61. Hậu quả khi là một kẻ chiều lòng người
Trước đây tôi là kẻ chiều lòng người. Bất cứ khi nào thấy một anh chị em nào bộc lộ sự bại hoại hay làm bổn phận một cách chiếu lệ thì tôi đều không dám nêu ra chuyện đó với họ, sợ làm tổn hại danh tiếng của họ, khiến họ có ấn tượng xấu về tôi. Khi tương tác với các anh chị em, tôi làm theo triết lý của Sa-tan “Nín thinh là khôn khéo”, và khi thực sự nêu ra cho mọi người để giúp đỡ họ, tôi chỉ nói vu vơ một hai lời giảm nhẹ tình hình. Thỉnh thoảng, khi nghe các anh chị em mô tả tôi là người thân thiện, lòng tôi lại rộn ràng. Tôi tưởng họ thích tôi, và do đó, Đức Chúa Trời cũng phải thích tôi. Chỉ tới khi tôi bị tỉa sửa và xử lý, và khi tôi thất bại và vấp ngã, thì tôi mới có thể hiểu được đôi chút về bản thân mình, và thấy rõ bản chất, tác hại và hậu quả của việc là một kẻ chiều lòng người.
Năm 2018, tôi được bầu làm lãnh đạo hội thánh. Tôi biết một trong những phần quan trọng của việc làm lãnh đạo là thông công lẽ thật, giải quyết khó khăn của mọi người về lối vào sự sống và bảo vệc đời sống hội thánh. Nhưng tôi sợ làm mất lòng người khác, nên bất cứ khi nào phát hiện ra vấn đề, tôi luôn dùng kế sách khuyên nhủ nhẹ nhàng, tử tế để giải quyết. Trong thời gian đó, tôi nhận thấy chấp sự chăm tưới, anh Lưu Lương, làm chiếu lệ, không mang gánh trọng trách trong bổn và khi người mới gặp vấn đề, anh không thông công với họ để kịp thời tìm giải pháp, khiến một vài người bọn họ tiêu cực và yếu đuối. Tôi nhận thấy bản chất của vấn đề này rất nghiêm trọng, và tôi nên thông công với anh ấy cũng như phân tích việc anh ấy đã cẩu thả trong bổn phận như thế nào. Nếu anh ấy cứ như thế mà không ăn năn, chắc chắn sẽ làm Đức Chúa Trời khinh ghét. Nhưng lúc gặp anh Lưu Lương, tôi lại vội thoái lui. Tôi nghĩ: “Anh ấy rất coi trọng danh tiếng, nên nếu mình chỉ ra những vấn đề này và thực sự làm tổn thương anh ấy, chắc chắn anh ấy sẽ không nghĩ tốt về mình. Nếu anh ấy không chịu tiếp nhận, lại còn nảy sinh thù hằn hay lạnh nhạt với mình, thì ngoài việc mình bị bẽ mặt ra, sau này sẽ rất khó để hòa thuận. Nếu các anh chị em cho rằng mình bắt đầu la mắng và quở trách mọi người vì giờ mình là lãnh đạo, thì liệu họ có còn ấn tượng tốt về mình không? Thôi bỏ đi, mình sẽ không thông công với anh ấy hay mổ xẻ vấn đề của anh ấy đâu”. Thế là tôi chỉ nhẹ nhàng khuyên nhủ anh ấy, nói giảm bớt vấn đề: “Chúng ta cần phải dốc lòng hơn vào bổn phận, gánh vác trách nhiệm…”. Kết quả là anh Lưu Lương không thấy được thực chất cách tiếp cận cẩu thả của mình với bổn phận và cứ tiếp tục vô trách nhiệm như thường lệ. Thấy vậy tôi không an tâm chút nào. Là lãnh đạo hội thánh, tôi chứng kiến một người anh em cẩu thả trong bổn phận và gây tác động đến công tác của hội thánh, nhưng lại không giải quyết bằng cách thông công về lẽ thật. Như thế sao gọi là thực hiện công tác thực tế? Đây là một sự lơ là bổn phận nghiêm trọng. Càng nghĩ tôi càng cảm thấy tồi tệ hơn, nhưng vẫn không thể lên tiếng để vạch trần anh ấy. Tôi lo nếu tôi vạch trần và xử lý anh ấy, anh ấy có thể nói tôi thiếu tình thương, và nếu anh ấy trở nên tiêu cực, muốn buông xuôi và từ bỏ bổn phận, các anh chị em khác có thể sẽ nghĩ rằng tôi không có khả năng làm việc. Như thế sẽ không chỉ ảnh hưởng đến hòa khí chung mà còn làm tổn hại đến thanh danh của tôi. Tôi nghĩ bụng: “Thôi bỏ đi, mình đã nói chuyện với anh Lưu Lương rồi, nên mình sẽ để anh ấy tự kiểm điểm dần!”. Bằng cách này, tôi chưa bao giờ vạch trần hay mổ xẻ vấn đề của anh ấy.
