Những lời về cách giải quyết tâm tính bại hoại
Trích đoạn 49
Những gì tâm tính bại hoại của con người bao hàm, không gì khác ngoài những thứ tà ác và phi lý. Thứ nghiêm trọng nhất trong số đó chính là tâm tính kiêu ngạo của con người và những thứ nó bộc lộ ra, cụ thể là đặc biệt tự nên công chính và tự cao, tin rằng mình mạnh hơn người khác, không chịu khuất phục bất kỳ ai, lúc nào cũng nhất quyết giành quyền ra phán quyết cuối cùng, việc gì cũng phô trương bản thân, làm gì cũng tìm kiếm sự tâng bốc và ca tụng, không ngừng thèm muốn có người khác vây quanh mình, luôn xem mình là trung tâm, luôn nuôi những tham vọng và dục vọng, và luôn muốn có mão triều thiên và phần thưởng, muốn cai trị như vua, v.v. – tất cả những vấn đề này đều được xếp vào loại những tâm tính bại hoại nghiêm trọng nhất. Những cái còn lại chỉ là vấn đề thường. Ví dụ như, có những quan điểm sai lầm, suy nghĩ không có lý trí, lươn lẹo và giả dối, ghen tị và ích kỷ, hay tranh cãi, hành động không có nguyên tắc, vân vân. Đây đều là những tâm tính bại hoại thông thường nhất. Có nhiều loại tâm tính bại hoại có trong tâm tính Sa-tan, nhưng rõ ràng nhất và nổi bật nhất là tâm tính kiêu ngạo. Sự kiêu ngạo là gốc rễ của tâm tính bại hoại ở con người. Con người càng kiêu ngạo thì họ càng không có lý trí, và họ càng không có lý trí thì càng có khả năng chống đối Đức Chúa Trời. Vấn đề này nghiêm trọng đến mức nào? Không chỉ những người có tâm tính kiêu ngạo coi người khác bên dưới họ, mà tệ nhất là họ thậm chí còn ra vẻ kẻ cả với Đức Chúa Trời, và không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Mặc dù người ta có thể có vẻ tin Đức Chúa Trời và theo Ngài, nhưng họ không hề đối đãi với Ngài như là Đức Chúa Trời. Họ luôn cảm thấy rằng họ sở hữu lẽ thật và nghĩ mình vĩ đại. Đây là thực chất và gốc rễ của tâm tính kiêu ngạo, và nó đến từ Sa-tan. Do đó, vấn đề kiêu ngạo phải được giải quyết. Cảm thấy mình tốt hơn những người khác – là chuyện nhỏ. Vấn đề quan trọng là tâm tính kiêu ngạo của một người ngăn họ vâng phục Đức Chúa Trời, sự tể trị của Ngài và sự sắp đặt của Ngài; người như vậy luôn muốn cạnh tranh với Đức Chúa Trời để nắm quyền và kiểm soát những người khác. Loại người này không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời dù chỉ một chút, nói chi đến việc yêu kính Đức Chúa Trời hay vâng phục Ngài. Những người kiêu ngạo và tự phụ, đặc biệt là những ai kiêu ngạo đến mức mất hết cả lý trí, không thể vâng phục Đức Chúa Trời trong niềm tin của họ vào Ngài, và thậm chí còn đề cao và làm chứng cho chính mình. Những người như vậy chống đối Đức Chúa Trời nhiều nhất và tuyệt đối không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Nếu mọi người muốn đạt đến có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, thì trước tiên họ phải giải quyết tâm tính kiêu ngạo của mình. Ngươi càng giải quyết triệt để tâm tính kiêu ngạo của ngươi, thì ngươi sẽ càng kính sợ Đức Chúa Trời hơn, và chỉ khi đó ngươi mới có thể vâng phục Ngài và có được lẽ thật và biết Ngài. Chỉ những người đạt được lẽ thật mới là con người đích thực.
Trích đoạn 50
Những tâm tính bại hoại của con người như kiêu ngạo, tự nên công chính và cương ngạnh, là những dạng bệnh khó trị. Chúng như khối u ác tính phát triển trong cơ thể con người, nếu không chịu đau đớn phần nào thì không thể giải quyết chúng. Không như các bệnh nhất thời vài ngày là khỏi, chứng bệnh khó trị này không phải là bệnh nhẹ, và phải dùng cách điều trị quyết liệt mới được. Tuy nhiên, có một sự thật mà các ngươi phải biết, đó là không có vấn đề nào mà không thể giải quyết. Các tâm tính bại hoại của các ngươi sẽ dần giảm bớt khi các ngươi mưu cầu lẽ thật, trưởng thành trong sự sống, khi hiểu biết và trải nghiệm về lẽ thật của các ngươi trở nên sâu sắc hơn. Những tâm tính bại hoại phải giảm bớt đến mức độ nào thì mới được xem là đã nên tinh sạch? Khi ngươi không còn bị chúng kìm kẹp và ngươi có thể phân định, từ bỏ chúng. Dù đôi khi chúng có thể ngoi lên, nhưng ngươi vẫn có thể làm bổn phận và thực hành lẽ thật như thường lệ, vẫn nghiêm túc và có trách nhiệm, không bị chúng kìm kẹp. Lúc đó, những tâm tính bại hoại không còn là vấn đề với ngươi, và ngươi đã thắng được chúng, đã vượt lên trên chúng. Đây chính là có sự trưởng thành trong sự sống, là khi ở trong những hoàn cảnh bình thường, ngươi không còn bị kìm kẹp hay trói buộc bởi những tâm tính bại hoại của mình. Có người dù bộc lộ bao nhiêu tâm tính bại hoại đi nữa, vẫn không chịu tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng. Kết quả là dù đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm, mà những tâm tính của họ vẫn không thay đổi. Họ nghĩ: “Hễ làm gì mình cũng bộc lộ những tâm tính bại hoại, nếu mình kiềm chế không làm gì cả thì sẽ không bộc lộ tâm tính bại hoại. Như thế chẳng phải vấn đề đã được giải quyết hay sao?”. Như thế chẳng giống sợ nghẹn mà nhịn ăn à? Kết quả sẽ thế nào? Chỉ có thể dẫn đến cảnh chết đói. Nếu người ta bộc lộ những tâm tính bại hoại mà không giải quyết chúng, thì cũng tương đương với không tiếp nhận lẽ thật rồi gục chết. Tin Đức Chúa Trời mà không mưu cầu lẽ thật thì hậu quả sẽ là gì? Là ngươi sẽ tự đào mộ chôn mình. Những tâm tính bại hoại là kẻ thù đối với đức tin của ngươi vào Đức Chúa Trời, chúng cản trở ngươi thực hành lẽ thật, trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và thuận phục Ngài. Kết quả là cuối cùng ngươi sẽ không đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Như thế chẳng phải là tự đào mộ chôn mình sao? Những tâm tính Sa-tan ngăn cản ngươi tiếp nhận và thực hành lẽ thật. Ngươi không được tránh né chúng, mà phải đương đầu với chúng. Nếu ngươi không thắng được chúng thì chúng sẽ kiểm soát ngươi. Nếu ngươi thắng được chúng thì ngươi sẽ không còn bị chúng kìm kẹp và ngươi sẽ được tự do. Nhiều lúc, những tâm tính bại hoại vẫn sẽ trỗi lên trong lòng ngươi và bộc lộ ra, khiến ngươi nảy sinh những tâm tư và ý niệm sai lầm, những suy nghĩ tà ác, khiến ngươi cảm thấy dương dương tự đắc hoặc thấy mình vĩ đại, bộc lộ những suy nghĩ như vậy; tuy nhiên, khi hành động, tay chân ngươi không còn bị chúng trói buộc, lòng ngươi không còn bị chúng kiểm soát. Ngươi sẽ nói: “Ý định của tôi là quan tâm đến lợi ích nhà Đức Chúa Trời, làm những việc thỏa mãn Đức Chúa Trời, thực hiện bổn phận và sự trung thành của một tạo vật. Dù đôi khi tôi vẫn bộc lộ dạng tâm tính này, nhưng nó tuyệt đối không có ảnh hưởng gì lên tôi”. Như thế là đủ. Dạng tâm tính bại hoại này như thế là đã được giải quyết về căn bản. Sự thay đổi tâm tính này của con người là thứ mơ hồ và không thể thấy rõ sao? (Thưa, không.) Nó thực tế như vậy đấy. Có người nói: “Dù đã hiểu chút lẽ thật, tôi vẫn có những tâm tư và ý niệm bại hoại, vẫn bộc lộ những tâm tính bại hoại. Tôi phải làm gì đây?”. Nếu ngươi thật sự là người mưu cầu lẽ thật, thì mỗi khi có những tâm tư và ý niệm sai lầm hoặc bộc lộ những tâm tính bại hoại, ngươi phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng. Đây là nguyên tắc thực hành căn bản nhất, ngươi sẽ không quên đâu nhỉ? Ngoài ra, ngươi cũng phải biết rằng, mỗi khi có những tâm tư và ý niệm sai lầm thì ngươi phải cự tuyệt chúng, không được để chúng kìm kẹp và trói buộc, càng không được thuận theo chúng. Chỉ cần hiểu được một chút lẽ thật thì ngươi sẽ dễ dàng làm được việc này. Nếu có bộc lộ những tâm tính bại hoại, thì ngươi phải dốc sức tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng. Ngươi không được nói: “Lạy Đức Chúa Trời, con lại bộc lộ tâm tính bại hoại, xin Ngài sửa dạy con! Con không kiểm soát được những tâm tính bại hoại của mình”. Nếu ngươi cầu nguyện như thế, thì nó cho thấy ngươi không phải là người mưu cầu lẽ thật. Nó cho thấy ngươi tiêu cực và bị động, đã buông bỏ bản thân – như thế thì ngươi liệu mà chuẩn bị quan tài, lo hậu sự đi là vừa. Ngươi nói xem, dạng người nào thì cầu nguyện như thế? Chỉ có kẻ vô dụng mới cầu nguyện với Đức Chúa Trời như thế. Người yêu mến lẽ thật thì không bao giờ thốt lên những lời đó. Nếu là người yêu mến lẽ thật, thì ngươi phải chọn con đường mưu cầu lẽ thật và cũng phải hiểu rõ về cách thực hành. Nếu như gặp những vấn đề rất bình thường này mà ngươi còn không biết cách thực hành, thì ngươi quá vô dụng rồi. Giải quyết các tâm tính bại hoại là chuyện cả đời, không phải là chuyện có thể đạt được chỉ trong vòng vài năm. Tại sao ngươi lại nuôi những ảo tưởng trong chuyện đạt được lẽ thật và sự sống? Đấy chẳng phải là quá ngu muội và vô tri sao?
Trong quá trình mưu cầu sự thay đổi trong tâm tính sự sống, với tất cả mọi người mà nói, khó khăn lớn nhất là từ những sự kìm kẹp của các tâm tính bại hoại. Khi người ta bộc lộ một chút tâm tính bại hoại, hoặc bộc lộ nó hết lần này đến lần khác, khi họ cảm thấy không thể kiểm soát được nó, thì họ tự lên án chính mình, quy định rằng mình coi như xong rồi, không thể thay đổi. Đây là sự bối rối và hiểu lầm mà hầu như ai cũng có. Hiện giờ, một số người mưu cầu lẽ thật đã nhận ra rằng chỉ cần những tâm tính bại hoại còn tồn tại trong con người thì họ có thể thường xuyên bộc lộ chúng, ảnh hưởng đến việc làm bổn phận và cản trở họ thực hành lẽ thật, nếu họ không thể phản tỉnh bản thân để giải quyết vấn đề về những tâm tính bại hoại thì họ sẽ không thể làm bổn phận đạt tiêu chuẩn. Do đó, những ai luôn làm bổn phận một cách tiêu cực, qua loa chiếu lệ, thì phải nghiêm túc phản tỉnh bản thân và đào bới cho ra căn nguyên vấn đề của mình để giải quyết. Tuy nhiên, có những người có nhận thức méo mó, họ nghĩ: “Hễ ai bộc lộ tâm tính bại hoại khi đang làm bổn phận thì phải dừng ngay lại và giải quyết chúng cho triệt để rồi mới được tiếp tục làm bổn phận”. Quan điểm này có vững không? Đây là tưởng tượng của con người, quan điểm này hoàn toàn không thể đứng vững. Kỳ thực, với hầu hết mọi người, bất kể họ bộc lộ tâm tính bại hoại nào trong khi làm bổn phận, chỉ cần họ tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng thì những bộc lộ sự bại hoại của họ sẽ ngày càng ít đi và cuối cùng họ làm bổn phận đạt tiêu chuẩn. Đây là quá trình trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời. Ngay khi bộc lộ tâm tính bại hoại, ngươi phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết nó, phân định và mổ xẻ tâm tính Sa-tan của mình. Đây là quá trình chiến đấu chống lại tâm tính Sa-tan của ngươi, và nó là điều thiết yếu cho trải nghiệm sự sống của ngươi. Trong khi trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và thay đổi tâm tính của mình, ngươi dùng những lẽ thật mà ngươi đã hiểu để đấu với tâm tính Sa-tan của ngươi, cuối cùng giải quyết được những tâm tính bại hoại của mình và chiến thắng Sa-tan, từ đó đạt được sự thay đổi trong tâm tính. Quá trình thay đổi tâm tính của người ta chính là quá trình tìm kiếm và tiếp nhận lẽ thật để thay thế những quan niệm và tưởng tượng của con người, những câu chữ và đạo lý, những triết lý xử thế và những tà thuyết, luận điệu sai lầm khác nhau từ Sa-tan, dần dần thay thế chúng bằng lẽ thật và lời Đức Chúa Trời. Đây là quá trình đạt được lẽ thật và thay đổi tâm tính của một con người. Nếu ngươi muốn biết tâm tính của mình đã thay đổi được chừng nào, thì ngươi phải thấy rõ mình hiểu bao nhiêu lẽ thật, đã thực hành bao nhiêu lẽ thật, và có thể sống thể hiện ra bao nhiêu lẽ thật. Ngươi phải thấy rõ bao nhiêu tâm tính bại hoại của mình đã được thay thế bằng những lẽ thật mà ngươi đã hiểu và đạt được, thấy những lẽ thật đó có thể khống chế những tâm tính bại hoại trong ngươi đến mức nào, nghĩa là những lẽ thật mà ngươi đã hiểu đó có thể dẫn dắt suy nghĩ và ý định, đời sống thường nhật và việc thực hành của ngươi đến mức nào. Ngươi phải thấy rõ liệu khi ngươi gặp chuyện, những tâm tính bại hoại của ngươi chiếm thế thượng phong hay là những lẽ thật mà ngươi đã hiểu chiếm thế thượng phong và dẫn dắt ngươi. Đây là tiêu chuẩn để đánh giá vóc giạc và lối vào sự sống của ngươi.
Trích đoạn 51
Việc thích nói lý lẽ khi gặp chỉ trích và tỉa sửa là sao? Đây là một loại tâm tính rất kiêu ngạo, tự cho mình là đúng và cứng đầu. Người kiêu ngạo và cứng đầu thì khó mà tiếp nhận lẽ thật. Chỉ cần nghe điều gì đó không phù hợp với quan điểm, ý kiến và cách nhìn của mình thì họ sẽ không tiếp nhận. Họ không quan tâm điều người khác nói là đúng hay sai, ai đã nói, bối cảnh của lời nói hoặc liệu lời nói đó có liên quan đến trách nhiệm và bổn phận của họ hay không. Họ không quan tâm đến những điều này; thứ cấp bách với họ là thỏa mãn tâm trạng của mình trước tiên. Đây chẳng phải là cứng đầu sao? Sự cứng đầu cuối cùng sẽ gây ra tổn thất gì cho con người? Họ sẽ khó đạt được lẽ thật. Việc không tiếp nhận lẽ thật là do tâm tính bại hoại của con người gây ra và kết cục sau cùng là họ không thể dễ dàng có được lẽ thật. Bất cứ điều gì được bộc lộ một cách tự nhiên từ thực chất bản tính của con người đều đối nghịch với lẽ thật và không liên quan gì đến lẽ thật; không điều nào tương hợp hoặc gần với lẽ thật. Cho nên, để có được sự cứu rỗi thì phải tiếp nhận và thực hành lẽ thật. Người không thể tiếp nhận lẽ thật và luôn muốn làm theo sở thích của mình thì sẽ không thể có được sự cứu rỗi. Nếu ngươi muốn theo Đức Chúa Trời và làm tròn bổn phận của mình, trước hết ngươi không được bốc đồng khi gặp chuyện không theo ý mình. Trước hết hãy bình tĩnh và thinh lặng trước Đức Chúa Trời, và trong lòng mình, hãy cầu nguyện với Ngài và tìm kiếm nơi Ngài. Đừng cứng đầu; trước hết hãy thuận phục. Có tâm thái như vậy, ngươi mới có thể giải quyết vấn đề tốt hơn. Nếu ngươi có thể kiên trì sống trước Đức Chúa Trời, và bất cứ điều gì xảy đến với ngươi, ngươi đều có thể cầu nguyện với Ngài và tìm kiếm nơi Ngài, và đối mặt điều đó với tâm thái thuận phục, vậy thì không cần quan tâm ngươi bộc lộ tâm tính bại hoại nhiều thế nào hay trước đây có những vi phạm nào, chỉ cần tìm kiếm lẽ thật thì chúng đều có thể được giải quyết. Bất kể những sự thử luyện nào xảy đến với ngươi, ngươi cũng sẽ có thể đứng vững. Miễn là ngươi có tâm thái đúng đắn, có thể chấp nhận lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời theo những yêu cầu của Ngài, thì ngươi hoàn toàn có khả năng đưa lẽ thật vào thực hành. Mặc dù đôi khi ngươi có thể hơi phản nghịch và chống đối, đôi khi đưa ra lý lẽ biện hộ và không thể thuận phục, nhưng nếu ngươi có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời và xoay chuyển tình trạng phản nghịch của mình, thì ngươi có thể tiếp nhận lẽ thật. Sau đó, ngươi hãy phản tỉnh về lý do tại sao sự phản nghịch và chống đối lại nảy sinh trong ngươi. Hãy tìm ra lý do, sau đó tìm kiếm lẽ thật để giải quyết nó, và khía cạnh tâm tính bại hoại này của ngươi có thể được làm tinh sạch. Cứ trải nghiệm vài lần thất bại và vấp ngã tới lui như vậy, cho đến khi ngươi có thể đưa lẽ thật vào thực hành, tâm tính bại hoại của ngươi sẽ dần bị loại bỏ. Khi đó, lẽ thật sẽ ngự trị bên trong ngươi và trở thành sự sống của ngươi, và sẽ không còn trở ngại nào nữa đối với việc ngươi thực hành lẽ thật. Ngươi sẽ có thể thực sự thuận phục Đức Chúa Trời, và ngươi sẽ sống thể hiện ra thực tế lẽ thật. Trong giai đoạn này, ngươi sẽ có trải nghiệm thực tế cũng như thể nghiệm với việc thực hành lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời. Khi có điều gì xảy ra với mình sau này, ngươi sẽ biết thực hành như thế nào là thuận phục Đức Chúa Trời và biết biểu hiện nào là phản nghịch Ngài. Trong lòng biết rõ những điều này, ngươi vẫn không thể thông công thực tế lẽ thật hay sao? Nếu được yêu cầu chia sẻ lời chứng trải nghiệm của mình, ngươi sẽ không cảm thấy đó là vấn đề vì ngươi đã trải nghiệm nhiều điều và biết các nguyên tắc thực hành. Ngươi kể thế nào, nói thế nào cũng đều là thực tế. Và nếu được yêu cầu bàn về câu chữ và đạo lý, ngươi sẽ không sẵn lòng mà thấy chán ghét trong lòng. Vậy chẳng phải ngươi đã bước vào thực tế lẽ thật sao? Người mưu cầu lẽ thật chỉ cần bỏ công sức ra vài năm là sẽ trải nghiệm được, sau đó bước vào thực tế lẽ thật. Người không mưu cầu lẽ thật thì dù có muốn cũng không dễ dàng bước vào thực tế lẽ thật vì người không yêu mến lẽ thật có quá nhiều sự phản nghịch. Khi cần thực hành lẽ thật trong bất cứ chuyện gì, họ luôn nói lý lẽ của mình và có những khó khăn riêng, nên sẽ rất khó để họ đưa lẽ thật vào thực hành. Mặc dù họ có thể cầu nguyện, tìm kiếm và sẵn lòng thực hành lẽ thật nhưng khi gặp chuyện, đối mặt với khó khăn thì sự hồ đồ của họ bộc lộ và tâm tính phản nghịch của họ xuất hiện, lòng họ hoàn toàn trở nên hồ đồ. Tâm tính phản nghịch của họ hẳn phải nghiêm trọng biết mấy! Nếu trong lòng họ có ba phần là sự hồ đồ và bảy phần là muốn thuận phục Đức Chúa Trời, thì họ sẽ gặp ít khó khăn hơn khi thực hành lẽ thật. Có thể họ cầu nguyện một lúc, hoặc có người thông công về lẽ thật với họ; miễn là lúc đó họ hiểu được lẽ thật thì sẽ dễ dàng đưa vào thực hành hơn. Nếu sự hồ đồ lớn đến mức chiếm bảy phần trong lòng họ, khi mà bảy phần là sự phản nghịch và ba phần là sự thuận phục, thì họ sẽ không dễ dàng đưa lẽ thật vào thực hành bởi vì vóc giạc của họ quá nhỏ. Những người không yêu mến lẽ thật chút nào thì chín hoặc mười phần là phản nghịch và hoàn toàn hồ đồ. Họ là những người hồ đồ và sẽ không bao giờ có thể đưa lẽ thật vào thực hành, cho nên dành bao nhiêu công sức cho họ cũng vô ích. Người yêu mến lẽ thật có động lực mạnh mẽ hướng tới lẽ thật; nếu họ đạt được đến bảy hoặc tám phần động lực, và lẽ thật được thông công rõ ràng cho họ, thì họ chắc chắn có thể đưa lẽ thật vào thực hành. Yêu mến lẽ thật không phải chuyện đơn giản; không phải chỉ có một phần sẵn lòng thì chính là người yêu mến lẽ thật. Họ phải đạt đến mức mà khi hiểu lời Đức Chúa Trời, họ có thể nỗ lực, chịu đựng gian khổ và trả giá để đưa lẽ thật vào thực hành. Đó mới là người yêu mến lẽ thật. Người yêu mến lẽ thật có thể kiên trì mưu cầu lẽ thật bất kể họ bộc lộ bao nhiêu tâm tính bại hoại hay đã có bao nhiêu vi phạm. Bất kể có điều gì xảy ra, họ đều có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật và tiếp nhận lẽ thật. Sau hai hoặc ba năm trải nghiệm như vậy, công sức của họ có thể mang lại kết quả, và những khó khăn thông thường không thể ngăn cản họ. Nếu họ thực sự gặp khó khăn lớn thì dù có thất bại cũng là điều bình thường vì vóc giạc của họ quá nhỏ. Miễn là họ có thể đưa lẽ thật vào thực hành trong những tình huống thông thường thì vẫn còn hi vọng. Khi họ nhận biết Đức Chúa Trời và có lòng kính sợ Đức Chúa Trời thì ngay cả những thử thách lớn cũng được họ giải quyết dễ dàng; không thử thách nào là vấn đề đối với họ. Miễn là con người đọc lời Đức Chúa Trời nhiều hơn và thông công nhiều hơn về lẽ thật, và bất luận gặp phải khó khăn gì họ cũng có thể cầu nguyện với Ngài, cũng như dựa vào công tác của Đức Thánh Linh để giải quyết các vấn đề, thì họ sẽ dễ dàng hiểu được lẽ thật và đưa lẽ thật vào thực hành, tâm tính bại hoại của họ sẽ bắt đầu dần bị loại bỏ. Với mỗi hành động thực hành lẽ thật, họ loại bỏ một chút tâm tính bại hoại của mình; càng thực hành lẽ thật thì càng loại bỏ được nhiều tâm tính bại hoại. Đây là quy luật tự nhiên. Nếu con người thấy mình bộc lộ tâm tính bại hoại và cố gắng giải quyết bằng sự tự kiềm chế và kiên nhẫn, liệu họ có giải quyết được không? Điều đó sẽ không dễ dàng. Nếu họ có thể giải quyết theo cách đó thì Đức Chúa Trời không cần thực hiện công tác phán xét và hành phạt. Để giải quyết tâm tính bại hoại, con người phải dựa vào lời cầu nguyện với Đức Chúa Trời và nương cậy vào Ngài, vào việc tìm kiếm lẽ thật, phản tỉnh và nhận biết bản thân, cũng như dựa vào công tác của Đức Thánh Linh. Như vậy mới có thể dần giải quyết tâm tính bại hoại. Nếu con người không hợp tác, không biết cách tự phản tỉnh, không thể tiếp nhận lẽ thật, không nhận biết tâm tính bại hoại của mình, không có lòng ăn năn, không căm ghét xác thịt và Sa-tan thì họ sẽ không thể tự loại bỏ tâm tính bại hoại của mình. Chính ở đây, công tác của Đức Thánh Linh là kỳ diệu nhất; miễn là con người khao khát lẽ thật và mưu cầu sự biến đổi tâm tính thì Đức Chúa Trời sẽ khai sáng và dẫn dắt họ. Con người sẽ đồng thời hiểu được lẽ thật và có thể nhận biết chính mình từ lúc nào không hay. Và lúc này, họ sẽ bắt đầu yêu mến lẽ thật và khao khát lẽ thật. Họ sẽ có thể căm ghét bản tính và tâm tính Sa-tan từ trong lòng mình, điều này khiến họ dễ dàng chống lại xác thịt hơn và cảm thấy dễ dàng thực hành lẽ thật hơn nhiều. Khi đó, tâm tính bại hoại của họ sẽ thay đổi từng chút một và họ sẽ không còn phản nghịch Đức Chúa Trời nữa; họ sẽ có thể hoàn toàn thuận phục Ngài mà không bị bất cứ con người, sự việc hay sự vật nào kìm kẹp. Đây là sự biến đổi hoàn toàn trong tâm tính sự sống của họ.
