46. Làm chứng cho Đức Chúa Trời là thực hiện bổn phận thực sự

Bởi Judy, Hàn Quốc

Gần đây, tôi đã xem một số video chứng ngôn trải nghiệm của những người mới, và đã rất xúc động. Mặc dù mới theo đạo được hai, ba năm thôi, nhưng họ đã có thể chia sẻ những chứng ngôn trải nghiệm của mình. Tôi cảm thấy khá xấu hổ và bắt đầu nghiệm lại xem tại sao mình đã theo đạo nhiều năm mà vẫn chưa thể làm chứng cho Đức Chúa Trời. Một ngày nọ, tôi tình cờ đọc được một đoạn lời của Đức Chúa Trời: “Những điều các ngươi đã trải nghiệm và đã thấy vượt quá những điều của các thánh và tiên tri từ mọi thời đại, nhưng các ngươi có thể cung cấp lời chứng to lớn hơn những lời của các thánh và tiên tri này của những thời đại đã qua không? Điều Ta đang ban cho các ngươi ngày nay vượt quá Môi-se và lấn át Đa-vít, do vậy theo đó, Ta yêu cầu rằng lời chứng của các ngươi phải vượt hơn Môi-se và rằng lời của các ngươi phải to tát hơn Đa-vít. Ta cho các ngươi gấp một trăm lần – theo đó Ta yêu cầu các ngươi trả cho Ta cũng như vậy. Các ngươi phải biết rằng Ta là Đấng ban sự sống cho nhân loại, và chính các ngươi là kẻ nhận lãnh sự sống từ Ta và phải làm chứng cho Ta. Đây là bổn phận mà Ta gửi xuống cho các ngươi và là điều các ngươi phải làm cho Ta. Ta đã ban mọi sự vinh quang của Ta trên các ngươi, Ta đã ban cho các ngươi sự sống mà những dân sự được chọn, dân Y-sơ-ra-ên, chưa từng được nhận lãnh. Theo lẽ, các ngươi phải làm chứng cho Ta, dâng hiến tuổi trẻ và từ bỏ sự sống của mình cho Ta. Bất kỳ ai được Ta ban sự vinh quang của Ta trên họ đều phải làm chứng cho Ta và dâng sự sống của họ cho Ta. Điều này từ lâu đã được Ta định trước. Các ngươi may mắn khi được Ta ban sự vinh quang của Ta cho các ngươi, và bổn phận của các ngươi là chứng thực cho vinh quang của Ta. Nếu các ngươi tin vào Ta chỉ để có được những phúc lành, thì công tác của Ta sẽ mang ít ý nghĩa, và các ngươi cũng không phải đang làm bổn phận của mình. … Điều các ngươi đã lãnh nhận không đơn thuần là lẽ thật của Ta, con đường của Ta, và sự sống của Ta, mà là một khải tượng và sự mặc khải to lớn hơn của Giăng. Các ngươi hiểu nhiều mầu nhiệm của Ta hơn, và cũng nhìn thấy sắc diện thật của Ta; các ngươi đã chấp nhận nhiều sự phán xét của Ta hơn và biết nhiều về tâm tính công chính của Ta hơn. Và như vậy, mặc dù các ngươi được sinh ra vào thời kỳ sau rốt, sự hiểu biết của các ngươi là sự hiểu biết của trước kia và quá khứ, và các ngươi cũng đã trải nghiệm những việc của hôm nay, và điều này được Ta đích thân thực hiện toàn bộ. Điều ta yêu cầu các ngươi không quá đáng, bởi vì Ta đã cho các ngươi quá nhiều, và các ngươi đã thấy nhiều ở Ta. Do vậy, Ta yêu cầu các ngươi làm chứng cho Ta về các thánh của những thời đại quá khứ, và đây là mong ước duy nhất của tâm Ta(Ngươi biết gì về đức tin? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi đã rất phấn khích, nhưng cũng cảm thấy khá tội lỗi. Tôi phấn khích vì mình đủ may mắn để được trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và hưởng sự chu cấp của lời Ngài, nhưng thấy tội lỗi vì mình đã tin vào Đức Chúa Trời nhiều năm rồi và đã hưởng quá nhiều ân điển của Ngài, nhưng lại không có lời chứng nào về Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ về việc trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời đã ban không cho chúng ta nhiều lẽ thật, vạch trần và phán xét sự bại hoại của chúng ta, nhắc nhở, khuyên nhủ, khích lệ và ủi an chúng ta, nhưng vì chúng ta không mưu cầu lẽ thật, khả năng tiếp thu của chúng ta kém cỏi, nên Đức Chúa Trời đã thông công chi tiết với chúng ta về mọi khía cạnh lẽ thật, cho chúng ta các ví dụ và phép loại suy, giải thích tường tận để chắc rằng chúng ta hiểu được. Đức Chúa Trời đã nỗ lực rất nhiều và trả một cái giá như thế cho chúng ta, và Ngài làm vậy vì muốn chúng ta hiểu được lẽ thật và biết Ngài, loại bỏ tâm tính bại hoại và thực sự ăn năn cũng như thay đổi. Đây là lời chứng mà Đức Chúa Trời muốn. Cũng đã 30 năm kể từ khi Ngài bắt đầu công tác của mình. Ngài đã làm rất nhiều việc và bày tỏ rất nhiều lẽ thật, và Ngài muốn thấy lời chứng của chúng ta. Kể cả nó có không sâu sắc thì Ngài vẫn chấp nhận miễn đó là thật. Đức Chúa Trời hy vọng chúng ta có thể chia sẻ sự thu hoạch và hiểu biết chúng ta trải nghiệm được trong công tác của Ngài, và viết những bài chứng ngôn vì đây là thành quả từ công tác của Ngài và là biểu hiện cho nỗ lực của Ngài. Rồi tôi ngẫm lại bản thân. Dù Đức Chúa Trời đã ban cho tôi rất nhiều, nhưng tôi lại không dám nghĩ đến những khía cạnh lẽ thật nào mà mình đã hiểu và hiện thực lẽ thật nào mình đã bước vào, vì tôi chỉ hiểu phần lớn lời Đức Chúa Trời về mặt giáo lý, chứ chưa suy ngẫm nghiêm túc, thực hành hay trải nghiệm nó. Vậy nên, khi nhắc đến việc làm chứng cho Đức Chúa Trời và viết các bài chứng ngôn, tôi cảm thấy sợ hãi, thiếu tự tin, và không chịu nỗ lực nhiều trong vấn đề này. Nghĩ đến việc mình đã theo đạo nhiều năm nhưng vẫn chưa thể viết về trải nghiệm của mình, và không có chứng ngôn, khiến tôi rất đau khổ.