Sau đó, tôi nhận thấy hai anh em khác công tác cùng tôi luôn xung đột với nhau vì bất đồng ý kiến về mọi chuyện. Không ai chịu nhường ai và những cuộc thảo luận công việc của họ không bao giờ hiệu quả. Nhiều lúc sau khi tranh cãi, họ đều trở nên lạnh nhạt, điều này gây ảnh hưởng đến công tác của hội thánh. Tôi nhận thức được vấn đề rất nghiêm trọng và nghĩ mình không nên chần chừ phơi bày những biểu hiện, bản chất và hậu quả của việc họ kiêu ngạo, tự nên công chính và ương ngạnh. Nhưng một lần nữa tôi lại thoái lui khi gặp họ. Tôi cho rằng: “Họ đều đã làm lãnh đạo nhiều năm, nên họ phải biết về vấn đề này mà không cần mình đề cập đến. Hơn nữa, cả hai người bọn họ đều rất tốt với mình, nên nếu mình thông công về bản chất và hậu quả nghiêm trọng các vấn đề của họ, họ sẽ nghĩ mình chỉ đang bới móc lỗi lầm của họ. Vậy thì sẽ rất khó để hòa hợp với họ. Thôi bỏ đi, dù sao thì họ cũng thường đọc lời Đức Chúa Trời, nên có lẽ dần dà họ sẽ suy ngẫm lại!”. Vậy nên khi thấy họ lại tranh cãi với nhau, tôi khuyên họ vài lời, thuyết phục họ bình tĩnh mà không hề trực tiếp vạch trần họ.
Một ngày nọ, có một chị bảo tôi: “Công tác hội thánh của chúng ta không được tốt lắm. Có những vấn đề rõ ràng trong bổn phận của một số anh chị em và các anh chị không thông công để giải quyết những việc này. Chẳng phải việc không làm công tác thực tế khiến các anh chị trở thành lãnh đạo giả hay sao?”. Tôi vô cùng buồn phiền khi nghe chị ấy nói vậy. Rõ ràng là có vấn đề với một số anh chị em mà tôi vẫn giữ im lặng. Tôi không hề hoàn thành trách nhiệm của một lãnh đạo. Chẳng phải tôi là một lãnh đạo giả hay sao? Tôi biết nếu mình cứ tiếp tục không thực hành lẽ thật, Đức Chúa Trời sẽ khinh ghét và loại bỏ tôi. Nghĩ đến viễn cảnh đó khiến tôi rất hoảng sợ, và tôi đã cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, con đã thấy vài anh em sống trong tâm tính bại hoại và đời sống hội thánh cũng như các khía cạnh của công tác hội thánh bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhưng con lại không thể thực hành lẽ thật để giải quyết việc này. Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy dẫn dắt để con biết mình”.