Trích đoạn 52
Một số người không bao giờ tìm kiếm lẽ thật trong khi thực hiện bổn phận của mình. Họ chỉ làm theo ý mình, hành động theo tưởng tượng của chính mình, luôn tùy tiện làm càng, và họ đơn thuần không bước đi con đường thực hành lẽ thật. “Tùy tiện làm càng” nghĩa là gì? Có nghĩa là, khi gặp một vấn đề, ngươi nghĩ thế nào thì làm thế ấy, không có quá trình suy nghĩ hay bất kỳ quá trình tìm kiếm nào. Bất cứ ai cũng không thể nói gì khiến ngươi động lòng hay thay đổi chủ ý của mình. Thậm chí khi người khác thông công với mình, ngươi cũng không tiếp nhận, ngươi bám lấy quan điểm của riêng mình, người khác nói đúng ngươi cũng không nghe, tin rằng bản thân ngươi đúng và bám vào ý kiến của riêng mình. Ngay cả khi cách nghĩ của ngươi là đúng, thì ngươi cũng nên tham khảo ý kiến của người khác. Ngươi không tham khảo chút nào, vậy có phải là quá tự nên công chính không? Người quá tự nên công chính và quá cứng đầu thì không dễ tiếp nhận lẽ thật. Nếu ngươi làm điều gì đó sai và người khác chỉ trích ngươi, nói rằng: “Anh làm chuyện này là không phù hợp với lẽ thật!”, thì ngươi trả lời: “Có không phù hợp với lẽ thật thì tôi vẫn làm”. Ngươi còn nói lý do cho họ nghe, khiến họ cảm thấy làm như vậy là thích hợp. Nếu họ chỉ trích ngươi, nói rằng: “Anh hành động như vậy là gây gián đoạn và sẽ làm bất lợi cho công tác của hội thánh”, thì ngươi không những không lắng nghe mà còn tiếp tục nói lý lẽ của mình: “Tôi nghĩ đây là cách đúng đắn, cho nên tôi sẽ làm như vậy”. Tâm tính gì đây? (Thưa, kiêu ngạo.) Đó chính là kiêu ngạo. Bản tính kiêu ngạo khiến ngươi cứng đầu. Nếu ngươi có bản tính kiêu ngạo, ngươi sẽ có thể tùy tiện làm càng, phớt lờ điều người khác nói. Vậy thì làm sao ngươi giải quyết sự tùy tiện làm càng của mình? Ví dụ, giả sử như có điều gì đó xảy ra với ngươi và ngươi có những ý tưởng, dự tính của riêng mình; trước khi xác định phải làm gì, ngươi phải tìm kiếm lẽ thật và chí ít phải thông công với mọi người về những gì ngươi nghĩ và tin về điều này, nhờ mọi người cho ngươi biết cách nghĩ của ngươi có đúng và phù hợp với lẽ thật hay không, nhờ mọi người kiểm định cho ngươi. Đây là phương pháp tốt nhất để giải quyết sự tùy tiện làm càng. Trước tiên, ngươi có thể bày tỏ quan điểm của mình và tìm kiếm lẽ thật; đây là bước đầu tiên của việc thực hành giải quyết sự tùy tiện làm càng. Bước thứ hai diễn ra khi những người khác đưa ra những quan điểm bất đồng – ngươi có thể thực hành điều gì để không tùy tiện làm càng? Ngươi trước hết phải có một thái độ khiêm nhường, buông bỏ những gì mình tin là đúng, và để mọi người thông công. Ngay cả khi ngươi tin mình là đúng, thì ngươi cũng không nên cứ khăng khăng với nó. Như vậy là tiến bộ; nó cho thấy một thái độ tìm kiếm lẽ thật, phủ nhận bản thân mình, và thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời. Một khi ngươi có thái độ này, song song với việc không bám lấy quan niệm của mình, ngươi cũng nên cầu nguyện, tìm kiếm lẽ thật từ Đức Chúa Trời, và sau đó tìm kiếm cơ sở trong lời Đức Chúa Trời – xác định cách hành động trên cơ sở lời Đức Chúa Trời. Đây là sự thực hành thích hợp nhất và chính xác nhất. Khi người ta tìm kiếm lẽ thật, đưa ra một vấn đề để mọi người thông công với nhau và tìm kiếm câu trả lời, đó là khi Đức Thánh Linh ban cho họ sự khai sáng. Đức Chúa Trời khai sáng con người theo nguyên tắc, Ngài xem xét thái độ của ngươi. Nếu ngươi ngoan cố theo ý mình đến cùng bất kể quan điểm của ngươi là đúng hay sai, Đức Chúa Trời sẽ ẩn mặt Ngài khỏi ngươi và phớt lờ ngươi; Ngài sẽ làm cho ngươi bế tắc, Ngài sẽ tỏ lộ ngươi và phơi bày trạng thái xấu xa của ngươi. Nhưng trái lại, nếu ngươi có thái độ đúng đắn, không khăng khăng theo cách của mình, cũng không tự cho mình là đúng, cũng không tùy tiện làm càng, mà có thái độ tìm kiếm và tiếp nhận lẽ thật, nếu ngươi thông công điều này với mọi người, thì Đức Thánh Linh sẽ bắt đầu làm việc giữa các ngươi, và nói không chừng Ngài chỉ cần mượn một câu nói của ai đó thôi là đã có thể làm cho ngươi hiểu. Đôi lúc, khi Đức Thánh Linh khai sáng ngươi, Ngài dẫn dắt ngươi hiểu điểm mấu chốt của một vấn đề chỉ bằng một vài lời hoặc cụm từ, hoặc bằng cách cho ngươi một cảm giác. Ngay lập tức, ngươi sẽ tỉnh ngộ và biết rằng bất cứ điều gì ngươi đã và đang bám lấy đều là sai lầm, và đồng thời, ngươi hiểu cách phù hợp nhất để hành động. Nếu đã đạt đến mức độ như vậy, thì có phải ngươi đã tránh được việc làm điều ác và gánh chịu những hậu quả của việc phạm sai lầm không? Đây chẳng phải là sự bảo vệ của Đức Chúa Trời sao? (Thưa, phải.) Làm thế nào để đạt được điều đó? Điều này chỉ đạt được khi ngươi có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, và khi ngươi tìm kiếm lẽ thật với lòng thuận phục. Một khi ngươi đã nhận được sự khai sáng của Đức Thánh Linh và xác định được các nguyên tắc thực hành, thì việc thực hành của ngươi sẽ phù hợp với lẽ thật và ngươi sẽ có thể thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời. Điều quan trọng giúp ngươi có thể thực hành lẽ thật theo cách này là gì? Chủ yếu là phụ thuộc vào việc ngươi có ý định và thái độ đúng đắn. Điều này là quan trọng. Khi Đức Thánh Linh làm việc, Ngài dò xét ý định và thái độ của con người đồng thời cũng dựa vào những yếu tố này để quyết định có khai sáng hoặc dẫn dắt họ không. Nếu con người có thể nhận biết được công tác của Đức Chúa Trời và thấy rõ chuyện này, họ sẽ biết cách cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật. Các ngươi có thể thấy rõ chuyện này không? Thường thì con người muốn tránh làm điều ác, họ muốn thực hành lẽ thật và hành động có nguyên tắc, nhưng điều này phụ thuộc vào thái độ của họ với lẽ thật và liệu họ có lòng kính sợ Đức Chúa Trời và thuận phục Ngài hay không. Nếu ngươi có thể từ bỏ những ý định cá nhân và có tâm thái thuận phục Đức Chúa Trời, thành tâm cầu nguyện và tìm kiếm nơi Ngài, thì sẽ không mất nhiều thời gian để ngươi nhận được sự khai sáng của Đức Chúa Trời. Ngài sẽ dùng một số phương thức để giúp ngươi hiểu nguyên tắc lẽ thật là gì và điểm mấu chốt của lẽ thật nằm ở đâu. Khi ngươi cầu nguyện và tìm kiếm nơi Đức Chúa Trời, miễn là ngươi có tâm thái đúng đắn và sự thành tâm, thì Ngài sẽ khai sáng ngươi. Chỉ sợ là khi con người không thực sự tìm kiếm lẽ thật mà chỉ qua loa và chạy theo hình thức để người khác thấy. Trong trường hợp đó, họ sẽ không thể có được sự khai sáng của Đức Chúa Trời. Nếu thái độ của ngươi là ngoan cố bám lấy những quan niệm của bản thân, phủ nhận lẽ thật, không tiếp nhận ý kiến của bất kỳ ai, không tìm kiếm lẽ thật, chỉ tin vào bản thân mình và chỉ làm theo ý ngươi – nếu đây là thái độ của ngươi bất kể những gì Đức Chúa Trời làm hoặc yêu cầu, thì Đức Chúa Trời sẽ làm như thế nào? Đức Chúa Trời sẽ phớt lờ ngươi, Ngài gạt ngươi ra. Chẳng phải ngươi cứng đầu sao? Chẳng phải ngươi kiêu ngạo sao? Chẳng phải lúc nào ngươi cũng nghĩ rằng mình đúng sao? Nếu ngươi không có chút thuận phục nào, nếu ngươi không bao giờ tìm kiếm, nếu lòng ngươi hoàn toàn khép kín và chống đối Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ phớt lờ ngươi. Tại sao Đức Chúa Trời phớt lờ ngươi? Bởi vì nếu lòng ngươi đóng chặt với Đức Chúa Trời, thì liệu ngươi có thể tiếp nhận sự khai sáng của Ngài không? Ngươi có thể cảm thấy khi Đức Chúa Trời khiển trách ngươi không? Khi con người cương ngạnh, khi bản tính Sa-tan và man rợ của họ bộc phát, họ không cảm nhận được bất cứ điều gì Đức Chúa Trời làm, tất cả đều vô ích – vì vậy Đức Chúa Trời không làm những việc vô ích. Nếu ngươi có thái độ ngoan cố đối kháng kiểu này, tất cả những gì Đức Chúa Trời làm là ẩn đi khỏi ngươi, Ngài sẽ không làm những điều thừa thãi. Khi ngươi ngoan cố đối kháng và khép kín thế này, Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ công tác một cách cưỡng ép hay áp đặt cho ngươi, Ngài sẽ không bao giờ cứ cố gắng cảm thúc và khai sáng ngươi, hết lần này đến lần khác – Đức Chúa Trời không hành động theo cách này. Tại sao Đức Chúa Trời không hành động như vậy? Chủ yếu là bởi vì Ngài đã nhìn thấy một loại tâm tính nơi ngươi, một sự thú tính chán ghét lẽ thật và bất chấp lý lẽ. Khi thấy một con thú hoang bộc phát thú tính, con người có thể quản được nó không? La hét và gào thét với nó có được gì không? Lý luận với nó hoặc dỗ dành nó thì có ích gì không? Người ta có dám đến gần nó không? Dùng một từ khá thích hợp để hình dung, đó chính là bất chấp lý lẽ. Khi thú tính của con người bộc phát và họ bất chấp lý lẽ, thì Đức Chúa Trời sẽ làm gì? Ngài phớt lờ họ. Đức Chúa Trời còn gì để nói với ngươi khi ngươi bất chấp lý lẽ? Có nói thêm một chữ thì cũng là dư thừa. Và khi Đức Chúa Trời phớt lờ ngươi, thì ngươi được ban phước hay chịu tai họa? Ngươi đạt được một chút lợi ích hay chịu sự mất mát? Ngươi chắc chắn sẽ chịu sự mất mát. Và ai đã gây ra điều này? (Thưa, tự bản thân chúng con gây ra.) Tự bản thân ngươi đã gây ra. Không ai ép ngươi phải hành động như vậy, và ấy thế mà ngươi vẫn cảm thấy khó chịu. Chẳng phải ngươi đã tự làm tự chịu sao? Đức Chúa Trời phớt lờ ngươi, ngươi không thể cảm nhận được Đức Chúa Trời, có bóng tối trong lòng ngươi, sự sống của ngươi bị tổn hại – và ngươi đã tự làm tự chịu, đây là đúng người đúng tội!
Khi có chuyện xảy ra, nếu con người quá cứng đầu và khăng khăng với ý kiến của mình mà không tìm kiếm lẽ thật thì điều này rất nguy hiểm. Đức Chúa Trời sẽ ghét bỏ những người này và gạt họ sang một bên. Hậu quả của việc này là gì? Có thể nói một cách chắc chắn rằng họ có nguy cơ bị đào thải. Còn những người tìm kiếm lẽ thật có thể có được sự khai sáng và dẫn dắt của Đức Thánh Linh, và kết quả là nhận được phước lành của Đức Chúa Trời. Tìm kiếm lẽ thật và không tìm kiếm lẽ thật – hai thái độ khác nhau này có thể mang đến hai trạng thái khác nhau trong ngươi, cũng như hai kết quả khác nhau. Các ngươi thích kết quả nào hơn? (Thưa, con thích có được sự khai sáng của Đức Chúa Trời hơn.) Nếu con người muốn được Đức Chúa Trời khai sáng và dẫn dắt, muốn nhận được ân đãi của Đức Chúa Trời, thì họ phải có thái độ như thế nào? Họ phải thường xuyên có thái độ tìm kiếm và thuận phục đến trước Đức Chúa Trời. Dù cho ngươi đang thực hiện bổn phận của mình, đang qua lại với người khác, hay đang gặp phải một số vấn đề đặt biệt cần phải xử lý, ngươi đều phải có một thái độ tìm kiếm và thuận phục. Với kiểu thái độ này, có thể nói rằng ngươi phần nào đó có một tấm lòng kính sợ Đức Chúa Trời, và có thể tìm kiếm và thuận phục lẽ thật. Đây là con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Nếu ngươi không có thái độ tìm kiếm và thuận phục, và thay vào đó ngoan cố đối kháng, bám víu vào bản thân, cự tuyệt việc tiếp nhận lẽ thật và chán ghét lẽ thật, thì tự nhiên ngươi sẽ làm ra rất nhiều điều ác. Ngươi sẽ không thể làm chủ được! Nếu con người không bao giờ tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, thì hậu quả cuối cùng sẽ là dù cho họ có trải nghiệm nhiều bao nhiêu, dù cho họ có ở trong bao nhiêu tình huống, họ có trải qua bao nhiêu bài học mà Đức Chúa Trời sắp đặt cho họ, họ vẫn sẽ không thể hiểu được lẽ thật, và cuối cùng vẫn sẽ không thể bước vào thực tế lẽ thật. Nếu con người không thể bước vào thực tế lẽ thật, họ sẽ không có khả năng tuân theo con đường của Đức Chúa Trời, và nếu họ không thể tuân theo con đường của Đức Chúa Trời thì cuối cùng họ sẽ không có khả năng kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Con người cứ nói mãi về việc muốn thực hiện bổn phận và đi theo Đức Chúa Trời. Đây có phải là chuyện đơn giản không? Chắc chắn là không. Đây là chuyện lớn trong đời người! Không dễ dàng để làm tròn bổn phận, làm Đức Chúa Trời thỏa lòng và đạt được việc kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Nhưng để Ta nói cho các ngươi một nguyên tắc thực hành: nếu ngươi có thái độ tìm kiếm và thuận phục khi điều gì đó xảy đến với ngươi, việc này sẽ bảo vệ ngươi. Mục đích cuối cùng không phải là bảo vệ ngươi. Khiến ngươi hiểu được lẽ thật và có thể bước vào thực tế lẽ thật, và đạt được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời; đây mới là mục đích cuối cùng. Nếu ngươi có thái độ này trong mọi sự ngươi trải nghiệm, ngươi sẽ không còn cảm thấy việc thực hiện bổn phận của mình và thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời là những lời sáo rỗng và khẩu hiệu; cũng không còn cảm thấy tốn sức như vậy nữa. Thay vào đó, ngươi sẽ bất giác hiểu được không ít lẽ thật. Nếu ngươi trải nghiệm được như thế, ngươi chắc chắn sẽ được thu hoạch. Việc ngươi là ai, bao nhiêu tuổi, học thức ra sao, đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, hay ngươi thực hiện bổn phận gì đều không quan trọng. Miễn là ngươi có thái độ tìm kiếm và thuận phục, miễn là ngươi trải nghiệm theo cách này, thì cuối cùng, ngươi chắc chắn sẽ hiểu được lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật. Còn ngược lại, nếu ngươi không có thái độ tìm kiếm và thuận phục trong mọi việc xảy đến với ngươi, thì ngươi sẽ không thể hiểu được lẽ thật, cũng như sẽ không thể bước vào thực tế lẽ thật. Những người không bao giờ hiểu được lẽ thật và không thể bước vào thực tế lẽ thật sẽ cảm thấy rằng: “Lẽ thật là gì và đạo lý là gì? Thực tế lẽ thật là gì và không có thực tế lẽ thật là gì? Tại sao tôi không hiểu?”. Họ thường nghe các bài giảng và sự thông công về lẽ thật, họ thức khuya dậy sớm để đọc lời Đức Chúa Trời, nghe nhiều hơn, học nhiều hơn và viết nhiều hơn. Họ ghi chép những lời giúp khai trí mà mình nghe được vào sổ tay, ghi đầy hết mấy cuốn sổ tay. Họ bỏ ra rất nhiều công sức nhưng đáng tiếc là họ không bao giờ hiểu được lẽ thật. Cho nên, họ cảm thấy lẽ thật quá sâu sắc. Sau vài năm nghe, họ hiểu được một số đạo lý nhưng tại sao không thể đưa vào thực hành? Tại sao họ trở nên bối rối khi gặp chuyện? Họ coi việc hiểu được lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật là rất trừu tượng và cảm thấy rất khó để đạt được những điều này. Thực ra, họ đã lĩnh hội sai. Tin Đức Chúa Trời và hiểu được lẽ thật không phải là chơi chữ, không phải là có thể nói về một số câu chữ và đạo lý là xong, không phải như vậy. Điều cần chú trọng nhất khi tin Đức Chúa Trời chính là thực hành lẽ thật và có thể nắm bắt các nguyên tắc trong việc thực hành lẽ thật. Chỉ khi hiểu được thực hành lẽ thật là gì và xử lý mọi chuyện bằng nguyên tắc là gì thì mới có thể nói là hiểu được lẽ thật và đã bước vào thực tế. Có thể thực hành lẽ thật và bước vào thực tế mới là điều quan trọng nhất.
