2. Đường vào vương quốc của Đức Chúa Trời không phải luôn suôn sẻ
Tôi sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc và từ nhỏ đã theo cha mẹ tin vào Chúa. Tôi cũng thường đến các buổi nhóm họp của nhà thờ và tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau của hội thánh. Một ngày nọ, vào tháng 3 năm 2020, tôi gặp một người chị em trên Facebook. Chúng tôi đã nói về đức tin nơi Chúa và tôi cảm thấy những điều chị ấy nói rất mới lạ. Chẳng hạn chị ấy hỏi tôi có biết tiêu chuẩn để bước vào vương quốc thiên đàng không, và đề tài này lập tức khơi gợi trí tò mò của tôi. Tôi nghĩ: “Mình đã tin vào Chúa lâu như vậy, nhưng các mục sư và trưởng lão chưa từng thảo luận về các tiêu chuẩn để bước vào vương quốc thiên đàng. Mình cũng chưa từng nghĩ liệu chúng ta có thể thực sự bước vào vương quốc thiên đàng bằng cách tin Chúa như thế này không”. Đây là lần đầu tiên tôi nghe về chủ đề này và tò mò muốn biết câu trả lời. Sau đó, nhờ tham dự các cuộc nhóm họp và đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi hiểu ra rằng sau khi bị Sa-tan làm cho bại hoại, bên trong chúng ta đều có bản tính tội lỗi và ta thường phạm tội. Nếu không loại bỏ được bản tính tội lỗi này, chúng ta không thể thoát khỏi tội lỗi được. Những kẻ nhơ bẩn và bại hoại theo cách này không đủ tư cách bước vào vương quốc thiên đàng, vì Đức Chúa Trời công chính và thánh khiết, và con người không thể thấy Ngài nếu không thánh khiết. Chị ấy cũng bảo tôi: “Đức Chúa Jêsus đã tái lâm thành Đức Chúa Trời Toàn Năng để bày tỏ nhiều lẽ thật, thực hiện công tác phán xét và làm tinh sạch mọi người. Ngài làm việc này để loại bỏ bản tính tội lỗi của chúng ta và cứu rỗi triệt để chúng ta khỏi tội lỗi. Chỉ có chấp nhận công tác phán xét của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt và được làm tinh sạch hết sự bại hoại thì chúng ta mới đủ tư cách bước vào vương quốc thiên đàng”. Chị ấy cũng đọc cho tôi nghe lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng: “Ngươi chỉ biết rằng Jêsus sẽ ngự xuống trong thời kỳ sau rốt, nhưng chính xác Ngài sẽ ngự xuống như thế nào? Một tội nhân như các ngươi, người chỉ mới được cứu chuộc, và chưa được thay đổi hoặc được Đức Chúa Trời hoàn thiện, ngươi có thể hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời sao? Đối với ngươi, ngươi vẫn còn bản ngã cũ của mình, đúng là ngươi đã được Jêsus cứu rỗi, và ngươi không bị xem là một tội nhân nhờ sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, nhưng điều này không chứng minh rằng ngươi vô tội và không ô uế. Làm sao ngươi có thể nên thánh nếu ngươi chưa được thay đổi? Bên trong, ngươi bị bủa vây bởi sự ô uế, ích kỷ và hèn hạ, nhưng ngươi vẫn muốn được ngự xuống với Jêsus – ngươi chẳng thể may mắn vậy được! Ngươi đã bỏ qua một bước trong niềm tin của mình vào Đức Chúa Trời: Ngươi chỉ đơn thuần đã được cứu chuộc, nhưng ngươi vẫn chưa được thay đổi. Để ngươi hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời phải đích thân thực hiện công tác thay đổi và làm cho ngươi thanh sạch; nếu không thì ngươi, kẻ chỉ được cứu chuộc, sẽ không có khả năng đạt được sự nên thánh. Theo cách này, ngươi sẽ không đủ tư cách để dự phần trong những phước lành của Đức Chúa Trời, vì ngươi đã bỏ qua một bước trong công tác quản lý con người của Đức Chúa Trời, là bước then chốt, để thay đổi và hoàn thiện. Và vì vậy, ngươi, một tội nhân chỉ được cứu chuộc, không có khả năng trực tiếp thừa hưởng cơ nghiệp của Đức Chúa Trời” (Xét về danh xưng và thân phận, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Mặc dù Jêsus đã làm nhiều công tác giữa con người, nhưng Ngài chỉ hoàn thành việc cứu chuộc toàn thể nhân loại và trở thành của lễ chuộc tội cho con người; Ngài vẫn chưa loại bỏ khỏi con người tất cả những tâm tính bại hoại của họ. Để hoàn toàn cứu rỗi con người khỏi ảnh hưởng của Sa-tan, không chỉ cần Jêsus trở thành của lễ chuộc tội và gánh lấy những tội lỗi của con người, mà còn cần Đức Chúa Trời làm công tác vĩ đại hơn nữa để hoàn toàn loại bỏ tâm tính Sa-tan bại hoại khỏi con người. Và vì thế, khi con người đã được tha thứ tội lỗi, Đức Chúa Trời đã trở lại xác thịt để dẫn dắt con người vào thời đại mới, và bắt đầu công tác của hình phạt và sự phán xét. Công tác này đã đưa con người vào một cõi cao hơn. Tất cả những ai thuận phục dưới sự thống trị của Ngài sẽ được hưởng lẽ thật cao hơn và nhận lãnh những phước lành lớn hơn. Họ sẽ thực sự sống trong sự sáng, và họ sẽ đạt được lẽ thật, đường đi, và sự sống” (Lời tựa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Người chị em cũng thông công với tôi về hiểu biết của chị về lời Đức Chúa Trời. Sau khi nghe xong, tôi đã suy nghĩ về những việc làm và lối hành xử của mình cùng các anh chị em. Tôi phải thừa nhận rằng khi tin vào Chúa, tội lỗi của chúng tôi đã được ân xá, chúng tôi được hưởng ân điển dồi dào của Chúa và đã làm được một số việc tốt, chúng tôi tử tế và không đánh đập, la mắng người khác, nhưng chúng tôi vẫn có thể thường xuyên nói dối và phạm tội, chúng tôi kiêu ngạo tự đại và xem thường người khác, chúng tôi tranh giành danh lợi với người khác và chúng tôi vẫn ghen tỵ, ghét bỏ người khác, v.v.. Chúng tôi đều bị mắc kẹt trong vòng tuần hoàn phạm tội rồi thú tội, và chúng tôi liên tục vật lộn với tội lỗi. Chỉ sau khi đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi mới hiểu đó là vì bản tính tội lỗi trong chúng tôi chưa được loại bỏ. Từ lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi cũng đã tìm ra con đường để thoát khỏi tội lỗi và được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Đó là chúng ta phải chấp nhận công tác phán xét của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt. Chỉ khi những tâm tính bại hoại của chúng ta đã được làm tinh sạch thì chúng ta mới đủ tư cách bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ lời Đức Chúa Trời Toàn Năng rất hay và thực tế. Lời Ngài đã làm lòng tôi bừng sáng và giúp tôi hiểu được một số lẽ thật mình chưa từng nghe trước đó. Sau đó, tôi siêng đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, tích cực tham gia các cuộc nhóm họp trực tuyến, thông công với các anh chị em về kiến thức và hiểu biết về lời Đức Chúa Trời, và lần nào chúng tôi gặp nhau, tôi cũng thấy rất bổ ích và thú vị. Sau một thời gian, tôi đã biết được nhiều lẽ thật và lẽ nhiệm mầu mà trước đây mình chưa biết khi tin vào Chúa và đọc Kinh Thánh, chẳng hạn như sự nhập thể là gì, cách phân biệt Đấng Christ thật và các christ giả, lẽ nhiệm mầu về danh Đức Chúa Trời, mục đích kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời, Sa-tan làm nhân loại bại hoại như thế nào, cách Đức Chúa Trời công tác từng bước để cứu rỗi nhân loại, vương quốc của Đức Chúa Trời được hiện thực hóa trên đất ra sao, v.v.. Trong lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi cũng có được câu trả lời cho nhiều điều trong Kinh Thánh tôi chưa rõ trước đây. Tôi nhận ra những lẽ thật và lẽ nhiệm mầu này chỉ có thể do chính Đức Chúa Trời mặc khải và không con người nào có thể có quyền năng hé mở những lẽ nhiệm mầu này. Vì thế, tôi đã xác định rằng lời Đức Chúa Trời Toàn Năng là lẽ thật, là tiếng Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm! Tôi rất phấn khích. Tôi đã báo tin mừng về sự tái lâm của Chúa cho nhiều người bạn và bảo họ cùng tìm hiểu công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt.