Cầu nguyện xong, tôi đọc được đoạn này trong lời Đức Chúa Trời: “Thực hành lẽ thật không phải là nói những lời sáo rỗng hay hô hào khẩu hiệu, mà là bất kể gặp phải chuyện gì trong cuộc sống, miễn là nó liên quan đến các nguyên tắc làm người, quan điểm nhìn nhận sự việc, hoặc vấn đề thực hiện bổn phận của mình, thì họ phải đối mặt với sự lựa chọn, và họ nên tìm kiếm lẽ thật, tìm kiếm cơ sở và nguyên tắc trong lời Đức Chúa Trời, và sau đó tìm một con đường thực hành. Những người có thể thực hành theo cách này là những người mưu cầu lẽ thật. Có thể mưu cầu lẽ thật theo cách này cho dù người ta gặp phải khó khăn lớn đến đâu là bước đi con đường của Phi-e-rơ, con đường mưu cầu lẽ thật. Ví dụ: về cách để chung sống với người khác, cần tuân theo nguyên tắc nào? Có lẽ quan điểm ban đầu của ngươi là dĩ hòa vi quý và một điều nhịn chín điều lành, rằng ngươi nên giữ hòa khí, tránh làm người khác mất mặt, và không xúc phạm ai, bởi đó đạt được những mối quan hệ tốt đẹp với người khác. Bị kìm kẹp bởi quan điểm này, ngươi liền giữ im lặng khi nhìn thấy người khác làm việc xấu hoặc vi phạm các nguyên tắc. Ngươi thà để công tác của hội thánh chịu thiệt hại, còn hơn đắc tội với bất kỳ ai. Bất kể chung sống với ai, ngươi cũng duy trì sự hòa hợp êm thấm. Khi nói chuyện, ngươi chỉ chú ý đến ân tình và thể diện, luôn nói những lời êm tai để làm vui lòng người. Dù có phát hiện ai đó có vấn đề đi nữa, ngươi cũng chọn cách nhẫn nại, chỉ nói về chuyện đó sau lưng họ, còn trước mặt họ thì lại giữ hòa khí và duy trì mối quan hệ. Các ngươi nghĩ sao về cách làm người như thế? Đó chẳng phải là kẻ ba phải? Không phải là rất khéo đưa đẩy sao? Nó vi phạm các nguyên tắc làm người. Làm người như thế chẳng phải là thấp hèn sao? Những ai hành động như thế không phải là người tốt, làm người như thế là không cao quý. Bất kể ngươi đã chịu khổ bao nhiêu, bất kể ngươi đã trả giá đắt đến đâu, nếu không có nguyên tắc trên phương diện làm người, thì ngươi đã thất bại trên phương diện này, và ở trước Đức Chúa Trời ngươi sẽ không được Ngài công nhận, nhớ đến hay chấp thuận” (Để làm tròn bổn phận, chí ít người ta phải có lương tâm và lý trí, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đọc những lời Đức Chúa Trời vạch trần những kẻ chiều lòng người khiến tôi rất lo lắng. Tôi không giải quyết những vấn đề trong hội thánh không phải vì tôi không thấy rõ chúng, mà vì tôi không muốn làm ai phật lòng, tôi sợ họ nhìn không tốt về tôi. Tôi chỉ cố bảo vệ hình ảnh và địa vị của mình. Đức Chúa Trời khinh ghét kẻ như tôi, kẻ không làm theo nguyên tắc hay thực hành lẽ thật, kẻ ích kỉ và thủ đoạn. Tôi nghĩ lại cách mình đã hành xử. Tôi đã thấy anh Lưu Lương luôn làm chiếu lệ trong bổn phận, và làm trì trệ công tác chăm tưới, lẽ ra tôi nên vạch trần và mổ xẻ bản chất hành vi của anh ấy. Nhưng tôi sợ mọi người nhìn mình không tốt, sợ họ sẽ nói tôi la mắng và bắt lỗi mọi người vì giờ được làm lãnh đạo, nên tôi chưa từng phân tích bản chất vấn đề của anh Lưu Lương để bảo vệ hình ảnh của mình. Tôi chỉ nói những điều chạm nhẹ đến vấn đề mà không làm gì để giúp đỡ. Kể cả khi tôi thấy hai người anh em đó không hòa thuận, và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác của hội thánh, tôi cũng không bao giờ vạch trần hay mổ xẻ vấn đề giúp họ hiểu bản thân. Kết quả là công tác của hội thánh bị tổn hại. Tôi đã sống theo triết lý Sa-tan như “Dĩ hòa vy quý”, “Thêm một người bạn thêm một đường đi”, và “Thấy lỗi của bạn chớ nói gì thì tình bạn trường tồn tốt đẹp”. Vì muốn bảo vệ thanh danh và địa vị của mình, và được mọi người coi là người tốt, tôi thấy rõ mọi việc nhưng lại không nói hết những gì mình nghĩ. Việc này không chỉ gây hại cho các anh chị em mà còn gây đình trệ công tác của hội thánh. Tôi thấy ra mình hoàn toàn không có lương tâm và lý trí, và không có chút tận tụy nào với Đức Chúa Trời. Như thế sao gọi là người tốt được? Thậm chí nếu ngoài mặt tôi hòa đồng với mọi người, ai cũng nói tôi là một người tốt và có ấn tượng tốt về tôi, nhưng trước mặt Đức Chúa Trời, tôi đã không hoàn thành được bất cứ bổn phận nào. Trong mắt Đức Chúa Trời, tôi là một kẻ bất trung, không đáng tin cậy. Tôi đã khiến Đức Chúa Trời ghê tởm. Nhận ra điều này tôi liền ăn năn với Đức Chúa Trời. Tôi biết mình không được tiếp diễn như thế, và tôi phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề này của mình.
Sau đó tôi đọc được đoạn này trong lời Đức Chúa Trời: “Việc họ mưu cầu danh lợi và địa vị gây ra hậu quả gì? Đầu tiên là ảnh hưởng đến việc ăn uống lời Đức Chúa Trời một cách bình thường và việc hiểu lẽ thật của dân được Đức Chúa Trời chọn, gây trì hoãn lối vào sự sống của họ, cản trở họ bước vào quỹ đạo đúng trong việc tin Đức Chúa Trời, đưa họ đi vào con đường sai lầm, như thế chính là hãm hại và hủy hoại dân được Đức Chúa Trời chọn. Vậy cuối cùng việc này gây ra điều gì cho công tác của hội thánh? Là quấy nhiễu, phá hoại và phá hủy. Đây chính là hậu quả mà người mưu cầu danh lợi và địa vị gây ra. Họ thực hiện bổn phận như vậy thì có thể định nghĩa là họ đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ không? Đức Chúa Trời bảo con người buông bỏ danh lợi và địa vị, đây không phải là không cho con người quyền tự do lựa chọn, mà là bởi vì trong khi con người đang mưu cầu danh lợi và địa vị thì họ cũng đang làm gián đoạn, nhiễu loạn công tác của hội thánh và lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn, thậm chí có thể ảnh hưởng đến việc ăn uống lời Đức Chúa Trời, hiểu lẽ thật và đạt đến được Đức Chúa Trời cứu rỗi của nhiều người hơn nữa, đây là sự thật không thể phủ nhận. Khi con người mưu cầu danh lợi và địa vị, họ tuyệt đối sẽ không mưu cầu lẽ thật, tuyệt đối sẽ không trung thành làm tốt bổn phận, mà chỉ có thể nói năng và làm việc vì danh lợi và địa vị, mọi công tác mà họ làm cũng không ngoại lệ, cũng là vì danh lợi và địa vị. Loại hành vi và cách làm này chắc chắn là đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, tức là làm gián đoạn và nhiễu loạn công tác của Đức Chúa Trời, tạo thành đủ loại hậu quả cản trở sự mở rộng phúc âm của vương quốc, cản trở ý chỉ của Đức Chúa Trời được tiến hành thông suốt trong hội thánh. Cho nên có thể xác định rằng con đường mà người mưu cầu danh lợi và địa vị đi chính là con đường chống lại Đức Chúa Trời, chính là cố ý chống đối Đức Chúa Trời, nói ngược lại với Đức Chúa Trời, là phối hợp với Sa-tan mà chống đối và đối lập