Trích đoạn 53
Khi người ta thực hiện bổn phận mà không có trách nhiệm, qua loa chiếu lệ, hành xử như người dễ dãi, và không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thì đó là tâm tính gì? Đó là xảo quyệt, là tâm tính của Sa-tan. Khía cạnh nổi bật nhất trong triết lý xử thế của con người là sự xảo quyệt. Con người nghĩ rằng nếu không xảo quyệt, họ dễ đắc tội với người khác và không thể bảo vệ bản thân; họ nghĩ mình phải đủ xảo quyệt để không làm tổn thương hay đắc tội với bất kỳ ai, nhờ đó giữ cho bản thân mình an toàn, bảo vệ sinh kế của mình, và đạt được chỗ đứng vững vàng giữa mọi người. Tất cả những người ngoại đạo đều sống theo triết lý của Sa-tan. Họ đều là những người dễ dãi và không đắc tội với ai cả. Ngươi đã đến nhà Đức Chúa Trời, đọc lời Đức Chúa Trời, và nghe các bài giảng của nhà Đức Chúa Trời. Vậy tại sao ngươi không thể thực hành lẽ thật, không thể nói lời thật lòng và làm người trung thực? Tại sao ngươi luôn là người dễ dãi? Người dễ dãi chỉ bảo vệ lợi ích của bản thân, chứ không phải lợi ích của hội thánh. Khi thấy ai đó hành ác và làm tổn hại đến lợi ích của hội thánh, thì họ lờ đi. Họ thích làm người dễ dãi, và không đắc tội với ai cả. Đây là vô trách nhiệm, và kiểu người này rất xảo quyệt, không đáng tin. Để bảo vệ hư vinh và thể diện của bản thân, cũng như duy trì danh tiếng và địa vị của mình, một số người vui vẻ giúp đỡ người khác và xả thân vì bạn bè bằng bất kể giá nào. Nhưng khi họ cần phải bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, lẽ thật và chính nghĩa, thì lòng tốt đó lại hoàn toàn tan biến. Khi phải thực hành lẽ thật, họ lại không hề làm. Đây là chuyện gì vậy? Để bảo vệ tôn nghiêm và thể diện của bản thân mình, họ sẽ trả bất cứ giá nào và chịu bất cứ đau khổ nào. Nhưng khi họ cần làm công tác thực tế, xử lý những chuyện thực tế, bảo vệ công tác của hội thánh và những điều tích cực, bảo vệ cũng như cung cấp cho dân được Đức Chúa Trời chọn, tại sao họ lại không còn sức mạnh để trả giá hay chịu khổ chút nào? Thật không thể tưởng tượng nổi. Thật ra, họ có kiểu tâm tính chán ghét lẽ thật. Tại sao Ta nói tâm tính họ chán ghét lẽ thật? Bởi vì bất cứ khi nào có điều gì liên quan đến việc làm chứng cho Đức Chúa Trời, thực hành lẽ thật, bảo vệ dân được Đức Chúa Trời chọn, chống lại quỷ kế của Sa-tan, hay bảo vệ công tác của hội thánh, họ lại bỏ trốn, ẩn náu, và không quan tâm chút gì đến những chuyện chính. Khí khái anh hùng và tinh thần chịu khổ của họ đâu rồi? Họ dùng chúng ở đâu chứ? Điều này rất dễ thấy. Ngay cả khi có người khiển trách họ và nói họ không nên quá ích kỷ, hèn hạ và bảo vệ bản thân mình, mà nên bảo vệ công tác của hội thánh, thì họ cũng chẳng thực sự quan tâm. Họ tự nhủ: “Mình không làm những việc đó, chúng đâu có liên can gì đến mình. Làm như vậy thì có lợi gì cho việc mưu cầu danh lợi của mình chứ?”. Họ không phải là người mưu cầu lẽ thật. Họ thích mưu cầu danh lợi, địa vị, và không hề làm công tác Đức Chúa Trời giao phó. Thế nên khi cần họ thực hiện công tác của hội thánh, họ đơn giản là chọn cách bỏ trốn. Như thế nghĩa là trong thâm tâm, họ không thích những điều tích cực và không hứng thú với lẽ thật. Điều này là biểu hiện rõ ràng của sự chán ghét lẽ thật. Chỉ những ai yêu lẽ thật và có thực tế lẽ thật mới có thể bước lên và không chút thoái thác khi công tác của nhà Đức Chúa Trời và dân được Đức Chúa Trời chọn yêu cầu, chỉ họ mới có thể can đảm đứng lên để làm chứng cho Đức Chúa Trời, thông công lẽ thật, dẫn dắt những người được Đức Chúa Trời chọn đi đúng đường, và cho phép họ đạt được sự thuận phục đối với công tác của Đức Chúa Trời. Chỉ có như thế mới là một thái độ có trách nhiệm và là biểu hiện của việc quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời. Nếu các ngươi không có thái độ này và không có gì khác ngoài sự cẩu thả khi xử lý mọi việc, nghĩ rằng: “Tôi sẽ làm việc trong phạm vi bổn phận của riêng mình chứ không quan tâm đến bất cứ điều gì khác. Nếu anh hỏi tôi điều gì đó, tôi vui thì sẽ trả lời, không vui thì tôi không trả lời. Thái độ của tôi là vậy”, thế thì đây là một loại tâm tính bại hoại, phải không? Chỉ bảo vệ địa vị, danh tiếng, thể diện của riêng mình và chỉ bảo vệ những điều liên quan đến lợi ích riêng của mình – đây mà là bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa sao? Đây mà là bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời sao? Đằng sau những động cơ nhỏ nhen, ích kỷ này là tâm tính chán ghét lẽ thật. Đa số các ngươi thường bộc lộ những dạng biểu hiện này, và cứ hễ đối mặt với điều gì liên quan đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, là các ngươi cho qua chuyện bằng cách nói rằng: “Tôi không thấy”, hoặc “Tôi không biết” hoặc “Tôi chưa nghe”. Cho dù ngươi thực sự không biết hay chỉ đang giả vờ, nếu vào thời điểm quan trọng nhất, ngươi bộc lộ loại tâm tính bại hoại này, thì thật khó để nói ngươi có phải là người thực sự tin Đức Chúa Trời hay không; với Ta, ngươi hoặc là người hồ đồ trong đức tin hoặc là kẻ chẳng tin. Ngươi tuyệt đối không phải là người yêu lẽ thật.
Có lẽ các ngươi hiểu chán ghét lẽ thật là gì, nhưng tại sao Ta lại nói chán ghét lẽ thật là một tâm tính? Tâm tính thì không liên quan gì đến những biểu hiện nhất thời và thi thoảng, những biểu hiện nhất thời và thi thoảng thì không được xem là vấn đề về tâm tính. Bất kể người ta có dạng tâm tính bại hoại nào, nó cũng sẽ bộc lộ ra nơi họ một cách thường xuyên, thậm chí là liên tục, hễ gặp bối cảnh phù hợp thì sẽ bộc lộ. Do đó, ngươi không thể tùy tiện xác định một vấn đề về tâm tính dựa trên những biểu hiện nhất thời và thi thoảng. Vậy tâm tính là gì? Tâm tính thì liên quan đến các ý định và động cơ, liên quan đến suy nghĩ và quan điểm của người ta. Ngươi dường như có thể cảm thấy chúng đang chi phối và ảnh hưởng ngươi, nhưng những tâm tính bại hoại cũng có thể ẩn giấu và che đậy, không thể thấy được qua những hiện tượng bề ngoài. Nói tóm lại, chỉ cần trong ngươi có tâm tính, thì nó sẽ quấy nhiễu ngươi, kìm kẹp và kiểm soát ngươi, khiến ngươi nảy sinh nhiều hành vi và biểu hiện – như thế chính là tâm tính. Tâm tính chán ghét lẽ thật thường khiến người ta nảy sinh những hành vi, suy nghĩ, quan điểm và thái độ nào? Một đặc trưng chính trong biểu hiện của sự chán ghét lẽ thật chính là không cảm thấy hứng thú với những điều tích cực và lẽ thật, và khi liên quan đến việc thực hành lẽ thật thì họ không có hứng thú, trong lòng không có sức mạnh, cũng không muốn hướng tới lẽ thật, thậm chí còn cảm thấy như vậy rất tốt. Ta sẽ cho một ví dụ đơn giản. Một thường thức mà người ta hay nói về chuyện sức khỏe chính là ăn thêm rau củ và hoa quả, ăn những món thanh đạm và bớt ăn thịt, nhất là hạn chế ăn đồ chiên, đây là một hướng dẫn tích cực cho sức khỏe và sống khỏe của người ta. Ai cũng có thể hiểu và tiếp thu chuyện nên ăn thêm món gì, giảm món gì, vậy đây là chuyện tiếp thu trên lý thuyết hay trong thực hành? (Thưa, trên lý thuyết.) Sự tiếp thu trên lý thuyết biểu hiện như thế nào? Nó là một dạng công nhận cơ bản. Là sau khi phân định dựa trên phán đoán của mình, ngươi nghĩ rằng phát biểu này đúng và rất tốt. Nhưng ngươi có luận chứng nào cho phát biểu này không? Ngươi có căn cứ nào để tin nó không? Không thông qua thể nghiệm, không có luận cứ hay căn cứ gì để chứng minh liệu phát biểu này đúng hay sai, càng không có bài học nào rút ra từ sai lầm quá khứ, không có bất kỳ ví dụ đời thực nào, ngươi cứ thế tiếp thu quan điểm này thôi, đây chính là sự tiếp thu về mặt lý thuyết. Bất kể ngươi tiếp thu về mặt lý thuyết hay thực hành, trước hết ngươi phải xác định rằng phát biểu “ăn thêm rau bớt thịt” là đúng và tích cực. Vậy, làm sao để thấy được tâm tính chán ghét lẽ thật của ngươi? Dựa trên cách tiếp cận của ngươi với phát biểu đó và cách ngươi vận dụng nó vào cuộc sống của mình, qua đó sẽ thấy được thái độ của ngươi đối với phát biểu đó, và cho thấy ngươi tiếp thu nó về mặt lý thuyết và đạo lý, hay ngươi áp dụng nó vào đời thực và biến nó thành thực tế của mình. Nếu ngươi chỉ tiếp thu phát biểu này về mặt đạo lý, nhưng việc ngươi làm trong đời thực thì lại hoàn toàn trái ngược với nó, hoặc ngươi chẳng hề vận dụng mặt thực tế của phát biểu này, vậy thì ngươi yêu thích hay là chán ghét nó? Ví dụ như, trong bữa ăn mà ngươi thấy có một ít rau, ngươi nghĩ: “Rau tốt cho sức khỏe, nhưng vị lại không ngon, thịt ngon hơn, vậy thì mình sẽ ăn chút thịt trước”, rồi ngươi chỉ ăn thịt mà không ăn rau – chuyện này cho thấy dạng tâm tính gì? Là tâm tính không tiếp thu những phát biểu đúng đắn, chán ghét những điều tích cực và chỉ sẵn lòng ăn theo sở thích xác thịt của mình. Dạng người này là kẻ tham ăn và tham hưởng thụ, vốn đã rất chán ghét, chống lại và thấy phản cảm với những điều tích cực, và đây chính là một dạng tâm tính. Có người có thể thừa nhận rằng phát biểu này rất đúng, nhưng bản thân họ không thể làm được, và dù không làm được nhưng họ vẫn bảo người khác làm; sau một thời gian nói mãi như vậy, phát biểu này trở thành một dạng lý thuyết đối với họ, không còn tác dụng gì đối với họ nữa. Người đó biết rất rõ trong lòng rằng ăn thêm rau là điều đúng đắn, ăn thêm thịt là không tốt, nhưng họ nghĩ: “Đằng nào mình cũng đâu thiệt thòi gì, ăn thịt thì có lợi mà, mình chẳng thấy nó có gì là không lành mạnh”. Tham lam và dục vọng đã khiến họ chọn lối sống sai lầm, khiến họ liên tục đi ngược lại thường thức và lối sống đúng đắn. Họ có dạng tâm tính bại hoại tham chiếm lợi và tham hưởng thụ xác thịt, vậy họ có dễ tiếp thu những câu nói đúng đắn và những điều tích cực không? Sẽ không dễ chút nào. Như thế chẳng phải lối sống của họ bị tâm tính bại hoại chi phối sao? Đây là sự bộc lộ tâm tính bại hoại của họ, và nó là biểu hiện tâm tính bại hoại của họ. Cái biểu hiện ra bên ngoài là những hành vi và thái độ này, nhưng thật ra, có một dạng tâm tính chi phối chúng. Là tâm tính gì vậy? Đó là tâm tính chán ghét lẽ thật. Tâm tính chán ghét lẽ thật thì khó phát hiện, chẳng ai cảm thấy mình chán ghét lẽ thật, nhưng việc họ tin Đức Chúa Trời nhiều năm mà vẫn không biết cách thực hành lẽ thật là đủ chứng tỏ họ chán ghét lẽ thật. Người ta nghe quá nhiều bài giảng, đọc quá nhiều lời Đức Chúa Trời, và tâm ý của Đức Chúa Trời là khiến cho trong lòng con người tiếp nhận lời Ngài và đưa những lời này vào cuộc sống thực tế để thực hành và vận dụng, để họ hiểu được lẽ thật và biến lẽ thật thành sự sống của mình. Với hầu hết mọi người, đây là một yêu cầu khó mà đạt được, chính vì thế nên mới nói rằng hầu hết mọi người đều có tâm tính chán ghét lẽ thật.
Khi người ta hiểu lẽ thật, thì với họ, việc thực hành lẽ thật không phải là chuyện khó khăn gì, và khi người ta có thể thực hành lẽ thật thì họ có thể bước vào thực tế lẽ thật. Biến lẽ thật mà người ta hiểu thành thực tế mà người ta sống thể hiện ra thật sự khó đến vậy sao? Để Ta cho một ví dụ. Giả dụ trời đang lạnh và ngươi cố ra ngoài trời khi trán còn nhễ nhại mồ hôi, mẹ ngươi bảo ngươi lau cho khô mồ hôi trước khi ra ngoài, không thì cảm lạnh mất. Ngươi biết mẹ chỉ muốn tốt cho ngươi, nhưng ngươi không xem trọng lời bà khuyên, cứ lờ đi dù ngươi biết lời khuyên của mẹ là đúng. Ngươi cứ để trán nhễ nhại mồ hôi mà ra ngoài, và có lúc ngươi bị cảm lạnh vì thế, nhưng đến lần sau, ngươi vẫn cứ làm trái lời khuyên của mẹ. Rõ ràng ngươi biết lời mẹ ngươi khuyên là đúng và chỉ vì muốn tốt cho ngươi, ngươi biết động cơ và ý định của mẹ mình luôn là vì muốn tốt cho mình, thế mà ngươi vẫn bịt tai không chịu nghe – đây chẳng phải là một dạng tâm tính sao? Nếu không có tâm tính này, thì ngươi sẽ chọn làm gì nào? (Thưa, nghe lời.) Ngươi sẽ biết lời khuyên này quan trọng thế nào, biết những hậu quả và khổ sở ngươi sẽ chịu nếu không nghe theo, và ngươi sẽ lĩnh hội, hiểu ra ý nghĩa của lời khuyên này. Ngươi sẽ có thể tuân thủ chặt chẽ lời khuyên này và luôn làm theo, rồi ngươi sẽ không dễ bị cảm lạnh. Đây chỉ là một ví dụ. Chuyện tin Đức Chúa Trời, đọc và nghe theo lời Ngài cũng tương tự như thế, vậy người ta nên xử sự thế nào với lời Đức Chúa Trời? Đây là vấn đề quan trọng nhất. Nếu ai đó nói những lời phù hợp với lẽ thật và đúng đắn, thì người tiếp thu những lời đó sẽ được lợi ích. Lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, nếu người ta có thể tiếp nhận lời Ngài, thì họ không chỉ có lợi ích mà còn đạt được sự sống. Nhiều người không thể thấy rõ chuyện này, họ luôn không thèm đếm xỉa đến lời Đức Chúa Trời. Bất kể Đức Chúa Trời phán kiểu gì, dù là khích lệ, khiển trách, nhắc nhở, an ủi, hay tận tình khuyên bảo, dù Ngài nói kiểu gì, cũng không thể thức tỉnh lòng người ta. Họ không thể hành động theo lời Ngài, có nghe lời Ngài phán thì họ cũng giả điếc làm ngơ. Đây là một trong những tâm tính của con người, là cương ngạnh và chán ghét lẽ thật. Nếu ngươi không thể tuân theo lời Đức Chúa Trời trong cách tiếp cận với mọi sự như lời Đức Chúa Trời phán bảo và căn dặn ngươi làm, thì ngươi sẽ không thể thay đổi tâm tính này. Cho dù ngươi thừa nhận hay đáp “amen” với mọi lời Đức Chúa Trời phán, cho dù ngoài môi miệng ngươi tôn vinh lời Đức Chúa Trời đều là lẽ thật, thì cũng vô dụng mà thôi; ngươi phải có thể tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, phải thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, và biến lời Đức Chúa Trời thành sự sống của ngươi, thành thực tế của ngươi, chỉ như thế mới hữu dụng. Ví dụ như, một người có tâm tính giả dối mà quyết tâm làm người trung thực và nói lời thành thật, thì chuyện đó phần nào dễ đạt được, nhưng điều khó thay đổi nhất chính là tâm tính chán ghét lẽ thật và cương ngạnh. Cho dù Đức Chúa Trời phán gì, thì những người có tâm tính này cũng chẳng xem trọng lời Ngài trong lòng, và cho dù Đức Chúa Trời tỏ thái độ nào, dù là cảnh tỉnh, nhắc nhở, khích lệ, hay tận tình khuyên bảo, đưa ra sự thật, nói lý lẽ, tất cả đều chẳng đánh động được lòng họ, và chuyện này thật khó mà giải quyết. Người ta khó mà nhận ra tâm tính chán ghét lẽ thật, họ phải thường xuyên tìm kiếm lẽ thật và phản tỉnh về tình trạng của mình, về lý do họ không thể tiếp nhận lẽ thật, về lý do họ không thể thực hành những lẽ thật mình hiểu. Nếu họ hiểu thấu vấn đề này, họ sẽ biết chán ghét lẽ thật nghĩa là gì.