Nhưng không lâu sau, hội thánh của tôi – Hội thánh Báp-tít ở Đông Bắc Ấn độ – bắt đầu loan truyền cho tín hữu tài liệu do các mục sư tôn giáo bịa đặt để lên án Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng. Những tài liệu này chứa đầy sự vu khống, bôi nhọ Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng của ĐCSTQ, và cấm những người đi theo tham dự các buổi nhóm họp của hội thánh. Nội dung này cũng được phát sóng trên các đài truyền hình lớn ở Ấn Độ. Chỉ cần mở TV hay máy tính lên xem tin tức là có thể thấy kiểu tuyên truyền tiêu cực này. Nó đã nhanh chóng lan rộng ra toàn quốc. Thấy các mục sư và lãnh tụ của giới tôn giáo này trắng trợn xuyên tạc sự thật, loan truyền những tin đồn và ngụy biện để vu khống và lên án Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi rất tức giận và buồn bực. Lúc đó, nhiều người trong số những người cùng tìm hiểu công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt với tôi vì bị mê hoặc nên đã rút khỏi các nhóm họp. Một số thậm chí còn cố khuyên can tôi, nói rằng: “Đây là hội thánh bị ĐCSTQ lên án và không nên tin”. Tôi thất vọng khi thấy họ từ bỏ con đường thật và cảm thấy tiếc cho họ. ĐCSTQ là một chế độ vô thần. Họ không hề tin có Đức Chúa Trời và liên tục đàn áp các đức tin tôn giáo. Tại sao những người này lại thích tin vào ĐCSTQ, một đảng chính trị vô thần, thay vì lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời hay tìm hiểu về công tác của Ngài chứ? Sao họ có thể ngu ngốc đến vậy? Đúng lúc đó, một người bạn ở quê tôi thấy tôi đăng trên WhatsApp rằng: “Chúa đã tái lâm và vương quốc của Đấng Christ đã đến thế gian” bèn hỏi tôi có tham dự các cuộc nhóm họp của Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng không. Tôi nói: “Có”. Anh ấy bảo tôi không nên tin chuyện đó. Anh cũng gửi cho tôi những lời nhận xét và ngụy biện vu khống Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng và nói: “Các mục sư đã cảnh báo chúng ta không được đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng. Sự tái lâm của Chúa trong thời kỳ sau rốt không thể là sự nhập thể, vì vậy chúng ta không được tham dự các cuộc nhóm họp của Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng”. Tôi chẳng hề lung lay trước những lời của anh ta, vì trước đó, các anh chị em trong Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng đã thông công lẽ thật về sự nhập thể với tôi rằng Chúa sẽ tái lâm vào thời kỳ sau rốt trong sự nhập thể, điều Đức Chúa Trời đã lên kế hoạch từ lâu và được chứng minh bởi những lời tiên tri của Đức Chúa Jêsus. Đức Chúa Jêsus phán: “Vì như chớp phát ra từ phương đông, nháng đến phương tây, thì sự Con người đến sẽ cũng thể ấy” (Ma-thi-ơ 24:27). “Vì như chớp nháng lòe từ dưới phương trời nầy đến dưới phương trời kia, thì Con người trong ngày Ngài cũng như vậy. Nhưng Ngài trước phải chịu đau đớn nhiều, và bị dòng dõi nầy bỏ ra” (Lu-ca 17:24-25). “Vậy thì các ngươi cũng hãy chực cho sẵn, vì Con người sẽ đến trong giờ các ngươi không ngờ” (Ma-thi-ơ 24:44). Khi Đức Chúa Jêsus tiên tri sự tái lâm của Ngài trong thời kỳ sau rốt, Ngài đã nhiều lần đề cập “sự Con người đến”, “Con người đến” và “Con người trong ngày của Ngài”. Ở đây, “Con người” ám chỉ Đức Chúa Trời nhập thể. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã đến trong thời kỳ sau rốt và bày tỏ nhiều lẽ thật. Ngài là sự Con người đến, sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế ứng nghiệm những lời tiên tri của Đức Chúa Jêsus. Tôi cũng biết được chỉ có Đức Chúa Trời là lẽ thật, đường đi và sự sống. Nếu một người có thể bày tỏ lẽ thật và lời Đức Chúa Trời, đồng thời có thể thực hiện công tác phán xét và làm tinh sạch con người trong thời kỳ sau rốt, thì người này phải là Đức Chúa Trời nhập thể. Chẳng cần biết diện mạo của Ngài bình thường như thế nào, hoặc liệu Ngài có địa vị, quyền lực hay không, lời và công tác của Ngài là những điều quan trọng nhất. Đây là cách tốt nhất để chứng tỏ thân phận và địa vị của Ngài. Tôi nói với bạn những gì mình hiểu và bảo anh ấy rằng: “Đức Chúa Trời là Chúa của tạo vật, Đức Chúa Trời có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn. Điều loài người chúng ta nên làm là tìm kiếm, chứ không phải phán xét và quy định Ngài. Những cuộc nhóm họp của Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng rất hữu ích cho tôi và giúp tôi hiểu ra nhiều lẽ thật, vì vậy tôi sẽ không thôi nhóm. Khi chúng ta tin vào Đức Chúa Trời, chúng ta nên lắng nghe tiếng Ngài, chứ không phải mù quáng nghe theo con người. Kinh Thánh nói: ‘Thà phải vâng lời Ðức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta’ (Công Vụ Các Sứ đồ 5:29)”. Sau đó, bạn tôi nghiêm mặt nói với tôi: “Nếu anh cứ tiếp tục tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng, thì khi anh về quê, Hội đồng Tối cao sẽ chất vấn anh. Mục sư sẽ không để anh tin vào điều này và dân làng sẽ chối bỏ anh. Anh có nghĩ đến những điều này chưa?”. Tôi nói: “Bị mọi người chối bỏ không đáng sợ. Điều đáng sợ là không theo kịp bước chân của Đức Chúa Trời và bị Đức Chúa Trời bỏ rơi. Anh có từng nghĩ đến việc nếu Đức Chúa Trời Toàn Năng thực sự là Đức Chúa Jêsus tái lâm và chúng ta không chấp nhận, thì chúng ta sẽ bị rơi vào thảm họa, khóc lóc nghiến răng chưa? Sự tái lâm của Chúa là một vấn đề trọng đại, thế thì tại sao anh lại không tìm kiếm và tìm hiểu điều này?”. Nhưng anh ấy vẫn không chịu nghe lời khuyên của tôi.
