứ nhất là buông bỏ, và thứ hai là dốc mình. Về việc thực hành “buông bỏ”, trước tiên chúng ta đã thông công về việc buông bỏ những cảm xúc tiêu cực khác nhau. Khía cạnh đầu tiên của việc “buông bỏ” liên quan đến việc buông bỏ những cảm xúc tiêu cực khác nhau. Vậy khi nói đến việc buông bỏ những cảm xúc tiêu cực khác nhau, chúng ta đã đề cập đến những cảm xúc nào? (Thưa, lần đầu Đức Chúa Trời đã phán về sự tự ti, thù hận và phẫn nộ, và lần thứ hai là về sự chán nản.) Lần đầu Ta nói về sự cần thiết phải buông bỏ thù hận, phẫn nộ và tự ti – Ta đã chủ yếu nói về ba cảm xúc tiêu cực này, và Ta cũng đã nói khá nhiều về sự chán nản. Lần thứ hai, Ta nói về việc thực hành buông bỏ sự chán nản như một trong những cảm xúc tiêu cực. Mọi người có thể bị chán nản vì đủ mọi lý do, và lần trước Ta chủ yếu nói về một số cách có thể gây ra cảm xúc tiêu cực chán nản. Nói cho Ta nghe, những nguyên nhân chính gây ra cảm xúc chán nản mà Ta đề cập là gì? (Thưa Đức Chúa Trời, có tất cả ba nguyên nhân. Thứ nhất là người ta luôn cảm thấy mình có số phận tồi tệ; thứ hai là khi có chuyện xảy đến với mình thì người ta đổ lỗi cho vận rủi của mình; và thứ ba là khi người ta đã phạm phải vi phạm nghiêm trọng trong quá khứ, hoặc khi họ làm những chuyện ngu muội, vô tri khiến họ chìm vào sự chán nản.) Đây là ba nguyên nhân chính. Thứ nhất là vì người ta tin rằng số phận mình tồi tệ nên thường xuyên chán nản; thứ hai là vì người ta tin rằng mình không may nên cũng thường xuyên chán nản; và thứ ba là do người ta đã phạm phải vi phạm nghiêm trọng nên thường cảm thấy chán nản. Đây là ba nguyên nhân chính. Cảm xúc chán nản không phải là cảm giác tiêu cực hay buồn bã thoáng qua. Đúng hơn nó là một cảm xúc tiêu cực thường trực và tái diễn trong tâm trí do những nguyên nhân nào đó gây ra. Cảm xúc tiêu cực này khiến con người có nhiều suy nghĩ, quan điểm, lập trường tiêu cực, thậm chí nhiều suy nghĩ, quan điểm, hành vi và phương pháp cực đoan, sai lầm. Đó không phải là một tâm trạng nhất thời hay một suy nghĩ thoáng qua; đó là một cảm xúc tiêu cực thường trực và tái diễn, luôn bên cạnh con người, đồng hành cùng con người trong cuộc sống, nơi thâm tâm và sâu thẳm tâm hồn họ, đồng hành cùng họ trong suy nghĩ và hành động. Cảm xúc tiêu cực này không chỉ ảnh hưởng đến lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường của con người mà còn có thể tác động đến những lập trường, quan điểm và góc nhìn khác nhau của con người trong cách họ nhìn nhận con người và sự việc cũng như trong cách họ hành xử và hành động trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, chúng ta cần phải phân tích những cảm xúc tiêu cực khác nhau, mổ xẻ và nhận biết chúng, rồi từ đó buông bỏ chúng và thay đổi từng cái một, cố gắng bỏ chúng dần dần để lương tâm và lý trí của ngươi cũng như tư duy của nhân tính ngươi trở nên bình thường và thực tế, để cách ngươi nhìn nhận con người và sự việc cũng như cách ngươi hành xử và làm mọi việc trong cuộc sống hàng ngày không còn bị những cảm xúc tiêu cực này ảnh hưởng, kiểm soát hoặc thậm chí là áp chế nữa – đây là mục đích chính của việc mổ xẻ và phân định những cảm xúc tiêu cực khác nhau này. Mục đích chính không phải là để ngươi nghe những gì Ta nói, biết, hiểu rồi để đó, mà là để từ lời Ta, ngươi biết chính xác những cảm xúc tiêu cực có hại như thế nào đối với con người, biết chúng có hại ra sao và có tác động lớn thế nào đến cuộc sống hàng ngày của con người, cách họ nhìn nhận con người và sự việc cũng như cách họ hành xử và cư xử.

Trước đây, chúng ta cũng đã thông công về việc, ở một mức độ nhất định, những cảm xúc tiêu cực này chưa đạt đến mức độ tâm tính bại hoại và thực chất bại hoại, nhưng ở một mức độ nào đó lại tạo điều kiện và làm trầm trọng thêm tâm tính bại hoại của con người, tạo cơ sở để họ làm mọi việc dựa trên tâm tính bại hoại của mình, và dưới sự hỗ trợ của những cảm xúc tiêu cực này, cho mọi người thêm lý do để sống theo tâm tính bại hoại của mình, cũng như lý do để nhìn nhận bất kỳ ai hoặc bất cứ điều gì dựa trên tâm tính bại hoại của họ. Do đó, tất cả những cảm xúc tiêu cực này đều tác động đến cuộc sống hàng ngày của con người ở những mức độ khác nhau, và ở một mức độ nhất định, chúng ảnh hưởng và kiểm soát những suy nghĩ khác nhau của con người, đồng thời ảnh hưởng đến thái độ, góc độ và lập trường của họ đối với lẽ thật và Đức Chúa Trời. Có thể nói, những cảm xúc tiêu cực này hoàn toàn không có tác dụng tốt đến con người, cũng không có tác dụng tích cực hay hỗ trợ nào mà ngược lại chỉ có thể gây hại cho con người. Đó là lý do tại sao khi con người sống trong những cảm xúc tiêu cực này, lòng họ tự nhiên bị chúng ảnh hưởng và kiểm soát, họ không thể ngăn mình sống trong trạng thái tiêu cực, thậm chí còn áp dụng những quan điểm cực đoan mà nhìn nhận con người và sự việc từ những lập trường vô lý. Khi người ta nhìn nhận một người hoặc một sự việc từ góc độ và lập trường của những cảm xúc tiêu cực, thì đương nhiên các hành vi, cách tiếp cận và tác động của cách hành xử và hành động họ làm sẽ bị pha trộn với những cảm xúc cực đoan, tiêu cực và chán nản. Những cảm xúc tiêu cực, chán nản và cực đoan này sẽ khiến người ta không vâng phục Đức Chúa Trời, bất mãn với Đức Chúa Trời, oán trách Đức Chúa Trời, chống đối Ngài và thậm chí là đối kháng với Ngài, và tất nhiên cũng có cả căm ghét Ngài nữa. Ví dụ, khi người ta tin rằng họ có số phận tồi tệ, thì họ sẽ oán trách ai? Họ có thể không nói ra, nhưng trong thâm tâm, họ tin rằng Đức Chúa Trời đã hành động sai trái và Ngài thật bất công, họ nghĩ: “Tại sao Đức Chúa Trời lại khiến anh ta ngoại hình ưa nhìn như vậy chứ? Tại sao Đức Chúa Trời lại cho anh ta được sinh ra trong một gia đình tuyệt vời như vậy chứ? Tại sao Ngài lại ban cho anh ta những ân tứ như vậy? Tại sao Ngài lại ban cho anh ta tố chất tốt như vậy? Tại sao tố chất của mình lại tệ đến thế? Tại sao Đức Chúa Trời lại sắp đặt anh ta làm lãnh đạo? Tại sao không bao giờ đến lượt mình, tại sao mình chưa bao giờ được làm lãnh đạo dù chỉ một lần? Tại sao mọi chuyện đối với anh ta lại suôn sẻ đến thế, còn mình làm việc gì cũng không bao giờ được như ý và thuận lợi? Tại sao số phận mình lại khốn khổ đến vậy? Tại sao những chuyện xảy đến với mình lại khác đến thế? Tại sao chỉ có những điều tồi tệ xảy đến với mình chứ?”. Mặc dù những suy nghĩ nảy sinh từ những cảm xúc chán nản này không khiến người ta oán trách Đức Chúa Trời, hay chống đối Đức Chúa Trời và số phận của mình trong ý thức chủ quan của họ, nhưng chúng khiến người ta thường xuyên và vô thức chìm vào những cảm xúc bất tuân, bất mãn, oán giận, đố kỵ và căm ghét trong thâm tâm. Trong trường hợp nghiêm trọng, chúng thậm chí còn có thể khiến con người có những suy nghĩ và hành vi cực đoan hơn. Ví dụ, khi một số người thấy người khác làm việc tốt hơn họ và được Đức Chúa Trời khen ngợi, họ cảm thấy đố kỵ và căm ghét. Cho nên một loạt hành động nhỏ mọn được thực hiện: họ nói xấu người khác và hạ thấp người ta sau lưng, lén lút làm một số điều mờ ám và thiếu lý tính, v.v. Việc nảy sinh hàng loạt vấn đề này liên quan trực tiếp đến sự chán nản và cảm xúc tiêu cực của họ. Chuỗi suy nghĩ, hành vi và cách tiếp cận nảy sinh từ cảm xúc chán nản của họ này ban đầu có vẻ giống như những dạng cảm xúc, nhưng khi sự việc tiến triển, những cảm xúc tiêu cực và chán nản này có thể ngày càng khuyến khích người ta sống theo tâm tính Sa-tan bại hoại. Tuy nhiên, nếu người ta hiểu lẽ thật và sống với nhân tính bình thường, thì khi những cảm xúc tiêu cực và chán nản này nảy sinh trong họ, lương tâm và lý trí của họ có thể nhanh chóng hành động, và những người này có thể nhận thức được sự tồn tại và tác động gây nhiễu loạn của những cảm xúc chán nản này và nhìn thấu chúng. Sau đó, họ có thể nhanh chóng thoát khỏi những cảm xúc chán nản và khi gặp những con người, sự việc và sự vật trong hoàn cảnh hiện tại, họ có thể đưa ra những phán đoán có lý tính và nhìn nhận một cách có lý tính những tình huống họ gặp phải cũng như những điều họ trải qua từ góc độ đúng đắn. Khi con người làm tất cả những điều này một cách có lý tính, điều cơ bản nhất mà họ có thể đạt được là chấp nhận sự kiểm soát của lương tâm và lý trí của nhân tính bình thường. Tốt hơn nữa, nếu họ hiểu được lẽ thật, họ sẽ có thể hành động phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật một cách hợp lý hơn, trên cơ sở lương tâm và lý trí của mình, và họ sẽ không hành xử hoặc hành động dưới sự điều khiển của tâm tính bại hoại của mình. Tuy nhiên, nếu những cảm xúc tiêu cực chiếm vị trí chủ đạo trong lòng họ, ảnh hưởng đến suy nghĩ, quan điểm, cách họ xử lý sự việc và hành xử, thì đương nhiên những cảm xúc tiêu cực này sẽ ảnh hưởng đến sự tiến triển trong sự sống của họ và dẫn đến những suy nghĩ, lựa chọn, hành vi và cách tiếp cận của họ bị cản trở và gây nhiễu loạn trong mọi tình huống. Một mặt, những cảm xúc tiêu cực này tạo điều kiện thuận lợi cho tâm tính bại hoại của con người, khiến con người yên dạ yên lòng khi sống trong tâm tính bại hoại của mình; mặt khác, chúng còn có thể khiến con người chống đối những điều tích cực và sống trong tiêu cực, không muốn nhìn thấy sự sáng. Bằng cách này, những cảm xúc tiêu cực phát triển tràn lan và trở nên nghiêm trọng hơn trong con người, và chúng tuyệt đối không cho phép con người hành động có lý tính trong giới hạn của lương tâm và lý trí. Thay vào đó, chúng ngăn cản con người tìm kiếm lẽ thật và sống trước Đức Chúa Trời, và theo cách này, con người tự nhiên sẽ càng sa đọa hơn nữa, không chỉ cảm thấy tiêu cực mà còn lạc xa khỏi Đức Chúa Trời. Và nếu mọi chuyện cứ tiếp diễn như này thì hậu quả sẽ là gì? Những cảm xúc tiêu cực không những không thể giải quyết được tâm tính bại hoại của con người mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho chúng, điều này sẽ khiến con người xử lý vấn đề và hành xử dựa trên tâm tính bại hoại của mình và đi theo con đường riêng của mình. Con người sẽ làm gì khi bị chi phối bởi những suy nghĩ và quan điểm sai lầm và cực đoan? Liệu họ có làm nhiễu loạn công tác của hội thánh không? Liệu họ có gieo rắc sự tiêu cực, phán xét Đức Chúa Trời và sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời không? Liệu họ có oán trách Đức Chúa Trời và chống đối Ngài không? Chắc chắn là có! Đây là hậu quả cuối cùng. Một loạt cách tiếp cận, chẳng hạn như bất tuân, bất mãn, tiêu cực và chống đối sẽ nảy sinh trong con người – đây đều là hậu quả của việc những cảm xúc tiêu cực chiếm vị trí chủ đạo trong lòng người trong một thời gian dài. Hãy nhìn xem, chỉ là một cảm xúc tiêu cực nhỏ – một cảm xúc mà mọi người dường như không thể cảm nhận được, thậm chí không thể cảm nhận được sự tồn tại của nó hay cảm nhận được bất kỳ ảnh hưởng nào của nó đối với họ – cảm xúc tiêu cực nhỏ xíu này vẫn bám theo họ như thể nó đã tồn tại từ khi họ sinh ra. Nó gây hại cho con người dưới mọi hình thức và quy mô, thậm chí còn liên tục bao bọc, đe dọa, áp chế và ràng buộc ngươi, đến mức nó luôn đồng hành cùng ngươi, giống như mạng sống của ngươi, nhưng ngươi hoàn toàn không hề hay biết, thường sống trong đó và coi đó là điều hiển nhiên, nghĩ những điều như: “Con người thì phải nghĩ theo cách này, như thế không có gì sai cả, thế là rất bình thường. Ai mà không có những suy nghĩ sống động như thế này chứ? Ai mà không có vài cảm xúc tiêu cực chứ?”. Ngươi không thể cảm nhận được tác hại mà cảm xúc tiêu cực này đang gây ra cho mình, nhưng tác hại là có thật, và ngươi sẽ thường vô tình bị nó kích động để tự nhiên bộc lộ ra tâm tính bại hoại của mình, cũng như hành động và hành xử dựa trên tâm tính bại hoại của mình, cho đến khi cuối cùng ngươi làm mọi thứ dựa trên tâm tính bại hoại của mình. Ngươi có thể tưởng tượng ra hậu quả cuối cùng của việc này: chúng đều tiêu cực, tất cả đều có hại, không có lợi hay tích cực, càng không có bất cứ điều gì có thể giúp con người đạt được lẽ thật và sự khen ngợi của Đức Chúa Trời – đây không phải là những kết quả lạc quan. Vì vậy, chừng nào những cảm xúc tiêu cực còn tồn tại trong con người thì mọi loại suy nghĩ và quan điểm tiêu cực sẽ ảnh hưởng và chi phối nghiêm trọng đến cuộc sống của họ. Chừng nào những suy nghĩ và quan điểm tiêu cực còn ảnh hưởng và chi phối cuộc sống của họ thì sẽ có những trở ngại to lớn ngăn cản họ mưu cầu lẽ thật, thực hành lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật. Và vì vậy, chúng ta cần phải tiếp tục vạch trần, mổ xẻ những cảm xúc tiêu cực này để có thể giải quyết được tất cả những cảm xúc ấy.

Những cảm xúc tiêu cực mà chúng ta vừa thông công có ảnh hưởng nghiêm trọng và gây tổn hại nghiêm trọng đến con người, nhưng có những cảm xúc tiêu cực khác cũng ảnh hưởng và làm hại con người. Bên cạnh những cảm xúc tiêu cực như thù hận, phẫn nộ, tự ti và chán nản mà chúng ta đã nói đến, còn có những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng. Những cảm xúc này cũng bắt nguồn sâu xa từ thâm tâm con người, và chúng đồng hành cùng con người trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong lời nói và hành động của họ. Tất nhiên, khi có chuyện xảy ra với con người, chúng cũng ảnh hưởng đến những suy nghĩ và quan điểm nảy sinh trong họ, cũng như lập trường và góc độ của họ. Hôm nay, chúng ta sẽ mổ xẻ và vạch trần những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng, đồng thời nỗ lực giúp mọi người tìm ra chúng bên trong bản thân họ. Sau khi mọi người tìm ra những cảm xúc tiêu cực này trong bản thân mình, mục đích cuối cùng là để họ hiểu tường tận những cảm xúc tiêu cực này, loại bỏ chúng, không còn sống dưới sự ảnh hưởng của chúng và không còn sống và hành xử dựa trên cơ sở và nền tảng là những cảm xúc tiêu cực này nữa. Đầu tiên, hãy nhìn vào những từ “sầu khổ, âu lo và lo lắng”. Chúng không phải là cách thể hiện cảm xúc sao? (Thưa phải.) Trước khi thông công về chủ đề này, trước tiên hãy suy ngẫm về nó để các ngươi có khái niệm cơ bản nhất về “sầu khổ, âu lo và lo lắng”. Cho dù các ngươi hiểu được nghĩa đen của các từ này hay hiểu ý nghĩa sâu xa hơn ngoài nghĩa đen của chúng, thì các ngươi cũng đều có nhận thức cơ bản về những cảm xúc tiêu cực này. Trước hết hãy nói cho Ta nghe điều gì đã khiến các ngươi lo lắng trong quá khứ, hay điều gì mà ngươi luôn cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng. Chúng có thể giống như một tảng đá lớn đè nát ngươi, hoặc như một cái bóng luôn theo sau ngươi, trói buộc ngươi. (Thưa Đức Chúa Trời, con xin thưa vài lời. Khi con không đạt được bất kỳ kết quả nào trong bổn phận của mình, cảm xúc này khá nổi bật, và con lo lắng liệu mình có bị vạch trần và đào thải không, và liệu con có tiền đồ và đích đến tốt đẹp không. Khi đạt được kết quả trong bổn phận của mình, con không cảm thấy như vậy, nhưng bất cứ khi nào một thời gian không đạt được kết quả trong bổn phận, thì kiểu cảm xúc tiêu cực này trở nên vô cùng rõ ràng.) Đây chẳng phải là một biểu hiện của những cảm xúc tiêu cực sầu khổ, âu lo, lo lắng sao? (Thưa phải.) Đúng thế. Dạng cảm xúc tiêu cực này luôn ẩn giấu trong thâm tâm con người, liên tục ảnh hưởng đến suy nghĩ của họ. Mặc dù khi không có chuyện gì xấu xảy ra, con người không thể cảm nhận được dạng cảm xúc tiêu cực này, nhưng nó giống như một thứ mùi, giống như một loại khí, hay thậm chí giống như sóng điện hơn. Ngươi không thể thấy nó và khi không nhận thức được nó, ngươi thậm chí còn không thể cảm nhận được nó. Tuy nhiên, ngươi luôn có thể cảm nhận được sự hiện diện của nó trong thâm tâm mình, giống như cái gọi là giác quan thứ sáu, và ngươi luôn có thể cảm nhận được sự tồn tại của dạng suy nghĩ và cảm xúc này trong tiềm thức. Vào thời điểm thích hợp, ở nơi thích hợp và trong bối cảnh thích hợp, loại cảm xúc tiêu cực này sẽ trỗi dậy từng chút một và xuất hiện lên từng chút một. Chẳng phải vậy sao? (Thưa phải.) Vậy còn điều gì khác khiến các ngươi cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng? Không có gì khác ngoài những điều vừa được đề cập sao? Nếu vậy thì các ngươi phải sống rất hạnh phúc và không lo lắng, không có bất kỳ mối âu lo nào và không cảm thấy sầu khổ về bất cứ điều gì – thế thì ngươi thực sự là một người tự do. Có phải như vậy không? (Thưa, không phải.) Vậy thì, hãy nói cho Ta nghe trong lòng các ngươi nghĩ gì. (Thưa, khi con không làm tròn bổn phận của mình, con luôn lo lắng về việc mất danh tiếng, mất địa vị, lo anh chị em sẽ nghĩ gì về mình, lo lãnh đạo sẽ nghĩ gì về mình. Ngoài ra, khi phối hợp cùng với các anh chị em để thực hiện bổn phận của mình và liên tục bộc lộ tâm tính bại hoại, con luôn lo mình đã tin vào Đức Chúa Trời bấy lâu nay nhưng vẫn không thay đổi chút nào, và nếu cứ tiếp tục như vậy, thì có lẽ một ngày nào đó con sẽ bị đào thải. Đây là những nỗi lo âu của con.) Khi ngươi có những nỗi lo âu này, những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng có nảy sinh trong ngươi không? (Thưa có.) Vậy, hầu hết các ngươi đều âu lo, lo lắng vì không làm tròn bổn phận của mình, phải không? (Thưa, chủ yếu là con lo lắng về tiền đồ và số phận của mình.) Lo lắng về tiền đồ và số phận của mình là điều chiếm thế chủ đạo. Khi con người không thể nhìn thấu, hiểu, tiếp nhận hoặc quy phục những hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt và quyền tối thượng của Ngài, và khi con người đối mặt với nhiều khó khăn khác nhau trong cuộc sống hằng ngày, hoặc khi những khó khăn này vượt quá những gì người bình thường có thể chịu đựng được, thì trong tiềm thức họ cảm thấy đủ mọi loại lo lắng và âu lo, thậm chí là sầu khổ. Họ không biết ngày mai sẽ ra sao, ngày kia hay vài năm nữa mọi việc sẽ thế nào, tương lai của họ ra sao, và vì vậy họ cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về đủ mọi chuyện. Bối cảnh mà con người cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về đủ mọi chuyện là gì? Đó là họ không tin vào quyền tối thượng của Đức Chúa Trời – tức là họ không thể tin và nhìn thấu quyền tối thượng của Đức Chúa Trời. Ngay cả khi có tận mắt nhìn thấy, họ cũng sẽ không hiểu hoặc không tin. Họ không tin rằng Đức Chúa Trời nắm quyền tối thượng đối với số phận của họ, họ không tin rằng mạng sống của họ nằm trong tay Đức Chúa Trời, và vì vậy trong lòng họ nảy sinh sự nghi ngờ đối với quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời, rồi nảy sinh sự oán trách, và họ không thể quy phục. Bên cạnh việc oán trách và không thể quy phục, họ còn muốn làm chủ số phận của mình và tự mình hành động. Tình hình thực tế sẽ ra sao sau khi họ bắt đầu tự mình hành động? Tất cả những gì họ có thể làm là sống dựa vào tố chất và khả năng của chính mình, nhưng có nhiều điều họ không thể đạt được, hay với tới được hoặc hoàn thành được bằng tố chất và khả năng của chính mình. Ví dụ: điều gì sẽ xảy ra với họ trong tương lai, liệu họ có thể vào được đại học hay không, liệu họ có thể kiếm được một công việc tốt khi học xong đại học hay không và liệu mọi thứ có suôn sẻ với họ khi họ có được việc làm hay không; và nếu họ muốn thăng tiến và trở nên giàu có, liệu họ có thể đạt được lý tưởng và mong muốn trong vài năm hay không; rồi khi họ muốn tìm bạn đời, kết hôn và lập gia đình thì kiểu bạn đời nào sẽ phù hợp với họ? Đối với con người, những điều như thế này đều là những điều chưa biết. Với những điều chưa biết như vậy, con người cảm thấy bối rối. Khi cảm thấy bối rối, con người trở nên sầu khổ, âu lo và lo lắng – họ cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về mọi thứ trong tương lai có thể xảy đến với họ. Tại sao lại như vậy? Đó là bởi vì, trong phạm vi nhân tính bình thường, con người căn bản không thể chịu được tất cả những điều này. Không ai biết họ sẽ thế nào trong vài năm tới, không ai biết công việc, hôn nhân hay con cái của họ sẽ ra sao trong tương lai – đơn giản là con người không biết những điều này. Đây là những điều không thể biết trước trong phạm vi khả năng của nhân tính bình thường, và đó là lý do tại sao con người luôn cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về chúng. Cho dù tâm trí của một người có đơn giản đến đâu, miễn là họ có khả năng suy nghĩ, thì những cảm xúc tiêu cực này sẽ lần lượt nảy sinh trong thâm tâm họ khi họ đến tuổi trưởng thành. Tại sao sầu khổ, âu lo và lo lắng lại nảy sinh trong con người? Bởi vì con người luôn âu lo, bị kích động về những việc vượt quá khả năng của mình; họ luôn muốn biết, muốn hiểu và đạt được những điều vượt ngoài phạm vi khả năng của mình, thậm chí muốn kiểm soát những điều nằm ngoài phạm vi khả năng của nhân tính bình thường. Họ muốn kiểm soát tất cả những điều này, và không chỉ vậy – họ còn muốn các quy luật và kết quả phát triển của những điều này tiến triển và thành tựu theo ý họ. Do đó, khi bị chi phối bởi những suy nghĩ phi lý như vậy, con người cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng, và hậu quả của những cảm xúc này ở mỗi người là khác nhau. Dù con người có cảm thấy vô cùng sầu khổ, âu lo hay lo lắng về điều gì đi nữa, từ đó hình thành những cảm xúc tiêu cực này, thì con người cũng nên nhìn nhận chúng một cách hết sức nghiêm túc và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng.