Trong tâm tính con người có một thứ ẩn giấu, nó biểu hiện ra trong thái độ đúng mực. Họ có tư duy riêng và cách biểu hiện riêng, nghĩ rằng đây là cách làm thích hợp nhất. Bất kể người khác có nói hay làm gì, cũng không tác động được họ, họ nhất quyết làm bất kỳ điều gì mà họ cảm thấy sẽ khiến người khác ngưỡng mộ họ, tin rằng đây là việc đúng đắn để làm, họ không tiếp nhận lẽ thật chút nào, không thể đối diện sự thật một cách đúng đắn và họ không hề có chút nguyên tắc lẽ thật nào. Đây là dạng tâm tính gì? Đây là tâm tính kiêu ngạo, tự nên công chính và chán ghét lẽ thật. Những ai thuộc về Sa-tan và chán ghét lẽ thật thì như mù như điếc trước những lời nói và việc làm của Đức Chúa Trời, cho dù Ngài có phán và làm nhiều đến thế nào đi chăng nữa. Sa-tan không bao giờ xem lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, mà chỉ phớt lờ, nó không để con người tiếp nhận lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, nó còn mê hoặc để con người thuận phục nó – đây chính là cách Sa-tan chống đối Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật để cứu rỗi, thức tỉnh và làm tinh sạch nhân loại, còn Sa-tan thì cố hết sức để gây nhiễu loạn và phá hoại công tác của Đức Chúa Trời, mục đích của Sa-tan khi mê hoặc nhân loại là để làm bại hoại và phá hoại nhân loại, cuối cùng là nuốt chửng và hủy diệt nhân loại. Ví dụ như, Đức Chúa Trời ban cho nhân loại đủ mọi thứ thực phẩm, Ngài cũng tạo ra đủ mọi loại ngũ cốc và rau củ, ban cho đất đai phù hợp để trồng chúng. Chỉ cần con người làm việc chăm chỉ thì sẽ có đủ để ăn và sử dụng, có thể bảo đảm họ có chế độ ăn lành mạnh. Nhưng con người tham lam vô độ, luôn muốn giàu có, nên họ nhất quyết nghiên cứu những phương pháp biến đổi gen để tăng sản lượng, nó hủy hoại dinh dưỡng thật sự của ngũ cốc, biến thực phẩm hữu cơ thành thực phẩm vô cơ. Người ta ăn những thứ này vào thì cơ thể nảy sinh đủ thứ bệnh tật, đây chẳng phải là hành động của Sa-tan sao? Nhân loại đã bị Sa-tan làm cho bại hoại đến một mức độ nhất định, họ đã trở nên những Sa-tan sống, những con quỷ sống. Trước đây, chỉ có Sa-tan và tà linh chống đối Đức Chúa Trời, nhưng giờ thì toàn thể nhân loại bại hoại chống đối Đức Chúa Trời. Vậy nhân loại bại hoại không phải là ma quỷ và Sa-tan sao? Họ không phải là hậu duệ của Sa-tan sao? (Thưa, phải.) Đây là hậu quả do việc Sa-tan làm bại hoại nhân loại suốt hàng thiên niên kỷ. Các ngươi nhận biết và phân định tâm tính Sa-tan bằng cách nào? Dựa trên những việc mà Sa-tan thích làm, cũng như những phương thức và thủ đoạn hành sự của nó, người ta có thể thấy nó không hề yêu thích những điều tích cực, nó thích sự tà ác, luôn nghĩ mình giỏi giang và có thể kiểm soát mọi sự. Đây chính là bản tính kiêu ngạo của Sa-tan. Chính vì thế mà Sa-tan trắng trợn phủ nhận, chống đối, và đối nghịch với Đức Chúa Trời. Sa-tan là đại diện và nguồn cơn của mọi điều tiêu cực và mọi điều xấu xa. Nếu có thể thấy rõ chuyện này, thì ngươi đã có sự phân định về các tâm tính của Sa-tan. Để mọi người tiếp nhận lẽ thật và thực hành lẽ thật không phải là một vấn đề đơn giản, bởi vì tất cả họ đều có những tâm tính Sa-tan, và tất cả họ đều phải chịu sự kìm kẹp và trói buộc của tâm tính Sa-tan. Ví dụ, một số người nhận ra rằng thật tốt khi làm một người trung thực, và họ cảm thấy ghen tị và đố kỵ khi thấy người khác có thể trung thực, nói thật, nói một cách đơn sơ và cởi mở, nhưng nếu ngươi yêu cầu bản thân họ làm người trung thực thì họ thấy khó. Họ sống chết cũng không thể nói những lời thật thà và làm những điều trung thực. Chẳng phải đây là một loại tâm tính Sa-tan sao? Họ nói những điều nghe có vẻ hay ho, nhưng lại không thực hành chúng. Đây là chán ghét lẽ thật. Những người chán ghét lẽ thật rất khó tiếp nhận lẽ thật và không có cách nào để bước vào thực tế lẽ thật. Trạng thái rõ ràng nhất đối với những người chán ghét lẽ thật là họ không quan tâm đến lẽ thật và những điều tích cực, thậm chí còn thấy phản cảm và ghê tởm chúng, và họ đặc biệt thích chạy theo các trào lưu. Lòng họ không tiếp nhận những điều Đức Chúa Trời yêu thích và những điều Đức Chúa Trời yêu cầu con người phải làm. Thay vào đó, họ không thèm đếm xỉa đến và rất thờ ơ, thậm chí một số người còn khinh miệt các tiêu chuẩn và nguyên tắc mà Đức Chúa Trời yêu cầu đối với con người. Họ thấy phản cảm với những điều tích cực, và nội tâm họ luôn có cảm giác chống đối, đối đầu và hoàn toàn khinh thường những điều đó. Đây là biểu hiện chính của việc chán ghét lẽ thật. Trong đời sống hội thánh, việc đọc lời Đức Chúa Trời, cầu nguyện, thông công lẽ thật, thực hiện bổn phận, và giải quyết vấn đề bằng lẽ thật đều là những điều tích cực. Chúng làm Đức Chúa Trời hài lòng, nhưng một số người thấy phản cảm với những điều tích cực này, không quan tâm đến chúng và thờ ơ với chúng. Điều đáng ghét nhất là họ có thái độ khinh thường đối với những người tích cực, chẳng hạn như những người trung thực, những người mưu cầu lẽ thật, những người trung thành thực hiện bổn phận, và những người bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời. Họ luôn cố gắng đả kích và loại trừ những người này. Nếu họ phát hiện ra những người đó có thiếu sót hoặc bộc lộ sự bại hoại thì họ chộp lấy những chuyện đó, làm ầm ĩ lên và cứ mãi hạ thấp người đó. Đây là loại tâm tính gì vậy? Tại sao họ lại ghét những người tích cực đến vậy? Tại sao họ thích và làm vừa lòng những kẻ ác, những kẻ chẳng tin và những kẻ địch lại Đấng Christ đến thế, và tại sao họ thường thông đồng với những người như vậy? Khi nói đến những điều tiêu cực và tà ác, họ cảm thấy thích thú và phấn khởi, nhưng khi nói đến những điều tích cực, sự chống cự bắt đầu xuất hiện trong thái độ của họ; cụ thể là khi họ nghe mọi người thông công về lẽ thật hoặc giải quyết vấn đề bằng cách dùng lẽ thật thì họ cảm thấy chán ghét và bất mãn, và họ trút sự bất bình của mình. Chẳng phải tâm tính này là chán ghét lẽ thật sao? Chẳng phải đây là bộc lộ sự bại hoại sao? Có nhiều người tin Đức Chúa Trời, thích làm việc cho Đức Chúa Trời và sốt sắng chạy đôn đáo khắp nơi vì Ngài. Khi phát huy những ân tứ và thế mạnh của mình, khi chiều theo những sở thích của mình và được phô trương, thì họ hăng hái vô cùng. Nhưng khi ngươi yêu cầu họ thực hành lẽ thật và hành động theo nguyên tắc lẽ thật, thì việc đó lại khiến lòng họ nguội lạnh và mất hết nhiệt huyết. Nếu không được phép khoe mẽ, họ trở nên mất hết sức mạnh và chán nản. Tại sao họ có năng lượng để khoe mẽ? Và tại sao mà họ lại không có năng lượng để thực hành lẽ thật chứ? Vấn đề ở đây là gì? Mọi người đều thích làm bản thân mình nổi bật; họ đều ham muốn hư vinh. Tất cả mọi người đều có năng lượng vô hạn khi tin vào Đức Chúa Trời để được phước lành và phần thưởng, vậy tại sao họ trở nên mất hết sức mạnh, tại sao họ trở nên chán nản khi thực hành lẽ thật và chống lại xác thịt? Tại sao lại xảy ra chuyện này? Điều này chứng tỏ rằng lòng người đang có sự uế tạp. Họ tin vào Đức Chúa Trời hoàn toàn là vì phước lành – nói thẳng ra, họ làm thế để bước vào thiên quốc. Không có phước lành hay lợi ích để mưu cầu, con người trở nên mất hết sức mạnh, chán nản và không có nhiệt huyết. Những điều này đều do tâm tính bại hoại chán ghét lẽ thật mà ra. Khi bị kiểm soát bởi tâm tính này, con người không sẵn lòng chọn con đường mưu cầu lẽ thật, họ đi con đường riêng của mình, họ chọn lầm đường, họ biết rõ rằng mưu cầu danh lợi và địa vị là sai, ấy vậy mà vẫn không thể chịu được nếu không làm những điều này, không thể gạt chúng sang một bên và vẫn mưu cầu danh lợi, địa vị và đi theo con đường của Sa-tan. Trong trường hợp đó, họ không đi theo Đức Chúa Trời mà là đi theo Sa-tan. Mọi việc họ làm đều là phục vụ cho Sa-tan, và họ là đầy tớ của Sa-tan.
Có dễ thay đổi tâm tính bại hoại chán ghét lẽ thật không? Chán ghét lẽ thật là một đặc trưng trong sự bại hoại sâu sắc của nhân loại, và nó là thứ khó thay đổi nhất. Bởi vì thay đổi tâm tính chỉ có thể đạt được thông qua việc tiếp nhận lẽ thật. Người chán ghét lẽ thật thì không thể dễ dàng tiếp nhận lẽ thật, cũng như người bị bệnh nặng thì không chịu ăn vậy. Đây là chuyện rất nguy hiểm, và người chán ghét lẽ thật thì không thể dễ dàng được cứu rỗi, kể cả khi họ có tin Đức Chúa Trời đi nữa. Nếu người ta tin Đức Chúa Trời vài năm mà vẫn không biết lẽ thật là gì, không biết những điều tích cực là gì, thậm chí còn không rõ về mục tiêu cuộc đời là mưu cầu lẽ thật để đạt được sự cứu rỗi, thì chẳng phải đây là một kẻ mù đi đường mà mất phương hướng hay sao? Do đó, chán ghét lẽ thật khiến người ta không thể nào tiếp nhận lẽ thật, và dạng tâm tính bại hoại này không dễ thay đổi. Những người có thể chọn tiếp nhận lẽ thật và đi theo con đường đúng đắn thì là những người yêu lẽ thật, và những người như thế có thể dễ dàng thay đổi những tâm tính bại hoại của mình. Nếu người ta có tâm tính chán ghét lẽ thật, mà trong lòng vẫn hy vọng mình được Đức Chúa Trời cứu rỗi, vậy họ phải bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ đâu sẽ dễ dàng hơn? Đâu là con đường nhanh nhất? (Thưa, sau khi hiểu những điều tích cực là gì, các nguyên tắc là gì, thì họ phải dùng các nguyên tắc và tiêu chuẩn này mà đánh giá trong khi làm bổn phận, nếu có điều gì đi ngược với các nguyên tắc này và không phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời, thì họ phải bám vào các nguyên tắc này và không làm việc đó.) Trước hết, họ phải nắm bắt các nguyên tắc của từng lẽ thật, đây là chuyện rất quan trọng. Rồi sao nữa? (Thưa, khi họ bộc lộ trạng thái chán ghét lẽ thật, liên quan đến bổn phận của họ và các nguyên tắc, thì họ phải phản bội xác thịt và thực hành theo các nguyên tắc.) Đúng vậy, họ phải có một con đường, mục tiêu và con đường đó phải rõ ràng. Hiện tại, điều mấu chốt là hầu hết mọi người đều không biết phương diện nào trong tâm tính của họ bộc lộ ra trong bối cảnh nào, vào thời điểm nào và theo cách nào. Nếu họ biết rõ hết mọi chuyện này, chẳng phải họ sẽ dễ thay đổi sao? Hiện giờ, nhìn vào những kiểu suy nghĩ hay thái độ khác nhau của người ta, nó thật sự liên quan đến các tâm tính của họ, nếu không bị các tâm tính khác nhau chi phối, không bị những tâm tính bại hoại đối đầu, kéo chân, thì người ta sẽ dễ chỉnh đốn những suy nghĩ sai lầm của họ. Giả dụ mẹ ngươi bảo ngươi lau mồ hôi trước khi ra khỏi nhà. Nếu ngươi là đứa con hiếu thảo, biết nghe lời, thì khi nhận thấy được ý tốt của mẹ mình, ngươi cũng có thể hiểu được sự đúng đắn của lời khuyên này, biết cái tốt của nó, có thể thừa nhận và tiếp thu nó. Nếu ngươi không có tâm tính bại hoại gây rối và kéo lùi ngươi, thì ngươi sẽ dễ tiếp thu lời khuyên này. Dù lời khuyên này rất đơn giản và dễ thực hiện, dù ngươi biết nó là đúng, nhưng vì ngươi có tâm tính chán ghét lẽ thật và cương ngạnh, nên tâm tính đó có thể dẫn dắt ngươi cố tình làm trái, có thể làm buồn lòng mẹ ngươi, khiến bà lo lắng cho ngươi và phải đau khổ, hậu quả chính là vậy. Nói tóm lại, cách tiếp cận của người ta khi có chuyện xảy đến với mình – cách tiếp cận đối với những điều tích cực, cũng như cách người ta liên tục đấu tranh và đương đầu với những tâm tính bại hoại của mình – điều này thể hiện quyết tâm mưu cầu lẽ thật của họ. Nếu ngươi có quyết tâm này và sẵn lòng rũ bỏ tâm tính bại hoại của mình, tiếp nhận lẽ thật, biến lời Đức Chúa Trời thành sự sống của mình, sống với hình tượng giống con người, vậy thì ngươi có thể thay đổi. Ngươi quyết tâm mưu cầu lẽ thật đến đâu thì sự thay đổi của ngươi sẽ đến đó.
Sự cứu rỗi chủ yếu nói đến điều gì? Chủ yếu nói đến sự thay đổi tâm tính. Chỉ khi tâm tính của người ta thay đổi, họ mới có thể thoát khỏi sự ảnh hưởng của Sa-tan và được cứu rỗi. Do đó, đối với những ai tin Đức Chúa Trời, sự thay đổi tâm tính là chuyện chính yếu. Khi tâm tính của người ta thay đổi, họ sẽ sống thể hiện ra hình tượng giống con người và hoàn toàn đạt được sự cứu rỗi. Người ta có thể không xinh đẹp cho lắm, không nhiều ân tứ hay tài năng, người ta có thể nói năng vụng về, chẳng trôi chảy rõ ràng, ăn mặc thì không đẹp, bên ngoài có vẻ rất bình thường, nhưng họ có thể tìm kiếm lẽ thật khi gặp chuyện chứ không thuận theo ý riêng của mình, không mưu đồ riêng cho bản thân, và khi Đức Chúa Trời dặn dò họ làm một loại bổn phận, họ có thể thuận phục Ngài và hoàn thành những việc Ngài giao phó cho họ. Các ngươi nghĩ sao về dạng người này? Dù bên ngoài, họ nhìn không đẹp, cũng không có gì đặc biệt, nhưng họ có tấm lòng kính sợ và thuận phục Đức Chúa Trời, những điểm mạnh của họ được thể hiện ở điều này. Khi người ta thấy vậy, họ sẽ bảo: “Người này có tâm tính ổn định, khi gặp chuyện, họ có thể lắng lòng tìm kiếm trước Đức Chúa Trời, mà không cẩu thả, không làm những việc ngu muội, xuẩn ngốc. Họ có thái độ nghiêm túc, có trách nhiệm, chuyên tâm với bổn phận, và đối với bổn phận của mình, họ có thể làm hết lòng, hết trách nhiệm, trung thành với vị trí làm việc”. Người này có tiết chế trong cách nói năng và hành động, họ có lý tính bình thường, và dựa trên những gì họ sống thể hiện ra và tâm tính họ biểu hiện, thì họ có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Nếu họ có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, vậy hành động của họ có nguyên tắc không? Chắc chắn họ tìm kiếm các nguyên tắc và không làm xằng làm bậy. Đây là kết quả tối hậu từ việc thực hành lẽ thật và mưu cầu sự thay đổi tâm tính. Lời nói của họ có chừng mực và chính xác, họ không nói năng tùy tiện, họ hành động một cách đáng tin và khiến người ta yên tâm, họ có thực tế của việc thuận phục Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Có thể nhìn thấy mọi biểu hiện đó nơi người này. Đây là một người đã bước vào thực tế lẽ thật, là người có tâm tính đã thay đổi. Những điều này không thể làm giả được. Tâm tính của người ta là sự sống của họ, người ta có tâm tính nào thì hành vi của họ cũng sẽ như vậy. Hành vi và biểu hiện của người ta bị những tâm tính của họ chi phối, và biểu hiện nhất quán của họ chính là sự bộc lộ từ tâm tính họ, chứ không phải là tính cách họ. Có thể nhận ra những vấn đề về tâm tính và những sự bộc lộ của các tâm tính bại hoại khác nhau, rồi có thể giải quyết chúng bằng cách tìm kiếm lẽ thật, đây chính là điều căn bản nhất mà người ta phải đạt được trong việc mưu cầu sự thay đổi tâm tính.