Sau đó, bạn tôi đã nói với ba mẹ tôi về đức tin của tôi nơi Đức Chúa Trời Toàn Năng. Suốt cả tuần sau đó, ngày nào ba mẹ cũng gọi cho tôi và la mắng, nói rằng: “Mục sư cứ bảo ba mẹ không được để con đi dự những cuộc nhóm họp của Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng. Con phải dừng tham gia những cuộc nhóm họp đó và rời bỏ hội thánh đó đi!”. Tôi bảo họ rằng: “Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng không như những gì mục sư nói đâu. Việc tham gia các cuộc nhóm họp của họ đã cho phép con hiểu nhiều lẽ thật mà trước kia con không hiểu. Đây là con đường thật và con không đi lạc”. Tôi muốn làm chứng về công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt cho ba mẹ mình, nhưng họ đã bị những lời đồn đại mê hoặc đến nỗi không cho tôi nói nữa. Sau đó, vì dịch bệnh, tôi nghỉ học về nhà. Khi ba mẹ thấy tôi thường xuyên tham dự các cuộc nhóm họp trực tuyến của Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng, họ đã cố ngăn cấm tôi. Hàng xóm cũng bàn tán về tôi, nói tôi bị điên vì tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng và phớt lờ mục sư. Ba mẹ tôi thậm chí còn tức giận hơn khi nghe người ta nói vậy. Về nhà, họ la mắng tôi: “Con có biết dân làng nói gì về con không hả? Con không quan tâm đến những gì ba mẹ nói và vẫn đến các cuộc nhóm họp đó chứ gì?”. Tôi nói: “Phải, con vẫn sẽ đi nhóm”. Ba mẹ tôi rất tức giận và càng cố ngăn cản tôi. Khi tôi nhóm, họ thường xuyên khiến tôi bị gián đoạn và khó mà nhóm yên được. Có lần khi đang cầu nguyện sau một cuộc nhóm họp, lúc mở mắt ra, tôi đột nhiên thấy ba tôi đang đứng bên cạnh, nhìn tôi chằm chằm, khiến tôi sốc đứng tim. Rồi ông tức giận hét lên: “Cắt Internet và ra khỏi nhóm họp ngay!”. Tôi bảo ba mẹ: “Đức Chúa Jêsus thực sự đã tái lâm trở thành Đức Chúa Trời Toàn Năng và đang thực hiện công tác mới rồi. Nếu chúng ta không theo kịp bước chân của Đức Chúa Trời và không chấp nhận công tác phán xét của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, thì sẽ không thể thoát khỏi tội lỗi, không thể được cứu rỗi và bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời, cuối cùng chúng ta sẽ rơi vào thảm họa và bị trừng phạt”. Nhưng họ không hề nghe những gì tôi nói và lặp lại những lời đồn và ngụy biện mục sư rao giảng. Họ nói không thể nào có chuyện Đức Chúa Trời đã nhập thể thành một phụ nữ. Tôi nghĩ: “Làm sao tôi có thể thông công với họ đây? Rồi tôi nhớ đến một đoạn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng mà các anh chị em ở Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng đã đọc cho tôi nghe: “Mỗi giai đoạn công tác được Đức Chúa Trời thực hiện đều có ý nghĩa thực tế riêng của nó. Thời xưa, khi Jêsus đến, Ngài đến trong hình hài người nam, và khi Đức Chúa Trời đến lần này, hình hài của Ngài là người nữ. Từ điều này, ngươi có thể thấy rằng sự tạo dựng cả người nam và người nữ của Đức Chúa Trời đều có thể hữu dụng trong công tác của Ngài, và với Ngài không có sự phân biệt giới tính. Khi Thần của Ngài đến, Ngài có thể mang lấy bất kỳ xác thịt nào mà Ngài muốn, và xác thịt đó có thể đại diện cho Ngài; dù là nam hay nữ, nó có thể đại diện cho Đức Chúa Trời miễn nó là xác thịt nhập thể của Ngài. Nếu Jêsus đã xuất hiện trong thân phận một người nữ khi Ngài đến, nói cách khác, nếu một bé gái sơ sinh, chứ không phải một bé trai, đã được thai dựng bởi Đức Thánh Linh, thì giai đoạn công tác đó sẽ được hoàn thành dù thế nào đi chăng nữa. Nếu đúng là như thế, thì giai đoạn công tác hiện tại thay vào đó sẽ phải được hoàn thành bởi một người nam, nhưng công tác sẽ được hoàn thành dù thế nào đi chăng nữa. Công tác được thực hiện trong mỗi giai đoạn đều có ý nghĩa; không có giai đoạn công tác nào bị lặp lại, chúng cũng không mâu thuẫn với nhau” (Hai lần nhập thể hoàn tất ý nghĩa của sự nhập thể, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi nhớ họ đã thông công rằng sự nhập thể của Đức Chúa Trời chính là Thần của Đức Chúa Trời mặc lấy xác thịt và trở thành một Con người bình thường, nên dù người này có là nam hay nữ, thì Ngài vẫn là chính Đức Chúa Trời, và Ngài cũng có thể bày tỏ lẽ thật, thực hiện công tác của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jêsus là nam. Ngài đã bị đóng đinh vì nhân loại và gánh chịu tội lỗi cho con người, từ đó hoàn thành công tác cứu chuộc nhân loại. Trong thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời đến nhập thể thành một người nữ, và trên nền tảng công tác của Đức Chúa Jêsus, Ngài bày tỏ mọi lẽ thật cần thiết để cứu rỗi nhân loại, thực hiện công tác phán xét và làm tinh sạch con người. Do đó, dù Đức Chúa Trời nhập thể có là nam hay nữ, thì Ngài vẫn có thể bày tỏ lẽ thật và làm công tác cứu chuộc và cứu rỗi nhân loại. Nếu cả hai lần Đức Chúa Trời đều nhập thể là nam thì con người sẽ quy định Đức Chúa Trời, nghĩ rằng Ngài chỉ có thể nhập thể là nam, chứ không thể là nữ. Thế thì, chẳng phải nữ giới sẽ lại phải đối mặt với sự phân biệt đối xử và kỳ thị nhiều hơn sao? Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời công chính. Ngài đã tạo dựng cả nam lẫn nữ. Lần đầu tiên Đức Chúa Trời đã nhập thể là nam, và trong thời kỳ sau rốt Ngài đã trở nên xác thịt một lần nữa, là nữ, nghĩa là Ngài công bằng với cả nam và nữ. Nếu Đức Chúa Trời cả hai lần đều nhập thể là nam, như thế sẽ không công bằng với nữ, nên Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt là nữ trong thời kỳ sau rốt. Điều đó cho thấy tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, và cho thấy Đức Chúa Trời đã tạo dựng nam và nữ, và cả nam lẫn nữ đều bình đẳng trước Đức Chúa Trời. Điều này rất có ý nghĩa! Nghĩ vậy nên tôi đã nói với ba mẹ: “Đức Chúa Trời tạo dựng người nam và người nữ theo hình tượng của chính Ngài, vì vậy Đức Chúa Trời nhập thể hiển nhiên có thể là nam hoặc nữ. Ngoại hình của Ngài không quan trọng. Quan trọng là vì Ngài có thể bày tỏ lẽ thật để cứu rỗi nhân loại nên Ngài là sự nhập thể của Thần Đức Chúa Trời, là chính Đức Chúa Trời”. Ba mẹ tôi không thể bác bỏ lời tôi, thế là họ nói: “Con nói Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đức Chúa Jêsus tái lâm, nhưng ba mẹ không tin. Ba mẹ sẽ chấp nhận điều đó khi các mục sư và trưởng lão chấp nhận điều đó. Mục sư nói Đức Chúa Trời Toàn Năng là một người bình thường được sinh ra trong một gia đình bình thường, vì vậy đó không thể là sự nhập thể của Đức Chúa Trời được”. Đáp lại vấn đề này, tôi nói với họ: “Khi Đức Chúa Jêsus đến công tác, các thầy tế lễ cả, thầy thông giáo và những người Pha-ri-si của Do Thái giáo đã không nhận ra Ngài là Đức Chúa Trời vì sự ra đời và vẻ ngoài bình thường. Họ chối bỏ Đức Chúa Jêsus, nói rằng: ‘Chẳng phải đây là con trai của người thợ mộc sao? Chẳng phải mẹ của Ông ta tên là Ma-ri sao?’. Những người Pha-ri-si này chỉ nhìn vào vẻ ngoài của Đức Chúa Jêsus. Họ không tìm hiểu xem lời và công tác của Ngài có đến từ Đức Chúa Trời hay không. Họ đã phán xét bằng tâm tính kiêu ngạo rằng Ngài là một con người bình thường, chứ không phải Đức Chúa Trời. Họ cũng bịa đặt những tin đồn, vu khống và lên án Đức Chúa Jêsus. Các tín đồ Do Thái giáo tôn thờ và đi theo họ, nên đã đi theo họ đóng đinh Chúa. Cuối cùng, họ đánh mất sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời và bị trừng phạt. Ngày nay cũng vậy. Các mục sư và trưởng lão không tìm hiểu xem những lời Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ có phải là lẽ thật và tiếng Đức Chúa Trời hay không. Họ chỉ mù quáng phán xét và lên án Đức Chúa Trời Toàn Năng, nói rằng Đức Chúa Trời Toàn Năng là một người bình thường, và chất vấn về nguồn gốc, xuất thân của Ngài. Chẳng phải việc này cũng giống như khi những người Pha-ri-si lên án Đức Chúa Jêsus sao?”