với Đức Chúa Trời. Đây chính là tính chất trong việc mưu cầu danh lợi và địa vị của con người. Việc con người mưu cầu lợi ích của mình sai ở chỗ mục tiêu mưu cầu là thuộc về Sa-tan, là tà ác, là không chính nghĩa. Khi con người mưu cầu lợi ích cá nhân như danh lợi và địa vị, họ vô thức trở thành công cụ của Sa-tan, trở thành phát ngôn cho Sa-tan, càng trở thành hiện thân của Sa-tan. Họ đóng một vai phản diện trong hội thánh. Công dụng của họ là làm nhiễu loạn và phá hoại công tác của hội thánh, đời sống hội thánh bình thường cũng như sự mưu cầu bình thường của dân được Đức Chúa Trời chọn; họ có một tác động phản diện và tiêu cực” (Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ. Mục 9 (Phần 1)). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi thấy rằng bản chất và hậu quả của việc làm kẻ chiều lòng người, những kẻ bảo vệ lợi ích của mình và không thực hành lẽ thật là gây nhiễu loại và phá hoại công tác của nhà Đức Chúa Trời và làm tay sai của Sa-tan. Nếu tôi cứ như thế và không ăn năn, tôi sẽ bị Đức Chúa Trời khinh ghét và loại bỏ. Là lãnh đạo hội thánh, trách nhiệm của tôi là thông công lẽ thật để giải quyết vấn đề và khó khăn của các anh chị em trong lối vào sự sống của họ và chăm sóc đời sống hội thánh. Nhưng thay vào đó, khi tôi thấy vấn đề của mọi người, tôi không giúp họ thay đổi, vạch trần và phân tích thực chất cách hành xử của họ, mà thay vào đó, tôi lại làm kẻ chiều lòng người đẻ bảo vệ địa vị và tiếng tăm của mình, làm tay sai cho Sa-tan, gây tổn hại cho công tác của hội thánh và đời sống của các anh chị em. Tôi chắc chắn đã bị kiểm soát bởi tâm tính bại hoại của mình, quá hèn nhát không dám thực hành lẽ thật và duy giữ sự công chính. Tôi là tay sai của Sa-tan, yếu đuối và kém cỏi, sống thật hèn hạ, thật thảm hại. Nếu tôi không bắt đầu thực hành lẽ thật và từ bỏ bản thân, thì tôi thực sự không xứng đáng sống trước mặt Đức Chúa Trời! Nếu không có sự phán xét và mặc khải trong lời Ngài, tôi sẽ không bao giờ nhận thức được sự bại hoại của mình hay biết được những nguy hiểm và hậu quả khi làm một kẻ chiều lòng người và không thực hành lẽ thật. Tôi sẵn lòng từ bỏ bản thân và thôi làm kẻ chiều lòng người.
Sau đó tôi đọc thêm hai đoạn lời Đức Chúa Trời đã cho tôi một vài con đường thực hành. Lời Đức Chúa Trời phán: “Về thực chất, Đức Chúa Trời là thành tín, và vì thế lời Ngài luôn có thể tin cậy được; hơn nữa, hành động của Ngài là không có sai sót và không thể nghi ngờ, đó là lý do tại sao Đức Chúa Trời thích những người tuyệt đối trung thực với Ngài” (Ba điều răn, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Nếu ngươi có động cơ và quan điểm của ‘người dễ dãi’ thì trong mọi sự, ngươi đều không có khả năng thực hành lẽ thật và giữ vững nguyên tắc, và ngươi sẽ luôn thất bại và ngã nhào. Nếu ngươi không tỉnh ngộ và không bao giờ tìm kiếm lẽ thật thì ngươi là kẻ chẳng tin, và ngươi sẽ không bao giờ đạt được lẽ thật và sự sống. Vậy thì ngươi nên làm gì? Khi gặp phải loại chuyện này, ngươi phải cầu nguyện Đức Chúa Trời, kêu cầu Ngài, cầu xin Ngài cứu rỗi, và xin Đức Chúa Trời ban cho ngươi thêm đức tin và sức mạnh để ngươi có thể giữ vững nguyên tắc, làm điều ngươi nên làm, làm việc theo nguyên