Một lần nọ, một người chị em đã hỏi liệu tôi có muốn tập viết các chứng ngôn trải nghiệm không. Lúc đó tôi đã đồng ý, nhưng tôi chỉ viết được một chút rồi lại gạt nó sang một bên. Mặc dù tôi đã không đảm trách nhiều việc, nhưng lại luôn cảm thấy bận và không có thời gian để viết. Và vì thế, ngày qua ngày, tôi gác lại chuyện viết bài. Sau đó, tôi đã lên một lịch trình viết lách, nhưng khi đến lúc, tôi vẫn còn bận rộn với những việc khác trong bổn phận, nên không thể tĩnh tâm mà viết được. Tôi đã viện cớ và tìm các lý do khác nhau. Đôi khi tôi nói mình học thức kém, hay tố chất không tốt, nên không thể viết tốt được. Lúc thì tôi lại bảo mình bận và không có thời gian, nên sẽ làm sau. Thỉnh thoảng, tôi thậm chí còn cảm thấy việc viết bài cũng chẳng quan trọng lắm, và điều quan trọng nhất là xử lý công việc hằng ngày, vì nếu trì hoãn, tôi sẽ bị tỉa sửa, hoặc nếu nghiêm trọng thì sẽ bị cách chức. Chẳng ai liên tục cằn nhằn tôi vì không viết chứng ngôn kinh nghiệm cả. Khi nghĩ như vậy, tôi thậm chí còn coi nhẹ việc viết bài hơn, và không coi việc này là một phần quan trọng trong bổn phận của tôi. Cứ như vậy, tôi đã bị mắc kẹt trong tình trạng cứng đầu và dấy loạn này, và rất thụ động trong việc viết chứng ngôn kinh nghiệm.