Trích đoạn 54
Bất kể thực hiện bổn phận trên khía cạnh nào, học hỏi chuyên môn trong lĩnh vực nào thì càng học ngươi càng phải tinh thông hơn, càng phấn đấu hơn để hoàn thiện, như vậy ngươi sẽ thực hiện bổn phận ngày càng tốt hơn. Có những người dù thực hiện bổn phận gì cũng không nghiêm túc, gặp khó khăn gì cũng không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, mà chỉ toàn nhờ người khác hướng dẫn, giúp đỡ mình, thậm chí yêu cầu người khác cầm tay chỉ việc dạy mình hay làm thay, còn bản thân thì không để tâm, luôn dựa dẫm vào người khác, luôn cần đến sự giúp đỡ của người khác. Như vậy chẳng phải đã biến thành một kẻ vô dụng rồi ư? Bất kể đang thực hiện bổn phận gì, ngươi cũng cần để tâm học hỏi mọi thứ mới đúng. Nếu ngươi thiếu kiến thức chuyên môn thì học kiến thức chuyên môn. Nếu ngươi không hiểu lẽ thật thì hãy tìm kiếm lẽ thật. Nếu ngươi hiểu lẽ thật và có kiến thức chuyên môn, ngươi sẽ có thể vận dụng chúng trong khi thực hiện bổn phận và gặt hái kết quả. Đây là người có tài năng và kiến thức thực sự. Nếu ngươi không học hỏi dù chỉ một chút kiến thức chuyên môn khi thực hiện bổn phận, cũng chẳng mưu cầu lẽ thật, và việc đem sức lực phục vụ của ngươi sẽ không đạt tiêu chuẩn, thì còn nói gì đến chuyện thực hiện bổn phận? Để làm tròn bổn phận của mình, ngươi phải học hỏi rất nhiều kiến thức hữu ích và trang bị cho bản thân nhiều lẽ thật, không ngừng học hỏi, không ngừng mưu cầu, và không ngừng hấp thu ưu điểm của người khác cải thiện khuyết điểm của mình. Bất kể thế mạnh của người khác là gì hay họ mạnh hơn chúng ta ở khía cạnh nào, chúng ta đều phải học hỏi từ họ. Và chúng ta càng phải học hỏi từ bất kỳ ai hiểu lẽ thật tốt hơn mình. Bằng cách thực hiện bổn phận như vậy trong vài năm, một mặt, ngươi sẽ hiểu được lẽ thật và bước được vào thực tế của lẽ thật, mặt khác, việc thực hiện bổn phận của ngươi cũng sẽ đạt yêu cầu. Ngươi sẽ trở thành một người có lẽ thật và nhân tính, một người có thực tế lẽ thật. Điều này đạt được chính nhờ mưu cầu lẽ thật. Không thực hiện bổn phận thì làm sao gặt hái được kết quả như vậy? Đó chính là sự nâng đỡ của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật trong khi thực hiện bổn phận, chỉ hài lòng với việc đem sức lực phục vụ thì hậu quả sẽ như thế nào? Một mặt ngươi sẽ thực hiện bổn phận không hợp quy cách, mặt khác ngươi cũng không có chứng ngôn trải nghiệm thật sự, không đạt được lẽ thật. Cả hai mặt ngươi đều không gặt hái được thành quả thì liệu có được Đức Chúa Trời khen ngợi không? Đó là điều không thể, vì vậy hài lòng với việc đem sức lực phục vụ chắc chắn sẽ không đạt được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời. Nghĩ rằng chỉ cần đem sức lực phục vụ là có thể được ban thưởng bước vào thiên quốc, thì đấy chỉ là mơ mộng hão huyền! Thái độ đấy là gì? Chỉ muốn nhận phúc phần nhờ vào việc đem sức lực phục vụ, rõ ràng đấy là đang giao dịch với Đức Chúa Trời, đấy là lừa dối Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ không khen ngợi người đem sức lực phục vụ như vậy. Thực hiện bổn phận theo cách qua loa chiếu lệ, dối trá là người ta đang bị chi phối bởi tâm tính gì? Kiêu ngạo, cương ngạnh, không yêu lẽ thật, có phải do những thứ này chi phối không? (Thưa, phải.) Các ngươi có những biểu hiện này không? (Thưa, có.) Thường xuyên có, thỉnh thoảng có hay là chỉ có trong những chuyện nhất định nào đó? (Thưa, thường xuyên có.) Thái độ thừa nhận những tình trạng như thế của các ngươi rất thành khẩn, có lòng trung thực, nhưng chỉ thừa nhận thôi thì chưa đủ, chẳng thể thay đổi được gì. Vậy phải làm sao mới có thể thay đổi được? Khi thực hiện bổn phận theo cách qua loa chiếu lệ, khi bộc lộ tâm tính kiêu ngạo, khi có thái độ hời hợt thì ngươi phải lập tức tới cầu nguyện trước Đức Chúa Trời, phản tỉnh bản thân, biết mình bộc lộ tâm tính bại hoại ở khía cạnh nào, ngoài ra còn phải nhận thức tâm tính đó sinh ra như thế nào, làm sao mới có thể thay đổi. Mục đích của nhận thức là hướng tới sự thay đổi, vậy con người nên làm thế nào mới có thể thay đổi đây? Con người buộc phải thông qua sự phán xét và sự mặc khải của lời Đức Chúa Trời, nhận thức được rằng thực chất tâm tính bại hoại của mình là xấu xí, hung ác, giống như quỷ Sa-tan vậy. Phải thế thì mới căm ghét bản thân, căm ghét Sa-tan, mới có thể chống lại chính mình và chống lại Sa-tan. Như vậy là ngươi đã có thể đưa lẽ thật vào thực hành rồi. Khi quyết tâm thực hành lẽ thật, con người còn phải nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời, nhận sự sửa dạy của Đức Chúa Trời và con người còn cần phải có yếu tố chủ động hợp tác nữa. Con người nên hợp tác như thế nào? Khi thực hiện bổn phận, hễ xuất hiện suy nghĩ “tàm tạm thôi là được” trong đầu thì cần phải uốn nắn ngay, con người không được nghĩ như vậy. Khi xuất hiện tâm tính kiêu ngạo thì phải cầu nguyện trước Đức Chúa Trời, thừa nhận tâm tính bại hoại của mình, nhanh chóng phản tỉnh, tìm kiếm lời của Đức Chúa Trời, chấp nhận sự phán xét, sửa phạt của Đức Chúa Trời. Như vậy thì mới có lòng hối cải và rồi tình trạng bên trong sẽ thay đổi. Mục đích làm vậy là để làm gì? Làm vậy là để ngươi thật sự quay đầu, để có thể hiến dâng lòng trung thành của ngươi, vâng phục, chấp nhận sự quở trách, sửa dạy của Đức Chúa Trời một cách trọn vẹn. Như vậy thì tình trạng của ngươi sẽ thay đổi. Khi ngươi lại muốn thực hiện bổn phận theo cách qua loa chiếu lệ, với thái độ hời hợt, thì nhờ sự sửa dạy của Đức Chúa Trời, nhờ sự quở trách của Đức Chúa Trời, ngươi có thể kịp thời sửa đổi. Có phải như vậy thì ngươi sẽ tránh được một lần vi phạm không? Đây là điều tốt hay xấu cho sự tiến bộ sự sống của ngươi? Đây là điều tốt. Ngươi thực hiện được lẽ thật, làm hài lòng Đức Chúa Trời, trong lòng vững vàng, hưởng thụ, không còn tiếc nuối gì hết. Đây mới là vui vẻ và bình an đích thực.
Con người có tâm tính bại hoại thì rất dễ phản nghịch, chống đối Đức Chúa Trời, nhưng điều đó không có nghĩa là con người không còn hy vọng được cứu rỗi. Đức Chúa Trời tới làm công tác cứu rỗi con người, Ngài đã bày tỏ rất nhiều lẽ thật nhưng phải xem con người có chấp nhận được lẽ thật hay không. Nếu chấp nhận lẽ thật thì con người sẽ được cứu rỗi, còn nếu không chấp nhận lẽ thật, lại còn phủ nhận Đức Chúa Trời, phản bội Đức Chúa Trời thì coi như chấm hết, con người chỉ có thể chờ đợi bị hủy diệt trong tai họa mà thôi, không một ai có thể trốn thoát, con người buộc phải đối diện với sự thật này. Có những người nói rằng: “Tôi thường hay bộc lộ tâm tính bại hoại, mãi mà không thay đổi được thì phải làm sao? Có phải tôi đã là vậy rồi không? Có phải Đức Chúa Trời không thích tôi, ghét bỏ tôi không?”. Thái độ thế này liệu có đúng không? Cách nghĩ thế này liệu có đúng không? (Thưa, không đúng.) Con người có tâm tính bại hoại thì tự nhiên sẽ bộc lộ tâm tính bại hoại, muốn kiềm chế cũng không kiềm chế được, vì vậy mà con người cảm thấy bản thân đã hết hy vọng. Thực tế thì chưa chắc đã phải vậy. Còn tùy thuộc vào con người có thể chấp nhận được lẽ thật hay không, có thể nương tựa, ngưỡng vọng Đức Chúa Trời được hay không. Việc con người thường bộc lộ tâm tính bại hoại của mình chứng tỏ sự sống của họ bị kiểm soát bởi tâm tính bại hoại của Sa-tan, và rằng thực chất của họ là thực chất của Sa-tan. Con người nên công nhận và chấp nhận sự thật này. Có một sự khác biệt giữa bản tính thực chất của con người và thực chất của Đức Chúa Trời. Con người nên làm gì sau khi công nhận sự thật này? Khi con người bộc lộ một tâm tính bại hoại, khi họ thèm khát lạc thú xác thịt và xa cách Đức Chúa Trời hơn; hay khi Đức Chúa Trời công tác khác xa với ý muốn của con người, và con người nảy sinh những lời than oán, thì phải kịp thời nhận thức rằng đây là vấn đề, đây là tâm tính bại hoại; đây là phản nghịch Đức Chúa Trời, chống đối Đức Chúa Trời; điều này không phù hợp với lẽ thật, và khiến Đức Chúa Trời căm ghét. Khi con người nhận ra những điều này, họ không nên than oán hay trở nên tiêu cực và ù lì, và họ càng không nên rầu rĩ; thay vào đó, họ nên có khả năng tự biết mình sâu sắc hơn. Hơn nữa, họ phải có thể chủ động đến trước Đức Chúa Trời để tiếp nhận sự quở trách, sửa dạy của Đức Chúa Trời, và nên kịp thời xoay chuyển trạng thái của mình, để họ có thể thực hành theo lẽ thật và theo lời Đức Chúa Trời, và hành động theo nguyên tắc. Theo cách này, mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời sẽ phát triển ngày càng bình thường và trạng thái bên trong ngươi cũng vậy. Ngươi sẽ có thể xác định những tâm tính bại hoại, thực chất của sự bại hoại, và đủ loại trạng thái xấu xa khác nhau của Sa-tan sẽ ngày càng rõ rệt. Ngươi sẽ không còn thốt ra những lời ngu xuẩn và ấu trĩ như “đó là do Sa-tan quấy phá tôi”, hay “đó là ý tưởng Sa-tan cho tôi”. Thay vào đó, ngươi sẽ có hiểu biết chính xác về những tâm tính bại hoại, về thực chất sự chống đối Đức Chúa Trời của con người, và về thực chất của Sa-tan. Ngươi sẽ có một cách đối đãi với những điều này chính xác hơn, và không còn bị chúng kiềm hãm nữa. Ngươi sẽ không trở nên yếu đuối hay mất đức tin nơi Đức Chúa Trời và sự cứu rỗi của Ngài vì mình đã bộc lộ một chút tâm tính bại hoại, hay đã vi phạm, hay đã thực hiện bổn phận một cách qua loa chiếu lệ, hoặc vì mình thường xuyên ở trong trạng thái thụ động, tiêu cực. Ngươi sẽ không sống giữa những tình trạng như thế, mà sẽ đối mặt với tâm tính bại hoại của mình một cách đúng đắn và có thể có đời sống tâm linh bình thường, như vậy thì khi bộc lộ tâm tính bại hoại ngươi có thể phản tỉnh bản thân, có thể đến cầu nguyện trước Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật, phân biệt, mổ xẻ thực chất của tâm tính bại hoại, giúp cho bản thân không còn bị kiềm hãm, kiểm soát bởi tâm tính bại hoại và thực hành được lẽ thật. Như thế là ngươi đã bước trên con đường được cứu rỗi rồi. Trải nghiệm thực hành này sẽ giúp ngươi thoát khỏi tâm tính bại hoại, thoát khỏi quyền thế của Sa-tan. Có phải như vậy thì con người đã được sống ở trước mặt Đức Chúa Trời, đã đạt được sự giải thoát tự do rồi không? Đây chính là con đường thực hành lẽ thật, đạt được lẽ thật và cũng là con đường để con người được cứu rỗi. Tâm tính bại hoại ăn sâu bén rễ trong con người, thực chất của Sa-tan, bản tính của Sa-tan điều khiển tư tưởng, hành vi và tâm tư của con người, nhưng đứng trước lẽ thật, đứng trước công tác của Đức Chúa Trời, đứng trước sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, tất cả những điều đó đều không là gì hết và chẳng có gì là khó cả. Bất kể con người có tâm tính bại hoại gì, có khó khăn gì hay bị kiềm hãm bởi điều gì đi nữa thì vẫn có con đường để đi, có cách để giải quyết và luôn có lẽ thật tương ứng để giải quyết. Có phải như vậy thì con người sẽ có hy vọng được cứu rỗi không? Con người có hy vọng được cứu rỗi rồi.
Trích đoạn 55
Bất kể là thực hiện bổn phận hay học hỏi kiến thức chuyên môn thì cũng đều phải cần mẫn và xử lý mọi việc theo nguyên tắc, đừng làm qua loa đại khái hay lấy lệ. Học kiến thức chuyên môn là để làm tròn bổn phận, phải gắng sức trong việc này và đây là điều mọi người nên hợp tác. Nếu một người không sẵn lòng làm tròn bổn phận của mình, luôn tìm lý do hay kiếm cớ để không học hỏi kiến thức chuyên môn thì chứng tỏ về căn bản, người đó không thật lòng dành trọn bản thân cho Đức Chúa Trời, không muốn làm tròn bổn phận để báo đáp tình yêu của Ngài. Đây chẳng phải là người không có lương tâm và lý trí hay sao? Người có nhân phẩm như vậy chẳng phải rất phiền toái, rất khó đối phó hay sao? Tuy đang học nghiệp vụ nhưng vẫn phải tìm kiếm lẽ thật, làm việc dựa trên nguyên tắc của lẽ thật, không được vượt ngoài phạm vi này hay hành động hồ đồ như người ngoại đạo. Người ngoại đạo có thái độ ra sao đối với công việc? Nhiều người chỉ sống cho qua ngày đoạn tháng, lãng phí thì giờ, làm qua loa cho xong một ngày để kiếm lương công nhật, nếu có thể làm qua quýt thì làm qua quýt, không chú trọng hiệu quả cũng chẳng màng làm việc theo lương tâm, không có thái độ nghiêm túc và trách nhiệm. Họ không nói: “Việc này đã giao cho mình rồi, mình phải chịu trách nhiệm đến cùng, phải làm tốt và gánh vác trách nhiệm này”. Họ không có lương tâm như vậy. Ngoài ra, người ngoại đạo có một dạng tâm tính bại hoại. Khi dạy cho người khác chút kiến thức chuyên môn hay một kỹ năng, họ nghĩ: “Đồ đệ hiểu hết, sư phụ chết đói. Nếu mình dạy hết mọi điều mình biết cho người khác thì sẽ chẳng còn ai nể phục hay ngưỡng mộ mình nữa và mình sẽ mất vị thế của một người thầy. Vậy thì không được. Mình không thể dạy họ mọi điều mình biết, mình phải giữ lại điều gì đó. Mình sẽ chỉ dạy họ tám mươi phần trăm điều mình biết và giữ phần còn lại để phòng hờ; đây là cách duy nhất để chứng tỏ kỹ năng của mình trội hơn những người khác”. Đây là loại tâm tính gì? Đó là sự giả dối. Khi dạy cho người khác, hỗ trợ họ, hoặc chia sẻ với họ điều ngươi học được, ngươi nên có thái độ gì? (Thưa, nên làm hết sức, không giữ cho riêng mình.) Làm thế nào để không giữ cho riêng mình? Giả sử ngươi nói: “Học được những gì, tôi đều chẳng giữ cho riêng mình, nói hết với mọi người cũng chẳng sao, dù gì tố chất của tôi cũng hơn các bạn, tôi vẫn có thể lĩnh ngộ những điều cao siêu hơn”, thì như thế vẫn là giữ lại cho riêng mình và có phần tâm cơ. Hoặc ngươi nói: “Tôi dạy cho các bạn tất cả những điều cơ bản tôi đã học được, thế cũng chẳng sao, tôi vẫn có thứ cao siêu hơn nữa. Các bạn học những điều này thì cũng chẳng bằng được tôi”. Như vậy vẫn là giữ cho riêng mình. Người quá ích kỷ sẽ không được Đức Chúa Trời ban phước, con người nên học cách quan tâm đến tâm ý của Ngài. Ngươi phải đem những điều quan trọng nhất, những tinh túy mà mình nắm vững đóng góp vào nhà Đức Chúa Trời, để những người được Đức Chúa Trời chọn đều được học hỏi và nắm vững chúng, có như vậy ngươi mới được Đức Chúa Trời ban phước, và Ngài sẽ còn ban cho ngươi nhiều hơn nữa. Như thế gọi là “Ban cho thì có phước hơn nhận lãnh”. Hãy dâng hiến mọi tài năng và ân tứ của mình lên Đức Chúa Trời, phát huy chúng khi thực hiện bổn phận để mọi người đều được hưởng lợi và gặt hái kết quả khi thực hiện bổn phận của họ. Việc ngươi đóng góp toàn bộ những ân tứ và tài năng này sẽ có lợi cho tất cả những người thực hiện bổn phận ấy, và có lợi cho công tác của hội thánh. Đừng chỉ đem một vài điều đơn giản nói với mọi người và như thế đã cảm thấy mình làm như vậy là ổn, là không giữ lại gì cho riêng mình. Làm thế là không được. Ngươi chỉ dạy một vài lý thuyết hay những điều mà mọi người có thể hiểu theo nghĩa đen, nhưng tinh túy và những điểm cốt lõi thì vượt quá tầm hiểu biết của một người mới. Ngươi chỉ đưa ra tổng quan mà không giải thích hay đi vào chi tiết, trong khi đó vẫn tự nghĩ: “Ừm, dù sao thì tôi cũng đã nói với anh rồi, và tôi không cố ý giữ lại điều gì cả. Nếu anh không hiểu thì đó là vì tố chất anh quá kém, nên đừng trách tôi. Giờ chúng ta phải chờ xem Đức Chúa Trời dẫn dắt anh thế nào”. Suy tính như vậy ẩn chứa sự giả dối, không phải sao? Đó chẳng phải là ích kỷ và hèn hạ sao? Tại sao ngươi không thể dạy mọi người mọi thứ trong lòng mình và mọi điều ngươi hiểu? Thay vào đó, tại sao ngươi lại giấu kiến thức? Đây là vấn đề trong những ý đồ và tâm tính của ngươi. Hầu hết mọi người khi lần đầu tiên được giới thiệu với một số khía cạnh kiến thức chuyên môn cụ thể, họ chỉ có thể hiểu được theo nghĩa đen; cần phải có thời gian tìm tòi trước khi có thể nắm bắt được những điểm chính và tinh túy của nó. Nếu ngươi đã nắm vững những điểm chính và bản chất này, ngươi nên nói thẳng với mọi người; đừng bắt họ phải đi lối vòng vèo như vậy và mất quá nhiều thời gian để mò mẫm. Đây là trách nhiệm của ngươi; đây là điều ngươi nên làm. Hãy nói với họ những điều ngươi cho là mấu chốt và tinh túy, như thế mới là không giữ lại cho riêng mình và không ích kỷ. Khi dạy kỹ năng cho người khác, trao đổi với người khác về nghiệp vụ hoặc thông công về lối vào sự sống, nếu như không giải quyết được mặt ích kỷ đáng hổ thẹn này trong tâm tính bại hoại của mình thì ngươi chẳng thể làm tròn bổn phận, như vậy các ngươi đâu phải là người có nhân tính hay lương tâm, lý trí, đâu phải là người thực hành lẽ thật. Ngươi phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại của mình cho đến khi không còn những động cơ ích kỷ nữa, chỉ quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời. Bằng cách như vậy, ngươi sẽ có được thực tế lẽ thật. Nếu người ta không mưu cầu lẽ thật mà sống theo tâm tính Sa-tan như những người ngoại đạo thì thật mệt mỏi. Giữa những người ngoại đạo có đầy rẫy sự cạnh tranh. Nắm vững tinh túy của một kỹ năng hay một chuyên môn không phải là vấn đề đơn giản, và một khi có ai khác tìm ra và tự mình nắm vững nó thì sinh kế của ngươi sẽ gặp rủi ro. Để bảo vệ sinh kế đó, người ta buộc phải hành xử theo lối này. Họ phải cẩn trọng mọi lúc – điều mà họ nắm vững là điều đáng giá nhất của họ. Đó là sinh kế của họ, vốn liếng của họ, huyết mạch của họ, và họ không thể nói cho người khác. Nhưng ngươi tin vào Đức Chúa Trời – nếu ngươi nghĩ theo cách này và hành xử theo cách này trong nhà Đức Chúa Trời, thì ngươi chẳng khác gì một người ngoại đạo. Nếu ngươi hoàn toàn không chấp nhận chút lẽ thật nào mà vẫn tiếp tục sống theo triết lý của Sa-tan thì ngươi không phải là người thực sự tin vào Đức Chúa Trời. Luôn luôn mang những động cơ ích kỷ và nhỏ nhen khi thực hiện bổn phận thì ngươi sẽ chẳng được Đức Chúa Trời ban phước.