Chúng ta sẽ thông công về những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng chủ yếu từ hai khía cạnh: thứ nhất là mổ xẻ những khó khăn của con người để xem chúng là gì, và từ đó thấy được đâu mới chính là nguyên nhân dẫn đến việc nảy sinh những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng, và chính xác thì chúng nảy sinh như thế nào; thứ hai sẽ là mổ xẻ những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng liên quan đến những thái độ khác nhau của con người đối với công tác của Đức Chúa Trời. Các ngươi có hiểu không? (Thưa hiểu.) Có bao nhiêu khía cạnh? (Thưa hai.) Chúng ta phải mổ xẻ những nguyên nhân nảy sinh những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng, trước hết là từ những khó khăn mà con người gặp phải, và thứ hai là từ thái độ của con người đối với công tác của Đức Chúa Trời. Hãy lặp lại điều đó cho Ta. (Thưa, chúng ta phải mổ xẻ những nguyên nhân nảy sinh những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng, trước hết là từ những khó khăn mà con người gặp phải, và thứ hai là từ thái độ của con người đối với công tác của Đức Chúa Trời.) Có rất nhiều khó khăn mà con người có thể gặp phải, tất cả đều là những điều người ta gặp phải trong cuộc sống hàng ngày, những khó khăn thường nảy sinh trong phạm vi sống một cuộc sống của nhân tính bình thường. Và những khó khăn này phát sinh như thế nào? Chúng phát sinh bởi vì con người luôn cố gắng vượt lên chính mình, luôn cố làm chủ số phận của mình, biết trước tương lai của mình. Nếu tương lai của họ không được tốt đẹp, họ sẽ ngay lập tức tìm kiếm thầy phong thủy hoặc thầy bói toán để khắc phục và điều chỉnh. Đó là lý do tại sao con người gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống hàng ngày và chính những khó khăn này khiến con người thường xuyên trượt vào những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng. Những khó khăn này là gì? Trước tiên chúng ta hãy xem điều mà con người coi là khó khăn lớn nhất – đó là gì? Đó là tiền đồ của họ, nghĩa là tương lai của người ta sẽ ra sao trong kiếp này, tương lai họ sẽ giàu có hay bình thường, liệu họ có thể nổi bật, đạt được thành công lớn và phát đạt trong thế giới và giữa mọi người không. Đặc biệt trong số những người tin vào Đức Chúa Trời, họ có thể không biết điều gì sẽ xảy đến với người khác trong tương lai, nhưng lại thường lo lắng cho tương lai của chính mình và luôn thắc mắc: “Tin vào Đức Chúa Trời chỉ là thế này thôi sao? Liệu trong tương lai mình có thể trở nên nổi bật giữa đám đông không? Liệu mình có thể đảm nhận một vai trò quan trọng trong nhà Đức Chúa Trời không? Liệu mình có thể trở thành trưởng nhóm hoặc người phụ trách không? Liệu mình có thể trở thành lãnh đạo không? Điều gì sẽ xảy đến với mình? Nếu mình liên tục thực hiện bổn phận như thế này trong nhà Đức Chúa Trời thì cuối cùng mình sẽ ra sao? Liệu mình có đạt được sự cứu rỗi không? Mình có triển vọng gì trong tương lai không? Mình có còn cần tiếp tục làm công việc của mình trong thế giới không? Mình có cần tiếp tục học kỹ năng chuyên môn đã học trước đây hay học tiếp lên cao hơn không? Nếu có thể cứ tiếp tục thực hiện bổn phận toàn thời gian trong nhà Đức Chúa Trời, thì mình sẽ không gặp bất kỳ vấn đề gì về những nhu cầu cơ bản trong cuộc sống, nhưng nếu mình không làm tròn bổn phận và bị điều chỉnh bổn phận, bị cách chức, thì mình sẽ sống thế nào? Mình có nên tận dụng cơ hội lúc này, trước khi bị điều chỉnh bổn phận hoặc bị đào thải, để chuẩn bị cho tình huống đó không?”. Họ băn khoăn về những điều này và thấy mình có một chút tiền tiết kiệm, nghĩ bụng: “Mình có thể sống được bao nhiêu năm với số tiền đã tiết kiệm chứ? Bây giờ đã ba mươi tuổi và mười năm nữa sẽ bốn mươi. Nếu bị thanh lọc khỏi hội thánh, liệu mình có thể theo kịp tình hình khi trở lại thế giới không? Liệu sức khỏe của mình có đủ tốt để mình tiếp tục làm việc không? Liệu mình có thể kiếm đủ tiền để sống không? Liệu có khó sống không? Mình thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời, nhưng liệu Đức Chúa Trời có giữ mình cho đến cuối cùng không?”. Mặc dù luôn nghĩ về những điều này nhưng họ không bao giờ tìm ra câu trả lời. Mặc dù không bao giờ có bất kỳ kết luận nào, nhưng họ cứ suy nghĩ mãi về những điều này – việc này nằm ngoài tầm kiểm soát của họ. Khi gặp phải trở ngại hay khó khăn nào đó, hoặc khi có chuyện không diễn ra theo ý họ muốn, thì trong thâm tâm, họ cân nhắc những điều này mà không nói cho ai biết. Có những người khi bị tỉa sửa và xử lý, khi bị cách chức, khi bị điều chuyển bổn phận, hoặc khi gặp phải khủng hoảng hay chuyện gì đó, họ bất giác tìm kiếm đường lùi và không khỏi lập kế hoạch và dự tính cho các bước đi tiếp theo. Bất kể cuối cùng có chuyện gì xảy ra, thì con người vẫn thường lập kế hoạch và dự tính cho những điều họ cảm thấy lo lắng, âu lo và sầu khổ. Chẳng phải đây là những điều con người nghĩ đến về tiền đồ của chính mình sao? Chẳng phải những cảm xúc tiêu cực này nảy sinh bởi vì con người không thể buông bỏ những tiền đồ của chính mình sao? (Thưa phải.) Khi con người cảm thấy đặc biệt nhiệt tình và đặc biệt thuận lợi trong lúc thực hiện bổn phận, và đặc biệt là khi họ được đề bạt, được trọng dụng, khi họ nhận được sự ủng hộ của hầu hết các anh chị em và khi giá trị của họ được thể hiện, thì họ không nghĩ đến những cảm xúc tiêu cực này. Khi danh tiếng, địa vị và lợi ích của họ bị đe dọa, họ không khỏi rút lui vào những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng. Khi quay trở lại với những cảm xúc tiêu cực này, cách họ tiếp cận những cảm xúc tiêu cực này không phải là chạy trốn hay cự tuyệt chúng mà là xuôi theo chúng và cố gắng chăm chỉ để chìm sâu trong những cảm giác sầu khổ, âu lo và lo lắng này, chìm sâu hơn nữa vào chúng. Tại sao Ta lại nói như thế? Khi con người chìm đắm trong những cảm xúc tiêu cực này, họ sẽ có nhiều lý do hơn, nhiều lời bào chữa hơn và có thể tự do hơn trong việc lập kế hoạch cho tương lai cũng như những bước đi tiếp theo của mình. Khi đang lập những kế hoạch này, họ nghĩ rằng chuyện phải như vậy, rằng đây là điều họ phải làm, và họ dùng câu nói “Người không vì mình, trời tru đất diệt” và một câu khác “Người không biết lo xa, ắt sẽ có buồn gần”, nghĩa là nếu ngươi không lập kế hoạch và suy tính trước cho tiền đồ và số phận của mình thì sẽ không có ai lo cho ngươi cả và sẽ không có ai lo đến những điều đó thay ngươi cả. Khi không biết phải bước tiếp như thế nào, ngươi sẽ phải đối mặt với sự lúng túng, đau đớn, bối rối và người chịu khổ, chịu đựng những khó khăn đó sẽ là ngươi. Cho nên, con người thấy mình rất thông minh, cứ đi một bước đều nhìn trước mười bước. Khi gặp bất cứ khó khăn hay thất vọng nào, họ lập tức quay trở lại với những cảm xúc tiêu cực sầu khổ, âu lo, lo lắng để bảo vệ bản thân, để đảm bảo tương lai và bước tiếp theo trong cuộc đời họ được hết sức rõ ràng, có cơm ăn, áo mặc, không lang thang ngoài đường và không thiếu thức ăn hay quần áo. Vì vậy, dưới ảnh hưởng của những cảm xúc tiêu cực này, họ thường cảnh báo bản thân rằng: “Mình phải lên kế hoạch trước, giữ lại một số thứ và chừa đủ cho mình một đường lùi. Mình không được ngu ngốc – số phận mình nằm trong tay mình. Người ta thường nói: ‘Số phận của chúng ta nằm trong tay Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời nắm quyền tối thượng đối với số phận của con người’, nhưng đây chỉ là những câu cửa miệng suông mà thôi. Ai đã thực sự nhìn thấy điều này chứ? Đức Chúa Trời nắm quyền tối thượng đối với số phận của chúng ta như thế nào chứ? Ai đã thực sự nhìn thấy Đức Chúa Trời đích thân sắp xếp ba bữa một ngày cho ai, hay sắp xếp tất cả những gì người ta cần trong cuộc sống chứ? Không ai cả”. Con người tin rằng khi họ không nhìn thấy quyền tối thượng của Đức Chúa Trời, và nếu họ cảm thấy sầu khổ, âu lo, lo lắng về tiền đồ của mình, thì những cảm xúc tiêu cực này giống như sự bảo vệ cho họ, giống như một lá chắn bảo vệ, một nơi trú ẩn an toàn. Họ liên tục cảnh báo và nhắc nhở bản thân lập kế hoạch cho tương lai, phải lo lắng về ngày mai, không được suốt ngày ăn no và lười biếng; rằng không có gì sai khi lập kế hoạch cho bản thân, tìm lối thoát cho mình và nỗ lực ngày đêm vì tiền đồ của chính mình. Họ tự nhủ rằng đây là điều tự nhiên và hoàn toàn chính đáng, không có gì phải xấu hổ cả. Vì vậy, mặc dù con người tin rằng sầu khổ, âu lo và lo lắng là những cảm xúc tiêu cực, nhưng họ không bao giờ cảm nhận chúng là điều xấu, họ không bao giờ nghĩ rằng những cảm xúc tiêu cực này có thể gây hại cho họ theo bất kỳ cách nào hay chúng có thể là trở ngại cho việc họ mưu cầu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật. Thay vào đó, họ tận hưởng chúng không mệt mỏi và sẵn sàng sống không mệt mỏi trong những cảm xúc tiêu cực này. Điều này là do họ tin rằng chỉ khi sống trong những cảm xúc tiêu cực này và thường xuyên cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về tiền đồ của mình thì họ mới có thể được an toàn. Nếu không, còn ai sẽ thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng cho tương lai của họ chứ? Không một ai cả. Không ai yêu họ hơn chính bản thân họ và không ai hiểu họ hay thông cảm với họ như chính họ. Vì vậy, ngay cả khi con người có thể nhận ra ở một mức độ nhất định và ở mức độ nghĩa đen, về mặt giáo lý rằng sự tồn tại của những cảm xúc tiêu cực như vậy là có hại cho họ, thì họ vẫn không sẵn sàng từ bỏ những cảm xúc tiêu cực đó bởi những cảm xúc tiêu cực này giúp họ vững vàng chủ động nắm chắc và làm chủ tương lai của chính mình. Nói như thế này có đúng không? (Thưa đúng.) Do đó, đối với con người, việc lo lắng, cảm thấy âu lo và sầu khổ về tương lai của mình là một vấn đề trách nhiệm to lớn. Điều đó không đáng xấu hổ, không đáng thương hại, cũng không đáng ghét, mà đối với họ đó lại là điều đương nhiên. Đó là lý do tại sao con người rất khó buông bỏ những cảm xúc tiêu cực này, như thể họ sinh ra là đã có chúng. Mọi điều con người nghĩ đến từ khi sinh ra đều là vì bản thân họ, và điều quan trọng nhất đối với họ là tiền đồ của chính mình. Họ nghĩ rằng nếu họ nắm chắc tương lai của mình và luôn trông chừng nó thì họ sẽ sống một cuộc sống không âu lo. Họ nghĩ rằng với những triển vọng tốt đẹp trong tương lai, họ sẽ có mọi thứ mình muốn và tất cả sẽ là điều chắc chắn. Và vì vậy, con người cứ mãi hết lần này đến lần khác không bao giờ thấy chán cảm giác sầu khổ, âu lo và lo lắng về tiền đồ của mình. Ngay cả khi Đức Chúa Trời đã ban lời hứa của Ngài, ngay cả khi con người đã được hưởng hoặc nhận được nhiều ân điển từ Đức Chúa Trời, ngay cả khi họ đã thấy Đức Chúa Trời ban đủ mọi phước lành cho nhân loại, và những sự thật tương tự khác, thì con người vẫn muốn sống trong những cảm xúc sầu khổ, âu lo và lo lắng, đồng thời lập kế hoạch và hoạch định cho tương lai của mình.

Bên cạnh những tiền đồ, còn có một điều quan trọng khác, điều mà con người cũng thường cảm thấy sầu khổ, âu lo, lo lắng, đó chính là chuyện hôn nhân. Một số người chưa kết hôn ở tuổi ba mươi mà không lo lắng hay bận tâm gì, bởi vì hiện nay có nhiều người ở độ tuổi ba mươi vẫn chưa kết hôn. Đây là điều thường thấy trong xã hội và không ai cười nhạo ngươi vì điều đó, cũng không ai nói ngươi có vấn đề gì cả. Tuy nhiên, nếu một người nào đó đã bước sang tuổi bốn mươi mà vẫn chưa kết hôn, thì trong thâm tâm họ bắt đầu cảm thấy hơi hoang mang và nghĩ: “Mình có nên tìm bạn đời hay không? Mình có nên kết hôn hay không? Nếu mình không kết hôn và có gia đình, không có con thì khi về già có ai chăm sóc không? Có ai chăm sóc khi mình đau ốm không? Có ai lo hậu sự khi mình chết đi không?”. Người ta lo lắng về những điều này. Những người không có kế hoạch kết hôn thì không cảm thấy sầu khổ, âu lo hay lo lắng. Ví dụ, có người nói: “Giờ tôi tin vào Đức Chúa Trời và tôi sẵn sàng dâng mình cho Đức Chúa Trời. Tôi sẽ không tìm bạn đời và sẽ không kết hôn. Tôi sẽ không sầu khổ vì những điều này dù có bao nhiêu tuổi đi chăng nữa”. Những người độc thân, những người đã độc thân 10 hay 20 năm, những người độc thân từ độ tuổi 20 đến 40 tuổi không nên có mối lo ngại lớn nào. Mặc dù đôi khi họ có thể cảm thấy hơi lo lắng và sầu khổ vì các yếu tố hoàn cảnh hoặc lý do khách quan, nhưng vì họ tin vào Đức Chúa Trời và bận rộn thực hiện bổn phận của mình, và vì mức độ quyết tâm hiện tại của họ không thay đổi, nên dạng lo lắng mà họ cảm thấy rất mơ hồ, chỉ thỉnh thoảng mới xảy ra, và đó không phải là vấn đề lớn. Loại cảm xúc không ảnh hưởng đến việc thực hiện bổn phận bình thường này không có hại cho con người, cũng không thể coi là cảm xúc tiêu cực, tức là vấn đề này chưa trở thành cảm xúc tiêu cực đối với ngươi. Còn những người đã lập gia đình thì họ lo lắng điều gì? Nếu cả hai vợ chồng đều tin vào Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình thì cuộc hôn nhân này có được duy trì không? Gia đình có tồn tại không? Còn con cái thì sao? Ngoài ra, nếu một trong hai người mưu cầu lẽ thật còn người kia thì không, nếu người không mưu cầu lẽ thật luôn theo đuổi thế gian, theo đuổi cuộc sống giàu có, còn người mưu cầu lẽ thật luôn muốn thực hiện bổn phận của mình, trong khi người không mưu cầu lẽ thật thì luôn cố gắng ngăn cản vợ/chồng mình nhưng lại cảm thấy xấu hổ, thỉnh thoảng lên tiếng phàn nàn hoặc nói những điều tiêu cực để làm nản lòng vợ/chồng mình, thì người mưu cầu lẽ thật sẽ tự hỏi: “Ôi, chồng mình không thực sự tin vào Đức Chúa Trời, vậy tương lai bọn mình sẽ ra sao đây? Nếu bọn mình ly hôn, mình sẽ độc thân và không thể duy trì kế sinh nhai. Nếu mình ở lại với anh ấy, bọn mình sẽ không đi chung một con đường, đồng sàng dị mộng, và khi đó mình sẽ làm gì chứ?”. Họ cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về những điều này. Khi bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời, một số chị em tin rằng, mặc dù chồng họ không tin vào Đức Chúa Trời, nhưng chồng họ không quá cố gắng cản trở đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời, và họ không bị bức hại, nên không có lý do gì để ly hôn cả. Tuy nhiên, nếu ở cùng nhau, họ luôn cảm thấy bị hạn chế và bị ảnh hưởng. Họ bị ảnh hưởng bởi điều gì? Họ bị hạn chế và ảnh hưởng bởi tình cảm của mình, đồng thời những khó khăn khác nhau trong cuộc sống gia đình và hôn nhân đôi khi khuấy động thâm tâm họ, khiến họ cảm nhận một chút sầu khổ, âu lo và lo lắng thuộc loại không lớn cũng không nhỏ. Trong hoàn cảnh như vậy, hôn nhân là một hình thức duy trì cuộc sống gia đình bình thường và nó trở thành thứ trói buộc lối suy nghĩ bình thường của người vợ, cuộc sống bình thường và thậm chí cả việc thực hiện bổn phận bình thường của họ – rất khó để duy trì cuộc hôn nhân, nhưng họ không thể thoát ra được. Không có lý do cụ thể nào để duy trì một cuộc hôn nhân như thế này, cũng không có lý do cụ thể nào để họ ly hôn; không có đủ lý do để thực hiện một trong hai hành động này. Họ không biết lựa chọn nào là đúng đắn và họ không biết điều gì là sai. Vì vậy, sự sầu khổ, âu lo và lo lắng nảy sinh trong họ. Những cảm giác sầu khổ, âu lo, lo lắng này thường xuyên nổi lên trong tâm trí họ và trói buộc họ trong cuộc sống hàng ngày, đồng thời chúng cũng ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của họ. Trong quá trình thực hiện bổn phận của mình, những điều này luôn nổi lên trong tâm trí và nảy sinh trong thâm tâm họ, ảnh hưởng đến việc thực hiện bổn phận bình thường của họ. Mặc dù những điều này có vẻ như không phải là một lời rõ ràng về những gì những người vợ này nên làm hoặc những lựa chọn mà họ nên đưa ra, nhưng những vấn đề này khiến họ bị sa lầy sâu trong những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo, lo lắng, khiến họ cảm thấy bị đè nén và mắc kẹt. Đây chẳng phải là một dạng khó khăn khác sao? (Thưa đúng vậy.) Đây là một dạng khó khăn khác, một khó khăn do hôn nhân gây ra.