Một ngày nọ, tôi đã đọc được đoạn lời này của Đức Chúa Trời và quan điểm của tôi đã có chút thay đổi. Lời Đức Chúa Trời phán: “Bây giờ ngươi có thật sự biết tại sao mình tin ở Ta không? Ngươi có thật sự biết mục đích và ý nghĩa công tác của Ta không? Ngươi có thật sự biết bổn phận của mình không? Ngươi có thật sự biết lời chứng của Ta không? Nếu ngươi chỉ tin vào Ta, nhưng không có dấu hiệu nào của vinh quang hay lời chứng của Ta trong ngươi, thì Ta đã đào thải ngươi từ lâu. Đối với những ai biết tất cả, họ thậm chí còn gai mắt hơn với Ta, và trong nhà Ta, họ không gì khác hơn là những chướng ngại trên con đường của Ta, họ là cỏ lùng phải được sàng lọc hoàn toàn ra khỏi công tác của Ta, họ vô dụng, họ vô giá trị, và Ta đã khinh ghét họ từ lâu. Cơn thạnh nộ của Ta thường giáng trên hết thảy những kẻ không có lời chứng, và ngọn roi của Ta không bao giờ chệch khỏi chúng. Ta đã chuyển chúng sang tay của kẻ ác từ lâu; họ không có những phúc lành của Ta. Khi ngày ấy đến, hình phạt của họ sẽ trầm trọng hơn cả hình phạt những người đàn bà dại dột. Hôm nay, Ta chỉ làm công việc mà phận sự Ta phải làm; Ta sẽ gom lúa mì lại thành bó, cùng với những thứ cỏ lùng đó. Đây là công tác của Ta hôm nay. Những thứ cỏ lùng đó sẽ bị sàng lọc ra hết vào thời điểm sàng lọc của Ta, khi đó những hạt lúa mì sẽ được tập hợp vào kho, và những thứ cỏ lùng đã được sàng lọc sẽ bị cho vào lửa để đốt thành tro bụi. Công tác của Ta bây giờ đơn thuần là gom hết thảy mọi người thành bó; nghĩa là, chinh phục họ hoàn toàn. Sau đó Ta sẽ bắt đầu sàng lọc để tiết lộ sự kết thúc của hết thảy con người. Và như vậy ngươi phải biết mình nên làm Ta hài lòng lúc này như thế nào, và ngươi phải tiến đúng hướng trong đức tin của mình với Ta như thế nào. Điều Ta mong muốn là sự trung thành và thuận phục của ngươi lúc này, tình yêu và lời chứng của ngươi lúc này. Ngay cả khi vào khoảnh khắc này ngươi không biết lời chứng hay tình yêu là gì, ngươi vẫn nên mang cho Ta hết cả những gì ngươi có, và giao cho Ta những báu vật duy nhất mà ngươi có: sự trung thành và thuận phục của ngươi. Ngươi nên biết rằng lời chứng cho việc Ta đánh bại Sa-tan nằm trong lòng trung thành và sự thuận phục của con người, và lời chứng cho sự chinh phục con người hoàn toàn của Ta cũng vậy. Bổn phận của đức tin của ngươi nơi Ta là làm chứng cho Ta, trung thành với Ta chứ không ai khác, và thuận phục cho đến cùng(Ngươi biết gì về đức tin? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đoạn lời này đã tuyên bố rõ rằng những người tin vào Đức Chúa Trời nên làm chứng cho Đức Chúa Trời và đó là bổn phận của một người. Khi những người tin vào Đức Chúa Trời không thể làm chứng, họ trở thành đối tượng Đức Chúa Trời căm ghét. Tôi cảm nhận được cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời khi đọc những dòng này trong lời Đức Chúa Trời: “Nếu ngươi chỉ tin vào Ta, nhưng không có dấu hiệu nào của vinh quang hay lời chứng của Ta trong ngươi, thì Ta đã đào thải ngươi từ lâu. Đối với những ai biết tất cả, họ thậm chí còn gai mắt hơn với Ta, và trong nhà Ta, họ không gì khác hơn là những chướng ngại trên con đường của Ta, họ là cỏ lùng phải được sàng lọc hoàn toàn ra khỏi công tác của Ta”, và “Cơn thạnh nộ của Ta thường giáng trên hết thảy những kẻ không có lời chứng, và ngọn roi của Ta không bao giờ chệch khỏi chúng. Ta đã chuyển chúng sang tay của kẻ ác từ lâu; họ không có những phúc lành của Ta. Khi ngày ấy đến, hình phạt của họ sẽ trầm trọng hơn cả hình phạt những người đàn bà dại dột”. Sau rất nhiều năm tin vào Đức Chúa Trời, sau khi đọc rất nhiều lời Ngài, nghe vô số bài giảng và thông công, trải nghiệm việc tỉa sửa, những trở ngại và thất bại, trải nghiệm sự khai sáng, dẫn dắt và sửa dạy của Đức Thánh Linh, tôi vẫn không thể làm chứng cho Đức Chúa Trời. Tôi đã có chút kinh nghiệm và hiểu biết, nhưng lại không muốn viết lách. Tôi dành cả ngày để xử lý những việc bên ngoài, nhưng lại không chịu tập trung tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tâm tính bại hoại của mình, và không tìm kiếm để tiến bộ trong lẽ thật. Từ trải nghiệm thông thường, tôi đã đạt được chút hiểu biết và sự sáng, nhưng tôi đã không suy ngẫm và tìm hiểu rõ ràng để có thể đạt được hiểu biết thực sự, và qua thời gian, tôi đã đánh mất những gì mình đạt được, và sự khai sáng của Đức Thánh Linh không còn được dùng tới. Tôi ngẫm lại hồi trước khi còn thực hành chăm tưới cho những người mới nhập đạo. Tôi thậm chí còn không thể thông công tốt về lẽ thật của việc làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời. Những điều tôi chia sẻ khá hời hợt và tôi không thể nắm bắt được những điểm chính. Sau đó, khi rao giảng Phúc Âm, tôi cũng không thể nắm bắt được những điểm mấu chốt để phân tích các quan niệm tôn giáo hay những lời ngụy biện của những kẻ địch lại Đấng Christ một cách rõ ràng hoặc thuyết phục. Trong mọi khía cạnh lẽ thật, tôi chỉ hiểu được một nửa, và không thể thông công rõ được. Trong lúc thông công về các vấn đề về lối vào sự sống tại các buổi nhóm họp, hầu hết thời gian tôi chỉ thuyết phục mọi người bằng những lời sáo rỗng hời hợt, hoặc đưa ra một số lý thuyết suông và những hiểu biết nông cạn. Tôi không thể giải quyết tận gốc các vấn đề và lời chứng của tôi về Đức Chúa Trời cũng không hiệu quả. Hiểu biết của tôi về bất cứ khía cạnh nào của lẽ thật cơ bản chỉ là những đạo lý, không có thực tế lẽ thật. Tôi nhận ra rằng mình đã tin vào Đức Chúa Trời nhiều năm nhưng lại không thể làm chứng cho Ngài. Tôi chỉ nỗ lực một chút và làm chút công việc, chứ không thực sự chấp nhận sự phán xét và và hình phạt của lời Đức Chúa Trời, cũng như không có bất kỳ lời chứng nào về việc hiểu lẽ thật và thay đổi tâm tính sống của mình. Tôi nghĩ đến việc Đức Chúa Trời đã nói những người như thế là “gai trong mắt Ngài”, “chướng ngại vật”, và “cỏ lùng hoàn toàn bị sàng sảy ra ngoài”. Cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời đối với những người như thế không bao giờ biến mất. Nghĩ vậy, tôi cảm thấy rất khổ sở. Tôi đã tin vào Đức Chúa Trời nhiều năm rồi mà vẫn chẳng học được gì. Tôi cảm thấy mình vô dụng, và hoàn toàn là một nỗi ô nhục. Đức Chúa Trời cực kỳ ghét những người như thế, không dung thứ cho họ và rất tức giận với họ. Dù những người như thế thực hiện bổn phận của mình, nhưng vì họ không mưu cầu lẽ thật, nên họ không thể nhận lãnh công tác của Đức Thánh Linh, và cuối cùng, họ không có chứng ngôn về sự thay đổi tâm tính và không thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Thấy thái độ của Đức Chúa Trời với những người như thế, các quan niệm của tôi đã hoàn toàn bị bác bỏ. Tôi từng nghĩ rằng nếu mình làm công việc được hội thánh giao phó, không làm điều ác, không phạm sai lầm lớn trong bổn phận, không vi phạm nghiêm trọng, và nếu không bị cách chức, thì như thể là tôi đã ở trong két sắt, và có hy vọng được cứu rỗi. Giờ tôi đã nhận ra điều này không phù hợp với những yêu cầu của Đức Chúa Trời. Đó chỉ là những quan niệm và mơ tưởng riêng của tôi. Tin vào Đức Chúa Trời không chỉ là làm việc chăm chỉ trong bổn phận, tuân thủ một số quy tắc, và không phạm vào việc ác rõ ràng nào, mà là nếu tin vào Đức Chúa Trời nhiều năm nhưng vẫn không có lời chứng nào, thì cuối cùng ta cũng sẽ bị đào thải. Tôi nhớ đến những lời này của Đức Chúa Trời: “Nếu đến một ngày ngươi không thể chứng thực tất cả những gì ngươi đã nhìn thấy hôm nay, thì ngươi đã mất đi chức năng của loài thọ tạo, và sẽ chẳng còn ý nghĩa gì cho sự tồn tại của ngươi nữa. Ngươi sẽ không xứng đáng làm người. Thậm chí có thể nói rằng ngươi sẽ không phải là người! Ta đã làm vô lượng công tác trên các ngươi, nhưng bởi ngươi hiện tại chẳng học hỏi được gì, chẳng nhận thức được gì, và chẳng hiệu quả trong công việc của mình, khi đến thời điểm Ta mở rộng công tác của Ta, thì ngươi chỉ trơ mắt nhìn, cứng lưỡi và hoàn toàn vô dụng. Chẳng phải điều đó sẽ khiến ngươi trở thành một tội nhân lịch sử sao? Khi thời điểm ấy đến, ngươi sẽ không cảm thấy hối tiếc sâu sắc nhất sao?(Ngươi hiểu gì về Đức Chúa Trời? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời khiến tôi cảm thấy xấu hổ, và đồng thời cũng hơi lo lắng. Tôi cảm thấy mình không thể tiếp tục như vậy được và tôi bắt đầu tập viết bài chứng thực cho Đức Chúa Trời.