tắc, đứng vững lập trường ngươi nên đứng, bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và không khiến công tác của nhà Đức Chúa Trời bị tổn hại. Nếu ngươi có thể đạt đến chống lại lợi ích cá nhân, thể diện và quan điểm của một ‘người dễ dãi’, và nếu ngươi làm điều ngươi nên làm bằng tấm lòng trung thực, trọn vẹn thì ngươi đã đánh bại được Sa-tan và đã đạt được phương diện này của lẽ thật. Nếu ngươi một mực giữ vững triết lý của Sa-tan mà sống, giữ gìn mối quan hệ của mình với mọi người và không bao giờ thực hành được lẽ thật, không dám giữ vững nguyên tắc, thế thì ngươi có thể thực hành lẽ thật trong những chuyện khác không? Ngươi vẫn sẽ không có đức tin, không có sức mạnh. Nếu ngươi không bao giờ có thể tìm kiếm hoặc tiếp nhận lẽ thật, thì đức tin nơi Đức Chúa Trời như vậy có thể đạt được lẽ thật không? (Thưa, không thể.) Và nếu không đạt được lẽ thật thì có thể được cứu rỗi không? Không thể được. Nếu các ngươi luôn sống dựa vào triết lý của Sa-tan, hoàn toàn không có thực tế của lẽ thật, thì các ngươi tuyệt đối không thể được cứu rỗi. Các ngươi phải thấy rõ rằng việc đạt được lẽ thật là điều kiện cần thiết để được cứu rỗi. Vậy, làm sao các ngươi có thể đạt được lẽ thật? Nếu ngươi có thể thực hành lẽ thật, nếu ngươi có thể sống dựa vào lẽ thật, và lẽ thật trở thành cơ sở sinh tồn của ngươi thì ngươi sẽ đạt được lẽ thật và có sự sống, và như thế ngươi sẽ là người được cứu rỗi” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đọc đoạn này, tôi thấy Đức Chúa Trời thích những người trung thực. Những người trung thực không tập trung vào việc bảo vệ những mối quan hệ với người khác, và họ không quan tâm người khác coi mình ra sao, mà trong lòng họ có chỗ cho Đức Chúa Trời. Họ tuân thủ nguyên tắc trong mọi chuyện, có ý thức công chính, và trung thành với Đức Chúa Trời. Nhưng ngẫm lại mình, tôi thấy mình quá quan tâm đến những mối quan hệ xã giao, thanh danh và địa vị. Khi xảy ra chuyện cần sự bảo vệ lợi ích của hội thánh và thực hành lẽ thật, tôi một mực chọn về phe Sa-tan, không dám làm theo nguyên tắc của lẽ thật; tôi luôn phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời, làm Ngài đau lòng và thất vọng. Thật ra, nói ra sự thật và chỉ ra vấn đề của ai đó không phải để làm họ mất mặt. Làm như thế thực sự có ích, dù đó là cho các anh chị em hay công tác của hội thánh. Nếu nhận thấy có người bộc lộ sự bại hoại mà chúng ta không nêu ra bản chất và hậu quả của kiểu hành động này, họ sẽ không bao giờ nhận ra vấn đề của họ nghiêm trọng thế nào, và họ sẽ không thể thay đổi được. Việc này không chỉ cản trở lối vào sự sống của người ta mà còn ảnh hưởng đến công tác của hội thánh, và khiến Đức Chúa Trời ghê tởm vì chúng ta đang sống trong tâm tính bại hoại và không bảo vệ công tác của hội thánh. Tôi đã từng quá tập trung vào tiếng tăm và địa vị, luôn lo nghĩ đến ý kiến của người khác mà không ưu tiên ý kiến của Đức Chúa Trời. Tôi không suy xét làm sao hành động phù hợp với lẽ thật. Tôi luôn bị tâm tính bại hoại của mình kiểm soát – tôi đúng là kẻ ngu muội. Tôi không thể tiếp tục để tâm tính bại hoại của mình dẫn dắt và không muốn trở thành trò cười nhu nhược của Sa-tan. Tôi phải làm người trung thực có ý thức công chính, làm thỏa lòng Đức Chúa Trời. Hiểu được điều này, tôi quyết tâm thực hành lẽ thật và phản bội xác thịt. Tôi sẽ tuân giữ nguyên tắc và đứng về phía Đức Chúa Trời để bảo vệ công tác của hội thánh dù cho người khác có nhìn tôi thế nào đi nữa. Hôm sau tôi tìm gặp hai người anh em và ngay khi chuẩn bị chỉ ra vấn đề của họ, tôi lại cảm thấy có chút lo lắng, nghĩ rằng: “Lỡ họ không chấp nhận việc bị vạch trần và xử lý và trút giận lên mình thì sao? Làm sao sau đó mình còn dám ra mặt đây?”. Tôi nhận ra mình lại bị tâm tính bại hoại kiềm chế, nên tôi cầu nguyện, xin Đức Chúa Trời giúp tôi thực hành lẽ thật. Rồi tôi nhớ đến những lời Đức Chúa Trời đã phán: “Không thể gìn giữ các chứng ngôn và lợi ích của Ta chính là sự phản bội. Cười giả tạo khi xa Ta trong lòng chính là sự phản bội” (Một vấn đề rất nghiêm trọng: Sự phản bội (1), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra nếu tôi cứ làm một kẻ chiều lòng người, không thực hành lẽ thật hay bảo vệ lợi ích của hội thánh, thì khi đó tôi đang phản bội Đức Chúa Trời. Tôi biết mình phải ngừng bảo vệ những mối quan hệ của mình với mọi người, và dù họ có nghĩ gì về tôi sau khi tôi lên tiếng về vấn đề của họ, tôi vẫn phải đối diện với Đức Chúa Trời và thực hành lẽ thật! Vậy nên tôi đã vạch trần sự kiêu ngạo và cách hành xử bất hợp tác của họ, cùng thực chất và hậu quả của toàn bộ những việc này. Tôi cũng tìm một số lời Đức Chúa Trời để đọc cho họ nghe. Nghe xong, họ đã có thể kiểm điểm bản thân và biết mình dưới sự sáng của lời Đức Chúa Trời, và muốn ăn năn và thay đổi. Tôi rất vui khi thấy họ đã có thể hiểu về bản thân, nhưng tôi cũng cảm thấy tội lỗi. Nếu tôi có thể thực hành lẽ thật sớm hơn, tôi đã có thể giúp họ biết vấn đề của họ nghiêm trọng thế nào và họ đã có thể thay đổi mọi chuyện sớm hơn. Họ đã không tiếp tục sống trong sự bại hoại, bị Sa-tan làm hại và bỡn cợt, và đặc biệt họ sẽ không làm trì trệ công tác của hội thánh. Tôi luôn sợ nếu mình chỉ ra vấn đề của người khác, họ sẽ bực mình và đem lòng khó chịu với tôi. Nhưng thật ra, đó chỉ toàn là suy nghĩ trong đầu tôi. Miễn là người đó có thể tiếp nhận lẽ thật thì họ sẽ không nảy sinh thành kiến, mà sẽ có thể rút ra bài học. Cách thực hành này có lợi cho người khác và cho chính bản thân chúng ta.
Sau đó tôi đã có thêm tự tin trong việc thực hành lẽ thật và làm một người trung thực. Tôi không còn bị kiềm chế bởi những suy nghĩ về địa vị và tiếng tăm. Khi tôi thấy vấn đề của các anh chị em, tôi đã có thể chia sẻ thông công và giúp họ ngay, phơi bày và mổ xẻ vấn đề của họ. Tôi thực sự cảm thấy tình yêu và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời qua những trải nghiệm này. Chính sự phán xét và hình phạt của lời Đức Chúa Trời đã thay đổi tâm lý chiều lòng người của tôi. Tôi cảm thấy thực hành lẽ thật rất thoải mái và khiến tâm trí thực sự bình an, tốt hơn việc luôn khúm núm sợ làm mất lòng người khác. Tôi cũng có thể sống với một chút hình tượng giống con người. Tôi nhận ra chỉ có lời Đức Chúa Trời mới là lẽ thật, và chúng cho ta phương hướng và con đường biết phải làm gì và chúng ta là ai. Làm một người trung thực theo lời Đức Chúa Trời là cách duy nhất để trở thành một người tốt.