15. Những uế tạp trong hy sinh của tôi dành cho Đức Chúa Trời
Tháng 4 năm 2020, một hôm tôi bỗng cảm thấy đau dữ dội ở bên lưng phải. Tôi nghĩ chắc là vô tình bị bong gân, nên không nghĩ gì nhiều, cứ tưởng dán miếng dán giảm đau là sẽ ổn thôi. Nhưng thật bất ngờ, cơn đau lưng lại ngày càng nặng hơn. Cứ như bị kim châm vậy, tôi thấy đau buốt từ ngực xuyên ra sau lưng. Khi cơn đau trở nặng, cảm giác như có thứ gì cào xé xương thịt tôi vậy. Tôi đau kinh khủng, đau đến mức không tả nổi. Mấy đêm liền thậm chí đau quá khiến tôi tài nào chợp mắt nổi. Tôi cảm thấy mình không thể nào chịu nổi nữa và muốn đi khám bác sĩ ngay, nhưng tôi vốn đã lên lịch họp để rao giảng Phúc Âm với một số người. Tôi mà đi khám thì chắc chắn phải hoãn buổi hội họp đó. Tôi định để mấy ngày sau, hội họp xong rồi mới đi, hơn nữa, tất cả đều nằm trong tay Đức Chúa Trời. Tôi chỉ cần duy trì bổn phận, có lẽ vài ngày nữa sẽ đỡ hơn thôi. Thế là tôi ráng nhịn đau, và sau khi rao giảng Phúc Âm xong thì mới đi bệnh viện để khám. Bác sĩ nói với tôi một cách nghiêm trọng: “Sao chị bây giờ mới đến khám? Đây không phải chuyện nhỏ đâu. Đây là bệnh Zona do virus gây ra, và nếu nghiêm trọng thì có thể mất mạng đấy”. Tôi quá bàng hoàng, không ngờ nó lại nghiêm trọng như thế, đến mức có thể mất mạng nếu không được chữa trị! Tôi đã tích cực rao giảng Phúc Âm và thực hiện bổn phận, sao tôi lại có thể bị bệnh nặng thế này chứ? Bao năm qua, tôi đã hy sinh và dâng mình, đã chịu đau khổ và trả giá. Tôi chưa bao giờ phản bội Đức Chúa Trời, cả khi bị Đảng Cộng Sản bắt và tra tấn dã man, và ra tù rồi, tôi vẫn tiếp tục thực hiện bổn phận. Vậy sao tôi vẫn có thể bị bệnh chứ? Càng nghĩ tôi càng buồn bực. Tôi cảm thấy như mình sắp khóc và cảm thấy trong lòng thật trống rỗng.
Thời gian đó, việc ở hội thánh cũng khá bận rộn, nên tôi phải vừa duy trì thực hiện bổn phận vừa điều trị. Khi tôi đạp xe, cứ mỗi lần xóc nảy là tôi lại đau đớn đến quằn quại. Có lúc tôi bị đau bất thình lình khiến tôi thậm chí không thể ngồi yên được. Xong bổn phận về nhà là tôi lại nằm sõng soài, không có chút sức lực nào và không muốn nói chuyện. Tôi biết rằng việc này xảy ra với tôi là do Đức Chúa Trời cho phép. Tôi cầu nguyện và tìm kiếm, và kiểm điểm xem liệu tôi có làm gì không phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời không, nhưng tôi nghĩ chỉ cần tôi thấy được lỗi lầm và duy trì thực hiện bổn phận, Tôi có thể khỏi bệnh. Nhưng thoáng chốc đã hai tháng trôi qua, mà tôi vẫn không khá hơn. Tôi lo lắng bệnh này cũng đã bị lâu nay rồi – lỡ như bệnh không đỡ thì tôi biết làm sao đây? Trong những năm qua, tôi chưa bao giờ ngừng thực hiện bổn phận của mình. Tôi vẫn rao giảng phúc âm kể cả khi bị bệnh, vậy tại tôi vẫn không khá hơn? Càng nghĩ tôi lại càng thấy bất công và buồn bực. Tôi nghĩ: “Nếu mình không khỏi bệnh, sẽ có ngày mình không thể thực hiện bổn phận được nữa và mình sẽ không thể chuẩn bị những việc lành. Liệu khi đó mình có thể được cứu rỗi không? Mọi điều mình hy sinh bao năm qua có thành vô nghĩa không? Mình nên giữ gìn sức khỏe, để xem bệnh tình mình rồi ra sao”. Sau đó tôi không còn quá để tâm vào bổn phận của mình. Trong những buổi họp nhóm, tôi chỉ hỏi qua loa về những mục tiêu Phúc Âm tiềm năng, và nếu không có ai, tôi sẽ về nhà và nghỉ ngơi. Tôi thực sự sợ mình kiệt sức và trở bệnh nặng hơn. Thời gian đó, tôi cứ nghĩ về bệnh tình của mình, và cực kỳ chán nản. Tôi không đạt được chút khai sáng nào từ lời Đức Chúa Trời, khi họp thì thông công rất khô khan. Tôi cảm thấy xa cách với Đức Chúa Trời. Trong cơn đau, tôi cầu nguyện Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Con cảm thấy khốn khổ vì căn bệnh này, con toàn những lời oán trách và không còn động lực để thực hiện bổn phận. Xin hãy khai sáng để con hiểu được tâm ý của Ngài. Con muốn quy phục, kiểm điểm bản thân, và rút ra bài học”.
