80. Chuyện về việc Nghênh tiếp Chúa của tôi
Khi còn nhỏ, chân tôi đau nặng đến nỗi không đi lại được, nên mẹ đã đưa tôi đến trước Đức Chúa Jêsus. Không ngờ, chưa đầy một tháng sau chân tôi đã lành một cách kỳ diệu. Để đền đáp tình yêu của Chúa, năm 1998, tôi đã bỏ học và bắt đầu hăng hái dâng mình cho Chúa. Không lâu sau, hội thánh đã xác định tôi là đối tượng quan trọng để đào tạo. Trưởng lão Khúc thường đưa tôi đi rao giảng ở khắp các hội thánh khác nhau. Khih ấy, các mục sư và trưởng lão thường nói rằng ngày của Chúa sắp đến, rằng chúng ta nên là các trinh nữ khôn ngoan chuẩn bị sẵn dầu đèn chờ Chúa đến. Họ cũng nói: “Trong Kinh Thánh có viết: ‘Kìa, Ngài đến giữa những đám mây, mọi mắt sẽ trông thấy, cả đến những kẻ đã đâm Ngài cùng trông thấy; hết thảy các chi họ trong thế gian sẽ than khóc vì cớ Ngài’ (Khải Huyền 1:7). Khi Chúa tái lâm trong thời kỳ sau rốt, Ngài sẽ trở lại đầy vinh quang trên mây và sẽ cất chúng ta lên không trung để gặp Ngài. Chúng ta sẽ vào thiên quốc và tận hưởng phước lành đời đời. Những kẻ ngoại đạo sẽ rên rỉ và nghiến răng khi ngã quỵ trước các thiên tai”. Nghe các bài giảng sôi nổi của các mục sư và trưởng lão, tôi lập tức hình dung ra khung cảnh tất cả chúng ta cùng nhau vui mừng quây quần khi Chúa giáng thế đầy vinh quang trên mây. Nghĩ đến cảnh tượng xúc động như vậy, tôi vô cùng phấn khích.
Rồi một ngày đầu năm 1999, trưởng lão Khúc và trưởng lão Hồ của giáo xứ đã triệu tập các đồng sự và nói: “Hiện có một hội thánh mới tên là Tia Chớp Phương Đông tuyên bố rằng Chúa đã trở nên xác thịt và tái lâm, đang bày tỏ lời và thực hiện công tác phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời. Nhưng sao có thể thế được? Thánh thư đã nói rõ rằng Chúa sẽ ngự mây mà xuống, vậy mà họ lại tuyên bố rằng Chúa đã nhập thể tái lâm. Điều này không phù hợp với Kinh Thánh, nên mọi người không được nghe họ giảng hay đọc sách của họ, càng không được tiếp đãi họ. Bất cứ ai tiếp đãi họ sẽ bị khai trừ khỏi hội thánh!”. Khi họ nói vậy, tôi nghĩ: “Các trưởng lão đã là tín hữu có thâm niên và thông thạo Kinh Thánh, nên chắc là họ nói đúng. Ngoài ra, thánh thư cũng tuyên bố rõ ràng rằng Chúa sẽ ngự mây mà xuống, vậy thì sao Ngài có thể nhập thể mà đến được chứ? Vóc giạc của mình vẫn còn nhỏ bé, vì vậy mình không nên tiếp xúc với người của Tia Chớp Phương Đông, không thì mình có thể bị lạc lối mất”. Nhưng không lâu sau, nhiều đồng sự và anh em đồng đạo với tôi đã cải đạo sang Tia Chớp Phương Đông. Trưởng lão Hồ đã nhấn mạnh rằng chúng tôi phải cắt đứt quan hệ với những đồng sự và tín hữu này. Ông ấy cũng bảo chúng tôi đi nói với tất cả các hội thánh rằng họ không được để bất kỳ ai cải đạo sang Tia Chớp Phương Đông. Sau đó, tôi đã đến mọi điểm nhóm mình phụ trách và phong tỏa các hội thánh. Tôi cũng liên tục nhấn mạnh rằng: “Khi Chúa đến, sẽ là đến trên mây, chứ không phải trong xác thịt. Bất cứ thông điệp nào nói Chúa đã tái lâm nhập thể đều là giả”. Nghe thấy vậy, các tín hữu đều gật đầu và nói nếu có ai đến rao giảng phúc âm, họ sẽ đuổi mấy người đó đi. Để ngăn các anh chị em nghe Tia Chớp Phương Đông rao giảng, tôi đã không ngừng phong tỏa hội thánh. Nhưng dù tôi có cố gắng hết sức, thì vẫn có một lượng đều đều các đồng sự và tín hữu cải đạo sang Tia Chớp Phương Đông.
Một ngày nọ, trong khi tôi đang ở nhà một đồng sự, anh ấy bảo tôi rằng đồng sự Lý và các tín hữu khác đang tìm hiểu Tia Chớp Phương Đông. Tôi và một vài đồng sự khác đã vội đi ngăn cản họ. Tôi bảo họ: “Thánh thư nói Chúa sẽ ngự mây mà xuống và tất cả mọi người sẽ chứng kiến sự giáng thế của Ngài. Vì vậy chúng ta không thể tin người của Tia Chớp Phương Đông khi họ nói Chúa đã nhập thể tái lâm”. Nhưng không ngờ, tôi vừa dứt lời thì một người trong số họ nói: “Những gì họ rao giảng rất sâu sắc và phù hợp với Kinh Thánh. Sao chúng tôi lại không thể nghe họ chứ? Ai có thể hiểu thấu được công tác của Đức Chúa Trời chứ? Tôi nghĩ chúng tôi nên tiếp tục tìm hiểu”. Nghe thấy vậy tôi rất lo lắng và định tiếp tục khuyên can họ, nhưng rồi đột nhiên cổ họng tôi nghẹn lại và ho một tràng dài. Mặt tôi đỏ bừng và nước mắt chảy ròng ròng – tôi không thể nói được một lời nào cả. Mọi người ở đó chỉ biết kinh ngạc nhìn tôi. Các đồng sự vội rót cho tôi ly nước, nhưng uống nước rồi mà tôi vẫn cứ ho. Tôi đã rất lo lắng và liên tục cầu nguyện với Chúa, xin Ngài ngăn cơn ho của tôi lại. Thấy tình trạng của tôi như vậy, một đồng sự khác tiếp tục nói thay tôi, nhưng chỉ sau vài câu bình luận, anh ấy đã vội vã kết thúc cuộc họp. Đó là một cảnh tượng cực kỳ khó xử. Sau đó, tôi không khỏi thắc mắc: “Mình đang bảo vệ con đường của Chúa và bảo vệ đàn, vậy sao mình lại bị ho nguyên một tràng vào lúc quan trọng nhất như thế? Tại sao Chúa lại không nghe lời cầu nguyện của mình? Lẽ nào lời mình nói không phù hợp với ý muốn của Ngài sao?”. Không lâu sau đó, tôi bị bệnh. Tôi bị đau đầu, chóng mặt và khó chịu trong bụng. Nằm yếu ớt và uể oải trên giường, tôi đã liên tục kêu cầu Chúa. Nhưng dù có cầu xin Ngài thế nào, tình trạng của tôi cũng không đỡ hơn. Tôi không khỏi nghĩ: “Chẳng lẽ mình dâng hiến cho Chúa chưa đủa sao? Mình đã cố hết sức bảo vệ đàn của Ngài, vậy thì tại sao mình lại bị bệnh?”. Tôi vắt óc tìm câu trả lời, nhưng không nghĩ ra được. Mùa thu năm 1999, trưởng lão Hồ đã bị tai nạn ô tô khi trên đường đi phong tỏa hội thánh về nhà. Ông ấy đã bị ngất trong vụ tông xe và đã bị thương nặng ở đầu, sau khi rơi vào tình trạng nguy kịch vài ngày, tình trạng ông ấy mới ổn định. Tôi đã sốc khi nghe tin này: Trưởng lão Hồ đã làm việc cho Chúa nhiều năm, trải qua bao gian khó, đi lại xa xôi và chịu khổ để bảo vệ đàn và không để các tín hữu tiếp nhận Tia Chớp Phương Đông. Tại sao chuyện như thế lại xảy ra với ông ấy chứ? Nhưng tôi chỉ nghĩ qua về điều này rồi sau đó gạt ý nghĩ đó sang một bên. Vài tháng sau, vào một buổi chiều nọ, tôi nghe tin có thêm một vài tín hữu đang tìm hiểu Tia Chớp Phương Đông, nên tôi và hai người chị em khác đã vội chạy xe đạp đến nói với họ nhiều tin đồn và những lời ngụy biện để đe dọa và ngăn cấm họ. Việc này khiến họ sợ hãi và họ nói sẽ không nghe các bài giảng của Tia Chớp Phương Đông nữa. Nghe họ nói vậy, cuối cùng tôi cũng cảm thấy có chút nhẹ nhõm. Nhưng khi đạp xe về nhà, tôi bị mất thăng bằng khi đi qua một con dốc, tầm nhìn của tôi tối đen không nhìn thấy gì và tôi bị ngã xe, văng xa khoảng hai mét. Tôi lập tức thấy chóng mặt và toàn thân đau nhức. Tôi bị gãy xương đòn trong vụ tai nạn, và vụ tai nạn bất ngờ này khiến tôi bối rối và không thể hiểu nổi: “Chẳng phải Đức Chúa Jêsus ban cho chúng ta sự bình an và vui vẻ sao? Tại sao chuyện này lại xảy đến với tôi trong khi tôi đang bảo vệ con đường của Chúa và bảo vệ chiên của Ngài? Lẽ nào Tia Chớp Phương Đông mà tôi đang chống đối thực sự là sự tái lâm của Chúa sao? Nhưng Kinh Thánh đã nói rõ rằng Chúa sẽ ngự mây mà xuống, và Tia Chớp Phương Đông lại làm chứng rằng Ngài tái lâm nhập thể. Đó không thể là con đường thật được! Có phải Chúa đang thử thách tôi vì tôi đã không dâng hiến đủ cho Ngài không? Hay tôi đã xúc phạm Ngài theo cách nào đó?”. Tôi thực sự hoang mang và không hiểu được ý muốn của Chúa.
