81. Trải nghiệm không thể quên về việc rao giảng phúc âm
Trải nghiệm phúc âm để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc nhất là vào tháng Tư năm 2021, khi tôi gặp một người anh em Công giáo trên mạng tên là Rafael. Tôi đã làm chứng cho công tác trong thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời với anh ấy và trong lúc thông công, tôi phát hiện ra anh ấy có tố chất tốt và nhanh hiểu được lẽ thật. Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng xong, anh ấy cảm thấy đấy chính là tiếng Đức Chúa Trời, và vì vậy anh ấy sẵn lòng tìm kiếm và tìm hiểu con đường thật cũng như chủ động tham dự nhóm họp. Nhưng thật ngạc nhiên là, một ngày nọ, một người chị em đã gửi cho tôi một tin nhắn, nói rằng Rafael đã tình cờ gặp lại linh mục Công giáo cũ, và anh ấy không còn đi nhóm họp nữa. Nghe thấy vậy, tôi nghĩ hẳn là anh ấy đã bị tiêm nhiễm nhiều quan niệm và những lời ngụy biện. Tôi lập tức liên hệ với anh ấy và biết được anh ấy bị bối rối bởi những gì chúng tôi đã nói, nhưng anh ấy lại không nói mình đang băn khoăn về điều gì. Lúc đó, tôi không biết mình nên thông công thế nào với anh ấy nữa, đầu óc tôi trống rỗng. Tôi chẳng biết phải làm sao cả. Tôi liên tục kêu cầu Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt anh ấy nếu anh ấy là chiên của Ngài, và nói rằng tôi sẵn lòng cố hết sức để thông công với anh ấy.
Sau đó, chị Anila và tôi đã mời anh Rafael thông công chung. Khi tham gia họp với chúng tôi, anh ấy đã rất kích động, nói ra hàng đống câu chữ giáo lý, về lòng sùng kính của anh ấy đối với Đức Chúa Jêsus cũng như đức tin của anh ấy vững vàng thế nào. Anh ấy nghĩ vì Đức Chúa Jêsus đã nhập thể là người nam và Ngài gọi Đức Chúa Trời trên trời là “Cha”, và vì những người trong thế giới tôn giáo đã quen với việc gọi Đức Chúa Trời trên trời là “Đức Chúa Cha”, nên Chúa phải tái lâm trong hình thể của một người nam. Việc Đức Chúa Trời Toàn Năng xuất hiện và công tác trong hình dạng một người nữ là không thể chấp nhận được. Nghe những lời nói gay gắt của anh ấy, tôi không biết phải bắt đầu trao đổi với anh ấy thế nào. Tôi cầu nguyện xin Đức Chúa Trời dẫn dắt. Rồi tôi bảo anh Rafael: “Tôi tin đức tin của anh nơi Đức Chúa Jêsus rất vững vàng, nhưng hãy thử nghĩ một chút mà xem. Chúng ta thường cầu nguyện với Đức Chúa Jêsus, nhưng chúng ta có thực sự biết Ngài không? Chúng ta có thực sự biết Đức Chúa Jêsus là sự nhập thể của chính Đức Chúa Trời không? Chúng ta có thực sự biết Ngài là lẽ thật, đường đi và sự sống không? Chúng ta có dám nói mình biết thực chất thần thánh của Đức Chúa Jêsus không? Chúng ta có dám đảm bảo rằng khi Đức Chúa Jêsus tái lâm, chúng ta có thể thực sự biết đó là Ngài không? Chính xác thì tại sao chúng ta lại tin vào Ngài? Đó là vì gia đình Ngài sinh ra hay vì diện mạo của Ngài?”. Rafael không nói gì cả. Sau đó tôi đã đọc một vài đoạn lời Đức Chúa Trời Toàn Năng cho anh ấy. “Thực chất niềm tin của con người vào Đức Chúa Trời là niềm tin vào Thần của Đức Chúa Trời, và thậm chí niềm tin của họ vào Đức Chúa Trời nhập thể là bởi vì xác thịt này là hiện thân của Thần của Đức Chúa Trời, có nghĩa là niềm tin như vậy vẫn là niềm tin vào Thần. Có những sự khác biệt giữa Thần và xác thịt, nhưng bởi vì xác thịt này đến từ Thần, và là Lời trở nên xác thịt, do đó những gì con người tin vào vẫn là thực chất vốn có của Đức Chúa Trời” (Chỉ những ai biết Đức Chúa Trời và công tác của Ngài mới có thể làm hài lòng Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Sự nhập thể có nghĩa là Thần của Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, tức là, Đức Chúa Trời trở nên xác thịt; công tác xác thịt làm là công tác của Thần, là điều được thực hiện trong xác thịt, được bày tỏ bởi xác thịt. Không có ai ngoài xác thịt của Đức Chúa Trời có thể hoàn thành chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể; nghĩa là, chỉ có xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời, nhân tính bình thường này – và không một ai khác – mới có thể bày tỏ công tác thần thánh” (Thực chất của xác thịt mà Đức Chúa Trời ngự vào, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sau khi đọc cho anh ấy nghe lời Đức Chúa Trời, tôi thông công rằng: “Chúng ta đều biết rằng Đức Chúa Jêsus được sinh ra trong gia đình thợ mộc. Ngài trông bình thường, bề ngoài không có gì khác biệt so với một người bình thường, nhưng Ngài là thân thể do Thần của Đức Chúa Trời mặc lên, và Ngài chính là Đức Chúa Trời nhập thể. Không phải vì Ngài là người Do Thái mà chúng ta tin Ngài, hay vì Ngài được Đức mẹ Ma-ri-a sinh ra, và càng không phải vì giới tính hay diện mạo của Ngài. Chúng ta tin Ngài vì Ngài có thực chất của Thần của Đức Chúa Trời, vì Ngài là lẽ thật, đường đi và sự sống. Chỉ có Ngài mới có thể bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác thần thánh. Tương tự như vậy, tại sao giờ chúng ta lại tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng? Chúng ta tin vì Đức Chúa Trời Toàn Năng chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm, Ngài là Thần của Đức Chúa Jêsus một lần nữa khoác lên xác thịt của một người bình thường, sống giữa chúng ta, bày tỏ lẽ thật, thực hiện công tác phán xét và làm tinh sạch trong thời kỳ sau rốt. Đức Chúa Trời Toàn Năng và Đức Chúa Jêsus đều có nguồn gốc giống nhau, và đều có thực chất của Thần của Đức Chúa Trời. Dù lần này Đức Chúa Trời nhập thể được sinh ra trong gia đình nào, trông Ngài như thế nào, giới tính của Ngài là gì, thì cũng chẳng có gì có thể thay đổi được thực chất của Ngài. Đức Chúa Trời Toàn Năng đã bày tỏ quá nhiều lẽ thật và thực hiện công tác phán xét trong thời kỳ sau rốt. Điều này là đủ để chứng minh Đức Chúa Trời Toàn Năng là sự nhập thể của Thần của Đức Chúa Trời và Ngài chính là Đức Chúa Jêsus tái lâm”.
Anh Rafael dần trở nên sẵn sàng tìm kiếm lẽ thật. Anh ấy nói rằng anh ấy đồng tình với mọi điều tôi nói, nhưng vẫn không thể hiểu được tại sao lần này Đức Chúa Trời lại chọn nhập thể vào hình dạng của một người nữ. Thấy anh ấy đã bớt căng thẳng một chút, tôi hỏi anh ấy: “Hình dạng hay giới tính mà Đức Chúa Trời chọn để công tác trong xác thịt là điều chúng ta có thể quyết định được sao? Khi mẹ chúng ta sinh ra chúng ta, chúng ta không thể chọn vẻ bề ngoài của bà ấy, và dù trông bà ấy thế nào, chúng ta cũng phải chấp nhận. Đây là lý trí mà con cái nên có. Anh thấy có phải không?”. Rafael gật đầu nói: “Tất nhiên là chúng ta không có quyền lựa chọn rồi”. Tôi nói tiếp: “Tương tự như vậy, xác thịt mà Đức Chúa Trời chọn bây giờ để nhập thể là người nam hay người nữ là điều chúng ta có thể quyết định được sao? Nếu chúng ta nói, nếu Đức Chúa Trời đến làm người nam thì tôi sẽ chấp nhận, nhưng nếu Ngài đến làm người nữ thì không, thì đấy chẳng phải là phi lý sao? Giới tính của Đức Chúa Trời nhập thể là việc của chính Đức Chúa Trời và đó là lựa chọn của Ngài. Là con người, chúng ta không có tư cách để bình luận, không phải sao? Đức Chúa Trời là Chúa của tạo vật. Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời cao hơn cả các tầng trời và tư tưởng của Ngài cao hơn tư tưởng của con người. Chúng ta chỉ là con người tầm thường, làm sao có thể hiểu được sự khôn ngoan trong công tác của Ngài chứ? Về diện mạo của Ngài và công tác của Ngài, chúng ta hoàn toàn không có quyền lựa chọn. Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt, và chỉ cần Ngài bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác của Đức Chúa Trời, thì dù giới tính của Ngài là gì, Ngài vẫn là Đức Chúa Trời, chúng ta nên chấp nhận và vâng phục. Chỉ có như vậy mới là có lý trí, và chỉ có như vậy mới là người khôn ngoan”. Rafael đã lắng nghe nghiêm túc và không phản bác lại tôi.
Sau đó tôi đọc cho anh ấy nghe vài đoạn Kinh Thánh: “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Ðức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Ðức Chúa Trời” (Giăng 1:1). “Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần Ðức Chúa Trời vận hành trên mặt nước” (Sách sáng thế 1:2). “Ðức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Ðức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ” (Sách sáng thế 1:27). “Vậy, các ngươi hãy cẩn thận giữ lấy linh hồn mình cho lắm, vì các ngươi không có thấy một hình trạng nào trong ngày Giê-hô-va Ðức Chúa Trời các ngươi, từ nơi giữa lửa phán cùng các ngươi, tại Hô-rếp; e các ngươi phải làm hư hoại cho mình chăng, và làm một tượng chạm nào, tạo hình trạng của tà thần nào, hoặc hình của người nam hay người nữ, hoặc hình của con thú nào đi trên đất, hoặc hình của vật nào có cánh bay trên trời, hoặc hình của loài côn trùng nào bò trên đất, hay là hình của con cá nào ở trong nước dưới” (Phục Truyền Luật Lệ 4:15-18). Tôi thông công tiếp: “Từ những đoạn Kinh Thánh này, chúng ta có thể thấy về thực chất, Đức Chúa Trời là thần, rằng Ngài không có dạng thức cố định, và Ngài không cho phép con người tạc Ngài thành bất cứ hình tượng nào để thờ phượng. Trong Sáng thế ký viết rằng thuở ban đầu, Đức Chúa Trời tạo dựng người nam trước, sau đó là người nữ theo hình tượng của Ngài. Vậy anh nói Đức Chúa Trời là nam hay nữ? Anh có thể nói là nam, nhưng Đức Chúa Trời cũng tạo dựng người nữ theo hình ảnh của Ngài. Anh có thể nói là nữ, nhưng Đức Chúa Trời cũng tạo dựng người nam theo hình ảnh của Ngài. Thế thì chuyện này là sao đây? Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời công chính, và Ngài tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh của Ngài. Lần đầu Ngài nhập thể là một người nam, và trong thời kỳ sau rốt Ngài đã nhập thể thành một người nữ, nghĩa là Ngài đối xử công bằng với cả hai giới tính. Nếu cả hai lần Đức Chúa Trời nhập thể đều là nam, vậy thì sẽ bất công với nữ. Việc nói Đức Chúa Trời hoặc là nam, hoặc là nữ là đang giới hạn Đức Chúa Trời, đó là điều Ngài ghét nhất. Mỗi lần Đức Chúa Trời nhập thể đều là để cứu rỗi nhân loại, và nhập thể tức là lấy hình thể của một con người, hoặc là nam, hoặc là nữ. Nhưng, bất kể giới tính của Đức Chúa Trời nhập thể là gì, thực chất của Ngài vĩnh viễn không thay đổi”. Có vẻ điều này đã ảnh hưởng đến Rafael và anh ấy thực sự đồng tình với điều tôi nói. Sau đó, tôi đã gửi cho anh ấy một vài đoạn lời của Đức Chúa Trời Toàn Năng. “Mỗi giai đoạn công tác được Đức Chúa Trời thực hiện đều có ý nghĩa thực tế riêng của nó. Thời xưa, khi Jêsus đến, Ngài đến trong hình hài người nam, và khi Đức Chúa Trời đến lần này, hình hài của Ngài là người nữ. Từ điều này, ngươi có thể thấy rằng sự tạo dựng cả người nam và người nữ của Đức Chúa Trời đều có thể hữu dụng trong công tác của Ngài, và với Ngài không có sự phân biệt giới tính. Khi Thần của Ngài đến, Ngài có thể mang lấy bất kỳ xác thịt nào mà Ngài muốn, và xác thịt đó có thể đại diện cho Ngài; dù là nam hay nữ, nó có thể đại diện cho Đức Chúa Trời miễn nó là xác thịt nhập thể của Ngài. Nếu Jêsus đã xuất hiện trong thân phận một người nữ khi Ngài đến, nói cách khác, nếu một bé gái sơ sinh, chứ không phải một bé trai, đã được thai dựng bởi Đức Thánh Linh, thì giai đoạn công tác đó sẽ được hoàn thành dù thế nào đi chăng nữa. Nếu đúng là như thế, thì giai đoạn công tác hiện tại thay vào đó sẽ phải được hoàn thành bởi một người nam, nhưng công tác sẽ được hoàn thành dù thế nào đi chăng nữa. Công tác được thực hiện trong mỗi giai đoạn đều có ý nghĩa; không có giai đoạn công tác nào bị lặp lại, chúng cũng không mâu thuẫn với nhau” (Hai lần nhập thể hoàn tất ý nghĩa của sự nhập thể, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Nếu Đức Chúa Trời trở nên xác thịt chỉ là một người nam, mọi người sẽ định nghĩa Ngài là nam, là Đức Chúa Trời của người nam, và sẽ không bao giờ tin Ngài là Đức Chúa Trời của người nữ. Khi đó, người nam sẽ cho rằng Đức Chúa Trời có cùng giới tính như người nam, rằng Đức Chúa Trời là thủ lĩnh của người nam – nhưng vậy còn người nữ thì sao? Điều này không công bằng; chẳng phải đó là sự thiên vị sao? Nếu đúng như vậy, thì tất cả những người được Đức Chúa Trời cứu sẽ là người nam giống như Ngài, và sẽ không một người nữ nào được cứu. Khi Đức Chúa Trời dựng nên loài người, Ngài đã dựng nên A-đam và Ngài đã dựng nên Ê-va. Ngài đã không chỉ dựng nên A-đam, mà dựng nên cả người nam và người nữ theo hình Ngài. Đức Chúa Trời không chỉ là Đức Chúa Trời của người nam – Ngài còn là Đức Chúa Trời của người nữ” (Khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời (3), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Đức Chúa Trời không chỉ là Đức Thánh Linh, là Thần, là Thần uy lực gấp bảy lần, hay là Thần toàn diện, mà còn là một con người – một con người bình thường, một con người đặc biệt bình dân. Ngài không chỉ là nam giới, mà còn là nữ giới. Họ giống nhau ở chỗ Họ đều được sinh ra bởi con người, và khác nhau ở chỗ một người được thai dựng bởi Đức Thánh Linh, còn người kia được sinh ra bởi con người mặc dù bắt nguồn trực tiếp từ Thần. Họ giống nhau ở chỗ cả hai đều là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời để thực hiện công tác của Đức Chúa Cha, và khác nhau ở chỗ một người đã thực hiện công tác cứu chuộc, trong khi người kia làm công tác chinh phục. Cả hai đều đại diện cho Đức Chúa Cha, nhưng một người là Đấng Cứu Chuộc, tràn đầy lòng từ ái và thương xót, còn người kia là Đức Chúa Trời công chính, đầy thạnh nộ và phán xét. Một người là Đấng Chỉ Huy Tối Cao khởi đầu công tác cứu chuộc, trong khi người kia là Đức Chúa Trời công chính hoàn thành công tác chinh phục. Một người là Đấng thứ nhứt, còn người kia là Đấng sau chót. Một người là xác thịt vô tội, trong khi người kia là xác thịt hoàn tất việc cứu chuộc, tiếp tục công tác và không bao giờ tội lỗi. Cả hai đều cùng là một Thần, nhưng Họ sống trong những xác thịt khác nhau và được sinh ra tại những nơi khác nhau, và Họ cách nhau đến vài nghìn năm. Tuy nhiên, tất cả công tác của Họ đều bổ trợ cho nhau, không bao giờ mâu thuẫn, và có thể được ví sánh cùng nhau. Cả hai đều là con người, nhưng một người là bé trai còn người kia là bé gái” (Ngươi hiểu gì về Đức Chúa Trời? Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đọc lời Đức Chúa Trời xong, chị Anila thông công: “công tác của Đức Chúa Trời luôn mới và không bao giờ cũ, Ngài không bao giờ lặp lại công tác của Ngài. Công tác của Đức Chúa Trời luôn mới, thay đổi và không ngừng nâng cao. Nếu Đức Chúa Trời lặp lại công tác cũ, thì con người có thể sẽ giới hạn Ngài và chúng ta sẽ không có hiểu biết thật về Ngài. Lần đầu Đức Chúa Trời nhập thể làm người nam, vậy hậu quả của việc Chúa lại tái lâm trong xác thịt của một người nam sẽ là gì? Con người sẽ giới hạn Đức Chúa Trời là nam, và nghĩ Ngài chỉ thừa nhận nam giới, ưu ái nam giới, Ngài không yêu mến nữ giới và xa lánh nữ giới, và vì thế, phụ nữ sẽ mãi bị phân biệt đối xử. Đó có phải là cách hiểu đúng không? Như vậy có công bằng với phụ nữ không? Điều này có phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời không? Những điều này chẳng phải là quan niệm và tưởng tượng của con người sao? Đức Chúa Trời là Đấng công chính, Ngài đối xử công bằng với nam và nữ. Đức Chúa Trời một lần nhập thể là nam, một lần là nữ. Việc này rất có ý nghĩa! Việc Đức Chúa Trời nhập thể là nữ trong thời kỳ sau rốt đã làm đảo lộn quan niệm của mọi người, đảo ngược hiểu biết sai lầm của con người về Đức Chúa Trời, phá vỡ sự phân định của con người về Ngài, và cho con người thấy rằng Ngài không chỉ là Đức Chúa Trời của nam giới, mà cả của nữ giới. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của toàn nhân loại. Không ai có thể dùng quan niệm của họ để giới hạn Đức Chúa Trời là nam hay nữ”.
Sau khi chị Anila nói xong, tôi nói thêm: “Thực ra, dù hình dạng Đức Chúa Trời chọn nhập thể là gì, thì thực chất của Ngài là bất biến. Những hình dạng đó đều là Thần của Đức Chúa Trời trở nên xác thịt. Chúng đại diện cho chính Đức Chúa Trời, và có thể thực hiện công tác thần thánh. Trong Thời đại Ân điển, Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt và chịu bị đóng đinh làm của lễ chuộc tội cho nhân loại. Đức Chúa Jêsus là nam và có thể chịu bị đóng đinh để cứu chuộc nhân loại. Nếu lần đầu Đức Chúa Trời đã nhập thể là nữ, thì Ngài vẫn có thể hoàn thành công tác cứu chuộc, và bày tỏ lẽ thật để cho nhân loại con đường ăn năn. Do đó, giới tính và vẻ ngoài của Đức Chúa Trời nhập thể không quan trọng, và dù Ngài có diện mạo vĩ đại hay không không quan trọng, mà quan trọng là Ngài có thực chất của Đức Chúa Trời, bày tỏ lẽ thật, và thực hiện công tác cứu rỗi nhân loại. Chúng ta chỉ nên chú ý đến những điều này trong khi tìm hiểu con đường thật”. Sau đó, tôi đã đọc cho anh ấy thêm một đoạn lời nữa của Đức Chúa Trời. “Đấng là Đức Chúa Trời nhập thể sẽ sở hữu thực chất của Đức Chúa Trời, và Đấng là Đức Chúa Trời nhập thể sẽ sở hữu sự bày tỏ của Đức Chúa Trời. Bởi vì Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, Ngài sẽ đưa ra công tác mà Ngài định làm, và bởi vì Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, Ngài sẽ bày tỏ Ngài là gì, và sẽ đem đến lẽ thật cho con người, ban sự sống cho con người, và chỉ lối cho con người. Xác thịt không có thực chất của Đức Chúa Trời thì dứt khoát không phải là Đức Chúa Trời nhập thể; điều này không có gì phải nghi ngờ. Nếu con người định tìm hiểu xem đó có phải là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, thì họ phải xác định điều này từ tâm tính Ngài bày tỏ và những lời Ngài phán ra. Nghĩa là, để xác định đó có phải xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, và đó có phải là con đường thật hay không, thì người ta phải phân biệt dựa trên thực chất của Ngài. Và vì thế, để xác định đó có phải là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời hay không, điều cốt yếu nằm ở thực chất của Ngài (công tác của Ngài, những lời phán của Ngài, tâm tính của Ngài và nhiều khía cạnh khác), chứ không phải là hình dáng bên ngoài. Nếu con người chỉ soi hình dáng bên ngoài của Ngài, và vì thế mà bỏ qua thực chất của Ngài, thì điều này chứng tỏ con người thật vô tri và ngu muội” (Lời tựa, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Tôi tiếp tục thông công: “Lời Đức Chúa Trời rất rõ ràng. Để xác định liệu đó có phải là Đức Chúa Trời nhập thể hay không, chủ yếu là phải tìm hiểu xem liệu Ngài có thể bày tỏ lẽ thật và thực hiện công tác của Đức Chúa Trời hay không. Nếu không tập trung lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời trong khi tìm hiểu con đường thật, mà lại phán xét dựa trên diện mạo và giới tính của Đức Chúa Trời nhập thể, thì chẳng phải là anh đang mắc sai lầm giống như những người Pha-ri-si chối đối Đức Chúa Jêsus sao? Những người Pha-ri-si thấy gia cảnh và diện mạo của Ngài hoàn toàn không phù hợp với quan niệm của họ và sự ảo tưởng của họ về Đấng Mê-si, nên họ đã phán xét và lên án Đức Chúa Jêsus mà không hề tìm kiếm hay tìm hiểu lời Ngài hay công tác của Ngài. Cuối cùng, họ đã đóng đinh Jêsus, xúc phạm tâm tính Đức Chúa Trời, và họ đã bị trừng phạt và nguyền rủa. Nếu mọi người không đọc lời Đức Chúa Trời Toàn Năng hay tập trung lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời, phủ nhận và chống đối Đức Chúa Trời Toàn Năng vì sự nhập thể là người nữ của Đức Chúa Trời không phù hợp với quan niệm của họ, thì chẳng phải là lại đang đóng đinh Đức Chúa Trời lần nữa sao?”.
Sau khi thông công với anh Rafael, anh ấy nói sẽ tiếp tục tìm kiếm lẽ thật, và khi chúng tôi mời anh ấy đến một cuộc nhóm vào họp buổi tối hôm sau, anh ấy sẵn sàng đồng ý. Nhưng nào ngờ, tối hôm sau anh ấy không đến và không nghe máy khi tôi gọi. Tôi đã rất lo lắng. Thế nên sáng nào ngay khi thức dậy, tôi cũng gửi cho anh ấy một vài lời của Đức Chúa Trời, hy vọng một ngày nào đó anh sẽ đáp lại. Nhưng anh ấy không bao giờ đọc tin nhắn và tôi thực sự đã mất hy vọng. Sau đó, tôi nhờ các anh chị em khác cố liên lạc với anh ấy nhưng vẫn không được. Tôi lại rơi vào trạng thái tuyệt vọng, nghĩ chắc là mặc kệ thôi. Đúng lúc định hoàn toàn từ bỏ anh ấy, thì tôi vô tình đọc được một bài viết về trải nghiệm rao giảng phúc âm của một người chị em với một người Ý. Tôi tình cờ quen người anh em mà chị ấy đã rao giảng này vì anh ấy hiện đang là cộng sự cùng rao giảng phúc âm với tôi. Người anh em này có nhân tính tốt và có hiểu biết thuần túy về lẽ thật, nên tôi không ngờ là anh ấy đã có rất nhiều quan niệm khi tiếp nhận phúc âm, hoặc việc người chị em kia đã không thể liên lạc với anh ấy trong hai tháng trời. Vậy mà chị ấy vẫn không từ bỏ. Chị ấy cứ chờ đợi và tìm cơ hội để thông công lời Đức Chúa Trời với anh, cho tới khi lời Đức Chúa Trời Toàn Năng cuối cùng đã giải quyết được từng quan niệm của anh, và anh đã tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt. Trải nghiệm của người chị em đó khiến tôi rất xúc động nhưng cũng khiến tôi thấy xấu hổ. Đức Chúa Trời đã làm rất nhiều công tác, đã trả một cái giá đắt, sắp đặt nhiều người, sự việc và sự vật cho tất cả những ai đến trước Ngài. Nếu tôi hiểu được ý định tha thiết muốn cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời, thì tôi đã nên lưu tâm đến ý muốn của Ngài. Nhưng khi mới gặp chút khó khăn nhỏ nhất, tôi đã sẵn sàng chùn bước và từ bỏ. Tôi hoàn toàn thiếu sự kiên trì. Lòng trung thành và chứng ngôn của tôi ở đâu chứ? Sau đó, tôi đã đọc lời Đức Chúa Trời: “Trong việc rao truyền phúc âm, trước tiên ngươi phải làm hết trách nhiệm của mình. Ngươi phải dựa vào lương tâm và lý trí của mình mà làm mọi việc có thể làm và mọi việc phải làm. Ngươi phải giải đáp bằng lòng yêu thương cho bất kỳ quan niệm và câu hỏi nào mà họ có. Nếu thực sự không thể giải đáp, ngươi có thể tìm một vài đoạn lời Đức Chúa Trời liên quan để đọc cho họ nghe, hoặc các video về lời chứng trải nghiệm có liên quan, hay một số phim chứng ngôn phúc âm có liên quan cho họ xem. Việc này hoàn toàn có thể đạt đến hiệu quả; ít nhất thì ngươi cũng đang thực hiện trách nhiệm của mình, và sẽ không cảm thấy cắn rứt lương tâm. Nhưng nếu ngươi làm qua loa chiếu lệ, ngươi sẽ dễ làm trì hoãn mọi thứ và sẽ không dễ để đưa được người đó về. Trong việc rao truyền phúc âm cho người khác, một người phải làm hết trách nhiệm của mình. Từ ‘trách nhiệm’ được hiểu như thế nào? Chính xác thì nó nên được đưa vào thực tế một cách đầy đủ như thế nào? Ngươi nên hiểu rằng khi đã nghênh đón Chúa và trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt, ngươi có nghĩa vụ làm chứng về công tác của Ngài cho những ai khao khát sự xuất hiện của Ngài. Vậy, ngươi rao truyền phúc âm với họ như thế nào? Dù trên mạng hay ngoài đời thực, ngươi nên rao truyền theo bất kỳ cách nào đưa được mọi người về và có hiệu quả. Rao truyền phúc âm không phải là việc ngươi cảm thấy thích thì làm, tâm trạng tốt thì làm, không tốt thì không làm. Đó cũng không phải là việc ngươi làm theo sở thích, phân biệt đối xử tùy theo thân phận của người ta, rao truyền phúc âm cho những người ngươi thích và không rao truyền cho những người ngươi không thích. Phúc âm phải được rao truyền theo yêu cầu của Đức Chúa Trời và các nguyên tắc của nhà Ngài. Ngươi nên thực hiện trách nhiệm và bổn phận của một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, làm tất cả những gì có thể để chứng thực cho những lẽ thật mà ngươi hiểu, cho lời Đức Chúa Trời và cho công tác của Đức Chúa Trời với những người đang xem xét con đường thật. Đó mới là thực hiện trách nhiệm và bổn phận của một loài thọ tạo của Đức Chúa Trời. Một người phải làm gì trong quá trình rao truyền phúc âm? Họ phải hoàn thành trách nhiệm của mình, làm mọi thứ có thể và sẵn sàng trả bất cứ giá nào” (Rao truyền phúc âm là bổn phận không thể thoái thác của tất cả những người tin Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Vậy ngươi nên đối đãi với người tìm hiểu con đường thật như thế nào? Chỉ cần người ta phù hợp với quy định của nhà Đức Chúa Trời về việc rao truyền phúc âm, thì chúng ta có nghĩa vụ rao truyền phúc âm cho họ, kể cả khi thái độ hiện tại của họ không tốt, không chịu tiếp nhận thì chúng ta cũng phải nhẫn nại. Nhẫn nại đến lúc nào, đến mức độ nào? Đến khi họ cự tuyệt ngươi, không cho ngươi vào nhà, ngươi thuyết phục thế nào cũng không được, gọi điện thoại cho họ cũng không được, nhờ người khác đến mời họ cũng không được, họ coi như không quen biết ngươi, như thế là không còn cách nào để rao truyền, đến lúc đó thì ngươi mới coi như đã làm hết trách nhiệm rồi, như thế gọi là đã thực hiện bổn phận. Nhưng mà chỉ cần có chút hy vọng, thì ngươi nên nghĩ đủ mọi cách, dốc hết sức lực để đọc lời Đức Chúa Trời cho họ, làm chứng công tác của Đức Chúa Trời với họ. Ví dụ như, ngươi tiếp xúc với người này suốt hai, ba năm, đã nhiều lần rao truyền phúc âm cho họ, làm chứng về Đức Chúa Trời cho họ, mà họ chẳng có ý tiếp nhận gì cả, tuy vậy họ là người có sự lĩnh hội tốt, thực sự là đối tượng phúc âm, vậy ngươi nên làm gì? Trước tiên, tuyệt đối không được vứt bỏ họ, mà phải duy trì sự qua lại bình thường, tiếp tục đọc lời Đức Chúa Trời, làm chứng về công tác của Đức Chúa Trời cho họ, không được vứt bỏ họ, phải nhẫn nại đến cùng. Biết đâu được đến một ngày họ tỉnh ngộ, muốn tìm hiểu con đường thật. Do đó, rao truyền phúc âm thì điều rất quan trọng là phải thực hành nhẫn nại, kiên trì đến cùng. Tại sao lại làm như vậy? Bởi vì đó là bổn phận của loài thọ tạo. Nếu ngươi đã tiếp xúc với họ thì ngươi có nghĩa vụ, có trách nhiệm rao truyền phúc âm của Đức Chúa Trời cho họ. Họ nhờ nghe được lời Đức Chúa Trời, nghe được phúc âm mà hồi tâm chuyển ý, nhưng trong chuyện này bao gồm nhiều quá trình, cần có thời gian. Giai đoạn này cần ngươi nhẫn nại, chờ đợi, cho đến ngày họ hồi tâm chuyển ý mà đưa họ đến trước mặt Đức Chúa Trời, đưa họ về nhà Đức Chúa Trời, đấy là nghĩa vụ của ngươi. Nghĩa vụ là gì? Là trách nhiệm không thể thoái thác, không thể chối từ. Cũng như người mẹ đối đãi với con mình, cho dù con cái không nghe lời, có nghịch ngợm gây sự, hoặc là đổ bệnh không chịu ăn, thì nghĩa vụ của người mẹ là gì? Họ biết đó là con mình, họ một lòng thương nó, yêu nó, che chở nó. Cho dù ngươi thừa nhận đó là mẹ mình hay không, cho dù ngươi đối đãi thế nào, người mẹ vẫn ở bên ngươi mà bảo vệ ngươi, không lúc nào rời xa ngươi, luôn chờ ngày ngươi tin rằng đó chính là mẹ ngươi, trở về với vòng tay của mẹ ngươi. Người mẹ luôn bảo vệ ngươi, che chở cho ngươi như vậy, đó gọi là trách nhiệm, là việc không thể chối từ. Nếu như người rao truyền phúc âm có thể thực hành như thế, có lòng yêu thương như thế đối với người ta, giữ vững được nguyên tắc rao truyền phúc âm như thế, thì hoàn toàn có thể đạt được hiệu quả” (Rao truyền phúc âm là bổn phận không thể thoái thác của tất cả những người tin Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi cảm thấy xấu hổ. Đức Chúa Trời đã nói rất rõ trách nhiệm mà những người làm công tác phúc âm phải thực hiện. Hoàn cảnh của những đối tượng phúc âm đều khác nhau và cần được đối xử khác nhau. Ta không thể dựa vào quan niệm, sự tưởng tượng hay định kiến của mình để xa lánh và phân định họ, càng không thể hấp tấp từ bỏ họ. Nếu theo nguyên tắc, xác định được một người là đối tượng phúc âm, thì ta phải cố hết sức và dùng mọi cách để làm chứng cho công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt với họ, dẫn họ đến trước Đức Chúa Trời. Đây là nguyên tắc mà một người nên biết khi rao giảng phúc âm. Tuy nhiên, chỉ mới không liên lạc được với anh Rafael trong một thời gian ngắn, mà tôi đã mất kiên nhẫn và lòng trắc ẩn. Tôi đã trải qua khoảng thời gian khó khăn và không muốn tiếp tục cố thông công với anh ấy. Tôi cảm thấy vì anh ấy phớt lờ chúng tôi, không trả lời điện thoại và không đọc tin nhắn, nên tôi chẳng thể làm gì được nữa. Tôi đã thông công những gì mình phải nói, nhưng đơn giản là Rafael không tiếp nhận. Tôi không thể cố gắng thêm nữa, vì vậy tôi đã tạm gạt anh ấy sang một bên. Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy khó chịu. Tôi cứ nghĩ rằng người anh em này có đức tin chân chính, có tố chất tốt và khả năng hiểu lẽ thật, nhưng anh ấy đã bị mắc kẹt trong những quan niệm tôn giáo vì bị linh mục quấy phá và xúi bẩy. Tôi phải giúp anh ấy trong thời khắc quan trọng này, tôi không thể chỉ đứng trơ mắt nhìn được. Tôi phải hoàn thành trách nhiệm của một người làm công tác phúc âm. Vì vậy, tôi đã gửi cho anh ấy một bài chứng ngôn, hy vọng sẽ giúp được anh ấy. Bất kể anh ấy có đọc nó hay không, tôi cũng phải làm mọi thứ có thể.
Vài ngày sau, anh ấy đã gửi cho tôi một tin nhắn, nói rằng: “Tôi đã cầu nguyện trong suốt thời gian qua. Dù không nói gì, nhưng tôi biết Đức Chúa Trời tìm kiếm lòng chúng ta. Lòng tôi đã kêu cầu Đức Chúa Trời Toàn Năng khai sáng và dẫn dắt, để tôi không phạm tội và xúc phạm Đức Chúa Trời”. Tôi đã rất xúc động. Sau đó, trong tin nhắn trả lời, tôi thấy anh ấy nói: “Thế giới này quá bại hoại và xấu xa. Con người khó mà đến gần được Đức Chúa Trời. Vũ khí duy nhất chống lại cái ác là lời Đức Chúa Trời Toàn Năng và Kinh Thánh”. Anh ấy đã thừa nhận lời Đức Chúa Trời Toàn Năng, điều này chứng tỏ anh ấy có thể hiểu được tiếng của Đức Chúa Trời và có cơ hội để đưa anh ấy trở về. Nhưng tôi biết anh đang trải qua cuộc đấu tranh nội tâm khốc liệt, và lo rằng bất cứ lúc nào anh ấy cũng có thể ngừng đọc tin nhắn của mình. Tôi đã rất lo lắng, vì vậy tôi đã trấn tĩnh bản thân và cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Trong khi cầu nguyện, tôi nhớ ra câu này của Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ bỏ rơi họ một cách dễ dàng, hoặc cho đến khi còn có thể”. Được cảm thúc, tôi vội đọc một vài đoạn lời Đức Chúa Trời. “Phân đoạn sau đây được chép trong sách Giô-na 4:10-11: ‘Ðức Giê-hô-va lại phán: Ngươi đoái tiếc một dây mà ngươi chưa hề khó nhọc vì nó, ngươi không làm cho nó mọc, một đêm thấy nó sanh ra và một đêm thấy nó chết. Còn ta, há không đoái tiếc thành lớn Ni-ni-ve, trong đó có hơn mười hai vạn người không biết phân biệt tay hữu và tay tả, lại với một số thú vật rất nhiều hay sao?’. Đây chính là những lời có thật của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, được ghi lại từ cuộc đối thoại giữa Ngài và Giô-na. Mặc dù cuộc trao đổi này chỉ diễn ra một cách ngắn gọn, nhưng nó lại chứa đựng vô vàn sự quan tâm của Đấng Tạo Hóa dành cho nhân loại và sự miễn cưỡng của Ngài khi phải từ bỏ loài người” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). “Mặc dù Giô-na được Giê-hô-va Đức Chúa Trời sai đi công bố lời của Ngài cho dân chúng thành Ni-ni-ve, nhưng ông không hiểu ý định của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, và cũng không hiểu sự lo lắng và mong đợi của Ngài đối với dân chúng trong thành. Với lời quở trách này, Đức Chúa Trời muốn nói cho ông rằng con người là loài thọ tạo do chính tay Ngài tạo ra; và rằng Ngài đã bỏ ra công sức khó nhọc cho mỗi một con người; rằng mỗi một người đều mang trên mình kỳ vọng của Đức Chúa Trời; và rằng mỗi một con người đều tận hưởng sự sống ban cho từ Đức Chúa Trời; và với mỗi một con người, Đức Chúa Trời đều đã phải trả một cái giá khó nhọc. Lời quở trách này cũng nói với Giô-na rằng Đức Chúa Trời đoái thương loài người, loài thọ tạo do Ngài tạo ra, nhiều như thể Giô-na đoái tiếc cây thầu dầu. Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ bỏ rơi họ một cách dễ dàng, hoặc cho đến khi còn có thể” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Sau khi đọc lời Đức Chúa Trời, tôi đã rất xúc động, nên tôi nói với Rafael: “Người anh em, anh là người biết suy nghĩ, là người có thể hiểu được tiếng Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã nhập thể trong thời kỳ sau rốt và đã bày tỏ hàng triệu lời lẽ thật để chu cấp cho chúng ta, cứu rỗi chúng ta khỏi sự ràng buộc của tội lỗi, và làm tinh sạch chúng ta để bước vào vương quốc của Ngài. Tôi hy vọng anh có thể xem xét kỹ vấn đề này, vì nó liên quan đến vận mệnh và kết cục của chúng ta. Tôi sẽ cầu nguyện cho anh. Cầu cho Đức Chúa Trời khai mở lòng anh và cho phép anh sớm trở lại nhà của Ngài”. Sau đó, tôi đã gửi cho anh ấy bài đọc ba đoạn lời Đức Chúa Trời. Trong số đó, có một đoạn lời Đức Chúa Trời đã khiến anh ấy phải suy nghĩ, và đưa anh ấy đến một bước ngoặt. Lời Đức Chúa Trời phán: “Sự tái lâm của Jêsus là sự cứu rỗi vĩ đại cho những người có khả năng tiếp nhận lẽ thật, nhưng với những người không thể tiếp nhận lẽ thật, đó là dấu hiệu của sự định tội. Các ngươi nên chọn con đường của riêng mình, và không nên báng bổ Đức Thánh Linh và bác bỏ lẽ thật. Các ngươi không nên là kẻ thiếu hiểu biết và kiêu ngạo, mà hãy là người thuận phục sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh và mong mỏi, tìm kiếm lẽ thật; chỉ có cách này các ngươi mới được lợi. Ta khuyên các ngươi nên bước đi trên con đường tin vào Đức Chúa Trời một cách cẩn trọng. Đừng vội kết luận; và hơn thế nữa, đừng quá tùy tiện và khinh suất trong đức tin của các ngươi vào Đức Chúa Trời. Các ngươi cần biết rằng, ít nhất, những người tin vào Đức Chúa Trời cần có lòng khiêm nhường và kính sợ Ngài. Những người đã nghe về lẽ thật mà vẫn hếch mũi kiêu ngạo là những kẻ dại dột và thiếu hiểu biết. Những người đã nghe về lẽ thật mà vẫn bất cẩn kết luận hay định tội nó là những kẻ đầy lòng kiêu ngạo. Không ai tin vào Jêsus lại có tư cách rủa sả hay định tội những người khác. Tất cả các ngươi đều cần phải trở thành người có lý trí và người chấp nhận lẽ thật. Có lẽ, khi đã nghe về con đường của lẽ thật và đã đọc về lời của sự sống, ngươi tin rằng chỉ có một trong số 10.000 lời này là nhất quán với những niềm tin của ngươi và Kinh Thánh, vậy thì ngươi nên tiếp tục tìm kiếm nơi lời một phần vạn đó đi. Ta vẫn khuyên ngươi nên khiêm nhường, không nên quá tự tin, và không nên tâng bốc bản thân mình quá cao. Với chút ít lòng kính sợ Đức Chúa Trời như vậy, ngươi sẽ có được sự sáng vĩ đại hơn. Nếu ngươi cẩn thận xem xét và liên tục suy ngẫm những lời này, ngươi sẽ hiểu chúng có phải là lẽ thật hay không, và chúng có phải là sự sống hay không. Có lẽ, khi chỉ mới đọc vài câu, một số người sẽ mù quáng chỉ trích những lời này, cho rằng: ‘Điều này chẳng có gì ngoài một chút khai sáng của Đức Thánh Linh’, hoặc: ‘Đây là christ giả đến để mê hoặc con người’. Những người nói những điều như vậy thật là bị sự ngu ngốc làm cho mù quáng! Ngươi hiểu quá ít về công việc và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, và Ta khuyên ngươi nên bắt đầu lại từ đầu! Các ngươi không được mù quáng chỉ trích những lời Đức Chúa Trời bày tỏ vì sự xuất hiện của các christ giả trong thời kỳ sau rốt, và ngươi không được trở thành người báng bổ Đức Thánh Linh vì các ngươi sợ bị mê hoặc. Đó chẳng phải là một điều rất đáng tiếc sao? Nếu, sau khi đã xem xét kỹ càng, ngươi vẫn tin rằng những lời này không phải là lẽ thật, không phải là con đường, và không phải là sự bày tỏ của Đức Chúa Trời, thì cuối cùng ngươi sẽ bị trừng phạt, và ngươi sẽ không được phước lành. Nếu ngươi không thể tiếp nhận lẽ thật được phán vô cùng dễ hiểu và rõ ràng như thế, thì chẳng phải ngươi không đủ tư cách nhận được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời hay sao? Chẳng phải ngươi là người không đủ phước để trở lại trước ngai của Đức Chúa Trời sao? Hãy nghĩ về điều đó! Đừng hấp tấp và bồng bột, và đừng xem niềm tin vào Đức Chúa Trời chỉ là trò chơi. Hãy suy nghĩ vì đích đến của ngươi, vì triển vọng của ngươi, vì sự sống của ngươi, và đừng đùa giỡn với bản thân mình. Ngươi có thể tiếp nhận những lời này không?” (Khi ngươi thấy được thân thể thuộc linh của Jêsus, Đức Chúa Trời đã làm mới lại trời đất, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Hôm đó, anh Rafael đã đọc đoạn lời này của Đức Chúa Trời và đã gửi cho tôi một tin nhắn dài về cảm giác và hiểu biết của anh ấy về đoạn lời đó. Tôi có thể thấy anh ấy đang băn khoăn và lo rằng mình sẽ đi sai đường, và anh ấy sợ tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng nghĩa là đi theo một giáo phái khác và phản bội Đức Chúa Jêsus. Tôi đã tìm được một đoạn lời Đức Chúa Trời để gửi cho anh ấy, và thông công rằng: “Hội thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng không thuộc bất kỳ nhóm tôn giáo nào. Nó ra đời vì sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Jêsus tái lâm, chứ không phải vì ai đó đã sáng lập một giáo phái mới. Đức Chúa Trời Toàn Năng bày tỏ lẽ thật để thực hiện công tác phán xét, mở ra Thời đại Vương quốc và kết thúc Thời đại Ân điển. Ngoài Đức Chúa Trời nhập thể ra, không lãnh đạo hay danh nhân, vĩ nhân nào trên thế giới có thể bày tỏ lẽ thật, dẫn dắt hay cứu rỗi nhân loại cả. Dù công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng khác với của Đức Chúa Jêsus và Giê-hô-va, nhưng thực chất các Đấng này đều là Đức Chúa Trời. Giê-hô-va, Jêsus, và Đức Chúa Trời Toàn Năng chỉ là những danh xưng khác nhau được Đức Chúa Trời dùng trong các thời đại khác nhau. Nhưng dù danh xưng hay công tác của Đức Chúa Trời thay đổi, thì thực chất của Ngài vẫn không thay đổi. Đức Chúa Trời vẫn mãi là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời phán: ‘Công tác Jêsus đã làm đại diện cho danh Jêsus, và nó đại diện cho Thời đại Ân điển; còn công tác được thực hiện bởi Đức Giê-hô-va thì đại diện cho Đức Giê-hô-va, và đại diện cho Thời đại Luật pháp. Công tác của Họ là công tác của một Thần trong hai thời đại khác nhau. … Mặc dù Họ đã được gọi bằng hai danh xưng khác nhau, nhưng đó là cùng một Thần hoàn tất cả hai giai đoạn công tác, và công tác được thực hiện là liên tục. Vì danh xưng khác nhau và nội dung của công tác khác nhau, nên thời đại cũng khác nhau. Khi Đức Giê-hô-va đến, đó là thời đại của Đức Giê-hô-va, và khi Jêsus đến, đó là thời đại của Jêsus. Và như vậy, với mỗi lần đến, Đức Chúa Trời đều được gọi bằng một danh xưng, Ngài đại diện cho một thời đại, và Ngài khai mở một con đường mới; và trên mỗi con đường mới, Ngài mang một danh mới, điều cho thấy Đức Chúa Trời luôn mới và không bao giờ cũ và công tác của Ngài không bao giờ ngừng tiến triển về phía trước. Lịch sử luôn tiến về phía trước, và công tác của Đức Chúa Trời luôn tiến về phía trước. Để kế hoạch quản lý sáu nghìn năm của Ngài đi đến hồi kết, nó phải tiếp tục tiến triển về phía trước. Mỗi ngày Ngài phải làm công tác mới, mỗi năm Ngài phải làm công tác mới; Ngài phải mở ra những con đường mới, khai mở những thời đại mới, bắt đầu công tác mới và vĩ đại hơn, và cùng với đó, mang những danh mới và công tác mới. … Từ công tác của Đức Giê-hô-va đến công tác của Jêsus, và từ công tác của Jêsus đến giai đoạn hiện tại này, ba giai đoạn này bao trùm trong một chuỗi liên tục toàn bộ sự quản lý của Đức Chúa Trời, và tất cả đều là công tác của một Thần. Kể từ khi sáng thế, Đức Chúa Trời đã luôn làm công tác quản lý loài người. Ngài là Khởi đầu và Kết thúc, Ngài là Đầu tiên và Cuối cùng, Ngài là Đấng mở đầu một thời đại và là Đấng kết thúc thời đại. Ba giai đoạn công tác, trong các thời đại khác nhau và các địa điểm khác nhau, rõ ràng là công tác của một Thần. Tất cả những ai phân tách ba giai đoạn này đều chống đối Đức Chúa Trời. Giờ đây, các ngươi phải hiểu rằng mọi công tác từ giai đoạn đầu tiên cho đến ngày nay đều là công tác của một Đức Chúa Trời, công tác của một Thần. Điều này là chắc chắn’ (Khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời (3), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời Toàn Năng rất rõ ràng. Công tác cứu rỗi nhân loại của Đức Chúa Trời được chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là công tác của Thời đại Luật pháp, trong đó Giê-hô-va đã ban hành luật pháp để dẫn dắt dân Y-sơ-ra-en sống trên đất. Giai đoạn thứ hai là công tác cứu chuộc trong Thời đại Ân điển, và đây là lần đầu tiên Đức Chúa Trời nhập thể để làm của lễ chuộc tội cho loài người. Giai đoạn thứ ba của công tác là công tác phán xét trong thời kỳ sau rốt như đã được tiên tri trong sách Khải huyền. Ba giai đoạn công tác này là kế hoạch quản lý hoàn chỉnh của Đức Chúa Trời để cứu rỗi nhân loại. Đức Chúa Trời thực hiện các công tác khác nhau trong mỗi giai đoạn, nhưng công tác gồm cả ba giai đoạn đều được thực hiện bởi một Đức Chúa Trời duy nhất. Tôi sẽ lấy một ví dụ đơn giản. Công tác quản lý của Đức Chúa Trời có thể được so sánh với việc xây một ngôi nhà. Thời đại Luật pháp đại diện cho móng của căn nhà, vì nếu không có móng, thì không thể xây nhà được. Thời đại Ân điển đại diện cho cấu trúc của ngôi nhà, vì nếu không có cấu trúc, căn nhà không thể thành hình. Thời đại Vương quốc giống như mái nhà. Nếu không có bước cuối cùng này căn nhà vẫn chưa hoàn thiện và không thể tránh được gió mưa. Do đó, mỗi bước trong ba bước này đều không thể thiếu được. Chúng ta tin vào Đức Chúa Trời Toàn Năng không có nghĩa là chúng ta đã từ bỏ Đức Chúa Jêsus, càng không phải là tin vào một Đức Chúa Trời khác. Chúng ta chỉ đơn giản là đang theo kịp bước chân của Chiên con. Hiện tại có một số tôn giáo lớn trên thế giới và những người tin vào Đức Chúa Trời đã chia thành hơn hai ngàn giáo phái. Bất kể giáo phái trước đây của họ là gì, ngày càng nhiều anh chị em có đức tin chân thành và khao khát sự xuất hiện của Đức Chúa Trời đã đến tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt, và đã đến tiếp nhận sự chăm tưới và cung dưỡng của lời Ngài. Sự thật này rõ như ban ngày. Điều này cũng ứng nghiệm lời tiên tri trong Kinh Thánh: ‘Để làm sự định trước đó trong khi kỳ mãn, hội hiệp muôn vật lại trong Ðấng Christ, cả vật ở trên trời và vật ở dưới đất’ (Ê-phê-sô 1:10). ‘Sẽ xảy ra trong những ngày sau rốt, núi của nhà Ðức Giê-hô-va sẽ được lập vững trên đỉnh các núi, cao hơn các đồi. Mọi nước sẽ đổ về đó’ (I-sai-a 2:2)”. Sau khi thấy những gì tôi viết, anh Rafael đã gửi cho tôi một biểu tượng cảm xúc cầu nguyện và nói: “Chị nói đúng, Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đức Chúa Trời thật duy nhất, chúng ta đều ở dưới danh Đức Chúa Trời Toàn Năng. Đức Chúa Trời gọi tôi. Ngài biết lòng tôi, biết những lo lắng và sợ hãi của tôi”. Sau đó, tôi đã gửi cho anh ấy một vài bộ phim phúc âm và một số lời Đức Chúa Trời. Tôi cũng cầu nguyện với Đức Chúa Trời, thưa rằng, cuối cùng dù anh Rafael có đến họp hay không, tôi cũng phải làm hết sức mình, học cách chờ đợi, tìm kiếm và vâng phục.
Bốn ngày sau, tôi bất ngờ nhận được một tin nhắn từ anh ấy, hỏi rằng liệu anh có thể tiếp tục dự nhóm họp không. Anh ấy cũng nói rằng lời Đức Chúa Trời Toàn Năng rất quý giá đối với anh và rằng anh không thể sống thiếu lời Ngài. Từ lời Đức Chúa Trời, anh ấy đã hiểu được nhiều lẽ thật và lẽ nhiệm mầu của Kinh Thánh. Lời Đức Chúa Trời đã thu hút anh. Lúc đó, tôi đã xúc động phát khóc. Tôi thực sự cảm tạ Đức Chúa Trời! Sau đó, anh ấy nói mình đã đọc những lời Đức Chúa Trời mà tôi gửi, và những câu hỏi chúng đặt ra khiến anh cảm thấy rất có lỗi. Anh ấy nói: “Tôi không thể bất cẩn trong đức tin hay xem nó như một trò chơi được, vì vậy tôi đã quyết định sẽ tiếp tục tìm hiểu con đường thật. Sự tái lâm của Chúa rất quan trọng đối với tôi, tôi không muốn đánh mất cơ hội nghênh tiếp Ngài. Tôi không muốn cuối cùng xúc phạm hay từ bỏ Ngài”. Tôi cũng rất phấn khích! Tôi nhận ra thẩm quyền và quyền năng của lời Đức Chúa Trời. Chính lời Đức Chúa Trời đã thay đổi anh Rafael và khiến anh ấy quyết định tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt.
Trải nghiệm này thực sự khiến tôi xúc động và giúp tôi nhận ra dù tôi có gặp phải kiểu đối tượng phúc âm nào, chỉ cần họ có thể hiểu được tiếng Đức Chúa Trời, thì tôi phải thực hiện bổn phận và nghĩa vụ dẫn họ vào nhà của Đức Chúa Trời. Chỉ có thực hiện bổn phận theo cách này chúng ta mới có thể không thấy mắc nợ và hối tiếc. Tạ ơn Đức Chúa Trời! Mọi vinh quang xin dâng lên Đức Chúa Trời!