Tôi đọc được lời Đức Chúa Trời khi tìm kiếm: “Trước tiên, khi con người bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời, ai trong số họ không có mục đích, động cơ, và tham vọng riêng? Mặc dù một phần trong họ tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời và đã nhìn thấy sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, nhưng niềm tin của họ nơi Đức Chúa Trời vẫn chứa đựng những động cơ đó, và mục tiêu sau cùng của họ trong việc tin vào Đức Chúa Trời là nhận những phúc lành của Ngài và những điều họ muốn. Trong những trải nghiệm sống của con người, họ thường tự nhủ rằng: ‘Tôi đã từ bỏ gia đình và sự nghiệp vì Đức Chúa Trời, và Ngài đã cho tôi được gì? Tôi phải tổng lại, và xác nhận rằng – tôi đã nhận được bất kỳ phúc lành nào gần đây chưa? Tôi đã cho đi rất nhiều trong thời gian này, tôi đã làm tốt bấy lâu nay, và chịu đựng rất nhiều – đổi lại Đức Chúa Trời đã cho tôi bất kỳ lời hứa nào chưa? Ngài có nhớ những việc lành của tôi chưa? Kết cục của tôi sẽ là gì? Tôi có thể nhận những phúc lành của Đức Chúa Trời không? …’. Mỗi người đều liên tục thực hiện những sự tính toán như thế trong lòng họ, và họ đưa ra những yêu cầu đối với Đức Chúa Trời, những yêu cầu mang động cơ, tham vọng, và tâm lý đổi chác của họ. Nói vậy nghĩa là, trong lòng mình, con người liên tục kiểm tra Đức Chúa Trời, liên tục đặt ra những kế hoạch về Đức Chúa Trời, liên tục tranh luận về trường hợp kết cuộc cá nhân của riêng mình với Đức Chúa Trời, và cố gắng moi ra một câu tuyên bố từ Đức Chúa Trời, xem liệu Đức Chúa Trời có thể ban cho họ điều họ muốn hay không. Cùng với việc theo đuổi Đức Chúa Trời, con người không đối đãi với Đức Chúa Trời như một Đức Chúa Trời. Con người luôn cố gắng thỏa thuận với Đức Chúa Trời, không ngừng đòi hỏi ở Ngài, và thậm chí thúc ép Ngài trong mọi bước, được đằng chân lân đằng đầu. Cùng với việc cố gắng thỏa thuận với Đức Chúa Trời, con người cũng tranh luận với Ngài, và thậm chí có những người mà khi những thử luyện xảy đến với họ hay họ thấy mình trong những tình huống nhất định, thường trở nên yếu đuối, tiêu cực, bê trễ trong công việc, và đầy than oán về Đức Chúa Trời. Từ khi con người mới bắt đầu tin Đức Chúa Trời, họ đã xem Đức Chúa Trời là một nguồn cung dồi dào, là một con dao gấp đa năng, và họ coi chính mình là chủ nợ lớn nhất của Đức Chúa Trời, như thể việc cố gắng lấy được những phúc lành và lời hứa từ Đức Chúa Trời là quyền và nghĩa vụ vốn có của họ, trong khi trách nhiệm của Đức Chúa Trời là bảo vệ, chăm sóc cho con người, và chu cấp cho họ. Đó là sự hiểu biết cơ bản về ‘niềm tin nơi Đức Chúa Trời’ của tất cả những ai tin Đức Chúa Trời, và đó là sự hiểu biết sâu sắc nhất của họ về khái niệm niềm tin nơi Đức Chúa Trời” (Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Tôi cảm thấy rất tội lỗi khi suy ngẫm những lời Đức Chúa Trời. Tôi thấy rằng, trong đức tin, tôi không xem Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời. Tôi đã coi Ngài như một con dao xếp đa năng, như một kho hàng dồi dào, nghĩ rằng chỉ cần tôi dâng mình vì Đức Chúa Trời, Ngài chắc chắn sẽ cho tôi được bình an khỏe mạnh, không bao giờ gặp phải bệnh tật hay tai họa, và tôi sẽ thoát được mọi tai ương hoạn nạn và cuối cùng sẽ được cứu