Sau khi tin vào Đức Chúa Trời, ăn uống lời của Đức Chúa Trời cũng như chấp nhận những phán xét và hình phạt của lời Ngài, ngươi có phản tỉnh và nhận thức được tâm tính bại hoại của chính mình hay không? Nguyên tắc nói năng và hành động của ngươi, quan điểm nhìn nhận sự việc, nguyên tắc và mục tiêu ứng xử của ngươi có thay đổi hay không? Nếu ngươi vẫn giống như người ngoại đạo thì Đức Chúa Trời sẽ không công nhận ngươi là người tin vào Ngài. Ngài sẽ nói ngươi vẫn là một người ngoại đạo, vẫn đi trên con đường của người ngoại đạo. Do đó, bất luận trong ứng xử của mình hay khi thực hiện bổn phận, ngươi đều phải căn cứ vào lời của Đức Chúa Trời, thực hành dựa trên nguyên tắc của lẽ thật, sử dụng lẽ thật để giải quyết vấn đề, giải quyết tâm tính bại hoại mà ngươi biểu lộ ra, giải quyết những suy nghĩ, tư tưởng, quan điểm sai trái và cách hành động sai lầm của bản thân. Một mặt, ngươi phải phát hiện ra vấn đề bằng cách tự phản tỉnh và xem lại mình. Mặt khác, ngươi cũng phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề, nếu phát hiện ra tâm tính bại hoại thì phải kịp thời xử lý, phải chống lại xác thịt và từ bỏ ý riêng. Một khi đã giải quyết được tâm tính bại hoại của bản thân, ngươi sẽ không còn hành động dựa trên tâm tính bại hoại này nữa, ngươi sẽ buông bỏ được những tính toán và tư lợi, có thể thực hành theo các nguyên tắc lẽ thật. Đó mới là thực tế lẽ thật mà người thật sự theo Đức Chúa Trời phải sở hữu. Nếu biết phản tỉnh, hiểu rõ chính mình, tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề theo cách này thì ngươi mới là người mưu cầu lẽ thật. Việc tin vào Đức Chúa Trời cần tới sự hợp tác ấy, có thể thực hành theo cách này chính là được phước lớn nhất từ Đức Chúa Trời. Tại sao Ta lại nói như vậy? Bởi ngươi đang hành động vì công tác của hội thánh, vì lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và vì lợi ích của các anh chị em, đồng thời, ngươi cũng đang thực hành lẽ thật. Đây chính là điều được Đức Chúa Trời chấp thuận, là những việc lành. Thực hành lẽ thật theo cách này chính là đang làm chứng cho Đức Chúa Trời. Trái lại, nếu ngươi không làm như vậy mà vẫn giống như người ngoại đạo, tuân theo nguyên tắc hành xử và cách sống của người ngoại đạo thì liệu đó có phải là làm chứng hay không? (Thưa, không.) Hậu quả của nó là gì? (Thưa, là làm ô danh Đức Chúa Trời.) Như thế chính là làm ô danh Đức Chúa Trời! Tại sao lại nói như thế là làm ô danh Đức Chúa Trời? (Thưa, bởi vì Đức Chúa Trời đã chọn chúng con, đã bày tỏ rất nhiều lẽ thật, đích thân dẫn dắt, chu cấp và chăm tưới chúng con, vậy mà chúng con không tiếp nhận lẽ thật hay thực hành lẽ thật, vẫn sống dựa trên những thứ của Sa-tan và chẳng làm chứng trước Sa-tan. Như thế chính là làm ô danh Đức Chúa Trời.) (Một người tin Đức Chúa Trời từng được nghe Ngài thông công về bao lẽ thật và con đường thực hành, nhưng khi hành sự lại tuân theo triết lý xử thế của người ngoại đạo, đặc biệt là thói xảo trá, chăm chăm để ý đến tư lợi, thì như thế họ còn xấu xa, tồi tệ hơn cả những người ngoại đạo nữa.) Có lẽ các ngươi đều hiểu chút ít về chuyện này. Con người ăn uống lời của Đức Chúa Trời, tận hưởng mọi thứ Đức Chúa Trời ban cho, vậy mà vẫn đi theo Sa-tan. Bất luận chuyện gì đã xảy ra với họ hay hoàn cảnh của họ tồi tệ thế nào đi nữa, con người vẫn không thể lắng nghe lời và vâng phục Đức Chúa Trời, cũng không tìm kiếm lẽ thật, không thể đứng vững trong lời chứng của mình. Đây chẳng phải là phản bội Đức Chúa Trời hay sao? Đây chính là phản bội Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời cần ngươi, thì ngươi không lắng nghe tiếng gọi hay lời của Ngài mà lại theo các trào lưu của người ngoại đạo, nghe lời Sa-tan, đi theo Sa-tan, thực hành theo những lôgic, nguyên tắc và cách đối nhân xử thế của Sa-tan. Đây chính là phản bội Đức Chúa Trời. Phản bội Đức Chúa Trời chẳng phải là báng bổ và làm ô danh Đức Chúa Trời hay sao? Hãy xem khi A-đam và Ê-va ở Vườn Địa Đàng, Đức Chúa Trời đã phán: “Về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết” (Sách sáng thế 2:17). Những lời này là do ai nói? (Thưa, là lời Đức Chúa Trời.) Đây có phải là những lời nói thông thường không? (Thưa, không.) Đó là gì? Là lẽ thật, là điều mà con người nên tuân thủ và là con đường mà con người nên thực hành. Đức Chúa Trời đã dặn con người nên làm gì với cây biết điều thiện và điều ác, nguyên tắc thực hành là không ăn, sau đó đã cho con người biết hậu quả – rằng ngày ăn vào chắc chắn sẽ chết. Con người đã được dặn về nguyên tắc thực hành và lợi hại ra sao rồi, nghe xong họ có hiểu không? (Thưa, có hiểu.) Con người thực sự có hiểu lời Đức Chúa Trời, nhưng sau đó lại nghe con rắn nói: “Đức Chúa Trời phán rằng chắc chắn ngươi sẽ chết vào ngày ngươi ăn nó, nhưng thực ra ngươi chưa chắc phải chết, có thể thử xem sao”. Sau khi Sa-tan nói những lời này, con người nghe lời nó và ăn trái của cây biết điều thiện và điều ác. Đây là hành vi phản bội Đức Chúa Trời. Con người không chọn cách vâng lời hay thực hành theo lời của Đức Chúa Trời, không làm theo lời răn dạy của Đức Chúa Trời mà lại tin và tiếp nhận lời của Sa-tan và hành động theo chúng. Kết quả ra sao? Hành vi này của con người và cách thực hiện nó mang tính chất là sự phản bội đối với Đức Chúa Trời, làm ô danh Đức Chúa Trời, kết quả là họ đã bị Sa-tan làm cho bại hoại và sa ngã. Con người ngày nay cũng giống như A-đam và Ê-va thời đó, họ nghe thấy lời của Đức Chúa Trời nhưng không thực hành, dù đã hiểu lẽ thật cũng không chịu thực hành. Về bản chất cũng giống như A-đam và Ê-va không vâng theo lời và sự răn dạy của Đức Chúa Trời, đều phản bội và làm ô danh Ngài. Khi con người phản bội và làm ô danh Đức Chúa Trời, kết quả là họ tiếp tục bị Sa-tan làm cho bại hoại, tiếp tục bị Sa-tan kiểm soát và bị tâm tính Sa-tan khống chế, thế nên không bao giờ thoát khỏi sự ảnh hưởng của Sa-tan, không thể thoát khỏi sự cám dỗ, thử thách, công kích, thao túng và cắn xé của Sa-tan. Nếu ngươi không bao giờ thoát khỏi những điều này, ngươi sẽ sống vô cùng đau khổ, phiền não, chẳng được yên vui và cảm thấy mọi thứ đều trống rỗng, thậm chí có thể muốn chết để chấm dứt tất cả. Đây là hoàn cảnh đáng thương khi phải sống dưới quyền thế của Sa-tan.
Trích đoạn 56
Có những người khi làm lãnh đạo hoặc người làm công thì luôn sợ làm sai, bị tỏ lộ và đào thải, thế nên họ thường nói với những người khác rằng: “Không nên trở thành lãnh đạo. Hễ có chuyện gì là sẽ bị đào thải, và sẽ không còn đường quay lại đâu!”. Câu nói này chẳng phải là một luận điệu sai lầm sao? “Không còn đường quay lại” nghĩa là gì? Kiểu người lãnh đạo và người làm công như thế nào thì sẽ bị đào thải? Đó đều là những kẻ ác, dù đã cảnh báo nhiều lần, nhưng vẫn làm xằng làm bậy, gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh. Nếu một ai đó làm sai chỉ vì vóc giạc của họ còn nhỏ, hoặc vì chưa có đủ tố chất, hoặc thiếu kinh nghiệm, miễn là người đó có thể tiếp nhận lẽ thật và chân thành hối cải, thì nhà Đức Chúa Trời có đào thải họ hay không? Ngay cả khi người đó không thể thực hiện bất kỳ công tác thực tế nào, thì họ cũng sẽ chỉ bị điều chỉnh bổn phận mà thôi. Vậy chẳng phải những người nói những lời này đang bóp méo sự thật hay sao? Chẳng phải họ đang lan truyền quan niệm để mê hoặc người khác hay sao? Lãnh đạo và người làm công trong nhà Đức Chúa Trời được bầu chọn một cách dân chủ, không phải ai muốn vai trò này cũng có thể có được. Nhà Đức Chúa Trời đối xử với lãnh đạo và người làm công dựa trên các nguyên tắc lẽ thật; chỉ những lãnh đạo giả không hề đón nhận lẽ thật, và những kẻ địch lại Đấng Christ mưu cầu danh lợi và địa vị, cũng như những kẻ có chết cũng không chịu hối cải, thì mới bị đào thải. Những người có thể tiếp nhận lẽ thật, tiếp nhận sự tỉa sửa, và thực sự hối cải, sẽ không bị đào thải. Những người lan truyền quan niệm “làm lãnh đạo quá nguy hiểm” đều có những ý đồ và mục đích. Họ muốn mê hoặc mọi người, ngăn không cho những người khác trở thành lãnh đạo, và lợi dụng cơ hội mà việc này mang lại. Chẳng phải họ đang có dụng tâm xấu hay sao? Nếu lo lắng về việc bị đào thải, thì ngươi nên cẩn trọng, cầu nguyện với Đức Chúa Trời và hối cải với Ngài, cũng như tiếp nhận lẽ thật để có thể sửa chữa những sai lầm của mình. Chẳng phải làm như thế sẽ giải quyết được vấn đề sao? Nếu một ai đó mắc lỗi, và khi đối mặt với sự tỉa sửa, họ không tiếp nhận lẽ thật, không có ý thực sự hối cải, mà vẫn tiếp tục qua loa chiếu lệ, và làm xằng làm bậy, thì họ sẽ bị đào thải. Có người khi làm lãnh đạo hoặc người làm công thì cả gan làm loạn, lời nói và việc làm của họ không có chút kiêng dè nào, còn muốn một tay che trời. Không những họ không dùng lẽ thật để giải quyết vấn đề, mà còn truy tìm và cô lập những người phản ánh vấn đề lên Bề trên. Khi Bề trên phát hiện ra vấn đề và truy cứu trách nhiệm, những người này trở nên rụt rè như loài chuột, có chết cũng không chịu thừa nhận điều mình đã làm. Họ nghĩ rằng nếu không thừa nhận thì họ có thể thoát tội và nhà Đức Chúa Trời sẽ không truy cứu chuyện đó. Nhưng mọi chuyện có thực sự đơn giản như vậy không? Nhà Đức Chúa Trời sẽ kiểm chứng chuyện này rõ ràng và xử lý dựa trên các nguyên tắc; người nào có trách nhiệm đều không thể tránh được. Khi người ta làm việc mà không tìm kiếm lẽ thật, cứ theo ý mình, ngoan cố làm theo cách của mình, xảy ra chuyện thì gồng lên mà ngụy biện, giả vờ, có chết cũng không thừa nhận, vậy đây là vấn đề gì? Đây có phải là thái độ đúng đắn không? Ngụy biện và giả vờ, có chết cũng không thừa nhận hành động của mình thì có giải quyết được vấn đề không? Thái độ này có phù hợp với lẽ thật không? Có sự thuận phục thực sự trong đó không? Họ sợ mắc lỗi, sợ bị phơi bày và trình báo, họ sợ rằng nhà Đức Chúa Trời truy cứu trách nhiệm, họ sợ bị phán xét, định tội và đào thải. Sợ như thế thì có vấn đề gì không? Nỗi sợ này không phải là điều tích cực; nó xuất phát từ đâu? (Thưa, tâm tính bại hoại của Sa-tan.) Đúng vậy. Vậy chính xác thì có gì trong nỗi sợ này? Hãy mổ xẻ thử xem. Tại sao họ sợ? Họ sợ là vì lo lắng khi mọi việc bị bại lộ thì họ sẽ bị cách chức, mất đi địa vị và kế sinh nhai. Do đó, họ phải dùng lời nói dối và ngụy biện, có chết cũng không thừa nhận những hành động của mình. Dựa trên thái độ này, việc họ có đón nhận lẽ thật, có phải là người kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, và có phải là người giả dối hay không sẽ được tỏ lộ tại đây. Chẳng phải họ là ma quỷ hay sao? Cuối cùng họ đã hiện nguyên hình. Khi nào thì con người bị tỏ lộ nhiều nhất? Khi có việc xảy đến với họ, và đặc biệt là khi những việc làm sai trái của họ bị tỏ lộ, hãy nhìn vào thái độ của họ, những lúc thế này tỏ lộ rõ nhất về con người họ. Sự nhỏ nhen, giả dối, lừa lọc, có chết cũng không chịu thừa nhận sai lầm, v.v., tất cả những tâm tính bại hoại này đều bộc lộ cùng một lúc. Đây chẳng phải là thời điểm dễ dàng phân định con người hay sao? Một số người không tin nhà Đức Chúa Trời có thể đối xử công bằng với mọi người. Họ không tin rằng trong nhà Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời nắm quyền và lẽ thật nắm quyền. Họ tin rằng bất kể một người thực hiện bổn phận nào, nếu có nảy sinh vấn đề, nhà Đức Chúa Trời sẽ lập tức xử lý người đó, tước bỏ tư cách thực hiện bổn phận đó của họ, đuổi họ đi, hoặc thậm chí thanh trừ họ khỏi hội thánh. Sự thật có thực sự như thế không? Chắc chắn là không. Nhà Đức Chúa Trời đối xử với mỗi một người theo các nguyên tắc lẽ thật. Đức Chúa Trời công chính trong cách Ngài đối xử với mọi người. Ngài không chỉ nhìn vào biểu hiện của người ta trong một sự việc riêng lẻ; Ngài nhìn vào bản tính và thực chất của người đó, vào ý định, thái độ của họ, và Ngài đặc biệt nhìn vào việc người đó có thể phản tỉnh khi mắc lỗi hay không, có hối hận hay không, có thể dựa vào lời Ngài mà nhìn thấu thực chất của vấn đề, đạt đến hiểu lẽ thật, ghê tởm bản thân và thực sự ăn năn hay không. Nếu người ta không có thái độ đúng đắn này, hoàn toàn bị hỗn tạp bởi ý định cá nhân, toàn là những thứ hẹp hòi ma mãnh và những bộc lộ của tâm tính bại hoại, rồi đến khi phát sinh vấn đề thì giả vờ, ngụy biện và phân bua, có chết cũng không chịu thừa nhận hành động của mình, thì dạng người này không có cách nào được cứu rỗi nữa. Họ không hề tiếp nhận lẽ thật và hoàn toàn bị tỏ lộ. Những người không đúng đắn và không hề tiếp nhận lẽ thật thì về thực chất đều là những kẻ chẳng tin và chỉ có thể bị đào thải. Kẻ chẳng tin đi làm lãnh đạo và người làm công thì làm sao mà không bị tỏ lộ và đào thải chứ? Một kẻ chẳng tin, dù là thực hiện bổn phận gì chăng nữa, chắc chắn sẽ bị tỏ lộ sớm nhất, vì tâm tính bại hoại mà họ bộc lộ ra là quá nhiều và quá rõ ràng. Hơn nữa, họ chẳng hề tiếp nhận lẽ thật, lại còn hành động bừa phứa. Cuối cùng, khi bị đào thải và mất đi cơ hội thực hiện bổn phận, họ bắt đầu lo lắng và suy nghĩ, “Vậy là coi như xong. Nếu không được phép thực hiện bổn phận thì làm sao mình có thể được cứu rỗi. Phải làm gì đây?”. Thực ra, trời không tuyệt đường người. Có một con đường cuối cùng chính là thực sự hối cải, mau chóng truyền bá phúc âm và đưa được người ta về, lập công chuộc tội. Họ mà không đi con đường này nữa thì thật sự tiêu tùng. Nếu có chút lý trí và biết mình chẳng có tài cán gì, thì họ nên trang bị lẽ thật cho tốt và rèn luyện truyền bá phúc âm, đó cũng là đang thực hiện bổn phận. Việc này hoàn toàn khả thi. Nếu họ thừa nhận bản thân bị đào thải vì không làm tốt bổn phận, nhưng vẫn không tiếp nhận lẽ thật và trong lòng chẳng có lấy một chút hối hận, lại còn cam tâm sa đọa, thì như vậy chẳng phải là ngu muội và vô tri hay sao? Nói cho Ta nghe, nếu một người mắc lỗi nhưng có thể thực sự nhận thức và sẵn lòng hối cải, lẽ nào nhà Đức Chúa Trời lại không cho họ cơ hội? Vì kế hoạch quản lý sáu nghìn năm của Đức Chúa Trời sắp kết thúc, có rất nhiều bổn phận cần được thực hiện, chỉ sợ người ta không có lương tâm hay lý trí, không chuyên tâm vào việc chính đáng, nếu họ có được cơ hội thực hiện bổn phận nhưng không biết quý trọng, hoàn toàn không mưu cầu lẽ thật, để lỡ mất thời điểm tốt nhất thì họ sẽ bị tỏ lộ. Nếu ngươi liên tục qua loa chiếu lệ khi thực hiện bổn phận, và không hề thuận phục khi bị tỉa sửa, thì nhà Đức Chúa Trời còn dùng ngươi thực hiện bổn phận không? Trong nhà Đức Chúa Trời, lẽ thật nắm quyền, chứ không phải Sa-tan. Đức Chúa Trời có tiếng nói cuối cùng trong mọi sự. Chính Ngài đang làm công tác cứu rỗi nhân loại, chính Ngài đang tể trị mọi sự. Không cần ngươi phải phân tích đúng sai; ngươi chỉ cần nghe lời và thuận phục. Khi bị tỉa sửa, ngươi phải tiếp nhận lẽ thật và có thể chỉnh đốn sai lầm. Nếu ngươi làm vậy, nhà Đức Chúa Trời sẽ không tước mất tư cách thực hiện bổn phận của ngươi. Nếu ngươi luôn sợ bị đào thải, luôn nói lý lẽ, luôn ngụy biện cho bản thân, thì có vấn đề rồi. Nếu ngươi để người khác thấy mình hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật, không biết lý lẽ, thì phiền phức rồi. Hội thánh không xử lý ngươi thì không được. Nếu ngươi hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật khi thực hiện bổn phận, luôn sợ bị tỏ lộ và đào thải, thì nỗi sợ này của ngươi có lẫn tạp ý của con người và có tâm tính bại hoại của Sa-tan, có sự nghi ngờ, đề phòng và hiểu lầm. Đây đều không phải là thái độ mà con người nên có. Ngươi phải bắt đầu từ việc giải quyết chữ “sợ”, ngoài ra cũng phải giải quyết những hiểu lầm của ngươi về Đức Chúa Trời. Con người nảy sinh hiểu lầm về Đức Chúa Trời như thế nào? Khi người ta được bình an vô sự, thì chắc chắn con người không hiểu lầm, mà còn tin rằng Đức Chúa Trời là tốt lành, tôn quý, công chính, đầy lòng thương xót và từ ái, rằng mọi việc Đức Chúa Trời làm đều đúng. Tuy nhiên, khi gặp chuyện gì đó không phù hợp với quan niệm của mình, họ nghĩ: “Có vẻ như Đức Chúa Trời không công chính cho lắm, ít nhất là không phải trong chuyện này”. Đây có phải là hiểu lầm không? Làm thế nào mà Đức Chúa Trời lại không công chính nữa? Điều gì đã khiến ngươi nảy sinh sự hiểu lầm này? Điều gì đã khiến ngươi nảy sinh ý nghĩ và nhận thức rằng Đức Chúa Trời không công chính? Ngươi có thể nói rõ được không? Đó là câu nào? Chuyện nào? Bối cảnh nào? Ngươi hãy nói ra, để mọi người có thể phân định và xem lý lẽ đó có vững hay không. Ngoài ra, khi con người hiểu lầm Đức Chúa Trời hoặc gặp chuyện gì đó không phù hợp với quan niệm của họ, thì họ nên có thái độ gì? (Thưa, thái độ tìm kiếm lẽ thật và thuận phục.) Trước tiên, họ phải thuận phục và ngẫm nghĩ: “Mình không hiểu, nhưng mình sẽ thuận phục vì đây là việc Đức Chúa Trời làm, không phải là điều con người nên phân tích. Hơn nữa, mình không thể nghi ngờ lời Đức Chúa Trời hay công tác của Ngài, vì lời Đức Chúa Trời đều là lẽ thật”. Đây chẳng phải là thái độ mà con người nên có sao? Ngươi có thái độ này, thì sự hiểu lầm của ngươi còn có thể trở thành khó khăn hay không? (Thưa, không thể.) Nó sẽ không ảnh hưởng hoặc quấy nhiễu việc thực hiện bổn phận của ngươi. Các ngươi nói xem, một người nuôi sự hiểu lầm trong khi thực hiện bổn phận thì có thể trung thành không? Hay là một người không có hiểu lầm mới có thể trung thành? (Thưa, người không nuôi sự hiểu lầm khi thực hiện bổn phận của mình thì có thể trung thành.) Điều này có nghĩa là trước tiên, ngươi phải có thái độ thuận phục. Hơn nữa, ngươi ít nhất phải tin rằng Đức Chúa Trời là lẽ thật, rằng Đức Chúa Trời công chính và mọi việc Đức Chúa Trời làm đều đúng. Đây là tiền đề quyết định liệu ngươi có thể trung thành khi thực hiện bổn phận hay không. Nếu đã có đủ hai tiền đề này, liệu những hiểu lầm trong lòng ngươi có ảnh hưởng đến việc thực hiện bổn phận của ngươi hay không? (Thưa, không.) Không thể. Như vậy có nghĩa là ngươi sẽ không để những hiểu lầm ấy dính dáng đến việc thực hiện bổn phận của mình. Trước hết, ngươi nên giải quyết những hiểu lầm này ngay từ đầu, để nó chỉ dừng lại ở trạng thái manh nha. Tiếp theo ngươi nên làm gì? Giải quyết những hiểu lầm từ căn nguyên. Làm thế nào để giải quyết chúng? Hãy cùng mọi người đọc một số đoạn lời của Đức Chúa Trời liên quan đến vấn đề này. Sau đó hãy thông công về lý do Đức Chúa Trời hành động theo cách đó, về tâm ý của Đức Chúa Trời là gì, và kết quả có thể đạt được từ công tác như vậy của Đức Chúa Trời. Khi đã thông công rõ ràng về những điều này thì ngươi sẽ nhận biết Đức Chúa Trời và có thể thuận phục. Nếu ngươi không giải quyết những hiểu lầm về Đức Chúa Trời và mang những quan niệm vào việc thực hiện bổn phận, nói rằng, “Trong chuyện này, Đức Chúa Trời hành động không đúng nên tôi sẽ không thuận phục. Tôi sẽ so đo chuyện này, tôi sẽ tranh cãi tới cùng với nhà Đức Chúa Trời. Tôi không tin đây là việc Đức Chúa Trời làm”, tâm tính này là sao? Đây là tâm tính Sa-tan điển hình. Con người không nên thốt ra những lời này; đó không phải là thái độ mà loài thọ tạo nên có. Nếu ngươi đối kháng Đức Chúa Trời như vậy thì có xứng đáng thực hiện bổn phận này không? Ngươi không xứng đáng. Bởi ngươi là ma quỷ, ngươi không có nhân tính, ngươi không xứng đáng thực hiện bổn phận. Nếu một người có chút lý trí mà nảy sinh hiểu lầm về Đức Chúa Trời, thì họ sẽ cầu nguyện với Đức Chúa Trời, và họ cũng sẽ tìm kiếm lẽ thật trong lời của Đức Chúa Trời, rồi sớm hay muộn, họ cũng sẽ nhìn thấu vấn đề. Đây là điều mà con người nên làm.