Cũng có những người vì đã tin vào Đức Chúa Trời, sống đời sống hội thánh, đọc lời Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của mình nên không có thời gian để giao thiệp bình thường với con cái, vợ (hoặc chồng), cha mẹ, bạn bè, hay người thân không có đức tin của họ. Đặc biệt, họ sẽ không thể chăm sóc chu đáo cho những đứa con không tin của mình, hay làm bất kỳ việc gì mà con cái họ yêu cầu, và vì vậy họ lo lắng về tương lai và tiền đồ của con mình. Đặc biệt khi con cái lớn lên, một số người sẽ bắt đầu băn khoăn: liệu con mình có vào đại học hay không? Nếu vào đại học, chúng sẽ học chuyên ngành gì? Con mình không tin vào Đức Chúa Trời và muốn vào đại học, vậy mình, với tư cách là một người tin vào Đức Chúa Trời, có nên trả tiền học cho con không? Mình có nên chăm lo cho nhu cầu hàng ngày của chúng và hỗ trợ việc học hành của chúng không? Và khi chúng kết hôn, có việc làm, thậm chí có gia đình và con cái riêng, mình nên đóng vai trò gì? Mình nên làm gì và không nên làm gì? Họ không biết gì về những điều này. Ngay khi có chuyện như thế này xảy ra, ngay khi họ rơi vào tình huống như vậy, họ bối rối và không biết phải làm gì, cũng như không biết cách để giải quyết những việc như vậy. Theo thời gian, sự sầu khổ, âu lo và lo lắng nảy sinh liên quan đến những điều này: nếu họ làm những điều này cho con mình, họ sợ làm trái ý muốn của Đức Chúa Trời và làm phật lòng Đức Chúa Trời, còn nếu không làm, họ sợ không làm tròn trách nhiệm của cha mẹ và bị con cái và mọi người trong gia đình trách móc; nếu họ làm những điều này, họ sợ sẽ mất chứng ngôn, còn nếu không làm, thì họ sợ bị người đời chế nhạo, bị hàng xóm chê cười, chê bai và phán xét; họ sợ làm ô danh Đức Chúa Trời, nhưng họ cũng sợ mang tiếng xấu cho bản thân và cảm thấy xấu hổ đến mức không dám chường mặt ra. Khi bị dao động bởi những điều này, sự sầu khổ, âu lo và lo lắng nảy sinh trong lòng họ; họ cảm thấy sầu khổ vì không biết phải làm gì, họ cảm thấy âu lo là dù có làm gì thì cũng sai, và không biết liệu việc họ làm có thích hợp hay không, và họ lo lắng nếu những chuyện này cứ tiếp diễn, rồi một ngày họ sẽ không còn có thể đương đầu với chúng nữa, và nếu họ suy sụp thì mọi chuyện sẽ càng khó khăn hơn với họ. Những người ở trong tình cảnh như vậy cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về tất cả những chuyện xảy ra trong cuộc sống, dù đó là chuyện lớn hay chuyện nhỏ. Một khi những cảm giác tiêu cực này dấy lên trong họ, họ sẽ sa lầy trong sự sầu khổ, âu lo, lo lắng này và không thể tự giải thoát: họ làm điều này là sai, họ làm điều kia là sai, và họ không biết phải làm sao cho đúng; họ muốn làm hài lòng người khác, nhưng lại sợ làm phật lòng Đức Chúa Trời; họ muốn làm những việc cho người khác để được tiếng tốt, nhưng lại không muốn làm ô danh Đức Chúa Trời hay khiến Đức Chúa Trời khinh ghét họ. Đó là lý do tại sao họ luôn bị sa vào trong những cảm giác sầu khổ, âu lo và lo lắng này. Họ cảm thấy sầu khổ cho cả người khác lẫn cho chính mình; họ cảm thấy âu lo về mọi chuyện cho người khác cũng như cho chính mình; và họ cũng lo lắng cho người khác cũng như cho chính mình, nên họ sa vào một khó khăn kép mà không thể thoát ra được. Những cảm xúc tiêu cực như vậy không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của họ mà còn ảnh hưởng đến việc thực hiện bổn phận của họ, và tất nhiên cũng ảnh hưởng đến việc họ mưu cầu lẽ thật ở một mức độ nào đó. Đây là một dạng khó khăn, là những khó khăn liên quan đến hôn nhân, cuộc sống gia đình, đời sống cá nhân và chính vì những khó khăn này mà con người thường rơi vào sầu khổ, âu lo và lo lắng. Chẳng phải con người thật đáng thương khi bị mắc kẹt trong dạng cảm xúc tiêu cực này sao? (Thưa phải.) Họ có đáng thương không? Các ngươi vẫn nói: “Thưa phải”, chứng tỏ các ngươi vẫn còn rất thông cảm với họ. Khi người ta bị sa vào cảm xúc tiêu cực, bất kể bối cảnh phát sinh của cảm xúc tiêu cực đó là gì, thì nguyên nhân phát sinh của nó là gì? Có phải vì hoàn cảnh, vì con người, sự việc, sự vật xung quanh người đó không? Hay là vì lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ đã làm nhiễu loạn họ? Có phải là hoàn cảnh ảnh hưởng đến con người, hay là lời Đức Chúa Trời làm nhiễu loạn cuộc sống của họ? Nguyên nhân chính xác là gì? Các ngươi có biết không? Các ngươi nói xem, dù là trong cuộc sống bình thường của con người hay trong việc họ thực hiện bổn phận, nếu họ mưu cầu lẽ thật và sẵn sàng thực hành lẽ thật thì những khó khăn này có tồn tại không? (Thưa không.) Xét về sự thật khách quan những khó khăn này tồn tại. Các ngươi nói chúng không tồn tại, vậy có lẽ nào các ngươi đã giải quyết được những khó khăn này? Các ngươi có đủ khả năng làm điều đó không? Những khó khăn này không thể giải quyết được và chúng tồn tại xét về mặt sự thật khách quan. Hậu quả của những khó khăn này đối với những người mưu cầu lẽ thật là gì? Và hậu quả của chúng đối với những người không mưu cầu lẽ thật là gì? Sẽ có hai kết quả hoàn toàn khác nhau. Nếu con người mưu cầu lẽ thật, họ sẽ không vướng vào những khó khăn này và không chìm vào những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng. Ngược lại, nếu con người không mưu cầu lẽ thật thì những khó khăn này vẫn tồn tại trong họ như vậy, và kết cục sẽ ra sao? Chúng sẽ vướng mắc vào ngươi khiến ngươi không thể thoát ra được, và nếu ngươi không giải quyết được chúng thì cuối cùng chúng sẽ trở thành những cảm xúc tiêu cực khiến ngươi rối rắm trong thâm tâm; chúng sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của ngươi và việc thực hiện bổn phận bình thường của ngươi, đồng thời sẽ khiến ngươi cảm thấy bị ức chế và không thể tìm được sự giải thoát – đây là kết cục mà chúng sẽ gây ra cho ngươi. Hai kết cục này khác nhau phải không? (Thưa phải.) Vậy, hãy quay lại câu hỏi mà Ta vừa hỏi. Ta đã hỏi gì? (Thưa, những cảm xúc tiêu cực nảy sinh trong con người là do những ảnh hưởng của hoàn cảnh hay là do lời Đức Chúa Trời đang làm nhiễu loạn con người?) Vậy lý do là gì? Câu trả lời là gì? (Thưa, là vì con người không mưu cầu lẽ thật.) Đúng vậy, không phải là vì cả hai điều trên, mà là vì con người không mưu cầu lẽ thật. Khi con người không mưu cầu lẽ thật, họ thường sa vào những suy nghĩ cực đoan và cảm xúc tiêu cực và không thể tự giải thoát bản thân. Hãy nhắc lại câu hỏi Ta vừa hỏi. (Thưa, lý do nảy sinh những cảm xúc tiêu cực trong con người là vì hoàn cảnh, con người, sự việc và sự vật xung quanh họ, hay là vì lẽ thật Đức Chúa Trời bày tỏ đã làm nhiễu loạn con người?) Nói một cách đơn giản, đó là vì ảnh hưởng của hoàn cảnh hay là vì lời Đức Chúa Trời làm nhiễu loạn con người? Lý do nào? (Thưa, không phải cả hai lý do này.) Đúng, cả hai đều không phải. Hoàn cảnh tác động như nhau đến tất cả mọi người; nếu ngươi mưu cầu lẽ thật, thì ngươi sẽ không chìm trong cảm xúc tiêu cực vì một hoàn cảnh nào đó. Tuy nhiên, nếu không mưu cầu lẽ thật, rất tự nhiên, ngươi sẽ bị choáng ngợp bởi hoàn cảnh hết lần này đến lần khác và sẽ bị mắc kẹt trong những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng. Nhìn từ góc độ này, việc mưu cầu lẽ thật không quan trọng sao? (Thưa có.) Trong mọi chuyện xảy ra, đều có những nguyên tắc lẽ thật cần được tìm kiếm. Tuy nhiên, trên thực tế, vì con người không mưu cầu lẽ thật và không tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật, hoặc là họ biết rõ Đức Chúa Trời yêu cầu điều gì, nguyên tắc của lẽ thật là gì, họ nên thực hành con đường nào, và tiêu chí thực hành là gì, nhưng họ không để ý hay làm theo, khi họ luôn tự mình lựa chọn và lên kế hoạch thì cuối cùng họ sẽ ra sao? Khi con người không thực hành theo lời Đức Chúa Trời, luôn lo lắng về điều này điều kia, thì chỉ có một kết cục, đó là họ sẽ sa lầy trong sầu khổ, âu lo, lo lắng và không thể thoát ra được nữa. Phải chăng con người luôn có thể dựa vào trí tưởng tượng của mình, để mọi việc luôn diễn ra như ý muốn, để khiến người khác hài lòng cũng như nhận được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời? Đó là điều không thể! Họ luôn muốn giải quyết mọi việc sao cho mọi người xung quanh vui vẻ, hài lòng và hết lời khen ngợi họ. Họ muốn được gọi là người tốt, muốn làm thỏa lòng Đức Chúa Trời, và nếu không đạt được tiêu chuẩn này thì họ cảm thấy sầu khổ. Và chẳng phải họ đáng phải sầu khổ sao? (Thưa phải.) Đây là điều con người tự chọn lấy.

Cũng có một số người vô lý cho rằng: “Nếu Đức Chúa Trời không phán nhiều lời như vậy thì tôi đã làm mọi việc đạt tiêu chuẩn đạo đức của một người tốt rồi. Nó sẽ rất đơn giản và sẽ không có nhiều điều để nói. Cũng giống như trong Thời đại Ân điển, con người tuân giữ các điều răn, họ nhẫn nại và bao dung, vác thập tự giá, chịu khổ, và như thế thật đơn giản. Chẳng phải thế là xong chuyện sao? Còn bây giờ, với rất nhiều lẽ thật được Đức Chúa Trời phán và rất nhiều nguyên tắc thực hành được đưa ra trong mối thông công, tại sao con người lại không thể đạt được sau một thời gian dài như vậy chứ? Một mặt, tố chất của con người quá thiếu kém, họ không thể hiểu hết được, và có nhiều lẽ thật mà họ không thể đạt được; mặt khác, có rất nhiều khó khăn trong việc con người đưa lẽ thật vào thực hành, và ngay cả khi có hiểu được thì họ vẫn khó đạt được. Hiểu lẽ thật nhưng không thực hành thì cảm thấy bất an, nhưng khi thực hành thì lại có quá nhiều khó khăn thực tế”. Con người tin rằng lời Đức Chúa Trời đang làm nhiễu loạn họ, nhưng thực tế có phải như vậy không? (Thưa không.) Đây gọi là vô lý và gây chuyện càn quấy. Họ chán ghét lẽ thật và không mưu cầu lẽ thật, cũng như không thực hành lẽ thật, nhưng vẫn muốn đội lốt thuộc linh, giả vờ đang thực hành lẽ thật và muốn đạt được sự cứu rỗi. Cuối cùng, khi không đạt được những điều này, họ cảm thấy chán nản và đau khổ, nghĩ rằng: “Ai có thể cân bằng được tất cả những chuyện này chứ? Nếu Đức Chúa Trời hạ thấp tiêu chuẩn của Ngài xuống một chút thì sẽ tốt hơn, rồi con người sẽ ổn, Đức Chúa Trời sẽ ổn, ai cũng ổn – thế mới là cuộc sống trên thiên đàng!”. Những người như này luôn nghĩ rằng những lời Đức Chúa Trời phán đều thiếu quan tâm đến con người. Trên thực tế, khi có cảm giác sầu khổ, âu lo và lo lắng thì họ bất mãn với Đức Chúa Trời về nhiều điều. Cụ thể là, khi liên quan đến cách tiếp cận các nguyên tắc lẽ thật, họ không thể đạt được chúng hoặc với tới chúng, họ hoàn toàn không thể nói về chúng, và điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh tiếng và uy tín của họ trong mắt người khác, cũng như ảnh hưởng đến mong muốn được ban phước của họ, khiến họ sa lầy trong sầu khổ, âu lo và lo lắng và đó là lý do tại sao họ tin rằng có nhiều điều Đức Chúa Trời làm mà họ không hài lòng. Thậm chí có người còn nói: “Đức Chúa Trời là Đấng công chính, tôi không phủ nhận; Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết và tôi cũng không phủ nhận điều đó. Mọi điều Đức Chúa Trời phán chắc chắn đều là lẽ thật, chỉ tiếc là những gì Đức Chúa Trời phán bây giờ quá cao siêu, những yêu cầu của Ngài đối với con người quá nghiêm ngặt, và con người không dễ gì đạt được mọi điều đó!”. Họ không yêu lẽ thật và đổ mọi trách nhiệm lên Đức Chúa Trời. Họ khởi từ tiền đề rằng Đức Chúa Trời là Đấng công chính, Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết, và họ tin rằng mọi điều này đều đúng. Đức Chúa Trời là Đấng công chính, Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết – ngươi có cần phải thừa nhận thực chất của Đức Chúa Trời không? Đây là sự thật; không phải vì ngươi thừa nhận chúng nên chúng mới là sự thật. Để khỏi bị lên án vì oán trách Đức Chúa Trời, họ vội nói Đức Chúa Trời là Đấng công chính, Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết. Tuy nhiên, bất kể họ nói gì về việc Đức Chúa Trời là Đấng công chính và Đấng thánh khiết, thì những cảm xúc tiêu cực của họ như sầu khổ, âu lo và lo lắng vẫn tồn tại và, những cảm xúc này không chỉ hiện diện mà họ còn không muốn buông bỏ những cảm xúc này, không muốn bỏ chúng lại phía sau, không muốn thay đổi nguyên tắc thực hành, thay đổi phương hướng mưu cầu và thay đổi con đường nhân sinh mà họ đi. Những người như vậy vừa đáng thương vừa đáng ghét. Đơn giản là họ không đáng được thông cảm, và dù họ có chịu khổ thế nào đi nữa thì cũng không đáng để chúng ta thương hại. Tất cả những gì chúng ta cần làm là nói với họ mấy lời này: Đáng lắm! Nếu ngươi chết vì quá đau buồn, thì cũng không ai thương hại ngươi cả! Ai bảo ngươi không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề của mình chứ? Ai bảo ngươi không thể quy phục Đức Chúa Trời và thực hành lẽ thật chứ? Vì ai mà ngươi cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng? Ngươi cảm nhận những điều đó để đạt được lẽ thật sao? Để đạt được Đức Chúa Trời sao? Hay là vì công tác của Đức Chúa Trời? Hay là vì vinh quang của Đức Chúa Trời? (Thưa, đều không phải.) Vậy thì ngươi cảm nhận những cảm xúc đó để làm gì? Tất cả là vì bản thân ngươi, vì con cái ngươi, vì gia đình ngươi, vì thể diện của ngươi, vì danh tiếng của ngươi, vì tương lai và tiền đồ của ngươi, vì mọi thứ liên quan đến bản thân ngươi. Một người như vậy không buông, không bỏ, không phản bội hay rũ bỏ điều gì; họ không có đức tin thực sự nơi Đức Chúa Trời, và không có lòng trung thành thực sự đối với việc thực hiện bổn phận của mình. Trong đức tin nơi Đức Chúa Trời, họ không thực sự dâng mình, họ chỉ tin để được nhận phước lành, và chỉ tin vào Đức Chúa Trời với niềm tin chắc rằng sẽ nhận được phước lành. Họ tràn đầy “đức tin” vào Đức Chúa Trời, vào công tác của Ngài và những lời hứa của Ngài, nhưng Đức Chúa Trời không khen ngợi đức tin đó, Ngài cũng không ghi nhớ nó, mà chỉ ghê tởm nó. Những người như vậy không tuân theo hoặc thực hành các nguyên tắc xử lý bất kỳ vấn đề nào mà Đức Chúa Trời yêu cầu ở họ, họ không buông những điều nên buông, họ không bỏ những điều nên bỏ, không rũ bỏ những điều nên rũ bỏ, không dâng lòng trung thành mà đáng lẽ phải dâng, và vì vậy họ đáng phải chìm trong những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng. Dù chịu khổ đến đâu, họ cũng chỉ làm vậy vì bản thân mình chứ không phải vì bổn phận hay vì công tác của hội thánh. Vì vậy, những người như vậy căn bản là không mưu cầu lẽ thật – họ chỉ là một nhóm người tin vào Đức Chúa Trời trên danh nghĩa. Họ biết chính xác rằng đây là con đường thật, nhưng họ không thực hành và cũng không tuân theo. Đức tin của họ thật thảm hại và không thể đạt được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời, và sẽ không được Đức Chúa Trời ghi nhớ. Những người như vậy bị sa lầy trong những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng vì vô số những khó khăn trong cuộc sống gia đình.

Rồi cũng có những người sức khỏe kém, thể chất yếu, thiếu sức lực, thường xuyên đau ốm bệnh tật dù nặng hay nhẹ, thậm chí không thể làm được những việc cơ bản cần thiết trong cuộc sống hàng ngày, không thể sinh hoạt và đi lại như người bình thường. Những người như vậy thường cảm thấy khó chịu và không khỏe khi thực hiện bổn phận của mình; có người thể chất yếu ớt, có người thực sự có bệnh, và tất nhiên cũng có người đã biết bị bệnh này bệnh kia và tiềm ẩn bệnh này bệnh nọ. Vì gặp những khó khăn thực tế về thể chất nên những người như vậy thường chìm trong những cảm xúc tiêu cực và cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng. Họ đang cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về điều gì? Họ lo lắng rằng nếu cứ tiếp tục thực hiện bổn phận của mình như thế này, dâng mình và chạy ngược xuôi vì Đức Chúa Trời như thế này, mà luôn cảm thấy mệt mỏi như vậy, thì liệu sức khỏe của họ có ngày càng giảm sút không? Khi đến tuổi 40 hay 50, liệu họ có phải nằm liệt giường không? Những lo lắng này có đứng vững không? Có ai có biện pháp cụ thể cho vấn đề này không? Ai sẽ chịu trách nhiệm cho chuyện này? Ai sẽ có trách nhiệm đây? Những người có sức khỏe kém, thể chất yếu, sẽ cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về những điều như vậy. Những người mắc bệnh thường nghĩ: “Ôi, mình quyết tâm làm tròn bổn phận của mình, nhưng lại mắc phải căn bệnh này. Mình cầu xin Đức Chúa Trời giữ cho mình không bị tổn hại và với sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, mình không cần phải sợ hãi. Nhưng nếu mình kiệt sức khi thực hiện bổn phận, liệu bệnh tình của mình có trở nặng không? Mình sẽ phải làm gì nếu bệnh tình thực sự trở nặng? Nếu phải nhập viện để phẫu thuật, thì mình không có tiền để chi trả, còn nếu không vay tiền để chữa trị thì bệnh tình có nặng hơn không? Và nếu nó trở nên thực sự nghiêm trọng, thì liệu mình có chết không? Chết như vậy có thể được coi là một cái chết bình thường không? Nếu mình thực sự chết, thì liệu Đức Chúa Trời có ghi nhớ những bổn phận mình đã thực hiện không? Liệu mình có được coi là đã làm việc lành không? Liệu mình có đạt được sự cứu rỗi không?”. Cũng có một số người biết mình bị bệnh, tức là họ biết mình thực sự mắc bệnh này bệnh nọ, chẳng hạn như bệnh dạ dày, đau thắt lưng và đau chân, viêm khớp, thấp khớp, cũng như các bệnh về da, bệnh phụ khoa, bệnh gan, cao huyết áp, bệnh tim, v.v. Họ nghĩ: “Nếu mình tiếp tục thực hiện bổn phận, liệu nhà Đức Chúa Trời có chi trả phí điều trị bệnh cho mình không? Nếu bệnh tình của mình trở nặng và ảnh hưởng đến việc thực hiện bổn phận, liệu Đức Chúa Trời có chữa cho mình không? Những người khác tin Đức Chúa Trời thì được lành bệnh, vậy mình cũng sẽ được lành bệnh chứ? Liệu Đức Chúa Trời có chữa khỏi bệnh cho mình như cách Ngài ân đãi người khác không? Nếu mình trung thành thực hiện bổn phận của mình, Đức Chúa Trời có lẽ sẽ chữa lành cho mình, nhưng nếu mình mong Đức Chúa Trời chữa lành cho mình mà Ngài lại không làm thế, thì mình sẽ phải làm sao?”. Hễ nghĩ đến những điều này, trong lòng họ đều dấy lên một cảm giác lo lắng sâu sắc. Mặc dù họ không bao giờ ngừng thực hiện bổn phận của mình và luôn làm những gì phải làm, nhưng họ vẫn không ngừng nghĩ về bệnh tật, sức khỏe, tương lai cũng như về chuyện sống chết của mình. Cuối cùng, họ đi đến một kết luận mơ tưởng hão huyền: “Đức Chúa Trời sẽ chữa lành cho mình, Ngài sẽ giữ cho mình được an toàn. Ngài sẽ không bỏ rơi mình, sẽ không bàng quan đứng nhìn nếu thấy mình bị bệnh”. Những suy nghĩ như vậy không có cơ sở nào cả, thậm chí có thể nói chúng là một dạng quan niệm. Con người sẽ không bao giờ có thể giải quyết được những khó khăn thực tế của mình bằng những quan niệm và tưởng tượng như thế, và trong thâm tâm, họ mơ hồ cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng cho sức khỏe, bệnh tật của mình; họ không biết ai sẽ chịu trách nhiệm cho những việc này, hoặc liệu có ai sẽ chịu trách nhiệm về chúng hay không.