Khi thực sự bắt tay vào việc viết lách, vẫn còn một số khó khăn và trở ngại. Lúc đầu, tôi không thể sắp đặt theo trình tự trải nghiệm của mình, và không biết phải bắt đầu từ đâu, hơn nữa, lại có việc khác cấp bách hơn, nên tôi đã làm việc khác trước. Sau đó, tôi vẫn viện lý do cho bản thân mình. Tôi nghĩ những người khác có thể viết hết một bài chứng ngôn chỉ trong nửa ngày, còn tôi thì không thể viết được nếu không có môi trường yên tĩnh và đủ thời gian, và dường như tố chất tôi không đủ để viết bài thế nên tôi lại không viết nữa. Sau đó, tôi bắt đầu tự vấn về việc này. Tại sao tôi lại quá thụ động trong việc viết bài chứng ngôn như thế chứ? Tại sao tôi đồng ý viết, nhưng lại chẳng làm gì cả? Một ngày nọ, tôi đã đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời và có được một số hiểu biết về bản thân. Đức Chúa Trời phán: “Các ngươi nhận biết và phân định tâm tính Sa-tan bằng cách nào? Dựa trên những việc mà Sa-tan thích làm, cũng như những phương thức và thủ đoạn hành sự của nó, người ta có thể thấy nó không hề yêu thích những điều tích cực, nó thích sự tà ác, luôn nghĩ mình giỏi giang và có thể kiểm soát mọi sự. Đây chính là bản tính kiêu ngạo của Sa-tan. Chính vì thế mà Sa-tan trắng trợn phủ nhận, chống đối, và đối nghịch với Đức Chúa Trời. Sa-tan là đại diện và nguồn cơn của mọi điều tiêu cực và mọi điều xấu xa. Nếu có thể thấy rõ chuyện này, thì ngươi đã có sự phân định về các tâm tính của Sa-tan. Để mọi người tiếp nhận lẽ thật và thực hành lẽ thật không phải là một vấn đề đơn giản, bởi vì tất cả họ đều có những tâm tính Sa-tan, và tất cả họ đều phải chịu sự kìm kẹp và trói buộc của tâm tính Sa-tan. Ví dụ, một số người nhận ra rằng thật tốt khi làm một người trung thực, và họ cảm thấy ghen tị và đố kỵ khi thấy người khác có thể trung thực, nói thật, nói một cách đơn sơ và cởi mở, nhưng nếu ngươi yêu cầu bản thân họ làm người trung thực thì họ thấy khó. Họ sống chết cũng không thể nói những lời thật thà và làm những điều trung thực. Chẳng phải đây là một loại tâm tính Sa-tan sao? Họ nói những điều nghe có vẻ hay ho, nhưng lại không thực hành chúng. Đây là chán ghét lẽ thật. Những người chán ghét lẽ thật rất khó tiếp nhận lẽ thật và không có cách nào để bước vào thực tế lẽ thật. Trạng thái rõ ràng nhất đối với những người chán ghét lẽ thật là họ không quan tâm đến lẽ thật và những điều tích cực, thậm chí còn thấy phản cảm và ghê tởm chúng, và họ đặc biệt thích chạy theo các trào lưu. Lòng họ không tiếp nhận những điều Đức Chúa Trời yêu thích và những điều Đức Chúa Trời yêu cầu con người phải làm. Thay vào đó, họ không thèm đếm xỉa đến và rất thờ ơ, thậm chí một số người còn khinh miệt các tiêu chuẩn và nguyên tắc mà Đức Chúa Trời yêu cầu đối với con người. Họ thấy phản cảm với những điều tích cực, và nội tâm họ luôn có cảm giác chống đối, đối đầu và hoàn toàn khinh thường những điều đó. Đây là biểu hiện chính của việc chán ghét lẽ thật. Trong đời sống hội thánh, việc đọc lời Đức Chúa Trời, cầu nguyện, thông công lẽ thật, thực hiện bổn phận, và giải quyết vấn đề bằng lẽ thật đều là những điều tích cực. Chúng làm Đức Chúa Trời hài lòng, nhưng một số người thấy phản cảm với những điều tích cực này, không quan tâm đến chúng và thờ ơ với chúng. Điều đáng ghét nhất là họ có thái độ khinh thường đối với những người tích cực, chẳng hạn như những người trung thực, những người mưu cầu lẽ thật, những người trung thành thực hiện bổn phận, và những người bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời. Họ luôn cố gắng đả kích và loại trừ những người này. Nếu họ phát hiện ra những người đó có thiếu sót hoặc bộc lộ sự bại hoại thì họ chộp lấy những chuyện đó, làm ầm ĩ lên và cứ mãi hạ thấp người đó. Đây là loại tâm tính gì vậy? Tại sao họ lại ghét những người tích cực đến vậy? Tại sao họ thích và làm vừa lòng những kẻ ác, những kẻ chẳng tin và những kẻ địch lại Đấng Christ đến thế, và tại sao họ thường thông đồng với những người như vậy? Khi nói đến những điều tiêu cực và tà ác, họ cảm thấy thích thú và phấn khởi, nhưng khi nói đến những điều tích cực, sự chống cự bắt đầu xuất hiện trong thái độ của họ; cụ thể là khi họ nghe mọi người thông công về lẽ thật hoặc giải quyết vấn đề bằng cách dùng lẽ thật thì họ cảm thấy chán ghét và bất mãn, và họ trút sự bất bình của mình. Chẳng phải tâm tính này là chán ghét lẽ thật sao? Chẳng phải đây là bộc lộ sự bại hoại sao? Có nhiều người tin Đức Chúa Trời, thích làm việc cho Đức Chúa Trời và sốt sắng chạy đôn đáo khắp nơi vì Ngài. Khi phát huy những ân tứ và thế mạnh của mình, khi chiều theo những sở thích của mình và được phô trương, thì họ hăng hái vô cùng. Nhưng khi ngươi yêu cầu họ thực hành lẽ thật và hành động theo nguyên tắc lẽ thật, thì việc đó lại khiến lòng họ nguội lạnh và mất hết nhiệt huyết. Nếu không được phép khoe mẽ, họ trở nên mất hết sức mạnh và chán nản. Tại sao họ có năng lượng để khoe mẽ? Và tại sao mà họ lại không có năng lượng để thực hành lẽ thật chứ? Vấn đề ở đây là gì? Mọi người đều thích làm bản thân mình nổi bật; họ đều ham muốn hư vinh. Tất cả mọi người đều có năng lượng vô hạn khi tin vào Đức Chúa Trời để được phước lành và phần thưởng, vậy tại sao họ trở nên mất hết sức mạnh, tại sao họ trở nên chán nản khi thực hành lẽ thật và chống lại xác thịt? Tại sao lại xảy ra chuyện này? Điều này chứng tỏ rằng lòng người đang có sự uế tạp. Họ tin vào Đức Chúa Trời hoàn toàn là vì phước lành – nói thẳng ra, họ làm thế để bước vào thiên quốc. Không có phước lành hay lợi ích để mưu cầu, con người trở nên mất hết sức mạnh, chán nản và không có nhiệt huyết. Những điều này đều do tâm tính bại hoại chán ghét lẽ thật mà ra. Khi bị kiểm soát bởi tâm tính này, con người không sẵn lòng chọn con đường mưu cầu lẽ thật, họ đi con đường riêng của mình, họ chọn lầm đường, họ biết rõ rằng mưu cầu danh lợi và địa vị là sai, ấy vậy mà vẫn không thể chịu được nếu không làm những điều này, không thể gạt chúng sang một bên và vẫn mưu cầu danh lợi, địa vị và đi theo con đường của Sa-tan. Trong trường hợp đó, họ không đi theo Đức Chúa Trời mà là đi theo Sa-tan. Mọi việc họ làm đều là phục vụ cho Sa-tan, và họ là đầy tớ của Sa-tan(Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Trước đây, tôi đã không chăm chỉ viết bài. Tôi chỉ cảm thấy có chút tội lỗi nhất thời và không để tâm lắm. Tôi không nghĩ đó là một vấn đề lớn. Chỉ qua sự mặc khải của lời Đức Chúa Trời tôi mới nhận ra làm vậy là chán ghét lẽ thật, là một loại tâm tính Sa-tan. Việc viết lách đòi hỏi kinh nghiệm, kiến thức, và cũng cần thời gian để suy nghĩ. Chúng ta phải bình tâm, nghiền ngẫm lời Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật và tự kiểm điểm. Đó là lý do khi được yêu cầu tìm kiếm lẽ thật, nghiền ngẫm lời Đức Chúa Trời và viết bài, tôi lại từ chối và thầm chống đối. Đức Chúa Trời đã thông công nhiều về cách để làm chứng cho Ngài, và tất cả các anh chị em đã tập viết các bài chứng ngôn trải nghiệm, nhưng tôi lại dửng dưng, thậm chí còn viện cớ trốn tránh. Tôi thật quá cứng đầu! Tôi đã chống đối và oán giận những thứ liên quan đến lẽ thật, và không sẵn lòng vất vả vì chúng. Đối với những thứ bên ngoài, với công việc không liên quan đến lẽ thật, tôi đặc biệt nhiệt tình và sẵn lòng. Đó là vì làm những việc đó là thế mạnh cá nhân của tôi; tôi làm việc đó rất đơn giản, và sau đấy các anh chị em có thể thấy rõ thành quả công tác của tôi. Tôi sẽ không bị tỉa sửa hay sa thải. Tôi có thể duy trì được danh tiếng của mình. Kiểu hành vi này của tôi đối với phần việc của mình thực sự là chán ghét lẽ thật – đó là tâm tính Sa-tan. Thực tế, quá trình viết một bài chứng ngôn là quá trình tìm kiếm lẽ thật. Việc tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn dề có thể bộc lộ rõ nhất thái độ của con người đối với lẽ thật. Tôi đã tin vào Đức Chúa Trời nhiều năm, có thể từ bỏ và dâng mình để làm tròn bổn phận, và có thể nói nhiều câu chữ và đạo lý, nhưng tôi không quan tâm đến lẽ thật và không khao khát hay trân quý lẽ thật, cũng không thực sự vâng lời Đức Chúa Trời. Tôi vẫn sống bằng tâm tính Sa-tan và vẫn thù địch Đức Chúa Trời. Khi suy ngẫm về điều này, tôi nhận ra vấn đề của mình rất nghiêm trọng. Sau nhiều năm tin vào Đức Chúa Trời, vẫn không có sự thay đổi thực sự nào trong thái độ của tôi đối với Đức Chúa Trời và lẽ thật. Tôi vẫn thuộc về Sa-tan, chán ghét lẽ thật, chống đối Đức Chúa Trời và tâm tính của tôi hoàn toàn không thay đổi chút nào. Nếu cứ như vậy, dù có theo đạo bao lâu hay nỗ lực thế nào đi nữa, tôi cũng không bao giờ hiểu được lẽ thật hay giải quyết được tâm tính bại hoại của mình. Kể cả nếu có theo đạo đến cùng, thì tôi vẫn sẽ không bao giờ được cứu rỗi. Lúc đó, tôi cảm thấy có chút sợ hãi, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời để ăn năn: “Lạy Đức Chúa Trời, con không yêu lẽ thật và chán ngấy lẽ thật. Con chỉ thích nỗ lực và cực nhọc trong bổn phận. Giờ con đã nhận ra, trong đức tin, mình thật thảm hại. Con không muốn tiếp tục như vậy nữa. Con muốn quay về phía Ngài, và làm việc chăm chỉ để mưu cầu lẽ thật”.