. Tôi nhớ đến một đoạn lời Đức Chúa Trời mà các anh chị em đã đọc cho tôi nghe. “Đấng là Đức Chúa Trời nhập thể sẽ sở hữu thực chất của Đức Chúa Trời, và Đấng là Đức Chúa Trời nhập thể sẽ sở hữu sự bày tỏ của Đức Chúa Trời. Bởi vì Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, Ngài sẽ đưa ra công tác mà Ngài định làm, và bởi vì Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, Ngài sẽ bày tỏ Ngài là gì, và sẽ đem đến lẽ thật cho con người, ban sự sống cho con người, và chỉ lối cho con người. Xác thịt không có thực chất của Đức Chúa Trời thì dứt khoát không phải là Đức Chúa Trời nhập thể; điều này không có gì phải nghi ngờ. Nếu con người định tìm hiểu xem đó có phải là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, thì họ phải xác định điều này từ tâm tính Ngài bày tỏ và những lời Ngài phán ra. Nghĩa là, để xác định đó có phải xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, và đó có phải là con đường thật hay không, thì người ta phải phân biệt dựa trên thực chất của Ngài. Và vì thế, để xác định đó có phải là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, điều cốt yếu nằm ở thực chất của Ngài (công tác của Ngài, những lời phán của Ngài, tâm tính của Ngài và nhiều khía cạnh khác), chứ không phải là hình dáng bên ngoài. Nếu con người chỉ soi hình dáng bên ngoài của Ngài, và vì thế mà bỏ qua thực chất của Ngài, thì điều này chứng tỏ con người thật vô tri và ngu muội” (Lời tựa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi nói với ba mẹ: “Việc chúng ta xác định xác thịt của Đức Chúa Trời Toàn Năng có phải là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời không nên dựa trên việc Ngài có thể bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác cứu rỗi nhân loại hay không, chứ không phải dựa trên vẻ ngoài của Ngài có bình thường hay không. Ba mẹ nghĩ xem, chúng ta tin vào Đức Chúa Jêsus vì hình tượng của Ngài trong xác thịt hay sao? Không hề. Chúng ta tin Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ nhập thể vì đã đọc lời Ngài trong Kinh Thánh và nhận ra lời Ngài có thẩm quyền, Ngài có thể cứu chuộc nhân loại, xóa bỏ tội lỗi của con người, và vì chúng ta đã hưởng rất nhiều ân điển của Chúa. Hôm nay, con tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng vì con nhận ra những lời Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ là lẽ thật. Chúng có thẩm quyền, quyền năng và là tiếng Đức Chúa Trời. Chỉ có như thế con mới tin Ngài là Đức Chúa Trời nhập thể, là Đức Chúa Jêsus tái lâm. Ba mẹ cũng nên đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng đi. Đừng mù quáng nghe lời các mục sư và tin vào những gì các mục sư nói. Nếu họ đi con đường sai lầm, chống đối Đức Chúa Trời và lên án Ngài, thì ba mẹ có đi theo họ chống đối và lên án Đức Chúa Trời không?”. Nghe tôi nói vậy, ba mẹ rất tức giận. Họ mắng tôi: “Nếu con dám chống lại các mục sư và trưởng lão, con sẽ bị dân làng đuổi cổ. Con thậm chí còn chưa phải là người lớn, con sẽ đi đâu? Lúc đó ba mẹ không giúp được con đâu! Đừng nói về những chuyện này nữa và đừng làm chứng về Đức Chúa Trời Toàn Năng cho người khác. Khi các mục sư và trưởng lão chấp nhận, ba mẹ sẽ chấp nhận. Giờ thì đừng tự chuốc họa vào thân”. Dù tôi có thông công với họ thế nào, họ cũng không chịu nghe và quở trách tôi gay gắt. Họ nói: “Ba mẹ đã tốn bao nhiêu tiền cho con đi học, cho con cái ăn, cái mặc, nhưng con lại quá bất tuân. Con làm ba mẹ thất vọng quá đấy”. Lúc đó, hai anh trai của tôi cũng đứng về phía ba mẹ. Không ai trong gia đình nghe tôi khuyên cả. Tôi đã cố gắng nói với họ rằng Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bày tỏ nhiều lẽ thật và cố gắng chia sẻ những gì tôi đã thu được cho họ, nhưng dù tôi có nói gì thì họ vẫn không nghe. Trước kia, ba mẹ tôi và dân làng đối xử với tôi rất tốt, nhưng giờ đây, chỉ vì tôi tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng mà thái độ của họ với tôi đã thay đổi. Tôi đã trở thành một nhân vật phản diện trong mắt họ và bị ruồng bỏ. Ngay cả khi ở nhà, tôi cũng không cảm nhận được sự quan tâm của gia đình dành cho mình. Tôi cảm thấy cô đơn và khổ sở. Nhưng tôi biết dù thế nào đi nữa, mình cũng không thể từ bỏ việc nhóm họp được, vì tôi biết nếu không nhóm họp và trang bị lẽ thật cho mình, tôi sẽ không thể chịu đựng được môi trường như vậy. Sau đó, để tránh những xung đột không cần thiết, tôi phải giấu họ và bí mật nhóm họp. Tôi không thể nói chuyện và thông công được. Tôi chỉ có thể âm thầm liên lạc với các anh chị em mình bằng tin nhắn.
Một tối nọ, vị mục sư và một đồng sự của ông đột nhiên đến nhà tôi. Hàng xóm và một số dân làng cũng đến xem. Mục sư hỏi tôi: “Các cậu nói gì trong các buổi nhóm họp của Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng?”. Tôi nói: “Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng làm chứng rằng Đức Chúa Jêsus đã tái lâm và chính là Đức Chúa Trời Toàn Năng thực hiện công tác phán xét trong thời kỳ sau rốt. Chúng cháu cũng thông công về loại người nào có thể bước vào vương quốc thiên đàng, cách mưu cầu để được cứu rỗi và những vấn đề khác”. Rồi vị mục sư hỏi với giọng khinh bỉ: “Vậy cậu hãy nói cho tôi biết loại người nào có thể bước vào vương quốc thiên đàng đi”. Tôi trả lời ông: “Kinh Thánh nói: ‘Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước thiên đàng đâu; nhưng chỉ kẻ tuân theo ý chỉ của Cha ta ở trên trời mà thôi’ (Ma-thi-ơ 7:21). ‘Các ngươi phải nên thánh, vì ta là thánh’ (Lê-vi 11:45). Từ những câu này, chúng ta có thể thấy nếu muốn bước vào vương quốc thiên đàng, chúng ta phải thoát khỏi tội lỗi, được làm tinh sạch khỏi các tâm tính bại hoại và trở thành người tuân theo ý chỉ của Đức Chúa Trời. Hiện chúng ta đều vẫn sống trong tội lỗi. Chúng ta thường xuyên dối trá, phạm tội và chúng ta không thực hành lời Đức Chúa Trời, nên không thể bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Cháu từng không rõ lý do chúng ta bị mắc kẹt trong vòng tuần hoàn liên tục của việc phạm tội, thú tội rồi lại phạm tội. Tại sao chúng ta không thể thoát khỏi sự trói buộc của tội lỗi? Chỉ sau khi đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, cháu mới hiểu rằng khi chúng ta tin vào Chúa, tội lỗi của chúng ta được ân xá, nhưng bản tính tội lỗi của chúng ta, căn nguyên tội lỗi của chúng ta vẫn chưa bị loại bỏ, nên chúng ta vẫn không thể không liên tục nói dối và phạm tội. Kinh Thánh nói: ‘Nếu không nên thánh thì chẳng ai được thấy Ðức Chúa Trời’ (Hê-bơ-rơ 12:14). Chúa rất thánh khiết, nên nếu vẫn phạm tội và chống đối Đức Chúa Trời, chúng ta không thể bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Giờ Đức Chúa Jêsus đã tái lâm để thực hiện công tác phán xét trong thời kỳ sau rốt. Ngài bày tỏ tất cả những lẽ thật làm tinh sạch và cứu rỗi nhân loại, điều ứng nghiệm lời tiên tri của Đức Chúa Jêsus: ‘Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật’ (Giăng 16:12-13). Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bày tỏ nhiều lẽ thật. Ngài không chỉ mặc khải lẽ nhiệm mầu về kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời, mà còn mặc khải căn nguyên phạm tội của loài người, phán xét và vạch rõ bản tính Sa-tan và tâm tính bại hoại của con người như kiêu ngạo, giả dối, tà ác, v.v.. Ngài cũng vạch rõ những điều uế tạp khác nhau trong đức tin của chúng ta nơi Đức Chúa Trời và các ý định cùng quan điểm sai lầm khác, chẳng hạn như tin vào Đức Chúa Trời chỉ để bước vào vương quốc thiên đàng được phước lành. Các anh chị em trong Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng trải nghiệm sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời, dần nhận ra chân tướng về bản tính Sa-tan và sự bại hoại của chính mình, tỏ ra ăn năn thực sự và cuối cùng có thể thoát khỏi sự trói buộc của tội lỗi và làm tinh sạch những tâm tính bại hoại của mình. Đây là hiệu quả lời Đức Chúa Trời đạt được trong Thời đại Vương quốc. Nếu muốn bước vào vương quốc thiên đàng, chúng ta phải chấp nhận công tác phán xét của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt, và chỉ sau khi sự bại hoại của chúng ta được làm tinh sạch, chúng ta mới đủ tư cách bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời”. Sau khi tôi nói xong, mục sư nói: “Tôi biết cậu khao khát lẽ thật, nhưng cậu còn quá trẻ. Cậu không hiểu nhiều về Kinh Thánh, nên dễ bị mê hoặc. Cậu cần thôi ngay việc đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng, xưng tội với Chúa, ăn năn, và không tham dự các cuộc nhóm họp của họ nữa!”. Mục sư thấy tôi phớt lờ ông bèn nói: “Cậu là chiên của tôi. Sao cậu dám không vâng lời tôi chứ? Cậu phải ăn năn ngay bây giờ, rút khỏi Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng và thôi cầu nguyện đến danh Đức Chúa Trời Toàn Năng đi”. Tôi khăng khăng bảo ông ta: “Tôi sẽ không bao giờ ngừng đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng”. Ông ta rất tức giận và cảnh cáo tôi: “Hội đồng Tối cao của hội thánh đã chỉ định tôi ‘chăm sóc’ cậu. Nếu cứ khăng khăng tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng, cậu sẽ bị đưa đến trước Hội đồng Tối cao để chất vấn. Cậu nên biết, một khi chuyện này xảy ra, không những việc học của cậu bị ảnh hưởng, mà cậu cũng sẽ mang tiếng xấu trong hội thánh. Sau này, cậu thậm chí có thể không tìm được việc làm. Sao phải rắc rối như vậy?”. Nghe mục sư nói thế, tôi thấy rất áp lực, vì tôi biết một khi đã bị Hội đồng Tối cao của hội thánh chất vấn, họ sẽ không bao giờ để tôi yên. Nếu không ngừng đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng, thì sau này khi tôi cần được cấp chứng chỉ, trưởng thôn sẽ không ký cho tôi, và tôi thậm chí có thể không tìm được việc làm. Ba mẹ đã cho tôi đi học đại học để có thể tìm được việc làm tốt sau khi tốt nghiệp. Nếu không thể tìm được việc làm, ba mẹ tôi chắc chắn sẽ càng ngăn cản tôi tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng. Hơn nữa, tôi chỉ mới bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng và vẫn còn hiểu ít lẽ thật. Nếu bị họ đưa ra chất vấn và đối mặt với một nhóm người công kích tôi, sao tôi chống chọi nổi? Nếu tôi nhất quyết tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng, họ có đuổi học tôi không? Liệu họ có yêu cầu tất cả những tín hữu khác chối bỏ tôi không? Nghĩ vậy, tôi rất lo lắng, vì thế tôi thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt và chỉ dẫn cho tôi và nói tôi muốn đứng vững trong lời chứng cho Ngài. Sau khi cầu nguyện, tôi suy nghĩ về lời Đức Chúa Trời Toàn Năng: “Các ngươi hãy luôn thức canh trông đợi, cầu nguyện trước Ta nhiều hơn, phải biết được đủ loại âm mưu quỷ kế của Sa-tan, phải biết các thần, biết con người, biết phân biệt mọi loại người, sự việc và sự vật” (Những lời của Đấng Christ buổi ban đầu – Chương 17, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Sa-tan luôn có mặt để phá hỏng sự hiểu biết về Ta trong lòng mọi người, nhe nanh múa vuốt trong cơn quằn quại giãy chết cuối cùng của nó. Lúc này, các ngươi có muốn trở thành con mồi cho những âm mưu xảo quyệt của nó không? Các ngươi có muốn hủy hoại cuộc đời mình vào lúc công tác của Ta cuối cùng đã hoàn thành không?” (Những lời của Đức Chúa Trời với toàn vũ trụ – Chương 6, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi đã hiểu được rằng những chuyện này xảy ra với tôi đều là thủ đoạn của Sa-tan. Sa-tan dùng mọi người xung quanh tôi để quấy rầy và ngăn cản tôi đi theo Đức Chúa Trời. Dù vóc giạc của tôi nhỏ bé và tôi biết được ít lẽ thật, nhưng tôi sẵn lòng cậy dựa vào Đức Chúa Trời để đứng vững làm chứng và làm nhục Sa-tan. Thế là tôi nói với mục sư: “Tôi sẽ không thôi nhóm họp. Tôi sẽ tiếp tục đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng”. Ba mẹ tôi rất tức giận khi tôi không nghe lời mục sư. Ba trừng mắt nhìn tôi và quát: “Sao con dám nói ‘không’ hả? Trước khi mục sư đi, con phải thề sẽ không tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng nữa!”. Ông mục sư cũng đe dọa tôi, nói rằng trong vòng một tuần, nếu tôi không thôi nhóm họp, ông ta sẽ phải đưa tôi ra Hội đồng Tối cao để chất vấn. Tuy nhiên, tôi thấy chẳng có gì hối tiếc cả vì tôi biết rất rõ lựa chọn của mình là đúng. Trước khi chấp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt, tôi đã tin vào Đức Chúa Trời, nhưng lại không hiểu những yêu cầu để được bước vào vương quốc thiên đàng. Đôi lúc, đầu óc tôi đầy những tưởng tượng, và thỉnh thoảng tôi thấy bối rối vì thường hay phạm tội và không biết mình có thể được bước vào vương quốc hay không. Giờ thì cuối cùng tôi đã hiểu. Chỉ những lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng mới cho phép tôi nhìn thấu được thế giới tà ác này và hiểu được cách Sa-tan làm nhân loại bại hoại. Nếu không đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, chắc hẳn tôi đã không hề biết cách thoát khỏi những trói buộc của tội lỗi hay cách thoát khỏi sự bại hoại của Sa-tan. Vì vậy, dù họ có ngăn cản thế nào, tôi cũng sẽ không bao giờ từ bỏ việc đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng. Mục sư thấy tôi không có ý định từ bỏ, nên giận dữ bỏ về.
Ba mẹ cũng rất bực vì tôi đã cự tuyệt ông ta, và họ giận dữ nói: “Con dám không nghe lời mục sư và làm điều hội thánh cấm. Theo tục lệ, con phải bị đuổi khỏi làng. Nếu dân làng chối bỏ con, sau này khi con cần được cấp một chứng chỉ nào đó, trưởng thôn sẽ không ký cho con đâu. Con cũng sẽ không thể tìm được việc làm. Con đã nghĩ đến những hậu quả đó chưa? Rồi con sẽ đi đâu? Con chỉ là một sinh viên. Con không có chỗ nào để ở và sẽ không thể đi làm. Con sẽ sống thế nào đây?”. Ba tôi cũng nói ông thấy xấu hổ khi có một đứa con trai như tôi. Ông nói tôi đã khiến ba mẹ nhục nhã vô cùng và sau này tôi sẽ không còn là con trai của ông nữa. Trong đời, đó là lần đầu tiên tôi nghe ba mắng mình như vậy. Ông thậm chí còn nhẫn tâm nói tôi không còn là con trai ông nữa. Tôi không thể tin được ba mẹ mình lại nói những điều như vậy. Tôi buồn đến nỗi không nói gì cả. Ba tôi tiếp tục nói: “Tao nói một lần nữa, nếu mày còn tiếp tục tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng, thì tốt hơn hết hãy trả lại toàn bộ số tiền tao đã nuôi mày xưa giờ!”. Khi ba nói thế trước mặt dân làng, tôi rất bẽ mặt và buồn vô cùng. Trước kia, ba mẹ đối xử với tôi rất tốt. Trong số mười người con, ba mẹ quý tôi nhất và cũng kỳ vọng ở tôi nhất. Họ chưa từng nói với tôi điều gì tàn nhẫn như vậy, nhưng giờ thái độ của họ đã hoàn toàn thay đổi. Tôi nhớ sự ân cần của ba mẹ dành cho tôi và không muốn rắc rối với họ. Tôi cảm thấy rất yếu đuối và không biết phải làm gì, nên đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt tôi đối mặt với môi trường này. Sau đó, tôi nhớ đến một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Các ngươi phải chịu đựng gian khổ vì lẽ thật, các ngươi phải dâng hiến bản thân cho lẽ thật, các ngươi phải nhịn nhục vì lẽ thật, và để có thêm càng nhiều lẽ thật, các ngươi càng phải chịu khổ nhiều hơn. Đây chính là những gì các ngươi nên làm. Các ngươi đừng vứt bỏ lẽ thật chỉ để có cuộc sống gia đình bình yên, và các ngươi không được mất đi tôn nghiêm và nhân cách đời này của mình vì sự hưởng thụ chốc lát. Các ngươi nên theo đuổi tất cả những gì đẹp đẽ và tốt lành, và nên theo đuổi con đường sống có ý nghĩa hơn. Nếu các ngươi sống một cuộc đời tầm thường như vậy và không theo đuổi bất cứ mục tiêu nào, chẳng phải các ngươi đang lãng phí cuộc đời mình sao? Các ngươi có được gì từ việc sống như vậy? Các ngươi nên từ bỏ tất cả những sự hưởng thụ xác thịt để có được một lẽ thật, và đừng nên vứt bỏ tất cả lẽ thật chỉ vì một chút hưởng thụ. Những người như vậy không có sự liêm chính hay nhân phẩm; chẳng có ý nghĩa gì cho sự tồn tại của họ!” (Các kinh nghiệm của Phi-e-rơ: Hiểu biết của ông về hình phạt và sự phán xét, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời đã truyền cảm hứng cho tôi. Tôi hiểu rằng mình phải chịu khổ đau để có được lẽ thật. Mặc dù gia đình phản đối tôi, mục sư cấm cản tôi, người làng phán xét tôi, và tôi cảm thấy khổ sở cùng một chút yếu đuối, nhưng dù họ có nói gì đi nữa, tôi cũng không thể từ bỏ việc đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng. Nhờ đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng và lắng nghe mối thông công của anh chị em trong các cuộc nhóm họp, tôi đã hiểu nhiều lẽ thật và lẽ mầu nhiệm, đã xác nhận trong lòng rằng Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Jêsus đã tái lâm, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt, nên tôi không thể thôi nhóm họp được. Tôi biết rằng nếu mình không nhóm họp nữa, mọi chuyện sẽ lắng xuống. Gia đình tôi sẽ không còn phản đối tôi, sẽ đối xử tốt với tôi như trước kia, và không ai cười nhạo tôi nữa, nhưng tôi sẽ đánh mất cơ hội có được lẽ thật và được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Tôi tự nhủ mình không thể từ bỏ lẽ thật và không thể phản bội Đức Chúa Trời vì sự phản đối của gia đình được. Những lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng là lẽ thật. Chỉ Đức Chúa Trời Toàn Năng mới có thể nói cho chúng ta biết cách Sa-tan làm nhân loại bại hoại, và chỉ có Ngài mới chỉ ra được cho chúng ta con đường thoát khỏi tội lỗi và được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Việc hôm nay tôi có thể chịu khổ đau để có được lẽ thật là xứng đáng. Vì thế, tôi đã quyết tâm không chịu sự kìm kẹp của gia đình. Kể cả khi họ không còn lo học phí cho tôi đi nữa, thậm chí tôi bị đuổi khỏi làng và cuộc sống trở nên khó khăn, thì tôi cũng sẽ không từ bỏ việc tin vào Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật.
Trong tuần sau, mục sư đã sắp xếp cho hai đồng sự tối nào cũng đến nhà tôi. Ngày nào họ cũng nhai đi nhai lại cùng những lời ấy để khiến tôi bỏ nhóm họp. Bất kể họ có nói gì, tôi vẫn tiếp tục đi nhóm họp. Trong những ngày đó, tôi thường cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài giúp tôi tĩnh tâm và tránh khỏi những nhiễu loạn đó. Sau đó, chú tôi sợ gia đình tôi sẽ bị chế giễu nếu quá nhiều người biết vấn đề đó, nên ông đã đến gặp mục sư để thảo luận một chiến lược mới. Họ đưa tôi đến gặp một nhà thần học là tiến sĩ thần học và rất thông thạo Kinh Thánh. Sau khi gặp nhau, nhà thần học chất vấn tôi: “Tại sao cậu lại tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng? Cậu có nhận ra rằng Đức Chúa Trời Toàn Năng chỉ là một người bình thường không? Tại sao cậu lại tin vào một con người?”. Tôi vặn lại: “Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đức Chúa Trời nhập thể. Ngài xuất hiện như một người bình thường, nhưng Ngài có Thần của Đức Chúa Trời bên trong Ngài và Ngài là sự nhập thể của Thần Đức Chúa Trời. Ngài không chỉ có nhân tính bình thường, mà còn có đầy đủ thần tính. Giống như Đức Chúa Jêsus; bề ngoài Ngài là một con người bình thường, nhưng Ngài thực ra lại là Con người nhập thể, là chính Đức Chúa Trời. Ngài có thể bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác cứu chuộc, cứu rỗi nhân loại. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã đến trong thời kỳ sau rốt và bày tỏ nhiều lẽ thật. Ngài đã vạch rõ nhiều lẽ nhiệm mầu khác nhau về lẽ thật, như kế hoạch quản lý sáu nghìn năm của Đức Chúa Trời, lẽ nhiệm mầu về sự nhập thể và cách Đức Chúa Trời thực hiện công tác phán xét vào thời kỳ sau rốt để làm tinh sạch và cứu rỗi con người, v.v.. Ngài cũng đã vạch rõ căn nguyên loài người phạm tội. Nếu Ngài là một người bình thường, liệu Ngài có thể bày tỏ quá nhiều lẽ thật như vậy không? Đức Chúa Trời là Chúa của tạo vật, Ngài là nguồn lẽ thật, chỉ Đức Chúa Trời mới có thể bày tỏ lẽ thật, không người nổi tiếng hay vĩ nhân nào trên thế giới có thể bày tỏ lẽ thật! Chỉ chính Đức Chúa Trời mới có thể bày tỏ những lẽ thật này. Không ai ngoài Đức Chúa Trời có thể làm được điều đó. Mọi lẽ thật được Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ đủ để chứng tỏ Ngài là Đức Chúa Trời nhập thể, là chính Đức Chúa Trời”. Ngay sau khi nghe tôi nói vậy, vị tiến sĩ thần học ngắt lời tôi và nói: “Cậu nói vậy là sai rồi. Mọi lời của Đức Chúa Trời đều nằm trong Kinh Thánh, và không có lời nào mới nằm ngoài Kinh Thánh cả. Những lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng đơn giản không thể là lời mới của Đức Chúa Trời”. Tôi bác bỏ ông ta: “Chú nói vậy có cơ sở Kinh Thánh nào không? Có bằng chứng nào trong lời Đức Chúa Jêsus không? Đức Chúa Jêsus từng phán: ‘Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật’ (Giăng 16:12-13). Kinh Thánh tiên tri rằng Chiên con sẽ mở cuộn sách ra trong thời kỳ sau rốt. Tất cả những điều này đều chứng tỏ Đức Chúa Trời sẽ phán lời khi Ngài tái lâm trong thời kỳ sau rốt. Giả sử Đức Chúa Trời không phán những lời mới ngoài Kinh Thánh như chú nói, thì chẳng phải như thế là phủ nhận mọi lời phán và công tác của Chúa tái lâm sao?”. Với vẻ thiếu kiên nhẫn, ông ta không hề lắng nghe. Ông ta nói một số điều lên án Đức Chúa Trời Toàn Năng và liên tục yêu cầu tôi không được nghe theo các bài giảng của Tia Chớp Phương Đông nữa. Rồi ông ta bắt đầu khoe bằng cấp thần học của mình cao quý thế nào, ông ta đã phải chịu khổ ải ra sao để rao giảng cho Chúa, v.v.. Ông ta nói rằng tôi vẫn còn quá trẻ để hiểu được Kinh Thánh và nên nghe ông ta, rồi ông ta bảo tôi đừng nhóm họp với người của Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng nữa. Chú tôi cũng chêm vào: “Chúng ta không nên tin vào thứ mà giới tôn giáo lên án. Nhà thần học này nổi tiếng về kiến thức Kinh Thánh, và cháu may lắm mới có cơ hội được nói chuyện với chú ấy. Chú hy vọng cháu sẽ nghe lời chú ấy và đừng nhóm họp nữa”. Tôi bảo họ: “Cháu từng không hiểu rõ về việc sống trong tội lỗi. Cháu không thể tìm ra lý do tại sao con người không thể loại bỏ tội lỗi. Cháu đã không hiểu mãi cho đến khi đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng rằng tất cả là do bản tính tội lỗi bên trong chúng ta. Nếu bản tính tội lỗi của chúng ta không được loại bỏ, chúng ta sẽ không bao giờ thoát khỏi sự trói buộc của tội lỗi”. Tôi cũng làm chứng với họ về lẽ thật về sự nhập thể. Sau khi tôi nói vậy, nhà thần học nói ông ta đã được truyền cảm hứng bởi những điều tôi chia sẻ. Ông ta nói điều đó rất hay và hy vọng sau này sẽ có cơ hội thảo luận về nó với tôi, nhưng ông ta vẫn khăng khăng rằng tôi không nên chấp nhận Đức Chúa Trời Toàn Năng. Tôi nhận ra rằng mặc dù nhà thần học này thông thạo Kinh Thánh, có nhiều kiến thức thần học và có danh tiếng cao, nhưng thực tế ông ta rất nghèo nàn về tâm linh và không hiểu bất kỳ lẽ thật nào. Ông ta cũng rất ngạo mạn và tự phụ, không thể chấp nhận lẽ thật và không quan tâm đến việc tìm hiểu công tác của Đức Chúa Trời. Cũng giống như những người Pha-ri-si chống đối Đức Chúa Jêsus, ông ta cứ lên án sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt. Cuộc đối thoại đó đã không thay đổi được quyết tâm đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng của tôi. Trái lại, nó đã giúp tôi có sự phân định về các mục sư, trưởng lão và nhà thần học trong thế giới tôn giáo. Tôi không còn nể trọng và khâm phục họ nữa. Và qua việc nhóm họp cũng như đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng trong suốt thời gian đó, tôi cũng đã có được chút nhận định về những lời ngụy biện trong thế giới tôn giáo. Điều này khiến tôi càng chắc chắn hơn rằng lời Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là lẽ thật và Đức Chúa Trời Toàn Năng là sự xuất hiện của Đức Chúa Trời thật duy nhất.
Trong một cuộc nhóm họp, tôi đã nói chuyện với các anh chị em về tình cảnh gần đây của mình, và họ đã chia sẻ với tôi một số lời Đức Chúa Trời cho tôi chút phân định về những người chăn chiên giả và những kẻ địch lại Đấng Christ. Đức Chúa Jêsus phán: “Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! Vì các ngươi đóng nước thiên đàng trước mặt người ta; các ngươi không vào đó bao giờ, mà có ai muốn vào, thì lại ngăn trở” (Ma-thi-ơ 23:13). “Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! Vì các ngươi đi khắp dưới nước trên bộ để khuyên một người vào đạo mình; và khi đã khuyên được rồi, thì các ngươi làm cho họ trở nên người địa ngục gấp hai các ngươi” (Ma-thi-ơ 23:15). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời và nghe họ thông công, lòng tôi cảm thấy sáng tỏ hơn nhiều. Tôi nhận ra các mục sư và lãnh đạo trong thế giới tôn giáo này cũng giống như những người Pha-ri-giả hình. Họ chống đối và lên án công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt và làm mọi thứ để ngăn mọi người nghe tiếng Đức Chúa Trời và nghênh đón Chúa. Họ là những chướng ngại vật cản trở mọi người bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Không những bản thân họ không bước vào vương quốc của Đức Chúa Trời, mà họ còn cản trở mọi người bước vào. Họ quá xấu xa! Lời Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Có những người đọc Kinh Thánh trong những nhà thờ lớn và nghêu ngao nó suốt cả ngày, nhưng không ai trong số họ hiểu được mục đích công tác của Đức Chúa Trời. Không ai trong số họ có thể biết Đức Chúa Trời; càng không ai trong số họ có thể phù hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời. Họ đều là những người vô giá trị, hèn hạ, tất cả đều đứng trên cao để dạy bảo Đức Chúa Trời. Họ cố ý chống đối Đức Chúa Trời ngay cả khi họ mang cờ xí của Ngài. Trong khi họ tuyên xưng đức tin ở nơi Đức Chúa Trời, họ vẫn ăn thịt và uống huyết của con người. Tất cả những kẻ như thế là những ác quỷ nuốt linh hồn của con người, những ác quỷ cầm đầu cố tình quấy rầy những ai đang cố gắng bước trên con đường đúng, và là những chướng ngại vật cản trở những ai tìm kiếm Đức Chúa Trời. Họ có thể ra vẻ có ‘thể phách tráng kiện’, nhưng làm sao những người đi theo họ biết rằng họ không ai khác hơn là những kẻ địch lại Đấng Christ, là những người dẫn dắt con người chống lại Đức Chúa Trời? Làm sao những người đi theo họ biết rằng họ là những con quỷ sống chuyên môn nuốt chửng linh hồn của con người?” (Tất cả những ai không biết Đức Chúa Trời đều là những người chống đối Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Nhìn vào những người lãnh đạo của mỗi tôn giáo và giáo phái – họ đều kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, và những giải thích của họ về Kinh Thánh theo kiểu cắt câu lấy nghĩa và được hướng dẫn bởi những quan niệm và trí tưởng tượng của chính họ. Hết thảy họ đều dựa vào các ân tứ và kiến thức để thực hiện công việc của mình. Nếu họ không thể giảng gì cả thì liệu mọi người có đi theo họ không? Xét cho cùng, họ có một số tri thức và có thể giảng một số đạo lý nào đó, hoặc họ biết cách lôi kéo người khác và sử dụng một số mưu mẹo nào đó. Họ sử dụng những thứ này để lừa dối mọi người và để đưa mọi người đến trước mặt họ. Trên danh nghĩa, những người đó tin vào Đức Chúa Trời, nhưng thực ra, họ đi theo những người lãnh đạo này. Khi họ gặp ai đó đang rao giảng về con đường thật, một số trong số họ nói rằng: ‘Chúng tôi phải hỏi ý kiến lãnh đạo của chúng tôi về những vấn đề đức tin’. Hãy xem người ta cần sự đồng tình và chấp thuận của người khác như thế nào khi nói đến việc tin Đức Chúa Trời và tiếp nhận con đường thật – chẳng phải đây là vấn đề sao? Vậy, những nhà lãnh đạo kia đã trở thành gì? Chẳng phải họ đã trở thành người Pha-ri-si, những kẻ chăn chiên giả, những kẻ địch lại Đấng Christ và những chướng ngại vật cản trở mọi người chấp nhận con đường thật sao? Những người như thế cùng một giuộc với Phao-lô” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đức Chúa Trời vạch rõ thực chất thù hậnlẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời của các lãnh đạo tôn giáo! Đức Chúa Trời Toàn Năng đã xuất hiện và bày tỏ quá nhiều lẽ thật, nhưng họ không hề tìm kiếm. Thay vì lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời, họ lại đi nghe những lời đồn của ĐCSTQ, một đảng vô thần, lên án sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng, loan truyền những điều giả dối để mê hoặc các tín hữu và ngăn cản họ nghe được tiếng Chúa và nghênh đón Ngài. Việc đó đang hủy hoại cơ hội được cứu rỗi và bước vào vương quốc thiên đàng của chúng ta! Mặc dù các mục sư và lãnh đạo này thường cắt nghĩa Kinh Thánh cho mọi người trong nhà thờ, nhưng họ lại không có chút hiểu biết nào về Đức Chúa Trời và công tác của Ngài. Họ càng không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Thực chất bản tính của họ cũng giống hệt như của những người Pha-ri-si. Họ đều là những kẻ địch lại Đấng Christ thù hận lẽ thật và chống đối Đức Chúa Trời. Rồi tôi nhớ đến việc các tín đồ Do Thái giáo đã mù quáng tôn thờ các lãnh đạo tôn giáo, đi theo những người Pha-ri-si chống đối Đức Chúa Jêsus, và kết quả là đánh mất sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Ba mẹ tôi cũng tôn thờ các mục sư và trưởng lão. Mặc dù đã tin vào Chúa nhiều năm, nhưng lòng họ không có chỗ cho Đức Chúa Trời. Họ không hiểu lẽ thật và thiếu khả năng phân định. Họ tưởng những người vâng lời các mục sư và trưởng lão là vâng phục và đi theo Chúa. Bất kể các mục sư và trưởng lão nói gì, ba mẹ tôi cũng nghe theo. Trong vấn đề quan trọng như nghênh đón Chúa, họ không có chút phân định nào và đã mù quáng nghe lời mục sư, nhưng khi tôi làm chứng với họ về lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, họ lại không hề lắng nghe và lặp lại lời của mục sư và tiến sĩ thần học đó để lên án Đức Chúa Trời Toàn Năng. Họ thậm chí còn nói: “Kể cả đó có là con đường thật, thì ba mẹ cũng sẽ không chấp nhận trừ khi các mục sư và trưởng lão chấp nhận”. Tôi thấy ba mẹ mình thật đáng thương. Họ tin vào Chúa kiểu gì vậy? Chẳng phải họ chỉ đang tin vào các mục sư và trưởng lão sao? Tôi nói với ba mẹ mình rằng: “Nếu ba mẹ sinh ra vào Thời đại Ân điển, khi Đức Chúa Jêsus xuất hiện và công tác, ba mẹ cũng sẽ giống như các tín đồ Do Thái giáo trước kia, đi theo những người Pha-ri-si chống đối và lên án Đức Chúa Jêsus, vì ba mẹ chỉ nghe lời các mục sư và trưởng lão. Nếu các mục sư và trưởng lão lên án điều gì đó là giả, ba mẹ cũng nói y như thế, nhưng bản thân ba mẹ lại không hề tìm hiểu con đường thật, cũng không tìm kiếm để nghe tiếng Đức Chúa Trời. Chẳng phải việc này cũng giống như những người đi theo người Pha-ri-si và chống đối Đức Chúa Jêsus sao? Tin Chúa như vậy ba mẹ có thể có được kết quả tốt không?”. Qua những biến cố xảy ra những ngày đó, tôi đã có được chút phân định về ba mẹ mình và không còn thấy bị kìm kẹp nữa và đã quyết tâm đứng vững trong chứng ngôn cho Đức Chúa Trời.
Trong suốt thời gian đó, tôi làm gì ba mẹ cũng theo dõi. Tôi không thể nhóm họp yên ổn ở nhà được. Hồi đó, ban đêm tôi đã phải trốn vào một khoảnh rừng nhỏ gần rìa làng để nhóm họp. Ở đó rất nhiều muỗi và côn trùng. Tôi bị muỗi cắn chi chít và không thể tìm được chỗ nào thoải mái để ngồi. Đôi khi đêm đã khuya mà tôi vẫn ở trong rừng nhóm họp. Để ba mẹ không biết tôi ra ngoài nhóm họp, tôi đã phải lẻn vào nhà ngủ, và buổi sáng phải dậy sớm trước họ để họ nghĩ ban đêm tôi ngủ ngon. Ban ngày, tôi phải giúp ba mẹ ở ngoài đồng. Sau một thời gian, tôi cảm thấy mệt mỏi và buồn ngủ. Việc đó khiến tôi cực kỳ kiệt sức. Tôi bắt đầu cảm thấy hơi yếu đuối và không biết khi nào thì những ngày này mới kết thúc. Đôi lúc tôi thậm chí còn nghĩ nếu mình nghe lời ba mẹ và không đi dự họp nữa, thì sẽ không phải chịu khổ nhiều như vậy, dân làng sẽ không cười nhạo mình và việc tìm kiếm việc làm của mình cũng không bị ảnh hưởng. Nghĩ đến những việc đó, tôi hơi dao động. Nhưng rồi tôi lại nghĩ cuộc nhóm họp nào tôi cũng có thể hiểu được chút lẽ thật, và đó là những lẽ thật mình chưa từng được nghe trước kia. Tôi không sẵn lòng từ bỏ. Trong thời gian đó, có một bài thánh ca lời Đức Chúa Trời đã cho tôi sự khích lệ rất lớn. Tên bài thánh ca là “Điều Đức Chúa Trời làm cho hoàn thiện là đức tin” và tôi đã nghe suốt. Phán rằng: “Đức tin và tình yêu mạnh mẽ nhất là điều chúng ta cần phải có trong công tác của thời kỳ sau rốt. Chúng ta có thể vấp ngã từ sự sơ suất nhỏ nhất, bởi giai đoạn công tác này khác với tất cả các giai đoạn trước đây: Điều mà Đức Chúa Trời đang hoàn thiện là đức tin của nhân loại, điều vừa vô hình vừa không chạm được. Điều Đức Chúa Trời làm là chuyển đổi lời thành đức tin, thành tình yêu và thành sự sống. Con người phải trải qua hàng trăm sự tinh luyện, đến khi có đức tin mạnh hơn Gióp. Họ phải chịu đựng sự đau khổ và mọi kiểu hành hạ cực độ mà không bao giờ rời xa Đức Chúa Trời. Khi họ thuận phục cho đến chết và có đức tin mạnh mẽ nơi Đức Chúa Trời, thì khi ấy giai đoạn công tác này của Đức Chúa Trời hoàn thành” (Con đường… (8), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Từ bài hát này, tôi hiểu được rằng tôi có thể yếu đuối và khốn khổ trong lúc khó khăn, nhưng những lúc như thế này, tôi nên học cách chống lại xác thịt. Nếu chạy theo xác thịt, tôi không thể làm Đức Chúa Trời hài lòng. Tôi biết rất rõ rằng mỗi cuộc nhóm họp đều có lợi cho sự hiểu biết lẽ thật của tôi và lẽ thật tôi nghe được là một kho báu vô giá. Mặc dù cuộc nhóm họp khuya nào trong rừng cũng đều mệt mỏi và khó khăn về thể xác, nhưng đó cũng là một bài kiểm tra cho tôi để xem liệu tôi có thể chịu khổ đau để có được lẽ thật và đức tin chân chính nơi Đức Chúa Trời hay không. Ba mẹ muốn tôi theo đuổi danh vọng, tiền tài trên thế gian và tìm được một việc làm tốt, mang lại cuộc sống tốt đẹp cho gia đình và khiến họ tự hào. Đây là điều họ mong muốn và là điều họ kỳ vọng ở tôi. Nhưng nếu tôi nghe lời ba mẹ và không đi nhóm họp nữa, thì mặc dù không phải chịu khổ, nhưng tôi sẽ không có được lẽ thật. Tôi sẽ giống như tôi trước kia, chỉ biết tiêu khiển và theo đuổi xác thịt, những thứ vô nghĩa. Việc giờ đây tôi có thể chấp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt và tận hưởng nguồn cung lẽ thật quá dồi dào của Đức Chúa Trời là phước lành lớn nhất rồi. Sự đau khổ tôi đã chịu đựng chẳng là gì so với việc hiểu lẽ thật, và tất cả những điều đó đều đầy ý nghĩa. Nghĩ vậy, tôi sẵn lòng buông bỏ thú vui xác thịt và không quan tâm đến gia đình nói gì về mình. Tôi chỉ hy vọng cậy dựa vào Đức Chúa Trời để vượt qua những khó khăn này. Sau đó, bằng cách đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, tình trạng của tôi dần cải thiện. Dần dần, tôi hiểu được rằng chỉ trong những khó khăn của môi trường này, tôi mới có thể tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời nhiều hơn và có được đức tin vững chắc hơn nơi Đức Chúa Trời, và trong việc này, tôi vô cùng cảm tạ Đức Chúa Trời!
Tôi tiếp tục đi nhóm họp trong rừng. Một lần nọ, trong khi tôi đang nhóm họp, có một người mà tôi không biết là ai đã phát hiện ra và báo cho ba mẹ tôi. Vào bữa sáng ngày hôm sau, mẹ đã nói với tôi rằng: “Mẹ cứ tưởng con đã bỏ chuyện nhóm họp sau khi gặp tiến sĩ thần học rồi chứ. Mẹ không biết là con đã bỏ đi nhóm họp trong rừng ban đêm. Con không sợ sao?”. Vừa nói, mẹ tôi vừa bật khóc. Đó là lần đầu tiên tôi thấy mẹ khóc trước mặt mình. Tôi không biết phải nói gì. Nước mắt tôi trào ra. Tôi không muốn làm tổn thương ba mẹ, nhưng tôi biết mình không thể từ bỏ việc đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng. Tôi cảm thấy rất mâu thuẫn. Lúc đó, tôi nhớ đến một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Trời làm công tác của Ngài, Đức Chúa Trời quan tâm đến một người, xem xét người này, và Sa-tan theo sát gót Ngài mọi lúc. Bất kỳ ai mà Đức Chúa Trời chiếu cố, Sa-tan cũng theo dõi, lê bước phía sau. Nếu Đức Chúa Trời muốn người này, Sa-tan sẽ làm mọi thứ trong khả năng của nó để cản trở Đức Chúa Trời, dùng mọi thủ đoạn gian ác khác nhau để xúi giục, phá vỡ và phá hoại công tác Đức Chúa Trời làm, hết thảy mọi việc hầu để đạt được mục đích ngầm của nó. Mục đích này là gì? Nó không muốn Đức Chúa Trời thu phục được bất cứ ai; hết thảy những ai Đức Chúa Trời muốn, nó cũng muốn cho chính mình, nó muốn chiếm hữu họ, kiểm soát họ, thống lĩnh họ để họ thờ phượng nó, hầu để họ nhập bọn với nó trong việc thực hiện các hành vi gian ác. Chẳng phải đây là động cơ nham hiểm của Sa-tan sao? … Trong khi chiến đấu với Đức Chúa Trời, và lê bước theo Ngài, mục đích của Sa-tan là phá hủy toàn bộ công tác Đức Chúa Trời muốn làm, chiếm hữu và kiểm soát những ai mà Đức Chúa Trời muốn thu phục, hủy diệt hoàn toàn những ai mà Đức Chúa Trời muốn thu phục. Nếu họ không bị hủy diệt, thì họ cũng rơi vào sự chiếm hữu của Sa-tan, bị nó sử dụng – đây là mục đích của nó” (“Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất IV” trong Lời xuất hiện trong xác thịt). Sau khi nghiền ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi đã hiểu. Đức Chúa Trời công tác để cứu rỗi con người, trong khi Sa-tan lại dùng những người xung quanh chúng ta để cản trở và ngăn ta đi theo Đức Chúa Trời cũng như tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài. Lúc này, tôi nhớ lại việc vợ Gióp đã cám dỗ ông từ bỏ Đức Chúa Trời. Đây là thủ đoạn của Sa-tan. Tôi nghĩ về việc trong suốt thời gian này, bạn bè quấy rầy tôi, mục sư và gia đình tôi cũng ngăn cản và đe dọa tôi, gây sức ép để khiến tôi ngừng tin vào Đức Chúa Trời. Đây đều là những cám dỗ và thủ đoạn của Sa-tan. Ba mẹ tôi nói họ sợ tôi sẽ bị đuổi ra khỏi làng và không biết đi đâu. Mẹ tôi cũng nói bà lo lắng cho tôi. Những lời này nghe như thể bà quan tâm, nhưng thực ra đó chính là Sa-tan đang dùng gia đình tôi để ngăn cản tôi đi theo Đức Chúa Trời. Sa-tan muốn buộc tôi từ bỏ, tiếp tục đi theo mục sư, ở lại trong tôn giáo và đánh mất sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Tôi không thể mắc bẫy của Sa-tan được. Sau đó, tôi tiếp tục nhóm họp và đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng. Tôi biết rằng trong những ngày sắp tới, tôi vẫn có thể phải đối mặt với nhiều cám dỗ và bủa vây của Sa-tan và có thể trải qua nhiều trở ngại, nhưng trong lòng tôi biết lời Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là lẽ thật. Việc tôi có thể đọc lời Đức Chúa Trời, trải nghiệm công tác của Ngài và đạt được lẽ thật là điều vô cùng ý nghĩa đối với tôi. Dù tôi có phải chịu khổ cực thế nào cũng xứng đáng!