Cũng có một số người, mặc dù không thực sự cảm thấy đau ốm gì và chưa được chẩn đoán mắc bệnh gì, nhưng họ biết bản thân đang mắc một căn bệnh tiềm ẩn nào đó. Bệnh tiềm ẩn gì? Ví dụ, có thể là một bệnh di truyền như bệnh tim, tiểu đường hoặc cao huyết áp, hoặc có thể là bệnh Alzheimer, bệnh Parkinson hoặc một loại ung thư nào đó – đây đều là những bệnh tiềm ẩn. Có người biết vì họ sinh ra trong một gia đình như vậy nên sớm muộn gì căn bệnh di truyền này cũng sẽ hành hạ họ. Họ tự hỏi, nếu họ tin vào Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật, làm tròn bổn phận của mình, làm đủ việc lành và có thể làm hài lòng Đức Chúa Trời, thì liệu căn bệnh tiềm ẩn này có bỏ qua họ và không ập đến với họ không? Tuy nhiên, Đức Chúa Trời chưa bao giờ hứa như vậy với họ, và họ chưa bao giờ có kiểu đức tin này nơi Đức Chúa Trời, chưa bao giờ dám đưa ra bất kỳ sự đảm bảo hay có bất kỳ tư tưởng phi thực tế nào. Bởi vì không thể có bất kỳ sự đảm bảo hay đoan chắc nào, nên họ dốc sức và nỗ lực rất nhiều trong việc thực hiện bổn phận của mình, chú trọng vào việc chịu khổ và trả giá, và họ sẽ luôn làm nhiều hơn người khác, nổi bật hơn người khác, nghĩ rằng: “Mình sẽ là người đầu tiên chịu khổ và là người cuối cùng tận hưởng niềm vui”. Họ luôn tự động viên mình bằng phương châm này, nhưng nỗi sợ hãi, lo lắng sâu thẳm trong họ về căn bệnh tiềm ẩn vẫn không thể xua tan được, và nỗi lo lắng, sầu khổ này luôn ở bên họ. Mặc dù họ có thể chịu đau khổ, làm việc chăm chỉ và sẵn lòng trả giá khi thực hiện bổn phận của mình, nhưng họ vẫn cảm thấy mình không thể nhận được lời hứa của Đức Chúa Trời hoặc một lời chính xác từ Đức Chúa Trời về việc này, và vì vậy họ tiếp tục tràn ngập sầu khổ, âu lo và lo lắng về vấn đề này. Dù cố gắng hết sức để không làm gì với căn bệnh tiềm ẩn của mình, nhưng trong tiềm thức và thỉnh thoảng, họ vẫn tìm kiếm mọi phương thuốc dân gian để ngăn căn bệnh tiềm ẩn này bất ngờ ập đến vào một ngày nào đó, giờ nào đó hoặc lúc họ không hề hay biết. Có người thỉnh thoảng lại cắt một vài loại thảo dược Đông y để uống, có người thỉnh thoảng lại hỏi thăm các phương thuốc dự phòng của dân gian để dùng khi cần, trong khi có người lại thỉnh thoảng lên mạng tìm kiếm các bí quyết tập thể dục để tập luyện và thử nghiệm. Mặc dù có thể chỉ là một căn bệnh tiềm ẩn nhưng nó vẫn luôn chiếm vị trí lớn trong tâm trí họ; mặc dù những người này có thể không cảm thấy không khỏe, cũng không có bất kỳ triệu chứng nào, nhưng họ vẫn đầy sầu khổ, âu lo và lo lắng về điều đó, trong thâm tâm họ cảm thấy sầu khổ và chán nản về điều này, luôn mong cải thiện hoặc xua tan được những cảm xúc tiêu cực này trong lòng mình thông qua việc cầu nguyện hoặc thực hiện bổn phận. Những người thực sự có bệnh hoặc có bệnh tiềm ẩn, cùng với những người lo lắng sau này sẽ mắc bệnh, và những người sinh ra vốn có sức khỏe kém, không mắc bệnh nặng nhưng thường xuyên mắc các bệnh vặt, bọn họ thường xuyên cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về bệnh tật cùng đủ loại những khó khăn về thể xác. Họ muốn thoát khỏi chúng, chạy trốn chúng, nhưng họ không có cách nào thực hiện được; họ muốn rũ bỏ chúng nhưng không thể; họ muốn cầu xin Đức Chúa Trời lấy đi những bệnh tật và khó khăn này, nhưng họ không thể nói nên lời và cảm thấy hổ thẹn, bởi vì họ cảm thấy yêu cầu như thế này không danh chính ngôn thuận. Họ biết rõ rằng không nên cầu xin Đức Chúa Trời về những chuyện này, nhưng trong lòng họ cảm thấy bất lực; họ tự hỏi, nếu ký thác hết hy vọng vào Đức Chúa Trời, liệu lòng họ có bình an hơn và lương tâm của họ có được an ủi không? Vì vậy, thỉnh thoảng họ thầm cầu nguyện về chuyện này trong thâm tâm. Nếu nhận được sự ưu ái hay ân điển phụ thêm bất ngờ nào đó từ Đức Chúa Trời thì họ cảm thấy có chút vui mừng hay an ủi; nếu không nhận được sự chiếu cố đặc biệt nào từ nhà Đức Chúa Trời và không cảm nhận được sự ân đãi nào từ Đức Chúa Trời, thì họ lại vô thức rơi sâu vào những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng. Mặc dù sinh, lão, bệnh, tử là chuyện thường tình của con người và không thể tránh khỏi trong cuộc đời, nhưng có những người có thể chất đặc biệt hoặc mang bệnh đặc biệt, dù có thực hiện bổn phận hay không, thì họ vẫn rơi vào sầu khổ, âu lo và lo lắng về những khó khăn và bệnh tật thể xác; họ lo lắng về bệnh tật của mình, lo lắng về nhiều bất tiện mà bệnh tật có thể gây ra cho họ trong cuộc sống, liệu bệnh của họ có trở nên nghiêm trọng hay không, nếu nghiêm trọng thì hậu quả sẽ ra sao và liệu họ có chết vì bệnh đó hay không. Trong những hoàn cảnh đặc biệt và bối cảnh nhất định, loạt câu hỏi này khiến họ sa vào sầu khổ, âu lo và lo lắng và không thể tự giải thoát được; một số người thậm chí còn sống trong tình trạng sầu khổ, âu lo và lo lắng vì căn bệnh nghiêm trọng mà họ đã biết mình mắc phải hoặc một căn bệnh tiềm ẩn mà họ không thể làm gì để tránh được, và họ bị ảnh hưởng, tác động và kiểm soát bởi những cảm xúc tiêu cực này. Một khi rơi vào sự kiểm soát của những cảm xúc tiêu cực này, một số người hoàn toàn từ bỏ mọi cơ hội và hy vọng đạt được sự cứu rỗi; họ chọn từ bỏ việc thực hiện bổn phận của mình và thậm chí từ bỏ mọi cơ hội nhận được sự ân đãi của Đức Chúa Trời. Thay vào đó, họ chọn cách đối mặt và xử lý bệnh tật của bản thân mà không nhờ đến sự giúp đỡ của người khác và không chờ đợi bất kỳ cơ hội nào. Họ dốc hết mình vào việc trị bệnh, không thực hiện bổn phận nữa, và ngay cả khi có đủ sức khỏe để thực hiện bổn phận thì họ cũng không làm. Nguyên nhân của chuyện này là gì? Họ lo rằng: “Nếu bệnh tình của mình cứ tiếp diễn như thế này và Đức Chúa Trời không chữa khỏi bệnh cho mình, có thể mình cứ tiếp tục thực hiện bổn phận như đang làm bây giờ và cuối cùng vẫn sẽ chết. Nếu ngừng thực hiện bổn phận và tìm cách chữa trị, mình có thể sống thêm vài năm nữa, thậm chí có thể bệnh sẽ được chữa khỏi. Nếu mình tiếp tục thực hiện bổn phận và Đức Chúa Trời không phán rằng Ngài sẽ chữa lành cho mình, thì sức khỏe của mình có thể còn tệ hơn nữa. Mình không cam tâm thực hiện bổn phận thêm 10 hoặc 20 năm nữa rồi chết. Mình muốn sống thêm vài năm nữa, mình không muốn chết quá nhanh, quá sớm!”. Vì vậy, họ thực hiện bổn phận của mình trong nhà Đức Chúa Trời một thời gian, quan sát một thời gian, và chúng ta có thể nói, họ quan sát để xem điều gì xảy ra trong một thời gian, rồi họ bắt đầu tự hỏi: “Mình đã thực hiện bổn phận của mình, nhưng bệnh tình không có biến chuyển tốt, không thuyên giảm. Có vẻ như không có hy vọng cải thiện bệnh tình rồi. Hồi đó mình có kế hoạch, nghĩ rằng nếu mình từ bỏ tất cả và trung thành thực hiện bổn phận, có lẽ Đức Chúa Trời sẽ cất đi căn bệnh này. Nhưng hóa ra chuyện chẳng hề như kế hoạch, tính toán và mong muốn của mình. Bệnh tình của mình vẫn y như cũ. Đã bao nhiêu năm trôi qua mà căn bệnh này vẫn chưa thuyên giảm. Có vẻ như mình phải tự chữa trị căn bệnh này. Mình không thể dựa vào người khác, không thể dựa vào ai cả. Mình phải nắm lấy vận mệnh của bản thân. Khoa học và công nghệ hiện nay rất phát triển, y học cũng vậy, các loại bệnh tật đều có thuốc trị hữu hiệu, mọi bệnh tật đều có phương pháp điều trị tiên tiến. Mình chắc chắn căn bệnh này có thể chữa được”. Sau khi lập kế hoạch như vậy, họ bắt đầu lên mạng tìm kiếm hoặc hỏi thăm xung quanh và tìm hiểu cho đến khi cuối cùng tìm ra được một số phương án. Cuối cùng, họ quyết định nên dùng loại thuốc nào, cách điều trị nào, cách tập thể dục cũng như cách chăm sóc sức khỏe nào. Họ nghĩ: “Nếu mình không thực hiện bổn phận và tập trung chữa bệnh này thì vẫn có hy vọng khỏi bệnh. Bệnh này không ít ca được chữa khỏi.” Sau một thời gian lên kế hoạch và tính toán như vậy, cuối cùng họ quyết định không thực hiện bổn phận của mình nữa và việc điều trị bệnh tật trở thành ưu tiên số một của họ – đối với họ không có gì quan trọng hơn mạng sống. Sự sầu khổ, âu lo và lo lắng của họ biến thành một dạng hành động thiết thực; sự âu lo và lo lắng của họ chuyển từ những suy nghĩ đơn thuần sang một dạng hành động. Những người ngoại đạo có câu nói: “Hành động thì tốt hơn nghĩ ngợi, và hành động ngay thì càng tốt hơn nữa”. Những người như vậy suy nghĩ rồi hành động và họ hành động nhanh chóng. Mới hôm nay, họ nghĩ đến việc chữa bệnh, sáng hôm sau họ đã thu dọn đồ đạc và sẵn sàng lên đường. Chỉ vài tháng sau, tin dữ ập đến là họ không chữa được bệnh và đã qua đời. Họ đã khỏi bệnh chưa? (Thưa, chưa.) Không hẳn là có thể tự mình chữa khỏi bệnh, nhưng có chắc là khi thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời thì ngươi sẽ không bị bệnh không? Sẽ không có ai hứa với ngươi như vậy cả. Vậy ngươi nên lựa chọn như thế nào và ngươi nên tiếp cận vấn đề mắc bệnh như thế nào? Rất đơn giản và chỉ có một con đường để theo, đó là mưu cầu lẽ thật. Hãy mưu cầu lẽ thật và nhìn nhận vấn đề theo lời Đức Chúa Trời và theo các nguyên tắc lẽ thật – đây là sự hiểu biết mà con người nên có. Và ngươi nên thực hành như thế nào? Một mặt, ngươi đưa vào thực hành sự hiểu biết mà mình đã đạt được cùng những nguyên tắc lẽ thật đã hiểu theo lẽ thật và lời Đức Chúa Trời trong tất cả những trải nghiệm này, đồng thời biến chúng thành thực tế và sự sống của mình. Mặt khác là ngươi không được từ bỏ bổn phận của mình. Dù bị bệnh hay đau khổ, chỉ còn một hơi thở, chỉ cần vẫn còn sống, chỉ cần vẫn có thể nói năng và đi lại, thì ngươi có đủ sức lực để thực hiện bổn phận của mình, và ngươi nên thực hiện bổn phận của mình một cách vững vàng và thực tế. Ngươi không được từ bỏ bổn phận của một loài thọ tạo hay trách nhiệm mà Đấng Tạo Hóa giao cho ngươi. Chỉ cần ngươi chưa chết thì ngươi phải hoàn thành và làm tròn bổn phận của mình. Có người nói: “Những điều Ngài phán không được quan tâm đến ý muốn của con người cho lắm. Con bị bệnh mà, rất khổ sở!”. Khi khó khăn, ngươi có thể nghỉ ngơi, dưỡng bệnh và điều trị. Nếu vẫn muốn thực hiện bổn phận của mình, ngươi có thể giảm bớt khối lượng công việc và thực hiện một số bổn phận phù hợp, không ảnh hưởng đến quá trình hồi phục của ngươi. Điều này sẽ chứng tỏ rằng lòng ngươi không từ bỏ bổn phận của mình, không lạc xa khỏi Đức Chúa Trời, không chối bỏ danh Đức Chúa Trời, và không từ bỏ mong muốn trở thành một loài thọ tạo thích đáng. Có người nói: “Tôi đã làm mọi việc đó, vậy Đức Chúa Trời có lấy đi căn bệnh này của tôi không?” Ngài sẽ làm vậy chứ? (Thưa, không nhất định là vậy.) Dù Đức Chúa Trời có lấy đi căn bệnh đó của ngươi hay không, dù Đức Chúa Trời có chữa lành cho ngươi hay không, thì những gì ngươi làm là điều mà một loài thọ tạo phải làm. Cho dù thể chất ngươi có đủ khả năng để thực hiện bổn phận hay không, dù ngươi có thể đảm nhận bất kỳ công tác nào hay không, dù sức khỏe của ngươi có cho phép ngươi thực hiện bổn phận của mình hay không, thì lòng của ngươi cũng không được lạc xa khỏi Đức Chúa Trời, không được từ bỏ bổn phận của mình. Như thế, ngươi sẽ hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận của mình – đây là lòng trung thành mà ngươi nên giữ vững. Ngươi không thể làm việc bằng tay, hay không thể nói chuyện, hay không còn nhìn thấy, hay không thể cử động cơ thể nữa, thì ngươi cũng không được nghĩ rằng Đức Chúa Trời phải chữa lành cho ngươi, và nếu Ngài không chữa lành cho ngươi thì trong thâm tâm ngươi muốn chối bỏ Ngài, từ bỏ bổn phận của mình và bỏ lại Đức Chúa Trời. Tính chất của hành động như vậy là gì? (Thưa, là phản bội Đức Chúa Trời.) Đó là sự phản bội! Khi không bị bệnh tật, một số người sẽ thường đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện, khi họ bị bệnh và hy vọng Đức Chúa Trời sẽ chữa lành cho họ, đặt mọi hy vọng vào Đức Chúa Trời, họ vẫn sẽ đến trước Đức Chúa Trời và không từ bỏ Ngài. Tuy nhiên, sau một thời gian mà Đức Chúa Trời vẫn không chữa khỏi bệnh cho họ, họ trở nên thất vọng về Ngài, trong thâm tâm họ từ bỏ Ngài và từ bỏ bổn phận của mình. Khi bệnh không quá nặng và Đức Chúa Trời không chữa cho họ, thì có người không từ bỏ Đức Chúa Trời; tuy nhiên, khi bệnh tình trở nên nghiêm trọng và họ đối mặt với cái chết, thì họ biết chắc chắn rằng Đức Chúa Trời thực sự chưa chữa khỏi cho họ, rằng họ đã chờ đợi suốt thời gian qua chỉ để chờ chết, và thế là trong lòng họ từ bỏ và chối bỏ Đức Chúa Trời. Họ tin rằng nếu Đức Chúa Trời không chữa bệnh cho họ thì Đức Chúa Trời không tồn tại; nếu Đức Chúa Trời không chữa bệnh cho họ thì Đức Chúa Trời hẳn không phải là Đức Chúa Trời, và không đáng tin. Bởi vì Đức Chúa Trời không chữa cho họ, nên họ hối hận vì đã từng tin vào Đức Chúa Trời, và họ không còn tin vào Ngài nữa. Đây chẳng phải là phản bội Đức Chúa Trời sao? Đây là một sự phản bội Đức Chúa Trời nghiêm trọng. Vì vậy, các ngươi tuyệt đối không được đi theo con đường đó – chỉ những người vâng phục Đức Chúa Trời cho đến chết mới là người có đức tin thực sự.