Trong quá trình trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, có nhiều điều mà con người nghĩ mãi không thông, nghĩ mãi không hiểu. Chỉ cần có lòng thuận phục thì những vấn đề này sẽ dần dần được giải quyết, và họ sẽ tìm thấy câu trả lời trong lời của Đức Chúa Trời. Dù chưa thể đạt được kết quả ngay lập tức, nhưng sau nhiều năm trải nghiệm họ sẽ tự nhiên hiểu được những điều này. Nếu gặp vấn đề mà nghĩ mãi không thông, thế là đối đầu với lãnh đạo và người làm công hoặc tranh luận với nhà Đức Chúa Trời, thì họ có phải là người có lý trí không? Để đi theo Đức Chúa Trời thì ít nhất phải có lý trí của nhân tính bình thường và đức tin cơ bản, chỉ khi đó họ mới dễ dàng thuận phục Đức Chúa Trời. Nếu ngươi luôn chống đối và đối đầu với Ngài, sau đó lại không tìm kiếm lẽ thật, cũng không có lòng hối cải, thì ngươi không xứng thực hiện bổn phận hay đi theo Đức Chúa Trời, cũng không xứng để nhận sự ủy thác của Ngài. Nếu không có đức tin chân thực mà vẫn thực hiện bổn phận và đi theo Đức Chúa Trời thì ngươi sẽ không đứng vững và chắc chắn sẽ bị đào thải. Như vậy chẳng phải là tự gây phiền phức cho chính mình sao? Đây gọi là tự làm mình bẽ mặt. Do đó, để giải quyết những hiểu lầm về Đức Chúa Trời, thái độ mà con người nên có là trước hết phải thuận phục và tin rằng mọi việc Đức Chúa Trời làm đều đúng. Đừng tin vào mắt nhìn hay phán đoán của chính mình, nếu lúc nào cũng tin vào mắt nhìn hay phán đoán của bản thân thì sẽ phiền phức. Ngươi không phải là Đức Chúa Trời; ngươi không có lẽ thật. Ngươi là một con người với những tâm tính bại hoại; ngươi có thể phạm sai lầm, và ngươi vẫn chưa hiểu rõ lẽ thật. Nếu ngươi không hiểu lẽ thật, Đức Chúa Trời có định tội ngươi không? Đức Chúa Trời sẽ không định tội ngươi, nhưng ngươi phải tìm kiếm lẽ thật. Đức Chúa Trời cho ngươi cơ hội và thời gian để tìm kiếm và Ngài đang chờ đợi. Chờ đợi điều gì? Chờ đợi ngươi tìm kiếm lẽ thật trong thời gian ấy. Khi đã hiểu rõ và thuận phục thì sẽ không còn chuyện gì nữa, Đức Chúa Trời sẽ không ghi nhớ điều này, cũng không định tội ngươi. Tuy nhiên, nếu tiếp tục tái phạm thì ngươi hoàn toàn tiêu tùng và vô phương cứu chữa rồi.
Trích đoạn 57
Bây giờ các ngươi đã phần nào có thể phân biệt được tâm tính bại hoại mà mình bộc lộ, đâu là những điều bại hoại bình thường ngươi vẫn dễ bộc lộ, đâu là những điều trái với lẽ thật ngươi vẫn dễ mắc phải. Khi ngươi đã nhìn rõ những điều này rồi thì việc làm tinh sạch tâm tính bại hoại của ngươi sẽ dễ dàng. Tại sao trong nhiều vấn đề con người không thể khống chế bản thân mình? Bởi vì ở mọi lúc, trong mọi vấn đề, họ đều bị những tâm tính bại hoại kiểm soát, điều này kìm kẹp và quấy nhiễu họ trong mọi việc. Có người lúc bình an vô sự, không gặp trắc trở, không bị tiêu cực, thì luôn cảm thấy bản thân họ có vóc giạc, và không nghĩ gì khi thấy một kẻ ác, một lãnh đạo giả hay một kẻ địch lại Đấng Christ bị tỏ lộ và đào thải. Thậm chí họ còn có thể khoe khoang với mọi người rằng: “Bất cứ ai cũng có thể vấp ngã, còn tôi thì không. Bất cứ ai cũng có thể không yêu Đức Chúa Trời, còn tôi thì có”. Họ nghĩ họ có thể đứng vững trong chứng ngôn của mình trong bất cứ hoàn cảnh hay bối cảnh nào. Và kết quả là gì? Tới một ngày khi họ bị thử luyện và họ than vãn về Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là thất bại, chẳng phải là vấp ngã sao? Không gì tỏ lộ con người nhiều hơn là khi họ bị thử luyện. Đức Chúa Trời dò xét thâm tâm của con người, và con người không được khoe khoang bất kỳ lúc nào. Con người khoe khoang ở chuyện gì thì sớm muộn cũng sẽ có ngày vấp ngã trong chuyện đó. Thấy người khác vấp ngã và thất bại trong một bối cảnh nhất định, họ không nghĩ gì về việc đó, và thậm chí còn nghĩ rằng bản thân họ không thể sai, rằng họ sẽ có thể đứng vững – nhưng cuối cùng họ cũng vấp ngã và thất bại trong cùng một bối cảnh. Thế là sao? Đó là vì con người không hiểu thấu đáo được bản tính và thực chất của họ; sự hiểu biết của họ về những vấn đề trong bản tính và thực chất của mình vẫn không đủ sâu, do đó với họ việc đưa lẽ thật vào thực hành là rất vất vả. Ví dụ, một số người rất giả dối, không trung thực trong lời nói và việc làm, thế nhưng nếu ngươi hỏi họ tâm tính bại hoại của họ nghiêm trọng nhất ở khía cạnh nào, họ sẽ nói: “Tôi hơi giả dối”. Họ sẽ chỉ nói họ hơi giả dối, chứ không nói rằng bản tính của họ là giả dối, và họ không nói họ là người giả dối. Hiểu biết của họ về tình trạng bại hoại của chính họ không sâu sắc đến thế, và họ không thấy nghiêm trọng hay thấu đáo như người khác thấy. Người khác thấy người này quá giả dối và quá lươn lẹo, rằng có sự dối trá trong từng lời nói của họ, rằng lời nói và hành động của họ không bao giờ trung thực – nhưng chính họ không thể biết mình sâu sắc như thế. Dù có chút hiểu biết thì cũng đều chỉ là hiểu biết bề ngoài. Bất cứ khi nào họ nói và hành động, họ đều tỏ lộ điều gì đó trong bản tính của mình, nhưng họ không ý thức được điều này. Họ tin rằng họ hành động như vậy không phải là tỏ lộ của sự bại hoại, họ nghĩ rằng mình đã đưa lẽ thật vào thực hành – nhưng đối với những người đang quan sát, người này khá gian dối và quanh co, lời nói và hành động của họ không trung thực đến thế. Tức là, con người có một sự hiểu biết quá nông cạn về bản tính của chính mình, và có một sự khác biệt rất lớn giữa điều này với lời Đức Chúa Trời phán xét và vạch trần con người. Đây không phải là một sai lầm trong những gì Đức Chúa Trời vạch rõ, mà là sự thiếu hiểu biết sâu sắc của con người về bản tính của chính mình. Con người không có một sự hiểu biết từ gốc rễ, từ thực chất về bản thân họ; thay vào đó, họ tô vẽ và bỏ công cho những hành động và biểu hiện bên ngoài của mình. Ngay cả khi ai đó thỉnh thoảng có thể nói điều gì về việc hiểu bản thân mình, thì điều đó cũng không quá sâu sắc. Chưa ai từng nghĩ rằng họ là loại người nào đó hoặc có loại bản tính nào đó do đã làm loại việc nào đó hoặc đã tỏ lộ một điều gì đó. Đức Chúa Trời đã vạch trần bản tính và thực chất của loài người, nhưng thứ con người nhận thức được là thiếu sót và khuyết điểm trong cách làm việc và cách nói chuyện của họ; do đó, việc đưa lẽ thật vào thực hành là một nhiệm vụ khá khó khăn và vất vả đối với họ. Con người cho rằng những sai lầm của họ chỉ là những biểu hiện nhất thời bị tỏ lộ một cách khinh suất chứ không phải là những sự bộc lộ về bản tính của họ. Khi con người nghĩ theo cách này thì rất khó để họ thực sự biết được bản thân mình, và cũng rất khó để họ hiểu được và thực hành được lẽ thật. Vì họ không biết lẽ thật và không khao khát lẽ thật, nên khi đưa lẽ thật vào thực hành, họ chỉ tuân theo các quy định một cách qua loa chiếu lệ. Con người không xem bản tính của họ là quá bại hoại, và tin rằng họ không tệ đến nỗi sẽ bị hủy diệt hoặc trừng phạt. Thế nhưng theo tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời, sự bại hoại của con người là quá sâu sắc, họ còn xa mới đạt được tiêu chuẩn của sự cứu rỗi, bởi vì con người chỉ có một số hành động nhìn bề ngoài thì không vi phạm lẽ thật, trong khi thực tế thì họ không thực hành lẽ thật và không phải là người vâng lời Đức Chúa Trời.
Những thay đổi trong hành vi hoặc cách làm của một người không đồng nghĩa với một sự biến đổi trong bản tính của họ. Lý do nói vậy là vì những thay đổi trong cách làm của một người về cơ bản không thể làm thay đổi diện mạo ban đầu của họ, càng không thể làm thay đổi bản tính của họ. Chỉ khi con người hiểu được lẽ thật và có hiểu biết về bản tính và thực chất của chính mình, và có thể đưa lẽ thật vào thực hành, thì việc thực hành của họ mới có thể trở nên sâu sắc chứ không chỉ đang tuân theo quy định. Cách con người thực hành lẽ thật ngày nay vẫn chưa đạt tiêu chuẩn và không thể đạt được đầy đủ hết thảy những gì lẽ thật yêu cầu. Con người chỉ thực hành một phần của lẽ thật, và chỉ khi họ đang ở trong những trạng thái và hoàn cảnh nhất định họ mới có thể đưa được một chút lẽ thật vào thực hành; chứ không phải họ thực hành ra lẽ thật trong mọi hoàn cảnh và mọi tình huống. Đôi khi, khi một người đang vui và họ có tâm trạng tốt, hoặc khi mọi người đang thông công cùng nhau và họ có một con đường thực hành trong lòng, thì tạm thời họ có thể làm một số việc phù hợp với lẽ thật. Nhưng khi họ sống với những người tiêu cực và những người không mưu cầu lẽ thật, họ bị ảnh hưởng bởi những người này, và trong lòng họ lạc mất con đường, họ không thể thực hành ra lẽ thật. Điều này chứng tỏ rằng vóc giạc của họ quá nhỏ bé, rằng họ vẫn không thực sự hiểu được lẽ thật. Có một số cá nhân, nếu được hướng dẫn và dẫn dắt bởi người phù hợp, họ có thể thực hành ra lẽ thật; nhưng nếu họ bị một lãnh đạo giả hoặc một kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc và làm nhiễu loạn, thì họ không những không thể thực hành ra lẽ thật mà còn dễ bị mê hoặc đi theo người khác. Những người như vậy chẳng phải có nguy hiểm tiềm tàng sao? Những người như vậy, với kiểu vóc giạc này, không thể đạt đến mức thực hành ra lẽ thật trong mọi việc và mọi bối cảnh. Cho dù thực hành ra lẽ thật, thì cũng là trong lúc họ có tâm trạng tốt và có người chỉ đạo; tuy nhiên, nếu không có người tốt dẫn dắt, thì có những lúc họ vẫn có thể làm ra một số việc vi phạm lẽ thật và đi chệch hướng khỏi lời Đức Chúa Trời. Và điều này là do đâu? Đó là vì ngươi chỉ biết được một vài tình trạng của mình, mà không có hiểu biết về bản tính và thực chất của mình, và vẫn chưa thể đạt đến vóc giạc chống lại xác thịt và thực hành lẽ thật; do đó ngươi không nắm bắt được việc mình sẽ làm ra những chuyện gì trong tương lai, và không có gì bảo đảm tuyệt đối được rằng ngươi sẽ có thể đứng vững trong bất kỳ hoàn cảnh hay thử luyện nào. Có những lúc ngươi ở trong một trạng thái và ngươi có thể thực hành ra lẽ thật, và ngươi dường như tỏ ra có sự biến đổi nào đó, tuy nhiên, trong một môi trường khác, ngươi lại không thể thực hành ra lẽ thật. Đây là điều ngươi không có cách nào khống chế được. Đôi khi ngươi có thể thực hành lẽ thật, và đôi khi ngươi không thể thực hành ra lẽ thật. Lúc này ngươi hiểu, và lúc khác ngươi lại bối rối. Hiện tại, ngươi không làm việc xấu, nhưng nói không chừng một lát sau ngươi sẽ làm. Điều này chứng tỏ rằng những điều bại hoại vẫn tồn tại bên trong con người, và nếu không có khả năng thực sự biết mình, thì sẽ không dễ gì giải quyết những thứ bại hoại đó. Nếu ngươi không thể hiểu thấu đáo về tâm tính bại hoại của chính mình, và cuối cùng còn có khả năng làm ra những việc chống đối Đức Chúa Trời, thì nguy đấy. Nếu ngươi có thể có được sự nhận biết thấu đáo về bản tính của mình và ghê tởm nó, thì ngươi sẽ có thể kiểm soát chính mình, chống lại chính mình và thực hành ra lẽ thật.
Ngày nay con người chẳng hề chú trọng vào việc bước vào và thực hành lẽ thật mà chỉ tập trung vào hiểu và biết nói vài câu chữ và đạo lý, để thỏa mãn chút ít nhu cầu tâm lý của mình, chỉ cần trong lòng thoải mái, không tiêu cực là đủ. Cho dù thông công lẽ thật giúp ích cho ngươi thế nào đi nữa thì sau đó ngươi vẫn không thực hành ra lẽ thật, đây là vấn đề gì? Bởi vì ngươi chỉ chú trọng nhận thức hoặc lắng nghe lẽ thật thay vì thực hành nó. Có ai trong số các ngươi tổng kết xem phải thực hành một mặt lẽ thật như thế nào, chia ra làm bao nhiêu tình trạng chưa? Chưa từng! Phải làm thế nào để tổng kết được đây? Bản thân phải có trải nghiệm thì mới tổng kết được, chứ chỉ thông công vài câu chữ và đạo lý thôi thì không được. Đây chính là khó khăn lớn nhất của con người – đó là không hứng thú với việc thực hành lẽ thật. Có thực hành được lẽ thật hay không tùy thuộc vào sự mưu cầu của con người. Có người trang bị lẽ thật để truyền bá phúc âm, có người trang bị lẽ thật để giảng cho người khác nghe, khoe khoang về bản thân chứ không phải để thực hành lẽ thật thay đổi bản thân, những người chỉ chú trọng những thứ này thì không dễ gì thực hành ra lẽ thật, đây cũng là một khó khăn của con người. Một số người nói: “Tôi cảm thấy giờ đây tôi có thể thực hành ra một số lẽ thật rồi; không phải là tôi hoàn toàn chẳng thực hành ra bất kỳ lẽ thật nào. Trong một số hoàn cảnh, tôi có thể hành động theo lẽ thật, nghĩa là tôi được tính là người thực hành lẽ thật và là người có lẽ thật rồi”. Thật ra, so với trước kia hay khi ngươi mới bắt đầu tin Đức Chúa Trời, thì trong dạng tình huống này, ngươi đã có một chút thay đổi. Trong quá khứ, ngươi đã không hiểu bất cứ điều gì, ngươi cũng không biết lẽ thật là gì hay tâm tính bại hoại là gì. Giờ đây ngươi đã biết được một số điều, và cũng có thể có một số cách làm tốt, nhưng đây chỉ là một phần nhỏ trong sự thay đổi của ngươi; nó không phải là một sự biến đổi thật sự trong tâm tính ngươi, bởi ngươi không thực hành ra được những lẽ thật cao thâm và sâu xa hơn liên quan đến bản tính của ngươi. Đối chiếu với quá khứ, quả thực ngươi đã có một số thay đổi, nhưng sự thay đổi này chỉ là một sự thay đổi nhỏ trong nhân tính của ngươi; khi so sánh với sự biến đổi tâm tính, ngươi còn kém xa. Nghĩa là, ngươi thực hành lẽ thật chưa đạt tiêu chuẩn. Đôi khi con người gặp tình trạng như thế này, dù trong họ không tiêu cực và có sức mạnh nhưng vẫn không có đường lối trong việc nhận thức và thực hành lẽ thật, hơn thế còn không hứng thú với việc thực hành lẽ thật. Chuyện này là thế nào? Có những lúc ngươi không tìm ra lối đi, nên đành giữ chặt quy định và cứ ngỡ như vậy là đã thực hành lẽ thật. Rốt cuộc thì ngươi vẫn không giải quyết được khó khăn của mình, trong lòng ngươi cảm thấy mình đã thực hành lẽ thật rồi, cũng đã dâng lòng trung thành rồi, tại sao vẫn xuất hiện vấn đề? Đó là do ngươi làm điều đó bằng lòng tốt và sự nỗ lực chủ quan của bản thân. Ngươi không hề tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời, không làm theo yêu cầu của lẽ thật hoặc chưa giữ vững nguyên tắc, từ đó dẫn đến việc ngươi luôn có cảm giác yêu cầu của Đức Chúa Trời quá xa vời, lòng không vững vàng và trở nên tiêu cực trong vô thức. Ý nguyện và sự nỗ lực chủ quan của cá nhân khác xa so với yêu cầu của lẽ thật, đồng thời cũng khác nhau về mặt tính chất. Cách thực hiện bên ngoài của con người không thể thay thế được cho lẽ thật, họ cũng không hoàn toàn làm theo ý của Đức Chúa Trời, trong khi đó lẽ thật là sự bày tỏ thực sự tâm ý của Đức Chúa Trời. Có những người truyền bá phúc âm cho rằng: “Tôi cũng chịu cực khổ và trả giá không ít, suốt ngày bận bịu truyền bá phúc âm, sao có thể nói tôi không thực hành lẽ thật được?”. Vậy Ta hỏi ngươi: Trong lòng ngươi có bao nhiêu lẽ thật? Trong khi truyền bá phúc âm có bao nhiêu chuyện ngươi làm theo lẽ thật? Ngươi có hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời không? Ngươi đang làm việc hay đang thực hành lẽ thật? Chính bản thân ngươi cũng không trả lời được, bởi vì ngươi chỉ tập trung vào việc làm hài lòng Đức Chúa Trời theo cách làm của mình, lấy lòng Đức Chúa Trời chứ không đánh giá theo tiêu chuẩn “Tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời trong mọi chuyện sao cho phù hợp với lẽ thật để làm hài lòng Đức Chúa Trời”. Nếu ngươi nói rằng ngươi đang thực hành lẽ thật, vậy trong khoảng thời gian đó tâm tính ngươi đã thay đổi bao nhiêu? Tình yêu dành cho Đức Chúa Trời của ngươi đã tăng thêm bao nhiêu? Đánh giá bản thân theo cách này, ngươi sẽ thấy rõ bản thân có đang thực hành lẽ thật hay không.
Trích đoạn 58
Các ngươi biết gì về sự biến đổi tâm tính? Sự biến đổi trong tâm tính và biến đổi trong hành vi có thực chất khác nhau, cũng khác với sự biến đổi trong cách làm – tất cả chúng đều khác nhau về thực chất. Hầu hết mọi người đều đặc biệt chú trọng vào hành vi khi tin Đức Chúa Trời, do đó có những thay đổi nhất định xảy ra trong hành vi của họ. Sau khi bắt đầu tin Đức Chúa Trời, họ ngừng hút thuốc, uống rượu, và không còn tranh đấu với người khác, thà chịu thua thiệt nhưng vẫn chọn cách nhẫn nại. Họ đã có một số thay đổi về hành vi. Một số người cảm thấy sau khi tin Đức Chúa Trời, họ hiểu lẽ thật bằng cách đọc lời Đức Chúa Trời, họ đã trải nghiệm công tác của Đức Thánh Linh, và họ có niềm vui thích thực sự trong lòng khiến họ đặc biệt nhiệt thành, và không có gì mà họ không thể từ bỏ hoặc chịu đựng. Tuy nhiên, sau khi đã tin trong tám năm, mười năm hoặc thậm chí hai mươi hay ba mươi năm, bởi vì không có biến đổi gì trong tâm tính sự sống của họ, nên cuối cùng họ chứng nào tật nấy; tính kiêu căng và tự đại của họ ngày càng rõ rệt, họ bắt đầu tranh quyền đoạt lợi, họ thèm muốn tiền bạc của hội thánh, họ ghen tị với những người đã chiếm lợi từ nhà Đức Chúa Trời. Họ trở thành những ký sinh trùng và sâu mọt trong nhà Đức Chúa Trời, và một số thậm chí còn bị tỏ lộ và bị đào thải như những lãnh đạo giả và những kẻ địch lại Đấng Christ. Những thực tế này chứng minh điều gì? Chỉ có những biến đổi về hành vi không thôi thì không bền vững; nếu không có sự biến đổi trong tâm tính sự sống của mọi người, thì sớm muộn gì họ cũng sẽ hiện nguyên hình. Điều này là vì nguồn gốc của những biến đổi trong hành vi của họ là lòng nhiệt thành, và cùng với một số công tác của Đức Thánh Linh vào thời điểm đó, nên họ cực kỳ dễ trở nên sốt sắng hoặc thể hiện lòng tốt nhất thời. Như những người ngoại đạo nói: “Làm một việc lành thì dễ; suốt đời làm việc lành mới khó”. Tại sao mọi người không có khả năng làm việc lành trong suốt cuộc đời mình? Bởi vì bản tính con người tà ác, ích kỷ và bại hoại. Hành vi của một người chịu sự chi phối của bản tính; bản tính của một người như thế nào thì sẽ bộc lộ ra hành vi như thế ấy, và chỉ những thứ được bộc lộ tự nhiên mới thể hiện bản tính của một người. Những thứ giả tạo không thể tồn tại lâu. Đức Chúa Trời làm việc để cứu rỗi con người không phải là để tô điểm cho con người với hành vi tốt – mục đích công tác của Đức Chúa Trời là để biến đổi tâm tính của con người, để khiến họ thay da đổi thịt thành con người mới. Sự phán xét, hình phạt, những sự thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời đối với con người đều nhằm biến đổi tâm tính của họ để họ có thể đạt được sự thuận phục và trung thành tuyệt đối cho Đức Chúa Trời, cũng như đi đến thờ phụng Ngài một cách bình thường. Đây là tôn chỉ công tác của Đức Chúa Trời. Con người có hành vi tốt thì không đồng nghĩa với việc họ có thể thuận phục Đức Chúa Trời, càng không đồng nghĩa với việc họ tương hợp với Đấng Christ. Những biến đổi trong hành vi đều dựa trên đạo lý và sinh ra từ lòng nhiệt thành; chúng không dựa trên nhận thức thực sự về Đức Chúa Trời hoặc dựa trên lẽ thật, chúng càng không dựa vào sự chỉ dẫn từ Đức Thánh Linh. Mặc dù đôi khi một số điều người ta làm là do Đức Thánh Linh khai sáng hay hướng dẫn, nhưng chúng không phải được bộc lộ ra từ sự sống của họ. Họ vẫn chưa bước vào thực tế lẽ thật, và tâm tính sự sống của họ chưa hề biến đổi. Cho dù hành vi của một người có tốt đến mấy, nó cũng không chứng tỏ họ vâng phục Đức Chúa Trời hoặc họ đã đưa lẽ thật vào thực hành. Những biến đổi về hành vi không đại diện cho sự thay đổi trong tâm tính sự sống và chúng không thể được coi là những bộc lộ từ sự sống của con người. Vì vậy, khi nhìn thấy một số người có thể làm được chút việc cho hội thánh trong thời gian họ nổi lòng nhiệt thành, thậm chí còn có thể vứt bỏ một số thứ, thì các ngươi cũng tuyệt đối đừng khen ngợi, nịnh nọt họ, cũng đừng nói họ là người có thực tế lẽ thật, là người yêu kính Đức Chúa Trời. Nói như vậy là sai lầm, là đánh lừa và làm hại con người. Nhưng các ngươi cũng đừng tạt gáo nước lạnh vào họ, chỉ nên dẫn dắt họ hướng về lẽ thật và hướng về con đường mưu cầu sự sống. Những người hay nổi lòng nhiệt thành thì thường đều có chí cầu tiến, là người có ý chí. Đa số họ đều khao khát lẽ thật, cũng chính là những người mà Đức Chúa Trời tiền định và lựa chọn. Đa số những người có lòng nhiệt huyết và cam tâm dâng mình cho Đức Chúa Trời đều là người thật lòng tin Ngài, còn những người không thật lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời và không cam tâm thực hiện bổn phận thì không phải là người thật lòng tin Ngài. Đa số những người tin Đức Chúa Trời một cách lạnh nhạt và dễ bị tiêu cực thì đều không thể đứng vững, gặp phải chút khó khăn thì sẽ thoái lui, khi gặp phải sự bách hại hay hoạn nạn thì sẽ chạy trốn và không tin nữa. Chỉ có những người có đức tin và lòng nhiệt thành lớn thì mới có thể kiên trì lâu dài, mới có thể tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề, dần dần bước vào con đường đúng đắn trong việc tin Đức Chúa Trời. Còn những người có đức tin nhỏ bé và không nhiệt tình thì sẽ khó có thể kiên trì và đi theo Đức Chúa Trời đến cuối cùng.
Nếu một người có nhiều hành vi tốt, điều đó không có nghĩa là họ có thực tế lẽ thật. Chỉ bằng cách thực hành lẽ thật và hành động phù hợp với các nguyên tắc, ngươi mới có thể có thực tế lẽ thật. Chỉ bằng cách kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, ngươi mới có thể có thực tế lẽ thật. Một số người có lòng nhiệt thành, có thể nói đạo lý, tuân thủ các quy tắc và làm nhiều việc lành, nhưng tất cả những gì có thể nói về họ là họ có một chút nhân tính. Những người có thể nói đạo lý và luôn tuân theo các quy tắc không hẳn là thực hành lẽ thật. Mặc dù những gì họ nói là đúng và nghe có vẻ như không có vấn đề gì, nhưng họ không có gì để nói trong những vấn đề liên quan đến thực chất của lẽ thật. Do đó, cho dù ai đó có thể nói bao nhiêu đạo lý cũng không có nghĩa là họ hiểu lẽ thật, và cho dù hiểu bao nhiêu đạo lý, họ cũng không thể giải quyết được bất kỳ vấn đề nào. Các nhà lý luận tôn giáo đều có thể giải thích Kinh Thánh, nhưng cuối cùng, tất cả đều ngã chết, vì họ không tiếp nhận toàn bộ lẽ thật mà Đức Chúa Trời đã bày tỏ. Những người có sự biến đổi tâm tính thì khác; họ đã hiểu được lẽ thật, biết phân định mọi sự, họ biết cách hành động cho hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời, cách hành động phù hợp với nguyên tắc của lẽ thật, và cách hành động để thỏa lòng Đức Chúa Trời, và họ hiểu tính chất của sự bại hoại mà họ bộc lộ. Khi những ý kiến và quan niệm của họ được bộc lộ ra, họ có thể phân định và chống lại xác thịt. Đây là cách một sự biến đổi trong tâm tính được thể hiện. Biểu hiện chính ở những người đã trải qua một sự biến đổi trong tâm tính là họ đã đi đến hiểu biết rõ về lẽ thật, và khi thực hiện công việc, họ đưa lẽ thật vào thực hành với độ chính xác tương đối và họ ít khi bộc lộ sự bại hoại. Thông thường, những người có sự biến đổi tâm tính có vẻ đặc biệt lý trí và có sự phân định, và bởi sự hiểu biết của họ về lẽ thật, họ ít khi bộc lộ sự tự nên công chính hay kiêu ngạo. Họ có thể nhìn thấu và phân định phần lớn sự bại hoại đã bộc lộ nơi họ, nên họ không sinh ra kiêu ngạo. Họ có thể có sự nắm bắt có chừng mực về chuyện con người nên đứng ở vị trí nào, nên làm những việc gì thì được xem là có lý trí, về cách giữ bổn phận, về những gì nên nói và không nên nói, và về những gì nên nói và những gì nên làm với những loại người khác nhau. Do đó, những người với tâm tính đã biến đổi tương đối có lý trí và chỉ những người như thế mới thật sự sống thể hiện ra hình tượng giống con người. Bởi vì họ hiểu lẽ thật, họ luôn có thể nói và nhìn sự việc theo lẽ thật, và họ có nguyên tắc trong mọi việc mình làm; họ không chịu ảnh hưởng của bất kỳ con người, sự việc hay sự vật nào, và hết thảy họ đều có những quan điểm riêng và có thể giữ vững nguyên tắc của lẽ thật. Tâm tính của họ tương đối ổn định, họ không nắng mưa thất thường, và dù trong hoàn cảnh nào, họ cũng hiểu cách thực hiện tốt bổn phận và cách cư xử để thỏa lòng Đức Chúa Trời. Những người có sự biến đổi tâm tính không tập trung vào những gì cần làm để khiến bản thân trông hay ho bên ngoài; họ đã có được sự rõ ràng bên trong về những gì cần làm để thỏa lòng Đức Chúa Trời. Vì lẽ ấy, từ bên ngoài, họ có thể không có vẻ nhiệt tình lắm hay không có vẻ đã làm bao nhiêu chuyện lớn, nhưng mọi việc họ làm đều đầy ý nghĩa, có giá trị, và mang lại những kết quả thực tế. Những ai có sự biến đổi tâm tính chắc chắn sở hữu rất nhiều thực tế lẽ thật, và điều này có thể được xác nhận bởi quan điểm của họ về mọi việc và những hành động có nguyên tắc của họ. Những người chưa đạt được lẽ thật tuyệt đối chưa đạt được bất kỳ sự thay đổi nào trong tâm tính sự sống. Chính xác thì làm sao để đạt được sự biến đổi tâm tính? Loài người đã bị Sa-tan làm cho bại hoại sâu sắc, hết thảy họ đều chống đối Đức Chúa Trời, và hết thảy họ đều có bản tính chống đối Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời cứu rỗi con người bằng cách biến những người có bản tính chống đối Đức Chúa Trời và những người có thể chống đối Đức Chúa Trời thành những người có thể thuận phục và kính sợ Ngài. Đây là một người có sự biến đổi tâm tính. Cho dù một người bại hoại đến đâu hay họ có bao nhiêu tâm tính bại hoại, miễn là họ có thể tiếp nhận lẽ thật, tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, và tiếp nhận những sự thử luyện, tinh luyện khác nhau, thì họ sẽ có nhận thức thực sự về Đức Chúa Trời, đồng thời họ sẽ có thể nhìn thấy rõ ràng thực chất bản tính của chính mình. Khi họ thực sự biết mình, họ sẽ có thể ghét bản thân mình và Sa-tan, họ sẽ sẵn sàng chống lại Sa-tan và hoàn toàn thuận phục Đức Chúa Trời. Một khi một người có quyết tâm này, họ có thể mưu cầu lẽ thật. Nếu con người có nhận thức thực sự về Đức Chúa Trời, nếu tâm tính Sa-tan của họ được làm tinh sạch, và lời Đức Chúa Trời bén rễ bên trong họ, đã trở thành sự sống và nền tảng sinh tồn của họ, nếu họ sống theo lời Đức Chúa Trời, đã hoàn toàn biến đổi và trở thành con người mới – thì đây được coi là sự biến đổi trong tâm tính sự sống của họ. Một sự biến đổi tâm tính không có nghĩa là có nhân tính chín chắn và dày dặn, cũng không phải có nghĩa là tâm tính bên ngoài của con người hiền lành hơn trước đó, rằng họ từng kiêu ngạo nhưng giờ lại có thể trao đổi một cách có lý trí, hoặc rằng họ từng không nghe ai cả nhưng giờ lại có thể lắng nghe người khác; những sự biến đổi bên ngoài như thế không thể nói là sự biến đổi tâm tính. Dĩ nhiên, sự biến đổi tâm tính có bao gồm những biểu hiện như vậy, nhưng thành tố quan trọng nhất là bên trong, sự sống của họ đã biến đổi. Điều này hoàn toàn là bởi lời Đức Chúa Trời và lẽ thật đã bén rễ bên trong họ, ngự trị bên trong họ và đã trở thành sự sống của họ. Quan điểm của họ về mọi thứ cũng đã thay đổi. Họ có thể nhìn thấu những gì đang diễn ra trên thế gian và với nhân loại, cách Sa-tan làm bại hoại loài người, cách con rồng lớn sắc đỏ chống đối Đức Chúa Trời, và thực chất của con rồng lớn sắc đỏ. Họ có thể căm ghét con rồng lớn sắc đỏ và Sa-tan trong lòng, và họ hoàn toàn có thể hướng về Đức Chúa Trời và đi theo Ngài. Điều này có nghĩa là tâm tính sự sống của họ đã biến đổi, và họ đã được Đức Chúa Trời thu phục. Những biến đổi trong tâm tính sự sống là những biến đổi cơ bản, trong khi những biến đổi trong hành vi là bề ngoài. Chỉ những người đã đạt được những thay đổi trong tâm tính sự sống mới là người đã đạt được lẽ thật, và chỉ họ mới là người đã được Đức Chúa Trời thu phục.
Hết thảy những kẻ bại hoại đều sống cho chính mình. Người không vì mình, trời tru đất diệt – đây là khái quát về bản tính của con người. Mọi người tin vào Đức Chúa Trời vì những lợi ích của riêng họ; khi họ vứt bỏ mọi sự và dâng mình cho Đức Chúa Trời, đó là để được ban phước lành; và khi họ trung thành với Ngài, đó là để được ban thưởng. Tóm lại, tất cả đều được thực hiện với mục đích được ban phước lành, được ban thưởng và được vào thiên quốc. Trong xã hội, con người làm việc vì lợi ích riêng của mình, còn trong nhà Đức Chúa Trời, họ thực hiện bổn phận để được ban phước lành. Con người từ bỏ mọi thứ và có thể chịu đựng nhiều đau khổ là để được ban phước lành, đây là bằng chứng tốt nhất về việc con người có bản tính Sa-tan. Những người có sự biến đổi tâm tính thì khác, họ cảm thấy rằng: con người nên sống dựa vào lẽ thật thì mới có ý nghĩa, nên thuận phục Đức Chúa Trời, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, đây chính là gốc rễ của việc làm người, việc chấp nhận sự ủy nhiệm của Đức Chúa Trời là một trách nhiệm thiên kinh địa nghĩa, chỉ những người thực hiện bổn phận của loài thọ tạo thì mới phù hợp để được gọi là con người, và nếu họ không thể yêu kính Đức Chúa Trời và báo đáp tình yêu của Ngài thì họ không thích hợp để được gọi là con người; con người sống cho chính mình là rỗng tuếch và không có ý nghĩa, con người nên sống để làm thỏa lòng Đức Chúa Trời, để làm tốt bổn phận của mình, và để sống một cuộc đời có ý nghĩa, để ngay cả đến lúc chết, họ sẽ cảm thấy mãn nguyện, không chút hối tiếc, và cảm thấy họ đã không sống vô ích. Khi so sánh hai tình huống khác nhau này, tình huống sau là tình huống của một người có tâm tính đã biến đổi. Nếu tâm tính sự sống của con người đã biến đổi thì chắc chắn nhân sinh quan của họ cũng đã biến đổi. Khi đã có những giá trị quan khác, họ sẽ không bao giờ sống vì mình nữa, và sẽ không bao giờ tin Đức Chúa Trời vì mục đích được ban phước nữa. Một người như thế sẽ có thể nói: “Biết Đức Chúa Trời thật là một chuyện có giá trị, cho dù sau khi biết Đức Chúa Trời mà tôi có chết thì cũng thật tốt biết bao! Nếu tôi có thể biết Đức Chúa Trời và thuận phục Ngài thì tôi sẽ có thể sống một cuộc đời đầy ý nghĩa, và rồi tôi sẽ không sống vô ích, chết cũng không hối tiếc, không có gì để than oán”. Chẳng phải là nhân sinh quan của họ đã thay đổi rồi sao? Do đó, nguyên nhân chính dẫn đến sự biến đổi trong tâm tính sự sống của một người là sở hữu thực tế lẽ thật, đạt được lẽ thật, có nhận thức về Đức Chúa Trời; nhân sinh quan của họ do đó được thay đổi, và giá trị quan của người ấy khác với trước kia. Sự biến đổi bắt đầu từ bên trong và từ sự sống của người ấy; chắc chắn đó không chỉ là một sự biến đổi bên ngoài. Một số tân tín hữu, sau khi đã bắt đầu tin Đức Chúa Trời thì bỏ lại thế tục phía sau. Sau này, khi họ gặp những người ngoại đạo, các tín đồ này không có nhiều điều để nói, và họ hiếm khi liên lạc với những người bà con và bạn bè ngoại đạo của mình. Những người ngoại đạo nói: “Người này đã thay đổi”. Sau đó, tín đồ ấy nghĩ: “Tâm tính sự sống của tôi thật sự đã biến đổi; những người ngoại đạo này đều nói tôi đã thay đổi”. Trên thực tế, tâm tính của một người như thế đã thật sự biến đổi chưa? Chưa, điều mà anh ta thể hiện ra đơn thuần là những biến đổi bên ngoài. Không có sự biến đổi thật sự nào trong sự sống của anh ta, và bản tính Sa-tan của anh ta vẫn bám rễ trong anh ta, hoàn toàn không suy suyển. Đôi khi, người ta tràn đầy sự hăng hái nhờ công tác của Đức Thánh Linh; một số thay đổi bên ngoài có thể xuất hiện, và họ có thể làm một vài việc tốt. Tuy nhiên, điều này không giống với việc đạt được sự biến đổi tâm tính. Nếu ngươi không sở hữu lẽ thật và quan điểm của ngươi về mọi thứ chưa thay đổi, thậm chí đến mức không khác gì quan điểm của những người ngoại đạo, nếu những giá trị và cách nhìn của ngươi về cuộc sống cũng chưa thay đổi, và nếu ngươi thậm chí còn không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời – điều chí ít ngươi nên có – vậy thì ngươi còn lâu mới đạt được sự biến đổi tâm tính. Muốn đạt được sự biến đổi tâm tính, chủ yếu nhất vẫn là phải mưu cầu việc nhận biết Đức Chúa Trời, có nhận thức chân thực đối với Ngài. Giống với Phi-e-rơ, khi Đức Chúa Trời muốn giao ông cho Sa-tan, ông nói: “Cho dù Ngài giao con cho Sa-tan thì Ngài vẫn là Đức Chúa Trời. Ngài toàn năng, mọi thứ đều ở trong tay Ngài. Làm sao con có thể không ca ngợi việc làm của Ngài chứ? Nhưng nếu có thể chết sau khi biết Ngài, vậy thì chẳng phải là tốt hơn sao?”. Ông cảm thấy rằng con người sống thì chuyện nhận thức Đức Chúa Trời là trên hết. Nếu đã nhận thức được Đức Chúa Trời rồi thì sau này có chết như thế nào cũng được, Đức Chúa Trời xử lý ông thế nào cũng được. Ông cảm thấy việc nhận thức Đức Chúa Trời là mấu chốt nhất. Nếu không đạt được lẽ thật thì ông sẽ không bao giờ thỏa mãn. Nhưng ông cũng không oán trách Đức Chúa Trời, chỉ hận bản thân mình đã không mưu cầu lẽ thật. Với tinh thần này của Phi-e-rơ, ông có thể mưu cầu việc nhận biết Đức Chúa Trời một cách khát khao đến vậy, có thể thấy rằng nhân sinh quan và giá trị quan của ông đã thay đổi. Ông có thể khát khao nhận thức Đức Chúa Trời đến vậy chứng tỏ ông đã thật sự có nhận thức về Đức Chúa Trời. Vậy nên, từ câu nói này, chúng ta có thể nhìn ra được rằng tâm tính của ông đã biến đổi, ông là người đã có sự biến đổi tâm tính. Khi trải nghiệm đến cuối cùng, Đức Chúa Trời phán rằng ông là người có nhận thức nhất về Ngài, rằng ông mới là người thật sự yêu kính Ngài. Nếu không đạt được lẽ thật thì tâm tính sự sống tuyệt đối không thể có sự biến đổi chân thực. Nếu các ngươi thật sự có thể mưu cầu lẽ thật và đạt đến sự bước vào thực tế lẽ thật, thì mới có thể đạt được sự biến đổi trong tâm tính sự sống.