rỗi cũng như có được một đích đến tốt đẹp. Suốt những năm qua, tôi đã xa gia đình và từ bỏ sự nghiệp để thực hiện bổn phận, đã chịu đau khổ và hy sinh rất nhiều, chưa bao giờ chùn bước, kể cả khi bị bắt giữ và tra tấn. Nhưng khi tôi bị bệnh, nhất là khi thấy vấn đề về sức khỏe kéo dài, tôi đã oán trách Đức Chúa Trời và cố lý luận với Ngài. Tôi đã liệt kê hết những đau khổ mình phải chịu bao năm qua, và nghĩ rằng mọi thứ tôi đã hy sinh sẽ là phí phạm nếu tôi không được cứu rỗi, và bắt đầu lơ là trong bổn phận của mình. Tôi thấy đức tin của mình không phải để đạt được lẽ thật và vâng phục Đức Chúa Trời, mà là để lấy đau khổ và vất vả của tôi đổi ân điển và phước lành của Ngài. Đó chẳng phải là lừa gạt và lợi dụng Đức Chúa Trời hay sao? Hòng để cứu rỗi nhân loại, Đức Chúa Trời đã ban rất nhiều lời để chăm tưới và cung dưỡng cho chúng ta. Nhưng tôi đã không đền đáp tình yêu thương của Ngài; thay vào đó lại cố đổi chác với Ngài. Khi Ngài không làm những gì tôi muốn, tôi bắt đầu làm bổn phận qua loa, không để tâm vào đó. Tôi không hề chân thành với Đức Chúa Trời. Tôi thực sự không có chút lương tâm hay lý trí nào! Tôi bèn đến cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con đã lợi dụng Ngài và lừa gạt Ngài trong đức tin của mình. Con không phải là con người! Con muốn ăn năn với Ngài. Xin hãy dẫn dắt con”.
Sau đó tôi đọc được lời Đức Chúa Trời: “Trong nhiều trường hợp, những sự thử luyện của Đức Chúa Trời là trọng trách mà Ngài giao cho con người. Đức Chúa Trời giao cho ngươi trách nhiệm lớn đến đâu thì ngươi phải gánh được trách nhiệm nặng đến đó, bởi Đức Chúa Trời hiểu ngươi và biết ngươi sẽ có thể gánh vác được. Trọng trách mà Đức Chúa Trời giao cho ngươi sẽ không vượt quá vóc giạc của ngươi hoặc vượt quá giới hạn chịu đựng của ngươi, vì vậy chắc chắn là ngươi sẽ có thể gánh vác được. Dù Đức Chúa Trời giao cho ngươi loại trọng trách nào, loại thử luyện nào, ngươi hãy nhớ một điều: bất kể ngươi có hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời hay không và có được Đức Thánh Linh khai sáng và soi sáng sau khi ngươi cầu nguyện hay không, bất kể sự thử luyện này có phải là Đức Chúa Trời đang sửa dạy ngươi hoặc cảnh báo ngươi hay không, ngươi không hiểu cũng chẳng sao cả. Miễn là ngươi không trì hoãn việc thực hiện bổn phận của mình và có thể trung thành giữ chắc lấy bổn phận của mình, thì Đức Chúa Trời sẽ hài lòng và ngươi sẽ đứng vững trong lời chứng của mình. … Đức Chúa Trời và theo đuổi lẽ thật, ngươi có thể nói rằng: ‘Bất kể bệnh tật hay sự việc không như ý nào Đức Chúa Trời cho phép xảy đến với tôi, bất kể Đức Chúa Trời làm gì, tôi cũng phải thuận phục và giữ đúng vị trí của mình như một loài thọ tạo. Trước tiên, tôi phải đưa khía cạnh này của lẽ thật – sự thuận phục – vào thực hành, tôi phải thực hiện thuận phục và sống bày tỏ ra thực tế thuận phục Đức Chúa Trời. Hơn nữa, tôi không được gạt bỏ những gì Đức Chúa Trời đã ủy thác cho mình và bổn phận mà mình phải thực hiện. Ngay cả khi chỉ còn hơi thở cuối cùng, tôi cũng phải giữ lấy bổn phận của mình’, thì đây chẳng phải là làm chứng sao? Khi ngươi có được quyết tâm này và trạng thái này, thì ngươi còn có thể oán trách Đức Chúa Trời không? Ngươi sẽ không còn oán trách Đức Chúa