Sau đó, để đáp lại những lời phàn nàn về việc có học thức và tố chất kém của tôi, một người chị em đã gửi cho tôi một đoạn lời Đức Chúa Trời rất có lợi cho tôi. Đức Chúa Trời phán: “Việc trải nghiệm sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời mang lại cho ngươi những thu hoạch và trải nghiệm thực tế – vì vậy ngươi nên làm chứng cho Đức Chúa Trời. Khi làm chứng cho Đức Chúa Trời, các ngươi nên chủ yếu nói về cách Đức Chúa Trời phán xét và hành phạt mọi người, những thử luyện nào Ngài sử dụng để tinh luyện mọi người và thay đổi tâm tính của họ. Các ngươi cũng nên nói về việc sự bại hoại đã được bộc lộ bao nhiêu trong trải nghiệm của các ngươi, các ngươi đã chịu đựng bao nhiêu đau khổ, ngươi đã làm bao nhiêu điều chống đối Đức Chúa Trời và các ngươi cuối cùng đã được Đức Chúa Trời chinh phục như thế nào. Hãy nói về hiểu biết thực sự về công việc của Đức Chúa Trời mà các ngươi có được là bao nhiêu, và các ngươi nên làm chứng cho Đức Chúa Trời và đền đáp tình yêu của Ngài như thế nào. Các ngươi nên đưa thực chất vào loại ngôn ngữ này, trong khi diễn đạt nó một cách đơn giản. Đừng nói về những lý thuyết trống rỗng. Hãy nói thực tế hơn; nói từ tấm lòng. Đây là cách ngươi nên trải nghiệm. Đừng trang bị cho mình những lý thuyết trống rỗng có vẻ sâu sắc cố để phô trương; làm như vậy khiến ngươi trông rất kiêu ngạo và không có lý trí. Ngươi nên nói nhiều hơn về những điều có thật từ trải nghiệm thực tế của ngươi và nói nhiều hơn từ trái tim; điều này có lợi nhất cho người khác, và phù hợp nhất để họ thấy. Các ngươi từng là những người chống đối Đức Chúa Trời nhiều nhất và ít có khuynh hướng đầu phục Ngài nhất, nhưng bây giờ ngươi đã được chinh phục – đừng bao giờ quên điều đó. Ngươi nên suy ngẫm và suy nghĩ về những vấn đề này nhiều hơn. Một khi mọi người đã hiểu rõ về những vấn đề đó, họ sẽ biết cách làm chứng; nếu không, họ sẽ có thể có những hành động đáng xấu hổ và không có lý trí, như thế là không làm chứng cho Đức Chúa Trời, mà là mang lại sự xấu hổ cho Đức Chúa Trời. Nếu không có trải nghiệm và sự hiểu biết đích thực về lẽ thật thì không thể làm chứng cho Đức Chúa Trời. Những người có đức tin lẫn lộn và mơ hồ nơi Đức Chúa Trời thì không bao giờ có thể làm chứng cho Đức Chúa Trời(Chỉ có mưu cầu lẽ thật mới đạt được sự thay đổi trong tâm tính, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi đã hiểu ra rằng lời chứng đích thực cho Đức Chúa Trời là làm chứng cho lời Đức Chúa Trời và công tác của Ngài, thông công về trải nghiệm của mình về sự phán xét, hình phạt, những thử luyện và tinh luyện của lời Đức Chúa Trời, thông công về sự bại hoại mà ta biểu lộ, và chia sẻ những hiểu biết về bản thân mà ta đã đạt được thông qua những gì lời Đức Chúa Trời mặc khải, và cách mà ta thực hành và bước vào điều đó, để người khác có thể thấy được tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, và biết về công tác cũng như tình yêu của Ngài. Để làm chứng cho Đức Chúa Trời, vấn đề không phải là một người có khả năng nói lý thuyết cao siêu đến đâu, mà vấn đền nằm ở chỗ ta phải nói trung thực và chân thành. Khi nhận ra điều này, tôi cảm thấy sáng lòng hơn đôi chút. Điều này cũng đúng đối với việc viết lời chứng trải nghiệm. Trình độ học vấn hay văn phong không quan trọng. Mấu chốt là liệu ta có thể nỗ lực theo đuổi lẽ thật hay không, có tìm kiếm lẽ thật để giải quyết sự bại hoại và vấn đề của mình hay không, có trải nghiệm sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, phân tích và biết mình dựa trên lời Đức Chúa Trời, có thấy rõ được thực chất của vấn đề, thực sự ăn năn và thay đổi hay không. Khi được trang bị những điều này, những bài viết của chúng ta sẽ hay. Việc này chẳng liên quan gì đến trình độ học vấn của ta cả. Tất cả những gì ta cần làm là viết những kinh nghiệm và kiến thức thực tế bằng ngôn ngữ của cuộc sống hằng ngày. Ta chỉ cần viết ra kinh nghiệm và hiểu biết của mình. Nếu viết ra hiểu biết và cảm xúc chân thật bằng ngôn từ của chính mình, bất cứ gì có thể có lợi cho người khác, thì ta có lời chứng. Trước kia, tôi luôn nghĩ mình có học vấn thấp, tố chất kém, và đã lấy đó làm cái cớ để không viết bài, như thể việc viết chứng ngôn đòi hỏi phải có trình độ kiến thức hay tố chất cao vậy, nhưng giờ tôi nhận thấy quan điểm này là sai. Lẽ ra tôi không nên sống trong tình trạng này, mà nên tập trung mưu cầu lẽ thật, thực hành và trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, viết về những gì tôi đã trải nghiệm và đạt được để làm chứng cho Đức Chúa Trời. Đây là bổn phận của tôi.