Khi bệnh tật ập đến, con người nên đi theo con đường nào? Họ nên lựa chọn như thế nào? Con người không nên chìm vào sầu khổ, âu lo, lo lắng và dự liệu về tiền đồ, đường lùi của bản thân. Thay vào đó, càng trong những thời điểm như thế này, trong những hoàn cảnh và bối cảnh đặc biệt như vậy, càng thấy mình gặp những khó khăn trực tiếp như vậy thì con người ta càng nên tìm kiếm lẽ thật và mưu cầu lẽ thật. Chỉ khi làm như vậy thì những bài giảng mà ngươi đã nghe trước đây và những lẽ thật mà ngươi đã hiểu mới không trở nên vô ích và sẽ mang lại hiệu quả. Càng gặp những khó khăn như thế này thì ngươi càng nên từ bỏ những mong muốn của bản thân và quy phục sự sắp đặt của Đức Chúa Trời. Mục đích của Đức Chúa Trời khi sắp đặt kiểu hoàn cảnh này và an bài những điều kiện này cho ngươi không phải là để khiến ngươi chìm vào những cảm xúc sầu khổ, âu lo và lo lắng, không phải để ngươi thử xem Đức Chúa Trời có chữa bệnh cho ngươi khi bệnh tật ập đến hay không, và cũng không phải để ngươi thăm dò sự thật của chuyện này; Đức Chúa Trời sắp đặt những hoàn cảnh và điều kiện đặc biệt này cho ngươi là để ngươi có thể học được những bài học thực tế trong những hoàn cảnh và điều kiện đó, để đạt được lối vào lẽ thật sâu hơn và bước vào sâu hơn trong sự quy phục Đức Chúa Trời, cũng như để ngươi hiểu rõ hơn và chính xác hơn cách Đức Chúa Trời sắp đặt mọi người, mọi việc và mọi vật. Vận mệnh của con người nằm trong tay Đức Chúa Trời và bất kể con người có thể cảm nhận được điều đó hay không, có thực sự nhận thức được điều đó hay không thì họ cũng nên vâng phục, không được phản kháng, không được cự tuyệt, càng không được thử thách Đức Chúa Trời. Dù thế nào thì ngươi cũng chết, và nếu ngươi phản kháng, cự tuyệt và thử thách Đức Chúa Trời, thì chắc không cần phải nói kết cục của ngươi sẽ thế nào. Ngược lại, nếu trong những hoàn cảnh và điều kiện tương tự mà ngươi có thể tìm hiểu xem một loài thọ tạo phải quy phục sự sắp đặt của Đấng Tạo Hóa như thế nào, tìm xem mình phải rút ra những bài học nào và phải nhận ra những tâm tính bại hoại nào trong những tình huống mà Đức Chúa Trời mang đến cho ngươi, cũng như hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời trong những tình huống như vậy, làm chứng thật tốt để đáp ứng những yêu cầu của Đức Chúa Trời, thì đấy chính là điều mà ngươi nên làm. Khi Đức Chúa Trời an bài cho ai đó mắc bệnh, dù là bệnh nặng hay nhẹ, thì mục đích của Ngài khi làm vậy không phải là để khiến ngươi lĩnh hội ngóc ngách ngọn nguồn của bệnh tật, tổn hại mà bệnh tật gây ra cho ngươi, những khó khăn và bất tiện mà bệnh tật gây ra cho ngươi, cùng vô số những cảm xúc mà bệnh tật mang đến cho ngươi – mục đích của Ngài không phải là để ngươi lĩnh hội về bệnh tật thông qua việc bị bệnh, mà đúng hơn, mục đích của Ngài là để ngươi rút ra được những bài học từ bệnh tật, học cách cảm nhận ý muốn của Đức Chúa Trời, biết những tâm tính bại hoại mà mình bộc lộ cũng như những thái độ sai lầm của ngươi đối với Đức Chúa Trời khi bị bệnh, học cách quy phục quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời, để ngươi có thể đạt được sự vâng phục thực sự đối với Đức Chúa Trời cũng như có thể đứng vững trong chứng ngôn của mình – đây mới chính là điều then chốt. Thông qua bệnh tật, Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi và làm cho ngươi tinh sạch. Ngài muốn làm tinh sạch điều gì nơi ngươi? Ngài muốn làm tinh sạch mọi ham muốn và yêu cầu ngông cuồng của ngươi đối với Đức Chúa Trời, thậm chí là làm tinh sạch cả những tính toán, phán đoán và kế hoạch khác nhau mà ngươi làm bằng mọi giá để sống và tồn tại. Đức Chúa Trời không yêu cầu ngươi lập kế hoạch, Ngài không yêu cầu ngươi phán đoán, và Ngài không cho phép ngươi có bất kỳ mong muốn ngông cuồng nào đối với Ngài; Ngài chỉ yêu cầu ngươi vâng phục Ngài, và trong quá trình ngươi thực hành trải nghiệm, quy phục, ngươi phải nhận biết thái độ của mình đối với bệnh tật, biết thái độ của mình đối với những tình trạng thân thể mà Ngài ban cho ngươi, cũng như những mong muốn cá nhân của ngươi. Khi nhận ra được những điều này, ngươi mới có thể lĩnh hội được việc Đức Chúa Trời sắp đặt hoàn cảnh bệnh tật cho ngươi hay Ngài ban cho ngươi những tình trạng thân thể này mới có lợi cho ngươi làm sao; và ngươi mới lĩnh hội được sự hỗ trợ rất lớn của chúng trong việc thay đổi tâm tính của ngươi, việc ngươi đạt được sự cứu rỗi cũng như lối vào sự sống của ngươi. Chính vì thế, khi bệnh tật ập đến, ngươi không được lúc nào cũng tự hỏi làm sao để có thể thoát khỏi, trốn tránh hay cự tuyệt nó. Có người nói: “Ngài nói rằng con không được trốn tránh hay cự tuyệt nó, và con không được cố thoát khỏi nó, vậy thì ý Ngài là con không được đi chữa trị!”. Ta chưa bao giờ nói thế; đó là sự hiểu lầm của ngươi. Ta ủng hộ ngươi tích cực điều trị bệnh, nhưng Ta không muốn ngươi sống trong bệnh tật hoặc rơi vào sầu khổ, âu lo và lo lắng vì ảnh hưởng của bệnh tật, cho đến cuối cùng ngươi lạc xa và lìa bỏ Đức Chúa Trời vì mọi nỗi thống khổ do bệnh tật gây ra. Nếu căn bệnh của ngươi khiến ngươi vô cùng đau khổ và muốn được điều trị để khỏi bệnh, thì tất nhiên là được. Đó là quyền của ngươi; ngươi có quyền lựa chọn điều trị và không ai có quyền ngăn cản ngươi. Tuy nhiên, ngươi không được sống trong bệnh tật và từ chối thực hiện bổn phận của mình, từ bỏ bổn phận của mình, hay cự tuyệt sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời chỉ vì đang trị bệnh. Nếu bệnh tình của ngươi không thể chữa khỏi, ngươi sẽ rơi vào tình trạng sầu khổ, âu lo và lo lắng, và từ đó ngươi sẽ đầy những lời oán trách và nghi ngờ Đức Chúa Trời, thậm chí sẽ mất đức tin vào Đức Chúa Trời, mất hy vọng, và một số người sẽ chọn cách từ bỏ bổn phận của mình – đây là điều thực sự ngươi không được làm. Khi đối mặt với bệnh tật, ngươi có thể tích cực tìm cách chữa trị nhưng cũng nên tiếp cận nó bằng thái độ tích cực. Về việc bệnh của ngươi có thể chữa được bao nhiêu, liệu có thể chữa khỏi hay không, và cuối cùng kết cục có ra sao thì ngươi cũng nên luôn luôn quy phục và không được oán trách. Đây là thái độ mà ngươi nên có, vì ngươi là một loài thọ tạo và ngươi không có lựa chọn nào khác. Ngươi không thể nói: “Nếu khỏi bệnh thì con tin đó là quyền năng vĩ đại của Đức Chúa Trời, nhưng nếu không khỏi bệnh thì con sẽ bất mãn với Đức Chúa Trời. Tại sao Ngài lại để con mắc căn bệnh này? Tại sao Ngài không chữa khỏi bệnh này? Tại sao con lại mắc bệnh này mà không phải người khác chứ? Con không cam tâm! Tại sao con phải chết sớm ở độ tuổi trẻ như vậy chứ? Tại sao những người khác lại được tiếp tục sống chứ? Tại sao vậy?”. Đừng hỏi tại sao, đó là sự sắp đặt của Đức Chúa Trời. Không có lý do gì cả và ngươi cũng không nên hỏi tại sao. Hỏi tại sao là ăn nói phản nghịch, và đây không phải là câu hỏi mà một loài thọ tạo nên hỏi. Đừng hỏi tại sao, không có lý do gì cả. Đức Chúa Trời đã an bài mọi sự và lên kế hoạch cho những việc như thế này. Nếu ngươi hỏi tại sao thì chỉ có thể nói là ngươi đã quá dấy loạn, quá cương ngạnh. Khi có điều gì không hợp ý ngươi, khi Đức Chúa Trời không làm theo ý ngươi hoặc không để ngươi làm theo ý mình, thì ngươi không vui, bất bình và luôn hỏi tại sao. Vậy, Đức Chúa Trời hỏi ngươi: “Là một loài thọ tạo, tại sao ngươi chưa làm tròn bổn phận của mình? Tại sao ngươi không trung thành thực hiện bổn phận của mình?”. Và ngươi sẽ trả lời như thế nào? Ngươi nói: “Không có lý do gì cả, đơn giản con là thế này thôi”. Thế có được không? (Thưa không.) Đức Chúa Trời nói với ngươi theo cách đó thì được, nhưng ngươi nói với Đức Chúa Trời theo cách đó thì không thể chấp nhận được. Vị thế phát ngôn của ngươi là sai, và ngươi quá vô lý trí. Cho dù một loài thọ tạo có gặp phải khó khăn gì đi nữa, thì việc ngươi phải tuân theo sự sắp đặt và an bài của Đấng Tạo Hóa là điều thiên kinh địa nghĩa. Ví dụ như cha mẹ ngươi đã sinh ra ngươi, nuôi dưỡng ngươi và ngươi gọi họ là cha là mẹ – điều này là thiên kinh địa nghĩa, và việc này phải như vậy; không có lý do tại sao. Vậy, Đức Chúa Trời sắp đặt mọi sự này cho ngươi và, ngươi được hưởng phước lành hay chịu khổ, thì điều này cũng là thiên kinh địa nghĩa, và ngươi không có quyền lựa chọn trong vấn đề này. Nếu ngươi có thể quy phục cho đến cùng thì ngươi sẽ đạt được sự cứu rỗi giống như Phi-e-rơ. Tuy nhiên, nếu ngươi vì một căn bệnh nhất thời nào đó mà oán trách Đức Chúa Trời, từ bỏ Đức Chúa Trời và phản bội Đức Chúa Trời thì tất cả những sự hy sinh, dâng mình, thực hiện bổn phận của ngươi và cái giá mà ngươi đã trả trước đây đều là công cốc. Đó là bởi vì tất cả những nỗ lực trước đây của ngươi không tạo được nền móng để ngươi làm tròn bổn phận của một loài thọ tạo hay đứng ở vị trí thích hợp trong tư cách là một loài thọ tạo, cũng như việc đó không thay đổi được bất cứ điều gì nơi ngươi. Rồi điều này sẽ khiến ngươi, vì bệnh tật của mình mà phản bội Đức Chúa Trời, và kết cục của ngươi sẽ giống như của Phao-lô, cuối cùng sẽ bị trừng phạt. Sở dĩ có sự định đoạt này là vì tất cả những gì ngươi đã làm trước đây đều là để ngươi có thể đạt được mão triều thiên và được nhận phước lành. Nếu cuối cùng, khi đối mặt với bệnh tật và cái chết, ngươi vẫn có thể quy phục mà không hề oán trách, thì điều đó chứng tỏ rằng tất cả những gì ngươi làm trước đây đều được thực hiện một cách chân thành và sẵn lòng vì Đức Chúa Trời. Ngươi vâng phục Đức Chúa Trời, và cuối cùng sự vâng phục của ngươi sẽ đem lại kết cục hoàn mỹ cho đời sống đức tin nơi Đức Chúa Trời của ngươi, và điều này được Đức Chúa Trời khen ngợi. Vì vậy, bệnh tật có thể khiến ngươi có kết cục tốt đẹp, hoặc có thể khiến ngươi có kết cục tồi tệ; dạng kết cục ngươi đạt được phụ thuộc vào con đường ngươi đi và thái độ của ngươi đối với Đức Chúa Trời.

Giờ vấn đề con người rơi vào cảm xúc tiêu cực vì bệnh tật đã được giải quyết chưa? (Thưa rồi.) Bây giờ các ngươi đã có tư tưởng và quan điểm đúng đắn về cách đối mặt với bệnh tật chưa? (Thưa rồi.) Các ngươi có biết cách thực hành điều này không? Nếu không biết thì Ta sẽ cho ngươi một tuyệt chiêu, cách làm hay nhất. Các ngươi có biết đó là gì không? Nếu bệnh tật ập đến với ngươi, và dù có hiểu giáo lý đến đâu đi nữa, ngươi vẫn không thể vượt qua được, lòng ngươi vẫn trở nên sầu khổ, âu lo và lo lắng, và không những ngươi sẽ không thể thản nhiên đối mặt với vấn đề này mà lòng ngươi còn tràn ngập những lời oán trách. Ngươi sẽ thường xuyên thắc mắc: “Tại sao người khác không ai bị căn bệnh này? Tại sao lại khiến mình mắc bệnh này? Sao điều này lại xảy ra với mình chứ? Đó là vì mình kém may mắn và có vận mệnh tồi tệ. Mình chưa bao giờ làm phật lòng ai, cũng chưa từng phạm tội gì, vậy tại sao chuyện này lại xảy đến với mình chứ? Ông Trời đang đối xử thật bất công với mình!”. Ngươi thấy đấy, ngoài sầu khổ, âu lo và lo lắng, ngươi còn rơi vào trạng thái trầm cảm, cảm xúc tiêu cực này nối tiếp cảm xúc tiêu cực khác và cho dù có muốn thì ngươi cũng không có cách nào thoát khỏi chúng. Vì là bệnh thật nên không dễ gì có thể chữa khỏi được, vậy ngươi phải làm sao? Ngươi muốn vâng phục nhưng không thể làm được, và nếu hôm nay ngươi vâng phục, ngày hôm sau tình trạng của ngươi tệ đi, khiến ngươi đau đớn vô cùng, thế là ngươi lại không muốn vâng phục nữa và lại bắt đầu oán trách. Ngươi cứ luẩn quẩn như vậy suốt, vậy ngươi phải làm sao? Để Ta nói cho ngươi biết bí quyết thành công. Dù ngươi gặp bệnh nặng hay bệnh nhẹ, ngay khi bệnh trở nặng hoặc khi ngươi đối mặt với cái chết, hãy nhớ một điều: đừng sợ chết. Ngay cả khi đang bị ung thư ở giai đoạn cuối, ngay cả khi tỷ lệ tử vong vì căn bệnh cụ thể của ngươi rất cao, thì cũng đừng sợ chết. Dù đau đớn của ngươi có lớn thế nào, nhưng nếu ngươi sợ chết thì ngươi sẽ không vâng phục. Có người nói: “Nghe Ngài phán vậy, con cảm thấy được soi dẫn và thậm chí còn có một ý hay hơn. Con không những không sợ chết mà còn cầu xin được chết. Chẳng phải thế sẽ càng dễ vượt qua hơn sao?”. Tại sao lại cầu xin được chết? Cầu xin được chết là một tư tưởng cực đoan, trong khi không sợ chết là một thái độ hợp lý. Chẳng phải thế sao? (Thưa phải.) Các ngươi nên có thái độ đúng đắn nào để không sợ chết? Nếu bệnh tình của ngươi trở nặng đến mức có thể chết, tỷ lệ tử vong vì bệnh này cao bất kể người mắc bệnh bao nhiêu tuổi và thời gian từ khi mắc bệnh đến khi chết là rất ngắn, thì trong lòng ngươi nên nghĩ gì? “Mình không được sợ chết, cuối cùng ai rồi cũng chết. Nhưng, vâng phục Đức Chúa Trời là điều mà hầu hết mọi người không thể làm được, và mình có thể dùng căn bệnh này để rèn luyện vâng phục Đức Chúa Trời. Mình nên có suy nghĩ và thái độ vâng phục sự an bài và sắp đặt của Đức Chúa Trời, và mình không được sợ chết”. Chết thì dễ, dễ hơn nhiều so với sống. Ngươi có thể vô cùng đau đớn mà không hề hay biết, và ngay khi nhắm mắt lại, ngươi tắt thở, linh hồn rời khỏi cơ thể và đời ngươi chấm hết. Quá trình chết là thế, đơn giản thế thôi. Ngươi nên có thái độ không sợ chết. Ngoài ra, ngươi không được lo lắng về việc bệnh tình của mình có trở nặng hơn hay không, hay liệu ngươi có chết nếu không thể chữa trị được hay không, bao lâu nữa ngươi sẽ chết, hay đến lúc chết, ngươi sẽ bị đau đớn thế nào. Ngươi không được lo lắng về những điều này; đây không phải là những điều ngươi nên lo lắng. Đó là vì ngày đó phải đến, ngày đó đến vào một năm nào đó, tháng nào đó, và vào một ngày cụ thể nào đó. Ngươi không thể trốn tránh điều đó và ngươi không thể thoát khỏi nó – đó là vận mệnh của ngươi. Cái gọi là vận mệnh của ngươi đã được Đức Chúa Trời định trước và đã được Ngài an bài. Tuổi thọ, độ tuổi và thời gian mà ngươi chết đã được Đức Chúa Trời ấn định, vậy ngươi lo lắng cái gì chứ? Ngươi có thể lo lắng về điều đó nhưng lo thế cũng không thay đổi được gì cả; ngươi có thể lo lắng về điều đó, nhưng ngươi không thể ngăn nó xảy ra; ngươi có thể lo lắng về điều đó, nhưng ngươi không thể ngăn ngày đó đến. Vì thế, sự lo lắng của ngươi là thừa và sẽ chỉ khiến gánh nặng bệnh tật càng nặng nề thêm mà thôi. Một mặt là không lo lắng, và mặt khác là không sợ chết. Một mặt khác nữa là đừng âu lo, nói rằng: “Sau khi mình chết, chồng (hoặc vợ) mình có tái hôn không? Ai sẽ chăm sóc con mình? Ai sẽ tiếp quản bổn phận của mình? Ai sẽ nhớ đến mình? Sau khi mình chết, Đức Chúa Trời sẽ quyết định kết cục của mình thế nào?”. Những vấn đề như vậy ngươi không nên lo lắng. Người chết ai cũng có nơi thích hợp để đi và Đức Chúa Trời đã an bài hết rồi. Ai đang sống sẽ tiếp tục sống; sự tồn tại của bất kỳ một người nào cũng không ảnh hưởng đến hoạt động bình thường và sự tồn tại của nhân loại, cũng như sự biến mất của bất kỳ một người nào cũng không thay đổi được điều gì, vì vậy những điều này ngươi không nên lo lắng. Ngươi không cần phải lo lắng về họ hàng của mình, càng không cần phải lo lắng xem liệu sau khi ngươi chết, có ai sẽ nhớ đến ngươi không. Có người nhớ đến ngươi thì sao chứ? Nếu ngươi giống như Phi-e-rơ, thì việc nhớ đến ngươi sẽ có giá trị nào đó; còn nếu ngươi giống như Phao-lô, thì ngươi chỉ mang đến tai họa cho người ta mà thôi, vậy thì tại sao người ta lại muốn nhớ đến ngươi chứ? Có một vấn đề đáng lo khác, đó là suy nghĩ thực tế nhất của con người. Họ nói: “Khi chết thì mình sẽ không bao giờ được nhìn thấy thế giới này nữa và sẽ không bao giờ có thể tận hưởng cuộc sống vật chất của tất cả những thứ này nữa. Khi chết thì không còn gì trên thế giới này làm mình bận tâm nữa, và cảm giác sống sẽ không còn nữa. Khi chết rồi, mình sẽ đi đâu?”. Ngươi đi đâu không phải là điều ngươi nên lo, cũng không phải là điều ngươi nên cảm thấy âu lo. Ngươi sẽ không còn là người sống nữa và ngươi lo lắng về việc không bao giờ có thể cảm nhận được mọi người, mọi việc, mọi vật, môi trường, v.v. của thế giới vật chất nữa. Đây càng là điều ngươi không nên lo lắng, và ngay cả khi ngươi không thể buông bỏ được những điều này thì cũng vô ích thôi. Tuy nhiên, điều có thể an ủi ngươi một chút là có lẽ cái chết hay sự ra đi của ngươi có thể là một khởi đầu mới cho lần đầu thai chuyển thế tiếp theo của ngươi, một khởi đầu tốt đẹp hơn, một khởi đầu khỏe mạnh, một khởi đầu hoàn toàn tốt đẹp, một khởi đầu để linh hồn ngươi luân hồi. Đó không hẳn là một điều xấu, vì có lẽ ngươi có thể quay lại tồn tại theo một cách khác và dưới một hình thức khác. Nó sẽ có hình thức như thế nào chắc chắn là phụ thuộc vào sự an bài của Đức Chúa Trời sự an bài của Đấng Tạo Hóa. Về điểm này, có thể nói con người chỉ nên chờ xem. Nếu ngươi chọn cách sống tốt hơn và trong hình thức tốt hơn sau khi chết ở kiếp này thì dù bệnh tật của ngươi có nặng đến đâu, điều quan trọng nhất là cách ngươi đối mặt với nó như thế nào và ngươi nên chuẩn bị những việc lành nào, chứ không phải việc ngươi sầu khổ, âu lo và lo lắng vô nghĩa. Khi nghĩ theo cách này, chẳng phải mức độ sợ hãi, khiếp sợ và cự tuyệt cái chết của ngươi sẽ giảm bớt sao? (Thưa phải.) Chúng ta vừa nói đến bao nhiêu khía cạnh? Một là không sợ chết. Những khía cạnh khác là gì? (Thưa, chúng con không được lo lắng về việc bệnh tật của mình có trở nặng hơn hay không, và chúng con không được lo lắng về vợ chồng hay con cái, hay về kết cục và đích đến của chính mình, v.v.) Hãy phó thác tất cả những điều này vào tay Đức Chúa Trời. Còn gì nữa? (Thưa, chúng con không cần phải lo lắng về việc mình sẽ đi đâu sau khi chết.) Lo lắng về những điều này là vô ích. Hãy sống ở hiện tại và làm thật tốt những việc ngươi nên làm ngay lúc này. Ngươi không biết mọi việc sẽ diễn ra như thế nào trong tương lai, vì vậy ngươi nên phó thác tất cả những việc này vào tay Đức Chúa Trời. Còn gì nữa? (Thưa, chúng con nên nhanh chóng chuẩn bị những việc lành cho đích đến tương lai của mình.) Đúng vậy, mọi người nên chuẩn bị thêm nhiều việc lành cho tương lai, nên mưu cầu lẽ thật, trở thành người hiểu lẽ thật và sở hữu thực tế lẽ thật. Có người nói: “Giờ Ngài đang nói về cái chết, vậy ý Ngài là sau này mọi người sẽ phải đối mặt với cái chết phải không? Đây có phải là điềm xấu không?”. Đây không phải là điềm xấu, cũng không phải là tiêm ngừa cho ngươi, càng không phải là rủa ai chết cả – những lời này không phải là lời rủa xả. Vậy chúng là gì? (Thưa, chúng là con đường thực hành cho con người.) Đúng vậy, chúng là những gì con người nên thực hành, chúng là những quan điểm và thái độ đúng đắn mà con người nên giữ vững, và chúng là những lẽ thật mà con người nên hiểu. Ngay cả những người không bị bệnh tật gì cũng nên có thái độ này khi đối mặt với cái chết. Vậy, có người nói: “Nếu chúng con không sợ chết thì cái chết sẽ không đến với chúng con phải không?”. Đây có phải là lẽ thật không? (Thưa không.) Vậy thì nó là gì? (Thưa, đó là quan niệm và tưởng tượng của họ.) Đó là điều vô lý, đó là lý luận lô-gic và triết lý Sa-tan – nó không phải là lẽ thật. Đâu phải ngươi không sợ hãi hay lo lắng về cái chết thì cái chết sẽ không đến với ngươi và ngươi sẽ không chết – đây không phải là lẽ thật. Điều Ta đang nói đến là thái độ mà mọi người nên có đối với cái chết và bệnh tật. Khi có kiểu thái độ này, ngươi có thể thoát khỏi những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng. Khi đó ngươi sẽ không bị cuốn vào bệnh tật, suy nghĩ của ngươi cũng như thế giới tinh thần của ngươi sẽ không bị tổn hại hay bị nhiễu loạn bởi thực tế về bệnh tật của ngươi. Một trong những khó khăn cá nhân mà con người phải đối mặt là tiền đồ của họ, còn khó khăn khác là bệnh tật và cái chết. Những tiền đồ và chuyện sinh tử có thể kiểm soát lòng người, nhưng nếu ngươi có thể đối mặt đúng đắn với hai vấn đề này và vượt qua những cảm xúc tiêu cực của mình, thì những khó khăn thông thường sẽ không đánh bại được ngươi.

Ngoài bệnh tật, con người thường cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về một số vấn đề thực tế khác trong cuộc sống. Có rất nhiều vấn đề thực tế trong cuộc sống, chẳng hạn như trong nhà ngươi có người già hoặc trẻ em cần được chăm sóc hoặc nuôi nấng, tiền bạc mà con cái ngươi cần để trang trải chi phí học tập và sinh hoạt, người già cần tiền để chữa bệnh, và số tiền lớn cần cho chi phí sinh hoạt hàng ngày. Ngươi muốn thực hiện bổn phận của mình, nhưng nếu bỏ việc thì ngươi sẽ sống thế nào? Tiền tiết kiệm gia đình ngươi sẽ nhanh chóng cạn kiệt, vậy đến khi không có tiền thì ngươi sẽ làm gì? Nếu ngươi ra ngoài kiếm tiền thì sẽ gây ra chậm trễ trong việc thực hiện bổn phận, nhưng nếu bỏ việc để thực hiện bổn phận thì ngươi sẽ không có cách nào giải quyết được những khó khăn ở nhà. Vậy ngươi nên làm gì? Nhiều người gặp khó khăn và bối rối trong những vấn đề như vậy, vì vậy họ đều mong chờ ngày Đức Chúa Trời đến và tự hỏi khi nào những đại họa sẽ xảy ra, liệu họ có cần tích trữ lương thực không. Nếu chuẩn bị tích trữ thì họ không có tiền dư dả ở nhà và cuộc sống trở nên rất khó khăn. Thấy người khác ăn ngon mặc đẹp hơn, họ cảm thấy không vui, thấy cuộc sống của họ quá khó khăn. Lâu rồi họ không ăn thịt, và nếu có vài quả trứng thì họ ngần ngại không ăn, vội mang ra chợ bán để kiếm vài đồng. Khi nghĩ đến mọi khó khăn này, họ bắt đầu lo lắng: “Khi nào những ngày khó khăn này mới kết thúc đây? Người ta luôn nói: ‘Ngày của Đức Chúa Trời đang đến, ngày của Đức Chúa Trời đang đến’ và ‘công tác của Đức Chúa Trời sắp kết thúc’, nhưng khi nào thì mới biết được thời điểm chính xác đây? Ai có thể đoan chắc điều này chứ?”. Một số người xa nhà thực hiện bổn phận nhiều năm trời, thỉnh thoảng họ lại nghĩ: “Không biết con mình giờ đã lớn thế nào rồi, cha mẹ mình có khỏe không. Mình đã xa nhà suốt ngần ấy năm, không hề chăm sóc họ. Họ có gặp khó khăn gì không? Nếu bị ốm thì họ biết làm thế nào? Có ai chăm nom họ không? Cha mẹ mình giờ đã 80, 90 tuổi rồi, không biết liệu họ có còn sống hay không”. Khi nghĩ đến những điều này, trong lòng họ dấy lên một nỗi âu lo không tên. Ngoài cảm giác âu lo, họ còn lo lắng, nhưng lo lắng không bao giờ giải quyết được điều gì, và vì vậy họ bắt đầu cảm thấy sầu khổ. Khi vô cùng sầu khổ, họ chuyển sự chú ý sang công tác của Đức Chúa Trời và ngày của Đức Chúa Trời, họ tự hỏi: “Tại sao ngày của Đức Chúa Trời vẫn chưa đến? Chúng ta luôn phải sống lang thang và cô độc như thế này sao? Khi nào thì ngày của Đức Chúa Trời mới đến? Khi nào thì công tác của Đức Chúa Trời mới kết thúc? Khi nào Đức Chúa Trời mới hủy diệt thế giới này? Khi nào thì vương quốc của Đức Chúa Trời mới xuất hiện trên đất? Khi nào mới thấy được bản thể của Đức Chúa Trời xuất hiện?”. Họ cứ nghĩ đi nghĩ lại về những điều này, và những cảm xúc tiêu cực như lo lắng, âu lo, sầu khổ dâng lên trong lòng họ, vẻ mặt họ lập tức lo lắng, không còn vui vẻ nữa, họ đi lại vật vờ, ăn uống không ngon miệng, và tâm trí quay cuồng cả ngày. Sống trong những cảm xúc tiêu cực như vậy có tốt không? (Thưa không.) Ngay cả một khó khăn nhỏ nhặt trong cuộc sống đôi khi cũng có thể khiến con người ta rơi vào những cảm xúc thụ động tiêu cực này, thậm chí đôi khi không có lý do nào, không có hoàn cảnh cụ thể nào, không có một người cụ thể nào nói điều gì cụ thể, thì những cảm xúc tiêu cực này cũng vô tình dâng trào trong lòng họ. Khi những cảm xúc tiêu cực này dâng trào trong lòng thì những mong ước của con người, khao khát ngày của Đức Chúa Trời đến, công tác của Ngài kết thúc, và vương quốc của Ngài đến, càng trở nên cấp thiết hơn. Có người thậm chí còn tha thiết quỳ xuống và cầu nguyện với Đức Chúa Trời trong nước mắt rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, con căm ghét thế giới này, con căm ghét loài người này. Xin Ngài kết thúc tất cả những điều này càng nhanh càng tốt, chấm dứt cuộc sống xác thịt của con người và chấm dứt mọi khó khăn này”. Họ cầu nguyện như thế nhiều lần mà không có kết quả gì, những cảm xúc tiêu cực như lo lắng, âu lo và sầu khổ vẫn bao phủ lòng họ, đọng lại trong suy nghĩ và sâu trong tâm hồn họ, ảnh hưởng sâu sắc đến họ và vây lấy họ. Trên thực tế, họ bị như vậy không vì lý do gì khác ngoài lý do là vì họ mong ngày của Đức Chúa Trời đến sớm hơn, mong công tác của Đức Chúa Trời kết thúc sớm hơn, mong mình nhận được phước lành càng sớm càng tốt, mong mình có một đích đến tốt đẹp, mong mình được bước vào thiên đường hay vương quốc mà họ tưởng tượng và khao khát theo quan niệm riêng của bản thân; cho nên trong thâm tâm họ luôn bị kích động về những điều này. Bề ngoài họ tỏ ra bị kích động nhưng thực ra họ đang cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng. Khi những cảm giác sầu khổ, âu lo và lo lắng như vậy thường xuyên vây lấy con người, họ sẽ có suy nghĩ sống động rằng: “Nếu ngày của Đức Chúa Trời không đến sớm và công tác của Đức Chúa Trời không được hoàn thành càng sớm càng tốt, thì mình nên tận dụng tuổi trẻ và năng lực để làm việc chăm chỉ. Mình muốn làm việc kiếm tiền, làm việc chăm chỉ ngoài thế gian một thời gian và tận hưởng cuộc sống. Nếu ngày của Đức Chúa Trời không đến sớm thì mình muốn về nhà đoàn tụ với gia đình, tìm bạn đời, sống tốt một thời gian, phụ giúp bố mẹ, nuôi dưỡng con cái. Khi về già, mình sẽ có nhiều con cái, chúng sẽ sống cùng mình và cả nhà sẽ tận hưởng cuộc sống gia đình – thật là một cảnh tượng tuyệt vời! Thật là một khung cảnh ngọt ngào!”. Với suy nghĩ như vậy, họ mong được hưởng thụ cuộc sống đó. Bất cứ khi nào người ta nghĩ rằng ngày của Đức Chúa Trời sẽ sớm đến và công tác của Đức Chúa Trời sẽ sớm kết thúc, thì ham muốn của họ lại càng bùng cháy dữ dội hơn, và niềm khao khát công tác của Đức Chúa Trời kết thúc càng sớm càng tốt càng trở nên mãnh liệt hơn. Trong bối cảnh như vậy, khi thực tế không phù hợp với những gì con người mong muốn, khi con người không thể thấy bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy công tác của Đức Chúa Trời kết thúc hay ngày của Đức Chúa Trời đến, thì cảm giác sầu khổ, âu lo và lo lắng của họ ngày càng trầm trọng hơn. Họ lo lắng về chuyện vài năm nữa, họ sẽ già đi mà chưa tìm được bạn đời, người sẽ chăm sóc họ lúc tuổi già. Họ lo lắng, nếu họ liên tục thực hiện bổn phận trong nhà Đức Chúa Trời và đã cắt đứt mọi ràng buộc với xã hội, liệu họ có thể hòa nhập lại xã hội khi về quê sinh sống hay không. Họ lo lắng, nếu họ có quay trở lại kinh doanh trong vài năm tới hay đi làm lại thì liệu họ có theo kịp thời đại không, có thể nổi bật giữa đám đông không và có thể tồn tại không. Càng lo nghĩ về những điều như vậy và càng cảm thấy âu lo, sầu khổ về chúng thì trong nhà Đức Chúa Trời, họ càng không thể an tâm thực hiện bổn phận của mình và đi theo Đức Chúa Trời. Do đó, họ ngày càng lo lắng về tương lai, tiền đồ và cuộc sống gia đình cũng như lo lắng về mọi khó khăn có thể nảy sinh trong cuộc sống sau này. Họ nghĩ đến mọi thứ họ có thể nghĩ đến, họ lo lắng về mọi thứ họ có thể lo lắng; họ thậm chí còn lo lắng cho cháu mình và cuộc sống của con cháu họ sẽ ra sao. Suy nghĩ của họ vươn rất xa, rất thấu đáo và họ suy nghĩ kỹ lưỡng mọi việc. Khi con người có những lo lắng, âu lo và cảm giác sầu khổ này, họ không thể an tâm thực hiện bổn phận của mình, họ không thể đơn thuần đi theo Đức Chúa Trời, mà thay vào đó, họ thường có những suy nghĩ sống động, lúc thế này lúc thế kia. Khi thấy công tác Phúc Âm tiến triển rất tốt, họ nghĩ: “Ngày của Đức Chúa Trời sẽ sớm đến thôi. Mình phải làm tròn bổn phận của mình chứ! Cố lên! Mình phải tiếp tục thêm vài năm nữa, giờ cũng không còn lâu nữa đâu. Tất cả những đau khổ này sẽ bõ công và tất thảy sẽ đơm hoa kết trái, và mình sẽ không còn lo lắng gì nữa!”. Tuy nhiên, sau vài năm, đại họa vẫn chưa đến và không ai nhắc đến ngày của Đức Chúa Trời, nên lòng họ nguội lạnh. Sự sầu khổ, âu lo và lo lắng này, cũng như những suy nghĩ sống động của họ, cứ đến rồi đi và lặp đi lặp lại theo cách này, xoay vòng vô tận theo tình hình quốc tế và tình hình trong nhà Đức Chúa Trời, và họ không thể làm được gì để kiểm soát chúng – dù ai nói gì đi nữa thì họ cũng không thể thay đổi được trạng thái hiện tại của mình. Có những người như vậy không? (Thưa có.) Những người như thế có dễ đứng vững không? (Thưa không.) Thái độ và tâm trạng của họ khi thực hiện bổn phận, cũng như sức lực mà họ dành cho bổn phận của mình, đều dựa trên “tin tức mới nhất”. Có người nói: “Theo tin tức đáng tin cậy, Phúc Âm của Đức Chúa Trời đang được rao truyền một cách tuyệt vời!”. Lại có người khác nói: “Tin tức mới nhất là trên toàn thế giới, các thảm họa đang xảy ra rất thường xuyên, và rõ ràng là tình hình thế giới và các thảm họa hiện nay đã ứng nghiệm thảm họa này kia trong Sách Khải Huyền. Công tác của Đức Chúa Trời sẽ sớm kết thúc, ngày của Đức Chúa Trời sẽ sớm đến, và giới tôn giáo đều đang náo động!”. Bất cứ khi nào nghe được “tin tức mới nhất” hoặc “tin tức đáng tin cậy”, thì sự sầu khổ, âu lo và lo lắng của họ tạm dừng, không còn làm phiền họ nữa và họ buông bỏ những suy nghĩ sống động của mình trong một thời gian. Tuy nhiên, nếu sau một thời gian mà không nghe được bất kỳ “tin tức đáng tin cậy” hay “tin tức chính xác” nào, thì sự sầu khổ, âu lo và lo lắng cũng như những suy nghĩ sống động của họ bắt đầu ùa về. Thậm chí có người còn chuẩn bị bằng cách nghĩ xem nên xin việc ở đâu, làm việc ở đâu, sinh bao nhiêu con, vài năm nữa con họ sẽ học ở đâu, chuẩn bị cho học phí đại học của con cái như thế nào và thậm chí còn dự định mua nhà đất hay ô tô. Tuy nhiên, khi nghe được “tin tức đáng tin cậy”, những điều này tạm thời bị hoãn lại. Đây chẳng trông như trò đùa sao? (Thưa, đúng vậy.) Họ tin Đức Chúa Trời nhưng không dồn hết tâm huyết vào đó và nói rằng đức tin nơi Đức Chúa Trời là con đường đúng đắn trong cuộc đời, rằng đó là đời sống ý nghĩa nhất, rằng sống theo cách này có giá trị nhất; dù Đức Chúa Trời dẫn dắt họ như thế nào hay Đức Chúa Trời làm gì, thì họ cũng tin chắc rằng mọi việc Đức Chúa Trời làm đều là để cứu rỗi con người, và vì vậy họ sẽ theo Đức Chúa Trời cho đến cùng. Cho đến khi thiên hoang địa lão, vật đổi sao dời, biển cạn đá mòn, bãi bể nương dâu thì lòng họ vẫn vậy, vẫn vững vàng. Tấm lòng của họ sẽ dâng cho Đức Chúa Trời suốt cuộc đời còn lại, và nếu có kiếp sau, họ vẫn sẽ đi theo Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, những người gặp quá nhiều khó khăn trong cuộc sống lại không nghĩ như vậy. Đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời là kiểu tạm thời theo dõi xem thế nào, còn họ nghĩ nên sống sao thì cứ sống như vậy. Họ sẽ không thay đổi cách thức và phương thức sống hoặc thay đổi mong muốn hay kế hoạch của mình chỉ vì tin vào Đức Chúa Trời và đi theo con đường đức tin nơi Đức Chúa Trời. Dù kế hoạch ban đầu của họ là gì, thì họ cũng không thay đổi chúng chỉ vì tin vào Đức Chúa Trời, họ không thay đổi bất cứ điều gì cả, và họ theo đuổi cách sống như những người ngoại đạo. Tuy nhiên, đức tin nơi Đức Chúa Trời bao hàm một điều đặc biệt, đó là ngày của Đức Chúa Trời sẽ sớm đến, vương quốc của Đức Chúa Trời sẽ sớm đến, và những đại họa sẽ ập đến. Những ai tin vào Đức Chúa Trời thì có thể thoát khỏi thảm họa, sẽ không rơi vào thảm họa, mà có thể được cứu rỗi, và chỉ vì điều đặc biệt này mà họ mới cực kỳ quan tâm đến việc tin vào Đức Chúa Trời. Vì vậy, mục đích của họ và những gì họ chú trọng trong đức tin nơi Đức Chúa Trời mãi mãi chỉ duy nhất điều này. Cho dù họ có nghe bao nhiêu bài giảng, nghe bao nhiêu lẽ thật mà mọi người thông công, hay họ đã tin Đức Chúa Trời bao lâu đi nữa, thì cách họ tin vào Đức Chúa Trời cũng không bao giờ thay đổi, và họ không bao giờ bỏ điều đó. Không phải vì những bài giảng họ nghe hay vì những lẽ thật họ hiểu được mà họ thay đổi hoặc buông bỏ những quan điểm sai lầm về đức tin nơi Đức Chúa Trời. Và vì thế, dù có biến động nào đó hay có câu nói nào đó về tình hình thế giới bên ngoài hay trong nhà Đức Chúa Trời thì nó cũng luôn tác động đến điều mà họ quan tâm nhất trong thâm tâm. Nếu nghe tin công tác của Đức Chúa Trời sẽ sớm kết thúc, thì họ vui mừng khôn xiết; tuy nhiên, nếu nghe rằng vẫn còn quá sớm để công tác của Đức Chúa Trời kết thúc và họ không thể kiên trì nổi, thì sự sầu khổ, âu lo và lo lắng của họ sẽ ngày càng gia tăng, họ sẽ bắt đầu chuẩn bị rời khỏi nhà Đức Chúa Trời và các anh chị em bất cứ lúc nào, tách biệt hẳn khỏi nhà Đức Chúa Trời. Tất nhiên, cũng có những người lúc nào cũng chuẩn bị để xóa hoàn toàn mọi thông tin liên lạc của các anh chị em cùng tất cả tin nhắn của họ, đồng thời trả lại cho hội thánh những cuốn sách lời Đức Chúa Trời mà nhà Đức Chúa Trời đã gửi cho họ. Họ nghĩ: “Mình thực sự không thể tiếp tục đi theo con đường tin vào Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật này. Mình nghĩ tin vào Đức Chúa Trời nghĩa là mình sẽ sống một cuộc sống hạnh phúc, có con cái, nhận được phước lành và được vào thiên quốc. Giờ giấc mơ đẹp này đã tan vỡ nên mình vẫn sẽ chọn sống một cuộc sống hạnh phúc, có con cái và tận hưởng cuộc sống. Tuy nhiên, mình vẫn không thể từ bỏ đức tin nơi Đức Chúa Trời. Nếu có cơ hội được gấp trăm lần ở kiếp này và sự sống đời đời ở kiếp sau thì chẳng phải càng tốt hơn sao?”. Đây là quan điểm của họ về đức tin nơi Đức Chúa Trời, cũng là kế hoạch của họ và tất nhiên cũng là việc họ làm. Đây là suy nghĩ và toan tính trong thâm tâm của những người tin vào Đức Chúa Trời dựa vào tưởng tượng của bản thân, những người luôn cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về cuộc sống xác thịt của mình, và nó đại diện cho những gì họ mưu cầu và con đường họ đi theo trong đức tin nơi Đức Chúa Trời. Họ thấp thỏm nhất về điều gì? Điều họ thấp thỏm nhất là khi nào ngày của Đức Chúa Trời sẽ đến, khi nào công tác của Đức Chúa Trời sẽ kết thúc, khi nào những đại họa sẽ xảy đến, và liệu họ có thể thoát khỏi những đại họa hay không – đây là những gì họ thấp thỏm nhất.

Đối với những người luôn sầu khổ, âu lo và lo lắng về cuộc sống xác thịt thì sự mưu cầu của họ trong đức tin nơi Đức Chúa Trời là để “được gấp trăm lần ở kiếp này và sự sống đời đời ở kiếp sau”. Tuy nhiên, họ không muốn nghe về chuyện công tác của Đức Chúa Trời đã tiến triển đến đâu, liệu những người tin vào Đức Chúa Trời có thành tựu việc đạt được sự cứu rỗi hay không, có bao nhiêu người đã đạt được lẽ thật, biết đến Đức Chúa Trời và có chứng ngôn tốt đẹp, như thể những điều này không liên quan gì đến họ. Vậy họ muốn nghe điều gì? (Thưa, khi nào thì công tác của Đức Chúa Trời sẽ kết thúc.) Họ có hy vọng lớn hơn, đúng không? Hầu hết mọi người đều có đầu óc quá hạn hẹp. Hãy nhìn vào những gì họ đặt mục tiêu và họ chỉ cầu mong những điều lớn lao – cảnh giới của họ mới cao làm sao! Hầu hết mọi người đều quá tầm thường, luôn nói về những thay đổi trong tâm tính, quy phục Đức Chúa Trời, trung thành thực hiện bổn phận của mình, làm mọi việc theo các nguyên tắc lẽ thật – những người này là kiểu người gì? Họ có đầu óc quá hạn hẹp! Người Trung Quốc nói sao? Họ quá thấp kém. Thấp kém nghĩa là gì? Là quá tầm thường. Và những người này đặt mục tiêu vào đâu? Họ cầu mong những điều lớn lao, cao ngất, những điều thuộc tầm cao. Những người cầu mong những thứ thuộc tầm cao luôn muốn tiến lên, vẫn hy vọng một cách vô ích rằng một ngày nào đó Đức Chúa Trời sẽ nâng họ lên không trung để gặp Ngài. Ngươi muốn gặp Đức Chúa Trời nhưng ngươi không hỏi liệu Ngài có muốn gặp ngươi hay không – ngươi chỉ muốn những chuyện tốt này! Có phải ngươi chỉ gặp Đức Chúa Trời một vài lần không? Mọi người không biết Đức Chúa Trời nên khi gặp Ngài ngươi vẫn sẽ chống đối Ngài. Vậy nguyên nhân đằng sau sự sầu khổ, âu lo và lo lắng của những người này là gì? Có thực sự tất cả là do những khó khăn trong cuộc sống của họ không? Không, không phải là họ thực sự gặp khó khăn trong cuộc sống, mà là họ đã đặt trọng tâm trong đức tin nơi Đức Chúa Trời vào cuộc sống xác thịt. Trọng tâm mưu cầu của họ không phải là lẽ thật, mà là sống một cuộc sống hạnh phúc, tận hưởng cuộc sống tốt đẹp và tiền đồ tốt đẹp. Vấn đề của những người này có dễ giải quyết không? Trong hội thánh, có những người như thế này không? Họ luôn hỏi người khác: “Ồ, khi nào thì ngày của Đức Chúa Trời sẽ đến? Chẳng phải cách đây vài năm người ta nói rằng công tác của Đức Chúa Trời sắp kết thúc sao? Vậy tại sao vẫn chưa kết thúc?”. Có cách nào để đối phó với những người như thế này không? Chỉ cần nói một lời với họ là: “Sớm thôi!”. Đối với những người như thế này, trước tiên hãy hỏi họ: “Anh luôn hỏi về điều này. Anh đã có kế hoạch gì rồi phải không? Nếu vậy thì đừng bận tâm ở lại đây khi không muốn. Cứ làm những gì anh muốn. Đừng làm ngược lại mong muốn của bản thân và đừng làm khó bản thân mình. Nhà Đức Chúa Trời không giữ anh ở đây, không nhốt anh ở đây. Anh có thể rời đi bất cứ khi nào anh muốn. Đừng luôn hỏi mấy chuyện tin đồn. Bất cứ tin tức nào đồn thổi, anh cũng sẽ chỉ được bảo là ‘Sớm thôi!’. Nếu không hài lòng với câu trả lời đó, nếu anh đã có kế hoạch trong lòng và sớm hay muộn gì cũng thực hiện chúng, thì hãy nghe lời khuyên của tôi: hãy trả lại cho hội thánh những cuốn sách lời Đức Chúa Trời của anh càng sớm càng tốt, thu dọn đồ đạc và đi đi. Chúng ta sẽ tạm biệt nhau và anh sẽ không bao giờ phải cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về những điều này nữa. Hãy trở về nhà và sống cuộc sống của mình. Tôi chúc anh sống khỏe! Tôi chúc anh có một cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn và tiền đồ xán lạn!”. Các ngươi nghĩ sao về điều này? (Thưa, rất hay.) Hãy khuyên họ rời hội thánh; đừng cố giữ họ. Tại sao không cố giữ họ? (Thưa, họ không thực sự tin vào Đức Chúa Trời nên giữ họ cũng chẳng ích gì.) Đúng vậy; họ là những kẻ chẳng tin! Giữ lại những kẻ chẳng tin và không đuổi họ thì có ích gì chứ? Có người nói: “Nhưng họ chưa làm việc ác, cũng không gây nhiễu loạn gì”. Họ cần phải gây nhiễu loạn gì à? Nói Ta nghe, chẳng phải một người như thế này ở trong một nhóm người đã là gây nhiễu loạn sao? Đi đến đâu, phong thái và hành động của họ cũng gây ra sự nhiễu loạn. Họ không bao giờ thực hành tĩnh nguyện, họ không bao giờ đọc lời Đức Chúa Trời, họ không bao giờ cầu nguyện hay thông công trong các buổi nhóm họp, họ chỉ làm cho có lệ trong bổn phận của mình, luôn hỏi xem tin đồn có gì mới không. Họ đặc biệt dễ xúc động và thất thường. Họ cũng đặc biệt chú trọng vào việc ăn uống và hưởng thụ, thậm chí có một số người lười biếng, ham ăn, mê ngủ, chơi bời, chỉ ở đó để cho đủ nhân số trong nhà Đức Chúa Trời. Họ không quan tâm đến việc thực hiện bổn phận của mình và họ chỉ là những kẻ lười biếng. Khi đến nhà Đức Chúa Trời, họ chỉ ở đó để tìm kiếm lợi ích cho bản thân và lợi dụng. Nếu không lợi dụng được, họ sẽ bỏ đi ngay bất kỳ lúc nào. Khi đã biết họ sẽ rời đi ngay bất kỳ lúc nào, thì chẳng phải họ sớm rời đi thì tốt hơn là muộn sao? Những người như thế này thậm chí không thể dâng sự phục vụ đến cùng và sự phục vụ của họ không có tác dụng tốt. Khi dâng sự phục vụ, họ không làm những điều đúng đắn – họ chỉ là những kẻ chẳng tin. Trong đức tin nơi Đức Chúa Trời, họ nhìn nhận vấn đề từ góc độ người ngoài cuộc. Khi nhà Đức Chúa Trời thịnh vượng, họ vui mừng, nghĩ rằng họ có hy vọng được ban phước, có lợi thế, rằng đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời không phải là vô ích, không thiệt thòi cho họ và rằng họ đã đặt cược vào phe thắng cuộc. Tuy nhiên, nếu nhà Đức Chúa Trời bị các thế lực Sa-tan đàn áp, bị xã hội ruồng bỏ, bị vu khống và bách hại, rơi vào cảnh khốn cùng, thì không những họ không đau buồn mà còn cười nhạo điều đó. Chúng ta có thể giữ những người như thế này trong hội thánh không? (Thưa không.) Họ là những kẻ chẳng tin và là kẻ thù! Nếu kẻ thù ở ngay bên cạnh ngươi mà ngươi lại coi họ như anh chị em mình, thì chẳng phải ngươi là kẻ ngốc sao? Nếu những người như thế này không thể tự nguyện dâng sự phục vụ thì họ nên bị đuổi, đúng không? (Thưa phải.) Đúng vậy, phải làm nhanh chóng và triệt để. Không cần phải khuyên răn họ, cứ thoải mái bảo họ rời đi. Không cần phải tốn lời với họ, ngươi chỉ cần tống cổ họ về nhà. Về bản chất, họ không phải là những người thuộc về nhà Đức Chúa Trời, họ chỉ là những kẻ chẳng tin lẩn vào hội thánh. Họ có thể quay về nơi họ đến và ngươi có thể yêu cầu họ rời đi. Sau khi vào hội thánh, một số người thực sự đã vạch ranh giới rõ ràng giữa mình với anh chị em và nhà Đức Chúa Trời. Đó là bởi vì họ biết mình đến để làm gì, họ biết liệu mình có thực sự tin hay không, và ngoài việc họ hy vọng khi nào công tác của Đức Chúa Trời sẽ kết thúc cũng như chuyện họ có thể nhận được phước lành hay không, thì không có công tác nào của nhà Đức Chúa Trời hay bất kỳ lẽ thật nào mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người bước vào có liên quan gì đến họ; họ không để ý đến những điều này, họ không đọc sách lời Đức Chúa Trời mà hội thánh gửi cho, chỉ vứt lung tung mà vẫn chưa hề mở ra. Những người như vậy chỉ nói rằng họ tin vào Đức Chúa Trời; bề ngoài họ có vẻ tin như những người khác và họ làm qua loa cho có để thực hiện bổn phận của mình, nhưng họ không bao giờ đọc lời Đức Chúa Trời. Họ chưa bao giờ mở một cuốn sách lời Đức Chúa Trời nào, họ chưa bao giờ lật một trang nào – họ chưa bao giờ đọc bất kỳ trang nào cả. Họ không bao giờ xem những video làm chứng trải nghiệm, các bộ phim Phúc Âm, hoặc các bài thánh ca, v.v. mà nhà Đức Chúa Trời đưa lên mạng. Họ thường xem gì? Họ xem tin tức, các chương trình nổi tiếng, video clip và phim hài, chỉ xem những thứ vô nghĩa. Những người này là loại người gì? Thỉnh thoảng họ đến hội thánh để hỏi han: “Hiện nay công tác Phúc Âm đã được truyền bá đến bao nhiêu quốc gia rồi? Có bao nhiêu người đã quay về với Đức Chúa Trời? Hiện có bao nhiêu quốc gia đã thành lập hội thánh? Có bao nhiêu hội thánh? Công tác của Đức Chúa Trời đang ở giai đoạn nào rồi?”. Khi rảnh rỗi, họ luôn hỏi về những điều này. Không thấy nghi ngờ người này là gián điệp sao? Nói Ta nghe, giữ một người như thế này có được không? (Thưa không.) Nếu họ không tự rời khỏi hội thánh, thì các ngươi phải thanh lọc họ ngay khi phát hiện ra và loại bỏ những tai họa này khỏi hội thánh. Giữ họ không ích gì và sẽ gây ra rắc rối. Vì vậy, những điều mà những người này sầu khổ, âu lo và lo lắng không hề liên quan gì đến chúng ta. Đừng bận tâm khuyên nhủ họ, và thông công về lẽ thật với họ cũng vô ích mà thôi. Chỉ cần loại họ ra là xong – đây là cách tốt nhất để đối phó với những người như thế này.

Ngoài những kẻ chẳng tin, trong số các anh chị em còn có những người lớn tuổi, những người tuổi từ 60 đến khoảng 80, 90 tuổi, cũng gặp một số khó khăn vì lớn tuổi. Dù tuổi đời cao nhưng suy nghĩ của họ chưa chắc là đúng đắn hay có lý tính, và những tư tưởng cũng như quan điểm của họ chưa chắc là phù hợp với lẽ thật. Những người lớn tuổi này cũng có những vấn đề và họ luôn lo lắng: “Sức khỏe của mình không còn tốt nữa và bổn phận có thể thực hiện được cũng có hạn. Nếu mình chỉ thực hiện bổn phận nhỏ này thì liệu Đức Chúa Trời có nhớ đến mình không? Thỉnh thoảng mình bị ốm đau và cần có người chăm sóc. Khi không có ai chăm sóc, mình không thể thực hiện bổn phận được, vậy mình biết làm gì đây? Mình đã già, không nhớ được lời Đức Chúa Trời khi đọc và rất khó để hiểu được lẽ thật. Khi thông công về lẽ thật, mình nói năng rối rắm và phi logic, chẳng có trải nghiệm nào đáng để chia sẻ cả. Mình già rồi, không còn đủ sinh lực, thị lực không tốt và cũng chẳng còn thể lực nữa. Mọi thứ đều khó khăn với mình. Mình không những không thể thực hiện bổn phận mà còn dễ quên và dễ làm sai. Đôi khi mình lơ mơ và gây phiền toái cho hội thánh cũng như cho các anh chị em. Mình muốn đạt được sự cứu rỗi và mưu cầu lẽ thật nhưng khó quá. Mình biết làm gì đây?” Vừa nghĩ đến chuyện này, họ liền băn khoăn: “Tại sao đến tuổi này mình mới bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời chứ? Tại sao mình không như những người ở độ tuổi 20, 30, hay thậm chí là những người ở độ tuổi 40, 50 chứ? Tại sao đến khi đã quá già, mình mới biết đến công tác của Đức Chúa Trời? Không phải số phận mình tồi tệ; ít nhất thì giờ mình cũng đã theo kịp được công tác của Đức Chúa Trời. Số phận mình thật tốt, và Đức Chúa Trời đã rất tốt với mình! Chỉ có một điều không được như ý lắm, đó là mình đã quá già rồi. Trí nhớ thì không tốt lắm, sức khỏe cũng không ổn gì, nhưng lòng mình thì kiên vững. Chỉ là cơ thể không nghe lời mình, và trong các buổi nhóm họp, cứ nghe được một lúc thì mình lại buồn ngủ. Đôi khi mình nhắm mắt để cầu nguyện rồi lại ngủ quên mất, tâm trí thì lan man khi đọc lời Đức Chúa Trời. Đọc được một lúc thì lại buồn ngủ và ngủ gật, không thấm được lời Ngài. Mình biết làm gì đây? Với những khó khăn thực tế như vậy, liệu mình còn có thể mưu cầu và hiểu được lẽ thật không? Nếu không thể mưu cầu và hiểu được lẽ thật, lại còn không thể thực hành theo các nguyên tắc lẽ thật, thì chẳng phải tất cả đức tin của mình đều là vô ích sao? Chẳng phải mình sẽ không thể được cứu rỗi sao? Mình biết làm gì đây? Mình lo quá! Ở tuổi này mọi thứ không còn quan trọng nữa. Giờ mình đã tin vào Đức Chúa Trời, mình không còn lo lắng hay phải lo âu về bất cứ điều gì nữa, con cái đã lớn rồi và chúng không cần mình chăm sóc hay nuôi dạy nữa, mong muốn lớn nhất đời mình là mưu cầu lẽ thật, thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo và cuối cùng đạt được sự cứu rỗi lúc sinh thời. Tuy nhiên, giờ nhìn vào tình hình thực tế của mình, mắt mờ lòa do tuổi tác, trí óc thì mơ mơ hồ hồ, sức khỏe kém, không thể làm tròn bổn phận của mình, đôi khi làm việc trong khả năng của mình thì còn gây ra phiền phức, có vẻ như việc đạt được sự cứu rỗi là không dễ dàng”. Họ nghĩ đi nghĩ lại những điều này và trở nên trăn trở: “Dường như mọi điều tốt đẹp đều chỉ xảy đến cho người trẻ tuổi, chứ không phải cho người già. Có vẻ như dù mọi chuyện có tốt đến đâu thì mình cũng không có phúc hưởng nữa rồi”. Càng nghĩ đến những điều này, họ càng buồn phiền và âu lo hơn. Họ không chỉ lo cho bản thân mình mà còn cảm thấy đau lòng. Nếu khóc thì họ cảm thấy thật không đáng để khóc, nhưng nếu không khóc thì nỗi đau đó, sự tổn thương đó lúc nào cũng đồng hành với họ. Vậy họ phải làm sao? Đặc biệt là có một số người lớn tuổi muốn dành hết thời gian dâng mình cho Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận của họ, nhưng sức khỏe lại yếu. Có người bị huyết áp cao, có người thì đường huyết cao, có người thì bị vấn đề đường tiêu hóa, thể lực không theo kịp nên họ buồn phiền. Nhìn thấy những người trẻ tuổi có thể ăn uống, chạy nhảy là họ thấy ngưỡng mộ. Càng thấy những người trẻ tuổi làm vậy là họ càng cảm thấy sầu khổ: “Mình muốn làm tròn bổn phận, mưu cầu và hiểu được lẽ thật, mình cũng muốn thực hành lẽ thật nữa, sao lại khó đến vậy? Mình thật quá già cả và vô dụng! Có lẽ nào Đức Chúa Trời không muốn người già cả sao? Người già thực sự vô dụng sao? Lẽ nào người già như mình không thể đạt được sự cứu rỗi sao?” Họ buồn bã, nghĩ bao nhiêu đi nữa cũng không thấy vui lên được. Họ không muốn bỏ lỡ thời gian tuyệt vời như vậy và một cơ hội lớn như vậy, ấy thế nhưng họ lại không thể dâng mình cho Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận bằng hết thể xác và tâm hồn như người trẻ tuổi được. Những người lớn tuổi này đã rơi vào cảnh sầu khổ, âu lo và lo lắng sâu sắc vì tuổi tác của họ. Mỗi khi gặp khó khăn, thất bại, gian nan hay trở ngại, họ đều đổ lỗi cho tuổi tác, thậm chí còn căm ghét bản thân, chán ghét chính mình. Nhưng dù có làm gì thì cũng vô ích, không có giải pháp nào, không có con đường nào để đi. Chẳng lẽ họ thật sự không có con đường nào để đi sao? Có giải pháp gì không? (Thưa, người lớn tuổi nên thực hiện bổn phận hết sức theo khả năng của họ.) Người lớn tuổi thực hiện bổn phận hết sức theo khả năng của họ là điều khả thi, phải không? Có phải người lớn tuổi không thể mưu cầu lẽ thật vì tuổi già không? Lẽ nào họ không thể hiểu được lẽ thật sao? (Thưa, họ có thể.) Liệu người lớn tuổi có thể hiểu được lẽ thật không? Họ có thể hiểu được một ít, ngay cả những người trẻ tuổi cũng đâu thể hiểu hết được. Người lớn tuổi luôn có quan niệm sai lầm, cho rằng mình lú lẫn, trí nhớ kém nên không hiểu được lẽ thật. Có đúng thế không? (Thưa,không.) Dù người trẻ tuổi có sinh lực dồi dào hơn, thể lực khỏe hơn người lớn tuổi, nhưng thực ra khả năng hiểu, lĩnh hội và nhận thức của họ cũng như người lớn tuổi. Chẳng phải người già cũng đã từng trẻ sao? Đâu phải họ sinh ra là đã già. Những người trẻ tuổi cuối cùng cũng sẽ già đi. Người già không nên lúc nào cũng nghĩ mình khác người trẻ tuổi vì họ già cả, thể lực kém, sức khỏe kém và trí nhớ kém. Thực ra không có gì khác biệt cả. Ta nói không có sự khác biệt là có ý gì? Bất kể già hay trẻ thì tâm tính bại hoại của người ta cũng đều giống nhau, thái độ và quan điểm của họ về mọi sự đều giống nhau, góc độ và lập trường của họ về mọi sự đều giống nhau. Vì vậy, người lớn tuổi không được nghĩ rằng vì họ đã già, ít có ham muốn quá đáng hơn người trẻ tuổi và có thể vững vàng nên họ không có tham vọng hay ham muốn và có ít tâm tính bại hoại hơn – đây là quan niệm sai lầm. Người trẻ tuổi có thể tranh giành địa vị, lẽ nào người lớn tuổi không thể tranh giành địa vị sao? Người trẻ tuổi có thể làm những điều vi phạm nguyên tắc và độc đoán chuyên quyền, lẽ nào người lớn tuổi không thể làm vậy sao? (Thưa có, họ có thể.) Người trẻ tuổi có thể kiêu ngạo, lẽ nào người lớn tuổi không thể kiêu ngạo sao? Chỉ là khi người lớn tuổi kiêu ngạo, vì tuổi đã cao nên họ không hung hăng càn quấy như vậy, và không lên giọng kiêu ngạo đến vậy. Do tay chân và đầu óc linh hoạt nên người trẻ tuổi biểu lộ sự kiêu ngạo rõ hơn, còn người lớn tuổi biểu lộ sự kiêu ngạo ít rõ nét hơn do tay chân cứng nhắc, đầu óc không linh hoạt. Tuy nhiên, thực chất kiêu ngạo và tâm tính bại hoại của họ là như nhau. Cho dù một người lớn tuổi đã tin Đức Chúa Trời bao lâu, hay đã thực hiện bổn phận bao nhiêu năm đi nữa nhưng nếu họ không mưu cầu lẽ thật thì tâm tính bại hoại của họ vẫn còn nguyên. Ví dụ, một số người lớn tuổi sống một mình, họ đã quen với việc sống một mình và có quy luật riêng: họ có thời gian cố định và sự sắp xếp riêng cho việc ăn, ngủ và nghỉ ngơi, và họ không muốn phá vỡ trật tự sinh hoạt của mình. Nhìn từ bề ngoài, những người lớn tuổi này có vẻ là những người tốt đẹp, nhưng họ vẫn có tâm tính bại hoại, và sau một thời gian dài tiếp xúc với họ, ngươi sẽ nhận ra điều này. Một số người lớn tuổi rất tùy tiện và kiêu ngạo; họ muốn ăn gì thì nhất định phải có thứ đó, còn khi họ muốn đi đâu đó chơi thì không ai có thể ngăn cản được. Khi họ quyết tâm làm điều gì thì ngựa hoang cũng không thể kéo họ lại được. Không ai có thể thay đổi được họ, họ tùy tiện cả đời rồi. Những người già ngoan cố như vậy thậm chí còn phiền phức hơn cả những thanh niên ngang bướng! Vì vậy, khi có người nói: “Người già không bị làm bại hoại sâu sắc như người trẻ tuổi. Người già đã sống qua một thời kỳ khá bảo thủ và khép kín, thế nên thế hệ người già này không bị làm bại hoại quá sâu sắc”, câu nói này có đúng không? (Thưa, không.) Đây chỉ là tự ngụy biện cho bản thân. Người trẻ tuổi không thích phối hợp với người khác, lẽ nào người lớn tuổi không thể như thế sao? (Thưa, họ có thể.) Một số người lớn tuổi thậm chí còn có tâm tính bại hoại nghiêm trọng hơn so với những người trẻ tuổi, luôn cậy già lên mặt, tự cao về thâm niên kỳ cựu của mình và nói rằng: “Tôi già rồi. Cậu bao nhiêu tuổi chứ? Tôi lớn tuổi hơn hay cậu lớn hơn? Cậu sẽ không muốn nghe điều này, nhưng tôi ăn muối còn nhiều hơn cậu ăn cơm, cậu phải nghe tôi. Tôi có kinh nghiệm và hiểu biết. Tụi trẻ các cậu thì hiểu gì chứ? Tôi đã tin Đức Chúa Trời trước khi cậu được sinh ra kìa!” Chẳng phải như thế thì càng phiền phức hơn sao? (Thưa, phải.) Một khi đã có danh hiệu “người già”, người lớn tuổi có thể sẽ phiền phức hơn. Vì vậy, không phải là người lớn tuổi không có việc gì để làm, cũng không phải là họ không thể thực hiện bổn phận của mình, càng không phải là họ không thể mưu cầu lẽ thật – có rất nhiều việc để họ làm. Đủ loại tà thuyết và ngụy biện mà ngươi đã tích lũy trong suốt cuộc đời mình, cũng như đủ loại tư tưởng và quan niệm truyền thống, những điều ngu ngốc và cứng đầu, những điều bảo thủ, những điều phi lý và những điều lố bịch mà ngươi đã tích lũy đều chất đống trong lòng ngươi, và ngươi nên dành nhiều thời gian hơn những người trẻ tuổi để khai quật, mổ xẻ và nhận ra những điều này. Không phải là ngươi không có gì để làm hay ngươi phải cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng khi không có việc gì làm – đây không phải là nhiệm vụ cũng không phải là trách nhiệm của ngươi. Trước hết, người lớn tuổi phải có tâm thái đúng đắn. Dù có thể tuổi đã cao và cơ thể đã tương đối lão hóa nhưng ngươi vẫn nên có một tâm thái trẻ trung. Dù ngươi đã già, tư duy chậm chạp và trí nhớ kém, nhưng nếu ngươi vẫn có thể biết mình, vẫn hiểu được những lời Ta phán và vẫn hiểu được lẽ thật, thì điều đó chứng tỏ ngươi chưa già và tố chất của ngươi không kém. Nếu có người ở độ tuổi 70 mà không thể hiểu được lẽ thật thì điều này cho thấy vóc giạc của họ quá nhỏ bé và không vươn tới nổi. Vì vậy, khi nói đến lẽ thật, không có sự phân biệt tuổi tác, hơn nữa, khi nói đến tâm tính bại hoại cũng không có sự phân biệt tuổi tác. Sa-tan đã tồn tại hàng chục ngàn năm, hàng trăm triệu năm rồi, và nó vẫn là Sa-tan, thế nhưng chúng ta vẫn phải thêm tính từ miêu tả trước từ “Sa-tan”, là “quỷ già Sa-tan”, nghĩa là nó ác độc đến cấp độ thứ n, phải không? (Thưa, phải.) Vậy người lớn tuổi nên thực hành như thế nào? Một mặt là ngươi nên có tâm thái giống những người trẻ tuổi, mưu cầu lẽ thật và biết mình, và một khi đã biết mình thì ngươi nên ăn năn. Mặt khác là ngươi nên tìm kiếm các nguyên tắc trong việc thực hiện bổn phận của mình và thực hành theo các nguyên tắc lẽ thật. Ngươi không được tự loại mình khỏi việc mưu cầu lẽ thật, cho rằng mình đã già, tuổi đã cao, rằng mình không có những suy nghĩ nhanh nhẹn như những người trẻ tuổi, rằng mình không có những tâm tính bại hoại như những người trẻ tuổi, rằng mình đã trải qua mọi sự trong đời này, đã thấy và hiểu tất cả, và vì thế ngươi không có những tham vọng hay ham muốn. Hàm ý thực sự của ngươi khi nói điều này là: “Những tâm tính bại hoại của tôi không nghiêm trọng đến thế, thế nên việc mưu cầu lẽ thật là dành cho giới trẻ mấy người. Chuyện này không liên quan gì đến người già chúng tôi. Người già chúng tôi trong nhà Đức Chúa Trời làm việc gì cũng được và có bao nhiêu sức thì dốc bấy nhiêu, như thế là làm tròn bổn phận của mình rồi và sẽ được cứu rỗi. Về việc Đức Chúa Trời phơi bày tâm tính bại hoại, tâm tính địch lại Đấng Christ và thực chất của kẻ địch lại Đấng Christ của con người, đó là điều giới trẻ mấy người nên hiểu. Mấy người có thể lắng nghe cẩn thận, còn chúng tôi chỉ cần đón tiếp mấy người chu đáo, để ý xung quanh để đảm bảo an toàn cho mấy người là đủ. Những người già chúng tôi không có tham vọng. Khi già đi, bộ não của chúng tôi phản ứng chậm chạp, thế nên mọi phản ứng của chúng tôi đều tích cực. Trước khi chết, người ta trở nên thiện lương. Khi về già, người ta trở nên thật thà, nên chúng tôi là những người thật thà”. Điều họ thực sự muốn nói là họ không có bất kỳ tâm tính bại hoại nào. Đã bao giờ chúng ta nói rằng người lớn tuổi không cần mưu cầu lẽ thật hay tùy theo những độ tuổi khác nhau thì việc mưu cầu lẽ thật cũng khác nhau chưa? Chúng ta đã bao giờ nói thế chưa? Chưa, chúng ta chưa từng nói thế. Trong nhà Đức Chúa Trời và khi liên quan đến lẽ thật, người già có phải là nhóm người đặc biệt không? Không phải. Khi nói đến lẽ thật, không có sự phân biệt tuổi tác, cũng như khi nói đến tâm tính bại hoại, mức độ bại hoại của ngươi, việc ngươi có đủ tư cách để mưu cầu lẽ thật hay không, liệu ngươi có thể đạt được sự cứu rỗi hay không, hay khả năng ngươi được cứu rỗi là bao nhiêu, thì đều không có sự phân biệt tuổi tác. Chẳng phải thế sao? (Thưa, phải.) Chúng ta đã thông công về lẽ thật nhiều năm nay, nhưng chưa bao giờ thông công về các kiểu lẽ thật khác nhau tùy theo các nhóm tuổi khác nhau của con người. Chúng ta chưa bao giờ thông công về lẽ thật cũng như vạch trần tâm tính bại hoại riêng cho người trẻ tuổi hay người lớn tuổi, cũng chưa bao giờ nói rằng, vì tuổi già, lối suy nghĩ cứng nhắc và không có khả năng tiếp nhận những điều mới, nên tâm tính bại hoại của người lớn tuổi tự nhiên giảm bớt và thay đổi cả – chúng ta chưa bao giờ nói những điều này. Chúng ta chưa từng thông công về lẽ thật nào riêng theo tuổi tác của con người và loại người lớn tuổi ra. Người lớn tuổi không phải là nhóm người đặc biệt trong hội thánh, trong nhà Đức Chúa Trời hay trước mặt Đức Chúa Trời, họ cũng giống như bất kỳ nhóm tuổi nào. Họ không có gì đặc biệt cả, chỉ là sống lâu hơn người khác một chút, đến thế giới này sớm hơn người khác một vài năm, tóc bạc hơn người khác một chút và cơ thể già đi sớm hơn người khác một chút; ngoài những điều này ra thì không có sự khác biệt nào cả. Thế nên, nếu người lớn tuổi luôn nghĩ rằng: “Mình già rồi tức là mình là người thật thà, không có tâm tính bại hoại và mình chỉ có một chút bại hoại mà thôi”, thì đây chẳng phải là hiểu sai sao? (Thưa, phải.) Chẳng phải như thế là có phần vô liêm sỉ sao? Một số người lớn tuổi là những tay cáo già quỷ quyệt, mưu chước đến mức thành tinh. Họ nói rằng mình không có tâm tính bại hoại, thậm chí nói tâm tính bại hoại của họ đã mai một, nhưng trên thực tế, sự bộc lộ tâm tính bại hoại của họ không kém gì những người khác. Trên thực tế, chúng ta có thể dùng nhiều cách để mô tả tâm tính bại hoại và phẩm chất nhân tính của dạng người lớn tuổi này. Ví dụ: “tay cáo già quỷ quyệt” và “gừng càng già càng cay” – cả hai đều có từ “già” phải không? (Thưa, phải.) Còn có những từ mô tả nào khác có từ “già” không? (Thưa, những kẻ mưu mô già dặn.) Đúng, đó là một từ hay, “những kẻ mưu mô già dặn”. Ngươi thấy đấy, tất cả những từ này đều có từ “già”. Rồi còn có “quỷ già Sa-tan” và “quỷ già” – họ đều là những kẻ đặc biệt từng trải! Khi nằm trong số những người lớn tuổi, người ta tin vào điều gì? Họ tin rằng: “Tâm tính bại hoại của chúng tôi đều đã mai một. Tâm tính bại hoại là vấn đề của những người trẻ tuổi mấy người. Mấy người bị làm bại hoại sâu sắc hơn chúng tôi”. Đây không phải là cố ý xuyên tạc sao? Họ muốn tô vẽ bản thân cho đẹp và huênh hoang, nhưng thực tế thì không phải vậy, và mọi chuyện không như vậy. “Quỷ già”, “quỷ già Sa-tan”, “những kẻ mưu mô già dặn”, “những tay cáo già quỷ quyệt” và “cậy già lên mặt” – những từ mô tả có từ “già” này không phải là điều tốt và không phải là điều tích cực.