Sau đó, lòng tôi ngày càng cảm thấy tăm tối và suy kiệt. Khi đọc Kinh Thánh, tôi không có được chút thông sáng nào và khi rao giảng tôi chẳng có gì để nói cả. Ngay cả những lời cầu nguyện của tôi cũng khô khan và nhạt nhẽo. Tôi cảm thấy như thể Chúa đã không còn ở bên mình. Nhiều tín hữu của chúng tôi cũng đang trở nên lãnh đạm trong đức tin. Trong các buổi nhóm họp, hầu hết mọi người chỉ tán gẫu hoặc ngủ gật, nhiều đồng sự và tín hữu thậm chí còn bỏ đạo, quay lại với thế giới trần tục. Điều tôi thấy đáng thất vọng nhất là giữa các đồng sự có sự đố kỵ và tranh chấp. Trong các cuộc họp, các trưởng lão và đồng sự tranh cãi gay gắt với nhau về các vấn đề nhỏ nhất và rồi chia tay trong bất hòa. Khi chứng kiến tất cả chuyện này, tôi không hiểu nổi tại sao hội thánh lại ra nông nỗi này. Tôi bắt đầu chán ngấy việc họp hành và thậm chí còn nghĩ đến việc quay lại cuộc sống thế tục.
Rồi một ngày nọ năm 2002, mẹ tôi đã phấn khích nói với tôi: “Sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus mà chúng ta hằng mong đợi đã đến. Ngài đã trở nên xác thịt để bày tỏ lời và thực hiện công tác phán xét”. Tôi đã sốc khi nghe tin này. Chẳng phải đây là điều Tia Chớp Phương Đông đang rao giảng sao? Mẹ tôi đã cải đạo sang Tia Chớp Phương Đông rồi ư? Mẹ tôi chưa kịp nói xong, thì tôi đã hỏi bà: “Ai nói với mẹ là Đức Chúa Jêsus đã tái lâm? Mẹ quên rằng Kinh Thánh đã nói rõ khi Chúa đến, Ngài sẽ ngự mây giáng thế trong vinh quang và việc này sẽ làm rung chuyển trời đất sao? Mẹ nói Chúa đã tái lâm, vậy thì tại sao chúng ta không thấy bất kỳ dấu hiệu nào như vậy? Mẹ cũng nói Chúa đã trở nên xác thịt để thực hiện công tác phán xét, nhưng sao lại thế được? Mẹ không thể nghe gì cũng tin”. Thấy tôi quá cố chấp, mẹ tôi đi vào phòng bà và trở ra với một cuốn sách được đóng bìa rất đẹp. Bà háo hức nói: “Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đức Chúa Jêsus tái lâm. Đây là những lời mới mà Ngài bày tỏ. Đọc đi rồi con sẽ hiểu”. Cuốn sách hoàn toàn mới và tiêu đề “Lời xuất hiện trong xác thịt” được in bằng chữ vàng lớn trên bìa. Tôi lập tức nghĩ đến lời cảnh báo của giới giáo chức: “Không được đọc sách của họ. Nếu đọc, mọi người sẽ bị lừa”. Thế là tôi nói: “Mẹ, mẹ không nên tin vào thứ này. Mẹ đâu có đọc Kinh Thánh nhiều, còn con thì thông thạo Kinh Thánh và đã dự nhiều buổi họp phục hồi đức tin rồi. Mẹ thực sự nghĩ là mẹ biết rõ hơn con sao? Nếu đi sai đường trong đức tin, chẳng phải bao năm theo đạo của mẹ sẽ vô ích sao?”. Tôi cố thuyết phục mẹ tôi không gia nhập Tia Chớp Phương Đông. Nhưng dù tôi có nói gì, mẹ tôi cũng không hề lay động hay thay đổi suy nghĩ. Bà thậm chí còn tha thiết nói với tôi: “Đức Chúa Trời Toàn Năng thực sự là Đức Chúa Jêsus mà chúng ta hằng mong mỏi. Ngài là Thần của Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt một lần nữa để phán dạy và làm công tác. ‘Lời xuất hiện trong xác thịt’ chính là lời mà đích thân Đức Chúa Trời phán dạy trong thời kỳ sau rốt và nó mặc khải mọi lẽ nhiệm màu của Kinh Thánh. Con chưa từng đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, vậy thì làm sao con biết đó không phải là lời của Chúa tái lâm? Kinh Thánh nói: ‘Đức tin đến bởi sự người ta nghe’ (Rô-ma 10:17). Con không mở mắt nhìn và không lắng tai nghe, thì con mong được nghênh tiếp Chúa thế nào đây? Con nghĩ đi: Nếu Chúa thực sự đã tái lâm, mà con không chào đón Ngài, thì chẳng phải con sẽ hối tiếc vì lỡ mất cơ hội đó sao?”. Nghe bà ấy nói vậy, tôi không nghĩ ra được lời phản bác nào hay ho, nên chỉ sưng sỉa đáp: “Con sẽ không đọc cuốn sách này đâu, con chỉ đọc Kinh Thánh thôi. Chúng ta đã vui hưởng quá nhiều ân điển của Chúa – con không thể vô ơn được! Dù mẹ có nói gì thì con cũng sẽ không phản bội Chúa!”. Thấy thái độ của tôi, bà ấy chỉ thở dài ngao ngán rồi đứng lên đi nấu bữa tối. Không lâu sau đó, tôi nghe thoáng thấy tiếng nhạc phát ra từ nhà bếp. Bài hát có giai điệu rất hay, nhưng khi nghe kỹ, tôi nhận ra mình chưa từng nghe bài thánh ca này. Tôi biết mẹ tôi đã bật cho tôi nghe, nên tôi đã lập tức bỏ đi. Sau đó, ở nhà, mẹ tôi bắt đầu suốt ngày mở thánh ca, và tối đến, tôi cũng thường nghe bà ấy khóc lóc cầu nguyện cho tôi. Tôi không khỏi nghĩ: “Mẹ mình là một người cứng cỏi nên chắc hẳn mẹ đã siêng năng tìm kiếm về chuyện nghênh tiếp Chúa. Lẽ nào Tia Chớp Phương Đông quả thực là sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus sao? Nếu không, tại sao mẹ lại quá âu lo và lo nghĩ mà cầu nguyện cho mình chứ?”. Nhưng rồi tôi nghĩ về những gì mục sư và trưởng lão nói nên quyết tuân theo con đường của Chúa và không dao động. Sau đó, tôi ngày càng xa cách với mẹ.
Một ngày nọ, mẹ lại mở một bài thánh ca trong phòng của bà khi tôi đang ngồi trên trường kỷ trong phòng khách. Lời bài thánh ca đó đã thu hút tôi:
1 Lần này, Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt để thực hiện công tác Ngài chưa hoàn thành, để phán xét và kết thúc thời đại này, cứu rỗi con người khỏi bể khổ, và chinh phục con người hoàn toàn, thay đổi tâm tính sống của họ. Ngài đã chịu đựng nhiều đêm không ngủ để giải thoát con người khỏi sự khổ đau, khỏi các thế lực tăm tối như đêm đen, và vì lợi ích công tác cho nhân loại. Ngài từ nơi cao nhất ngự xuống nơi thấp nhất để sống ở trong địa ngục trần gian này. Và trải qua nhiều ngày tháng sống cùng con người. Ngài chưa từng than về sự tồi tàn trên đất, cũng chưa bao giờ đòi hỏi quá nhiều ở con người; thay vào đó, Ngài chịu mối nhục lớn nhất khi thực hiện công tác. Để nhân loại sớm được vui hưởng sự nghỉ ngơi, Ngài đã chịu nhục nhã, bất công để giáng thế, và đã đích thân bước vào hang cọp, vào hang cọp để cứu rỗi nhân loại.
2 Nhiều lần Ngài đối mặt với các vì sao, nhiều lần Ngài đã đi sớm về muộn; Ngài đã chịu nỗi đau đớn cùng cực, chịu những sự tấn công, phá vỡ của con người. Ngài đã đến vùng đất nhơ bẩn này, âm thầm chịu đựng sự tàn phá, áp bức của con người, nhưng Ngài chưa bao giờ chống trả hay đòi hỏi gì quá đáng với con người! Đức Chúa Trời đã thực hiện toàn bộ công tác cần thiết cho nhân loại: giảng dạy, quở trách và khai sáng, tinh luyện họ bằng lời Ngài, nhắc nhở, khuyên răn, an ủi, vạch trần, phán xét họ. Mỗi bước Ngài làm đều vì sự sống con người, đều nhằm làm tinh sạch họ, đều nhằm làm tinh sạch họ. Dù đã lấy đi triển vọng, số phận của họ, nhưng mọi điều Ngài làm đều vì lợi ích nhân loại. Mọi bước Ngài làm đều vì sự sống còn của họ, để họ có thể có được đích đến tốt đẹp trên đất.
– Công tác và sự bước vào (9), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời
Lời bài thánh ca này có ý nghĩa sâu sắc đối với tôi. Tôi không khỏi nghĩ đến việc Đức Chúa Jêsus đã trở nên xác thịt để cứu chuộc nhân loại như thế nào. Ngài đã bị săn lùng và bách hại bởi chính quyền La Mã, bị thế giới tôn giáo lên án, ruồng bỏ, bị thế gian chế giễu, vu khống, và chưa từng có nơi để nghỉ ngơi hay có một ngôi nhà cho riêng mình. Dù vậy, Ngài vẫn bày tỏ lẽ thật để chu cấp và nuôi dưỡng con người, chữa lành cho họ và xua đuổi ma quỷ, và cuối cùng Ngài đã bị đóng đinh như một của lễ chuộc tội đời đời cho nhân loại, cứu chuộc toàn thể loài người khỏi tội lỗi. Khi nghĩ đến tình yêu của Đức Chúa Jêsus dành cho nhân loại và đối chiếu với lời bài thánh ca này về việc Đức Chúa Trời đã chịu đau khổ như thế nào vì con người, con tim tê liệt và chai đá của tôi đã vô cùng rung động, nước mắt tôi tuôn trào. “Lẽ nào Đức Chúa Trời Toàn Năng thực sự là Đức Chúa Jêsus tái lâm sao? Ngoài Đức Chúa Trời ra, ai có thể bày tỏ những lời như thế chứ? Còn ai khác có thể trả một cái giá như thế vì nhân loại chứ?”. Sau đó, tôi đã nghe thêm một bài thánh ca khác: “Xét cho cùng, những người vô tội đã trở nên tê liệt; tại sao Đức Chúa Trời phải luôn làm khó họ? Con người yếu đuối hoàn toàn không có tính nhẫn nại; tại sao Đức Chúa Trời luôn thường xuyên giận dữ đối với họ? Con người yếu đuối và bất lực không còn chút sức sống nào; tại sao Đức Chúa Trời luôn khiển trách họ vì sự phản nghịch? Ai có thể chịu được những sự đe dọa của Đức Chúa Trời trên trời không? Xét cho cùng, con người thì mong manh, và trong những hoàn cảnh tuyệt vọng, Đức Chúa Trời đã nén giận vào tận đáy lòng, hầu cho con người có thể từ từ suy ngẫm về chính mình” (Công tác và sự bước vào (8), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời bài hát này đã tác động sâu sắc đến tôi. Nó nói về sự quan tâm và chăm sóc chu đáo cho con người của Đức Chúa Trời, giống như một người mẹ liên tục gọi đứa con không vâng lời của mình, ngay cả khi nó làm tan nát lòng bà, hy vọng rằng chúng sẽ thoát khỏi đám mây mù và trở về bên mình. Tôi cảm thấy những lời này là tiếng của Đức Chúa Trời. Tôi không khỏi nghĩ đến những lần tôi bất đồng với mẹ trong khoảng thời gian đó: Dù bà có cố thuyết phục thế nào tôi cũng không nghe. Khi bà mở các bài đọc lời Đức Chúa Trời và thánh ca cho tôi nghe, tôi thậm chí còn chống đối, không chịu nghe và không hề có ý định tìm hiểu công tác mới của Ngài. Tôi có còn là một Cơ đốc nhân sao? Sau đó, khi mẹ tôi mở các bài thánh ca, tôi không còn phản kháng như trước nữa.
Một ngày nọ, tôi nghe được bài thánh ca này: “Sự tái lâm của Jêsus là sự cứu rỗi vĩ đại cho những người có khả năng tiếp nhận lẽ thật, nhưng với những người không thể tiếp nhận lẽ thật, đó là dấu hiệu của sự định tội. Các ngươi nên chọn con đường của riêng mình, và không nên báng bổ Đức Thánh Linh và bác bỏ lẽ thật. Các ngươi không nên là kẻ thiếu hiểu biết và kiêu ngạo, mà hãy là người thuận phục sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh và mong mỏi, tìm kiếm lẽ thật; chỉ có cách này các ngươi mới được lợi” (Khi ngươi thấy được thân thể thuộc linh của Jêsus, Đức Chúa Trời đã làm mới lại trời đất, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi nghe bài này, tôi đột nhiên thấy lo: “Nếu Đức Chúa Trời Toàn Năng thực sự là Đức Chúa Jêsus tái lâm, thì chẳng phải mình sẽ bị lên án vì không tiếp nhận Ngài sao? Xúc phạm Đức Chúa Trời là một vấn đề nghiêm trọng – đây là tội lỗi sẽ không được tha thứ trong kiếp này hay kiếp sau!”. Tôi cũng nghĩ đến Đức Chúa Jêsus từng phán: “Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được no đủ!” (Ma-thi-ơ 5:6). Đức Chúa Jêsus đã dạy rằng chúng ta chỉ có thể nhận được sự cung dưỡng dồi dào của Đức Chúa Trời bằng cách tìm kiếm và khao khát lẽ thật. Nhưng nếu tôi tìm hiểu Tia Chớp Phương Đông và bị lừa, thì chẳng phải bao năm theo đạo của tôi sẽ trở nên vô ích sao? Tôi cứ nghĩ đi nghĩ lại mà không quyết được phải làm gì, nên đã tìm đến Chúa để cầu nguyện: “Lạy Chúa, con cảm thấy rất mâu thuẫn. Những lời này dường như là tiếng Ngài, nhưng con sợ nếu mình sai, con có thể sẽ phản bội Ngài. Chúa ơi, con không chắc Đức Chúa Trời Toàn Năng có phải là Ngài tái lâm không. Nếu đây thực sự là công tác của Ngài, xin Ngài hãy khai sáng cho con. Nếu không, xin hãy giúp con giữ vững lập trường chống lại nó”.
Vài ngày sau, mẹ tôi lại lôi ra cuốn “Lời xuất hiện trong xác thịt” và bảo tôi: “Cứ đọc kỹ lời Đức Chúa Trời Toàn Năng đi thì con sẽ biết Ngài chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm. Nếu không tìm hiểu, làm sao con biết được liệu Ngài có phải là Chúa tái lâm không? Cũng như một bữa tiệc thịnh soạn vậy: Nếu chỉ nhìn mà không ăn bất cứ món nào, con sẽ không bao giờ biết nó có vị gì. Chúng ta tin vào Đức Chúa Trời thật, vậy thì con sợ cái gì? Mẹ là mẹ con – con thực sự nghĩ mẹ sẽ hại con sao?”. Lời mẹ tôi khá thuyết phục. Tôi nghĩ: “Đúng vậy, mình chỉ nghe lời các mục sư và trưởng lão, lặp lại lời họ, chứ mình chưa bao giờ đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng hay nghe bài giảng của Tia Chớp Phương Đông. Vậy thì làm sao mình biết được liệu Đức Chúa Trời Toàn Năng có phải là Đức Chúa Jêsus tái lâm hay không? Chẳng phải mình đã xác nhận rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Cứu Chuộc nhờ đọc Kinh Thánh hay sao?”. Nghĩ vậy, tôi cầm cuốn sách lên và bắt đầu xem qua. Tôi thấy Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Có lẽ, khi đã nghe về con đường của lẽ thật và đã đọc về lời của sự sống, ngươi tin rằng chỉ có một trong số 10.000 lời này là nhất quán với những niềm tin của ngươi và Kinh Thánh, vậy thì ngươi nên tiếp tục tìm kiếm nơi lời một phần vạn đó đi. Ta vẫn khuyên ngươi nên khiêm nhường, không nên quá tự tin, và không nên tâng bốc bản thân mình quá cao. Với chút ít lòng kính sợ Đức Chúa Trời như vậy, ngươi sẽ có được sự sáng vĩ đại hơn. Nếu ngươi cẩn thận xem xét và liên tục suy ngẫm những lời này, ngươi sẽ hiểu chúng có phải là lẽ thật hay không, và chúng có phải là sự sống hay không” (Khi ngươi thấy được thân thể thuộc linh của Jêsus, Đức Chúa Trời đã làm mới lại trời đất, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đọc lời khích lệ tha thiết này, tôi bắt đầu thấy lo lắng và sợ hãi, nghĩ rằng: “Lẽ nào đây thực sự là lời Đức Chúa Trời sao? Nếu không thì tại sao nó lại nói đây là lời của sự sống, là con đường của lẽ thật? Tại sao nó lại yêu cầu con người tiếp tục tìm kiếm cho dù chỉ có một phần nhỏ nhất trong đó phù hợp với niềm tin của họ và Kinh Thánh”. Tôi quyết định tìm hiểu điều này. Nếu không, tôi có thể bỏ lỡ cơ hội nghênh tiếp Chúa, và khi đó thì có hối hận cũng đã quá muộn. Thế là tôi tiếp tục đọc và bắt gặp đoạn lời này. “Hy vọng của Ta chính là mỗi một anh chị em, những người tìm kiếm sự xuất hiện của Đức Chúa Trời sẽ không lặp lại bi kịch lịch sử. Các ngươi không được trở thành những người Pha-ri-si của thời hiện đại và đóng đinh Đức Chúa Trời lên thập tự giá một lần nữa. Các ngươi nên suy xét cẩn thận cách đón tiếp sự trở lại của Đức Chúa Trời, và các ngươi nên có tư tưởng rõ ràng về việc làm thế nào để trở thành người thuận phục lẽ thật. Đây là trách nhiệm của tất cả những ai đang chờ đợi Jêsus tái lâm trên đám mây. Chúng ta nên dụi cặp mắt tâm linh của mình cho sáng ra, và đừng trở nên sa lầy trong những lời hoang tưởng cường điệu. Chúng ta nên suy nghĩ về công tác thực tế của Đức Chúa Trời, và nhìn vào khía cạnh thực tế của Đức Chúa Trời. Đừng bị cuốn theo hay đánh mất chính mình trong những mơ tưởng hão huyền, mãi ngóng chờ ngày Đức Chúa Jêsus cưỡi mây đột nhiên giáng xuống giữa các ngươi, và mang các ngươi đi, những người chưa bao giờ biết đến hay nhìn thấy Ngài, và những người không biết làm thế nào để tuân theo ý chỉ của Ngài. Tốt hơn là hãy suy nghĩ về những vấn đề thiết thực hơn!” (Lời tựa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đoạn lời này khiến tôi hơi bối rối. Trong Kinh Thánh, rõ ràng có viết là Chúa sẽ trở lại đầy vinh quang trên đám mây, vậy tại sao đoạn này lại nói: “Chúng ta nên dụi cặp mắt tâm linh của mình cho sáng ra, và đừng trở nên sa lầy trong những lời hoang tưởng cường điệu” và, “Đừng bị cuốn theo hay đánh mất chính mình trong những mơ tưởng hão huyền, mãi ngóng chờ ngày Đức Chúa Jêsus cưỡi mây đột nhiên giáng xuống giữa các ngươi”. Chúa thực sự không tái lâm trên mây sao? Chính xác thì chuyện này là sao đây? Tôi đã nghĩ tới nghĩ lui chuyện này nhưng vẫn không thể hiểu nổi. Rồi tôi chợt nhớ các tín hữu tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng đã nhiều lần đến nhà tôi, nên tôi có thể hỏi xem họ nói gì.
Một ngày nọ, chị Mục Vũ từ Hội thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng đến nhà tôi, và tôi đã nói với chị ấy mối băn khoăn của mình. Chị ấy cười đáp: “Đúng là Kinh Thánh đề cập đến việc Chúa tái lâm trên mây, nhưng cũng có các lời tiên tri khác về cách Ngài tái lâm. ‘Vì như chớp phát ra từ phương đông, nháng đến phương tây, thì sự Con người đến sẽ cũng thể ấy’ (Ma-thi-ơ 24:27). ‘Vì như chớp nháng lòe từ dưới phương trời nầy đến dưới phương trời kia, thì Con người trong ngày Ngài cũng như vậy. Nhưng Ngài trước phải chịu đau đớn nhiều, và bị dòng dõi nầy bỏ ra’ (Lu-ca 17:24-25). Và: ‘Các ngươi cũng vậy, hãy chực cho sẵn sàng, vì Con người sẽ đến trong giờ các ngươi không ngờ’ (Lu-ca 12:40). ‘Nếu ngươi chẳng tỉnh thức, ta sẽ đến như kẻ trộm, và ngươi không biết giờ nào ta đến bắt ngươi thình lình’ (Khải Huyền 3:3). ‘Kìa, ta đến như kẻ trộm’ (Khải Huyền 16:15). ‘Ðến khuya, có tiếng kêu rằng: Kìa, chàng rể đến, hãy đi ra rước người!’ (Ma-thi-ơ 25:6). Còn có: ‘Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta’ (Khải Huyền 3:20). Trong những câu này, tại sao Chúa cứ nhấn mạnh rằng ‘sự đến của Con người’, ‘Con người đến’, và ‘Con người trong ngày của Ngài’? ‘Con người’ ở đây ám chỉ điều gì? Nó ám chỉ Thần của Đức Chúa Trời trở nên xác thịt với tư cách là Con người. Nếu chỉ có Thần của Đức Chúa Trời thì đâu thể gọi là Con người. Hơn nữa, Chúa cứ nhắc đi nhắc lại rằng Ngài sẽ trở lại ‘như một tên trộm’, và nói: ‘đến khuya, có tiếng kêu rằng’. Điều này cho thấy khi Đức Chúa Jêsus tái lâm, Ngài sẽ làm vậy một cách âm thầm, Ngài sẽ nhập thể thành Con người và bí mật giáng thế mà không một ai biết cả. Việc này cũng giống như khi Thần của Đức Chúa Trời nhập thể thành Đức Chúa Jêsus để xuất hiện và làm công tác. Đức Chúa Jêsus trông như một người bình thường, và Ngài đã đi khắp nơi rao giảng, nhưng không ai nhận ra Ngài là Đức Chúa Trời nhập thể, rằng Ngài là sự hiện đến của Đấng Christ. Vì vậy, chúng ta có thể hoàn toàn chắc rằng khi Chúa tái lâm trong thời kỳ sau rốt, Ngài sẽ nhập thể làm Con người để xuất hiện và làm công tác”. Tôi đã rất sốc khi nghe chị Mục Vũ nói vậy. Các mục sư và trưởng lão thường nói “Con người” là ám chỉ Đức Chúa Jêsus, chứ không phải sự tái lâm của Chúa. Tôi nghĩ bụng: “Các mục sư và trưởng lão thông thạo Kinh Thánh, nên họ không thể sai được. Chị Mục Vũ có thể không thông thuộc Kinh Thánh nên đã lầm rồi”. Nghĩ vậy, tôi vội nói: “Chị Mục Vũ này, các mục sư và trưởng lão bảo chúng tôi rằng: ‘Con người’ là ám chỉ Đức Chúa Jêsus, chứ không phải Chúa tái lâm nhập thể”. Chị ấy đã kiên nhẫn đáp: “Chị à, những câu nói này đều nói rõ rằng chúng là những lời tiên tri về sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus. Bất cứ ai có khả năng nhận định sẽ hiểu rõ điều này. Làm sao điều này lại có thể ám chỉ là Đức Chúa Jêsus được chứ? Chẳng phải các mục sư và trưởng lão đã diễn giải sai lời Chúa sao? Hơn nữa, chị hãy xem phúc âm Lu-ca, 17:24-25: ‘Vì như chớp nháng lòe từ dưới phương trời nầy đến dưới phương trời kia, thì Con người trong ngày Ngài cũng như vậy. Nhưng Ngài trước phải chịu đau đớn nhiều, và bị dòng dõi nầy bỏ ra’. Trong những câu này, Chúa đang tiên tri tình hình sẽ như thế nào khi Ngài trở lại. Nếu Chúa tái lâm đầy vinh quang trên mây, vậy thì mọi người chắc chắn sẽ hoảng sợ và ngã lăn ra đất. Lúc đó ai dám chống đối và từ bỏ Chúa nữa? Vậy thì làm sao câu tiên tri ‘Nhưng Ngài trước phải chịu đau đớn nhiều, và bị dòng dõi nầy bỏ ra’ ứng nghiệm được? Nên theo lời Chúa, chắc chắn Ngài sẽ tái lâm nhập thể là Con người. Sự xuất hiện và công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng hoàn toàn ứng nghiệm những lời tiên tri của Đức Chúa Jêsus”.
Sau khi nghe chị Mục Vũ thông công, tôi cảm thấy rất xấu hổ. Mối thông công của chị ấy là có căn cứ và hoàn toàn thuyết phục tôi. Cuối cùng tôi đã hiểu được tại sao, khi Đức Chúa Jêsus nói về sự tái lâm của Ngài, Ngài luôn đề cập đến “sự đến của Con người”, “Con người đến”, và “Con người trong ngày của Ngài”. Ngài đã liên tục nhấn mạnh hai chữ “Con người” để nói với chúng ta rằng Ngài sẽ trở lại trong xác thịt, xuất hiện và làm việc với tư cách là Con người. Tôi không ngờ rằng mặc dù tôi biết rõ Kinh Thánh và thường giải thích Kinh Thánh cho người khác, vậy mà tôi vẫn không nhận ra Kinh Thánh nói rất rõ rằng Ngài sẽ tái lâm với tư cách là Con người để xuất hiện và làm công tác. Tôi đã chỉ mù quáng tin những điều các mục sư và trưởng lão nói. Tôi thực sự quá ngu muội trong đức tin, và bao năm nghiên cứu Kinh Thánh của tôi đều là công cốc. Tôi chẳng hiểu tí gì về lời Chúa và vẫn mù quáng kiêu ngạo, tự mình đưa ra nhận định. Tôi hoàn toàn vô lý trí! Tôi mừng vì mình đã có thể tĩnh tâm lắng nghe mối thông công của chị Mục Vũ. Nếu chỉ nghe lời của các mục sư và trưởng lão, thì tôi vẫn sẽ cứ chăm chăm nhìn lên mây mà chờ Chúa ngự xuống trên mây và cuối cùng, tôi sẽ bị Đức Chúa Trời gạt bỏ và đào thải! Chị Mục Vũ tiếp tục thông công: “Sự tái lâm của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt diễn ra trong hai giai đoạn. Đầu tiên, Ngài trở nên xác thịt và bí mật đến, sau đó, Ngài sẽ đến trên mây và xuất hiện công khai. Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong xác thịt đang diễn ra ngay lúc này – đây là giai đoạn đầu tiên trong sự tái lâm của Ngài, là lúc Ngài bí mật đến và làm công tác. Ngài đang làm công tác phán xét của mình bằng cách bày tỏ lẽ thật để có thể làm tinh sạch và cứu rỗi loài người, cho phép con người hoàn toàn thoát khỏi tội lỗi và trở nên thánh khiết. Những người thực sự tin vào Đức Chúa Trời và mong mỏi Ngài xuất hiện có thể nhận ra tiếng của Đức Chúa Trời trong lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, biết chắc rằng Ngài là Đức Chúa Jêsus tái lâm và hướng về Ngài. Họ đều là các trinh nữ khôn ngoan đã được đưa đến trước ngai của Đức Chúa Trời và giờ đang nhận lãnh, trải nghiệm sự phán xét cũng như làm tinh sạch của lời Ngài. Vì vậy chúng ta không thể thấy được Chúa xuất hiện trên mây trong thời gian này. Chỉ sau khi Đức Chúa Trời tạo được một nhóm những người đắc thắng thì công tác bí mật của Ngài trong xác thịt mới kết thúc. Chỉ khi đó Ngài mới giáng xuống nhân loại các thảm họa, thưởng thiện phạt ác, và cuối cùng là ngự mây hạ phàm, tỏ lộ chính Ngài cho mọi nước và mọi dân. Lúc đó, những người từng lên án và chống đối Đức Chúa Trời Toàn Năng sẽ đầy hối hận. Họ sẽ than khóc, đấm ngực và nghiến răng trong thảm họa khi nhận ra mình đã chống đối Đức Chúa Jêsus. Điều này hoàn toàn ứng nghiệm lời tiên tri trong Khải huyền: ‘Kìa, Ngài đến giữa những đám mây, mọi mắt sẽ trông thấy, cả đến những kẻ đã đâm Ngài cùng trông thấy; hết thảy các chi họ trong thế gian sẽ than khóc vì cớ Ngài’ (Khải Huyền 1:7)”.
Sau đó, chị Mục Vũ đã đọc cho tôi một đoạn lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng. “Nhiều người có thể không quan tâm đến những gì Ta phán, nhưng Ta vẫn muốn phán với từng người được gọi là thánh đồ đi theo Jêsus rằng, khi các ngươi nhìn thấy tận mắt Jêsus giáng thế từ trời trên một đám mây trắng, đây sẽ là sự xuất hiện công khai của Mặt Trời của sự công chính. Có lẽ đó sẽ là thời điểm vô cùng phấn khích của các ngươi, nhưng các ngươi cần biết rằng thời điểm các ngươi chứng kiến Jêsus giáng thế từ trời cũng là lúc các ngươi xuống địa ngục để chịu trừng phạt. Đó sẽ là thời điểm kết thúc kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời, và nó sẽ là khi Đức Chúa Trời ban thưởng cho người tốt và trừng phạt kẻ ác. Vì sự phán xét của Đức Chúa Trời sẽ kết thúc trước khi loài người nhìn thấy các dấu lạ, khi chỉ còn sự bày tỏ của lẽ thật. Những người tiếp nhận lẽ thật và không tìm kiếm các dấu lạ, và do đó đã được tinh sạch, sẽ trở lại trước ngai của Đức Chúa Trời và bước vào vòng tay của Đấng Tạo Hóa. Chỉ những người cố chấp với niềm tin rằng ‘Jêsus không cưỡi trên một đám mây trắng là christ giả’ sẽ phải chịu sự trừng phạt đời đời, bởi vì họ chỉ tin vào Jêsus là Đấng biểu lộ các dấu kỳ, mà không thừa nhận Jêsus là Đấng bày tỏ sự phán xét nghiêm khắc và ban ra con đường thật và sự sống. Và vì vậy chỉ có thể là Jêsus sẽ giải quyết họ khi Ngài công khai tái lâm trên một đám mây trắng. Họ quá ngang bướng, quá tự tin vào bản thân, và quá kiêu ngạo. Làm sao những kẻ suy đồi như vậy có thể được Jêsus ban thưởng? Sự tái lâm của Jêsus là sự cứu rỗi vĩ đại cho những người có khả năng tiếp nhận lẽ thật, nhưng với những người không thể tiếp nhận lẽ thật, đó là dấu hiệu của sự định tội. Các ngươi nên chọn con đường của riêng mình, và không nên báng bổ Đức Thánh Linh và bác bỏ lẽ thật. Các ngươi không nên là kẻ thiếu hiểu biết và kiêu ngạo, mà hãy là người thuận phục sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh và mong mỏi, tìm kiếm lẽ thật; chỉ có cách này các ngươi mới được lợi” (Khi ngươi thấy được thân thể thuộc linh của Jêsus, Đức Chúa Trời đã làm mới lại trời đất, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi nghe lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng, tôi đã gạt lòng tự trọng của mình sang một bên, và cuối cùng tôi nhận ra mình chất chứa quá nhiều quan niệm, tưởng tượng về sự đến của Chúa. Chả trách tôi đã chờ đợi suốt bao nhiêu năm qua mà không thấy Chúa ngự mây giáng thế. Trước hết Ngài sẽ bí mật tái lâm nhập thể, bày tỏ lời Ngài để cứu rỗi nhân loại, tạo nên một nhóm những người đắc thắng trước khi tai họa xảy ra. Chỉ khi đó Ngài mới đến trên mây và công khai xuất hiện. Tôi đã bị các mục sư và trưởng lão đánh lừa, đưa các đoạn lời ra khỏi ngữ cảnh và bám vào câu chữ của Kinh Thánh. Tôi suýt đánh mất cơ hội nghênh tiếp Chúa và suýt thì đã bị Ngài bỏ rơi. Thật sự quá nguy hiểm!
Chị Mục Vũ tiếp tục thông công: “Chúng ta đều biết 2000 năm trước, toàn dân Y-sơ-ra-ên đều chờ đợi Đấng Mê-si, nhưng khi Đức Chúa Jêsus đến công tác, những người Pha-ri-si đã bám vào câu chữ của Thánh thư, và có đầy rẫy quan niệm về sự đến của Đấng Mê-si. Họ tin rằng khi Đức Chúa Trời đến, Ngài sẽ được gọi là Đấng Mê-si. Họ nghĩ Ngài sẽ được sinh ra trong một gia đình quý tộc, có quyền lực, địa vị hoàng gia, và Ngài sẽ giải phóng họ khỏi sự cai trị của chính quyền La Mã. Nhưng khi Đức Chúa Jêsus đến, Ngài không được gọi là Đấng Mê-si. Ngài được sinh ra trong một gia đình thường dân, được sinh ra trong chuồng ngựa, và Ngài thậm chí còn bị bách hại và săn đuổi. Thế là họ phủ nhận, lên án Ngài và cuối cùng đã đóng đinh Ngài lên thập giá. Khi phạm tội ác tày đình này, họ đã phải gánh chịu sự nguyền rủa và trừng phạt của Đức Chúa Trời, việc này dẫn đến việc người Y-sơ-ra-ên bị nô dịch 2000 năm. Đây thực sự là một bài học đau lòng! Nguyên nhân gốc rễ của thất bại của họ rất đáng để suy ngẫm. Nếu chúng ta không hiểu được chuyện này, chúng ta có khả năng đi theo con đường chống đối Đức Chúa Trời giống những người Pha-ri-si khi xét đến vấn đề trọng đại là mong chờ sự đến của Chúa”. Khi nói xong, chị Mục Vũ đã cho tôi đọc thêm một đoạn lời nữa của Đức Chúa Trời Toàn Năng: “Các ngươi có ước được biết nguyên nhân gốc rễ vì sao người Pha-ri-si đã chống đối Jêsus không? Các ngươi có ước được biết thực chất của người Pha-ri-si không? Họ đầy ảo tưởng về Đấng Mê-si. Hơn thế nữa, họ chỉ tin rằng Đấng Mê-si sẽ đến, mà không mưu cầu lẽ thật sự sống. Và vì vậy, cho đến tận ngày nay họ vẫn chờ đợi Đấng Mê-si, bởi vì họ không có hiểu biết gì về con đường sự sống, và không biết con đường lẽ thật là gì. Các ngươi nói xem, làm sao những kẻ ngốc nghếch, cố chấp và dốt nát như vậy có thể có được phước lành của Đức Chúa Trời? Làm sao họ có thể thấy được Đấng Mê-si? Họ đã chống đối Jêsus bởi vì họ đã không biết đường hướng công tác của Đức Thánh Linh, bởi vì họ đã không biết con đường lẽ thật mà Jêsus đã phán, và hơn thế nữa, bởi vì họ đã không hiểu về Đấng Mê-si. Và bởi vì họ đã chưa bao giờ nhìn thấy Đấng Mê-si và chưa bao giờ ở cùng Đấng Mê-si, họ đã phạm sai lầm là bám víu thuần túy vào danh của Đấng Mê-si trong khi chống đối thực chất của Đấng Mê-si bằng bất kỳ giá nào có thể. Những người Pha-ri-si này về thực chất là ngoan cố, kiêu ngạo, và đã không phục tùng lẽ thật. Nguyên tắc niềm tin vào Đức Chúa Trời của họ là: Bất kể sự thuyết giáo của Ngài có thâm thúy ra sao, thẩm quyền của Ngài cao đến đâu, thì Ngài vẫn không phải là Đấng Christ trừ khi Ngài được gọi là Đấng Mê-si. Quan điểm này không phải thật phi lý và hoang đường hay sao?” (Khi ngươi thấy được thân thể thuộc linh của Jêsus, Đức Chúa Trời đã làm mới lại trời đất, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Chị Mục Vũ thông công tiếp: “Đức Chúa Trời Toàn Năng đã mặc khải thực chất và căn nguyên sự chống đối Đức Chúa Jêsus của người Pha-ri-si. Bản tính người Pha-ri-si ngạo mạn, ngoan cố, họ chán ghét và căm thù lẽ thật. Ngoài ra, họ cũng không hiểu được công tác của Đức Chúa Trời và đã bám vào câu chữ của Thánh thư, tự đưa ra nhận định về sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời theo quan niệm và trí tưởng tượng của họ. Thậm chí khi Đức Chúa Jêsus đã bày tỏ nhiều lẽ thật và thực hiện nhiều dấu kỳ và phép màu, họ vẫn không hề tìm kiếm hay chấp nhận chuyện này. Họ ngoan cố bám vào câu chữ của Thánh thư, luôn cố nắm thóp Chúa hòng để lên án và chống đối Ngài, và cuối cùng đã đóng đinh Ngài lên thập tự giá. Vì vậy, trong cách tiếp cận với sự tái lâm của Chúa trong thời kỳ sau rốt, chúng ta phải rút ra bài học xương máu từ thất bại của người Pha-ri-si, buông bỏ quan niệm và trí tưởng tượng của chúng ta, và tìm hiểu sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời. Chỉ bằng cách này thì chúng ta mới có thể hy vọng được nghênh tiếp Chúa. Các mục sư và trưởng lão của giới tôn giáo ngày nay cũng giống hệt những người Pha-ri-si. Khi nghe ai đó làm chứng cho sự đến của Chúa, họ không hề tìm kiếm hay tìm hiểu còn cố chấp bám vào các đoạn Kinh Thánh về việc Chúa ngự mây đến. Họ nói: ‘Bất cứ ai mà tuyên bố mình là Đức Chúa Jêsus nhưng lại không ngự mây đến thì là một Christ giả’, và họ điên cuồng chống đối và lên án Đức Chúa Trời Toàn Năng, đồng thời tích cực ngăn các tín hữu tìm hiểu con đường thật. Nếu không ăn năn, họ sẽ bị công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời vạch trần là các tín hữu giả, kẻ địch lại Đấng Christ, và khi công tác cứu rỗi của Đức Chúa Trời kết thúc, họ sẽ khóc lóc và nghiến răng ngã quỵ trước các thảm họa chưa từng có”.
Nghe thấy vậy khiến tôi sợ hãi và run rẩy. Tôi so hành vi của mình với những gì chị ấy: Tôi đã bám vào câu chữ trong Kinh Thánh liên quan đến việc nghênh tiếp Chúa, và tin trên cơ sở quan niệm của mình, rằng Chúa sẽ đến trên mây. Khi nghe có người nói Đức Chúa Jêsus đã tái lâm, tôi không những không tìm hiểu, mà còn hùa theo các mục sư và trưởng lão mù quáng chống đối và lên án điều đó, loan truyền đủ loại tin đồn để vu khống và nói xấu Đức Chúa Trời Toàn Năng, lừa gạt các tín hữu và ngăn không cho họ tìm hiểu con đường thật. Hành vi của tôi có khác gì hành vi của những người Pha-ri-si đã chống đối Đức Chúa Jêsus chứ. Tôi là một người Pha-ri-si hiện đại, một chướng ngại vật ngăn cản các tín hữu tìm hiểu con đường thật. Nếu không nhờ lòng thương xót của Đức Chúa Trời hay sự thông công của chị Mục Vũ về lẽ thật với tôi, cho phép tôi nghe được tiếng Đức Chúa Trời, thì một người cứng đầu và cố chấp như tôi cuối cùng chỉ có thể bị Đức Chúa Trời bỏ rơi, gạt bỏ, rủa sả và trừng phạt. Tôi muốn hiểu rõ những sự bối rối của mình nên đã tìm kiếm từ chị Mục vũ: “Vì rằng Chúa trước hết đã trở nên xác thịt để bí mật thực hiện công tác của Ngài, vậy làm sao chúng ta có thể chắc rằng Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đức Chúa Trời nhập thể, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt?”. Chị Mục Vũ đã đọc cho tôi nghe một vài đoạn lời nữa của Đức Chúa Trời Toàn Năng. “‘Sự nhập thể’ là sự xuất hiện của Đức Chúa Trời trong xác thịt; Đức Chúa Trời làm việc giữa loài người thọ tạo trong hình ảnh của xác thịt. Vì vậy, để Đức Chúa Trời được nhập thể, trước tiên Ngài phải là xác thịt, một xác thịt với nhân tính bình thường; đây là điều kiện tiên quyết cơ bản nhất. Trên thực tế, sự nhập thể của Đức Chúa Trời hàm ý rằng Đức Chúa Trời sống và làm việc trong xác thịt, rằng Đức Chúa Trời trong chính thực chất của Ngài trở nên xác thịt, trở thành một con người” (Thực chất của xác thịt mà Đức Chúa Trời ngự vào, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Đức Chúa Trời nhập thể được gọi là Đấng Christ, và Đấng Christ là xác thịt được mặc lấy bởi Thần của Đức Chúa Trời. Xác thịt này không giống như bất kỳ con người xác thịt nào. Sự khác biệt này là vì Đấng Christ không thuộc về huyết khí, mà Ngài là sự hóa thân của Thần. Ngài có cả một nhân tính bình thường lẫn một thần tính trọn vẹn. Thần tính của Ngài, không con người nào có được. Nhân tính bình thường của Ngài duy trì mọi hoạt động bình thường của Ngài trong xác thịt, trong khi thần tính của Ngài thực hiện công tác của chính Đức Chúa Trời” (Thực chất của Đấng Christ là thuận phục ý chỉ của Cha trên trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Đấng là Đức Chúa Trời nhập thể sẽ sở hữu thực chất của Đức Chúa Trời, và Đấng là Đức Chúa Trời nhập thể sẽ sở hữu sự bày tỏ của Đức Chúa Trời. Bởi vì Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, Ngài sẽ đưa ra công tác mà Ngài định làm, và bởi vì Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, Ngài sẽ bày tỏ Ngài là gì, và sẽ đem đến lẽ thật cho con người, ban sự sống cho con người, và chỉ lối cho con người. Xác thịt không có thực chất của Đức Chúa Trời thì dứt khoát không phải là Đức Chúa Trời nhập thể; điều này không có gì phải nghi ngờ. Nếu con người định tìm hiểu xem đó có phải là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, thì họ phải xác định điều này từ tâm tính Ngài bày tỏ và những lời Ngài phán ra. Nghĩa là, để xác định đó có phải xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, và đó có phải là con đường thật hay không, thì người ta phải phân biệt dựa trên thực chất của Ngài. Và vì thế, để xác định đó có phải là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, điều cốt yếu nằm ở thực chất của Ngài (công tác của Ngài, những lời phán của Ngài, tâm tính của Ngài và nhiều khía cạnh khác), chứ không phải là hình dáng bên ngoài. Nếu con người chỉ soi hình dáng bên ngoài của Ngài, và vì thế mà bỏ qua thực chất của Ngài, thì điều này chứng tỏ con người thật vô tri và ngu muội” (Lời tựa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc xong, chị Mục Vũ thông công: “Lời Đức Chúa Trời Toàn Năng nói rõ với chúng ta rằng sự nhập thể nghĩa là Thần của Đức Chúa Trời mặc lấy xác thịt để trở thành một người bình thường, xuất hiện trong thế giới để bày tỏ lẽ thật và làm công tác. Bề ngoài, Đấng Christ trông như một người bình thường, nhưng Thần của Đức Chúa Trời ở bên trong Ngài – Ngài là hiện thân của Thần của Đức Chúa Trời. Vì vậy Đấng Christ không chỉ có nhân tính bình thường, mà còn có đầy đủ thần tính, tức là tâm tính vốn có của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời có gì và là gì, thẩm quyền, sự toàn năng và sự khôn ngoan của Ngài đều được thể hiện trong xác thịt nhập thể này của Ngài. Đấng Christ chính là Đức Chúa Trời, Chúa của tạo vật. Vì vậy, Đấng Christ có thể bày tỏ lẽ thật và tiết lộ các lẽ nhiệm mầu bất cứ lúc nào, tỏ lộ tâm tính của Đức Chúa Trời và toàn bộ thực chất của Ngài, thực hiện công tác cứu chuộc và cứu rỗi nhân loại. Việc này cũng giống như Đức Chúa Jêsus là sự nhập thể của Đức Chúa Trời – Ngài là Đấng Christ. Dù bề ngoài Ngài trông như một người bình thường và thực sự sống giữa loài người trên đất, nhưng Ngài có thể bày tỏ lẽ thật và mặc khải các lẽ nhiệm mầu về thiên quốc bất cứ lúc nào, và Ngài cho nhân loại con đường để ăn năn. Đức Chúa Jêsus đã tha thứ cho tội lỗi của con người và bày tỏ tâm tính yêu thương, thương xót của Đức Chúa Trời. Ngài cũng làm nhiều dấu kỳ và phép màu: Ngài chữa lành người bệnh, xua đuổi ma quỷ, hồi sinh người chết, làm gió yên biển lặng, và cho 5.000 người ăn bằng năm ổ bánh mì và hai con cá, v.v. Lời và công tác của Đức Chúa Jêsus biểu hiện trọn vẹn quyền năng và thẩm quyền của Đức Chúa Trời. Chúng ta đều xác nhận rằng Đức Chúa Jêsus chính là Đấng Christ, và Đức Chúa Trời nhập thể dựa trên công tác và lời Ngài. Vì vậy, khi xác nhận liệu Ngài có phải là Đức Chúa Trời nhập thể hay không, chúng ta không nên dựa trên sự đánh giá của mình về vẻ ngoài của Ngài, Ngài được sinh ra trong gia đình nào, có địa vị hay quyền lực không, hoặc liệu Ngài có được người khác ủng hộ hay chối bỏ không, mà phải hoàn toàn dựa vào việc liệu Ngài có thể bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác của Đức Chúa Trời hay không. Đó mới là điểm mấu chốt. Chỉ cần Ngài có thể bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác cứu rỗi nhân loại, thì dù bề ngoài Ngài trông như thế nào đi nữa, và dù Ngài có thể bị lên án, chối bỏ thế nào đi nữa, không thể phủ nhận được Ngài vẫn là Đức Chúa Trời nhập thể, Ngài là Đấng Christ. Kể từ khi xuất hiện để thực hiện công tác của Ngài, Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bày tỏ hàng triệu lời và mặc khải mọi lẽ nhiệm mầu về kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời. Ngài đã tỏ lộ mục đích kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời, lẽ thật đằng sau ba giai đoạn công tác của Ngài, lẽ nhiệm mầu về sự nhập thể và các danh của Đức Chúa Trời, lẽ thật đằng sau Kinh Thánh, cách công tác phán xét của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt làm tinh sạch và cứu rỗi con người, kết cục và đích đến của mỗi loại người, cách vương quốc của Đấng Christ được hiện thực hóa trên đất, vân vân. Không chỉ vậy, Đức Chúa Trời Toàn Năng cũng đang phán xét và vạch trần bản tính Sa-tan, chống đối Đức Chúa Trời của con người và mọi kiểu tâm tính bại hoại, chỉ cho con người con đường tự giải phóng mình khỏi tội lỗi và được cứu rỗi, cùng nhiều điều khác nữa. Những lẽ thật mà Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bày tỏ vô cùng phong phú – Ngài đã bày tỏ mọi khía cạnh của lẽ thật mà chúng ta cần để được cứu rỗi và trước đây chưa ai nghe nói đến những lẽ nhiệm mầu cũng như lẽ thật này. Những dân sự được Đức Chúa Trời chọn hiện đang đang trải nghiệm sự phán xét và hình phạt của lời Ngài, và họ đều đạt được một số hiểu biết thực sự về tâm tính bại hoại của họ cũng như hiểu được tâm tính oai nghi, công chính của Đức Chúa Trời. Họ đang dần được giải thoát khỏi gông cùm, sự kìm kẹp của tội lỗi, và đã thay đổi tâm tính sống của họ ở nhiều mức độ khác nhau. Chỉ bằng cách đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng và tự mình trải nghiệm công tác của Ngài trong thời kỳ sau rốt thì tất cả chúng ta mới biết được Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đức Chúa Trời nhập thể và Đấng Christ của thời kỳ sau rốt”.
Lời Đức Chúa Trời Toàn Năng và mối thông công của chị Mục Vũ rất khai sáng. Tôi thấy mấu chốt để xác định liệu Đức Chúa Trời Toàn Năng có phải là Đức Chúa Trời nhập thể hay không phụ thuộc vào việc liệu Ngài có thể bày tỏ lẽ thật, thực hiện công tác cứu rỗi, và liệu Ngài có thể bày tỏ tâm tính của Đức Chúa Trời cùng toàn bộ thực chất của Ngài hay không. Dường như Đức Chúa Trời Toàn Năng thực sự là Đức Chúa Trời nhập thể, Đức Chúa Jêsus tái lâm, nếu không thì còn ai khác có thể mở ra cuốn kỳ thư và bảy ấn để mặc khải tất cả những lẽ nhiệm mầu và lẽ thật ẩn giấu này chứ? Nếu không phải là Đức Chúa Trời, còn ai có thể cứu rỗi nhân loại khỏi gông cùm tội lỗi chứ?
Chị Mục Vũ nói thêm: “Trong lần xuất hiện hiện tại này, Đức Chúa Trời chủ yếu bày tỏ lời Ngài để xác định những ai thực sự khao khát sự đến của Ngài và có thể nghe thấy tiếng Ngài. Đức Chúa Jêsus phán: ‘Chiên ta nghe tiếng ta, ta quen nó, và nó theo ta’ (Giăng 10:27). Tất cả chiên của Đức Chúa Trời đều khao khát lẽ thật. Khi nghe có người nói Chúa đã tái lâm, họ sẽ tìm kiếm và tìm hiểu con đường thật. Khi đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, họ nhận ra tiếng Đức Chúa Trời, họ tiếp nhận và đi theo Đức Chúa Trời Toàn Năng và có cơ hội được cứu rỗi. Những người không phải là chiên của Đức Chúa Trời không thể nhận ra được tiếng Đức Chúa Trời và họ thậm chí còn phán xét, lên án công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt. Cuối cùng, họ sẽ nhận được sự trừng phạt thích đáng. Vì vậy, Đức Chúa Trời dùng lời Ngài để phơi bày mỗi loại người trong thời kỳ sau rốt, phân họ theo loại, sau đó Ngài sẽ thưởng thiện phạt ác. Điều này biểu lộ tâm tính công chính của Đức Chúa Trời”. Nghe thấy vậy, tôi đã cúi đầu, nước mắt lăn dài trên má. Tôi biết mình đã thực sự rất chống đối Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ lại khi lần đầu tiên nghe mọi người rao giảng rằng Chúa đã tái lâm, tôi đã không tìm kiếm hay tìm hiểu, mà chỉ mù quáng nghe lời các mục sư và trưởng lão, loan truyền những lời dối trá và đe dọa các tín hữu để ngăn họ tìm hiểu con đường thật. Kết quả là, tôi đã bị ho làm tôi không thể nói được và ngã bệnh, thậm chí còn bị gãy xương đòn, còn trưởng lão Hồ thì bị tai nạn xe hơi. Tôi nhận ra mọi chuyện đều không chỉ là ngẫu nhiên. Đó đều là sự trừng phạt và quả báo vì đã chống đối Đức Chúa Trời! Thế mà tôi lại quá vô tri và không biết mình cần phải thức tỉnh. Tôi cứ lên án và chống đối sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời, nghĩ rằng mình đang bảo vệ con đường của Chúa và bảo vệ đàn. Tôi thật quá vô tri! Dù có mơ hão đến thế nào tôi cũng không tưởng tượng được rằng Tia Chớp Phương Đông mà tôi đã liên tục vu khống, chống đối, lại thực sự là Đức Chúa Jêsus mà tôi đã hằng mong mỏi! Tôi cảm thấy đau khổ và ân hận khôn tả. Tôi hận bản thân vì quá mù quáng và dại dột, vì đã tin vào Đức Chúa Trời mà không nhận ra công tác của Ngài, và vì đi theo các trưởng lão chống đối và lên án Ngài cũng như ngăn các tín hữu tìm hiểu con đường thật. Dựa trên hành vi của mình, tôi thực sự đáng bị Đức Chúa Trời trừng phạt. Nhưng Đức Chúa Trời đã không đối xử với tôi dựa trên sự vi phạm của tôi, mà thậm chí Ngài còn cho tôi cơ hội nghe được tiếng Ngài. Ngài dùng mẹ tôi mở các bài thánh ca lời Ngài cho tôi nghe nhiều lần và dùng mối thông công về lẽ thật của chị Mục Vũ để giúp con tim tê dại, cố chấp của tôi dần thức tỉnh và đạt được sự thông sáng, để tôi tiếp nhận sự xuất hiện và công tác của Ngài. Tạ ơn Đức Chúa Trời Toàn Năng vì lòng thương xót và sự cứu rỗi của Ngài!
Sau đó, tôi đã ăn ngấu nghiến lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Qua lời Ngài, tôi biết được ý nghĩa của danh Ngài trong từng thời đại, lẽ thật đằng sau Kinh Thánh, cách Sa-tan làm nhân loại bại hoại và cách Đức Chúa Trời cứu rỗi nhân loại. Tôi cũng biết được rằng căn nguyên của tội lỗi và sự chống đối Đức Chúa Trời của con người chính là bản tính Sa-tan của chúng ta cũng như cách tìm kiếm để loại bỏ sự bại hoại của bản thân và đạt được sự cứu rỗi và v.v. Tôi nhận ra lời và công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng hoàn toàn ứng với những lời Đức Chúa Jêsus phán: “Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi. Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến” (Giăng 16:12-13). Lời Đức Chúa Trời Toàn Năng đã giải quyết nhiều khúc mắc và quan niệm của tôi, và tôi đã hoàn toàn chắc rằng đó là lời phán của chính Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm mà tôi đã hằng mong mỏi. Tôi cảm thấy mình như một đứa trẻ cuối cùng được đoàn tụ với người mẹ thất lạc bao lâu nay. Tôi không khỏi ôm chặt lấy cuốn sách lời Đức Chúa Trời mà òa khóc. Tôi hận mình vì đã quá mù quáng mà không nhận ra Đức Chúa Trời, dại dột chống đối và lên án công tác của Ngài trong thời kỳ sau rốt, và trở thành rào cản ngăn các tín hữu tìm hiểu con đường thật cũng như hận mình đã trở thành một con người bất tuân và chống đối Đức Chúa Trời. Nhận ra điều này, tôi cảm thấy vô cùng ân hận và quyết tâm bắt đầu rao giảng phúc âm càng sớm càng tốt, để đưa những người đã bị tôi ngăn cản đến trước Đức Chúa Trời, bù đắp cho những vi phạm trước kia của mình để an ủi lòng Đức Chúa Trời. Sau đó, tôi đã gia nhập đội ngũ những người rao giảng phúc âm. Trong khi rao giảng phúc âm, tôi rao giảng lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, giúp người khác nghe được tiếng Đức Chúa Trời và thường kể cho mọi người nghe mình từng bám vào câu chữ của Kinh Thánh và làm những việc tà ác để chống đối Đức Chúa Trời như thế nào. Tôi bảo họ hãy rút ra bài học từ những sai lầm trước kia của tôi. Thấy ngày càng nhiều người tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, tôi rất vui mừng, an yên và thanh thản.
Nhìn lại con đường mình đã đi, từ khi chống đối Đức Chúa Trời cho đến lúc bị lời Ngài chinh phục, tôi có thể thấy rằng Đức Chúa Trời đã bỏ ra biết bao công sức vì tôi. Dù tôi có dấy loạn thế nào, Đức Chúa Trời cũng không bỏ rơi tôi mà Ngài thậm chí còn cho phép tôi nghe được tiếng Ngài và nghênh tiếp Ngài. Đó chính là tình yêu vĩ đại và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho tôi! Tạ ơn Đức Chúa Trời Toàn Năng!