Trời nữa. Vào những lúc như thế, ngươi sẽ tự nhủ: ‘Đức Chúa Trời ban cho mình hơi thở này, Ngài đã chu cấp và bảo vệ mình suốt những năm qua, Ngài đã gánh nhiều sự đau đớn cho mình, ban cho mình nhiều ân điển và nhiều lẽ thật. Mình đã hiểu lẽ thật và những điều huyền bí mà qua nhiều thời đại con người vẫn chưa hiểu được. Mình đã có được rất nhiều từ Đức Chúa Trời, vì vậy mình phải báo đáp Đức Chúa Trời! Trước đây, vóc giạc của mình quá nhỏ bé, mình chẳng hiểu gì và mọi việc mình làm đều gây tổn thương cho Đức Chúa Trời. Có lẽ sau này mình sẽ không có cơ hội khác để báo đáp Đức Chúa Trời nữa. Dù mình còn được sống bao lâu nữa, mình cũng phải dâng chút sức lực ít ỏi này của mình và làm những gì có thể làm cho Đức Chúa Trời, để Đức Chúa Trời có thể thấy rằng bấy nhiêu năm chu cấp cho mình không phải là vô ích mà còn đơm hoa kết quả. Hãy để mình mang lại sự an ủi cho Đức Chúa Trời và không còn làm Ngài tổn thương hay thất vọng nữa’” (Chỉ khi thường xuyên đọc lời Đức Chúa Trời và suy ngẫm về lẽ thật thì mới có con đường để đi, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi đã có thể hiểu được tâm ý của Ngài. Bất kể tôi có gặp phải gian khổ kiểu gì, đó đều là do Đức Chúa Trời cho phép. Căn bệnh này là Đức Chúa Trời đang giao cho tôi một gánh nặng để vác, tôi nên tiếp nhận và quy phục, đứng vững làm chứng. Tôi nghĩ đến Phi-e-rơ, người đã tìm cách để làm thỏa lòng và quy phục Đức Chúa Trời. Ông đã chịu đau khổ vì bệnh tật và sống cuộc sống cơ cực, nhưng luôn có thể chấp nhận những điều này và không bao giờ than phiền. Những điều này không bao giờ làm thay đổi tình yêu của ông dành cho Đức Chúa Trời. Tôi cần phải đứng trên cương vị của một tạo vật như Phi-e-rơ, và thật sự rút ra được một bài học từ tình huống này. Tôi vừa tiếp tục điều trị vừa thực hiện bổn phận, và không còn cảm thấy bị bệnh tình hạn chế nữa. Sau vài tháng dần hồi phục, cuối cùng bệnh tình của tôi cũng đã khỏi hẳn. Tôi vô cùng cảm tạ Đức Chúa Trời!
Vào một ngày tháng 9, khi tôi về nhà sau buổi rao giảng Phúc Âm, chồng tôi nặng nề bảo anh ấy vừa đi khám định kỳ hôm trước, bác sĩ bảo anh ấy hôm sau quay lại để chụp cộng hưởng từ. Nghe chồng nói vậy khiến lòng tôi cảm thấy rất bất an, và tôi không biết liệu có phải anh ấy mắc bệnh nặng không. Đêm đó tôi thao thức trăn trở suốt đêm, không tài nào ngủ được. Tôi cố tự an ủi mình, nghĩ rằng chắc không phải chuyện gì lớn đâu. Anh ấy cũng là một tín hữu, tôi thì thực hiện bổn phận xa nhà, nên Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ anh ấy. Hôm sau tôi đi cùng chồng đến bệnh viện. Thật sửng sốt, hóa ra anh ấy bị ung thư tuyến tụy. Nghe tin đó tôi hoàn toàn choáng váng. Tôi nghe nói loại ung thư đó rất khó điều trị và nếu không được điều trị kịp thời thì tiến triển rất nhanh, và nếu bệnh nặng thì vài tháng là chết. Tôi nghĩ anh ấy trông đầy sức sống, nhưng có khi chẳng còn sống được bao lâu nữa. Tôi cảm thấy như cả bầu trời sụp xuống. Tôi thầm nghĩ: “Mình vừa mới hồi phục mà giờ chồng mình lại mắc bệnh ung thư. Sao chuyện này lại xảy ra?”. Hễ mỗi lần nghĩ tới bệnh ung thư của chồng là tôi lại không kìm được nước mắt. Tôi cầu nguyện Đức Chúa Trời trong đau đớn, xin Ngài trông giữ lòng tôi, và dẫn dắt tôi để hiểu tâm ý của Ngài.
Sau đó tôi đọc được trong lời Đức Chúa Trời: “Trong niềm tin của họ vào Đức Chúa Trời, điều con người tìm kiếm là đạt được những phúc lành cho tương lai; đây là mục tiêu trong đức tin của họ. Hết thảy mọi người đều có ý định và hy vọng này, nhưng sự bại hoại trong bản tính của họ phải được giải quyết thông qua những thử luyện và tinh luyện. Trong bất kỳ phương diện nào mà các ngươi chưa được làm cho tinh sạch và bộc lộ sự bại hoại, thì đây là những phương diện mà các ngươi phải được tinh luyện – đây là sự sắp xếp của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời tạo ra một hoàn cảnh cho ngươi, buộc ngươi được tinh luyện ở đó hầu cho ngươi có thể biết sự bại hoại của chính mình. Sau hết, ngươi đạt tới mức mà ngươi thà chết để từ bỏ những ý đồ và khao khát của mình, thuận phục sự tể trị và sự sắp xếp của Đức Chúa Trời. Vì lẽ ấy, nếu con người không có vài năm tinh luyện, nếu họ không chịu đựng một mức độ đau khổ nhất định, họ sẽ không thể giải thoát bản thân khỏi sự kìm kẹp từ sự bại hoại của xác thịt trong tư tưởng và tâm linh của họ. Trong bất kỳ phương diện nào mà người ta vẫn bị bản tính Sa-tan của mình kìm kẹp, và trong bất kỳ phương diện nào mà họ vẫn còn những dục vọng và đòi hỏi của riêng họ, thì đây là những phương diện mà họ phải chịu khổ. Chỉ thông qua sự đau khổ thì mới có thể học được bài học, nghĩa là có thể có được lẽ thật, và hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời. Trên thực tế, nhiều lẽ thật được hiểu bằng cách trải nghiệm những thử luyện đau đớn. Không ai có thể hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, nhận ra sự toàn năng và khôn ngoan của Đức Chúa Trời, hay nhận thức rõ tâm tính công chính của Đức Chúa Trời khi ở trong một môi trường thoải mái hoặc khi hoàn cảnh thuận lợi. Điều đó là không thể!” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Tôi ngẫm lại bản thân theo lời Đức Chúa Trời. Trước đây, khi bản thân tôi lâm bệnh, nhờ sự phán xét và mặc khải trong lời của Đức Chúa Trời, tôi đã nhận ra quan điểm sai lầm của mình trong việc mưu cầu phước lành, và tôi đã sẵn sàng quy phục dù có khỏe lại hay không. Tôi nghĩ mình đã buông bỏ động cơ mưu cầu phước lành, nhưng khi chồng tôi bị ung thư, tôi không khỏi oán trách và hiểu nhầm Đức Chúa Trời. Tôi cảm thấy vì chúng tôi tin Đức Chúa Trời nên Ngài phải bảo vệ chúng tôi. Tôi đã thấy mong muốn phước lành của mình đã ăn sâu như thế nào. Nếu Đức Chúa Trời không vạch trần tôi như thế, tôi hẳn khó nhận ra và gạt bỏ được mong muốn phước lành sâu xa và ngông cuồng của mình. Rồi tôi nhận ra mình cần rút ra bài học từ bệnh tật của chồng, và phải ngừng oán trách Đức Chúa Trời.
Tôi bình tâm kiểm điểm lý do tại sao tôi không khỏi oán trách và hiểu lầm Đức Chúa Trời khi chồng tôi bị ung thư. Tôi đọc được trong lời Đức Chúa Trời: “Trong mắt kẻ địch lại Đấng Christ, trong tư tưởng và quan điểm của họ thì khi đi theo Đức Chúa Trời, chắc chắn sẽ có lợi ích gì đó. Họ là những người không chịu dậy sớm nếu không có lợi ích gì. Nếu không được hưởng thụ danh lợi và địa vị, nếu làm việc gì đó hay làm bổn phận nào đó mà không được người khác xem trọng, vậy thì việc tin Đức Chúa Trời và làm bổn phận không còn ý nghĩa nữa. Điều đầu tiên của việc kiếm lợi lộc chính là phải đạt được lời hứa và lời chúc phúc mà lời Đức Chúa Trời nói đến, ngoài ra họ còn phải được hưởng thụ danh lợi và địa vị trong hội thánh. Kẻ địch lại Đấng Christ cho rằng tin Đức Chúa Trời là phải cao hơn người khác một bậc, phải được người khác xem trọng, phải khác người, rằng người tin Đức Chúa Trời ít nhất phải được hưởng thụ những thứ này. Nếu không hưởng thụ được, thì vị Đức Chúa Trời mà họ tin rốt cuộc có phải là Đức Chúa Trời thật không, việc này phải đặt dấu chấm hỏi. Lô-gíc này của kẻ địch lại Đấng Christ có phải là xem câu nói ‘con người tin đức chúa trời thì phải được hưởng thụ lời chúc phúc và ân điển của ngài’ là lẽ thật rồi không? Vậy thì chúng ta hãy cùng phân tích xem câu nói này có phải là lẽ thật không? (Thưa, không phải.) Bây giờ các ngươi đã hiểu, lời này không phải là lẽ thật mà là luận điệu sai trái, là lô-gíc của Sa-tan, không có liên quan gì đến lẽ thật. Đức Chúa Trời có từng nói rằng ‘con người tin Ta thì tất nhiên sẽ được lời chúc phúc, tuyệt đối sẽ không gặp tai họa’ không? Câu nào của Đức Chúa Trời phán như vậy? Đức Chúa Trời chưa bao giờ phán lời như vậy, Ngài cũng không làm như vậy. Liên quan đến chuyện được phúc và gặp họa, có lẽ thật nên được tìm kiếm ở đây. Câu nói nào mới là lời lẽ chí lý mà con người nên giữ vững? Gióp từng nói một câu như thế này: ‘Sự phước mà tay Ðức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài giáng trên chúng ta, lại chẳng lãnh lấy sao?’ (Gióp 2:10). Lời này có phải là lẽ thật không? Đây là một câu nói của con người, không thể đạt đến tầm cao của lẽ thật, nhưng lời này có chỗ phù hợp với lẽ thật. Nó phù hợp với lẽ thật ở chỗ nào? Bất luận là con người được phúc hay gặp họa thì việc đó đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, đều là sự tể trị của Ngài, đây là lẽ thật. Kẻ địch lại Đấng Christ có tin điều này không? Họ không tin và không thừa nhận điều này. Tại sao họ lại không tin và không thừa nhận? (Thưa, vì họ tin Đức Chúa Trời là để được phúc. Họ chỉ muốn được phúc.) (Thưa, bởi vì họ quá ích kỷ, chỉ mưu cầu lợi ích của xác thịt.) Khi tin Đức Chúa Trời, kẻ địch lại Đấng Christ chỉ muốn được phúc chứ không muốn gặp họa, nên nhìn thấy ai được phúc, được lợi lộc, được ân điển, được nhiều sự hưởng thụ về vật chất hơn nữa, được món hời lớn, thì họ sẽ cho rằng đây là do Đức Chúa Trời làm ra. Còn nếu không được những lời chúc phúc về mặt vật chất này thì không phải do Đức Chúa Trời làm ra. Ngụ ý của điều này chính là: ‘Nếu ngài là đức chúa trời thật thì ngài chỉ có thể chúc phúc con người. Ngài nên miễn trừ tai họa cho con người, không thể để con người chịu khổ. Như vậy thì việc con người tin ngài mới có giá trị, mới có ý nghĩa. Nếu đi theo ngài mà vẫn phải gặp họa và chịu khổ thì người ta tin ngài còn có ý nghĩa gì nữa?’. Họ không thừa nhận rằng vạn sự vạn vật đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, rằng Đức Chúa Trời tể trị tất cả. Nguyên nhân họ không thừa nhận là gì? Kẻ địch lại Đấng Christ sợ gặp họa, họ chỉ muốn được lợi ích, chỉ muốn đạt món hời, chỉ muốn hưởng thụ lời chúc phúc. Họ không muốn tiếp nhận sự tể trị của Đức Chúa Trời, không muốn tiếp nhận sự sắp đặt của Ngài mà chỉ muốn đạt được lợi ích từ trong tay Ngài. Kẻ địch lại Đấng Christ có quan điểm ích kỷ và đê tiện như vậy đấy” (Mục 10. Họ xem thường lẽ thật, ngang nhiên vi phạm các nguyên tắc và phớt lờ những sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời (Phần 6), Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ). “Hết thảy những kẻ bại hoại đều sống cho chính mình. Người không vì mình, trời tru đất diệt – đây là khái quát về bản tính của con người. Mọi người tin vào Đức Chúa Trời vì những lợi ích của riêng họ; khi họ vứt bỏ mọi sự và dâng mình cho Đức Chúa Trời, đó là để được ban phước lành; và khi họ trung thành với Ngài, đó là để được ban thưởng. Tóm lại, tất cả đều được thực hiện với mục đích được ban phước lành, được ban thưởng và được vào thiên quốc. Trong xã hội, con người làm việc vì lợi ích riêng của mình, còn trong nhà Đức Chúa Trời, họ thực hiện bổn phận để được ban phước lành. Con người từ bỏ mọi thứ và có thể chịu đựng nhiều đau khổ là để được ban phước lành, đây là bằng chứng tốt nhất về việc con người có bản tính Sa-tan” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đã vạch trần quan điểm của những kẻ địch lại Đấng Christ về phước lành và bất hạnh. Họ theo đuổi phước lành trong đức tin, và nghĩ rằng họ nên được ban phước lành vì đức tin của mình. Nếu không được như vậy, họ nghĩ có đức tin là vô nghĩa, thậm chí họ còn có thể phản bội Đức Chúa Trời và bỏ Ngài bất cứ lúc nào. Tôi thấy mình cũng có quan điểm y hệt về đức tin. Tôi tưởng rằng vì tôi đã hy sinh rất nhiều, Đức Chúa Trời nên ban cho tôi và gia đình tôi sự bình an không bệnh tật và tai ương. Nên dù là chồng tôi hay tôi lâm bệnh, tôi đều hiểu lầm và oán trách Đức Chúa Trời. Tôi còn đòi hỏi vô lý với Ngài, muốn Ngài chữa lành bệnh virus cho tôi và bệnh ung thư của chồng tôi. Ngay khi Đức Chúa Trời không thỏa mãn mong muốn của tôi, thì tôi không còn muốn dâng mình làm bổn phận nữa. Quan điểm của tôi về đức tin thật quá lố bịch! Sự thật là Đức Chúa Trời chưa bao giờ nói rằng các tín hữu sẽ không gặp chuyện xấu. Ngài cai quản mọi sự. Sinh lão bệnh tử đều nằm trong tay Ngài, con người nhận từ Đức Chúa Trời cả phước lành cũng như tai họa và các tín hữu cũng không phải là ngoại lệ. Thực hiện bổn phận là điều đúng đắn và tự nhiên nhất mà một tạo vật nên làm và không liên quan gì đến việc được ban phước hay không. Nhưng tôi đã bị Sa-tan làm bại hoại quá nghiêm trọng đến nỗi những câu “Người không vì mình trời tru đất diệt” và “Đừng bao giờ làm gì không công” là những chất độc Sa-tan mà tôi sống theo. Tôi chỉ toàn nghĩ đến tư lợi, coi Đức Chúa Trời là thứ để tôi lợi dụng. Tôi muốn dùng sự đau khổ, hy sinh và vất vả của mình để lừa Đức Chúa Trời đổi lấy phước lành. Khi Đức Chúa Trời làm gì tổn hại đến tư lợi của tôi, thì tôi đầy oán trách và hiểu nhầm Ngài, và thậm chí tranh cãi và chống đối Ngài. Tôi là loại tín hữu gì đây? Tôi thật quá ích kỷ và đáng khinh! Tôi nghĩ đến Phao-lô, ông cũng đã chịu khổ rất nhiều vì Chúa, nhưng ông không hề mưu cầu lẽ thật hay hiểu biết về Đức Chúa Trời. Ông đã dùng những hy sinh, đóng góp và sự vất vả chỉ để đổi lấy sự tưởng thưởng và mũ miện. Ông nói: “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin: Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta” (2 Ti-mô-thê 4:7-8). Điều ông thực sự muốn nói qua câu này là nếu Đức Chúa Trời không trao mũ miện và tưởng thưởng ông thì Đức Chúa Trời không công chính. Ông muốn dùng những nỗ lực và sự chịu khổ của mình làm vốn để gây áp lực cho Đức Chúa Trời, để chống đối Đức Chúa Trời. Cuối cùng Đức Chúa Trời đã trừng phạt ông. Tôi thật sự thấy sợ hãi khi nhận ra chuyện này. Tôi thấy trong đức tin, tôi chẳng tập trung mưu cầu lẽ thật, mà chỉ mưu cầu ân điển và phước lành. Tôi đã đi vào con đường chống đối Đức Chúa Trời. Không đời nào tôi đạt được lẽ thật bằng cách đó, và tâm tính bại hoại của tôi sẽ không thay đổi. Cuối cùng tôi sẽ bị đào thải! Sau đó tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời khác: “Ngươi có thể nghĩ rằng tin vào Đức Chúa Trời là chịu khổ, hoặc làm đủ thứ việc cho Ngài; ngươi có thể nghĩ rằng mục đích của việc tin vào Đức Chúa Trời là để cho xác thịt ngươi có thể được bình an, hoặc để cho mọi thứ trong cuộc đời ngươi diễn ra suôn sẻ, hoặc để cho ngươi có thể được thoải mái và thanh thản trong mọi việc. Tuy nhiên, không điều nào trong số này là mục đích mà mọi người nên gán cho niềm tin của họ nơi Đức Chúa Trời. Nếu ngươi tin vì những mục đích này, thì quan điểm của ngươi là không đúng, và đơn giản là ngươi không thể được hoàn thiện. Những hành động của Đức Chúa Trời, tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, sự khôn ngoan của Ngài, lời Ngài, cùng sự kỳ diệu và không thể dò lường của Ngài là tất cả những điều mọi người nên hiểu. Sau khi đã có được sự hiểu biết này rồi, ngươi nên dùng nó để rũ bỏ khỏi lòng mình tất cả những yêu cầu, hy vọng, và quan niệm cá nhân. Chỉ bằng cách loại bỏ những điều này thì ngươi mới có thể đáp ứng được những điều kiện Đức Chúa Trời đòi hỏi, và chỉ bằng cách làm điều này, ngươi mới có thể có được sự sống và làm thỏa lòng Đức Chúa Trời. Mục đích tin vào Đức Chúa Trời là để làm thỏa lòng Ngài và để sống bày tỏ ra tâm tính mà Ngài đòi hỏi, hầu cho những hành động và sự vinh hiển của Ngài có thể được thể hiện qua nhóm người không xứng đáng này. Đây là quan điểm đúng đắn đối với việc tin vào Đức Chúa Trời, và đây cũng là mục tiêu ngươi nên tìm kiếm” (Những người được làm cho hoàn thiện phải trải qua sự tinh luyện, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Những lời Đức Chúa Trời chỉ cho tôi biết nên mưu cầu điều gì. Khi tin Đức Chúa Trời, tôi không nên theo đuổi phước lành hay bất cứ lợi ích nào, mà thay vào đó nên tìm kiếm cách biết và làm thỏa lòng Đức Chúa Trời, để giống như Gióp, không yêu cầu hay đòi hỏi Đức Chúa Trời gì cả. Gióp tin rằng mọi thứ mình có là được Đức Chúa Trời ban cho, nên dù Đức Chúa Trời ban cho hay lấy đi, dù ông có phước lành hay gặp bất hạnh, ông vẫn vâng phục Đức Chúa Trời vô điều kiện và ngợi ca sự công chính của Ngài. Nên khi Sa-tan cám dỗ Gióp, khi toàn bộ tài sản của ông bị tước đoạt, con cái ông vong mạng, người ông nổi đầy ung nhọt, ông cũng không hề oán trách Đức Chúa Trời, và vẫn ngợi ca danh Ngài. Dù Đức Chúa Trời có làm gì, Gióp vẫn giữ vị trí của một tạo vật, quy phục và thờ phượng Ngài. Đức tin của Gióp được Đức Chúa Trời khen ngợi. Nhận thức này mở cho tôi một con đường thực hành. Dù chồng tôi có khỏi bệnh hay không, tôi cũng phải quy phục Đức Chúa Trời và làm tốt bổn phận của mình.
Sau đó tôi đọc được đoạn này trong lời Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Trời đã lên kế hoạch đầy đủ về nguồn gốc, sự ra đời, quãng đời, và kết cuộc của mọi loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, cũng như sứ mạng cuộc đời của chúng và vai trò của chúng trong toàn thể nhân loại. Không ai có thể thay đổi những điều này; đây là thẩm quyền của Đấng Tạo Hóa. Sự ra đời của mọi loài thọ tạo, sứ mạng cuộc đời của chúng, khi nào quãng đời của chúng sẽ kết thúc – tất cả những quy luật này đều do Đức Chúa Trời quy định từ lâu, cũng giống như Đức Chúa Trời đã quy định quỹ đạo của mọi thiên thể; những thiên thể này theo quỹ đạo nào, trong bao nhiêu năm, chúng đi theo quỹ đạo như thế nào, chúng tuân theo những quy luật nào – tất cả những điều này đã được Đức Chúa Trời định sẵn từ lâu, không thay đổi trong hàng nghìn, hàng vạn, hàng trăm nghìn năm. Điều này là do Đức Chúa Trời định sẵn, và đây là thẩm quyền của Ngài” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng vận mệnh, tuổi thọ, và kết cục của chúng ta đều nằm trong tay Đấng Tạo Hóa. Sinh, lão, bệnh tử của chúng ta đều do quyền tể trị của Đức Chúa Trời định đoạt. Đức Chúa Trời định đoạt khi nào chúng ta chết, và không ai thoát được. Nhưng nếu thời điểm Đức Chúa Trời định cho chúng ta chưa tới, thì dù có bị ung thư, chúng ta vẫn sẽ không chết. Đây là thẩm quyền của Đức Chúa Trời và không ai có thể thay đổi được. Hiểu ra điều đó giúp tôi thoải mái trong lòng hơn một chút. Tôi biết sức khỏe của chồng mình nằm trong tay Đức Chúa Trời, và tôi chỉ có thể vâng phục những gì Ngài an bài và làm tốt bổn phận của mình.
Chồng tôi tiếp tục điều trị hóa trị ở bệnh viện một thời gian, và thật bất ngờ, không có tế bào ung thư trong máu anh ấy. Tất cả chỉ số đều bình thường. Một nửa khối u cũng đã biến mất. Bác sĩ nói rất hiếm thấy một ca như thế này. Con trai chúng tôi nói rằng bố của đồng nghiệp nó cũng bị ung thư giống vậy. Ông ấy được hóa trị một lần và không chịu nổi, rồi mất sau vài tháng. Tôi rất biết ơn Đức Chúa Trời khi chồng tôi khỏi nhanh như vậy. Điều làm tôi vui nhất là chồng tôi chỉ là một tín hữu trên danh nghĩa, và luôn chạy theo tiền bạc, nhưng sau khi bị ung thư, anh ấy đã hiểu đôi chút về quyền tối thượng toàn năng của Đức Chúa Trời, sau đó còn rao giảng Phúc Âm và chứng thực về việc Đức Chúa Trời làm với bạn bè và họ hàng.
Mặc dù tôi rất đau khổ khi trải qua sự việc này, nhưng tôi đã hiểu được phần nào về mong muốn được phước của mình cũng như quan điểm sai lầm trong việc mưu cầu, và chỉnh đốn lại mục tiêu mưu cầu trong đức tin. Đây là tất cả những bài học tôi đã học được qua trải nghiệm này. Tôi thấy công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời thật thiết thực!