Trong một buổi hội họp, tôi đã đọc được một đoạn lời của Đức Chúa Trời đã giúp tôi mang gánh nặng trong việc mưu cầu lẽ thật và viết các bài chứng ngôn. Lời Đức Chúa Trời phán: “Đâu là nguyên nhân xuất hiện lãnh đạo và người làm công? Họ xuất hiện như thế nào? Về mặt vĩ mô, họ cần thiết cho công tác của Đức Chúa Trời; về mặt vi mô, họ cần thiết cho công tác của hội thánh, cần thiết cho dân được Đức Chúa Trời chọn. … Sự khác biệt giữa các lãnh đạo và người làm công so với những thành viên bình thường trong số dân được Đức Chúa Trời chọn chỉ là bổn phận mà họ làm có chút tính đặc thù mà thôi. Đặc điểm đặc biệt này thể hiện chủ yếu trong vai trò lãnh đạo của họ. Ví dụ, trong một hội thánh dù có bao nhiêu người đi nữa thì lãnh đạo luôn là người đứng đầu. Vậy lãnh đạo này có vai trò gì trong đội ngũ các thành viên? Họ dẫn dắt tất cả những người được Đức Chúa Trời chọn trong hội thánh đó. Vậy họ có ảnh hưởng gì đối với toàn hội thánh đó? Nếu người lãnh đạo này đi sai đường, mọi người trong hội thánh sẽ theo họ mà đi sai đường, và điều này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ dân được Đức Chúa Trời chọn ở hội thánh đó. Lấy Phao-lô làm ví dụ. Ông đã lãnh đạo nhiều hội thánh do ông thành lập và dân được Đức Chúa Trời chọn. Khi Phao-lô đi chệch đường, thì các hội thánh và dân được Đức Chúa Trời chọn mà ông lãnh đạo cũng đi chệch đường. Do vậy, khi các lãnh đạo rẽ theo con đường riêng, họ không phải là những người duy nhất bị ảnh hưởng, mà các hội thánh và dân được Đức Chúa Trời chọn mà họ lãnh đạo cũng bị ảnh hưởng. Nếu một lãnh đạo là một người đúng đắn, đi con đường đúng và mưu cầu cũng như thực hành lẽ thật, thì một mặt, những người họ dẫn dắt sẽ ăn uống lời Đức Chúa Trời bình thường và mưu cầu lẽ thật bình thường, mặt khác, trải nghiệm sự sống và sự tiến bộ sự sống của người lãnh đạo sẽ tỏ rõ cho những người khác thấy, cũng sẽ có ảnh hưởng lên những ngời khác. Vậy, con đường đúng đắn mà một lãnh đạo nên đi là gì? Chính là con đường có thể dẫn dắt người khác hiểu lẽ thật và bước vào lẽ thật, và đưa người khác đến trước mặt Đức Chúa Trời. Con đường sai trật là gì? Chính là con đường mưu cầu địa vị, danh lợi, thường khoe khoang bản thân và làm chứng cho chính mình, không bao giờ làm chứng cho Đức Chúa Trời. Điều này có ảnh hưởng gì đến những người được Đức Chúa Trời chọn? (Thưa, đưa họ đến trước chính mình.) Họ sẽ lạc xa Đức Chúa Trời và bị lãnh đạo này khống chế. Nếu ngươi dẫn mọi người đến trước mặt ngươi, thì ngươi đang dẫn họ đến trước mặt con người bại hoại và Sa-tan, chứ không phải đến trước mặt Đức Chúa Trời. Chỉ có dẫn dắt con người đến trước mặt lẽ thật mới là dẫn họ đến trước mặt Đức Chúa Trời. Các lãnh đạo và người làm công, bất kể họ đi con đường đúng hay sai, đều có ảnh hưởng trực tiếp đến dân được Đức Chúa Trời chọn(Mục 1. Họ lung lạc lòng người, Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi đã hiểu rõ hơn về trách nhiệm và bổn phận của mình. Đồng thời, tôi cảm thấy mình có một trách nhiệm to lớn trên vai. Đức Chúa Trời bảo chúng ta rằng con đường mà các lãnh đạo và người làm công đi cũng như điều họ tìm kiếm không chỉ ảnh hưởng đến bản thân họ mà còn đến các anh chị em mà họ dẫn dắt. Khi lãnh đạo và người làm công mưu cầu lẽ thật và là đúng người, thì họ sẽ tiếp tục tiến bộ trong lẽ thật, trong đời sống hằng ngày họ có thể phản tỉnh về những quan điểm sai lầm mà mình có hoặc mình đang sống bằng những tâm tính bại hoại nào, hiểu thực chất của vấn đề dựa trên lời Đức Chúa Trời, và sau đó tìm ra nguyên tắc nào để bước vào. Khi các lãnh đạo và người làm công đi con đường đúng đắn, họ sẽ mang gánh nặng đối với lối vào sự sống của các anh chị em và tập trung tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề, để những người họ dẫn dắt cũng sẽ bước vào theo hướng này. Nếu các lãnh đạo và người làm công lơ là, không mưu cầu lẽ thật, dành toàn bộ thời gian làm việc để đạt được danh vọng và địa vị, không quan tâm đến việc mưu cầu lẽ thật, và không thể thông công về lẽ thật để giải quyết vấn đề, và nếu họ chỉ bận rộn với những vấn đề trong bổn phận, hoặc họ chỉ nói câu chữ và đạo lý để tự đề cao và làm mình nổi bật, và họ không thể thông công về lẽ thật để làm chứng cho Đức Chúa Trời, thế thì họ đang đi con đường chống đối Đức Chúa Trời, và hướng họ đang dẫn dắt mọi người đi là sai. Những người như thế vô thức đi theo con đường riêng của họ và dẫn dắt người khác đi vào con đường lao khổ, con đường chống đối Đức Chúa Trời của Phao-lô. Điều này trái với ý định công tác và cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời. Hội thánh đã cho tôi cơ hội thực hành làm một lãnh đạo không phải là để tôi có thể làm những việc bên ngoài, không phải là để tôi có thể nỗ lực và cực nhọc, hay có thể mưu cầu danh vọng và địa vị. Tôi phải đóng vai một người lãnh đạo và dẫn dắt các anh chị em ăn, uống lời Đức Chúa Trời, tìm kiếm lẽ thật để giải quyết các vấn đề trong bổn phận của họ và dần dần có thể hiểu được lẽ thật, bước vào hiện thực của lời Đức Chúa Trời. Đây là bổn phận của tôi. Vì thế, tôi cảm thấy quan trọng là phải tập trung vào việc mưu cầu lẽ thật và giải quyết tâm tính bại hoại của mình. Lúc đó, tôi đã hiểu rất nông cạn về lẽ thật, và chẳng có chút thực tế lẽ thật nào, nên tôi chỉ có thể học hỏi thông qua trải nghiệm. Miễn là tấm lòng và con đường của tôi đúng đắn, tôi sẽ nhận được sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời.

Trong khoảng thời gian sau đó, tôi ngẫm lại những vấn đề tôi đã giải quyết bằng cách thực sự tìm kiếm lẽ thật qua bao năm tin vào Đức Chúa Trời và tôi đã giải quyết được những tâm tính bại hoại nào. Khi làm việc này, tôi thấy bối rối và chỉ hiểu nửa vời nhiều vấn đề. Tôi không thực sự hiểu lẽ thật và thấy được thực chất của các vấn đề, hay tìm được các nguyên tắc thực hành, cũng chưa từng giải quyết các vấn đề hiệu quả. Sau đó, tôi đã cố viết về những trải nghiệm mà mình có sự hiểu biết tương đối tốt, và tôi vừa viết vừa suy ngẫm, hễ cứ có thời gian là tôi lại suy ngẫm. Cuối cùng, khi viết xong một bài, tôi cảm thấy rất mãn nguyện, an tâm và thoải mái. Trong quá trình viết bài, thông qua việc tìm kiếm lẽ thật, tự nhiên tôi bắt đầu thấy rõ hơn thực chất của những vấn đề và tình trạng của bản thân, hiểu biết về lẽ thật của tôi thực tế và cụ thể hơn, đồng thời, con đường thực hành của tôi cũng rõ ràng hơn. Tôi thấy việc viết các bài chứng ngôn cực kỳ hữu ích cho việc nắm bắt tình trạng của mình và việc tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề. Đây là một con đường cho lối vào sự sống, và cũng là cách tốt nhất để tìm kiếm và hiểu được lẽ thật.

Sau đó, tôi nghe nói nhiều người, kể cả các lãnh đạo và những người làm công, đều không tập trung vào việc viết bài, hay bỏ ra chút nỗ lực nào cho khía cạnh này. Một số luôn nói họ bận làm việc và không có thời gian để viết bài. Tôi nghĩ: “Chẳng phải họ cũng giống y hệt tình trạng của mình sao? Mình cũng đã có quan điểm sai lầm đó và viện cớ để không viết. Nếu mình viết bài về quá trình mình làm thế nào để giải quyết được tình trạng của bản thân và cách mình đã thay đổi quan điểm thì chẳng phải điều đó sẽ giải quyết được một số vấn đề của các anh chị em sao?”. Nhận ra điều đó, lúc này, tôi cảm thấy mình có một gánh nặng để mang, và quyết định viết một bài về chủ đề này. Mặc dù hiểu biết của tôi còn rất nông cạn và phiến diện, nhưng tôi biết việc viết bài này là bổn phận của tôi, vì thế tôi phải tập viết theo hiểu biết của mình. Bình thường, khi gặp gỡ hay trò chuyện với các anh chị em, tôi sẽ thông công với họ về đề tài này, và hễ cứ rảnh là tôi lại nghĩ về đề tài này. Trong khi tĩnh nguyện vào buổi sáng, tôi ăn uống lời Đức Chúa Trời về chủ đề này. Sau một thời gian, tôi có thể thấy được vấn đề rõ hơn một chút, và khi viết, tôi thấy dễ hơn nhiều. Sau khi lập dàn ý, tôi diễn đạt từng lớp ý nghĩa theo hiểu biết riêng của tôi, và viết ra những suy nghĩ, trải nghiệm của mình bằng chính ngôn từ của mình. Tôi không còn cảm thấy quá khó nữa, và khi vừa suy ngẫm vừa viết, tôi có thể thấy được vấn đề cũng như những khía cạnh lẽ thật có liên quan một cách rõ ràng hơn. Tôi thực sự cảm thấy rằng càng cố mưu cầu lẽ thật và càng viết bài và dùng việc viết bài là phương thức để mưu cầu lẽ thật và giải quyết vấn đề, thì chúng ta càng nhận được sự khai sáng, dẫn dắt và phước lành của Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ đến lời Đức Chúa Trời: “Ngươi càng quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, trọng trách mà ngươi mang càng lớn, và trọng trách ngươi mang càng lớn, kinh nghiệm của ngươi sẽ càng phong phú. Khi ngươi quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sẽ đặt trọng trách lên ngươi, và sau đó khai sáng cho ngươi về những nhiệm vụ mà Ngài đã giao phó cho ngươi. Khi Đức Chúa Trời cho ngươi trọng trách này, ngươi sẽ chú ý tới mọi lẽ thật liên quan trong khi ăn uống lời Đức Chúa Trời. Nếu ngươi có trọng trách liên quan đến tình trạng sống của các anh chị em ngươi, thì đây là một trọng trách mà Đức Chúa Trời đã giao phó cho ngươi, và ngươi sẽ luôn mang trọng trách này theo mình trong những lời cầu nguyện hàng ngày. Điều Đức Chúa Trời làm đã được chuyển tải sang ngươi, và ngươi sẵn lòng làm điều Đức Chúa Trời muốn làm; đây là ý nghĩa của việc đảm nhận trọng trách của Đức Chúa Trời như của chính mình. Tại thời điểm này, trong sự ăn uống lời Đức Chúa Trời của ngươi, ngươi sẽ tập trung vào những dạng vấn đề này, và ngươi sẽ tự hỏi: ‘Tôi sẽ giải quyết những vấn đề này như thế nào? Làm sao tôi có thể tạo điều kiện cho các anh chị em của mình đạt được sự giải thoát và tìm thấy sự vui hưởng tinh thần?’. Ngươi cũng sẽ tập trung vào việc giải quyết những vấn đề này trong khi thông công, và khi ăn uống lời Đức Chúa Trời, ngươi sẽ tập trung vào ăn uống những lời liên quan đến các vấn đề này. Ngươi cũng sẽ mang trọng trách khi ăn uống lời Ngài. Khi ngươi đã hiểu được những yêu cầu của Đức Chúa Trời, ngươi sẽ có ý tưởng rõ ràng hơn về con đường nào nên đi. Đây là sự khai sáng và soi sáng của Đức Thánh Linh được mang đến bởi trọng trách của ngươi, và đây cũng là sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời đã được ban cho ngươi. Tại sao Ta nói điều này? Nếu ngươi không có trọng trách, vậy thì ngươi sẽ không chú ý khi ăn uống lời Đức Chúa Trời; khi ngươi ăn uống lời Đức Chúa Trời đồng thời mang trọng trách, ngươi có thể nắm bắt được thực chất của chúng, tìm con đường của mình, và quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời. Vì lẽ ấy, trong những lời cầu nguyện của ngươi, ngươi nên ao ước được Đức Chúa Trời đặt nhiều trọng trách hơn lên ngươi và giao phó cho ngươi những nhiệm vụ to lớn hơn nữa, hầu cho phía trước mình, ngươi có thể có được hơn một con đường để thực hành; hầu cho sự ăn uống lời Đức Chúa Trời của ngươi có tác dụng to lớn hơn; hầu cho ngươi tăng khả năng nắm bắt thực chất của những lời Ngài; và hầu cho ngươi trở nên có nhiều khả năng được cảm thúc bởi Đức Thánh Linh hơn(Hãy quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời để đạt đến được hoàn thiện, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời khiến tôi nhận ra rằng khi mang gánh nặng về lối vào sự sống và những vấn đề trong hội thánh, chúng ta có thể nỗ lực hơn trong việc tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề, tận tâm ăn, uống và thực hành lời Đức Chúa Trời. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể bước vào thực tế lẽ thật nhanh hơn. Trong suốt quá trình này, khi mang gánh nặng, khao khát và tìm kiếm, chúng ta có thể có được sự khai sáng và dẫn dắt của Đức Chúa Trời, dần hiểu biết sâu sắc hơn về lẽ thật, nhìn thấu được sự việc và mọi người rõ ràng và thấu đáo hơn, và có được hiểu biết cụ thể, thực tế hơn về lẽ thật. Nếu chúng ta không làm việc chăm chỉ để mưu cầu lẽ thật hay tập viết bài, ngay cả khi có được chút sự sáng về lời Đức Chúa Trời, thì đó cũng chỉ là hiểu biết nông cạn, cảm tính, ta sẽ luôn cảm thấy mơ hồ, như những hình dạng trong sương mù, và nó chứng tỏ chúng ta không có hiểu biết thực sự. Chỉ có viết ra những hiểu biết và trải nghiệm của mình, suy nghĩ thấu đáo và hiểu được vấn đề dựa trên lời Đức Chúa Trời, và nâng cao kiến thức cảm tính trở nên tương đối chính xác, thực tế và cụ thể kiến thức thực tế, thì cuối cùng hiểu biết của chúng ta mới đem lại kết quả. Viết bài là quá trình để hiểu rõ về các vấn đề, hiểu về lẽ thật và giải quyết vấn đề. Càng viết, chúng ta càng đạt được nhiều.

Giờ đây, tôi không còn chống lại việc viết bài nữa, mà đó là điều tôi rất thích, vì trong quá trình viết, tôi thấy rõ hơn những tâm tính bại hoại của mình, các quan điểm và hệ tư tưởng của tôi cũng thay đổi khi tôi hiểu được lời Đức Chúa Trời. Đây là một lợi ích thực tế, và là điều có giá trị, ý nghĩa nhất. Trước kia, tôi luôn thấy việc viết bài rất vất vả và cực kỳ khó khăn, và tôi thà làm những công việc bên ngoài còn hơn là cố viết bài về trải nghiệm của mình. Tôi đã rất dấy loạn và cứng đầu. Thậm chí tôi còn cảm thấy rằng việc viết bài sẽ làm trì hoãn công việc của mình, nhưng quan điểm này thực sự rất sai lầm và vô lý. Việc viết bài không hề làm trì hoãn công việc. Thay vào đó, nó còn nhắc ta tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề và khiến ta có thể hiệu quả hơn trong bổn phận. Bây giờ, hễ cứ có thời gian là tôi lại cố tĩnh tâm và xem xét lại tình trạng của mình. Tôi cũng sẵn lòng nỗ lực suy ngẫm về những vấn đề mà mình không thể nhìn thấu hay giải quyết. Tôi đã dần bắt đầu mang gánh nặng đối với lối vào sự sống. Tôi cũng cảm thấy mình có nhiều trạng thái phải được giải quyết bằng cách tìm kiếm lẽ thật, và dần dần, tôi đã biết khao khát lời Đức Chúa Trời. Đây đều là nhờ ân điển của Đức Chúa Trời. Tạ ơn Đức Chúa Trời!

Trước: 45. Rời khỏi nhà thương điên

Tiếp theo: 47. Dối trá chỉ mang đến đau khổ

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

29. Sự ăn năn của một sĩ quan

Bởi Chân Tâm, Trung QuốcĐức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Từ lúc sáng thế cho đến nay, tất cả những gì Đức Chúa Trời đã làm trong công tác của...

53. Tháo gỡ những nút thắt

Bởi Thúy Bách, ÝĐức Chúa Trời phán: “Vì số phận của các ngươi, các ngươi nên tìm kiếm sự chấp thuận của Đức Chúa Trời. Điều này có nghĩa...

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger