Thực hành lẽ thật mới có lối vào sự sống

Lối vào sự sống nên bắt đầu từ phương diện nào? Có điều kiện gì mới có lối vào sự sống? Để đạt đến việc bước vào thực tế lẽ thật thì nên mưu cầu điều gì, có được điều gì là mấu chốt nhất, là quan trọng nhất? Các ngươi có từng suy ngẫm về những vấn đề này hay chưa? Lối vào sự sống là gì? Lối vào sự sống là sự thay đổi trong cuộc sống, trong những hành động, trong đường hướng cuộc đời và trong mục tiêu mưu cầu của một con người. Trước đây họ ngu muội và không có kiến thức trong khi làm việc, luôn hành động theo những ý nghĩ, quan niệm, và tưởng tượng của xác thịt. Giờ đây, thông qua sự vạch rõ, chăm tưới và chu cấp của Đức Chúa Trời, họ đã hiểu được rằng mình nên hành động theo lời Đức Chúa Trời. Trong cuộc sống thường nhật, quan điểm và cách thức đối nhân xử thế, phương hướng và mục tiêu cuộc đời của họ đều có những chuyển biến nhờ vào lời Đức Chúa Trời, đây chính là lối vào sự sống. Cơ sở của lối vào sự sống là gì? (Thưa, đó là lời Đức Chúa Trời.) Đúng vậy. Lối vào sự sống không thể tách khỏi lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, mọi lời Đức Chúa Trời phán đều là lẽ thật. Điều gì được biểu hiện nơi những người đã đạt được lối vào sự sống? (Thưa, họ có thể sống dựa vào lời Đức Chúa Trời.) Đúng vậy. Họ có thể sống dựa vào lời Đức Chúa Trời. Những hành động, lời nói, cách suy xét vấn đề cùng quan điểm, lập trường, và góc nhìn của họ đều dựa vào lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Đây là những sự biểu hiện của việc đã đạt được lối vào sự sống. Vậy lối vào sự sống chủ yếu liên quan đến điều gì? (Thưa, lời Đức Chúa Trời.) Nó liên quan đến lời Đức Chúa Trời và lẽ thật. Vậy hiện tại, có thể định nghĩa rằng người có lối vào sự sống chính là người mưu cầu lẽ thật, rằng người thực sự mưu cầu lẽ thật chính là người có lối vào sự sống hay không? (Thưa, có thể.) Mục đích định nghĩa như vậy là gì? Chúng ta nên thông công theo hướng nào? (Thưa, theo hướng mưu cầu lẽ thật.) Mưu cầu lẽ thật là chủ đề chính của buổi thông công ngày hôm nay. Hiện tại, các ngươi vẫn chưa rõ ràng và sáng tỏ lắm về mối quan hệ giữa lối vào sự sống và việc mưu cầu lẽ thật, luôn thông công lối vào sự sống, sự thay đổi tâm tính, và mổ xẻ con đường mà Phao-lô đi, chung quy lại thì chủ đề chính là gì? Chính là mưu cầu lẽ thật. Bất luận là mổ xẻ con đường mà Phao-lô đi hay nói về con đường được hoàn thiện mà Phi-e-rơ đi, bất luận là nói về chuyện gì, thì mục đích cuối cùng của Ta là khiến mọi người đi theo con đường như thế nào? (Thưa, con đường mưu cầu lẽ thật.) Khi con người có thể mưu cầu lẽ thật, có thể bước vào thực tế lẽ thật, sống theo lời Đức Chúa Trời, có thể hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời, làm việc theo nguyên tắc của lời Đức Chúa Trời, như vậy mục tiêu mưu cầu của con người và con đường mà con người đi có phải sẽ rõ ràng hay không? (Thưa, phải.) Mưu cầu lẽ thật là chủ đề mà người tin Đức Chúa Trời, mưu cầu sự thay đổi trong tâm tính và mưu cầu sự cứu rỗi vĩnh viễn không thể tránh khỏi, chỉ có người mưu cầu lẽ thật mới là người thật lòng tin Đức Chúa Trời, mới là người có thể đạt đến sự cứu rỗi. Có những người có lòng nhiệt thành, sẵn lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời, nhưng chưa chắc đã là người mưu cầu lẽ thật. Tuy rằng mọi người đều muốn mưu cầu lẽ thật, nhưng có người có tố chất kém, không có năng lực lĩnh hội và không với tới lẽ thật. Có người không có hiểu biết thuộc linh, cho dù có nghe giảng đạo thế nào thì họ cũng không hiểu, tự mình đọc lời Đức Chúa Trời thì họ cũng không hiểu. Họ luôn lĩnh hội một cách lệch lạc, luôn rập khuôn theo quy định. Đây chính là người không có hiểu biết thuộc linh. Trong hội thánh có người có hiểu biết thuộc linh, cũng có người không có hiểu biết thuộc linh, có người tố chất kém và không có năng lực lĩnh hội, cũng có người tố chất tốt và lĩnh hội lời Đức Chúa Trời một cách thuần túy, có người mưu cầu lẽ thật, cũng có người không mưu cầu lẽ thật. Những loại người này đều có tình trạng, biểu hiện khác nhau, cần phải phân định rõ ràng.

Trước tiên chúng ta hãy nói về loại thứ nhất, đó là người không có hiểu biết thuộc linh. Ví dụ như khi thông công về một khía cạnh lẽ thật nào đó, sau khi thông công xong về khía cạnh lẽ thật này cùng những tình trạng, thái độ, ý định và biểu hiện của con người, nếu có người nghe không hiểu và không hiểu được nội dung thông công là gì, thì họ sẽ không đối chiếu, không biết hành vi, biểu hiện, tâm tính bại hoại, thực chất bản tính của mình có quan hệ gì với lẽ thật đang được thông công. Họ không biết điều này có quan hệ gì với việc mưu cầu trong cuộc sống của mình, không biết tại sao lại giảng đạo về chuyện này. Họ nghe tới nghe lui và những gì họ hiểu được đều là đạo lý, còn nghe ra quy định từ trong đó. Người ta hỏi họ nghe thì hiểu được gì, họ nói: “Tuy rằng chủ đề thông công hôm nay rất nhiều, nhưng nội dung chủ yếu chỉ có một, gặp phải chuyện gì cũng phải cầu nguyện thật nhiều”. Cũng có người nói, “Tôi đã nghe hiểu, Đức Chúa Trời khiến con người làm người tốt, không làm việc xấu, chuẩn bị nhiều việc lành, như thế Đức Chúa Trời sẽ thích”. Lại có người nói, “Ý của Đức Chúa Trời chính là nói cho con người biết phải dâng mình cho Đức Chúa Trời, trả giá cho nhiều vào”. Như thế có phải là nghe hiểu lời Đức Chúa Trời hay không? (Thưa, không phải.) Những người này đều cho rằng mình nghe hiểu lời Đức Chúa Trời, nhưng thực ra bọn họ là thầy bói xem voi, đều chỉ nắm được một câu nói của Đức Chúa Trời, họ lĩnh hội quá phiến diện, căn bản nghe mà không hiểu ý của Ngài. Đối với những người không hiểu lời Đức Chúa Trời mà nói, bất kể Ngài có nói bao nhiêu điều thì điều mà họ lĩnh hội cũng chỉ là một quy định, một đạo lý, một loại lý luận, một luận điệu hoặc là một câu nói, và đến lúc phải thực hành thì họ sẽ thực hành như thế nào? Chẳng hạn, khi Ta giảng về lẽ thật của việc thuận phục Đức Chúa Trời, họ nghe được liền nói, “Đức Chúa Trời bảo tôi làm gì thì tôi làm cái đó, đó chính là nghe lời Đức Chúa Trời và thuận phục Ngài”, như thế có đơn giản quá không? Họ chỉ có thể lĩnh hội đến đây. Họ không thể lĩnh hội được việc thực hành lời Đức Chúa Trời như thế nào mới là thực sự thuận phục Ngài, tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời như thế nào mới đạt đến sự thuận phục Ngài, làm thế nào để thuận theo sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, hay là làm thế nào để căn cứ lời Đức Chúa Trời mà thực hành lẽ thật. Họ càng không lĩnh hội được làm thế nào để đứng về phía Đức Chúa Trời và bảo vệ công tác của hội thánh, càng liên quan đến lẽ thật quan trọng của việc thuận phục Ngài thì họ càng không với tới, họ chỉ biết tuân thủ các quy định, đó chính là người không có hiểu biết thuộc linh. Ngoại trừ tuân thủ các quy định và cố chấp ra, người không có hiểu biết thuộc linh còn không thấu tình đạt lý. Biểu hiện chính của những người không có hiểu biết thuộc linh là gì? (Thưa, tuân thủ quy định.) Là tuân thủ quy định. Họ thường lấy một câu hay một sự kiện và ấn định nó như một quy định hay chế độ phải theo. Vậy thì, những người này có đối đãi với lẽ thật theo cùng cách đó không? (Thưa, có.) Những ai không có hiểu biết thuộc linh đều nhớ một phương diện của những biểu hiện của lẽ thật mà ngươi đã thông công hôm nay; họ ấn định những lời nói và hành vi đó làm quy định phải được thực hành, ghi nhớ không sai chạy mỗi một điều trong số chúng. Thế rồi, vào lần tới, khi đối mặt với một tình huống khác, và không có ai thông công, họ sẽ áp dụng những biện pháp và quy định trước kia một cách bừa bãi, và đưa chúng vào thực hành. Đây là một biểu hiện cụ thể của những người không có hiểu biết thuộc linh. Những người như thế cảm nhận thế nào khi bám lấy các quy định như vậy? (Thưa, mệt mỏi.) Họ không cảm thấy mệt mỏi; nếu có thì họ đã ngừng lại rồi. Họ cảm thấy mình đang thực hành lẽ thật; họ không cảm thấy mình đang tuân thủ một bộ quy định, họ cũng không cảm thấy mình không có hiểu biết thuộc linh. Họ càng ít cảm nhận mình không hiểu lẽ thật, hay rằng mình không hiểu các nguyên tắc lẽ thật là gì. Trái lại, họ nghĩ họ đã hiểu được phương diện thực tế của lẽ thật, cũng như những nguyên tắc của phương diện đó của lẽ thật; đồng thời, họ nghĩ mình đã hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, và rằng, nếu có thể hành động phù hợp với những quy định của mình, thì họ sẽ bước vào khía cạnh đó của thực tế lẽ thật, đang thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời và đưa lẽ thật vào thực hành. Những người không có hiểu biết thuộc linh có phải đều nghĩ như vậy hay không? (Thưa, phải.) Nghĩ như vậy thì có phù hợp với tiêu chuẩn yêu cầu của Đức Chúa Trời hay không? Cách thực hành tuân thủ quy định này rốt cuộc có phải là biểu hiện của việc mưu cầu lẽ thật hay không? (Thưa, không phải.) Tại sao? (Thưa, bởi vì khi gặp chuyện, họ không tìm kiếm lẽ thật, không để tâm mà suy ngẫm, bảo thủ không chịu thay đổi và cứ làm như vậy.) Đây là biểu hiện của loại người không có hiểu biết thuộc linh, bảo thủ không chịu thay đổi, lười biếng, gặp chuyện gì cũng không tìm kiếm lẽ thật, không suy xét, cũng không khảo sát. Mặt khác, cho dù họ có khảo sát thì liệu họ có thể hiểu được hay không? (Thưa, không thể.) Tại sao họ lại không hiểu được? (Thưa, vì họ không có hiểu biết thuộc linh.) Đúng vậy, xét cho cùng, loại người này không có hiểu biết thuộc linh, vĩnh viễn không thể hiểu được lẽ thật.

Những người không có hiểu biết thuộc linh thực ra trong lòng cũng mong muốn mưu cầu lẽ thật, nhưng phương thức mưu cầu của họ không đúng, chính xác mà nói thì họ chủ yếu là dựa vào việc tuân thủ quy định, tuân thủ khuôn sáo, tuân giữ đạo lý, hoặc là rập khuôn cách làm của người khác, học nói theo lời của người khác. Vậy thực chất của loại người này là gì? Tại sao họ coi việc tuân thủ quy định là thực hành lẽ thật, cho rằng thực hành như vậy mới là mưu cầu lẽ thật? Tại sao lại dẫn đến vấn đề này? Trong chuyện này có một căn nguyên, các ngươi có thể phát hiện ra không? (Thưa, họ xem suy nghĩ, quan niệm và tưởng tượng của mình là lẽ thật, họ không hiểu lời Đức Chúa Trời, cũng không thật sự nắm bắt được tâm ý của Đức Chúa Trời.) Một mặt là như vậy. Còn nữa không? (Thưa, họ kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, khi gặp chuyện thì không tìm kiếm lẽ thật, và xem những gì mình cho là đúng như lẽ thật.) Trong số những người không có hiểu biết thuộc linh, có một bộ phận là thế, nhưng đó không phải là căn nguyên của vấn đề. Do đâu mà loại người này có biểu hiện như vậy? Loại người không có hiểu biết thuộc linh và thích tuân thủ quy định này, khi nghe giảng đạo cũng nghiêm túc lắng nghe, nhất là khi bài giảng liên quan đến việc thực hành của mình. Ví dụ như làm thế nào để thực hiện bổn phận, làm thế nào để làm tốt việc mình nên làm, họ cũng chăm chú nghe. Nhưng vấn đề mấu chốt là lúc nghe giảng đạo, họ không đối chiếu được với tình trạng của mình. Ví dụ như, nói đến sự phản nghịch của con người, sau khi nghe xong họ cảm thấy: “Phản nghịch ư? Mình không có! Để người ta không phản nghịch, thì từ nay về sau gặp phải tình huống này cũng đừng nói gì, cứ nhẫn nại, tùy mặt gửi lời, xem người xung quanh nói gì. Họ làm thế nào thì mình sẽ làm theo thế đó, như vậy chẳng phải sẽ không có phản nghịch nữa sao?”. Sau khi nghe giảng đạo xong, họ tổng kết ra một bộ phương thức lô-gic, phương pháp thực hành của chính mình. Họ không có phản ứng, không đối chiếu với các loại tình trạng đã được phơi bày trong lúc giảng đạo, lòng họ đục ngầu. Đục ngầu là gì? Nghĩa là họ không biết đạo lý được giảng rốt cuộc là cái gì, họ nghĩ thầm: “Những điều được thông công này là gì vậy? Sao không nói đơn giản hơn một chút, hôm nay thông công thế này, ngày mai lại thông công thế kia”. Trong mắt họ, việc thực hành lẽ thật rất đơn giản, chính là bảo họ làm cái gì thì họ làm cái đó. Đối với các loại tình trạng và tâm tính bại hoại bị vạch trần trong bài giảng đạo, họ cũng không đối chiếu được với bản thân. Nghĩa là trong quá trình lối vào sự sống, tâm tư, ý niệm và các loại tâm tính bại hoại mà con người bộc lộ trong các hoàn cảnh khác nhau là đục ngầu, là trống rỗng. Họ không phân rõ chi tiết, cũng không đối chiếu được với bản thân mình. Người nghe xong lẽ thật mà không đối chiếu được với bản thân mình thì sẽ cảm thấy thế nào? (Thưa, họ cảm thấy là đang nói người khác, không liên quan đến mình.) Đúng vậy, chủ yếu là nét đặc trưng này, họ không đối chiếu được với bản thân. Nếu nhìn thấy tình trạng bại hoại của con người bị vạch rõ họ sẽ cảm thấy đây đều là nói về người khác. Khi những vấn đề thông thường và thường gặp của con người bị vạch rõ thì họ còn có thể thừa nhận. Còn những lời liên quan đến tâm tính bại hoại, liên quan đến thực chất của con người, họ đều không tiếp nhận, có chết cũng không thừa nhận, họ cảm thấy nếu thừa nhận thì sẽ giống như bị định tội vậy. Đây chính là vấn đề chung của tất cả những người không có hiểu biết thuộc linh. Nghĩa là đối với việc Đức Chúa Trời vạch trần mọi loại biểu hiện và tình trạng, mọi sự bộc lộ thực chất bản tính ở con người, họ đều không tiếp nhận, cũng không đối chiếu, phản tỉnh, còn thường đem những lời này, những vấn đề này đổ lên người khác, cho rằng chúng không liên quan gì đến họ. Người như vậy chẳng những không tiếp nhận lẽ thật, mà còn không có tư duy của người bình thường, nói chuyện thì luôn quanh co lòng vòng, hỏi một đằng trả lời một nẻo. Ví dụ, ngươi hỏi họ ăn cơm chưa thì họ nói không uống nước, ngươi hỏi họ có buồn ngủ hay không thì họ nói họ không khát, họ thường ở trong tình trạng đục ngầu và trạng thái hỗn độn như vậy. Đây chính là biểu hiện của người không có hiểu biết thuộc linh. Trong mỗi hội thánh đều có những người không có hiểu biết thuộc linh. Tuy rằng những người không có hiểu biết thuộc linh đều tồn tại những vấn đề giống nhau, nhưng cũng có chút khác biệt. Có ai hoàn toàn không có hiểu biết thuộc linh không? (Thưa, có.) Trong khoảng ba năm mới tin Đức Chúa Trời, con người còn rất mơ hồ đối với những chuyện như tin Đức Chúa Trời, lối vào sự sống, mưu cầu lẽ thật, sự thay đổi trong tâm tính và được hoàn thiện. Họ chỉ thực hiện bổn phận dựa vào sự nhiệt tình, làm cái này cái kia vì Đức Chúa Trời và ở trong giai đoạn ra sức và đem sức lực phục vụ. Họ cũng không hiểu chuyện lối vào sự sống là gì, tức là họ căn bản không có một chút khái niệm nào đối với chuyện lối vào sự sống và mưu cầu lẽ thật, chỉ thích làm việc bề ngoài, làm dựa vào sự nhiệt tình. Đây chính là hoàn toàn không có hiểu biết thuộc linh. Trong giai đoạn hoàn toàn không có hiểu biết thuộc linh này, chúng ta có thể xác định tính chất họ là người không mưu cầu lẽ thật hay không? (Thưa, không thể.) Vì thời gian tin Đức Chúa Trời quá ngắn nên vẫn chưa thể xác định tính chất. Bởi vì còn đang trong giai đoạn nhiệt tình, họ không hiểu hết thảy những chuyện như tôn chỉ trong kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời, con đường dẫn đến sự cứu rỗi của con người và con đường mà mỗi loại người nên đi. Họ không có hiểu biết thuộc linh thì có thể tha thứ, đây là tình huống bình thường. Nhưng đối với những người đã hiểu rõ thế nào là lối vào sự sống, cũng đã bắt đầu tiếp xúc với các lẽ thật của lối vào sự sống và sự thay đổi tâm tính, có ai hoàn toàn không có hiểu biết thuộc linh hay không? (Thưa, có.) Vẫn còn tồn tại những người như vậy. Cho dù trong lòng người hoàn toàn không có hiểu biết thuộc linh có mong muốn mưu cầu lẽ thật thì họ cũng không đạt đến được. Cho nên chính xác mà nói thì người hoàn toàn không có hiểu biết thuộc linh thì không thể nào là người mưu cầu lẽ thật, cũng tuyệt đối sẽ không có biểu hiện của người mưu cầu lẽ thật.

Những biểu hiện khác nhau giữa người có hiểu biết thuộc linh và người không có hiểu biết thuộc linh là gì? Người không có hiểu biết thuộc linh căn bản là người không biết, không hiểu sự tình, không biết đối chiếu những lẽ thật mà Đức Chúa Trời đã thông công, những tình trạng, bối cảnh mà Đức Chúa Trời đã phán và những điều Ngài đã chỉ ra, còn người có hiểu biết thuộc linh thì ngược lại. Ví dụ như, Ta thông công sự phản nghịch của con người. Trong sự phản nghịch này có sự cương ngạnh, ích kỷ, ngu muội ngoan cố, còn có hiểu lầm, chống đối và đối kháng với Đức Chúa Trời. Khi Ta nói đến tình trạng liên quan đến chủ đề này, dù là Ta lấy ví dụ, nói đến một khía cạnh lẽ thật, nhắc đến một khía cạnh của tình trạng tồn tại trong lòng ngươi hay là chủ đề thông công nguyên tắc lẽ thật cũng được, nếu ngươi thật sự nghe hiểu, vậy ngươi chính là người có hiểu biết thuộc linh. Nếu như ngươi nghe hiểu, còn biết thực hành, vậy ngươi chính là người thực hành lẽ thật. Khi nghe xong lời Đức Chúa Trời, người có hiểu biết thuộc linh sẽ có thể có sự lĩnh hội thuần túy, thậm chí có thể hiểu được lẽ thật. Lời Đức Chúa Trời nói đến đâu là họ có thể theo kịp đến đó, còn có thể kết hợp tình trạng của mình với lời Đức Chúa Trời để đối chiếu và có thể tìm được con đường thực hành. Đây chính là biểu hiện của có hiểu biết thuộc linh. Khi đọc lời Đức Chúa Trời xong, trong lòng người có hiểu biết thuộc linh sẽ sáng tỏ, họ sẽ có thu hoạch, đặc biệt có sự giải phóng trong tâm linh, cảm thấy có con đường khả dĩ để đi. Cho nên mỗi lần nghe giảng đạo đều có thu hoạch, mỗi lần đọc lời Đức Chúa Trời đều có lợi ích. Đây là biểu hiện của có hiểu biết thuộc linh. Bất kể Đức Chúa Trời nói gì khi thông công, sau khi nghe xong, trong lòng người có hiểu biết thuộc linh sẽ hiện ra một vài cảnh tượng, vậy là họ có thể đối chiếu được bản thân với những tình trạng mà Đức Chúa Trời vạch rõ ở con người. Khi nói đến sự hiểu lầm đối với Đức Chúa Trời, họ kết hợp với tình trạng của bản thân thì phát hiện, “Tôi yêu cầu và tưởng tượng như vậy hóa ra là hiểu lầm Đức Chúa Trời”, họ sẽ đối chiếu được với bản thân. Khi nói đến chuyện chống đối, đối kháng với Đức Chúa Trời, nếu họ có cảm xúc như vậy, sống trong tình trạng như vậy, hoặc là có tâm tính, thực chất như vậy trong mình, thì họ cũng có thể đối chiếu ra. Họ có thể đối chiếu với những thứ gì? Với tâm tư, ý nghĩ hoặc là cách làm, hành vi mình bộc lộ ra, họ có thể đối chiếu với tất cả những thứ này. Nói cách khác, họ có thể hiểu được Đức Chúa Trời nói gì, có thể hiểu được Đức Chúa Trời rốt cuộc đang giảng cái gì, biết hành vi nào, sự bộc lộ nào, biểu hiện nào, tình trạng nào, thực chất nào giống với tình trạng mà Đức Chúa Trời đã vạch trần, giống với tình trạng đã được nói đến trong lúc giảng đạo. Đây chính là biểu hiện của việc có hiểu biết thuộc linh. Các ngươi có thể cảm nhận được mình là người có hiểu biết thuộc linh hay là không có hiểu biết thuộc linh hay không? (Thưa, có khi có, có khi không.) Như vậy vẫn có thể cứu được, nếu như một chút cũng không có thì thật phiền toái. Nếu hầu hết thời gian, các ngươi có thể biết lời Đức Chúa Trời nói đến điều gì, mặc dù không đối chiếu được, nhưng nếu ngươi biết mình có khía cạnh tình trạng này, hoặc là đã phát hiện nó nơi người khác, biết khía cạnh lẽ thật này là gì, bản thân nên bước vào như thế nào, thì như vậy cũng được tính là có hiểu biết thuộc linh. Tuy nhiên, những người như vậy có thể có biểu hiện của người có hiểu biết thuộc linh trong mỗi lần nghe giảng đạo không? Không, có khi thì họ có hiểu biết thuộc linh, có khi không. Bởi vì lối vào sự sống liên quan đến nhiều khía cạnh của lẽ thật, có lẽ thật ngươi hiểu được, bước vào được; có lẽ thật ngươi không hiểu được, cũng chưa bước vào. Có những lẽ thật ngươi căn bản chưa hề gặp qua, cho tới bây giờ cũng chưa từng nghe qua. Cho dù bây giờ ngươi nghe thấy thì cũng chưa chắc có thể lĩnh hội được nó, thậm chí ngươi còn có quan niệm, hiểu lầm. Đây cũng là hiện tượng bình thường. Nếu ngươi hiểu được một số khía cạnh nào đó của lẽ thật thì ngươi đã có hiểu biết thuộc linh về những khía cạnh đó. Còn nếu ngươi không hiểu được một số khía cạnh nào đó của lẽ thật thì ngươi không có hiểu biết thuộc linh về những khía cạnh đó. Nếu ngươi chưa từng nghe qua một số khía cạnh nào đó của lẽ thật, còn rất xa lạ với chúng, thậm chí còn nảy sinh quan niệm với chúng thì ngươi càng không có hiểu biết thuộc linh về những khía cạnh đó. Ngươi cần phải trải nghiệm một thời gian, đạt đến mức hiểu rõ lẽ thật mới có thể đạt đến hiểu biết thuộc linh về khía cạnh đó. Ví dụ, có người có sự hiểu lầm về Đức Chúa Trời, nhưng chính họ vẫn cảm thấy: “Tôi không hiểu lầm Đức Chúa Trời, tôi chưa bao giờ hiểu lầm Ngài, tôi yêu kính Ngài còn không hết thì làm sao có thể hiểu lầm Ngài được?”. Đây là lời của người không có hiểu biết thuộc linh. Nếu như ngươi nói: “Việc con người hiểu lầm Đức Chúa Trời là chuyện thường xảy ra, đều là do bản thân con người không có cách nào khống chế. Sự hiểu lầm có thể xảy ra mọi nơi mọi lúc. Nhưng đến bây giờ tôi dường như vẫn chưa ý thức được tôi có hiểu lầm, có mâu thuẫn với Ngài ở khía cạnh nào, tôi vẫn phải đào bới tỉ mỉ, phải trải nghiệm, phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời, cầu xin Ngài sắp đặt hoàn cảnh để tỏ lộ”. Như vậy là tốt nhất, về mặt chủ quan, bản thân ngươi phải có mong muốn này, phải hướng tới điều này. Nếu có người nói: “Tôi chưa bao giờ hiểu lầm Đức Chúa Trời, lời này nói về người khác thôi”, người có thể nói lời vô lý như vậy chính là người không có hiểu biết thuộc linh. Người không có hiểu biết thuộc linh thì chủ yếu bộc lộ tâm tính gì? Chính là kiêu ngạo, ngu muội ngoan cố. Thế nào là ngu muội ngoan cố? Chính là vừa ngu muội lại vừa ngoan cố. Biểu hiện cụ thể là gì? (Thưa, mọi người đều thấy được tâm tính bại hoại mà họ lại không nhận biết được, cảm thấy mình không có, còn đặc biệt tự cho mình là đúng, cảm thấy bản thân rất đúng đắn.) Họ chẳng những cho rằng mình không có khía cạnh bại hoại này, còn cảm thấy bản thân mình tốt, như vậy là tâm tính kiêu ngạo đã chi phối bên trong con người họ. Họ cho rằng mình vĩnh viễn sẽ không làm chuyện như vậy, bất kể người khác nói gì, chỉ cần là chuyện mình không phát hiện, không thấy hoặc là không trải nghiệm thì không cần phản tỉnh, nhận biết, không cần tiếp nhận. Đây chính là ngu muội ngoan cố. Ngu muội ngoan cố, nói cách khác là gì? Đó là không biết lý lẽ. Còn gì nữa? (Thưa, ngu xuẩn.) Đúng vậy, về cơ bản ngu muội ngoan cố có liên quan đến ngu xuẩn, vừa ngu muội vừa ngoan cố. Ví dụ như, người ta nói: “Anh phải cẩn thận một chút, uống nước lạnh dễ bị lạnh bụng, đau bụng”. Thế là anh ta nói: “Sức của tôi khoẻ gấp bội, không sao đâu, anh lo thừa rồi”. Đây có phải là ngu muội ngoan cố hay không? (Thưa, phải.) Bởi vì anh ta không có trải nghiệm mà còn tự cho mình là đúng, anh ta rõ ràng là rất ngu muội ngoan cố. Tại sao lại nói là ngu muội ngoan cố? Bởi vì anh ta chưa có trải nghiệm đã dám phủ nhận lời nói của người có trải nghiệm, anh ta sẽ không kiểm tra sự thật và rút ra bài học trên những lời nói này, còn đặc biệt tự cho mình là đúng, không tiếp nhận lời của người khác, đây chính là ngu muội ngoan cố, cũng là kiêu ngạo và tự cho mình là đúng. Phi-e-rơ có thể rút ra bài học từ thất bại của người khác về mặt lối vào sự sống, vậy lời Đức Chúa Trời đã phán gì? (Thưa, Ngài phán rằng Phi-e-rơ “tiếp thu những gì tốt đẹp từ các thời đã qua, và loại bỏ những gì xấu xa” (Làm sao để biết hiện thực, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời).) Người ngu muội ngoan cố thì ngay cả chuyện xảy ra trước mắt họ cũng không tiếp nhận và không rút ra bài học. Người khác nhìn vào thì thấy đây là ngu xuẩn, nhưng thực ra đây là vấn đề tâm tính, là do tâm tính kiêu ngạo gây nên.

Chúng ta hãy quay trở lại chủ đề biểu hiện của những người có hiểu biết thuộc linh và những người không có hiểu biết thuộc linh. Vừa rồi chúng ta đã nói đến biểu hiện chủ yếu của người có hiểu biết thuộc linh là gì? Các ngươi nói thử xem. (Thưa, người có hiểu biết thuộc linh có thể nghe và hiểu được rằng lời Đức Chúa Trời đang vạch rõ khía cạnh tình trạng nào của con người, có thể đối chiếu với tâm tư, ý niệm, cách làm, hành vi của mình trong đời sống hiện thực. Họ có thể hiểu lời Đức Chúa Trời phán.) Nội dung chủ yếu về cơ bản đều đã được nói đến. Người có hiểu biết thuộc linh đọc lời Đức Chúa Trời vạch rõ thì có thể đối chiếu với bản thân, có thể biết lẽ thật được nói trong lời Đức Chúa Trời là gì, con người nên bước vào điều gì, tâm tính của con người được vạch rõ trong lời Đức Chúa Trời là gì, tình trạng, biểu hiện của con người được vạch rõ trong lời Ngài là gì. Họ có thể đối chiếu bản thân với tất cả những điều này và nhận biết được chúng. Đây là biểu hiện của việc có hiểu biết thuộc linh. Vừa rồi khi thông công về biểu hiện của người có hiểu biết thuộc linh, chúng ta còn nói đến một vấn đề nữa, đó là người có hiểu biết thuộc linh thì có hiểu biết thuộc linh trong tất cả mọi chuyện không? (Thưa, không. Trong một số chuyện, nếu con người có thể đối chiếu với tình trạng mà lời Đức Chúa Trời vạch rõ, thì đó là biểu hiện của việc có hiểu biết thuộc linh; còn nếu không đối chiếu được với bản thân trong những chuyện mình chưa trải nghiệm, thì đó là không có hiểu biết thuộc linh.) Không đối chiếu với bản thân được trong những chuyện mình chưa trải nghiệm, thì đó là không có hiểu biết thuộc linh. Vậy nếu có một số việc họ đã trải nghiệm rồi, nhưng lại không hiểu lẽ thật bên trong chuyện đó, thế là họ không tiếp nhận hoặc không thừa nhận đó là lẽ thật. Đây có được xem là có hiểu biết thuộc linh hay không? (Thưa, không.) Đây cũng là không có hiểu biết thuộc linh. Vậy nếu họ nghe mà không hiểu đó là lẽ thật, thì có tính là có hiểu biết thuộc linh hay không? (Thưa, không.) Các ngươi có những biểu hiện này không? Ví dụ như, khi nói đến lẽ thật về sự thuận phục, có người nói, “Chúng ta phải thuận phục trong chuyện này, con người không có gì để khoe khoang, bổn phận và nghĩa vụ của con người là phải thuận phục”, ngươi nghe xong thì thầm nghĩ, “Đây là lẽ thật gì? Chuyện như vậy mà chúng ta cũng phải thuận phục sao? Tôi thấy chúng ta không cần thuận phục trong chuyện này!”. Trong chuyện này, có phải ngươi đã không có hiểu biết thuộc linh không? (Thưa, phải.) Thật ra, điều này không liên quan gì đến mức độ trải nghiệm, đây hoàn toàn là vấn đề có hiểu biết thuộc linh và không có hiểu biết thuộc linh. Lấy một ví dụ. Khi Gióp gặp phải thử luyện, ông đã nói câu gì? (Thưa, là câu “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va!” (Gióp 1:21).) Sau khi nghe những lời này, người ta có thể hiểu được lẽ thật ở đây là gì không? (Thưa, không thể.) Vậy trong chuyện này, con người có hiểu biết thuộc linh hay không? (Thưa, họ không có hiểu biết thuộc linh.) Ngươi không có hiểu biết thuộc linh. Có phải mỗi người đều có thể trải nghiệm hai chuyện là Đức Chúa Trời cất đi và ban cho không? (Thưa, phải.) Ngươi đã trải nghiệm chuyện đó, nhưng ngươi không hề hiểu được lẽ thật bên trong, vậy ngươi có được xem là có hiểu biết thuộc linh trong chuyện này không? (Thưa, không.) Ngươi không được xem là có hiểu biết thuộc linh. Lẽ thật trong câu nói này của Gióp là gì? (Thưa, lẽ thật đó là Đức Chúa Trời tể trị, quản lý tất cả.) Đức Chúa Trời tể trị vạn vật, cất đi và ban cho đều do Ngài. Vậy điều con người nên thực hành là gì? (Thưa, là thuận phục.) Đúng vậy, là thuận phục, tiếp nhận và ca ngợi sự tể trị của Đức Chúa Trời. Khi con người hiểu những lời này, hiểu lẽ thật ở trong đó, thì họ sẽ có hiểu biết thuộc linh trong chuyện này; nếu con người không hiểu lẽ thật trong đó, thì họ không có hiểu biết thuộc linh trong chuyện này. Cho đến bây giờ, các ngươi có hiểu biết thuộc linh trong lời này hay không? (Thưa, chúng con không có hiểu biết thuộc linh trong lời này.) Nếu điều ngươi hiểu là đạo lý, và ngươi nói rằng “Gióp đã trải nghiệm rất tốt, Đức Chúa Trời đã phán rằng Gióp là người công chính, vậy mọi điều ông làm chắc chắn sẽ phù hợp với lẽ thật và có thể thỏa mãn tâm ý của Đức Chúa Trời”, ngươi đã thông suốt đạo lý này, vậy khi nào đạo lý đó có thể trở thành thực tế lẽ thật của ngươi? (Thưa, đó là khi Đức Chúa Trời sắp đặt hoàn cảnh để cất đi mà con có thể cảm tạ và ca ngợi Ngài, có thể thuận phục Ngài, không nói lời oán trách, có thể thực hành khía cạnh lẽ thật này.) Ngươi có thể thực hành được như vậy, nhưng sự thực hành của ngươi là tuân thủ quy định và bắt chước, hay là sâu thẳm nội tâm ngươi thực sự có nhận thức về sự tể trị của Đức Chúa Trời? Có phải có sự khác biệt hay không? Điều nào là lối vào thực tế lẽ thật? Bây giờ nếu ở trong tình huống mà Gióp là tiền lệ, có rất nhiều người cũng sẽ nói những lời giống như ông, nhưng họ nói được lời như vậy là do bắt chước, hay là họ giống như Gióp, trải nghiệm nhiều thập kỷ, nhìn ra được lẽ thật và sự thật rằng Đức Chúa Trời tể trị con người, nên mới có thể nói ra câu đó? Điều nào là thực tế lẽ thật? (Thưa, điều mà họ đã trải nghiệm là thực tế.) Cảm nhận và nhận thức có được từ trải nghiệm mới là thực tế lẽ thật, học theo lời người khác không phải là thực tế. Cùng một lời, mà Gióp nói thì có khía cạnh thực tế trong đó, nhưng từ miệng những người bắt chước người khác thì sẽ thành khẩu hiệu, tức là che đậy bản thân, bắt chước người có hiểu biết thuộc linh, đây là kẻ lừa đảo tôn giáo. Có những người được chọn làm lãnh đạo trong hội thánh, chịu chút trách nhiệm, có địa vị, thường thông công những lời Gióp nói cho anh chị em, “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va!”, người nghe cảm thấy thế nào? Họ cảm thấy: “Lời này đến từ Đức Chúa Trời, là sự khai sáng của Đức Thánh Linh, sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, lời này quá thực tế”. Chưa đầy một năm, người lãnh đạo này bị cách chức vì không làm được công tác thực tế, làm trì hoãn lối vào sự sống của dân được Đức Chúa Trời chọn và làm trì hoãn tiến độ công tác của hội thánh, sau đó họ trở nên tiêu cực, nói những lời oán trách. Loại người này cũng nói những lời giống như Gióp, nhưng họ chưa từng trải nghiệm chuyện như ông. Họ cũng không có sự lĩnh hội, trải nghiệm và nhận thức sâu sắc về những lời này, vậy lúc họ nói lời này là bắt chước hay là nói thật lòng? (Thưa, bắt chước.) Từ sâu thẳm nội tâm, khi họ nói, những lời này bao hàm tình cảm cá nhân của họ và cũng là thật lòng. Họ có một nguyện vọng, họ hy vọng rằng khi được Đức Chúa Trời ban cho thì họ có thể luôn ca ngợi Ngài như vậy, cảm tạ phúc lành và sự ban thưởng của Ngài, khi Đức Chúa Trời lấy đi, họ cũng mong mình tuyệt đối sẽ không nói lời oán trách. Họ cũng muốn bắt chước Gióp và có thể ca ngợi Đức Chúa Trời, cảm tạ sự dẫn dắt, tể trị của Ngài, nhưng đây chỉ là một nguyện vọng, họ còn chưa trải nghiệm được. Khi địa vị của họ không còn, chức vụ cũng không còn, họ trở thành tín hữu bình thường, thì lời này còn có tác dụng không? (Thưa, không có tác dụng nữa.) Cũng không thể nói là hoàn toàn không có tác dụng, chuyện này cũng tùy theo loại người. Người mưu cầu lẽ thật sẽ dùng lời này để đánh giá hành vi của mình, dùng lời này để định hướng cho trải nghiệm của mình. Họ còn có thể đối chiếu lời này với bản thân, tìm được con đường thực hành từ trong đó. Họ không quá buồn bã, cũng không quá tiêu cực, có thể thực hiện bổn phận một cách bình thường. Còn người không mưu cầu lẽ thật và hô hào khẩu hiệu thì phiền phức rồi, biểu hiện của họ cũng khác. Những bộc lộ rõ ràng nhất của loại người này mà các ngươi từng nhìn thấy là gì? (Thưa, có lãnh đạo sau khi bị cách chức đã không biết mình, cũng không thuận phục, còn cảm thấy không công bằng khi bị cách chức. Họ trở nên tiêu cực và buông lời oán trách, tranh quyền trong thời gian tuyển cử lần sau, cuối cùng trở thành kẻ địch lại Đấng Christ và bị khai trừ.) Như thế là nghiêm trọng nhất. Còn có những biểu hiện nào nữa? (Thưa, có người sau khi bị cách chức thì ra ngoài làm việc, không thực hiện bổn phận nữa.) Đây là loại người gì? Tại sao lúc đó họ có thể mạnh miệng, hô hào khẩu hiệu? Họ hô hào cho người khác nghe, dùng những khẩu hiệu, đạo lý, những lời nói dễ nghe này để trang hoàng cho bản thân, lôi kéo người khác, để cho người khác sùng bái họ, mục đích của họ chính là như vậy. Còn có biểu hiện gì nữa? (Thưa, có một số lãnh đạo và người làm công khi chưa bị cách chức thì bề ngoài có vẻ rất mưu cầu, họ cũng nói rằng “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi”. Nhưng sau khi bị cách chức thì họ tiêu cực đến mức không vực dậy nổi, thậm chí còn chửi ầm lên. Họ cảm thấy sự dâng mình, trả giá trước kia của họ hoàn toàn uổng phí, giống như nhà Đức Chúa Trời nợ họ vậy.) Nếu một người nói ra lời này và có biểu hiện này thì đây là vấn đề nghiêm trọng. Đầu tiên, phải phân định việc họ nói lời như vậy là có tính chất gì. Họ không mưu cầu lẽ thật, còn học theo lời của Gióp, tự làm cho mình một mão triều thiên đẹp đẽ để đội lên, đội lốt thuộc linh để phô trương bản thân, mê hoặc người khác. Đây có phải là biểu hiện của việc đùa bỡn lẽ thật, báng bổ Đức Chúa Trời hay không? Các ngươi nói xem, loại người nào khi mất đi danh lợi và địa vị thì phản ứng cực kỳ mạnh, hơn nữa còn trở nên tiêu cực một cách xuống dốc không phanh, không thực hiện bổn phận, bất cần, thậm chí là không tin? (Thưa, người có nhân tính không tốt và kẻ ác.) Nói vậy cũng đúng. Người có nhân tính không tốt và kẻ ác thì chắc chắn không phải là người mưu cầu lẽ thật, nhưng người có nhân tính tốt nếu như không mưu cầu lẽ thật thì có biểu hiện như vậy hay không? Chắc chắn cũng sẽ như vậy. Ngoại trừ kẻ ác có loại biểu hiện này ra, còn có một tình huống khác, liên quan trực tiếp đến việc con người mưu cầu điều gì, đi con đường nào. Người không yêu thích lẽ thật thì cho dù bề ngoài có vẻ có chút nhân tính, nhưng thực ra họ không khác hơn là bao, đều có thực chất ác, đều có thể đi ngược lại lẽ thật, chống đối Đức Chúa Trời, và đều có thể hành ác một khi có được địa vị. Trong chuyện này còn có một vấn đề nghiêm trọng hơn, đó là loại người này đặc biệt mưu cầu địa vị. Nếu không cho họ địa vị, không cho họ làm lãnh đạo thì chẳng khác nào như lấy mạng của họ, họ có thể tiếp nhận không? Khi có địa vị thì chịu bao nhiêu đau khổ, chịu bao nhiêu oan ức, họ đều cam tâm tình nguyện. Nhưng không thể bởi vì họ cam tâm tình nguyện hoặc là họ chịu khổ trả giá mà cho rằng họ là người mưu cầu lẽ thật, như thế là sai lầm. Thứ họ mưu cầu là danh lợi, địa vị, thứ họ mưu cầu là lợi ích của địa vị, điều này khớp với khía cạnh nào của Phao-lô? (Thưa, việc ông mưu cầu mão triều thiên.) Đúng vậy, là việc ông mưu cầu mão triều thiên, hơn nữa còn là mão triều thiên của sự công chính. Đây là sự mưu cầu của những người như Phao-lô. Họ coi việc mưu cầu mão triều thiên là mưu cầu chính đáng, là mưu cầu lẽ thật. Sau này có phải các ngươi sẽ có chút phân định đối với loại người này rồi không? (Thưa, phải.) Nếu một người sau khi bị cách chức và mất địa vị của mình thì chửi ầm lên, nhìn thấy anh chị em cũng ngó lơ, không nói chuyện, nếu bắt họ rao truyền phúc âm, họ sẽ nói, “Tôi không rao truyền đâu, tôi không phục vụ cho anh nữa! Khi cần tôi thì nhớ đến tôi, khi không cần thì đá tôi sang một bên, gạt tôi đi, tôi không ngu ngốc như vậy đâu!”. Đây là lời gì? Có dễ phân định không? Đây mà là tin Đức Chúa Trời sao? Đây không phải là đức tin thực sự, cũng chẳng phải là thứ gì tốt đẹp. Loại người nào phản ứng dữ dội nhất sau khi bị cách chức? (Thưa, người mưu cầu danh lợi và địa vị.) Các ngươi vừa nói loại người này nhân tính không tốt, hoặc là không mưu cầu lẽ thật, không mưu cầu lối vào sự sống, vậy điều đó có liên quan gì đến thực chất của vấn đề này hay không? (Thưa, không có.) Lời này nghe có vẻ có chút đạo lý, nhưng không dính dáng đến thực chất của vấn đề này, không phải là thực chất của vấn đề này. Vừa rồi các ngươi nói, có những người sau khi bị cách chức thì buông lời oán trách, bất cần, việc này là do nhân tính không tốt gây ra, vì sao nói đây là đạo lý? Vì có những người nhân tính cũng ổn, cũng thật lòng trả giá và dâng mình, nhưng lại không mưu cầu lẽ thật, mà luôn mưu cầu danh dự và địa vị. Kết quả cuối cùng khi bị cách chức thì họ phản ứng dữ dội như vậy. Điều này chứng tỏ biểu hiện của họ không chỉ nằm ở vấn đề nhân tính không tốt, mà là tâm tính có vấn đề, tâm tính bại hoại quá nghiêm trọng! Có người đã tóm gọn thành một câu, rằng “Đây chính là nguyên nhân khiến người đó không mưu cầu lẽ thật”, lời này quá chung chung. Biểu hiện không mưu cầu lẽ thật thì nhiều, chẳng hạn như buông lời oán trách, không trung thành thực hiện bổn phận, v.v., không thể dùng câu “Không mưu cầu lẽ thật” này để nói rõ mọi vấn đề. Nói như vậy rất chung chung, không cụ thể, là cách nói giảng đạo lý.

Bây giờ chúng ta sẽ thông công biểu hiện của việc không có hiểu biết thuộc linh. Thái độ của người không có hiểu biết thuộc linh đối với lẽ thật rốt cuộc là gì? Họ tiếp cận với tình trạng, biểu hiện và mọi bộc lộ bại hoại của mình như thế nào? Họ có thể có biểu hiện của người mưu cầu lẽ thật hay không? (Thưa, không thể.) Vấn đề lớn nhất ở đây là gì? (Thưa, họ nghe không hiểu liệu lời Đức Chúa Trời đang vạch rõ tình trạng, biểu hiện ở khía cạnh nào của con người, họ không đối chiếu được với bản thân.) Chủ yếu là họ không đối chiếu được với bản thân. Nếu họ không đối chiếu được với bản thân thì có thể được coi là hiểu rõ lẽ thật hay không? (Thưa, không thể.) Ngươi nói đông, họ luôn nói tây, họ luôn lằng nhằng, tranh luận với ngươi, vấn đề tranh luận lại không phải cùng một trọng tâm, không phải cùng một chuyện, vậy mà họ còn cảm thấy mình rất có lý. Biểu hiện của người không có hiểu biết thuộc linh chính là như vậy. Người không có hiểu biết thuộc linh thì không thể hiểu rõ lẽ thật, vậy họ có thể mưu cầu lẽ thật hay không? (Thưa, không thể.) Như thế là rất phiền phức. Nếu không thể mưu cầu lẽ thật vậy họ có thể có lối vào sự sống hay không? (Thưa, không thể.) Người không mưu cầu lẽ thật thì không thể có lối vào sự sống, đây là điều tất yếu. Nếu một người tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm mà không hề hiểu rõ lẽ thật, vậy họ có phải là người mưu cầu lẽ thật không? Chắc chắn là không. Có người nói: “Chưa chắc là như vậy, có người tuy rằng không hiểu rõ lẽ thật, nhưng rất nhiệt tình, vứt bỏ mọi sự để dâng mình cho Đức Chúa Trời, chẳng lẽ họ không phải là người mưu cầu lẽ thật sao?”. Quan điểm này có đúng không? Muốn đánh giá con người rốt cuộc có mưu cầu lẽ thật hay không, không thể chỉ xem họ có vứt bỏ tất cả để dâng mình cho Đức Chúa Trời hay không, mà quan trọng nhất là phải xem trong lòng họ chú trọng điều gì. Nếu trong lòng họ chú trọng thực hành lẽ thật, bước vào lẽ thật, đạt được lẽ thật, đạt được hiệu quả về mặt lối vào sự sống thì đây là người mưu cầu lẽ thật. Nếu họ vứt bỏ và dâng mình là để có được mão triều thiên, được ban thưởng, thì họ vứt bỏ và dâng mình bao nhiêu năm, chịu bao nhiêu đau khổ, cũng không đạt đến mức hiểu rõ lẽ thật và bước vào thực tế, cũng không đạt đến việc nhận biết Đức Chúa Trời, thì việc vứt bỏ và dâng mình đó của họ có phải là mưu cầu lẽ thật không? Rất dễ nhận thấy, họ không phải là người mưu cầu lẽ thật, bởi vì việc vứt bỏ và dâng mình của họ không đạt được hiệu quả là hiểu lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật, cho nên việc vứt bỏ và dâng mình của họ không có nghĩa là mưu cầu lẽ thật. Loại người này cũng giống như Phao-lô, Phao-lô dành nửa đời mình để truyền đạo và làm việc cho Chúa, nhưng lại không đạt được lẽ thật, không đạt được Chúa, vậy ngươi có thể nói Phao-lô là người mưu cầu lẽ thật không? Có phải là mưu cầu lẽ thật hay không thì mấu chốt phải xem mục tiêu họ mưu cầu và ý định của họ có chú trọng việc đạt được lẽ thật hay không. Nếu thật sự chú trọng thì họ sẽ dốc công sức vào lẽ thật, hơn nữa còn đạt được hiệu quả là thực hành lẽ thật, bước vào thực tế, đó mới là người mưu cầu lẽ thật. Người mưu cầu lẽ thật chân chính thì đều có thể thực hành được lẽ thật, chỉ người thực hành được lẽ thật mới là người có lối vào sự sống. Nếu có người nói họ là người mưu cầu lẽ thật, nhưng lại không biết thực hành lẽ thật, vậy các ngươi nói xem, người này có lối vào sự sống hay không? Chắc chắn là không. Người không thực hành lẽ thật thì làm sao có thể có lối vào sự sống chứ? Tuyệt đối không thể nào. Nếu họ cho rằng mình là người mưu cầu lẽ thật, có lối vào sự sống, vậy ngươi nên hỏi họ: “Bằng chứng cho thấy lối vào sự sống của anh ở đâu?”. Chỉ dựa vào cá nhân họ nói thôi thì không được, không có bằng chứng thì lời đó không thể đứng vững. Ngươi nói ngươi là người mưu cầu lẽ thật, vậy ngươi hiểu được bao nhiêu lẽ thật? Thực hành được bao nhiêu lẽ thật? Đã bước vào thực tế lẽ thật của phương diện nào? Ngươi có thể nói lời chứng trải nghiệm của mình không? Nếu như không nói được lời chứng trải nghiệm, mà lại nhận mình là người mưu cầu lẽ thật thì đó là lừa dối, mê hoặc người ta. Tại sao Phao-lô không phải là người mưu cầu lẽ thật? Chính là bởi vì trong những thư tín mà Phao-lô viết, căn bản không có lời chứng trải nghiệm về sự sống. Ông không nói ra được nhận thức thực sự về Đức Chúa Trời, càng không nói ra được sự yêu kính và thuận phục đối với Đức Chúa Jêsus, ngay cả tâm tính bại hoại của mình ông cũng không nhận thức được. Ông chỉ nói mình là kẻ đầu sỏ, điều này là căn cứ vào sự thật rằng ông đã chống đối Đức Chúa Jêsus và bị trừng phạt. Ông nói mình là kẻ đầu sỏ, chẳng qua là thừa nhận sự thật rằng ông đã phạm tội khi điên cuồng chống đối Đức Chúa Jêsus mà thôi. Điều này có thể đại diện cho việc ông có nhận thức thực sự về tâm tính bại hoại và thực chất bại hoại của mình hay không? (Thưa, không thể.) Cho nên, đối với chuyện như thế nào là mưu cầu lẽ thật và loại người nào có lối vào sự sống, thì nên căn cứ vào việc liệu họ có hiểu lẽ thật, có thực hành lẽ thật hay không để xác định, chứ không phải chỉ căn cứ vào lời họ nói như thế nào để xác định. Bây giờ các ngươi đã hiểu chưa? Tại sao chúng ta phải thông công chi tiết như vậy? Thông công chi tiết như vậy có cần thiết không? (Thưa, có.) Cần thiết ra sao? Ta thông công như vậy chính là muốn mổ xẻ quan điểm sai lầm của các ngươi, giải quyết những gì các ngươi lầm tưởng là đúng, để các ngươi thoát ra khỏi nó, buông bỏ những gì mình lầm tưởng là đúng, sau đó bước vào con đường thực sự mưu cầu lẽ thật, như vậy con người sẽ thực sự có lối vào sự sống, có thể đạt đến mức thực sự mưu cầu lẽ thật. Khi không hiểu chuyện lối vào sự sống, không hiểu chuyện thay đổi trong tâm tính, người không có hiểu biết thuộc linh sẽ cho rằng mình có rất nhiều chỗ đã thay đổi, đã có lối vào sự sống rồi. Ví dụ như, họ có vài thói quen xấu đã thay đổi, không tham ăn, không tham ngủ, không lười biếng, chăm chỉ hơn trước đây một chút, họ cho rằng họ đã có lối vào sự sống. Còn có người cho rằng, trước kia mình thích mắng chửi người khác, bây giờ không còn mắng chửi người nữa, gặp người khác thì có thể nói lời dễ nghe, nói lời có ích lợi cho người khác, có lúc cũng có thể giúp đỡ người khác. Làm được những điều này rồi thì họ cho rằng mình đã thực hành lẽ thật và có sự thay đổi. Có người có thể từ bỏ việc mưu cầu danh lợi, địa vị và hưởng thụ xác thịt, thế là họ cho rằng mình đã có lối vào sự sống. Đây là vấn đề chung của tất cả mọi người. Họ đã thực hành được những gì bản thân hiểu được, những gì trong quan niệm mình cho là đúng, là tốt. Vì tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật, họ đã khắc phục được rất nhiều tật xấu, thói quen xấu của xác thịt hoặc đã thay đổi quy luật sinh hoạt, đồng thời cũng từ bỏ rất nhiều lợi ích về xác thịt, vứt bỏ gia đình, công việc, từ bỏ hôn nhân, thế tục. Thế là họ cho rằng mình đã thay đổi, là người được cứu rỗi. Họ nói: “Nếu không tin Đức Chúa Trời, liệu tôi có thể buông bỏ những thứ này sao? Có thể có sự thay đổi lớn như vậy sao?”. Đây có phải là hiểu lầm lớn nhất của người tin Đức Chúa Trời hay không? (Thưa, phải.) Bất kể con người có hiểu biết thuộc linh hay không đều có hiểu lầm như vậy. Tại sao lại nói đây là hiểu lầm? Tại sao lại nói trong chuyện này tồn tại vấn đề rất nghiêm trọng? Chủ yếu là bởi vì con người tin Đức Chúa Trời nhưng không hiểu tâm ý của Ngài, cũng không hiểu yêu cầu của Ngài đối với con người rốt cuộc là gì. Thay vào đó, dựa vào quan niệm và tưởng tượng của con người, họ cho rằng có thể buông bỏ gia đình, công việc, tình cảm, thế tục, cả sự vướng víu về xác thịt và thậm chí cả tài sản thì đã có lối vào sự sống. Đây chính là hiểu lầm. Thực ra, tâm ý của Đức Chúa Trời là: tin Đức Chúa Trời thì phải giải quyết được tâm tính bại hoại của con người, giải quyết được vấn đề con người chống đối Đức Chúa Trời, giải quyết được căn nguyên phạm tội của con người. Điều này đòi hỏi con người phải hiểu rõ lẽ thật, phải nhận thức tâm tính của Đức Chúa Trời mới có thể đạt đến mức thoát khỏi tâm tính bại hoại, đạt đến việc thực sự thuận phục Đức Chúa Trời, đây là yêu cầu của Ngài đối với con người, cũng chính là công tác cứu rỗi con người mà Đức Chúa Trời làm. Con người không hề nhận biết được công tác của Đức Chúa Trời, không nhìn thấy Ngài làm những công tác này nhằm đạt đến mục đích gì, hiệu quả gì, cho nên họ dùng quan niệm và tưởng tượng của con người để thay thế lẽ thật, coi sự mưu cầu của con người, những gì con người có thể làm được là tâm ý của Đức Chúa Trời, là yêu cầu của Ngài đối với con người. Đây chính là hiểu lầm của người tin Đức Chúa Trời. Những việc họ có thể làm được chỉ có thể đại diện cho sự nhiệt tình của họ. Thực ra sự vứt bỏ của họ là đang giao dịch với Đức Chúa Trời, là vì đổi lấy phần thưởng, đổi lấy mão triều thiên. Họ cảm thấy việc thực hiện giao dịch như vậy quá đáng giá, họ cảm thấy chiếm được lợi, cho nên họ mới vứt bỏ mọi thứ. Sự vứt bỏ của họ không có nghĩa là họ có thực tế lẽ thật, cũng không có nghĩa là họ có thể thuận phục Đức Chúa Trời. Trong khi vứt bỏ và dâng mình, họ có thực sự hiểu lẽ thật không? (Thưa, họ không hiểu.) Vậy khi không hiểu lẽ thật, việc vứt bỏ và dâng mình của họ có sự uế tạp hay không? Chắc chắn là có uế tạp. Vậy họ dâng mình, chịu khổ, cái mà họ mưu cầu rốt cuộc là gì? Loại người này vẫn luôn mặc kệ lẽ thật là gì, yêu cầu của Đức Chúa Trời là gì, họ luôn cảm thấy những thứ này không liên quan đến họ. Trong lòng họ cho rằng cái gì là đúng, cái gì là tốt, cái gì là lối vào sự sống thì họ dựa theo đó mà thực hành. Sau khi thực hành được thì họ cảm thấy được Đức Chúa Trời ghi nhớ, họ coi những thứ này trở thành quân cờ và vốn liếng. Đây có phải là biểu hiện của việc mưu cầu lẽ thật không? (Thưa, không phải.) Đây là một hiểu lầm của những người không mưu cầu lẽ thật, là một cách nhận ra những người có hiểu lầm về lối vào sự sống. Vậy làm sao để đánh giá, làm sao để chứng thực rằng những thứ này của họ không phải là biểu hiện mưu cầu lẽ thật và rằng họ không có lối vào sự sống? Trên thực tế, làm thế nào để xác minh câu nói này của họ là sai? (Thưa, họ làm việc không có nguyên tắc lẽ thật.) Đây là một trong số đó. Họ làm việc chỉ dựa vào tưởng tượng của mình, bề ngoài trông có vẻ là thực sự tin, có thể vứt bỏ, có thể dâng mình, nhưng làm việc lại không có nguyên tắc. Tại sao không có nguyên tắc? Bởi vì họ không mưu cầu lẽ thật, quan điểm nhìn nhận sự việc của họ vẫn là quan niệm và tưởng tượng ban đầu của họ. Người như vậy có một vấn đề cực lớn, họ có thuận phục hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt hay không? Họ có hiểu hay không? (Thưa, không hiểu.) Điều này có phải đủ để kiểm nghiệm ra rằng họ không có lối vào sự sống hay không? (Thưa, phải.) Khi những tật xấu, thói quen xấu của họ đã thay đổi rất nhiều, trả giá cũng rất nhiều, nhưng đến cuối cùng khi bị kiểm nghiệm, họ không những không hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời mà còn buông lời oán trách và không thể thuận phục, thì đây là vấn đề gì? Đây là không có lối vào sự sống. Người không có lối vào sự sống có phải là không có thực tế lẽ thật hay không? (Thưa, phải.) Gặp phải chuyện gì họ cũng hoàn toàn dựa vào quan niệm và tưởng tượng, dựa vào sở thích tự nhiên của mình. Khi ngươi thực sự nghiêm túc với họ và yêu cầu họ thuận phục, thì một chút thuận phục họ cũng không có. Họ chỉ dựa vào lý do, cái cớ, tưởng tượng của con người, tìm đủ đường để giảo biện cho mình, để đạt được mục đích không thuận phục Đức Chúa Trời của họ, đạt được mục đích phủ nhận công tác của Đức Chúa Trời. Thậm chí có người còn nghiêm trọng đến mức chẳng những không thể thuận phục, ngược lại còn phải tìm mọi cách chứng minh quan niệm và tưởng tượng của họ là đúng, cũng như phương pháp và con đường mà họ nghĩ là đúng, còn những điều Đức Chúa Trời làm và sắp đặt chưa hẳn là đúng. Điều này tỏ lộ rằng họ không có lối vào sự sống, rằng mọi việc làm, trả giá, thay đổi của họ không phải là lối vào sự sống. Chỉ là họ không còn một vài thói xấu, cũng như các thói quen, quy luật và phương thức sống cá nhân của họ đã thay đổi một chút. Thậm chí có người thay đổi cả tính khí của mình, nói chuyện ôn hòa, có giáo dục, hành vi bề ngoài chuẩn mực, thế nhưng khi làm việc lại không có bất kỳ thực tế lẽ thật nào, chưa bao giờ căn cứ vào lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, tất cả đều là tưởng tượng, ý nguyện của cá nhân. Họ không có chút nhận thức thực sự nào về Đức Chúa Trời, chỉ biết nói chút lý luận thuộc linh, chỉ dừng lại ở quan niệm, tưởng tượng và cảm giác của con người. Các ngươi nói xem loại người này có đáng thương không? (Thưa, đáng thương.) Vậy loại người này có nhiều không? (Thưa, nhiều.) Sao các ngươi biết là nhiều? (Thưa, vì chính con cũng nằm trong số đó.) Nghe quen thuộc với ngươi, đúng không? Vậy các ngươi hãy nói về trải nghiệm của phương diện này đi. (Thưa, con xin nói một trải nghiệm. Một người anh em đã nói những khuyết điểm của con trước mặt rất nhiều anh chị em, lúc đó con cảm thấy thể diện nhục nhã. Để lấy lại thể diện của mình con đã bao biện, không tiếp nhận lời khuyên của người anh em.) Ngươi bị thể diện kìm kẹp. Tại sao con người luôn bị thể diện kìm kẹp? Người có tôn nghiêm đều sĩ diện, có phải như vậy hay không? (Thưa, không phải.) Thực ra, con người làm như vậy chính là muốn bảo vệ hình tượng hoàn mỹ của mình trong lòng người khác. Họ có lòng ham địa vị, muốn tạo một lớp vỏ bọc cực kỳ hoàn mỹ cho bản thân, không có tỳ vết, muốn lưu lại một hình tượng hoàn mỹ trong lòng người. Họ không cho người ta biết chân tướng và sự thật của họ, điều này chính là do tâm tính kiêu ngạo gây nên. Bây giờ vấn đề này đã được giải quyết hay chưa? (Thưa, vẫn chưa được giải quyết, vẫn thường xuyên bộc lộ.) Nếu một người có thể phản tỉnh bản thân, phát hiện tâm tính bại hoại của mình, thì họ sẽ dễ thay đổi. Nếu như họ không phản tỉnh bản thân, không phát hiện được tâm tính bại hoại của mình, họ thấy tê dại, mất cảm giác đối với những vấn đề này, thì họ sẽ không dễ thay đổi. Nếu như đã có ý thức, cảm giác được tâm tính kiêu ngạo của mình nghiêm trọng, rằng sự mưu cầu của mình cũng có sai lệch, cách rất xa với việc mưu cầu lẽ thật, nhưng khi bị tỉa sửa, họ vẫn có thể tiêu cực vài ngày, luôn tìm mọi cách lấy lại thể diện trong mọi trường hợp, người như vậy có thể thay đổi hay không? Không dễ thay đổi. Vậy làm thế nào để giải quyết vấn đề này? Chỉ cần tiếp nhận lẽ thật, phản tỉnh bản thân, thì vẫn có hy vọng giải quyết được vấn đề. Nếu không thể tiếp nhận lẽ thật, vậy thì không có cách nào để giải quyết. Quan trọng là con người phải có ý chí và nguyện vọng mưu cầu lẽ thật, có lòng khao khát lẽ thật mạnh mẽ, có thể yêu thích lẽ thật, cũng có sức mạnh để tiếp nhận lẽ thật, thực hành lẽ thật và chống lại xác thịt. Chỉ có tiếp nhận lẽ thật mới có thể hoàn toàn giải quyết được vấn đề tâm tính bại hoại, giải quyết được tâm tính bại hoại thì có thể thực hành được lẽ thật, như vậy mới có lối vào sự sống.

Những người không có hiểu biết thuộc linh thì luôn có lý giải sai lầm đối với lẽ thật và lối vào sự sống. Họ cảm thấy việc mưu cầu lẽ thật rất dễ dàng, chỉ là bỏ đi một vài thói quen xấu, tật xấu, hoặc là tạm thời vứt bỏ chút lợi ích mà thôi, chỉ cần không làm việc ác, kiên trì tin Đức Chúa Trời đến cùng, thì sẽ đạt được sự sống, có thể đổi lấy phần thưởng, phúc lành của Đức Chúa Trời. Những người dựa theo quan điểm này mà tin Đức Chúa Trời thì có phải là người mưu cầu lẽ thật không? (Thưa, không phải.) Không phải là người mưu cầu lẽ thật thì có thể có lối vào sự sống không? (Thưa, không thể.) Có rất nhiều người không hề hiểu rõ lối vào sự sống là gì. Họ cho rằng ra sức một chút, thực hiện chút bổn phận, bỏ đi chút tật xấu, thói quen xấu, nghe lời và thuận phục một chút thì sẽ có lối vào sự sống. Họ nhìn nhận lối vào sự sống quá đơn giản, họ tin Đức Chúa Trời như vậy thì có sự thay đổi trong tâm tính sự sống không? (Thưa, không có, họ chỉ thay đổi bên ngoài, còn thực chất thì không thay đổi.) Các ngươi hiện tại có chút thay đổi, vậy đó rốt cuộc là thay đổi về mặt hành vi bề ngoài hay là thay đổi về mặt tâm tính sự sống? Các ngươi đã thoát khỏi quan điểm sai lầm đối với lối vào sự sống và bắt đầu có lối vào sự sống hay chưa? Các ngươi có thể đánh giá được bản thân đã thay đổi về phương diện nào, chưa thay đổi ở phương diện nào hay không? Nếu bảo ngươi làm một bổn phận, ban đầu ngươi không thuận phục thì giờ đây có thể thuận phục mấy phần? Ví dụ, ngươi là đàn ông, nếu bảo ngươi nấu ăn, rửa chén mỗi ngày cho anh chị em, ngươi có thể thuận phục không? (Thưa, hẳn là có thể.) Trong thời gian ngắn, có lẽ ngươi sẽ có thể thuận phục, nhưng nếu bắt ngươi làm bổn phận này thời gian dài, liệu ngươi có thể thuận phục hay không? (Thưa, nếu là thỉnh thoảng thì con vẫn có thể thuận phục, nhưng về lâu dài thì có thể con sẽ không thuận phục được.) Đó chính là không thuận phục. Vậy do đâu mà không thuận phục? (Thưa, bởi vì trong lòng con người có quan niệm truyền thống, cho rằng đàn ông lo chuyện bên ngoài, đàn bà lo chuyện trong nhà. Nấu ăn là chuyện của phụ nữ, đàn ông mà nấu ăn thì thật mất mặt, cho nên họ không dễ thuận phục.) Đúng vậy, trong việc phân công công việc cũng có phân biệt giới tính. Đàn ông thì cho rằng: “Đàn ông chúng tôi nên dốc sức làm việc ở bên ngoài, những công việc như nấu ăn, giặt giũ nên do phụ nữ làm, không nên để đàn ông chúng tôi làm”. Nhưng nếu bây giờ gặp phải hoàn cảnh đặc biệt, ngươi buộc phải làm, thì ngươi phải làm sao? Ngươi phải giải quyết những khó khăn nào mới có thể đạt đến sự thuận phục? Đó là mấu chốt của vấn đề. Ngươi phải phá vỡ sự phân biệt giới tính, không có việc gì phải là nam làm hay cũng không có việc gì phải là nữ làm. Trước tiên không nên phân công như vậy, không nên căn cứ vào giới tính để phân chia người nào làm bổn phận gì. Nếu sống ở nhà, ngươi có thể phân công như vậy, nhưng bây giờ liên quan đến bổn phận, ngươi nên lĩnh hội như thế nào? Ngươi nên tiếp nhận bổn phận này và đón nhận từ Đức Chúa Trời, rồi xoay chuyển quan điểm không đúng bên trong ngươi. Ngươi nên nói: “Tôi là đàn ông, không sai. Nhưng tôi là một thành viên trong hội thánh, đối với Đức Chúa Trời tôi là loài thọ tạo. Hội thánh sắp xếp cho tôi làm cái gì tôi sẽ làm cái đó, không phân biệt giới tính”. Trước hết ngươi phải buông bỏ quan điểm sai lầm, sau đó tiếp nhận bổn phận của mình. Tiếp nhận rồi thì có tính là thực sự thuận phục hay không? (Thưa, không tính.) Trong những ngày tiếp theo, nếu có người nói đồ ăn mặn hoặc nhạt, hoặc là họ nói món nào đó nấu không ngon, không muốn ăn, hoặc là họ yêu cầu nấu món gì mới, trong lòng ngươi có thể tiếp nhận được không? Khi đó trong lòng ngươi sẽ khó chịu, cảm thấy: “Mình là một thằng đàn ông, đã nấu ăn cho nhiều anh chị em như vậy, còn bị chỉ ra nhiều vấn đề, thật sự là không còn mặt mũi gì nữa”, lúc này có phải là ngươi sẽ không muốn thuận phục hay không? (Thưa, phải.) Vậy là có khó khăn rồi. Bất cứ khi nào không thể thuận phục nghĩa là có tâm tính bại hoại đang bộc lộ, đang quấy phá, khiến ngươi không thể thực hành lẽ thật, không thể thuận phục Đức Chúa Trời. Lúc này trong lòng ngươi sẽ có cuộc chiến, tư tưởng bản thân chi phối khiến ngươi cảm thấy mất mặt, trong lòng bức bối, lúc này ngươi nên làm gì? (Thưa, tìm kiếm lẽ thật.) Tìm kiếm lẽ thật như thế nào? Ngươi phải cầu nguyện và nói: “Lạy Đức Chúa Trời! Bất kể người khác yêu cầu thế nào, con đều coi đó là bổn phận của mình. Bất kể bề ngoài là phục vụ cho ai, làm việc cho ai, con đều đón nhận từ Ngài. Đây là bổn phận của con, con cần phải thuận phục, con không cần thể diện. Ở nhà Đức Chúa Trời, bổn phận không có cao quý hay thấp hèn, cũng không phân biệt nam hay nữ, già hay trẻ, chỉ có làm tốt và không tốt, chỉ có trung thành và không trung thành”. Sau khi ngươi buông bỏ thể diện, địa vị, thân phận, tôn nghiêm của mình thì có nghĩa là ngươi đã hoàn toàn buông bỏ sao? (Thưa, không phải vậy.) Ngươi vẫn sẽ có phản ứng. Có lúc có người không tôn trọng ngươi, cho rằng ngươi ngu ngốc, sẽ kỳ thị ngươi, họ nói: “Một người đàn ông như anh nấu cơm mà vẫn vui vẻ như vậy, thật không có tiền đồ! Nếu là tôi thì tôi sẽ không làm”, họ sẽ khiến ngươi lầm lạc, tiêm nhiễm cho ngươi một vài tư tưởng và quan niệm không đúng đắn, làm ảnh hưởng đến việc thực hành của ngươi. Họ coi những điều tích cực như lối vào sự sống, làm người bình thường, trung thành làm bổn phận mà ngươi chú trọng là một loại sỉ nhục, cho nên họ kỳ thị ngươi, xét đoán ngươi. Nếu không chịu đựng nổi, ngươi sẽ lập tức rơi vào tiêu cực, cảm thấy việc làm bổn phận này luôn khiến ngươi mất mặt xấu hổ, luôn bị kỳ thị, bị người ta sai khiến. Có phải ngươi lại không thể thuận phục rồi không? Nếu như không có ai kỳ thị ngươi, xét đoán ngươi, thì ngươi vẫn cho rằng mình có thể thuận phục, có lối vào sự sống, có chút thực tế lẽ thật, có chút vóc giạc, nghĩ như thế có đúng không? Vậy tại sao khi có người xét đoán ngươi, khi vóc giạc của ngươi bị thách thức, thì ngươi liền tiêu cực, nghĩ thầm: “Việc nấu ăn này phải làm đến khi nào mới xong? Người này luôn coi thường mình, hắn coi thường mình là không đúng, mình không chấp nhận được!”. Thế là lại phiền phức rồi. Trong khi ngươi không chấp nhận được, liệu ngươi có oán trách hay không? Nói rằng: “Sao lãnh đạo lại sắp xếp bổn phận như vậy cho mình chứ? Sao lại không chọn người khác mà cứ một mực chọn trúng mình? Họ thấy mình dễ ức hiếp lắm sao? Người khác cũng ức hiếp mình, lãnh đạo cũng xem thường mình, Đức Chúa Trời cũng không bảo vệ mình”. Tâm tính phản nghịch lại xuất hiện. Vấn đề ở đây là gì? Có phải vóc giạc của ngươi quá nhỏ bé hay không? Ngay cả chút đả kích này đã không chịu nổi, còn có thể tiêu cực, oán trách, như vậy liệu ngươi có thực tế lẽ thật không? Ngươi không có chút thực tế lẽ thật nào. Ở đây Ta có một biện pháp đơn giản nhất để giải quyết vấn đề này, đó là trong lòng ngươi phải nghĩ như thế này: “Bất kể ai coi thường mình, coi khinh mình, mình cũng phải thực hiện bổn phận của mình, không được vứt bỏ sự uỷ thác của Đức Chúa Trời. Mình không phải làm vì người khác, cũng không phải để người khác coi trọng mình. Người khác coi trọng thì có ích lợi gì? Mình phải làm tốt bổn phận để làm hài lòng Đức Chúa Trời”. Trong lòng ngươi phải nghĩ như vậy, lúc này khi nấu ăn có phải ngươi sẽ có được sự tự tin rồi hay không? Như vậy vấn đề đã được giải quyết chưa? Thực ra cũng chưa được giải quyết triệt để. Cuối cùng, ngươi ở trong tình trạng giao tranh liên tục, liên tục vấp ngã trong yếu đuối và tiêu cực rồi lại đứng dậy, ngươi cũng không ngừng được tôi luyện, cũng kiểm điểm được hết các loại tình trạng của mình. Chính ngươi cũng không sẵn lòng sống mệt mỏi như vậy, ngươi không hy vọng những khó khăn này quấn lấy ngươi, quấy nhiễu, kìm kẹp ngươi, ngươi sẵn lòng làm tốt bổn phận một cách đơn giản, thoải mái là được. Vậy làm thế nào để đạt đến điều này? Ngươi phải không ngừng tìm kiếm lẽ thật, không ngừng kiên định niềm tin của mình, rằng thực hành theo lời Đức Chúa Trời thì luôn đúng. Ngươi sẽ nói rằng: “Không ai được quấy nhiễu tôi. Đây là bổn phận của tôi, đây là sự ủy thác mà Đức Chúa Trời giao cho tôi, đây là trách nhiệm và nghĩa vụ của tôi. Bất kể ai cười nhạo tôi, khiêu khích tôi hoặc thử thách tôi đều vô ích. Tôi có thể làm được bổn phận của mình, đây là vinh hạnh của tôi. Nếu tôi có thể gánh vác được thì mọi vinh hiển đều quy về Đức Chúa Trời. Nếu tôi không gánh vác được, thì đó là nỗi nhục của tôi. Ai cười tôi, ai coi thường bổn phận như vậy thì người đó không phải là người mưu cầu lẽ thật”. Đây có phải là sự thật hay không? (Thưa, phải.) Đây chính là sự thật. Khi Sa-tan quấy nhiễu và thử thách Gióp trong lúc ông đang trải nghiệm sự thử luyện, ông có nghi hoặc gì không? (Thưa, không có.) Vì trong lòng ông có lẽ thật, có lời Ðức Chúa Trời, và có con đường của Ngài. Khi gặp phải hoàn cảnh, gặp phải sự thử luyện, việc ngươi có thể giữ vững lẽ thật, giữ vững sự uỷ thác mà Đức Chúa Trời giao cho ngươi hay không thì phải xem mức độ nhận biết, mức độ lĩnh hội, mức độ tiếp nhận lẽ thật của ngươi như thế nào. Có những người luôn nghi hoặc lẽ thật, không hạ quyết tâm, hoặc là đối với bổn phận của mình, họ luôn không xác định được có nên làm như vậy hay không, làm như vậy rốt cuộc có đúng hay không. Dù là việc đúng thì họ cũng không thể kiên trì, họ luôn bị những con người, sự việc, sự vật quấy nhiễu, những người xấu, kẻ ác, ma quỷ và Sa-tan luôn nói những lời cám dỗ, quấy nhiễu trước mặt họ, thế là họ yếu đuối, bị mê hoặc. Đây có phải là người có vóc giạc nhỏ bé hay không? (Thưa, phải.) Vóc giạc nhỏ bé thì có dễ giải quyết không? Trên lý thuyết thì dễ giải quyết, phải xem ngươi có thể nhận định được con đường ngươi đi là do Đức Chúa Trời dẫn dắt hay không. Khi thực hiện bổn phận thì điều nên thực hành là lẽ thật, là tiếp nhận sự uỷ thác của Đức Chúa Trời, đây là mấu chốt. Chỉ sợ trong lòng ngươi có thành kiến đối với mọi bổn phận mà ngươi làm, cảm thấy bổn phận mà mình làm sẽ làm mình mất mặt không có tiền đồ. Bản thân ngươi đã có thành kiến, người khác lại đến quấy nhiễu, vậy thì càng phiền phức. Tâm tư hỗn loạn thì ngươi sẽ không làm tốt bổn phận. Khi Gióp gặp phải sự thử luyện, có nhiều kẻ quấy nhiễu xung quanh ông, vợ ông đã nói câu gì? (Thưa, đó là “Hãy phỉ báng Ðức Chúa Trời, và chết đi” (Gióp 2:9).) Có nghĩa là “Ông đừng tin nữa, nếu người ông tin thực sự là Đức Chúa Trời, thì sao lại vẫn gặp phải chuyện này?”. Gióp đã nói gì? (Thưa, ông nói “Ngươi nói như một người đàn bà ngu muội” (Gióp 2:10).) Gióp lên án vợ mình, vì ông đã tin chắc rằng Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời thật, và Ngài đã làm như vậy, đó là sự tể trị của Đức Chúa Trời, là việc do tay Ngài làm. Gióp có thể tin chắc như vậy, cớ sao con người ngày nay sau khi hiểu rõ lẽ thật rồi vẫn không thể giữ vững lẽ thật và đứng vững làm chứng? Chính là bởi vì trong lòng con người quá uế tạp, không những họ không hiểu rõ lẽ thật, mà còn không phải là người yêu thích lẽ thật, tìm kiếm lẽ thật. Cho nên, bất kể con người có thể nói bao nhiêu câu chữ và đạo lý, hô bao nhiêu khẩu hiệu vang dội, thì cuối cùng họ vẫn không đứng vững được. Khi có chút tiếng nói bất đồng trong hội thánh, có người nói vài lời quấy nhiễu, lời mê hoặc con người, hoặc lời lên án, làm nhục, thì họ sẽ cảm thấy bị chế nhạo, bị sỉ nhục, và hoàn toàn sụp đổ. Nếu con người có được những biểu hiện này, không ngừng đấu tranh bên trong, không ngừng xoay chuyển quan điểm, đồng thời cũng không ngừng tiếp nhận sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời, không ngừng hiểu rõ lẽ thật, từng bước bước vào lẽ thật ở mức độ khác nhau, bước vào lẽ thật của mọi sự, cuối cùng có thể đạt đến mức không bị các loại con người, sự vật, sự việc quấy nhiễu, ảnh hưởng và khống chế, tin chắc nguyên tắc lẽ thật mà mình thực hành là đúng đắn, thì như vậy là tâm tính họ có sự thay đổi.

Hiện tại, khi thực hiện bổn phận, có phải các ngươi vẫn có thể chịu sự kìm kẹp của đủ loại con người, sự việc, sự vật hay không? Các ngươi có thể đạt đến việc giữ vững lẽ thật và làm việc theo nguyên tắc hay không? (Thưa, không thể.) Vậy các ngươi thường gặp khó khăn ở khía cạnh nào? (Thưa, có lúc thấy người khác làm việc tổn hại đến lợi ích nhà Đức Chúa Trời, con sẽ chỉ ra, nhưng khi thấy đối phương không tiếp nhận hoặc có thái độ không tốt, vì lo lắng sẽ gây ra tranh cãi, nên lúc đó con sẽ thỏa hiệp.) Vậy thỏa hiệp là đúng hay sai? (Thưa, không đúng. Nhưng con sợ nếu cứ kiên quyết thì sẽ xảy ra tranh cãi làm tổn hại hòa khí, khiến người khác có ấn tượng không tốt với mình.) Nếu ngươi muốn tránh các cuộc tranh cãi, liệu thỏa hiệp có phải là cách duy nhất không? Ngươi có thể thỏa hiệp trong những tình huống nào? Nếu nó liên quan đến những vấn đề nhỏ, chẳng hạn như thể diện hoặc lợi ích của ngươi, thì không cần phải tranh cãi về điều đó. Ngươi có thể chọn cách nhẫn nhịn hay thỏa hiệp. Nhưng đối với những vấn đề có thể ảnh hưởng đến công việc của hội thánh và làm tổn hại đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, ngươi phải bám sát các nguyên tắc. Nếu ngươi không tuân theo nguyên tắc này, thì ngươi không trung thành với Đức Chúa Trời. Nếu ngươi chọn cách thỏa hiệp và từ bỏ các nguyên tắc lẽ thật để giữ thể diện hoặc giữ gìn mối quan hệ giữa người với người của mình, thì chẳng phải ngươi ích kỷ và đê tiện sao? Chẳng phải đó là dấu hiệu của việc thiếu trách nhiệm trong bổn phận và không trung thành với Đức Chúa Trời sao? (Thưa, phải.) Vậy, trong quá trình làm bổn phận, gặp phải lúc mọi người bất đồng ý kiến thì ngươi nên thực hành như thế nào? Việc tranh cãi hết sức bình sinh có giải quyết được vấn đề không? (Thưa, không.) Vậy thì ngươi nên giải quyết vấn đề như thế nào? Trong tình huống này, một người hiểu lẽ thật nên đứng ra giải quyết vấn đề, trước tiên hãy đem vấn đề ra và để cả hai bên nói ra ý kiến ​​của mình. Sau đó, mọi người cùng nhau tìm kiếm lẽ thật, và sau khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, những lẽ thật liên quan trong lời Đức Chúa Trời sẽ được đưa ra để thông công. Sau khi đã thông công về các nguyên tắc lẽ thật và đạt được sự rõ ràng, cả hai bên sẽ có thể thuận phục. Ai cũng phải học cách thuận phục lẽ thật. Nếu đa số mọi người đều có thể thuận phục lẽ thật nhưng có một người không thuận phục lẽ thật hoặc không biết lý lẽ thì đây chính là người không tiếp nhận lẽ thật và có tính chất của kẻ ác, dân được Đức Chúa Trời chọn sẽ dễ dàng phân định được họ. Đây là cách tốt nhất để giải quyết vấn đề tranh chấp trong hội thánh. Giải quyết vấn đề bằng lẽ thật, đó là nguyên tắc quan trọng, không thể thỏa hiệp một cách vô nguyên tắc. Nếu để duy trì mối quan hệ cá nhân, bảo vệ thể diện và lợi ích của mình mà có thể phải trả giá bằng việc hy sinh lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, thì như vậy là thỏa hiệp với Sa-tan, là không có nguyên tắc và không trung thành với Đức Chúa Trời. Nếu như ai cũng đấu tranh cho thể diện của mình, và nhấn mạnh lý do của riêng mình thì đây có phải là thái độ tìm kiếm lẽ thật hay không? Đây có phải là thái độ nên có khi thực hiện bổn phận hay không? (Thưa, không phải.) Muốn đạt đến việc có lòng trung thành khi thực hiện bổn phận thì đừng ai tranh danh đoạt lợi, nên để cho Đức Chúa Trời nắm quyền, để lẽ thật làm chủ, lợi ích của nhà Đức Chúa Trời là trên hết, hiệu quả công tác là trên hết. Nguyên tắc này có đúng hay không? (Thưa, đúng.) Nếu các ngươi đều có thể bám lấy nguyên tắc này thì giữa người với người còn tranh chấp gì nữa không? Sẽ không còn tranh chấp nữa. Những người luôn bảo vệ lợi ích cá nhân, không hề thực hành lẽ thật thì không phải là người tốt gì cả, luôn bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời để lấy lòng người khác, lại càng không phải là người tốt. Những người này đều là kẻ chẳng tin, đều là người phản bội Đức Chúa Trời. Các ngươi nói xem, nếu một người xung đột và tranh luận với những người khác để bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và hiệu quả công việc của hội thánh, và thái độ của họ có chút cứng rắn, các ngươi có cho rằng đó là một vấn đề không? (Thưa, không.) Bởi vì ý định của họ là đúng; đó là để bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Đây là một người đứng về phía Đức Chúa Trời và tuân theo các nguyên tắc, một người mà Đức Chúa Trời vui thích. Có thái độ kiên quyết, mạnh mẽ khi bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời là biểu hiện của một lập trường vững vàng và bám sát các nguyên tắc lẽ thật, và Đức Chúa Trời khen ngợi điều đó. Người ta có thể cảm thấy có vấn đề với thái độ này, nhưng đó không phải là vấn đề lớn; nó không liên quan đến việc bộc lộ tâm tính bại hoại. Hãy nhớ rằng, việc bám lấy các nguyên tắc lẽ thật mới là điều quan trọng nhất.

Lối vào sự sống là chuyện quan trọng nhất, vậy lối vào sự sống chủ yếu có liên quan đến điều gì? (Thưa, đến việc mưu cầu lẽ thật.) Đúng vậy, chủ yếu có liên quan đến việc mưu cầu lẽ thật. Chỉ có người mưu cầu lẽ thật mới có lối vào sự sống, muốn có lối vào sự sống thì liên quan đến việc thực hành lẽ thật. Nên phân định như thế nào để biết người nào đó có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không? Loại người nào không phải là người mưu cầu lẽ thật, các ngươi có biết hay không? Loại thứ nhất mà Ta nói đến là người không có hiểu biết thuộc linh. Người không có hiểu biết thuộc linh thì thực chất họ là thế nào? (Thưa, khi đọc lời Đức Chúa Trời vạch rõ tâm tính bại hoại của con người thì họ cũng không liên hệ được với tình trạng, biểu hiện của bản thân, cảm thấy lời Đức Chúa Trời đang nói về người khác.) Chủ yếu là họ không đối chiếu được với lời Đức Chúa Trời. Vậy chính họ có biết hay không? (Thưa, không biết.) Người không có hiểu biết thuộc linh không nhận biết được những điều này, trong lòng họ vẫn rất đắc ý, cảm thấy rằng mình hiểu rất nhiều lời Đức Chúa Trời. Thực ra đối với họ, mỗi một câu đều là quy định. Họ cảm thấy: “Đức Chúa Trời bảo tôi làm cái gì thì tôi sẽ làm cái đó, bảo tôi vứt bỏ thì tôi sẽ vứt bỏ, bảo tôi dâng mình thì tôi cũng sẽ dâng mình, tôi thuận phục như vậy thì Ngài sẽ cứu rỗi tôi”. Họ đã tin như vậy trong một vài năm và cảm thấy đã có chút vốn liếng, như Phao-lô đã nói: “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin: Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta” (2 Ti-mô-thê 4:7-8). Nói đi nói lại thì Phao-lô vẫn là một người không có hiểu biết thuộc linh, thật quá đáng thương. Bản thân không có hiểu biết thuộc linh đã rất phiền phức rồi, lại còn không mưu cầu lẽ thật, ông coi tất cả những đạo lý, khẩu hiệu, tưởng tượng, quan niệm, tri thức, triết lý mà mình biết là lẽ thật, và đã tiến hành việc mưu cầu của mình trên cơ sở này. Kết quả là ông làm kiểu gì cũng không sống thể hiện ra được thực tế lẽ thật, làm kiểu gì cũng không đạt đến tâm ý của Đức Chúa Trời, vấn đề này của ông rất nghiêm trọng! Trong số những người không có hiểu biết thuộc linh, Phao-lô là nhân vật số một, phải không? (Thưa, phải.) Những người không có hiểu biết thuộc linh có yêu thích lẽ thật không? Chắc chắn là không. Bởi vì người không có hiểu biết thuộc linh thì không với tới lẽ thật, không với tới lẽ thật thì miễn nói đến chuyện yêu thích lẽ thật. Những người không có hiểu biết thuộc linh có biểu hiện như thế nào? Biểu hiện chủ yếu chính là, thông công lời Đức Chúa Trời như thế nào họ cũng không hiểu, thông công lẽ thật rõ ràng đến đâu họ cũng không với tới, điều này có quan hệ trực tiếp với việc có tố chất quá kém. Người không có hiểu biết thuộc linh có thể mưu cầu lẽ thật không? Dù họ có muốn mưu cầu thì cũng không làm được. Người không có hiểu biết thuộc linh thì nghe mà không hiểu lời Đức Chúa Trời nói gì, không biết tình trạng mà Đức Chúa Trời vạch rõ là gì, không đối chiếu được với chính mình. Họ đối xử với mọi lời Đức Chúa Trời như quy định, câu chữ, khẩu hiệu, đạo lý. Từ đầu đến cuối, họ không biết rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật. Đây là vấn đề gì? Đây là vấn đề tố chất quá kém, không hề có chút năng lực lĩnh hội nào, cũng là biểu hiện của việc không có hiểu biết thuộc linh.

Loại thứ hai là những người có hiểu biết thuộc linh. Người có hiểu biết thuộc linh thì có thể hiểu rõ lẽ thật, khi ăn uống lời Đức Chúa Trời thì có thể đối chiếu với bản thân, hiểu được những thứ được vạch rõ trong lời Đức Chúa Trời là gì, lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời là gì, yêu cầu của Ngài là gì. Có thể hiểu được liệu có đồng nghĩa với việc có lối vào hay không? (Thưa, không.) Vậy chữ “có thể hiểu” này của họ là chỉ điều gì? Là nhắm vào điều gì? (Thưa, là có thể đối chiếu.) Một mặt là có thể đối chiếu, thừa nhận tâm tính bại hoại và các loại tình trạng của con người mà Đức Chúa Trời đã vạch rõ, vậy họ có thể biết được yêu cầu của Đức Chúa Trời là gì không? Họ hẳn là biết ở một mức độ nào đó, biết yêu cầu của Đức Chúa Trời, biết nguyên tắc đã nói trong lời Đức Chúa Trời và biết tâm ý của Ngài là gì. Những điều này họ đều rõ, đều hiểu, cho nên mới gọi là có hiểu biết thuộc linh. Khi ăn uống lời Đức Chúa Trời, người có hiểu biết thuộc linh có thể đối chiếu với bản thân, có thể nghe và hiểu rằng lời Đức Chúa Trời nói đến điều gì, yêu cầu của Ngài là gì. Điều này chứng tỏ loại người này có tố chất và năng lực lĩnh hội lẽ thật. Vậy người có tố chất và năng lực này có phải nhất định sẽ có lối vào sự sống hay không? (Thưa, không phải.) Chuyện này phải phân thành vài trường hợp. Có người có thể hiểu lời Đức Chúa Trời, có tố chất và năng lực lĩnh hội lời Đức Chúa Trời, nhưng chưa bao giờ đối chiếu với bản thân. Họ chỉ đối chiếu với người khác, tìm tật xấu, nắm điểm yếu, moi móc tình trạng, dò xét tâm tư của người khác. Họ giống như một cái máy thăm dò, rảnh rỗi thì họ sẽ ngẫm nghĩ về tâm tư người khác, thăm dò trong lòng người khác nghĩ gì, có tâm tư ý niệm, ý định, dụng ý gì, có động cơ, nguyện vọng gì, khi làm việc thì bộc lộ những tâm tính bại hoại nào. Mục đích của họ khi thăm dò những thứ này là gì? Là muốn đối chiếu lời Đức Chúa Trời với người khác, sau đó giải quyết vấn đề cho họ. Ví dụ, hoàn cảnh cuộc sống, bối cảnh gia đình của anh A là gì, anh ta tin Đức Chúa Trời mấy năm, bình thường có những vấn đề gì, có những yếu đuối nào trong việc mưu cầu sự thay đổi tâm tính, khi gặp chuyện thì anh ta thường có những khó khăn nào, trong tình huống nào thì dễ tiêu cực, thực hiện bổn phận như thế nào, anh ta đối đãi với lời Đức Chúa Trời ra sao, đời sống thuộc linh có bình thường không, tất cả những thứ này họ đều nắm rất rõ. Họ rất thông minh lanh lợi, đáng tiếc là không dùng đúng chỗ, họ giải quyết vấn đề cho người khác nhưng chính mình lại không thực hành lẽ thật. Loại người này thường là lãnh đạo, người làm công hoặc người đảm đương chút trách nhiệm. Cách mưu cầu của loại người này rốt cuộc có vấn đề hay không? (Thưa, có.) Cách mưu cầu này có vấn đề, hơn nữa còn là vấn đề rất nghiêm trọng. Nghiêm trọng tới mức nào? Chúng ta cần thông công một chút về chuyện này. Loại người này có hiểu biết thuộc linh, có thể hiểu được lời Đức Chúa Trời, còn biết đối chiếu, nhưng họ chưa bao giờ đối chiếu với bản thân, mà là đối chiếu với người khác. Khi đối chiếu với người khác, mục đích của họ là vì điều gì? (Thưa, là để thể hiện bản thân.) Đúng vậy, thể hiện bản thân để thỏa mãn dã tâm và dục vọng của họ, để địa vị vững chắc hơn, có thể lung lạc lòng người hơn. Họ có thể làm như vậy, điều này có liên quan đến bản tính của họ, liên quan trực tiếp đến những gì họ mưu cầu khi tin Đức Chúa Trời. Nếu như nhìn vào chuyện họ làm việc tận tâm và làm hết phận sự, có thể nắm được các loại tình trạng của người khác rất tốt, liệu có thể nói rằng họ là người mưu cầu lẽ thật hay không? Chưa chắc. Vậy làm thế nào để biết một người có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không? Nếu họ vô cùng có trách nhiệm, rất để tâm, rất nỗ lực đối với lối vào sự sống của anh chị em, làm việc cũng rất tốt, thường tìm kiếm lẽ thật nhắm vào các tình trạng của anh chị em, sau đó giải quyết hết những vấn đề này, họ có thể thực hiện bổn phận như vậy thì có phải là một người lãnh đạo đạt tiêu chuẩn hay không? Xét từ những biểu hiện, bộc lộ này của họ thì có thể xác định họ chính là người mưu cầu lẽ thật hay không? (Thưa, chưa chắc.) Tại sao? (Thưa, họ có thể giải quyết vấn đề của người khác, nhưng họ không bao giờ đối chiếu với bản thân.) Họ không bao giờ giải quyết vấn đề của bản thân, vậy làm sao họ có thể giải quyết vấn đề của người khác? (Thưa, họ dùng câu chữ và đạo lý để giải quyết.) Họ hiểu được chút câu chữ và đạo lý, có chút khôn vặt, trí nhớ lại tốt, phản ứng lại nhanh, sau khi nghe giảng xong lập tức có thể đến chỗ người khác để mà khoe khoang. Nhìn từ chuyện này thì họ có lối vào hay không? (Thưa, không có.) Họ giải quyết khó khăn của người khác nhưng không bao giờ giải quyết khó khăn của mình, đó không phải là biểu hiện của việc mưu cầu lẽ thật. Họ chỉ dùng đạo lý, dùng lời Đức Chúa Trời hoặc là dùng các loại thủ đoạn, phương thức để khuyên giải hoặc là thuyết phục người khác. Họ dùng câu chữ và đạo lý mà mình hiểu được hoặc là bắt chước, học theo những lời nói về trải nghiệm sự sống để giúp người ta thoát khỏi khốn cảnh, dùng những phương thức này giải quyết khó khăn của người khác, thay vì dùng thể nghiệm và trải nghiệm thực sự của mình để giải quyết. Điều này có thể chứng minh người này không phải là người mưu cầu lẽ thật. Thứ mà họ cung ứng cho người khác là gì? (Thưa, là đạo lý.) Tại sao lại nói là đạo lý? Là vì không phải do chính họ trải nghiệm, không phải do chính họ thể nghiệm thực tế, cũng không phải là nhận thức thực sự của họ. Rốt cuộc những thứ họ chăm tưới cho người khác là gì? Là đạo lý, câu chữ, là lời khuyên giải, an ủi con người. Họ còn dùng phương pháp, thủ đoạn hoặc là sự khôn vặt của con người. Dù sao đi nữa, chỉ cần đáp đúng được câu hỏi của người khác thì họ sẽ cho rằng đây chính là giải quyết vấn đề và làm công tác. Xét từ biểu hiện của họ, từ mọi thứ họ cung ứng cho người khác, từ phương thức họ làm việc và cả con đường mưu cầu của họ thì người này có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không? (Thưa, không phải.) Họ không phải là người mưu cầu lẽ thật. Bản thân không có lối vào mà còn muốn dùng lẽ thật để giải quyết vấn đề, đây có phải là có chút lừa đời lấy tiếng hay không? (Thưa, phải.) Là lừa đời lấy tiếng, giả hình, lừa gạt người ta. Vậy những người này có thể đạt đến mức làm tốt bổn phận hay không? (Thưa, không thể.) Tại sao lại không thể? Bởi vì họ không mưu cầu lẽ thật, mà việc làm tốt bổn phận có quan hệ trực tiếp với việc hiểu rõ lẽ thật. Ví dụ, muốn chăm tưới cho hội thánh thì phải hiểu lẽ thật, muốn giải quyết vấn đề thì phải hiểu lẽ thật, xử lý vấn đề vẫn phải hiểu lẽ thật, phân định con người càng phải hiểu lẽ thật, thực hiện các khía cạnh công tác của hội thánh đều liên quan đến lẽ thật. Nếu không hiểu lẽ thật thì con người sẽ không thể làm tốt công tác mang tính thực chất của hội thánh, họ làm chút công tác mang tính sự vụ còn chật vật nữa là. Cho nên, nếu người làm lãnh đạo không mưu cầu lẽ thật, thì dù có bận rộn, bôn ba, chịu khổ thế nào thì cũng không làm tốt công tác được, cũng không thể đạt đến việc làm hết phận sự và hết trách nhiệm với bổn phận. Công tác mà họ làm chính là rảnh rỗi thì đi khắp nơi, xem nơi nào có vấn đề thì giải quyết một cách đơn giản, ai có khó khăn gì thì thông công một chút đạo lý, ai tiêu cực yếu đuối thì động viên khích lệ, chính là làm những việc này. Họ cho rằng nếu họ trông coi những người mà họ lãnh đạo, chỉ cần ai cũng đều bận rộn, không nhàn rỗi, nghĩa là họ đã làm tốt công tác. Họ cho rằng họ có thể đến các nơi kiểm tra, chỉ đạo làm việc, không ai tố cáo họ, vạch trần họ, đi tới đâu họ cũng có thể giảng đạo, nói chuyện, thuận lợi mọi bề không chút trở ngại, thì đó là làm tốt trách nhiệm và bổn phận. Đây là làm việc dựa trên địa vị, không phải dùng lẽ thật để giải quyết vấn đề một cách thực tế. Họ chú trọng công tác, cũng có thể khi họ chú trọng làm việc thì cũng không làm việc gì vì địa vị, chỉ là không ngừng dùng đạo lý và khẩu hiệu khuyên nhủ người ta cái này, khích lệ cái kia, không ngừng bận rộn. Họ cảm thấy chỉ cần mình không nhàn rỗi là được. Thứ nhất không được lười biếng, thứ hai phải chịu khó, thứ ba còn phải có thể chịu khổ. Họ bận rộn cả ngày, nơi nào có vấn đề nhanh chóng đến đó để giải quyết, phải chịu khó hỏi han xem có người nào đang gặp vấn đề không. Họ cho rằng làm như vậy chính là đang mưu cầu lẽ thật. Trên thực tế, có những biểu hiện này thì có nhất định là mưu cầu lẽ thật hay không? Có nhất định là có lối vào sự sống hay không? Đây vẫn là một dấu chấm hỏi. Đây là biểu hiện đầu tiên của người có hiểu biết thuộc linh nhưng không mưu cầu lẽ thật.

Loại biểu hiện thứ hai của người có hiểu biết thuộc linh nhưng không mưu cầu lẽ thật chính là có thể hiểu lời của Đức Chúa Trời, có thể hiểu được mặt thực tế mà lời Đức Chúa Trời đã phán, có thể đối chiếu với bản thân, nhưng bản thân lại chưa bao giờ thực hành. Loại người này không căn cứ vào lời Đức Chúa Trời khi làm việc, không làm theo nguyên tắc lẽ thật, cũng không ràng buộc bản thân. Đến khi có chuyện thì chỉ muốn bắt người ta thuận phục họ, nghe lời họ, nhưng chính họ lại không muốn thuận phục lẽ thật. Họ coi việc thực hành lẽ thật, thuận phục lẽ thật là trách nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận của người khác, là việc người khác nên làm, còn mình thì lại trở thành người ngoài cuộc. Bất luận hiểu được bao nhiêu, có thể đối chiếu bao nhiêu, họ đều cho rằng lời Đức Chúa Trời là nói về người khác, không liên quan đến mình. Vậy họ đã làm gì? Họ cũng rất bận rộn, họ đến hội thánh xem ai có ý kiến với mình thì họ ghi nhớ, sau đó vắt hết óc nghĩ cách “giải quyết”. Họ nói: “Chúng ta cởi mở và thông công một chút, trong lòng anh nghĩ gì, có quan điểm, ý kiến gì với tôi thì anh cứ nói, tôi sẽ cố gắng sửa, cố gắng thay đổi”. Mục đích thay đổi của họ là gì? Là khiến người khác có cảm tình đối với họ. Ngoài ra, hễ thấy ai có ý kiến với mình hoặc không phục mình thì họ sẽ tìm một đoạn lời Đức Chúa Trời có liên quan để “giải quyết”. Họ nói: “Việc tuyển chọn lãnh đạo và người làm công của nhà Đức Chúa Trời đều do Đức Chúa Trời làm chủ. Trong nhà Đức Chúa Trời thì lẽ thật nắm quyền, anh chị em chọn ai làm lãnh đạo thì đó chính là ý của Đức Chúa Trời, anh chị em nên thuận phục. Không phải anh chị em thuận phục con người tôi, mà là thuận phục sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, thuận phục lẽ thật. Nếu anh chị em không thuận phục thì sẽ bị trừng phạt!”. Sau khi nghe họ nói như vậy, có những người biết rằng họ đang hiểu sai lời Đức Chúa Trời, đang bóp méo sự thật và mê hoặc người khác nên không nghe lời họ nữa. Họ thấy những người này có vẻ như không phục mình lắm, nghĩ thầm: “Anh không phục tôi sao? Tôi vẫn còn cách khác để tỉa sửa anh, phải cho anh biết một chút lợi hại”. Họ nói với người không phục họ rằng: “Việc tôi giao, anh đã làm xong chưa?”. Người ta nói: “Còn chút nữa sẽ xong, sẽ không gây đình trệ gì đâu”. Họ liền nói: “Thiếu chút nữa mà lại nói là không gây đình trệ à? Thiếu chút nữa đối với Đức Chúa Trời là thiếu rất nhiều, anh chính là có biểu hiện không trung thành. Anh làm bổn phận kiểu gì vậy?”. Kỳ thực, chuyện họ muốn nói chính là chuyện này sao? Mục đích trong lòng họ là gì? Họ muốn chế ngự, đánh bại đối phương, trị cho đối phương biết ngoan ngoãn. Nhưng họ không thể nói rõ ra, nếu như nói rõ ràng, anh chị em sẽ nhìn thấu, sẽ vạch trần họ. Thế là họ phải tìm một lý do đường hoàng, lấy cớ làm việc để “danh chính ngôn thuận” chèn ép, để khi chèn ép xong thì người khác cũng không nhìn ra được, còn làm cho người có liên quan phải chịu phục, còn phải đạt đến mục tiêu tạo chỗ đứng, củng cố địa vị cho mình. Đây là tâm tính gì? (Thưa, nham hiểm, xảo quyệt.) Họ nham hiểm, xảo quyệt, độc ác, làm việc vì địa vị. Đối với chuyện không liên quan đến địa vị thì họ sẽ mặc kệ, không hề để tâm, nhưng một khi liên quan đến địa vị, danh lợi, thể diện của họ, liên quan đến vị trí của họ trong hội thánh, thì họ sẽ không chịu buông tay, sẽ bắt đầu nghiêm túc. Bình thường khi thông công lẽ thật trong các buổi nhóm họp, thỉnh thoảng họ cũng nhận biết bản thân, cũng đối chiếu với lời Đức Chúa Trời, cũng vạch trần tâm tính bại hoại của mình, nhưng đó đều là có mục đích, có ý định, đều là muốn cho người ta coi trọng họ, ngưỡng mộ, sùng bái họ, khiến cho địa vị của họ được củng cố. Họ có dã tâm, có mục đích, nếu không phải vì địa vị thì một câu họ cũng không nói, không phải vì củng cố địa vị thì chuyện gì họ cũng không làm, mọi việc đều là vì địa vị. Họ có thể thịt nát xương tan vì địa vị, nhưng nếu là vì công tác hội thánh, thì dù có phát hiện vấn đề họ cũng không giải quyết, người khác phản ánh vấn đề họ cũng không xử lý, không động tay vào việc gì, thấy người khác bận rộn thực hiện bổn phận, họ cũng không làm gì. Đây là loại người gì? (Thưa, loại tiểu nhân đê tiện chỉ sống vì danh lợi và địa vị.) Nếu là người chỉ sống vì địa vị thì họ có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không? Họ có thể mưu cầu lẽ thật hay không? (Thưa, không thể.) Khó mà nói lắm. Nếu như có chút tri giác của lương tâm, có cảm giác xấu hổ, có tôn nghiêm, có nhân cách, trải nghiệm một vài hình phạt, sự phán xét, tỉa sửa hoặc là sự thử luyện, tinh luyện, có thể tiếp nhận lẽ thật, thì họ có thể quay đầu lại. Nhưng nếu tê dại u mê, cương ngạnh, không hề tiếp nhận lẽ thật thì dù họ hiểu nhiều hơn đi nữa liệu có ích gì không? (Thưa, vô ích.) Cho dù họ có hiểu nhiều hơn nữa thì những điều này cũng không lay động được tâm trí của họ. Cho dù bề ngoài họ có vẻ bận rộn như thế nào, họ dành bao nhiêu thời gian chạy đôn đáo ngoài đường, họ hy sinh, từ bỏ và dâng mình bao nhiêu, thì loại người chỉ nói và hành động vì lợi ích của địa vị có thể được coi là những người mưu cầu lẽ thật không? Tuyệt đối không. Vì địa vị, họ sẽ trả bất kỳ giá nào. Vì địa vị, họ sẽ chịu bất cứ sự gian khổ nào. Vì địa vị, họ sẽ không từ thủ đoạn nào, nắm thóp người ta, vu khống hãm hại, trừng trị người ta, chà đạp người ta. Họ thậm chí không sợ nguy cơ bị trừng phạt và báo ứng; họ hành động vì lợi ích của địa vị mà không hề nghĩ đến hậu quả. Những người như vậy mưu cầu điều gì? (Thưa, mưu cầu địa vị.) Điểm tương đồng với Phao-lô là ở đâu? (Thưa, mưu cầu mão triều thiên.) Họ mưu cầu mão triều thiên của sự công chính, họ mưu cầu địa vị và danh lợi, và coi việc mưu cầu địa vị và danh lợi là sự mưu cầu chính đáng, hơn là mưu cầu lẽ thật. Đặc điểm quan trọng nhất của những người như vậy là gì? Đó là ở mọi khía cạnh, họ đều hành động vì lợi ích của địa vị và danh lợi. Loại người làm việc vì danh lợi và địa vị này là biết cách mê hoặc con người nhất. Lúc ngươi mới tiếp xúc thì sẽ không nhìn thấu được họ, thấy họ giảng đạo lý thao thao bất tuyệt, nói chuyện có vẻ cũng có thực tế, sắp xếp công tác cũng rất thích hợp, có vẻ cũng có chút tố chất, thế là ngươi còn rất khâm phục họ. Loại người này cũng bằng lòng trả giá khi thực hiện bổn phận, cho dù phải làm việc cực khổ mỗi ngày thì họ cũng không than mệt, không hề tỏ vẻ mỏng manh, dù người khác có yếu đuối thì họ cũng không yếu đuối. Họ cũng không ham muốn sự an nhàn xác thịt, ăn cơm cũng không kén chọn. Khi chủ nhà nấu chút đồ ăn ngon, họ từ chối, không ăn, chỉ ăn chút cơm đạm bạc. Người như vậy ai nhìn thấy cũng khâm phục. Vậy làm sao có thể phân định họ là người làm việc vì địa vị đây? Đầu tiên phải xem họ có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không, nhìn vào đâu thì có thể thấy được điều này? (Thưa, nhìn từ ý định và xuất phát điểm làm việc của họ.) Một mặt là như vậy, chủ yếu là xem mục tiêu mưu cầu của họ là gì. Nếu như là để đạt được lẽ thật, họ sẽ chú trọng vào việc thường xuyên đọc lời Đức Chúa Trời, hiểu được lẽ thật và nhận biết bản thân từ trong lời Đức Chúa Trời. Nếu như thường xuyên thông công về việc nhận biết bản thân, có thể thấy mình thiếu sót quá nhiều, không có lẽ thật, thì tự nhiên họ sẽ mưu cầu hướng tới lẽ thật. Người càng nhận biết bản thân mới có thể càng mưu cầu lẽ thật. Những người luôn nói chuyện, làm việc vì địa vị thì rõ ràng không phải là mưu cầu lẽ thật. Họ không tiếp nhận khi bị tỉa sửa và rất sợ danh dự của mình bị tổn hại. Vậy họ có thể tiếp nhận những lời phán xét và hành phạt của Đức Chúa Trời để phản tỉnh bản thân không? Họ có thể có nhận thức thực sự về những sai lầm mà mình đã trải nghiệm không? Nếu như những biểu hiện này đều không có, vậy có thể chắc chắn rằng họ không phải là người mưu cầu lẽ thật. Các ngươi nói xem, những người không yêu thích lẽ thật mà lại mưu cầu địa vị thì còn có những biểu hiện nào nữa? (Thưa, người khác đưa ra ý kiến cho họ thì họ không tiếp nhận, còn giãi bày, biện bạch, nói lý do, nói chuyện để bảo vệ thể diện, địa vị của mình. Ai không ủng hộ họ thì họ sẽ đả kích, xét đoán người đó.) Đả kích, xét đoán người khác, nói chuyện, biện bạch vì danh dự, địa vị của mình, rõ ràng là mục đích và ý định đằng sau việc làm của họ là sai trái, họ hoàn toàn sống vì địa vị. Nói chuyện, làm việc đều là vì địa vị, người như vậy có thể quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời không? Họ có thể tiếp nhận lẽ thật không? Tuyệt đối không thể nào. Họ cho rằng, nếu quan tâm đến tâm ý của Đức Chúa Trời thì phải thực hành lẽ thật, mà muốn thực hành lẽ thật thì họ phải chịu khổ và trả giá, vậy thì mất đi sự hưởng thụ của địa vị, họ sẽ không có cách nào hưởng thụ lợi ích của địa vị, cho nên họ lựa chọn chỉ mưu cầu danh lợi địa vị, chỉ mưu cầu được ban thưởng là đủ rồi. Người mưu cầu địa vị còn có những biểu hiện gì? Còn có thể làm ra những chuyện gì? (Thưa, nếu như họ thấy bên cạnh họ có một vài nhân tài mưu cầu lẽ thật và đáng được bồi dưỡng, được các anh chị em tương đối ủng hộ, thì bởi vì sợ những người này sẽ đứng lên thay thế họ, đe doạ đến địa vị của họ, nên họ sẽ nghĩ cách áp chế những nhân tài này. Họ sẽ tìm đủ loại lý do, viện cớ để hạ thấp những người này. Cách thường thấy nhất là họ xác định tính chất những người này là quá kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, luôn kìm kẹp người ta. Họ khiến mọi người tin chuyện đó là thật, không để cho nhà Đức Chúa Trời đề bạt, đào tạo những nhân tài đó.) Đây là biểu hiện thường thấy nhất. Còn gì nữa không? (Thưa, họ luôn thích làm chứng cho mình, thể hiện bản thân, luôn kể về những chuyện vẻ vang chứ chưa bao giờ kể về mặt xấu xí của mình. Cho dù có làm chuyện gì xấu thì họ cũng không phản tỉnh, mổ xẻ bản thân.) Luôn nói mình chịu khổ như thế nào, trả giá như thế nào, Đức Chúa Trời đã dẫn dắt mình như thế nào, bày tỏ công lao của mình, đây cũng là một phần biểu hiện của việc bảo vệ, củng cố địa vị. Người mưu cầu địa vị, làm việc vì địa vị còn có một đặc điểm nổi bật nhất, đó là bất luận xảy ra chuyện gì thì họ đều phải có quyền định đoạt. Họ mưu cầu địa vị chính là để mình có quyền định đoạt, một mình quản hết, một mình nắm quyền. Bất kể trong chuyện gì thì mọi người cũng phải nghe theo họ, bất kể ai có vấn đề gì cũng đều phải tìm kiếm, xin chỉ thị với họ. Thứ họ muốn hưởng thụ chính là lợi ích của địa vị này. Cho dù xảy ra chuyện gì thì họ đều phải có quyền định đoạt, bất kể họ nói có đúng hay không. Cho dù không đúng thì họ cũng phải là người ra quyết định, còn muốn người khác nghe lời, thuận phục mình. Vấn đề này nghiêm trọng rồi. Bất kể chuyện gì thì họ đều phải có quyền định đoạt, bất kể chuyện họ hiểu hay không hiểu thì họ đều phải xen vào, cũng phải có quyền định đoạt, bất kể lãnh đạo và người làm công thông công về vấn đề gì, đều phải do họ đưa ra quyết sách, người khác sẽ không có cơ hội mở miệng. Bất kể họ đưa ra phương án gì thì đều bắt người ta tiếp nhận, người ta không tiếp nhận thì họ sẽ nổi giận, tỉa sửa. Nếu như ai có ý kiến, có quan điểm, cho dù đúng, cho dù phù hợp với lẽ thật, họ cũng phải tìm đủ mọi cách phản bác lại. Họ rất giỏi về ngụy biện, chỉ cần nói vài ba lời đã thuyết phục được người khác, cuối cùng mọi người còn phải làm theo họ. Chuyện gì họ cũng phải tự mình định đoạt, chưa bao giờ phối hợp hay thương lượng với đồng sự, cũng không thực hành quyền dân chủ. Điều này cũng đủ để chứng tỏ rằng họ quá kiêu ngạo và tự cho mình là đúng, không hề tiếp nhận lẽ thật và không thuận phục lẽ thật. Nếu như xảy ra chuyện lớn hoặc chuyện quan trọng nào đó mà có thể để cho mọi người đánh giá, tỏ thái độ, cuối cùng căn cứ vào ý kiến của đa số mọi người để xác định xem nên thực hành như thế nào, bảo đảm không có tổn hại đối với công tác của nhà Đức Chúa Trời, có lợi với công tác toàn cục, nếu như có loại thái độ này thì đây chính là người bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời, chính là người có thể tiếp nhận lẽ thật, bởi vì họ làm việc có nguyên tắc. Nhưng người mưu cầu địa vị có làm như vậy không? (Thưa, không.) Vậy họ sẽ làm gì? Khi xảy ra chuyện, bất kể người khác có ý kiến gì, trước khi người khác đưa ra ý kiến, trong lòng họ đã sớm có một phương án hoặc là một ý xác định rồi. Trong lòng họ đã xác định phải làm như vậy, lúc này dù người khác nói như thế nào họ cũng không coi ra gì, cho dù có người chỉ trích họ, họ cũng chẳng hề để ý. Họ không suy nghĩ nguyên tắc lẽ thật là gì. Công tác hội thánh có lợi ích hay không, anh chị em có thể tiếp nhận hay không, những điều này cũng không nằm trong phạm vi suy nghĩ của họ. Vậy họ suy nghĩ điều gì? Họ muốn có quyền định đoạt, người quyết định chuyện này phải là họ, việc này phải làm theo cách của họ, họ muốn xem việc này có lợi cho địa vị của họ hay không, họ căn cứ vào quan điểm này để nhìn nhận sự việc. Đây có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không? (Thưa, không phải.) Người không mưu cầu lẽ thật thì khi làm việc luôn suy nghĩ về địa vị và danh lợi của mình, luôn suy nghĩ về lợi ích của mình, đây là xuất phát điểm cho mọi việc làm của họ.

Có những người có hiểu biết thuộc linh nhưng không mưu cầu lẽ thật, và quả thực có những người như vậy. Về những biểu hiện chủ yếu của họ, loại đầu tiên chính là làm việc chỉ vì để làm việc, vô cùng thích làm, không chịu ngồi yên. Chỉ cần bận rộn làm việc thì họ sẽ vui vẻ, có cảm giác thành tựu, có cảm giác tồn tại. Loại biểu hiện thứ hai là làm việc vì địa vị. Họ có dã tâm và dục vọng vô cùng lớn, luôn muốn khống chế, làm lung lạc con người, luôn muốn thay thế Đức Chúa Trời. Việc muốn thay thế Đức Chúa Trời liên quan đến phương diện nào trong sự mưu cầu của Phao-lô? (Thưa, việc ông mưu cầu trở thành Đấng Christ.) Mục đích mưu cầu địa vị của họ không chỉ là để trở thành một người cao trọng, một người có địa vị, được mọi người sùng bái, mà mục đích cuối cùng họ muốn đạt được là có thể làm lung lạc và khống chế con người, khiến con người sùng bái họ, đối xử với họ như Đức Chúa Trời, khiến mọi người đều đi theo họ, thuận phục và tin vào họ. Ý nghĩa đằng sau việc này là gì? Là họ trở thành Đức Chúa Trời trong lòng con người. Đây không phải là mưu cầu lẽ thật, mà là mưu cầu Sa-tan. Mưu cầu địa vị rõ ràng không phải là mưu cầu lẽ thật. Mưu cầu làm việc, mưu cầu danh vọng cũng không phải là mưu cầu lẽ thật. Còn có biểu hiện gì nữa không? (Thưa, mưu cầu được phúc.) Đúng vậy, họ trả giá, dâng mình, chịu khổ và có thể từ bỏ lợi ích của mình trong mọi sự là để được phúc. Vì muốn được phúc, vì đích đến tốt đẹp nên họ mới có những biểu hiện này, đó cũng không phải là mưu cầu lẽ thật. Đây là biểu hiện thứ ba của những người có hiểu biết thuộc linh nhưng không mưu cầu lẽ thật. Cũng giống như Phao-lô, vì muốn được phúc, vì đích đến mà họ làm việc, chịu khổ, thậm chí phải trả bao nhiêu cái giá cũng không tiếc. Mục tiêu làm việc của họ rất rõ ràng, việc nào quan trọng nhất, then chốt nhất đối với chuyện được phúc thì họ sẽ tập trung làm việc đó, chỉ cần được anh chị em tán thành, ủng hộ là được. Họ chỉ chú trọng chuyện mọi người nghĩ gì về họ, Bề trên nghĩ gì về họ và trong lòng Đức Chúa Trời có họ hay không, chỉ cần có thể bảo đảm được phúc, được ban thưởng là được. Nhưng họ chưa bao giờ dùng lẽ thật để đánh giá những việc mình làm, cũng chưa bao giờ từ bỏ dục vọng được phúc, không thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời. Nếu như có chuyện nào làm không tốt, bị tỉa sửa, Bề trên không có cảm tình với họ, thì họ thấy việc được phúc không có hy vọng nữa, cũng có thể sẽ không có đích đến tốt đẹp, thế là họ tiêu cực, bất cần, không muốn làm bổn phận. Thậm chí có vài người dứt khoát không muốn tin nữa, cảm thấy việc tin Đức Chúa Trời không có ý nghĩa. Ba phương thức mưu cầu trên đều là con đường mà người không mưu cầu lẽ thật đi. Trong mỗi hội thánh đều có rất nhiều người như vậy, những người này đều là những người không yêu thích lẽ thật. Bất kể họ làm bổn phận gì đều phải liên quan đến lợi ích của mình, đến việc được phúc phần, được ban thưởng, chứ chẳng bao giờ liên quan đến lối vào sự sống, đến việc hiểu lẽ thật hay thay đổi tâm tính. Bất kể đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm hay đã làm bao nhiêu năm bổn phận, họ cũng chưa bao giờ mưu cầu sự biết mình, không mưu cầu lối vào sự sống, không mưu cầu lòng yêu kính Đức Chúa Trời hay thuận phục Ngài. Dù làm chuyện gì họ cũng không tìm kiếm lẽ thật, dù bộc lộ sự bại hoại nào họ cũng không đối chiếu với lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời. Dù làm chuyện gì, ý định của họ cũng đều ích kỷ và đê tiện, đều vì muốn được phúc và mưu lợi cho bản thân. Cho dù bị tỉa sửa như thế nào thì họ cũng không phản tỉnh bản thân, còn cảm thấy mình không sai. Loại người này rất ít khi tiêu cực, vì muốn được phúc và bước vào vương quốc, cho dù có chịu khổ bao nhiêu thì họ cũng không sợ. Họ đúng là có nghị lực, nhưng lại rất khó tiếp nhận lẽ thật, thà chết cũng không phản tỉnh và nhận biết bản thân, vẫn cảm thấy mình không sai. Người có hiểu biết thuộc linh nhưng không mưu cầu lẽ thật còn có một loại biểu hiện nữa. Đó là dù nghe giảng đạo rất nhiều, nhưng đối với mọi lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ và các loại tình trạng của con người được vạch rõ trong lời Đức Chúa Trời thì họ không có hứng thú, cho dù nghe hiểu thì họ cũng không có hứng thú. Nếu đã không có hứng thú, vì sao họ vẫn tin Đức Chúa Trời? Trong lòng họ chắc chắn có một loại ý nghĩ mơ hồ, không phù hợp với thực tế, họ nói rằng: “Đức Chúa Trời trên mặt đất có thể làm những gì thì tôi không biết và cũng nhìn không thấy. Có vẻ chủ yếu vẫn là việc có thể thông công về lẽ thật. Tôi nghe cũng chưa hiểu lắm về cái gọi là lẽ thật, nhưng dù sao nói những lời này cũng rất tốt, chúng khiến con người đi con đường đúng đắn. Nhưng rốt cuộc Ngài có phải Đức Chúa Trời hay không thì tôi nhìn không ra”. Họ có nghi ngờ lớn như vậy đối với Đức Chúa Trời, cớ sao còn muốn ở lại nhà Đức Chúa Trời mà không đi? Là vì trong lòng họ có một loại quan điểm và tưởng tượng mơ hồ, họ cảm thấy: “Nếu như cứ ở bừa tại chốn này, biết đâu đến cuối cùng mình có khả năng thoát chết, còn có thể vào thiên đường, đạt được phúc lớn”. Cho nên, khi người khác mưu cầu sự thay đổi tâm tính và tiếp nhận sự tỉa sửa, thì họ ở đó cầu nguyện vị Đức Chúa Trời trên trời, họ nói: “Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài dẫn dắt con vượt qua những cửa ải khó khăn này, cho con có thể tiếp nhận sự tỉa sửa. Con nguyện thuận phục sự sắp đặt và an bài của Ngài”. Ngươi thấy lời cầu nguyện của họ cũng không sai, nhưng họ từ đầu đến cuối không thừa nhận mình có tâm tính bại hoại hay có sai lầm. Trong lòng họ chỉ thừa nhận Đức Chúa Trời trên trời, còn đối với Đức Chúa Trời trên mặt đất – tức Đức Chúa Trời nhập thể, đối với lời phán xét của Đức Chúa Trời, thì họ đều mặc kệ, những điều này dường như đều không liên quan đến họ. Họ tin Đức Chúa Trời một cách đơn giản, trống rỗng như vậy. Khi người khác nói con người có tâm tính bại hoại, phải mưu cầu sự thay đổi tâm tính như thế nào, họ lại suy nghĩ: “Sao các anh lại bại hoại nhiều như vậy còn tôi thì không?”. Họ cho rằng mình chính là một người hoàn mỹ không có thiếu sót, không có tâm tính bại hoại. Những lúc có thành kiến, khinh thường người khác, thì họ cảm thấy bình thường, thấy đó chỉ là một ý nghĩ không tốt, chỉ cần biết kiềm chế một chút thì họ sẽ không còn tâm tính này nữa. Hoặc khi thấy người khác có sự phản nghịch đối với Đức Chúa Trời, họ sẽ cảm thấy: “Tôi chưa bao giờ phản nghịch Đức Chúa Trời, trong lòng tôi luôn yêu kính Đức Chúa Trời như vậy”, họ cũng chỉ biết nói mấy câu này, chứ không phản tỉnh bản thân, cũng không biết làm việc như thế nào để phù hợp với nguyên tắc. Người như vậy có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không? (Thưa, không phải.) Vậy tại sao họ vẫn cảm thấy mình rất tốt, tin Đức Chúa Trời như vậy là không tệ, chuyện này là thế nào? Chứng tỏ họ không yêu thích lẽ thật. Trong quan niệm của con người, loại người này là loại người gì? Có những biểu hiện nào? Biết ăn nói, thông minh lanh lợi, học hỏi nhanh, năng lực lý giải tốt. Ngươi vừa nói là họ biết ngay ngươi nói cái gì, họ hiểu đạo lý rất nhanh. Nhưng bất kể họ hiểu cái gì thì phương hướng và mục tiêu của việc mưu cầu được phúc của họ cũng không thay đổi. Ngoài ra, họ coi lẽ thật mà họ hiểu là một lý luận thần học, một loại giáo lý, một loại học thuyết. Họ không cho rằng đó là lẽ thật, cho nên họ cũng không thực hành, trải nghiệm, càng không vận dụng trong cuộc sống. Họ chỉ tiếp nhận những đạo lý mà họ thích và phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của họ, tiếp nhận rồi thì rao giảng cho mọi người, nghĩ rằng mình đã đạt được gì đó. Biết giảng đạo lý, khiến nhiều người khâm phục, đây chính là thu hoạch lớn nhất khi tin Đức Chúa Trời. Đối với việc họ có thực hành lẽ thật hay không, có nhận biết bản thân hay không, họ cảm thấy đều là chuyện nhỏ, không quan trọng. Theo họ, việc có thể nói đạo lý thuộc linh, có thể trả lời đúng các câu hỏi và khiến người ta khâm phục mới là quan trọng nhất, như vậy thì họ mới có tư cách hưởng thụ lợi ích của địa vị. Cho nên, họ sẽ không hề chú trọng thực hành lẽ thật, không phản tỉnh bản thân, chỉ cần mình biết giảng đạo cao siêu thì họ đã thấy thỏa mãn rồi. Vấn đề này khá nghiêm trọng, nghiêm trọng hơn nhiều so với người không có hiểu biết thuộc linh. Bởi vì họ biết rõ đây là lẽ thật nhưng lại không thực hành, không trải nghiệm. Đây là người chán ghét lẽ thật, đùa bỡn với lẽ thật. Vậy tính chất của vấn đề này có phải rất nghiêm trọng hay không?

Vậy bây giờ, các ngươi đã biết phân định những người có hiểu biết thuộc linh nhưng không mưu cầu lẽ thật hay chưa? Các ngươi có biểu hiện của loại người này hay không? (Thưa, có. Chủ yếu là trong chuyện con làm việc vì địa vị.) Nói chuyện vì địa vị, làm việc vì địa vị, tất cả đều xoay quanh địa vị, như thế là phiền phức rồi. Người như vậy còn có thể mưu cầu lẽ thật không? Đâu là biểu hiện của loại người làm việc vì địa vị? Chủ yếu là họ chú trọng đến thể diện, hình tượng, tôn nghiêm của mình, và cả địa vị của mình trong lòng mọi người. Bất kể làm chuyện gì thì họ đều chỉ chú trọng xem mọi người có coi trọng, sùng bái mình hay không, chứ chẳng bao giờ đề cao và làm chứng cho Đức Chúa Trời. Ví dụ như, khi nhìn thấy người mới tin, trong lòng người không mưu cầu lẽ thật sẽ nghĩ: “Anh mới tin Đức Chúa Trời vài năm, cái gì cũng không hiểu”, thế là họ liền coi thường người ta. Nếu đối phương muốn tìm kiếm lẽ thật, họ sẽ xem xem tướng mạo và cách nói chuyện của người đó như thế nào và liệu họ có thích người đó hay không. Nếu như tố chất của đối phương kém, họ sẽ không muốn thông công lẽ thật, nói vài câu khích lệ và coi như xong. Vấn đề ở đây là gì? (Thưa, họ cảm thấy mình tin Đức Chúa Trời nhiều năm, có vốn liếng, nên thể hiện mình là người có thâm niên.) Vốn liếng này chính là một loại biểu hiện của việc đứng ở địa vị của mình. Khi có vốn liếng thì họ thấy mình nên đứng ở địa vị mà nói chuyện. Địa vị này là họ tự phong, không ai cho họ địa vị này cả. Người làm việc và nói chuyện như vậy có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không? (Thưa, không phải.) Các ngươi có biểu hiện như vậy hay không? Các ngươi nói: “Tôi tin Đức Chúa Trời đã mười năm rồi, bắt tôi hợp tác làm việc với một người mới tin hai năm không phải là làm nhục tôi sao? Tôi cũng không muốn nói chuyện với họ, nói thêm một câu tôi cũng cảm thấy mệt mỏi, cái gì họ cũng không hiểu!”. Đây chính là người bị tâm tính kiêu ngạo chi phối. Nếu ngươi không có lòng ham địa vị, không phân biệt đối xử, không cảm thấy mình có vốn liếng thì liệu ngươi có thể đối xử với người khác như vậy không? Rõ ràng là bên trong ngươi có tâm tính bại hoại, cho nên cách đối đãi với con người mà ngươi biểu hiện ra không mang tính xây dựng cho người khác. Điều này làm bại lộ tâm tính bại hoại của ngươi, sự mưu cầu của ngươi và cả những thứ sâu thẳm trong nội tâm ngươi. Làm việc vì địa vị còn có một loại biểu hiện nữa. Ví dụ, có những người đã học một số kiến thức chuyên môn, hoặc tinh thông một nghiệp vụ, nhưng khi bàn về nghiệp vụ này mà có người khác nói trước họ, thì họ sẽ không vui, thầm nghĩ: “Sao các anh nói chuyện chẳng có lý trí chút nào vậy? Đúng là có mắt mà không nhìn thấy Thái Sơn!”. Họ nói: “Tôi học chuyên ngành này ở trường đại học và toàn nghiên cứu những thứ này. Khi đi làm, tôi lại làm công việc về mảng này trong vài năm. Sau khi tin Đức Chúa Trời, đã mười năm tôi không đụng đến nghiệp vụ này, nhưng dù nhắm mắt lại cũng có thể đọc thuộc lòng những điều này. Tôi đâu muốn nói ra những chuyện này, nói ra thì cứ như là tôi đang thể hiện bản thân mình vậy”. Lời này thế nào? Cách nói này là cách nói của phần tử trí thức ngoại đạo, họ nói những lời này dựa vào triết lý của Sa-tan, khiến mọi người thấy họ rất có tri thức và tán thành họ. Họ còn nói không muốn thể hiện bản thân, nhưng thực ra họ đang thể hiện, chỉ là họ dùng cách tinh vi hơn để thể hiện mà thôi. Họ nói ra thời gian mình học tập chuyên ngành mảng này, thu hoạch những vốn liếng này, dùng cách này truyền tải một thông điệp, nói cho người khác biết họ là chuyên gia. Chuyên gia của một lĩnh vực thì chắc chắn sẽ hiểu được lĩnh vực đó sao? Chuyên gia làm việc ở nhà Đức Chúa Trời thì nhất định phải áp dụng phương thức này sao? (Thưa, không phải như vậy.) Vậy nên làm như thế nào? (Thưa, phải tìm kiếm lẽ thật, trao đổi, tìm kiếm cùng với anh chị em.) Mọi người cùng tìm kiếm. Ngươi nói: “Tôi phải nói thật, tôi đã làm trong chuyên ngành này mấy năm, hiểu biết một chút về phương diện này, nhưng tôi không biết nguyên tắc công việc về phương diện này của nhà Đức Chúa Trời là gì, tôi không biết liệu những thứ mình đã học có thể áp dụng trong nhà Đức Chúa Trời không, chúng ta hãy trao đổi thử xem. Tôi sẽ nói cho các anh một chút kiến thức cơ bản về phương diện này”. Nói như vậy mới có lý tính, tuy rằng hiểu nghiệp vụ, nhưng khiêm tốn, không cao ngạo. Họ không phải giả vờ, mà là thật lòng muốn làm tốt việc này, đem những gì mình học được, hiểu được nói cho mọi người biết, không giữ lại chút gì. Họ làm như vậy hoàn toàn là vì muốn làm tốt bổn phận của mình, mặc kệ người khác nhìn nhận họ như thế nào, đối đãi với họ như thế nào. Họ thực hiện bổn phận hoàn toàn là để làm hài lòng Đức Chúa Trời, là để đạt được lẽ thật và sống thể hiện ra hình tượng con người. Cho nên khi thực hiện bổn phận lúc nào họ cũng suy nghĩ đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, lúc nào cũng suy nghĩ cho lối vào sự sống của anh chị em. Dù làm chuyện gì, họ cũng đều thông công cùng mọi người trước, sau đó cùng nhau trao đổi đi tới đồng thuận, để anh chị em hiến kế hiến sức, để mọi người đều đồng tâm hợp ý làm tốt chuyện này. Làm thế này thì sao? Chỉ có những người mưu cầu lẽ thật mới làm được như vậy. Cùng là tin Đức Chúa Trời, nhưng biểu hiện của người mưu cầu lẽ thật và người không mưu cầu lẽ thật sẽ không giống nhau, vậy loại người nào khiến cho người ta ghê tởm? (Thưa, người không mưu cầu lẽ thật khiến người ta ghê tởm.) Cho dù có hiểu chút nghiệp vụ, ngươi cũng không cần khoe khoang, không cần phải hạ thấp, kìm kẹp người khác. Có những người làm lãnh đạo hay người làm công thì ăn trên ngồi trốc, đi đứng nói chuyện đều mang điệu bộ phách lối, hách dịch, cách làm này càng khiến cho người ta ghê tởm. Dù ngươi có chút địa vị cũng không cần phải khoe khoang như vậy, không cần phải loè ra bộ dạng thối tha. Ngươi nên làm hết phận sự và trách nhiệm mà dẫn dắt anh chị em làm tốt bổn phận. Đây là trách nhiệm của ngươi, là việc ngươi nên làm được. Ngoài ra, nếu ngươi có nhân tính, có lòng trung thành, thì ngươi phải có trách nhiệm khi làm việc. Có trách nhiệm như thế nào? Ngươi phải thông công rõ ràng về những điểm mà mọi người không hiểu, dễ làm sai, dễ bị mê hoặc. Nếu xuất hiện sai lầm, sai lệch thì ngươi phải sửa chữa, để cho tất cả mọi người làm theo phương pháp đúng đắn, để họ không mắc sai lầm và cũng không bị người khác kìm kẹp nữa. Như vậy ngươi đã làm hết trách nhiệm của mình, đây chính là thực hiện bổn phận có trách nhiệm, có lòng trung thành. Nếu đạt đến điều này, thì người khác còn có thể bảo rằng ngươi mưu cầu địa vị không? Không thể. Nguyên tắc ngươi thực hành đã đúng và con đường của ngươi cũng đã đúng rồi. Đây chính là biểu hiện của người mưu cầu lẽ thật, cũng là việc thực hành mà người mưu cầu lẽ thật nên có. Còn ngược lại, thì chính là làm trò hề. Vừa muốn thể hiện bản thân để mọi người coi trọng, lại muốn giữ lại, giấu đi, sợ mọi người biết rồi thì mình không thể thể hiện bản thân, không được ai coi trọng, như vậy là rất phản nghịch! Không đếm xỉa đến lợi ích nhà Đức Chúa Trời, còn bàng quan, cười nhạo: “Nếu tôi không nói, xem ai có thể nói rõ chuyện này! Cho dù tôi có nói thì cũng không nói hết, hôm nay tiết lộ một chút, ngày mai tiết lộ một chút. Tôi vẫn sẽ không nói cho các anh biết sự thật đâu, để các anh tự mình ngẫm nghĩ. Muốn đạt được chút gì đó từ tôi cũng không dễ dàng vậy đâu! Nếu tôi nói cho các anh hết mọi điều tôi biết, để các anh hiểu được, thì tôi không còn gì nữa, ngược lại các anh sẽ mạnh hơn tôi. Đến lúc đó các anh còn xem tôi ra gì?”. Đây là thứ gì? Con người này thật ác độc! Không phải thứ tốt đẹp gì. Đây có phải là người trung thực hay không? (Thưa, không phải.) Các ngươi đã từng làm chuyện này chưa? (Thưa, con cũng từng làm như vậy. Nhất là khi rao giảng phúc âm trong thời gian dài, khi có một chút hiệu quả thì con cảm thấy mình có vốn liếng, có năng lực. Khi người khác hỏi con có phương thức, kinh nghiệm nào tốt hay không, con liền từ chối, chỉ biết sống dựa vào độc tố của Sa-tan rằng “Một khi trò biết mọi thứ mà thầy biết, thầy sẽ mất sinh kế”. Con sợ người khác hơn mình, đến lúc đó địa vị của con sẽ khó mà giữ được.) Sợ người khác cướp mất hào quang của mình, chuyện này cũng không dễ vượt qua. Danh và lợi là mục tiêu phấn đấu của cả đời người, cũng là hai con dao trong lòng người, chúng là thứ giết người không cần đền mạng!

Có người làm được việc có lợi cho công tác hội thánh và các anh chị em thì cảm thấy mình có chút cống hiến, có địa vị trong hội thánh. Mỗi lần đứng trước người khác là họ lại kể lại một lượt những chuyện tốt mình đã làm, để mọi người có nhận thức, lý giải hoàn toàn mới về họ, hiểu rõ vốn liếng, địa vị của họ, hiểu rõ danh tiếng, vị trí của họ trong hội thánh. Họ làm thế để làm gì? (Thưa, để thể hiện, khoe khoang.) Mục đích của khoe khoang là gì? Chính là muốn khẳng định bản thân. Vậy khẳng định bản thân để làm gì? (Thưa, để người khác coi trọng mình.) Là để người khác coi trọng, ca tụng, sùng bái. Sau khi đạt được những thứ này, cảm giác trong lòng họ là gì? (Thưa, hưởng thụ.) Chính là hưởng thụ lợi ích của địa vị. Có phải các ngươi cũng mưu cầu những thứ này hay không? Điều gì dẫn đến những tâm tư, ý niệm, tư tưởng này của con người? Chúng nảy sinh như thế nào? Căn nguyên là gì? Căn nguyên chính là tâm tính bại hoại của con người, là tâm tính bại hoại dẫn đến việc con người có sự bộc lộ như vậy, nảy sinh mưu cầu như vậy. Một số người thường có cảm giác ưu việt khi ở trong nhà Đức Chúa Trời, vậy đó là những loại cảm giác ưu việt nào? Điều gì dẫn đến những cảm giác ưu việt này? Ví dụ như, có người biết ngoại ngữ, họ sẽ cảm thấy mình có ân tứ, có bản lĩnh, cảm thấy nếu nhà Đức Chúa Trời không có những người như họ thì có thể sẽ rất khó triển khai công tác, cho nên đi đến đâu, họ cũng muốn được người ta coi trọng. Loại người này sẽ dùng phương thức gì khi tiếp xúc với người khác? Trong lòng, họ phân chia người thực hiện các loại bổn phận của nhà Đức Chúa Trời thành nhiều loại, đầu tiên là lãnh đạo, tiếp theo là người có tài cán đặc biệt, sau đó là người có tài cán bình thường, cuối cùng là người thực hiện các loại bổn phận hậu cần. Có người coi việc có thể thực hiện bổn phận quan trọng và bổn phận đặc biệt là vốn liếng, là có thực tế lẽ thật, đây là vấn đề gì? Có phải là quá vô lý hay không? Thực hiện được chút bổn phận đặc biệt thì họ liền tỏ ra ngông cuồng, không coi ai ra gì, ai họ cũng khinh thường. Khi tiếp xúc với người khác, họ luôn hỏi đối phương thực hiện bổn phận gì trước. Nếu người đó thực hiện bổn phận bình thường, họ sẽ khinh thường, cảm thấy người này không đáng để quan tâm. Khi người khác muốn thông công với họ, bề ngoài thì họ chấp thuận, nhưng trong lòng thì nghĩ rằng: “Anh mà muốn thông công với tôi sao, anh cho rằng anh là ai? Xem bổn phận mà anh thực hiện kìa, có xứng để nói chuyện với tôi không?”. Nếu như bổn phận người ta làm quan trọng hơn bổn phận của họ, thì họ sẽ nịnh nọt, thèm muốn. Khi gặp lãnh đạo và người làm công thì họ nói những lời xu nịnh như đám tôi tớ. Họ đối đãi với con người có nguyên tắc hay không? (Thưa, không có, họ dựa theo bổn phận người ta thực hiện mà phân ra nhiều loại để đối đãi.) Họ phân biệt đối xử, dựa theo tài cán, ân tứ của con người để phân chia đẳng cấp. Việc phân chia như vậy bộc lộ một sự thật gì? Nó tỏ lộ sự mưu cầu, lối vào sự sống, và cả thực chất bản tính, phẩm chất nhân tính của một con người. Có người đối đãi với lãnh đạo cấp trên thì cúi đầu khom lưng, khách sáo, đối đãi với người có chút năng lực, có ân tứ, biết ăn nói, làm bổn phận quan trọng ở nhà Đức Chúa Trời, người được Bề trên đề bạt và coi trọng, thì nói chuyện sẽ vô cùng khách sáo, còn đối đãi với người có tố chất kém hoặc là người làm bổn phận bình thường thì khinh thường, chẳng thèm ngó tới. Cách đối đãi của họ là khác nhau. Trong lòng họ nghĩ như thế nào? “Người như anh cho dù có tin Đức Chúa Trời thì cũng là người tầng lớp thấp, thế mà còn muốn ngồi ngang hàng với tôi, đòi thông công về lối vào sự sống và chuyện làm người trung thực với tôi. Anh không xứng!”. Đây là tâm tính gì? Đó là sự kiêu ngạo, hung ác, tà ác. Trong hội thánh có nhiều người như vậy không? (Thưa, nhiều.) Các ngươi có phải là loại người này hay không? (Thưa, phải.) Phân biệt đối xử với người khác tùy theo cấp bậc và địa vị của họ, tất cả những điều này đều không phải là biểu hiện của người mưu cầu lẽ thật. Vậy đó là mưu cầu cái gì? (Thưa, mưu cầu địa vị.) Hành vi, sự bộc lộ, biểu hiện bình thường của con người có thể tỏ lộ hết mọi tâm tư, quan điểm, ý định, sự mưu cầu, con đường đi của họ. Ngươi bộc lộ cái gì, biểu hiện nhất quán của ngươi là gì, thì sự mưu cầu của ngươi chính là cái đó, nó sẽ bộc lộ ra. Loại người này cho dù có hiểu biết thuộc linh, có thể hiểu lời Đức Chúa Trời, cũng biết kết hợp với lời Đức Chúa Trời và đối chiếu với tình trạng của mình, nhưng khi gặp phải bất kỳ chuyện gì, họ cũng không tìm kiếm lẽ thật, cũng không đối đãi với người khác dựa theo nguyên tắc lẽ thật của lời Đức Chúa Trời. Thay vào đó, họ đối đãi với người khác và làm việc dựa theo quan niệm, tưởng tượng, ý định, mục đích, dục vọng và sở thích của mình. Người như vậy có thể bước vào thực tế lẽ thật hay không? (Thưa, không thể.) Trong lòng họ còn có nguyên tắc và phương thức xử thế của người không tin, còn phân biệt đối xử, phân chia người của nhà Đức Chúa Trời thành nhiều loại, không đánh giá dựa theo lẽ thật, mà dựa theo quan điểm và tiêu chuẩn của người không tin. Đó có phải là đang mưu cầu lẽ thật hay không? (Thưa, không.) Mặc dù họ nói năng và giảng đạo như một người hiểu rõ lẽ thật, nhưng có thể nhìn thấy một chút thực tế lẽ thật nào trong việc thực hiện bổn phận của họ không? (Thưa, không thể.) Vậy những người này có phải là những người có lối vào sự sống không? (Thưa, không.) Những thứ bại hoại bên trong họ quá nhiều, họ còn lâu mới đạt đến yêu cầu để được cứu rỗi. Nếu họ luôn xem những thứ này là vốn liếng, vậy thì họ có thể thực hành được bao nhiêu trong số những lời Đức Chúa Trời mà họ hiểu? Trong lòng họ rốt cuộc có lẽ thật hay không, có lời Đức Chúa Trời hay không? Lối vào sự sống, sự thay đổi tâm tính đối với họ mà nói có sức nặng đến chừng nào? Rốt cuộc thứ gì đã cắm rễ sâu trong lòng họ? Chắc chắn đều là triết lý Sa-tan và những thứ trong di truyền của con người, cùng với quan niệm và tưởng tượng của họ đối với việc tin Đức Chúa Trời. Nếu những thứ này cắm rễ quá sâu trong lòng người thì họ sẽ rất khó tiếp nhận lẽ thật. Họ luôn suy nghĩ đến việc Bề trên nhìn nhận họ như thế nào, có khen ngợi họ hay không, trong lòng Đức Chúa Trời có họ, biết họ hay không. Khi đối đãi với người khác, họ cũng như vậy, xem Bề trên có khen ngợi hay không, Đức Chúa Trời có thích hay không, họ nhìn người để phân biệt đối xử. Trong lòng họ luôn chú trọng những điều này, vậy lẽ thật có thể có bao nhiêu tác dụng trên họ? Người luôn sống trong những tình trạng này, sống trong những triết lý xử thế này thì sự mưu cầu của họ rốt cuộc là gì? Họ có thể bước vào thực tế lẽ thật hay không? (Thưa, không thể.) Vậy họ sống theo cái gì? (Thưa, họ sống theo triết lý xử thế của Sa-tan.) Họ sống theo triết lý của Sa-tan, vẫn cảm thấy mình có tri thức, có học vấn, có sự khôn ngoan, trong lòng còn thấy rất thích thú. Họ coi nhà Đức Chúa Trời là gì? (Thưa, là xã hội.) Coi nhà Đức Chúa Trời là xã hội, loại quan điểm này họ vẫn chưa buông bỏ. Vậy làm sao để giải quyết những thứ này? Không phải chỉ cần đọc xong lời Đức Chúa Trời và có thể thừa nhận sự thật Đức Chúa Trời đã vạch rõ là xong chuyện, mà con người còn phải trải nghiệm sự tỉa sửa, thử luyện, tinh luyện. Con người cần nhận biết thực chất bản tính của mình, nhìn thấu thực chất của những thứ như vốn liếng, ân tứ, tri thức, trình độ chuyên môn, buông bỏ những thứ này, tiếp nhận lẽ thật của lời Đức Chúa Trời, sống theo lẽ thật, như vậy mới có thể giải quyết vấn đề bản tính bại hoại.

Mưu cầu lẽ thật không phải là một chuyện đơn giản, con người phải học cách nhìn nhận sự việc dựa vào lời Đức Chúa Trời. Trước kia con người có rất nhiều quan điểm sai lầm trong cách nhìn nhận sự việc, nếu như không tìm kiếm lẽ thật thì họ sẽ không phát hiện được, lại còn tự cho mình là đúng đắn như thường. Nếu họ vừa kiêu ngạo vừa tự cho mình là đúng thì cho dù ngươi tỉa sửa họ, họ cũng không thừa nhận sai lầm của mình. Người không mưu cầu lẽ thật thì rất khó thay đổi quan điểm nhìn nhận sự việc của mình. Ví dụ, có người nhìn thấy trong hội thánh có một người trước kia là giám đốc doanh nghiệp, trong lòng sẽ nảy sinh cảm giác mến phục. Họ ngưỡng mộ, khâm phục, coi trọng thậm chí sùng bái người như vậy, và người đó có địa vị trong lòng họ. Khi gặp loại tình huống này thì ngươi nên làm thế nào? Ngươi nên căn cứ vào nguyên tắc lẽ thật để phân định và đối đãi với những người đó, xem họ có phải là người yêu thích lẽ thật, mưu cầu lẽ thật hay không, có phải là người đáng được kính trọng hay không. Thông qua việc tiếp xúc và phân định, khi phát hiện họ không phải người như vậy, trong lòng ngươi sẽ không coi trọng họ nữa, cũng không ngưỡng vọng họ nữa, ngươi sẽ đối đãi và tiếp xúc với họ một cách bình thường. Đối đãi một cách bình thường là như thế nào? Tức là có thể đối đãi một cách đúng đắn. Trong lòng con người tràn ngập sở thích, nguyện vọng và mưu cầu riêng, giá trị quan của con người có thể lộ ra trong rất nhiều hành vi nhỏ nhặt. Nếu một người là đối tượng mà họ sùng bái, vậy thì khi nói đến người này, họ sẽ dùng những từ ngữ vô cùng ngọt ngào, khách sáo để nói chuyện, xưng hô cũng vô cùng kính trọng. Điều này nói lên điều gì? Nó chứng tỏ rằng người này có địa vị trong lòng họ và họ coi trọng người này. Ngoài ra, họ còn có một số kiểu nói khác. Họ thường nói: “Trước kia người ta làm quan, đến nhà Đức Chúa Trời lại bị đối đãi như người bình thường, thật thiệt thòi cho người ta”. Trong tư tưởng và quan điểm của họ cho rằng, nhà Đức Chúa Trời không chú trọng nhân tài. Nhân vật xuất sắc như người ta mà có thể hạ mình đến nhà Đức Chúa Trời, tin Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận, nhưng lại không có ai coi trọng, đề bạt, Bề trên cũng không giới thiệu đặc biệt với anh chị em. Nếu ngươi hỏi họ xem người này thực hiện bổn phận thế nào, thì họ nói: “Người ta trước kia mở công ty, quản lý mấy ngàn người, làm chút công tác này có xá gì. Ở nhà Đức Chúa Trời không ai có tố chất cao hơn họ, người ta mới là cao nhân, nhà Đức Chúa Trời không có cao nhân”. Đây là lời gì? Họ cho rằng ngoài thế tục có cao nhân, còn nhà Đức Chúa Trời không có. Người của nhà Đức Chúa Trời có lẽ thật, người thế tục có lẽ thật không? Ngươi nói ngoài thế tục có cao nhân, vậy tại sao ngươi không tin cao nhân đó đi? Tại sao ngươi lại tin Đức Chúa Trời? Nếu ngươi có quan niệm về Đức Chúa Trời thì ngươi nên nhanh chóng trở về với thế tục. Họ có thể nói những lời như vậy, liệu đó có phải là tiếng nói của Sa-tan không? Đó là tiếng nói của Sa-tan. Họ tin Đức Chúa Trời và đến nhà Đức Chúa Trời, nhưng vẫn muốn đề cao Sa-tan, còn nói “Nếu danh nhân nào đó tin Đức Chúa Trời, đó là người có tố chất cao nhất. Nếu người ta không được hoàn thiện, vậy những người như chúng ta tiêu tùng rồi. Trong mắt người ta, chúng ta chẳng là gì cả”. Trong lòng họ, trong mắt họ, người tin Đức Chúa Trời không bằng những danh nhân, doanh nhân, quan chức ngoài thế tục, những người đó mới là cao nhân, người có sức ảnh hưởng. Xét từ những câu chữ mà họ nói, họ có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không? (Thưa, không phải.) Dù nghe giảng đạo bao nhiêu thì quan điểm và tư tưởng của họ, cách nhìn nhận của họ đối với thế giới, đối với danh nhân và cao nhân đều không thay đổi, vậy họ đạt được lẽ thật chưa? Họ có lối vào sự sống hay không? (Thưa, không có.) Đây là loại người gì? (Thưa, người không tin.) Đây là một người không tin, là Giu-đa, phản đồ! Trong lòng họ, Đức Chúa Trời không phải bậc tối thượng, lẽ thật không phải tối thượng, mà quyền thế, danh vọng, danh lợi của thế giới mới là tối thượng. Đây là phản đồ, đây là tư tưởng và quan điểm của Giu-đa, là tư tưởng và lô-gíc của Sa-tan. Cho dù những người này có thể nghe và hiểu lẽ thật, nhưng tư tưởng và quan điểm của họ cũng sẽ không thay đổi, thứ họ mưu cầu là danh vọng, địa vị, quyền thế. Khi ở gần người như vậy, dáng vẻ họ nói chuyện với ngươi không đúng đắn, ngươi liền cảm thấy người này rất khó gần, người bình thường không lọt vào mắt họ. Cho nên, họ có thể có nhiều quan niệm như vậy đối với Đức Chúa Trời. Bất kể Ngài có thể bày tỏ bao nhiêu lẽ thật thì trong lòng họ luôn có rào cản với Ngài. Họ cho rằng nhân tính bình thường của Đức Chúa Trời nhập thể rất bình thường, không vĩ đại, không cao lớn chút nào, cho nên họ sùng bái tri thức, ân tứ, sùng bái vĩ nhân. Làm sao một người kiêu ngạo, tự cao tự đại, đầy tâm tính của Sa-tan lại có thể phủ phục tôn thờ khi nhìn thấy một Đấng Christ có nhân tính bình thường và có đầy lẽ thật? Trong lòng họ sẽ nghĩ: “Ngài là Đức Chúa Trời, Ngài chỉ có lẽ thật, nhưng Ngài không có tri thức. Con có ân tứ, tri thức, tài năng của con cao hơn Ngài, năng lực làm việc của con tốt hơn Ngài, tài ăn nói để ứng phó với thế giới bên ngoài tốt hơn Ngài”. Nếu làm được một vài công tác trong hội thánh, hoặc là có chút vốn liếng, có chút cống hiến, thì họ càng không coi Đức Chúa Trời ra gì. Đây có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không? (Thưa, không phải.) Người không mưu cầu lẽ thật thì thực sự có đủ thứ xấu xí, không có một chút lý trí nào. Cho nên, những người này thường xoay quanh hiện tượng bên ngoài của con người, sự việc, sự vật. Lúc thì họ cảm thấy Đức Chúa Trời đúng, lúc thì họ cảm thấy Đức Chúa Trời không đúng. Lúc thì họ cảm thấy có Đức Chúa Trời, lúc lại cảm thấy không có. Lúc thì họ cảm thấy Đức Chúa Trời là Đấng tể trị vạn vật trên trời dưới đất, lúc thì lại nảy sinh nghi ngờ đối với chuyện này. Trong lòng, họ luôn vật lộn, đấu tranh. Tuy rằng loại người thứ hai có hiểu biết thuộc linh, có thể hiểu được tầng ý nghĩa nông nhất của lẽ thật, tức là ý nghĩa của câu chữ và đạo lý, coi như họ cũng có một chút năng lực lĩnh hội. Tuy rằng cũng có thể hiểu được một chút lẽ thật, nhưng họ chẳng hề thực hành. Biểu hiện của họ là gì? Là mưu cầu làm việc, mưu cầu được phúc, mưu cầu thỏa mãn tín ngưỡng mơ hồ của mình, thỏa mãn sự gửi gắm về tinh thần của mình, mưu cầu danh dự và địa vị. Đây là loại người thứ hai.

Loại thứ ba là người có hiểu biết thuộc linh và mưu cầu lẽ thật. Người có hiểu biết thuộc linh thì có thể hiểu được lời Đức Chúa Trời nói về điều gì, có thể đối chiếu với các loại tình trạng mà lời Đức Chúa Trời đã vạch rõ và nhận biết tình trạng của mình thuộc về vấn đề gì. Nhưng có thể đối chiếu vẫn không có nghĩa là ngươi là người mưu cầu lẽ thật, nếu sau khi đối chiếu mà ngươi bước vào sự thực hành, thì đó mới là người mưu cầu lẽ thật. Có thể hiểu được lời Đức Chúa Trời, hơn nữa còn có lối vào thực sự trên cơ sở hiểu được nguyên tắc lời Đức Chúa Trời, người như vậy có biểu hiện gì trong việc mưu cầu lẽ thật? Một mặt, họ có thể tiếp nhận sự ủy thác của Đức Chúa Trời, làm tốt bổn phận của mình. Mặt khác, họ có thể tìm kiếm lẽ thật, đạt đến sự thuận phục trong mọi hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt. Mặt khác nữa, trong cuộc sống thường nhật, họ chú trọng kiểm điểm tình trạng và sự bộc lộ của mình, sau đó có thể căn cứ vào lời Đức Chúa Trời để đối chiếu với bản thân, giải quyết vấn đề, đạt đến sự đối đãi có nguyên tắc và đạt được con đường thực hành trong mọi sự. Ví dụ, trong lần thông công trước, khi Ta mổ xẻ bảy tội trạng của Phao-lô, các ngươi đã có thể đối chiếu với bản thân, có nhận thức thực sự, có lối vào thực hành. Đối chiếu với bản thân và lối vào sự sống có liên quan chặt chẽ với nhau, có thể đối chiếu với bản thân thì đó là cánh cửa của lối vào sự sống. Sau khi bước qua cánh cửa này, việc bước tiếp như thế nào thì phải xem ngươi có hiểu rõ lẽ thật về phương diện này hay không. Hiểu được lẽ thật của một phương diện thì ngươi có thể bước vào thực tế của một phương diện, hiểu được lẽ thật của hai phương diện thì ngươi có thể bước vào thực tế của hai phương diện. Nếu ngươi chỉ hiểu được đạo lý, không có nguyên tắc bước vào, vậy thì không có cách nào bước vào thực tế. Cho nên, quan trọng là trước hết phải hiểu nhiều lẽ thật. Làm sao để hiểu được? Ngươi phải đọc lời Đức Chúa Trời nhiều hơn, nghiền ngẫm lời Ngài, kết hợp với đời sống hiện thực của mình, với bổn phận mình thực hiện, tìm ra nguyên tắc thực hành, tìm ra con đường thực hành, như vậy thì ngươi sẽ dễ dàng bước vào thực tế. Nếu có tồn tại một số vấn đề thực tế, thì ngươi phải căn cứ vào lời Đức Chúa Trời có liên quan để đối chiếu, giải quyết vấn đề. Nếu như ngươi có quan niệm, hiểu lầm đối với Đức Chúa Trời, vậy thì càng phải căn cứ vào lời Đức Chúa Trời mà đối chiếu với bản thân, có thể phân định được quan niệm này, hiểu lầm này rốt cuộc sai ở đâu, là vấn đề thuộc về tính chất gì. Ngươi phải mổ xẻ nó, sau đó tìm kiếm lẽ thật tương ứng để giải quyết, đây là con đường của lối vào sự sống. Phao-lô làm nhiều việc như vậy, liệu ông có con đường của lối vào sự sống hay không? Hoàn toàn không. Tội đầu tiên trong bảy tội trạng của Phao-lô là gì? Là coi việc mưu cầu mão triều thiên, mưu cầu được phúc là mục tiêu mưu cầu chính đáng. Coi việc được phúc trở thành mục tiêu mưu cầu, điều này sai ở chỗ nào? Nó hoàn toàn trái ngược với lẽ thật và không phù hợp với tâm ý cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời. Bởi vì mục tiêu được phúc không phải là mục tiêu chính đáng để người ta mưu cầu, vậy thì mục tiêu chính đáng là gì? Mưu cầu lẽ thật, mưu cầu những thay đổi trong tâm tính, có thể thuận phục tất cả những sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời: đây là những mục tiêu mà người ta nên mưu cầu. Ví dụ như, việc bị tỉa sửa khiến ngươi có những quan niệm và hiểu lầm, và ngươi không thể thuận phục. Tại sao ngươi không thể thuận phục? Bởi vì ngươi cảm thấy rằng đích đến hoặc ước mơ được phúc của ngươi đã bị thử thách. Ngươi trở nên tiêu cực, khó chịu, và cố gắng không thực hiện bổn phận của mình nữa. Lý do cho điều này là gì? Có vấn đề trong sự mưu cầu của ngươi. Vậy điều này phải được giải quyết như thế nào? Điều cấp bách là ngươi phải bỏ ngay những ý tưởng sai lầm này, và ngươi phải ngay lập tức tìm kiếm lẽ thật để giải quyết vấn đề tâm tính bại hoại của mình. Ngươi nên tự nhủ: “Mình không được quẳng gánh, mình vẫn phải làm tốt bổn phận mà một loài thọ tạo phải làm, và gạt ham muốn được phúc sang một bên”. Khi ngươi từ bỏ ham muốn được phúc và bước đi con đường mưu cầu lẽ thật, thì vai ngươi sẽ trút bỏ được một gánh nặng. Và ngươi vẫn sẽ có thể tiêu cực sao? Mặc dù vẫn có những lúc ngươi tiêu cực nhưng ngươi không để điều này kìm kẹp ngươi, và trong lòng mình, ngươi không ngừng cầu nguyện và chiến đấu, thay đổi mục tiêu mưu cầu của ngươi, từ mưu cầu việc được phúc và có một đích đến, sang mưu cầu lẽ thật, và ngươi thầm nghĩ: “Mưu cầu lẽ thật là bổn phận của một loài thọ tạo. Hiểu được một số lẽ thật hôm nay – không có thành tựu nào to lớn hơn thế, đây là phước lành to lớn nhất trong tất cả. Ngay cả khi Đức Chúa Trời không muốn mình, và mình không có một đích đến tốt đẹp, và những hy vọng được phúc của mình tan tành, mình cũng vẫn phải làm bổn phận của mình một cách đúng đắn, mình bắt buộc phải làm vậy. Dù lý do là gì, nó sẽ không tác động đến việc thực hiện bổn phận của mình, nó sẽ không ảnh hưởng đến việc mình hoàn thành sự ủy nhiệm của Đức Chúa Trời; đây là nguyên tắc ứng xử của mình”. Và như vậy, chẳng phải ngươi đã vượt qua sự kìm kẹp của xác thịt sao? Một số người có thể nói: “Chà, nếu tôi vẫn tiêu cực thì sao?”. Thế thì lại tìm kiếm lẽ thật để giải quyết việc đó. Dù ngươi có rơi vào tiêu cực bao nhiêu lần đi nữa, nếu ngươi cứ tiếp tục tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, và không ngừng phấn đấu tìm lẽ thật, thì ngươi sẽ từ từ thoát ra khỏi sự tiêu cực của mình. Và đến một ngày, ngươi sẽ cảm thấy mình không có mong muốn đạt được phước lành và không bị đích đến cũng như kết cục của mình kìm kẹp, và rằng ngươi sống dễ dàng và tự do hơn khi không có những thứ này. Ngươi sẽ cảm thấy rằng cuộc sống trước đây của mình, khi mà mỗi ngày ngươi sống đều vì mục đích đạt được phước lành và đích đến của mình, thật là mệt mỏi. Mỗi ngày, nói chuyện, làm việc, vắt óc suy nghĩ để đạt được phước lành – và cuối cùng thì việc đó sẽ mang lại điều gì cho ngươi? Một cuộc sống như vậy có giá trị gì? Ngươi đã không mưu cầu lẽ thật mà đã lãng phí những ngày tháng đẹp nhất của mình vào những việc không có ý nghĩa. Cuối cùng, ngươi đã không đạt được bất kỳ lẽ thật nào, và ngươi không thể nói ra bất kỳ chứng ngôn dựa trên trải nghiệm nào cả. Ngươi đã tự biến mình thành kẻ ngốc, hoàn toàn nhục nhã và thất bại. Và thực sự thì nguyên nhân của điều này là gì? Đó là vì ý định đạt được phước lành của ngươi quá mạnh mẽ, kết cục và đích đến của ngươi đã chiếm hữu lòng ngươi và ràng buộc ngươi quá chặt. Tuy vậy, khi đến ngày mà ngươi thoát khỏi sự trói buộc của tiền đồ và vận mệnh của mình, ngươi sẽ có thể bỏ lại mọi thứ phía sau và đi theo Đức Chúa Trời. Khi nào thì ngươi mới có thể hoàn toàn buông bỏ những điều đó? Khi lối vào sự sống của ngươi không ngừng sâu thêm, ngươi sẽ đạt được sự thay đổi trong tâm tính của mình, và đó là khi ngươi sẽ có thể hoàn toàn buông bỏ chúng. Có người nói: “Tôi có thể buông bỏ những điều này bất cứ khi nào tôi muốn”. Điều này có phù hợp với quy luật tự nhiên không? (Thưa, không.) Người khác thì nói: “Qua một đêm là tôi đã hiểu ra được toàn bộ chuyện này. Tôi là một người đơn giản, không phức tạp hay mong manh như mấy anh chị. Dã tâm và dục vọng của các anh chị quá lớn, điều này chứng tỏ các anh chị bị bại hoại sâu sắc hơn tôi”. Tình cảnh có phải như thế không? Không phải vậy. Toàn nhân loại đều có chung bản tính bại hoại, không phân biệt mức độ nông sâu. Sự khác biệt duy nhất của họ nằm ở việc họ có nhân tính hay không, và họ là loại người nào. Những ai yêu mến và tiếp nhận lẽ thật thì có khả năng hiểu biết tương đối sâu và rõ ràng về tâm tính bại hoại của chính họ, còn những người khác thì lầm tưởng rằng những người như vậy là bại hoại quá sâu sắc. Những người không yêu hoặc không tiếp nhận lẽ thật luôn nghĩ rằng họ không bại hoại, rằng thêm một vài hành vi tốt nữa thì họ sẽ là những người thánh khiết. Quan điểm này rõ ràng vô căn cứ – thực tế, không phải là sự bại hoại của họ nông, mà là họ không hiểu lẽ thật và không có nhận thức rõ ràng về thực chất và sự thật về sự bại hoại của mình. Tóm lại, để tin Đức Chúa Trời, người ta phải tiếp nhận lẽ thật, thực hành lẽ thật và bước vào thực tế, phải đạt được những thay đổi trong tâm tính sự sống trước khi có thể thay đổi được hướng đi và con đường mưu cầu sai lạc của họ, và trước khi họ có thể giải quyết triệt để vấn đề về việc mưu cầu phước lành và bước đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ. Bằng cách này, người ta có thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi và hoàn thiện. Toàn bộ những lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ để phán xét và làm cho con người tinh sạch đều hướng tới mục đích này.

Hiện tại, có ai trong các ngươi vẫn có dục vọng muốn làm Đức Chúa Trời không? (Thưa, không có.) Là không dám, hay là bởi vì không có hy vọng, không có bối cảnh và hoàn cảnh thích hợp, nên mới không có dục vọng này? Điều này khó mà nói lắm. Đầu tiên, chúng ta có thể chắc chắn rằng không ai muốn chủ động mưu cầu việc trở thành Đức Chúa Trời. Nhưng nếu trong hoàn cảnh đặc biệt, có một số người sùng bái ngươi, tôn cao ngươi, thường khen ngợi, tán thưởng ngươi, ngươi có địa vị trong lòng người, người ta vô hình trung biến ngươi thành một loại hình tượng hoàn mỹ, cao lớn, mặc dù họ không làm chứng ngươi là Đức Chúa Trời, cũng biết ngươi là con người, nhưng họ sùng bái, thuận phục và đối đãi với ngươi như với Đức Chúa Trời, thì trong lòng ngươi sẽ có cảm nhận gì? Có phải ngươi sẽ vô cùng hưởng thụ, vô cùng thỏa mãn hay không? (Thưa, phải.) Điều đó đủ để chứng tỏ rằng ngươi vẫn còn loại dục vọng này. Người có tâm tính bại hoại đều có dục vọng muốn làm Đức Chúa Trời, chỉ là khi không có ai xem ngươi là Đức Chúa Trời, thì ngươi cảm thấy mình không có tư cách đó. Còn khi ngươi cảm thấy mình đã có tư cách, có hoàn cảnh, điều kiện đầy đủ, ngươi sẽ tự tôn mình lên vị trí đó. Hoặc có thể tự ngươi không làm việc đó, nhưng người khác không ngừng tôn ngươi lên, liệu lúc đó ngươi còn khách sáo không? Ngươi sẽ bước lên vị trí đó theo kiểu “không thể chối từ”. Chuyện này là thế nào? Bản tính của Sa-tan ăn sâu bén rễ trong con người vẫn chưa được giải quyết, con người chưa bao giờ muốn làm người, mà luôn muốn làm Đức Chúa Trời. Muốn làm Đức Chúa Trời là có thể làm được sao? Sa-tan luôn muốn trở thành Đức Chúa Trời, cuối cùng thì sao? Nó bị đánh từ trên trời rơi xuống đất, đây là kết cục cho việc muốn làm Đức Chúa Trời. Các ngươi nói xem, Ta có cảm giác gì đối với thân phận, địa vị, đối với thực chất của mình? Các ngươi chắc chắn không biết. Ta không có bất kỳ cảm giác gì cả, mọi thứ đều rất bình thường. Đức Chúa Trời nhập thể rất thực tế, bình thường, không có chuyện siêu nhiên, không có cảm giác đặc biệt. Ngươi biết mình nghĩ gì, thích gì, biết mình sinh ra trong gia đình nào, bao nhiêu tuổi, đọc qua bao nhiêu sách, bộ dạng thế nào, nhưng về chuyện thực chất bên trong ngươi là gì, ngươi biết hay không biết, cái nào mới là bình thường? (Thưa, không biết là bình thường.) Đối với những điều này, không có bất kỳ cảm giác nào chính là bình thường, có cảm giác thì là siêu nhiên, vậy thì không phải là xác thịt, không phải là nhân tính bình thường. Siêu nhiên thì sẽ không bình thường. Luôn luôn có biểu hiện và cảm giác không bình thường thì đó là tà linh, không phải người trần mắt thịt. Có vài người hỏi Ta có biết mình là ai hay không, các ngươi nói xem, Ta có biết hay không? Ta có nên biết hay không? Ta có tư duy lô-gíc, suy nghĩ của nhân tính bình thường, có tâm tư bình thường, quy luật sinh hoạt xác thịt bình thường, lương tâm, lý tính, phán đoán của nhân tính bình thường, còn có nguyên tắc xử sự, kết giao của nhân tính bình thường, những thứ này đều rõ ràng. Làm việc như thế nào, với người nào thì đối đãi như thế nào, giúp đỡ người khác như thế nào, giúp đỡ những ai, những nguyên tắc này Ta đều có. Sống trong nhân tính bình thường, làm việc mình nên làm, đây chính là nhân tính bình thường, một chút cũng không siêu nhiên. Đức Chúa Trời không làm việc siêu nhiên, Ta không biết là chuyện bình thường, nếu Ta biết thì sẽ phiền phức. Tại sao lại phiền phức? Nếu biết thì sẽ có gánh nặng, liên quan đến quá nhiều chuyện, sẽ xung khắc lẫn nhau. Phần biết được đó không thuộc về xác thịt, không thuộc về thế giới vật chất, mà là siêu nhiên, là xung khắc với những chuyện của thế giới này. Giống như có người có thể nhìn thấy chuyện xảy ra trong cõi thuộc linh, họ sống trong xác thịt, trong thế giới vật chất, lại nhìn thấy một thế giới phi nhân loại, phi vật chất, có thể nhìn thấy hai thế giới, còn nói những lời kỳ lạ. Điều này là không bình thường, như vậy sẽ ảnh hưởng đến tâm tư và công tác của người khác. Mặt khác, người tin Đức Chúa Trời và mưu cầu lẽ thật vẫn cần biết một ít những chuyện trong cõi thuộc linh. Có rất nhiều chuyện con người không có cách nào biết được, nhưng thật ra không biết cũng không có tổn thất gì, tức là biết hay không biết đều được. Đức Chúa Trời đã hạn định phạm vi mà người trần mắt thịt có thể hiểu, có thể biết, có thể cảm giác được. Nếu là điều ngươi cần biết, Đức Chúa Trời một câu cũng không bớt lại, Ngài sẽ phán đầy đủ và sẽ không để ngươi biết thiếu dù chỉ một chút. Còn nếu Ngài không muốn cho ngươi biết thì Ngài sẽ phong tỏa hoàn toàn, sẽ không nói cho ngươi biết, không làm nhiễu loạn tư duy và tâm tư của ngươi. Mặt khác nữa, đối với người trần mắt thịt, những chuyện của cõi thuộc linh là những hiện tượng bí ẩn, kỳ lạ, hoặc là chuyện của một thế giới khác. Trong lòng con người, ai cũng đều muốn biết một chút. Nhưng ngươi biết thì có thể làm gì? Ngươi có thể chứng thực không? Ngươi có thể tham dự không? Chuyện của cõi thuộc linh có rất nhiều bí mật, là thiên cơ bất khả lộ. Đây là chuyện mà bất kỳ ai cũng không tham dự được, biết được một vài chuyện trong phạm vi cho phép là đủ dùng rồi. Đức Chúa Trời tể trị thế giới này, nhân loại này, có quá nhiều chuyện bí ẩn. Tất cả những gì chúng ta nên hiểu chính là lời Đức Chúa Trời, là lẽ thật. Chúng ta phải hiểu được tâm ý của Ngài, bước vào thực tế lẽ thật, đạt đến việc có thể thuận phục, hiểu và nhận thức mọi sự Đức Chúa Trời tể trị mà con người có thể tiếp xúc, sau đó đạt đến mức có thể kính sợ Đức Chúa Trời, có thể thừa nhận rằng Ngài là Đấng Tạo Hóa của ngươi, thừa nhận sự thật rằng Ngài tể trị tất cả, cuối cùng có thể đạt đến việc thốt ra được câu nói của Gióp: “Ðức Giê-hô-va đã ban cho, Ðức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Ðức Giê-hô-va!” (Gióp 1:21). Muốn đạt đến kết quả này, con người phải trải nghiệm những gì? Họ phải trải nghiệm sự phán xét và hình phạt, sự tỉa sửa, thử luyện và tinh luyện, trải nghiệm các loại hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt, từ đó nhận biết việc làm của Ngài và tâm tính của Ngài, hiểu rõ thực chất của Đấng Tạo Hóa, có thể đối chiếu với lời Đức Chúa Trời mà mình đã đọc qua hoặc những lời giảng mà mình đã nghe qua. Cuối cùng, khi đạt đến mức độ bất kể Đức Chúa Trời đối đãi thế nào, cất đi cũng được, ban cho cũng được, con người đều có nhận thức công bằng và chuẩn xác đối với hành động của Ngài, đều có sự thuận phục và tiếp nhận theo cách phù hợp với lý tính của loài thọ tạo, đây chính là điều Đức Chúa Trời muốn làm cho trọn vẹn.

Hãy trở lại với chủ đề thông công ngày hôm nay. Về cơ bản, biểu hiện của người mưu cầu lẽ thật và biểu hiện của người không mưu cầu lẽ thật chính là ba loại này. Ta đã phân chia chi tiết về ba loại người này: loại thứ nhất, người không có hiểu biết thuộc linh; loại thứ hai, người có hiểu biết thuộc linh nhưng không mưu cầu lẽ thật; loại thứ ba, người có hiểu biết thuộc linh và mưu cầu lẽ thật. Trong ba loại người này, loại người nào có hy vọng bước vào thực tế lẽ thật, có thể đạt đến sự cứu rỗi? (Thưa, loại thứ ba.) Loại người nào có hy vọng bước vào thực tế lẽ thật, là người có thể phát triển, có thể trở thành người có thực tế lẽ thật? (Thưa, loại thứ hai.) Nếu nói như vậy thì loại người thứ nhất chẳng khác nào bị kết án tử hình, đúng không? Người không có hiểu biết thuộc linh có thể trở nên có hiểu biết thuộc linh hoặc hiểu một nửa hay không? Hiểu một nửa cũng là có chút hy vọng, cũng tốt hơn so với không có hiểu biết thuộc linh. Vậy trong ba loại người này, loại người nào có hy vọng được cứu rỗi lớn hơn? (Thưa, loại thứ ba.) Còn loại người thứ hai thì sao? (Thưa, phải xem mưu cầu cá nhân của họ, nếu họ có thể thực sự xoay chuyển, hối cải, mưu cầu lẽ thật, thì có thể có hy vọng được cứu rỗi.) Nói thật với các ngươi, các ngươi vẫn chưa nhìn thấu loại người thứ hai này. Tuy rằng loại người thứ hai có hiểu biết thuộc linh, nhưng họ là người không mưu cầu lẽ thật, đây là chỗ chí mạng. Bất kể có hiểu biết thuộc linh hay không, chỉ cần không mưu cầu lẽ thật thì tuyệt đối không thể đạt đến sự cứu rỗi. Trọng tâm Ta nói ở đây là loại thứ nhất – người không có hiểu biết thuộc linh. Nếu không có hiểu biết thuộc linh nhưng nhân tính tốt, có thể cam lòng dâng mình cho Đức Chúa Trời, Ngài nói gì thì họ nghe nấy, có lòng thuận phục, chỉ là không có năng lực lĩnh hội lẽ thật, nhưng nếu họ hiểu được một chút lời Đức Chúa Trời thì có thể đối chiếu với bản thân, sau đó có lối vào thực hành. Người như vậy sẽ có hy vọng được cứu rỗi, trải nghiệm một thời gian, có thể dần dần có hiểu biết thuộc linh. Khi đọc lời Đức Chúa Trời, họ càng để tâm thì càng có Đức Thánh Linh khai sáng, sau khi hiểu lời Đức Chúa Trời thì ít nhiều sẽ có thể đối chiếu với tình trạng của chính mình, tiếp nhận sự tỉa sửa, phán xét, hình phạt, sự thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời, vì điều này mà trả giá, cuối cùng có thể đạt được một vài thay đổi trong tâm tính tương ứng. Đây cũng được coi là người mưu cầu lẽ thật. Nếu có thể được coi là người mưu cầu lẽ thật thì họ có hy vọng được cứu rỗi hay không? (Thưa, có.) Vậy thì có hy vọng, không thể kết án tử hình cho loại người này. Ngược lại, loại người có thể hiểu được lẽ thật, cũng có thể đối chiếu với bản thân, nhưng chưa bao giờ bước vào, kết cục của họ sẽ rất khó nói. Căn nguyên của vấn đề này nằm ở đâu? (Thưa, ở thái độ của họ đối với lẽ thật.) Thái độ của họ đối với lẽ thật là thái độ ngạo mạn, khinh thường. Khinh thường là có ý gì? Nghĩa là không tiếp nhận, coi thường, không thừa nhận lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, không coi ra gì. Bất kể nghe hiểu bao nhiêu, họ cũng không thực hành lẽ thật, bất kể đối chiếu với bản thân bao nhiêu, cho dù biết mình thuộc loại người nào, họ cũng không hối cải. Mặc dù họ biết điều mấu chốt nhất của việc tin Đức Chúa Trời chính là thực hành lẽ thật, nhưng hai chữ “thực hành” này không liên quan gì đến họ, loại người này sẽ không dễ được cứu rỗi.

Bây giờ nên định nghĩa mưu cầu lẽ thật như thế nào? Rốt cuộc mưu cầu lẽ thật là gì, ai nói thử xem? (Thưa, là có thể tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, phản tỉnh bản thân trong lời Đức Chúa Trời, đối chiếu với bản thân, hơn nữa phải có lối vào sự sống, như vậy mới tính là mưu cầu lẽ thật.) Đúng vậy, có thể tiếp nhận lẽ thật, thực hành lẽ thật mới là người mưu cầu lẽ thật. Không tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, không thể phản tỉnh bản thân thì không có lối vào sự sống, không phải là người mưu cầu lẽ thật. Cho nên, mưu cầu lẽ thật có quan hệ trực tiếp với lối vào sự sống. Nếu biết nói nhiều câu chữ và đạo lý, nhưng chẳng hề thực hành lẽ thật, cũng không có đức tin thực sự nơi Đức Chúa Trời, biết rõ là sự tể trị và an bài của Đức Chúa Trời là xuất phát từ Đức Chúa Trời nhưng cũng không thuận phục, còn chống đối, xét đoán, một mực phản nghịch, hoặc là sống theo triết lý của Sa-tan, hành sự theo sở thích của mình, đây không phải là người mưu cầu lẽ thật. Có những người có hiểu biết thuộc linh, có thể hiểu lời Đức Chúa Trời, nhưng họ không yêu thích lẽ thật, cho nên họ không thực hành lẽ thật. Vậy loại người có hiểu biết thuộc linh này không phải là người mưu cầu lẽ thật. Có những người sẵn lòng mưu cầu lẽ thật, nhưng tố chất quá kém, không với tới lẽ thật, cho nên tin Đức Chúa Trời nhiều năm cũng không thể hiểu rõ lẽ thật. Người như vậy có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không? Không phải. Những người không mưu cầu lẽ thật chủ yếu có những biểu hiện gì? Biểu hiện quan trọng nhất là không đọc lời Đức Chúa Trời, cũng không sẵn lòng cầu nguyện với Ngài, càng không sẵn lòng thông công lẽ thật, thậm chí không sẵn lòng nhóm họp và nghe giảng đạo. Khi nghe giảng đạo, họ cảm thấy những lời đó đều là đang nhắm vào mình, đều là để vạch trần họ. Họ cảm thấy đau lòng, khó chịu, cho nên hễ đến lúc nghe giảng đạo là họ muốn đi ngủ hoặc là nói chuyện phiếm. Có không ít dạng người như vậy. Họ tin Đức Chúa Trời chỉ để được phúc, chứ không phải để tiếp nhận lẽ thật, đạt được lẽ thật, để thoát khỏi sự bại hoại và sống thể hiện ra hình tượng giống con người, đạt đến việc được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Căn nguyên của vấn đề chủ yếu là vì họ không yêu thích lẽ thật và không hứng thú với lẽ thật. Họ tin Đức Chúa Trời chỉ vì muốn được phúc, đó là hy vọng duy nhất của họ. Để được phúc, họ có thể đem sức lực phục vụ, cũng có thể vứt bỏ, nhưng lại không tiếp nhận được lẽ thật, không có hứng thú với lẽ thật. Họ cho rằng chỉ cần hiểu đạo lý là được, ít làm việc ác một chút thì sẽ có thay đổi, cộng thêm việc có thể đem sức lực phục vụ, có thể vứt bỏ, có thể chịu khổ là đủ điều kiện được phúc. Đây chính là quan điểm của họ trong việc tin Đức Chúa Trời. Cho nên, bất kể họ tin bao nhiêu năm, bất kể họ hiểu và biết nói bao nhiêu đạo lý, bất kể từ trong miệng họ nói ra bao nhiêu lời phù hợp với lẽ thật, nhưng từ đầu đến cuối họ vẫn không thực hành được lẽ thật. Tâm tính mà họ bộc lộ ra vẫn là tùy ý, phóng túng, không chịu ràng buộc, ở đâu họ cũng bảo vệ thể diện và lợi ích của mình, vô cùng ích kỷ và đê tiện. Thậm chí khi bị chỉ trích và tỉa sửa, họ cũng không tiếp nhận, không có một chút thuận phục nào. Loại người này hoành hành ngang ngược, làm việc thì không bàn bạc với bất kỳ ai, cho dù có bàn bạc với người khác thì cũng chỉ bất đắc dĩ mà nói cho có hình thức. Họ nói chuyện quanh co lòng vòng, vòng tới vòng lui, cuối cùng cũng sẽ bắt người ta nghe họ. Cách làm này bộc lộ tâm tính gì? (Thưa, giả dối.) Đây không chỉ là giả dối, mà còn nghiêm trọng hơn. Cho dù khi khuyên bảo người khác, họ nói chuyện dễ nghe đến đâu, nói đó là sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời, khiến người khác thuận phục, nhưng khi chuyện xảy đến với chính mình thì biểu hiện của họ lại không phải như vậy. Thay vào đó, họ trở nên cương ngạnh, phản nghịch, không thuận phục, không thể thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời. Ngoài ra, khi kết giao với người khác, họ có những biểu hiện nào? Họ dựa vào triết lý xử thế, ở đâu cũng phải chiếm lợi thế, còn bảo vệ các mối quan hệ cá nhân. Loại người này có một loại tâm tính là vô cùng gian trá, sự gian trá này chung quy lại là gì? Là sự tà ác. Thông thường, con người không dễ nhận biết tâm tính tà ác. Khi nói chuyện với người khác, người có tâm tính tà ác luôn mang tính chất thăm dò, tìm hiểu, họ sẽ không nói thẳng. Dù họ có cởi mở, thì mục đích cũng là vì muốn lừa ngươi nói ra lời thật lòng, còn bản thân họ thì chẳng hề để lộ con người thật của mình. Có những người nói: “Sao họ có thể không để lộ con người thật chứ? Họ thường thông công với người khác về sự bộc lộ tâm tính bại hoại của mình mà”. Họ thông công chút đó thì tính là gì? Họ sẽ không nói những ý nghĩ thật sự trong lòng cho bất cứ ai, lại còn dùng đủ loại thủ đoạn, phương thức hoặc là dùng đủ loại lời lẽ để cố hết sức che giấu, ngụy trang, cho người ta hình tượng giả tạo. Nếu có người hiểu rõ con người thật của họ, biết họ đã làm chuyện xấu gì, thì họ sẽ ngụy trang, nói vài lời ân hận, áp dụng phương thức mê hoặc khiến người ta lầm tưởng rằng họ đã hối cải, có sự thay đổi. Nếu như lại làm chuyện xấu và bị lộ tẩy, để cho người ta nhìn thấy chân tướng kẻ ác của họ, thì họ sẽ vắt óc suy nghĩ, tìm mọi cách che giấu tình hình thực tế này, khiến người ta vẫn đối đãi với họ như anh chị em. Đây là tâm tính gì? Là tà ác. Người có loại tâm tính tà ác này không những không hề tiếp nhận lẽ thật, mà còn giỏi ngụy trang, luôn ngụy biện, biện bạch cho mình. Đây chính là người Pha-ri-si giả hình. Loại người này sợ nhất là việc người ta thông công lẽ thật, sợ nhất là việc người ta mở lòng để nhận biết, mổ xẻ bản thân, sợ nhất là việc người ta vạch trần chân tướng sự thật rồi vạch trần họ. Chỉ cần người ta thông công lẽ thật, họ sẽ vô cùng chán ghét và không sẵn lòng nghe. Trong lòng, họ sẽ chống đối, có ác cảm, hoàn toàn bộc lộ ra sự xấu xí là chán ghét lẽ thật. Ngoài việc hiểu rõ lẽ thật nhưng không thực hành ra, loại người này còn có một vấn đề nữa. Đó chính là có thái độ chống đối, không thèm để ý tới đối với những điều tích cực, quan điểm đúng đắn, và nhất là đối với những lời phù hợp với lẽ thật. Chỉ cần là điều tích cực hoặc là lời phù hợp với lẽ thật, chỉ cần không phải thứ họ cho là tốt hay không phải thứ do họ nói ra mà là do người khác nói ra, thì họ sẽ không tiếp nhận. Đây là tâm tính gì? Là ngu muội ngoan cố, cương ngạnh, ngu xuẩn. Ngươi nên đánh giá thế nào về việc một người có mưu cầu lẽ thật hay không? Điều đầu tiên cần xem xét là những bộc lộ và biểu hiện của họ khi thực hiện bổn phận và làm việc. Từ điều này, ngươi có thể thấy được tâm tính của một người. Từ tâm tính của họ, ngươi có thể thấy liệu họ đã đạt được bất kỳ sự thay đổi nào hay đạt được bất kỳ lối vào sự sống nào chưa. Nếu ai đó chẳng bộc lộ gì ngoài những tâm tính bại hoại khi họ hành động, và không hề có thực tế lẽ thật nào, thì họ chắc chắn không phải là người mưu cầu lẽ thật. Những người không mưu cầu lẽ thật thì có lối vào sự sống không? Không, chắc chắn không có. Những việc họ làm hàng ngày, việc họ chạy đôn chạy đáo, dâng mình, chịu khổ, cái giá mà họ trả, bất kể họ làm gì, tất cả đều chỉ là đem sức lực phục vụ, và họ là những người đem sức lực phục vụ. Bất kể một người đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, điều quan trọng nhất là họ có yêu lẽ thật hay không. Những gì một người yêu thích và theo đuổi có thể được nhìn thấy từ những gì họ thích làm nhất. Nếu hầu hết những điều một người làm đều tuân theo các nguyên tắc lẽ thật và yêu cầu của Đức Chúa Trời thì đây là người yêu và mưu cầu lẽ thật. Nếu họ có thể thực hành lẽ thật, và những việc họ làm hàng ngày là để thực hiện bổn phận của mình, thì họ có lối vào sự sống, và sở hữu những thực tế lẽ thật. Hành động của họ có thể không phù hợp trong những việc nhất định, hoặc họ có thể không nắm bắt chính xác các nguyên tắc lẽ thật, hoặc họ có thể có thành kiến cố chấp, hoặc đôi khi họ có thể kiêu ngạo và tự nên công chính, cố chấp theo cách của mình, và không chấp nhận lẽ thật, nhưng nếu sau đó họ có thể ăn năn và thực hành lẽ thật thì điều này chứng tỏ chắc chắn họ có lối vào sự sống và mưu cầu lẽ thật. Nếu những gì ai đó bộc lộ trong quá trình thực hiện bổn phận của họ không là gì khác ngoài những tâm tính bại hoại, miệng đầy những lời dối trá, ngạo mạn, buông thả, ngông cuồng tự đại, độc đoán chuyên quyền, làm bất cứ điều gì mà họ thích, v.v., và dù họ đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm hay họ đã nghe bao nhiêu bài giảng nhưng nếu cuối cùng cũng không có một chút thay đổi nào trong những tâm tính bại hoại này, thì đây chắc chắn không phải là người mưu cầu lẽ thật. Có rất nhiều người đã tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm, những người nhìn bề ngoài không phải là những kẻ ác, và thậm chí đã có một số hành vi tốt. Họ tin Đức Chúa Trời một cách khá nhiệt tâm, nhưng những tâm tính sự sống của họ không hề thay đổi, và họ thậm chí không có một chút lời chứng trải nghiệm nào để chia sẻ. Chẳng phải những người như vậy đáng thương sao? Sau bao nhiêu năm tin Đức Chúa Trời, họ không thể nói ra một chút lời chứng trải nghiệm. Đây hoàn toàn là một kẻ đem sức lực phục vụ. Họ thực sự đáng thương! Nói tóm lại, để đánh giá liệu một người có mưu cầu lẽ thật và có lối vào sự sống hay không, ngươi phải thông qua mọi điều mà họ bộc lộ và biểu hiện mà nhìn ra tâm tính và thực chất của họ là gì, nhìn ra rốt cuộc họ có thay đổi tâm tính hay không. Nếu ai đó luôn nói câu chữ và đạo lý, ngụy trang và lừa dối, thì những hành động của họ sẽ không tồn tại được lâu. Họ chỉ làm hại bản thân họ, chứ không thể lừa dối được người khác. Những người không chấp nhận lẽ thật và không mưu cầu lẽ thật thì sớm muộn gì cũng bị phơi bày và bị đào thải. Chỉ những ai tiếp nhận và thực hành lẽ thật mới có thể đạt được lối vào sự sống và thay đổi tâm tính.

Lối vào sự sống là gì, mưu cầu lẽ thật là gì, các loại biểu hiện của người mưu cầu lẽ thật, Ta đã thông công xong về những điều này. Con người nên đối chiếu với bản thân, và hiểu được lẽ thật rồi thì phải thực hành. Khó khăn lớn nhất của hầu hết những người tin Đức Chúa Trời là gì? Đó là hiểu rõ lẽ thật nhưng không thực hành. Mặc dù sau khi đọc xong lời Đức Chúa Trời, họ có thể đối chiếu với bản thân, cũng có thể có chút nhận thức về chính mình, nhưng tại sao họ lại không thực hành được lẽ thật? Hầu hết mọi người đều không tìm ra nguyên nhân. Ví dụ, con người ai cũng có tâm tính kiêu ngạo, vô cùng kiêu ngạo, tự cho mình là đúng. Đây là điều mà đa số mọi người có thể nhận biết được, nhưng họ có làm được việc không bộc lộ sự kiêu ngạo không? Điều này sẽ không dễ đạt được. Tuy rằng khi đọc lời Đức Chúa Trời, họ đều có thể đối chiếu với bản thân, đều thừa nhận rằng mình có tâm tính kiêu ngạo, cũng có được con đường thực hành, nhưng cái khó chính là lúc làm việc thì họ vẫn thường có sở thích của mình, có ý định, mục đích của mình, lại còn không thấy được rằng điều này có liên quan đến tâm tính bại hoại. Đối với những chuyện này, con người phải học cách phân định, phải hiểu lẽ thật, nên giải quyết thì giải quyết, nên buông bỏ thì buông bỏ. Nói cách khác, khi không còn làm việc vì ý định, dục vọng, thể diện, địa vị, lợi ích của mình, dừng việc hành ác, không nói thêm câu nào, làm thêm việc nào vì lợi ích của mình, thì như thế là ngươi đã có lòng hối cải, bắt đầu có thay đổi về mặt tiêu cực. Nếu chủ động hơn một chút nữa, thì không những ngươi không nói năng vì bản thân, mà còn có thể mổ xẻ chính mình, khiến anh chị em nhìn thấy những biểu hiện tâm tính kiêu ngạo của ngươi, có thể lấy đó làm gương và rút ra bài học, đạt được lợi ích, tìm được con đường thực hành, như vậy thì càng tốt. Cái khó là gì? Cái khó chính là việc phải buông bỏ tất cả ý định, mục đích, dã tâm, dục vọng, lợi ích của mình, không làm việc, không bận rộn, bôn ba vì bản thân. Phao-lô nói ông đã xong sự chạy. Sự chạy của ông là vì ai? (Thưa, chạy để mình được phúc, đạt được mão triều thiên.) Nhưng Phao-lô không có nhận thức này, có lẽ ông vẫn cảm thấy rằng mình đang chạy cho Đức Chúa Trời, chạy để hoàn thành sự uỷ thác của Đức Chúa Trời, căn bản là ông không chạy vì bản thân, vì vậy ông đã dám làm chứng và thể hiện bản thân một cách trâng tráo như vậy. Đây rõ ràng là giãi bày, biện bạch cho chính mình, đồng thời cũng là bằng chứng tốt nhất để ông làm chứng cho việc mình sống là Đấng Christ. Rõ ràng là ông đã làm chứng cho chính mình, chống lại lẽ thật, và đang báng bổ lẽ thật. Bây giờ có rất nhiều người sùng bái Phao-lô, trong lòng đầy dã tâm và dục vọng, tất cả đều muốn làm chứng cho chính mình: “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin: Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta” (2 Ti-mô-thê 4:7-8), đây có phải là buông thả dã tâm và dục vọng bản thân, khiến chúng không ngừng bành trướng, và thể hiện chúng trong đủ mọi trường hợp, để chúng có thể thành hiện thực hay không? Nếu không thể thắng nổi dục vọng của mình thì ngươi tiêu rồi, ngươi sẽ không bước vào thực tế lẽ thật được. Mấu chốt của vấn đề này nằm ở đâu? (Thưa, nằm ở việc phải chống lại ý định của mình.) Chống lại ý định của mình là sự thực hành theo khía cạnh tiêu cực. Ngươi còn phải chủ động vạch trần nó, giống như vạch trần người khác vậy. Nếu ngươi nói thế này: “Tôi nói tình hình thực tế cho các anh biết, tôi đây là người có dã tâm lớn, và tôi muốn lôi kéo các anh. Bây giờ, tôi mở lòng với mọi người, tôi sẵn lòng chống lại xác thịt, tôi không đồng lõa với Sa-tan. Mục đích tôi vạch trần bản thân như vậy là để các anh thấy rõ bộ mặt trước đây của con người tôi, và không sùng bái tôi nữa”, thực hành như vậy thì kết quả sẽ như thế nào? Mọi người chắc chắn sẽ khâm phục ngươi. Vậy có phải tốt hơn nhiều so với việc ngươi dựa vào đủ loại thủ đoạn đê tiện để đổi lấy sự sùng bái, ngưỡng vọng hay không? (Thưa, phải.) Ít nhất đó cũng là điều tích cực. Tuy rằng mọi người có chút thán phục ngươi, nhưng liệu họ có thể ngưỡng vọng ngươi hay không? Cũng có thể có người sẽ ngưỡng vọng, nhưng ngươi phải dùng vài phương thức mà làm cho họ từ bỏ cách làm này. Ngươi luôn tự vạch trần mình và nói rằng: “Tôi cũng có sự phản nghịch, sự phản nghịch của tôi còn nghiêm trọng hơn các anh. Tôi cũng có sự giả dối, cũng có sự tà ác. Lần đó tôi nói chuyện là có mục đích, là để khiến cho các anh coi trọng tôi, không xem thường tôi”. Sau khi mọi người nghe xong những lời này, trong lòng chẳng những không xem thường, mà còn tôn trọng ngươi hơn nữa. Đây là cách thực hành quang minh chính đại. Chỉ có người yêu thích lẽ thật mới có thể làm như vậy, còn người không yêu thích lẽ thật, cho dù họ có làm thế nào thì cũng không làm được như vậy. Nếu trong lòng các ngươi cảm thấy làm như vậy là rất tốt, rất vinh dự, được Đức Chúa Trời yêu thích, và ngươi khao khát làm như vậy, thì trong lòng ngươi sẽ có một mong muốn mãnh liệt và cảm thấy mình nên làm như vậy, nên làm người như vậy, một người quang minh chính đại, trung thực, một người không có bất kỳ lời nói dối nào, người hoàn toàn chống lại tâm tính bại hoại của mình, chống lại Sa-tan. Như vậy mới là người thực sự sống trong ánh sáng. Nếu hướng về và thực sự yêu thích người như vậy, thì ngươi sẽ có thể yêu thích lẽ thật, có thể bước vào lẽ thật, có thể buông bỏ những thứ thuộc về Sa-tan. Nếu như ngươi vẫn có hứng thú đối với ý định, mục đích, dã tâm, dục vọng và lợi ích của mình, vẫn lưu luyến việc mưu cầu tri thức, danh lợi, địa vị, thì những thứ này vẫn có chỗ trong lòng ngươi. Ngươi sẽ nói rằng: “Từ từ hẵng nói, đợi đến khi vóc giạc của con thích hợp rồi hẵng nói”, cái này gọi là phóng túng bản thân, không thể hoàn toàn chống lại bản thân. Ngươi phóng túng như vậy thì lối vào sự sống sẽ bị trì hoãn, chẳng những không giải quyết được vấn đề ham mê hưởng thụ xác thịt, tham hưởng lợi ích của địa vị, mà ngược lại ngươi còn thêm ngoan cố. Vậy những thứ thuộc về Sa-tan trong lòng ngươi có thể hoàn toàn được làm cho tinh sạch không? Ngươi còn có thể đi sâu vào trải nghiệm sự sống, và sự sống của ngươi còn có thể tiếp tục trưởng thành không? Ngươi còn có thể đạt đến việc được Đức Chúa Trời hoàn thiện không? Ngươi đã rơi vào sự hưởng thụ xác thịt, lợi ích của địa vị đã trói chặt ngươi, vậy ngươi còn có thể thoát ra được sao? Ngươi sẽ không muốn thoát ra, dần dần ngươi sẽ trở thành kẻ mê hoặc con người, vậy thì phiền phức rồi, tội của ngươi sẽ rất lớn. Tại sao Phao-lô lại có kết cục như vậy? Chính là bởi vì ông không hề mưu cầu lẽ thật, luôn mưu cầu những lý tưởng và khao khát của mình. Ông còn muốn khống chế dân được Đức Chúa Trời chọn, bắt họ phải đi theo ông, bắt chước ông, còn muốn mượn sự làm việc vất vả và việc trả giá để giao dịch với Đức Chúa Trời, để được ban thưởng, được mão triều thiên. Cuối cùng ông đã bị Đức Chúa Trời trừng phạt. Nếu con đường con người đi hoàn toàn giống với con đường của Phao-lô thì họ đã vô phương cứu chữa, hoàn toàn tiêu tùng rồi. Chỉ cần là những loại người như Phao-lô thì đều là kẻ địch lại Đấng Christ chết cũng không hối cải. Nếu như chỉ có một vài tình trạng của Phao-lô, còn mục tiêu mưu cầu vẫn có chút khác biệt với ông, thì ngươi phải mau chóng hối cải đi, có lẽ vẫn còn kịp. Nếu ngươi làm theo Phao-lô, sùng bái Phao-lô, giống Phao-lô như đúc, thì ngươi không những là người không tin, mà còn muốn làm Đức Chúa Trời, làm Đấng Christ. Có phải ngươi muốn ngồi ngang hàng với Đức Chúa Trời hay không? Trong lòng ngươi sùng bái Đức Chúa Trời mơ hồ trên trời, ngươi muốn ngồi ngang hàng với Đấng Christ, còn muốn biến ân tứ, tri thức của mình thành sự sống, biến việc mưu cầu không chính đáng thành việc mưu cầu chính đáng. Mục tiêu và phương thức mưu cầu của ngươi ngày càng giống với Phao-lô, ngày càng ăn khớp một cách hoàn chỉnh với mưu cầu của Phao-lô, vậy thì ngươi gặp phiền phức rồi. Ngươi sẽ hoàn toàn hết hy vọng và không thể được cứu rỗi. Ngươi hãy noi theo Phi-e-rơ, đi con đường mưu cầu lẽ thật, hoàn toàn chống lại xác thịt, chống lại những thứ thuộc về Sa-tan, như vậy ngươi mới có thể có hy vọng được cứu rỗi. Bây giờ, các ngươi đã có con đường nào để được cứu rỗi chưa? (Thưa, đó là con đường không ngừng vạch trần bản thân, buông bỏ chính mình.) Trước hết, ngươi phải buông bỏ ý định, mục đích, dã tâm, dục vọng cá nhân. Cho dù đó là mưu cầu một cách chủ động hay một cách tiêu cực và bị động, ngươi đều phải buông bỏ những thứ này, học cách thuận phục. Đây là điều quan trọng nhất. Nếu gặp chuyện và định làm như thế, thì ngươi phải cân nhắc một chút làm như vậy là vì cái gì, nếu như là vì thể diện và địa vị, vậy trước hết hãy dừng lại, hành động chậm lại. Ngươi phải cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, con không muốn làm như vậy, con muốn chống lại nó. Thế nhưng con không có sức mạnh, cầu xin Ngài ban cho con thêm sức mạnh, bảo vệ con, ngăn cản bước chân hành ác của con”. Chẳng biết tự lúc nào, ngươi sẽ có được sức mạnh. Năng lực chiến thắng tội lỗi, năng lực chống lại thể xác và năng lực chống lại tâm tính bại hoại của con người, có lúc xuất phát từ tâm nguyện, tâm chí và cả mong muốn yêu mến lẽ thật của con người, có lúc thì cần Đức Chúa Trời công tác, cần cậy dựa Đức Chúa Trời thì mới có được. Con người không thể tách rời Ngài. Có lúc ngươi hiểu rõ lẽ thật, có con đường khả thi, thế là ngươi cảm thấy mình có thể sống độc lập. Nhưng khi gặp phải hoàn cảnh mới, ngươi lại không biết làm thế nào để thực hành, ngươi vẫn phải cầu nguyện Ngài, cậy dựa Ngài. Cuộc đời con người đầy trắc trở, vậy nên, có thể nói là con người vĩnh viễn không thể tách rời Đức Chúa Trời. Dù có hiểu rõ lẽ thật, con người cũng không thể rời khỏi Ngài. Bất kể con người có bao nhiêu lần tiêu cực, có bao nhiêu lần bị động, cuối cùng họ vẫn không thể tách khỏi sự lãnh đạo, dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Ngươi thuận phục Đức Chúa Trời càng nhiều lần thì thực tế lẽ thật của ngươi càng nhiều; thực tế lẽ thật càng nhiều thì có nghĩa là lối vào sự sống của ngươi ngày càng sâu; lối vào sự sống ngày càng sâu thì có nghĩa là tâm tính của ngươi thay đổi ngày càng nhiều; tâm tính thay đổi nhiều tức là con người ngươi có vóc giạc, vóc giạc của ngươi sẽ đại diện cho lối vào sự sống của ngươi. Ngươi có vóc giạc thì có thể thắng được sự khống chế, trói buộc của tâm tính bại hoại đối với mình, năng lực vượt qua tội lỗi của ngươi sẽ trở nên mạnh mẽ, và trong lòng ngươi sẽ có sức mạnh. Không phải ngươi sẽ chỉ có một tâm nguyện, nguyện vọng, chí hướng cảm tính, không phải dừng lại ở mức độ này. Ngươi sẽ thăng hoa, trưởng thành, trở thành người có lẽ thật, có nhân tính. Đây chính là con đường mưu cầu lẽ thật, cũng là thành quả của việc mưu cầu lẽ thật. Các ngươi có nhìn thấy phương hướng hay không? Có thể nhìn thấy hy vọng hay không? (Thưa, có thể.) Đây là chuyện tốt.

Lối vào sự sống là chuyện bất tận, phải trải nghiệm cả đời mới có thể đạt được và có thay đổi. Cho dù ngươi đi con đường mưu cầu lẽ thật, nhưng nếu như ngươi ham mê hưởng thụ xác thịt, ham mê lợi ích của địa vị, thì cũng sẽ vấp ngã và thất bại như thường. Bây giờ, con đường của ngươi là đúng, ngươi đã tìm ra phương hướng cho mình, cũng đã phân định được rõ ràng những thứ không đúng đắn, những thứ tiêu cực, phản diện và xấu xa, đã vạch rõ giới hạn với chúng. Ngươi cũng đã hiểu rõ và đạt được không ít những thứ tích cực, đã có thể lĩnh hội không ít, tiếp nhận không ít. Còn lại chính là sau khi có sự phân định đối với những sự vật, sự việc và cách làm sai lầm, tà ác, phản diện này, ngươi sẽ bài trừ chúng hoàn toàn khỏi lòng mình, hoàn toàn từ bỏ và chống lại chúng, sau đó thực hành theo nguyên tắc lẽ thật, như vậy thì ngươi sẽ có lối vào sự sống. Lối vào sự sống thực ra không khó, chỉ là ngươi có thật sự yêu thích lẽ thật hay không. Nếu ngươi thật sự yêu thích lẽ thật thì những thứ phản diện này sẽ không thể đánh bại ngươi, ngươi tiêu cực yếu đuối một thời gian rồi vẫn có thể tiếp tục đi về phía trước. Nếu ngươi không yêu thích lẽ thật, hoặc tinh thần yêu thích lẽ thật không lớn như vậy, chỉ là hình thức bề ngoài, có chút dâng mình và trả giá, có thể đi sớm về khuya khi thực hiện bổn phận, tức là dừng lại ở giai đoạn đem sức lực phục vụ, không muốn đạt đến việc hiểu rõ lẽ thật và bước vào thực tế, chỉ hài lòng với việc có thể dâng mình vì Đức Chúa Trời, không có vi phạm lớn là được, cứ giậm chân tại chỗ. Như thế thì hậu quả sẽ như thế nào? Ngươi sẽ không bao giờ được Đức Chúa Trời khen ngợi. Nếu muốn mưu cầu lẽ thật thành công, thực sự đạt được sự sống thì không phải là chuyện đơn giản, nhất định phải buông bỏ lợi ích của chính mình, còn phải buông bỏ tất cả những mưu cầu không chính đáng, như mưu cầu danh lợi, địa vị, mưu cầu được phúc, hoặc mưu cầu được mão triều thiên, được ban thưởng. Ngươi phải buông bỏ tất cả những thứ này. Nếu ngươi thật sự yêu thích lẽ thật, thích nghiền ngẫm lời Đức Chúa Trời, thì đối với ngươi, lối vào sự sống không phải là chuyện khó. Chỉ cần hiểu lẽ thật thì tự nhiên ngươi sẽ có con đường, sẽ không có khó khăn gì nữa.

Ngày 21 tháng 6 năm 2018

Trước: Cách xác định thực chất bản tính của Phao-lô

Tiếp theo: Chỉ bằng cách giải quyết những quan niệm của mình thì mới có thể tiến vào đúng hướng của đức tin nơi Đức Chúa Trời (1)

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger