Sự khác nhau giữa chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể và bổn phận của con người
Các ngươi phải biết những khải tượng trong công tác của Đức Chúa Trời và nắm bắt phương hướng chung trong công tác của Ngài. Đây là sự bước vào tích cực. Một khi ngươi đã nắm vững chính xác lẽ thật của những khải tượng, thì sự bước vào của ngươi sẽ được đảm bảo; dù công tác của Đức Chúa Trời có thay đổi như thế nào, thì ngươi sẽ vẫn vững vàng trong lòng mình, rõ ràng về các khải tượng, và có một mục tiêu cho sự bước vào và sự theo đuổi của ngươi. Theo cách này, tất cả kinh nghiệm và kiến thức trong ngươi sẽ phát triển sâu hơn và trở nên cặn kẽ hơn. Một khi đã nắm bắt được toàn bộ bức tranh lớn hơn, ngươi sẽ không phải chịu những tổn thất trong sự sống, và ngươi cũng sẽ không bị lạc lối. Nếu ngươi không biết đến các bước công tác này, ngươi sẽ chịu tổn thất trong từng bước, và ngươi sẽ mất nhiều hơn một vài ngày để xoay chuyển tình thế, cũng như ngươi sẽ không thể đi đúng hướng thậm chí là trong một vài tuần. Chẳng phải điều này sẽ gây nên những trì trệ sao? Có nhiều điều trong cách bước vào và sự thực hành tích cực mà các ngươi phải thông thạo. Đối với những khải tượng trong công tác của Đức Chúa Trời, ngươi phải nắm vững những điểm sau: ý nghĩa công tác chinh phục của Ngài, con đường tương lai để được trở nên hoàn thiện, điều gì phải đạt được qua việc trải nghiệm những thử luyện và khổ nạn, ý nghĩa của sự phán xét và hình phạt, các nguyên tắc làm việc của Đức Thánh Linh, và các nguyên tắc của sự hoàn thiện và chinh phục. Tất cả những điều này thuộc về lẽ thật của những khải tượng. Phần còn lại là ba giai đoạn công tác trong Thời đại Luật pháp, Thời đại Ân điển, và Thời đại Vương quốc, cũng như lời chứng tương lai. Đây cũng là lẽ thật về những khải tượng, và chúng là những điều cơ bản nhất cũng như quan trọng nhất. Hiện tại, có rất nhiều thứ mà các ngươi nên bước vào và thực hành, và bây giờ chúng có nhiều tầng bậc hơn và chi tiết hơn. Nếu ngươi không có kiến thức về những lẽ thật này, thì điều này chứng tỏ ngươi vẫn chưa có được lối vào. Đa phần, kiến thức của con người về lẽ thật còn quá nông cạn; họ không thể đưa vào thực hành những lẽ thật cơ bản nhất định và ngay cả những vấn đề nhỏ nhặt cũng không biết cách xử lý. Lý do con người không thể thực hành lẽ thật là vì tâm tính của họ phản nghịch, và vì kiến thức của họ về công tác của hôm nay quá hời hợt và phiến diện. Vì vậy, để con người được trở nên hoàn thiện là một nhiệm vụ không hề dễ dàng. Ngươi quá phản nghịch, và ngươi giữ lại quá nhiều bản ngã cũ của mình; ngươi không thể đứng về phía lẽ thật, và không thể thực hành ngay cả những lẽ thật hiển nhiên nhất. Những người như thế không thể được cứu rỗi và là những người chưa được chinh phục. Nếu sự bước vào của ngươi không có chi tiết cũng như không có các mục tiêu, thì sự trưởng thành sẽ chậm đến với ngươi. Nếu không có chút hiện thực nào trong sự bước vào của ngươi, thì sự theo đuổi của ngươi sẽ vô ích. Nếu ngươi không hay biết về thực chất của lẽ thật, thì ngươi sẽ không thay đổi gì. Sự trưởng thành trong đời sống của con người và những thay đổi trong tâm tính của họ đạt được thông qua việc bước vào hiện thực, và hơn thế nữa, thông qua việc bước vào những trải nghiệm chi tiết. Nếu có nhiều trải nghiệm chi tiết trong quá trình bước vào của ngươi, và ngươi có nhiều kiến thức và sự bước vào thực tế, thì tâm tính của ngươi sẽ nhanh chóng thay đổi. Cho dù hiện tại ngươi không hoàn toàn rõ về sự thực hành, ít nhất ngươi cũng phải rõ về những khải tượng về công tác của Đức Chúa Trời. Nếu không, ngươi sẽ không thể bước vào, và sự bước vào chỉ khả thi một khi ngươi có kiến thức về lẽ thật. Chỉ khi Đức Thánh Linh khai sáng ngươi trong sự trải nghiệm, thì ngươi mới có được sự hiểu biết sâu sắc hơn về lẽ thật, và sự bước vào sâu hơn. Các ngươi phải biết đến công tác của Đức Chúa Trời.
Ban đầu, sau công cuộc tạo dựng nên loài người, chính dân Y-sơ-ra-ên là những người đã đóng vai trò nền tảng trong công tác của Đức Chúa Trời. Toàn thể Y-sơ-ra-ên là nền móng cho công tác của Đức Giê-hô-va trên đất. Công tác của Đức Giê-hô-va là trực tiếp dẫn dắt và chăn dắt con người bằng cách đặt ra các luật lệ, hầu cho con người có thể sống một đời sống bình thường và thờ phượng Đức Giê-hô-va theo một cách thức bình thường trên đất. Đức Chúa Trời trong Thời đại Luật pháp không thể nhìn thấy cũng không thể chạm vào bởi con người. Bởi vì tất cả những gì Ngài làm là dẫn dắt những người đầu tiên bị Sa-tan làm bại hoại, phán dạy và chăn dắt họ, những lời Ngài phán chỉ là về các luật lệ, chế định, và các quy tắc ứng xử của con người, và không cung cấp cho họ các lẽ thật về sự sống. Dân Y-sơ-ra-ên dưới sự dẫn dắt của Ngài đã chưa bị bại hoại sâu sắc bởi Sa-tan. Công tác luật pháp của Ngài chỉ là giai đoạn đầu tiên trong công tác cứu rỗi, sự khởi đầu của công tác cứu rỗi, và hầu như không liên quan gì đến những thay đổi trong tâm tính sống của con người. Do đó, vào giai đoạn đầu của công tác cứu rỗi, Ngài đã không cần mặc lấy xác thịt cho công tác của Ngài ở Y-sơ-ra-ên. Đây là lý do tại sao Ngài đã cần đến một trung gian, một công cụ, để qua đó tiếp xúc với con người. Vì vậy, giữa các loài thọ tạo đã nổi lên ra những người phát ngôn và làm việc thay mặt Đức Giê-hô-va, là cách con cái loài người và các đấng tiên tri đã đến làm việc giữa con người. Con cái loài người đã thay mặt Đức Giê-hô-va làm việc giữa con người. Được Đức Giê-hô-va gọi là “con cái loài người” có nghĩa là những người đó đã đặt ra các luật lệ thay mặt cho Đức Giê-hô-va. Họ cũng là những thầy tế lễ giữa dân Y-sơ-ra-ên; những thầy tế lễ đã được Đức Giê-hô-va trông nom và bảo vệ, và được Thần của Đức Giê-hô-va làm việc bên trong; họ là những người dẫn dắt giữa dân chúng và trực tiếp hầu việc Đức Giê-hô-va. Mặt khác, các đấng tiên tri đã dâng mình để thay mặt cho Đức Giê-hô-va phán với dân chúng trong khắp các xứ và các chi phái. Họ cũng đã tiên tri về công tác của Đức Giê-hô-va. Dù họ là con cái loài người hay các đấng tiên tri, tất cả đều đã được dấy lên bởi Thần của chính Đức Giê-hô-va và đã có công tác của Đức Giê-hô-va trong họ. Giữa mọi người, họ là những người đã trực tiếp đại diện cho Đức Giê-hô-va; họ đã làm công việc của họ chỉ vì họ đã được Đức Giê-hô-va dấy lên chứ không phải vì họ là xác thịt đã được chính Đức Thánh Linh nhập thể vào. Do đó, dù họ giống nhau ở chỗ cùng phán và làm việc thay mặt Đức Chúa Trời, nhưng con cái loài người và các đấng tiên tri trong Thời đại Luật pháp không phải là xác thịt của Đức Chúa Trời nhập thể. Công tác của Đức Chúa Trời trong Thời đại Ân điển và giai đoạn cuối cùng thì hoàn toàn trái ngược, vì công tác cứu rỗi và phán xét con người đều đã được thực hiện bởi chính Đức Chúa Trời nhập thể, và do đó đơn giản là không cần thiết phải dấy lên các đấng tiên tri và con cái loài người để làm việc thay cho Ngài một lần nữa. Trong mắt con người, không có sự khác biệt về thực chất nào giữa thực chất và phương pháp công tác của họ. Và chính vì lý do này mà con người luôn luôn nhầm lẫn giữa công tác của Đức Chúa Trời nhập thể với công việc của các đấng tiên tri và con cái loài người. Vẻ bề ngoài của Đức Chúa Trời nhập thể về cơ bản giống như của các đấng tiên tri và các con cái loài người. Và Đức Chúa Trời nhập thể thậm chí còn bình thường hơn và thực tế hơn các đấng tiên tri. Vì thế, con người không thể phân biệt được họ. Con người chỉ tập trung vào vẻ bề ngoài, hoàn toàn không ý thức được rằng, mặc dù cả hai đều giống nhau ở chỗ cùng làm việc và phán dạy, vẫn có một sự khác biệt về thực chất giữa họ. Bởi vì khả năng phân biệt mọi thứ của con người quá kém cỏi, nên họ không thể phân biệt được những vấn đề cơ bản, nói gì đến điều phức tạp như vậy. Khi các đấng tiên tri và những người được Đức Thánh Linh sử dụng đó phán và làm việc, thì đây là để thực hiện bổn phận của con người, để thực hiện chức năng của một loài thọ tạo, và là điều mà con người nên làm. Tuy nhiên, những lời và công tác của Đức Chúa Trời nhập thể là để thực hiện chức vụ của Ngài. Dù mang dáng vẻ bề ngoài của một loài thọ tạo, nhưng công tác của Ngài không phải là thực hiện chức năng của Ngài mà là chức vụ của Ngài. Từ “bổn phận” được sử dụng khi nói về loài thọ tạo, trong khi “chức vụ” được sử dụng khi nói về xác thịt của Đức Chúa Trời nhập thể. Có một sự khác biệt về bản chất giữa hai thuật ngữ này; chúng không thể thay thế cho nhau. Công việc của con người chỉ là làm bổn phận của họ, trong khi công tác của Đức Chúa Trời là quản lý, và thực hiện chức vụ của Ngài. Do đó, dù nhiều sứ đồ đã được Đức Thánh Linh sử dụng và nhiều đấng tiên tri đã được phú cho đầy dẫy Ngài, nhưng công việc và lời của họ chỉ đơn thuần là thực hiện bổn phận của mình như những loài thọ tạo. Những lời tiên tri của họ có thể vượt lên trên con đường sự sống mà Đức Chúa Trời nhập thể đã phán, và nhân tính của họ có thể thậm chí còn vượt Đức Chúa Trời nhập thể, nhưng họ vẫn đang thực hiện bổn phận của họ, chứ không phải đang thực hiện một chức vụ. Bổn phận của con người nói đến chức năng của con người; nó là điều con người có thể đạt được. Tuy nhiên, chức vụ do Đức Chúa Trời nhập thể thực hiện liên quan đến sự quản lý của Ngài, và điều này không thể đạt được bởi con người. Cho dù Đức Chúa Trời nhập thể có phán dạy, làm việc, hoặc làm những phép lạ hay không, thì Ngài cũng đang thực hiện công tác vĩ đại giữa sự quản lý của Ngài, và công tác như thế con người không thể làm thay Ngài. Công việc của con người là chỉ làm bổn phận của họ như một loài thọ tạo trong một giai đoạn đã định trong công tác quản lý của Đức Chúa Trời. Không có sự quản lý của Đức Chúa Trời, tức là, nếu chức vụ của Đức Chúa Trời nhập thể không còn, thì bổn phận của một loài thọ tạo sẽ không còn. Công tác của Đức Chúa Trời trong việc thực hiện chức vụ của Ngài là để quản lý con người, trong khi việc thực hiện bổn phận của con người là làm tròn nghĩa vụ của chính họ nhằm đáp ứng các yêu cầu của Đấng Tạo Hóa và không thể nào được xem là thực hiện chức vụ của một người. Đối với bản chất vốn có của Đức Chúa Trời – đối với Thần của Ngài – công tác của Đức Chúa Trời là sự quản lý của Ngài, nhưng đối với Đức Chúa Trời nhập thể, Đấng mặc lấy dáng vẻ bề ngoài của một loài thọ tạo, thì công tác của Ngài là thực hiện chức vụ của Ngài. Bất kỳ việc gì Ngài làm là để thực hiện chức vụ của Ngài; tất cả những gì con người có thể làm là cống hiến hết sức mình trong phạm vi quản lý của Đức Chúa Trời và dưới sự dẫn dắt của Ngài.
Trong thực tế, việc thực hiện bổn phận của con người là thành quả của tất cả những gì vốn có trong con người, tức là, điều khả thi đối với con người. Chỉ sau đó thì bổn phận của họ mới được thực hiện. Những thiếu sót của con người trong quá trình phục vụ của họ giảm dần đi thông qua việc trải nghiệm không ngừng và quá trình trải qua sự phán xét của họ; chúng không cản trở hay ảnh hưởng đến bổn phận của con người. Những người thôi không hầu việc hoặc lùi bước và rút lui vì họ sợ rằng có thể có những bất lợi khi hầu việc là những kẻ hèn nhát nhất trong tất cả. Nếu mọi người không thể thể hiện điều họ cần thể hiện trong khi phục vụ hay đạt được những gì vốn khả thi đối với họ, thay vì làm những chuyện ngớ ngẩn và làm cho có lệ, thì họ đã đánh mất chức năng mà một loài thọ tạo nên có. Kiểu người này gọi là “những kẻ tầm thường”; họ là thứ rác rưởi vô dụng. Làm sao những kẻ như thế có thể xứng đáng được gọi là một loài thọ tạo? Chẳng phải họ là những hữu thể bại hoại, tỏa sáng bên ngoài nhưng lại thối rữa bên trong sao? Nếu một người tự xưng là Đức Chúa Trời nhưng lại không thể bày tỏ hữu thể của thần tính, làm công tác của chính Đức Chúa Trời, hay đại diện cho Đức Chúa Trời, thì chắc chắn họ không phải là Đức Chúa Trời, vì họ không có bản chất của Đức Chúa Trời, và những gì Đức Chúa Trời vốn có thể đạt được không tồn tại trong họ. Nếu con người đánh mất những gì họ vốn có thể đạt được, thì họ không thể được xem là con người nữa, và họ không xứng đáng đứng ở vị trí của một loài thọ tạo hay đến trước Đức Chúa Trời và hầu việc Ngài. Hơn nữa, họ không xứng đáng nhận lãnh ân điển của Đức Chúa Trời hoặc được Đức Chúa Trời trông nom, bảo vệ, và làm cho hoàn thiện. Nhiều người đã đánh mất lòng tin của Đức Chúa Trời lại tiếp tục đánh mất ân điển của Đức Chúa Trời. Họ không chỉ không ghét những việc ác của mình, mà họ còn trơ trẽn truyền bá tư tưởng rằng con đường của Đức Chúa Trời không đúng, và những kẻ phản nghịch đó thậm chí còn phủ nhận sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Làm sao loại người có sự phản nghịch như thế có thể được quyền vui hưởng ân điển của Đức Chúa Trời? Những người không thực hiện bổn phận của mình thật phản nghịch chống lại Đức Chúa Trời, và nợ Ngài rất nhiều, ấy vậy mà họ quay lại và đả kích rằng Đức Chúa Trời sai trật. Làm sao loại người như thế xứng đáng được làm cho hoàn thiện? Chẳng phải đây là điềm báo của việc bị đào thải và bị trừng phạt sao? Những người không làm bổn phận mình trước Đức Chúa Trời là đã phạm một tội tàn ác nhất, mà ngay cả tử hình cũng là một hình phạt chưa đủ, vậy mà con người còn dám trơ tráo tranh cãi với Đức Chúa Trời và cạnh tranh với Ngài. Hoàn thiện loại người như thế thì có tác dụng gì? Nếu con người không hoàn thành bổn phận của mình, họ nên cảm thấy tội lỗi và mắc nợ; họ nên ghét sự yếu đuối và vô dụng của mình, sự phản nghịch và bại hoại của mình, và hơn nữa, nên dâng cuộc đời mình cho Đức Chúa Trời. Chỉ khi đó họ mới là những loài thọ tạo thực sự yêu mến Đức Chúa Trời, và chỉ những người như thế mới xứng đáng vui hưởng các phước lành và lời hứa của Đức Chúa Trời, và được Ngài làm cho hoàn thiện. Còn phần đông các ngươi thì sao? Các ngươi đối xử với Đức Chúa Trời sống giữa các ngươi như thế nào? Các ngươi đã thực hiện bổn phận mình trước Ngài ra sao? Các ngươi đã làm tất cả những điều các ngươi được kêu gọi, thậm chí với cái giá là sự sống của chính mình chưa? Các ngươi đã hy sinh những gì? Chẳng phải các ngươi đã nhận được nhiều từ Ta sao? Các ngươi có thể nhận thức được không? Các ngươi trung thành với Ta đến đâu? Các ngươi đã hầu việc Ta ra sao? Tất cả những gì Ta đã ban cho các ngươi và đã làm cho các ngươi thì sao? Các ngươi có đo lường tất cả những điều đó chưa? Tất cả các ngươi đã đánh giá và so sánh điều này với chút lương tâm các ngươi có trong mình chưa? Lời nói và hành động của các ngươi có thể xứng đáng với ai? Có thể nào một sự hy sinh nhỏ nhoi như thế của các ngươi lại xứng đáng với tất cả những gì Ta đã ban cho các ngươi không? Ta không có sự lựa chọn nào khác và Ta đã hết lòng vì các ngươi, nhưng các ngươi chất chứa những ý định tà ác và nửa vời với Ta. Đó là phạm vi bổn phận của các ngươi, chức năng duy nhất của các ngươi. Chẳng phải vậy sao? Chẳng lẽ các ngươi không biết rằng các ngươi đã hoàn toàn không thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo? Làm sao các ngươi có thể được xem là một loài thọ tạo? Chẳng lẽ các ngươi không rõ các ngươi đang bày tỏ và sống thể hiện ra điều gì sao? Các ngươi đã không thực hiện bổn phận của mình, nhưng các ngươi cố gắng để có được sự khoan dung và ân điển dư dật của Đức Chúa Trời. Ân điển như thế đã không sắp sẵn cho những kẻ vô giá trị và đê hèn như các ngươi, mà cho những người không đòi hỏi điều gì và vui vẻ hy sinh. Những kẻ như các ngươi, những kẻ tầm thường, thì hoàn toàn không xứng đáng vui hưởng ân điển của thiên đàng. Chỉ có khó khăn gian khổ và sự trừng phạt vô tận sẽ đồng hành với những tháng ngày của các ngươi! Nếu các ngươi không thể trung tín với Ta, thì số phận của các ngươi sẽ là một số phận đầy đau khổ. Nếu các ngươi không thể chịu trách nhiệm với những lời và công tác của Ta, thì kết cục của các ngươi sẽ là kết cục của sự trừng phạt. Hết thảy những ân điển, phước lành, và cuộc sống tuyệt vời của vương quốc sẽ không liên quan gì đến các ngươi. Đây là cái kết các ngươi đáng gặp phải và là một hậu quả từ chính việc làm của các ngươi! Những kẻ ngu xuẩn và kiêu ngạo không những đã không cố gắng hết sức mình hay thực hiện bổn phận của mình, mà họ còn chìa tay ra xin ân điển, như thể điều họ yêu cầu là xứng đáng. Và nếu họ không có được điều họ yêu cầu, họ lại càng thiếu trung thành hơn bao giờ hết. Làm sao những kẻ như thế có thể được xem là biết điều? Các ngươi có tố chất kém và không có ý thức, hoàn toàn không có khả năng thực hiện bổn phận các ngươi phải thực hiện trong quá trình của công tác quản lý. Giá trị của các ngươi đã tuột dốc không phanh. Việc các ngươi không thể báo đáp Ta vì đã tỏ ra cho các ngươi ân điển như thế đã là một hành động cực kỳ phản nghịch, đủ để kết án các ngươi và chứng minh cho sự hèn nhát, bất tài, đê hèn, và không xứng đáng của các ngươi. Làm sao các ngươi có quyền tiếp tục chìa tay ra? Việc các ngươi không thể giúp chút gì cho công tác của Ta, không thể trung thành, và không thể đứng ra làm chứng về Ta là những hành vi sai trái và thiếu sót của các ngươi, nhưng thay vào đó các ngươi lại tấn công Ta, nói điều sai trật về Ta, và phàn nàn rằng Ta không công chính. Đây có phải là điều tạo nên lòng trung thành của các ngươi không? Đây có phải là điều tạo nên tình yêu của các ngươi không? Ngoài việc này các ngươi có thể làm được việc gì khác? Các ngươi đã góp phần như thế nào vào tất cả những công tác đã được thực hiện? Các ngươi đã bỏ ra bao nhiêu? Ta đã thể hiện sự khoan dung vô cùng khi không trách gì các ngươi, vậy mà các ngươi vẫn trơ trẽn đưa ra những lời bào chữa với Ta và lén lút phàn nàn về Ta. Các ngươi có còn chút dấu vết con người nào không? Mặc dù bổn phận của con người bị pha tạp với tâm trí và những quan niệm của họ, nhưng ngươi phải thực hiện bổn phận của mình và bày tỏ lòng trung thành của mình. Những điều không thanh sạch trong công việc của con người là một vấn đề về tố chất của họ, trong khi đó, nếu con người không thực hiện bổn phận của họ, thì điều đó cho thấy sự phản nghịch của họ. Không có mối tương quan giữa bổn phận của con người và việc liệu họ được ban phước hay bị rủa sả. Bổn phận là việc con người phải thực hiện; đó là thiên hướng của họ và không nên lệ thuộc vào sự tưởng thưởng, điều kiện hay lý do. Chỉ khi đó mới là thực hiện bổn phận của mình. Được ban phước là khi ai đó được làm cho hoàn thiện và vui hưởng các phước lành của Đức Chúa Trời sau khi trải qua sự phán xét. Bị rủa sả là khi tâm tính của ai đó không thay đổi sau khi họ đã trải qua hình phạt và sự phán xét, đó là khi họ không trải nghiệm việc được làm cho hoàn thiện, mà bị trừng phạt. Nhưng bất kể họ được ban phước hay bị rủa sả, những loài thọ tạo cũng phải thực hiện bổn phận của mình, làm những điều họ cần phải làm, và làm những điều họ có thể làm; thực hành được như vậy chính là điều tối thiểu mà người mưu cầu Đức Chúa Trời nên làm. Ngươi không nên thực hiện bổn phận của mình chỉ để được ban phước, và ngươi không nên từ chối hành động vì sợ bị rủa sả. Để Ta bảo các ngươi điều này: Việc thực hiện bổn phận của con người là những gì họ cần phải làm, và nếu họ không thể thực hiện bổn phận của mình, thì đây là sự phản nghịch của họ. Chính qua quá trình thực hiện bổn phận của mình mà con người dần dần được thay đổi, và chính qua quá trình này mà con người chứng minh được lòng trung thành của họ. Như vậy, ngươi càng có thể thực hiện bổn phận của mình, thì ngươi sẽ càng nhận được nhiều lẽ thật, và sự bày tỏ của ngươi sẽ càng trở nên thật hơn. Những kẻ chỉ đơn thuần làm bổn phận của mình một cách qua loa lấy lệ và không tìm kiếm lẽ thật cuối cùng sẽ bị đào thải, vì những kẻ như thế không thực hiện bổn phận của họ trong khi thực hành lẽ thật, và không thực hành lẽ thật trong khi thực hiện bổn phận của mình. Những kẻ như thế là những kẻ vẫn không thay đổi và sẽ bị rủa sả. Không chỉ những biểu hiện của họ không thanh sạch, mà mọi thứ họ biểu hiện ra đều ác.
Trong Thời đại Ân điển, Jêsus cũng phán nhiều và làm nhiều công tác. Ngài đã khác với Ê-sai như thế nào? Ngài đã khác với Đa-ni-ên như thế nào? Ngài có phải là một đấng tiên tri không? Tại sao người ta đã nói rằng Ngài là Đấng Christ? Những sự khác biệt giữa họ là gì? Họ đều là những người phán ra lời, và những lời của họ ít nhiều đều giống nhau với con người. Họ đều phán dạy và làm việc. Các đấng tiên tri của Cựu Uớc đã phán những lời tiên tri, và tương tự, Jêsus cũng có thể làm vậy. Tại sao lại như vậy? Sự khác biệt ở đây dựa trên bản chất công việc. Để phân biệt vấn đề này, ngươi không thể xem xét bản chất của xác thịt, ngươi cũng không nên xem xét độ sâu hay nông trong lời họ. Luôn luôn, ngươi trước tiên phải xem xét công tác của họ và những hiệu quả mà công tác của họ đạt được nơi con người. Những lời tiên tri đã được các đấng tiên tri phán ra thời đó đã không chu cấp sự sống của con người, và những linh hứng mà những người như Ê-sai và Đa-ni-ên đã nhận được chỉ đơn thuần là những lời tiên tri, và không phải là con đường sự sống. Nếu không vì sự mặc khải trực tiếp của Đức Giê-hô-va, thì không ai có thể làm việc đó, điều không thể đối với người phàm. Jêsus cũng phán rất nhiều lời, nhưng những lời đó là con đường sự sống mà từ đó con người có thể tìm ra cách để thực hành. Điều đó có nghĩa là, thứ nhất, Ngài đã có thể chu cấp sự sống của con người, bởi Jêsus là sự sống; thứ hai, Ngài đã có thể đảo ngược những khía cạnh lệch lạc của con người; thứ ba, công tác của Ngài có thể kế tục công tác của Đức Giê-hô-va để tiếp tục thời đại; thứ tư, Ngài đã có thể nắm bắt được những nhu cầu bên trong con người và hiểu được con người thiếu những gì; thứ năm, Ngài có thể mở ra một thời đại mới và kết thúc thời đại cũ. Đó là lý do vì sao Ngài được gọi là Đức Chúa Trời và Đấng Christ; Ngài không những khác với Ê-sai mà còn khác với tất cả các đấng tiên tri khác. Hãy lấy Ê-sai để so sánh về công việc của các đấng tiên tri. Thứ nhất, ông không thể chu cấp sự sống của con người; thứ nhì, ông không thể mở ra một thời đại mới. Ông đã làm việc dưới sự dẫn dắt của Đức Giê-hô-va và không mở ra một thời đại mới. Thứ ba, những lời ông đã phán ra vượt tầm của ông. Ông đã nhận lãnh những sự mặc khải trực tiếp từ Thần của Đức Chúa Trời, và những người khác sẽ không thể hiểu được, dù cho đã nghe thấy chúng. Vài điều này thôi cũng đủ để chứng minh rằng những lời nói của ông không hơn gì những lời tiên tri, không hơn gì một khía cạnh công tác được làm thay cho Đức Giê-hô-va. Tuy nhiên, ông không thể hoàn toàn đại diện cho Đức Giê-hô-va. Ông là tôi tớ của Đức Giê-hô-va, một công cụ trong công tác của Đức Giê-hô-va. Ông chỉ làm công tác trong Thời đại Luật pháp và trong phạm vi công tác của Đức Giê-hô-va; ông đã không làm vượt quá Thời đại Luật pháp. Ngược lại, công tác của Jêsus thì khác. Ngài đã vượt quá phạm vi công tác của Đức Giê-hô-va; Ngài đã làm việc như Đức Chúa Trời nhập thể và trải qua sự đóng đinh trên thập tự để cứu chuộc cả nhân loại. Điều đó có nghĩa là, Ngài đã thực hiện công tác mới ngoài công tác đã được thực hiện bởi Đức Giê-hô-va. Đây là sự mở ra một thời đại mới. Thêm nữa, Ngài đã có thể phán về những điều con người không thể đạt được. Công tác của Ngài là công tác trong phạm vi sự quản lý của Đức Chúa Trời và liên quan đến toàn thể nhân loại. Ngài đã làm việc không chỉ trong một vài người, công tác của Ngài cũng không có nghĩa là dẫn dắt một số người có giới hạn. Về việc Đức Chúa Trời đã nhập thể thành người như thế nào, Thần đã mặc khải vào thời đó như thế nào, và Thần đã giáng xuống con người để làm việc ra sao – đây là những vấn đề con người không thể thấy hay chạm vào được. Những sự thật này hoàn toàn không thể được dùng làm bằng chứng cho việc Ngài là Đức Chúa Trời nhập thể. Như thế, chỉ có thể phân biệt được trong những lời và công tác của Đức Chúa Trời, là những gì hữu hình đối với con người. Chỉ có điều này là thực tế. Đây là vì các vấn đề của Thần thì ngươi không thể nhìn thấy được và chỉ có chính Đức Chúa Trời mới biết một cách rõ ràng, và thậm chí xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời cũng không biết tất cả mọi điều; ngươi chỉ có thể xác minh xem Ngài có phải là Đức Chúa Trời hay không từ công tác Ngài đã làm. Từ công tác của Ngài, có thể thấy được rằng, thứ nhất, Ngài có thể mở ra một thời đại mới; thứ hai, Ngài có thể chu cấp sự sống của con người và chỉ cho con người con đường để đi theo. Điều này đủ để chứng minh rằng Ngài là chính Đức Chúa Trời. Ít nhất là, công tác Ngài làm hoàn toàn có thể đại diện cho Thần của Đức Chúa Trời, và từ công tác đó có thể thấy rằng Thần của Đức Chúa Trời ở trong Ngài. Vì công tác do Đức Chúa Trời nhập thể thực hiện chủ yếu là mở ra một thời đại mới, dẫn dắt công tác mới, và mở ra một cõi mới, chỉ những điều này thôi cũng đủ để chứng minh rằng Ngài là chính Đức Chúa Trời. Vì thế, điều này phân biệt Ngài với Ê-sai, Đa-ni-ên, và những nhà tiên tri vĩ đại khác. Ê-sai, Đa-ni-ên và những người khác đều là những người thuộc tầng lớp có học thức và có văn hóa cao; họ là những con người phi thường dưới sự dẫn dắt của Đức Giê-hô-va. Xác thịt của Đức Chúa Trời nhập thể cũng có am hiểu và không thiếu lý trí, nhưng nhân tính của Ngài đặc biệt bình thường. Ngài đã là một người bình thường, và mắt trần đã không thể thấy được bất kỳ nhân tính đặc biệt nào về Ngài hay phát hiện bất kỳ điều gì trong nhân tính của Ngài khác với những người khác. Ngài hoàn toàn không phải là siêu nhiên hay độc nhất vô nhị, và Ngài đã không sở hữu bất kỳ sự giáo dục, kiến thức, hay lý thuyết nào cao hơn. Sự sống Ngài đã phán và con đường Ngài đã dẫn dắt không đạt được từ lý thuyết, từ kiến thức, từ kinh nghiệm sống, hay từ sự dưỡng dục của gia đình. Thay vào đó, chúng là công tác trực tiếp của Thần, công tác của xác thịt nhập thể. Chính vì con người có những quan niệm vĩ đại về Đức Chúa Trời, và đặc biệt là vì những quan niệm này được cấu thành từ quá nhiều yếu tố mơ hồ và siêu nhiên, mà trong mắt con người, một Đức Chúa Trời bình thường với những sự yếu đuối của con người, không thể làm những dấu kỳ và phép lạ, thì chắc chắn không phải là Đức Chúa Trời. Đây chẳng phải là những quan niệm sai lầm của con người sao? Nếu xác thịt của Đức Chúa Trời nhập thể không phải là một con người bình thường, thì làm sao có thể nói Ngài đã trở nên xác thịt? Thuộc về xác thịt là trở nên một người tầm thường, bình thường; nếu Ngài là một hữu thể siêu việt, thì Ngài lẽ ra đã không thuộc về xác thịt. Để chứng minh rằng Ngài thuộc về xác thịt, Đức Chúa Trời nhập thể cần sở hữu một xác thịt bình thường. Điều này đơn giản là để làm cho ý nghĩa của sự nhập thể được trọn vẹn. Tuy nhiên, điều này không đúng với các đấng tiên tri và con cái loài người. Họ là những con người được ban ân tứ do Đức Thánh Linh sử dụng; trong mắt con người, nhân tính của họ đặc biệt vĩ đại, và họ đã thực hiện nhiều hành động vượt trội nhân tính bình thường. Vì lý do này, con người đã xem họ là Đức Chúa Trời. Giờ đây tất cả các ngươi phải hiểu rõ điều này, vì nó đã là một vấn đề dễ bị hiểu lầm nhất bởi tất cả mọi người trong các thời đại trước. Hơn nữa, sự nhập thể là điều bí ẩn nhất trong mọi điều, và Đức Chúa Trời nhập thể là điều con người khó chấp nhận nhất. Những điều Ta phán giúp ích cho việc thực hiện chức năng của các ngươi và sự hiểu biết của các ngươi về lẽ mầu nhiệm của sự nhập thể. Đây là tất cả những gì liên quan đến sự quản lý của Đức Chúa Trời, đến những khải tượng. Sự hiểu biết của các ngươi về điều này sẽ có ích hơn cho việc có được kiến thức về các khải tượng, tức là, công tác quản lý của Đức Chúa Trời. Bằng cách này, các ngươi cũng sẽ hiểu được nhiều hơn về bổn phận mà những loại người khác nhau cần phải thực hiện. Mặc dù những lời này không trực tiếp chỉ đường cho các ngươi, nhưng chúng vẫn rất hữu ích cho sự bước vào của các ngươi, bởi đời sống của các ngươi hiện nay thiếu nhiều các khải tượng, và điều này sẽ trở thành một trở ngại lớn cản trở sự bước vào của các ngươi. Nếu các ngươi không thể hiểu được những vấn đề này, thì sẽ không có động lực nào thúc đẩy sự bước vào của các ngươi. Và làm sao một sự theo đuổi như thế có thể giúp ngươi thực hiện bổn phận của mình đạt tiêu chuẩn?