Giờ chúng ta thông công về điều này để cảnh báo, khuyên bảo và hướng dẫn người lớn tuổi, đồng thời cũng là hình thức tiêm ngừa cho người trẻ tuổi. Mục đích nói những điều này chủ yếu để giải quyết vấn đề gì? Là để giải quyết sự đau khổ, âu lo và lo lắng của những người lớn tuổi này, cũng như đảm bảo họ hiểu những sầu khổ, âu lo và lo lắng này là thừa thãi và không cần thiết. Nếu ngươi muốn thực hiện bổn phận và phù hợp để thực hiện một bổn phận thì nhà Đức Chúa Trời có từ chối ngươi không? (Thưa, không.) Nhà Đức Chúa Trời nhất định sẽ cho ngươi cơ hội để thực hiện bổn phận, chứ tuyệt đối sẽ không bao giờ nói: “Bác không thể thực hiện bổn phận vì đã già rồi. Bác đi đi. Chúng tôi không cho bác cơ hội đâu”. Không, nhà Đức Chúa Trời đối xử bình đẳng với tất cả mọi người. Miễn là ngươi phù hợp để thực hiện bổn phận và không có mối nguy tiềm ẩn nào thì nhà Đức Chúa Trời sẽ cho ngươi cơ hội và cho phép ngươi thực hiện bổn phận hết sức có thể của mình. Ngoài ra, nếu ngươi muốn biết mình và mưu cầu lẽ thật, liệu có ai chế nhạo ngươi rằng: “Người già như bác mà cũng đủ tư cách mưu cầu lẽ thật sao?” Liệu có ai chế nhạo ngươi không? (Thưa, không.) Liệu có ai nói: “Bác già rồi, lẫn rồi. Bác mưu cầu lẽ thật thì ích gì chứ? Đức Chúa Trời sẽ không cứu rỗi người già như bác đâu” không? (Thưa, không.) Sẽ không có ai nói thế cả. Trước lẽ thật, tất cả mọi người đều bình đẳng, và đều được đối xử bình đẳng. Chỉ là có thể ngươi không mưu cầu lẽ thật và luôn lấy cớ tuổi già, luôn nghĩ rằng: “Mình già rồi, mình không thể thực hiện được bất kỳ bổn phận gì”. Thực ra, có nhiều bổn phận ngươi có thể thực hiện được trong khả năng của mình. Nếu ngươi không thực hiện bổn phận nào, mà thay vào đó cậy già lên mặt, muốn lên lớp người khác, thì ai muốn nghe ngươi chứ? Không ai cả. Ngươi lúc nào cũng nói: “Ôi, mấy người trẻ các cậu đúng là chẳng hiểu chuyện!”, “Ôi, mấy người trẻ các cậu chỉ toàn là ích kỷ!”, “Ôi, mấy người trẻ các cậu đúng là lũ kiêu ngạo!” và “Ôi, mấy người trẻ các cậu đúng là lười biếng. Người già chúng tôi chăm chỉ, thời chúng tôi, chúng tôi thế này thế kia”. Nói những điều đó ích gì chứ? Đừng lải nhải kể về lịch sử “huy hoàng” của ngươi; chẳng ai muốn nghe đâu. Nói về những thứ lỗi thời đó là vô ích; chúng không đại diện cho lẽ thật. Nếu muốn nói điều gì, thì ngươi nên nỗ lực một chút về lẽ thật, hiểu lẽ thật nhiều hơn một chút, biết mình, coi mình như một người bình thường khác, chứ không phải là thành viên của một nhóm người đặc biệt, phải được người khác tôn trọng, kính trọng, coi trọng và vây quanh. Đây là mong muốn quá đáng và là cách nghĩ sai lầm. Tuổi tác không đại diện cho thân phận của ngươi, tuổi tác không đại diện cho tư cách hay thâm niên, càng không đại diện cho việc ngươi có lẽ thật hay nhân tính, và tuổi tác không thể làm suy yếu tâm tính bại hoại của ngươi. Thế nên ngươi cũng giống như những người khác. Đừng luôn tự coi mình là “người lớn tuổi” để tách mình ra khỏi người khác, thậm chí tách biệt mình thành hạng thánh khiết. Điều đó chứng tỏ ngươi chẳng biết mình chút nào! Khi còn sống, người lớn tuổi càng nên phấn đấu mưu cầu lẽ thật, mưu cầu lối vào sự sống, đồng thời hợp tác hài hòa với các anh chị em để thực hiện bổn phận của mình, chỉ có như thế họ mới có thể phát triển về vóc giạc. Người lớn tuổi tuyệt đối không được phép tự cho mình là thâm niên hơn những người khác và cậy già lên mặt. Người trẻ tuổi có thể bộc lộ mọi loại tâm tính bại hoại, ngươi cũng có thể như vậy; người trẻ tuổi có thể làm đủ mọi việc ngu muội, ngươi cũng có thể như vậy; người trẻ tuổi có những quan niệm, người lớn tuổi cũng vậy; người trẻ tuổi có thể phản nghịch, người lớn tuổi cũng có thể như vậy; người trẻ tuổi có thể bộc lộ tâm tính địch lại Đấng Christ, người lớn tuổi cũng có thể như vậy; người trẻ tuổi có những tham vọng và ham muốn, người lớn tuổi cũng vậy, không có chút khác biệt nào; người trẻ tuổi có thể gây nhiễu loạn, gián đoạn và bị thanh trừ khỏi hội thánh thì người già cũng vậy. Vì thế, ngoài việc có thể dùng hết khả năng của mình để làm tròn bổn phận, họ còn có thể làm rất nhiều điều. Trừ khi ngươi ngu ngốc, mất trí và không thể hiểu lẽ thật, và trừ khi ngươi không thể tự chăm sóc bản thân, thì còn rất nhiều việc ngươi nên làm. Cũng giống như những người trẻ tuổi, ngươi có thể mưu cầu lẽ thật, có thể tìm kiếm lẽ thật, và nên thường xuyên đến cầu nguyện trước Đức Chúa Trời, tìm kiếm các nguyên tắc lẽ thật, cố gắng nhìn nhận con người và sự việc, hành xử và hành động hoàn toàn theo lời Đức Chúa Trời, lấy lẽ thật làm tiêu chí. Đây là con đường ngươi nên đi theo, và ngươi không nên cảm thấy sầu khổ, âu lo hay lo lắng vì mình đã già cả, có nhiều bệnh tật, hay vì cơ thể đang lão hóa. Cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng không phải là điều nên làm – chúng là những biểu hiện của thiếu lý tính. Người lớn tuổi nên buông bỏ danh hiệu “lớn tuổi”, hòa nhập với người trẻ tuổi và bình đẳng với họ. Ngươi không được cậy già lên mặt, luôn nghĩ mình đức cao vọng trọng, có tư cách lớn lao, có thể quản lý người trẻ tuổi, rằng mình là bậc trưởng bối và huynh trưởng của người trẻ tuổi, luôn có tham vọng kiểm soát người trẻ tuổi, luôn mong muốn quản lý người trẻ tuổi – đây là tâm tính hoàn toàn bại hoại. Vì người lớn tuổi cũng có tâm tính bại hoại như người trẻ tuổi, thường bộc lộ tâm tính bại hoại trong cuộc sống và khi thực hiện bổn phận như người trẻ tuổi, thế nên tại sao người lớn tuổi không làm việc đúng đắn nên làm, mà thay vào đó lại luôn cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng vì tuổi già và những chuyện sau khi chết? Tại sao họ không thực hiện bổn phận như những người trẻ tuổi? Tại sao họ không mưu cầu lẽ thật như những người trẻ tuổi? Cơ hội này đã trao cho ngươi rồi, nên nếu ngươi không nắm lấy và khi ngươi thực sự đã già đến mức không nghe được, không thấy được, không tự chăm sóc được bản thân mình thì ngươi sẽ hối hận, và đời ngươi sẽ trôi qua như thế. Các ngươi có hiểu không? (Thưa, hiểu.)

Giờ vấn đề cảm xúc tiêu cực của người lớn tuổi đã được giải quyết chưa? Khi già đi, liệu các ngươi có cậy già lên mặt không? Liệu các ngươi có trở thành những tay cáo già quỷ quyệt và những kẻ mưu mô già dặn không? Khi gặp một người già, các ngươi có gọi họ là “người anh em già” hay “người chị em già” không? Họ có tên nhưng các ngươi không gọi họ bằng tên mà thay vào đó lại thêm từ “già”. Nếu ngươi luôn thêm từ “già” khi nói chuyện với người lớn tuổi, thì chẳng phải điều đó làm họ đau lòng sao? Họ vốn đã nghĩ bản thân họ già rồi, lại còn có một số cảm xúc tiêu cực, thế nên nếu ngươi gọi họ là “già”, thì giống như là ngươi đang bảo họ rằng: “Bác già rồi, già hơn tôi và bác chẳng còn có ích gì nữa”. Nghe ngươi nói thế, liệu họ có cảm thấy thoải mái không? Chắc chắn họ sẽ cảm thấy không vui. Chẳng phải họ sẽ bị tổn thương nếu ngươi xưng hô với họ theo cách này sao? Một số người lớn tuổi sẽ vui khi nghe ngươi xưng hô với họ như vậy và sẽ nghĩ: “Thấy chưa, tôi là người đức cao vọng trọng và có danh tiếng đáng tin cậy. Khi các anh chị em thấy tôi, họ không gọi thẳng tôi bằng tên. Trong nhà Đức Chúa Trời, người ta không gọi người lớn tuổi là chú, bác, ông, bà. Thay vào đó, khi các anh chị em gọi tôi, họ thêm từ ‘già’ và gọi tôi là ‘người anh em già’ (hoặc ‘người chị em già’). Nhìn tôi xem mới cao quý làm sao, nhìn tôi xem mới đáng kính thế nào trước người khác. Nhà Đức Chúa Trời thật tốt, mọi người kính già yêu trẻ!”. Ngươi có đáng được tôn trọng không? Ngươi đã mang lại sự gây dựng nào cho các anh chị em của mình? Ngươi đã mang lại lợi ích gì cho họ? Ngươi đã cống hiến gì cho nhà Đức Chúa Trời? Ngươi hiểu được bao nhiêu lẽ thật? Ngươi thực hành được bao nhiêu lẽ thật? Ngươi cho rằng mình là người đức cao vọng trọng nhưng lại chẳng hề có cống hiến gì, vậy có đáng được các anh chị em gọi là “người anh em già” hay “người chị em già” không? Chắc chắn là không! Ngươi cậy già lên mặt và luôn muốn được người khác tôn trọng! Được gọi là “người anh em già” hay “người chị em già” có tốt không? (Thưa, không.) Không, không tốt, nhưng Ta thường nghe thấy thế. Rất không tốt nhưng người ta vẫn thường xưng hô với người lớn tuổi như vậy. Điều này tạo ra bầu không khí gì? Thật kinh tởm, có đúng không? Ngươi càng gọi một người lớn tuổi là “người anh em già” hay “người chị em già” thì họ càng nghĩ rằng bản thân họ có tư cách và càng cho rằng mình là người đức cao vọng trọng; ngươi càng gọi họ là “già” thì họ càng nghĩ họ đặc biệt hơn, quan trọng hơn và giỏi hơn những người khác, lòng họ có khuynh hướng lãnh đạo người khác và họ càng lạc xa khỏi việc mưu cầu lẽ thật. Họ luôn muốn lãnh đạo người khác, quản lý người khác, luôn coi mình giỏi hơn người khác, luôn thấy người khác không vừa ý, luôn thấy người khác có vấn đề còn bản thân họ thì không có vấn đề gì cả. Nói Ta nghe, liệu người như vậy còn có thể mưu cầu lẽ thật không? Họ không thể làm được. Vậy, gọi người ta là ‘người anh em già’ hay ‘người chị em già’ không có lợi cho họ, mà chỉ làm tổn thương và làm hại họ mà thôi. Nếu ngươi đơn giản chỉ gọi họ bằng tên và bỏ danh xưng ‘già’ đi, nếu ngươi đối xử với họ một cách đúng đắn và bình đẳng với họ, thì tình trạng và tâm thái của họ sẽ bình thường, họ sẽ không còn tự cao về những năm tháng từng trải của mình và coi thường người khác nữa. Như thế, họ sẽ dễ dàng nhìn nhận bản thân ngang hàng với người khác, họ sẽ có thể nhìn nhận đúng đắn bản thân và người khác, có thể coi mình giống như những người khác, cũng như những người bình thường, và không hề hơn gì những người khác. Như thế, những khó khăn của họ sẽ giảm đi và họ sẽ không phải trải qua những cảm xúc tiêu cực có thể nảy sinh do lớn tuổi và việc họ không đạt được lẽ thật, và khi đó họ sẽ có hy vọng mưu cầu lẽ thật. Khi những cảm xúc tiêu cực này không nảy sinh, họ sẽ tiếp cận những vấn đề của chính mình, đặc biệt là tâm tính bại hoại, với một tâm thái đúng đắn. Điều này có tác động tích cực và hữu ích đến việc họ mưu cầu lẽ thật, biết mình, cũng như khả năng đi theo con đường mưu cầu lẽ thật. Chẳng phải khi đó vấn đề về những cảm xúc tiêu cực ở người lớn tuổi sẽ được giải quyết sao? (Thưa, phải.) Chúng sẽ được giải quyết và sẽ không còn khó khăn gì nữa. Vậy, trước hết người lớn tuổi nên có lối tâm thái gì? Họ phải có tâm thái tích cực; họ không những phải thận trọng mà còn phải rộng lượng. Không được làm ầm lên với người trẻ tuổi mà phải làm gương, chỉ đường cho người trẻ tuổi và đừng quá khắt khe với họ. Người trẻ tuổi thường nóng nảy, ăn nói hấp tấp nên đừng làm ầm lên với họ. Họ còn trẻ, chưa chín chắn và thiếu kinh nghiệm, vài năm rèn luyện họ sẽ ổn thôi. Quy luật là như vậy, người lớn tuổi nên hiểu chuyện này. Vậy người lớn tuổi nên có tâm thái như thế nào để phù hợp với lẽ thật? Phải đối xử đúng mực với người trẻ tuổi, đồng thời không được kiêu ngạo, tự phụ, cho rằng mình có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết sâu sắc. Họ nên coi mình như người bình thường và cũng giống như mọi người khác – đây là điều đúng đắn nên làm. Người lớn tuổi không được bị giới hạn bởi tuổi tác, cũng không cần phải chuyển sang tâm thái của người trẻ tuổi. Chuyển sang tâm thái của người trẻ tuổi cũng là không bình thường, nên chỉ cần không bị giới hạn bởi tuổi tác. Đừng lúc nào cũng nghĩ: “Ời, mình quá già rồi, mình không làm được việc này, mình không thể nói điều này, mình không thể làm điều kia. Vì già rồi nên mình phải thế này, phải thế nọ, phải ngồi thế này, đứng thế này, thậm chí phải ăn đúng cách nhất định, đều là để cho lũ trẻ thấy, để chúng không coi thường người già”. Tâm thái này là sai, và khi nghĩ như vậy là ngươi đang bị kiểm soát và hạn chế bởi một kiểu suy nghĩ sai lầm, và ngươi đang hơi giả tạo, ngụy tạo và ngụy trang. Đừng bị giới hạn bởi tuổi tác, hãy giống như mọi người khác, hãy làm bất cứ điều gì ngươi có thể làm và làm những gì ngươi phải làm – như thế, tâm thái của ngươi sẽ bình thường. Các ngươi có hiểu không? (Thưa, hiểu.) Vì vậy, khi người lớn tuổi có tâm thái bình thường, những cảm xúc tiêu cực khác nhau có thể nảy sinh trong họ do tuổi già sẽ biến mất mà họ không hề hay biết; chúng không còn có thể làm ngươi vướng mắc nữa, tác hại mà chúng gây ra cho ngươi cũng biến mất, khi đó nhân tính, lý trí và lương tâm của ngươi đều trở nên tương đối bình thường. Dưới tiền đề là có lương tâm và lý trí bình thường, xuất phát điểm của con người trở nên tương đối đúng đắn trong việc mưu cầu lẽ thật, thực hiện bổn phận của mình, tham gia vào bất kỳ hoạt động và công việc nào, và kết quả đạt được cũng tương đối đúng đắn. Trước hết, người lớn tuổi sẽ không bị giới hạn bởi tuổi tác, mà sẽ có thể tự đánh giá bản thân một cách khách quan và thực tế, làm những điều họ phải làm, giống như những người khác, và dốc hết khả năng có thể để thực hiện bổn phận mình phải làm. Người trẻ tuổi không nên nghĩ rằng: “Bác đã quá già rồi mà không bao giờ nhường đường cho tôi, cũng không chăm sóc tôi. Bác đã quá già rồi, lẽ ra phải có kinh nghiệm nhưng lại không cho tôi lời khuyên về cách làm và ở bên bác cũng chẳng được ích lợi gì. Bác đã già rồi, sao lại không biết thông hiểu cho người trẻ tuổi chứ?”. Nói thế có đúng không? (Thưa, không.) Đưa ra những yêu cầu như vậy đối với người lớn tuổi là không phù hợp. Vì vậy, trước lẽ thật, mọi người đều bình đẳng. Nếu mọi suy nghĩ của ngươi đều thực tế, khách quan, chính xác và có lý tính thì chắc chắn nó sẽ phù hợp với các nguyên tắc lẽ thật. Nếu ngươi không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ điều kiện, nguyên nhân, hoàn cảnh khách quan nào, hay thậm chí bất kỳ yếu tố nào, nếu ngươi chỉ làm những gì con người nên làm và chỉ làm những gì Đức Chúa Trời dạy mọi người phải làm, thì những gì ngươi làm chắc chắn sẽ thích hợp và thích đáng, về cơ bản là phù hợp với lẽ thật. Ngươi sẽ không bị sa vào những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng do tuổi già, và vấn đề này sẽ được giải quyết.

Được rồi, hôm nay Ta kết thúc mối thông công ở đây. Tạm biệt!

Ngày 22 tháng 10 năm 2022

Trước: Cách mưu cầu lẽ thật (2)

Tiếp theo: Cách mưu cầu lẽ thật (4)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger