Chỉ bằng cách giải quyết những quan niệm của mình thì mới có thể tiến vào đúng hướng của đức tin nơi Đức Chúa Trời (1)
Các ngươi tin Đức Chúa Trời đã nhiều năm như vậy, mặc dù đã hiểu một vài lẽ thật, nhưng trong lòng mỗi người đều có một vài cách hiểu, niềm tin và tưởng tượng của riêng mình, là thứ hoàn toàn đi ngược và mâu thuẫn với lẽ thật, với tâm ý của Đức Chúa Trời, những thứ này là gì? Chính là quan niệm của con người. Con người tuy rằng không có chút lẽ thật nào, nhưng đầu óc con người có thể sinh ra rất nhiều quan niệm và tưởng tượng, những quan niệm và tưởng tượng này đều không ăn nhập với lẽ thật, hễ thứ gì đi ngược với lẽ thật thì đều thuộc về quan niệm và tưởng tượng của con người. Vậy quan niệm của con người nảy sinh như thế nào? Trong chuyện này có nhiều nguyên nhân, một mặt là do sự hun đúc của văn hóa truyền thống, ngoài ra còn có sự truyền bá, tiêm nhiễm của tri thức, cũng như sự ảnh hưởng của trào lưu xã hội và giáo dục gia đình, vân vân. Ở Trung Quốc, một quốc gia có chủ nghĩa vô thần cai trị mấy ngàn năm, thì cách hiểu và định nghĩa của họ về Đức Chúa Trời là gì? Đó là tuy rằng không nhìn thấy, không sờ được, nhưng Đức Chúa Trời thực sự tồn tại, có thể bay tới bay lui trên không trung, đến không thấy hình, đi không thấy dấu, đột nhiên xuất hiện đột nhiên biến mất, có thể xuyên tường mà không bị vật chất, không gian cản trở, hơn nữa còn có khả năng to lớn, không gì là không thể, đây chính là quan niệm và tưởng tượng của con người về Đức Chúa Trời. Tưởng tượng và quan niệm của họ từ đâu mà có? Chủ yếu có quan hệ trực tiếp với sự hun đúc, giáo dục của văn hóa truyền thống. Sự giáo dục của chủ nghĩa vô thần đã lưu truyền ở Trung Quốc mấy ngàn năm, đã sớm gieo xuống hạt giống của chủ nghĩa vô thần vào sâu thẳm trong tâm hồn con người. Trong thời kỳ này, Sa-tan và các loại tà linh trong dân gian đều đã lộ ra rất nhiều dấu kỳ và phép lạ để mê hoặc, kiểm soát con người, truyền bá rộng rãi khắp dân gian, tạo ra tác động cực kỳ xấu, những tà linh làm những chuyện mê hoặc con người, lừa gạt và hãm hại con người một cách trắng trợn, do đó con người đã nảy sinh rất nhiều quan niệm và tưởng tượng về Đức Chúa Trời. Nói tóm lại, quan niệm và tưởng tượng của con người hoàn toàn là do sự hun đúc, tiêm nhiễm của xã hội tà ác thuộc về Sa-tan mà ra. Từ cổ chí kim, con người từ thế hệ này đến thế hệ khác đều tiếp nhận sự giáo dục của Sa-tan, tiếp nhận sự truyền bá, tiêm nhiễm của văn hoá truyền thống và tri thức, để rồi nảy sinh các loại quan niệm và tưởng tượng. Mặc dù nó không ảnh hưởng trực tiếp đến công việc, học tập và cuộc sống bình thường của con người nhưng chính những quan niệm và tưởng tượng này lại mang đến trở ngại rất lớn cho việc con người tiếp nhận và thuận phục công tác của Đức Chúa Trời, cho dù con người tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời thì chúng cũng mang đến cho họ lực cản rất lớn trong việc nhận thức và thuận phục Đức Chúa Trời, dẫn đến việc dù con người đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm thì đức tin của họ vẫn rất nhỏ bé, thường tiêu cực và yếu đuối, gặp phải thử luyện cũng rất khó đứng vững được, đây chính là hậu quả do quan niệm và tưởng tượng gây ra.
Đa số mọi người cho rằng tin Đức Chúa Trời chính là làm việc thiện, làm người tốt, ví dụ như, nhìn thấy người nghèo thì nên bố thí tiền bạc, làm như thế mới là người tin Đức Chúa Trời. Nếu ai đó làm được nhiều việc tốt, được người khác khen ngợi, họ sẽ cảm tạ Đức Chúa Trời từ trong lòng, còn nói với người khác rằng: “Anh đừng cảm ơn tôi, anh nên tạ ơn Đức Chúa Trời ở trên trời, là Ngài bảo tôi làm như vậy”. Sau khi được người khác khen ngợi, trong lòng họ rất thỏa mãn, rất được an ủi, cảm thấy tin Đức Chúa Trời là tốt, cảm thấy nếu được con người thừa nhận thì chắc chắn cũng được Đức Chúa Trời thừa nhận. Sự an ủi trong lòng họ từ đâu mà có? (Thưa, từ quan niệm và tưởng tượng.) Cảm giác được an ủi của họ là thật hay giả? (Thưa, là giả.) Nhưng đối với họ mà nói thì lại là thật, họ cảm thấy chuyện này rất thực tế, rất chân thực, rất hiện thực, bởi vì thứ họ mưu cầu chính là sự an ủi này. Vậy sự an ủi này nảy sinh như thế nào? Là do quan niệm của họ làm nảy sinh một sự ảo tưởng như vậy, khiến họ cảm thấy tin Đức Chúa Trời thì nên như vậy, nên làm người như vậy, nên đi theo phương hướng này, làm như vậy thì Đức Chúa Trời chắc chắn hài lòng, cuối cùng chắc chắn có thể được cứu rỗi và vào thiên quốc. Những thứ “chắc chắn” này từ đâu mà ra? (Thưa, từ quan niệm của con người.) Quan niệm và tưởng tượng cho họ sự chắc chắn và ảo tưởng như thế, khiến cho trong lòng họ cảm thấy vô cùng dễ chịu. Trên thực tế, Đức Chúa Trời đánh giá và phán định chuyện này như thế nào? Đây chỉ là một loại hành vi tốt của con người, dựa theo quan niệm và những gì mà con người cho là việc tốt. Đến một ngày nào đó, sau khi họ làm một chuyện trái với nguyên tắc và bị tỉa sửa, họ mới phát hiện ra tiêu chuẩn đánh giá của Đức Chúa Trời về người tốt không phải như họ từng nghĩ, lời Đức Chúa Trời không có nói như vậy, thế là trong lòng họ liền chống đối: “Chẳng lẽ mình không phải là người tốt sao? Mình làm người tốt đã nhiều năm như vậy rồi, không có ai nói mình không phải người tốt, chỉ có Đức Chúa Trời nói mình không phải người tốt!”. Đây có phải là có vấn đề rồi không? Vấn đề này nảy sinh như thế nào? Nảy sinh từ quan niệm của con người. Vậy đầu sỏ là gì? (Thưa, là quan niệm.) Đầu sỏ chính là quan niệm của con người. Quan niệm của con người khiến họ thường nảy sinh hiểu lầm đối với Đức Chúa Trời, thường có đủ loại yêu cầu, phán đoán, đủ loại tiêu chuẩn đánh giá đối với Đức Chúa Trời, cũng khiến họ thường dùng những tư tưởng và quan điểm sai lầm để đánh giá mọi sự đúng hay sai, đánh giá người ta tốt hay xấu, đánh giá người ta có trung thành hay không, có đức tin nơi Đức Chúa Trời hay không. Căn nguyên dẫn đến những sai lầm này là gì? Chính là quan niệm của con người. Những quan niệm của con người có thể không tác động lên những gì họ ăn hay cách họ ngủ, và chúng có thể không tác động lên đời sống bình thường của họ, nhưng chúng có tồn tại trong tâm tư và ý nghĩ của con người, chúng bám lấy con người như một cái bóng, theo sát họ mọi lúc. Nếu ngươi không thể loại bỏ chúng, thì chúng sẽ liên tục kiểm soát suy nghĩ và phán đoán của ngươi, kiểm soát hành vi của ngươi, kiểm soát nhận thức của ngươi về Đức Chúa Trời, kiểm soát mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời. Giờ ngươi đã thấy rõ chuyện này chưa? Quan niệm là vấn đề lớn. Con người có những quan niệm về Đức Chúa Trời giống như một bức tường chắn giữa họ và Đức Chúa Trời, thứ ngăn cản họ nhìn thấy khuôn mặt thật của Đức Chúa Trời, ngăn cản họ nhìn thấy tâm tính thật và thực chất thật của Đức Chúa Trời. Tại sao vậy? Bởi vì con người sống trong những quan niệm của họ, và trong những tưởng tượng của họ, và họ dùng những quan niệm của mình để xác định Đức Chúa Trời là đúng hay sai, và để đánh giá, xét đoán và lên án tất cả những gì Đức Chúa Trời làm. Con người thường sa vào loại tình trạng gì khi làm điều này? Liệu con người có thể thật sự thuận phục Đức Chúa Trời khi họ sống giữa những quan niệm của họ không? Liệu họ có thể có đức tin thật nơi Đức Chúa Trời không? (Không, họ không thể.) Ngay cả khi con người có thuận phục một chút, thì họ cũng làm thế theo những quan niệm và tưởng tượng của riêng họ. Khi người ta dựa vào những quan niệm và tưởng tượng của họ, thì nó trở nên bị uế tạp bởi những thứ cá nhân thuộc về Sa-tan và thế giới, nó cũng mâu thuẫn với lẽ thật. Vấn đề của những quan niệm của con người về Đức Chúa Trời là một vấn đề nghiêm trọng; nó là một vấn đề lớn giữa con người và Đức Chúa Trời, là điều khẩn thiết cần được giải quyết. Mỗi người đến trước Đức Chúa Trời đều mang những quan niệm, họ mang đủ mọi dạng hoài nghi về Đức Chúa Trời. Hoặc cũng có thể nói rằng họ mang vô số sự hiểu lầm về Đức Chúa Trời bất chấp tất cả những gì Đức Chúa Trời ban cho họ, bất chấp những sự dàn xếp và sắp đặt của Ngài. Và mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời sẽ trở thành loại quan hệ gì? Con người liên tục hiểu lầm Đức Chúa Trời, họ liên tục hoài nghi Đức Chúa Trời, và họ luôn dùng những tiêu chuẩn của mình để đánh giá Đức Chúa Trời là đúng hay sai, để đánh giá mỗi một lời và công việc của Ngài. Dạng hành vi này là gì? (Thưa, là phản nghịch, chống đối.) Đúng vậy, là phản nghịch, chống đối, lên án Đức Chúa Trời, lại còn xét đoán và báng bổ Đức Chúa Trời, tỉ thí với Ngài, thậm chí đến lúc nghiêm trọng con người còn kiện Đức Chúa Trời ra tòa, “quyết đấu” với Ngài. Quan niệm của con người lúc nghiêm trọng nhất sẽ đến mức độ nào? Là phủ nhận chính Đức Chúa Trời chân thật, phủ nhận lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, còn muốn lên án công tác của Đức Chúa Trời, khi đạt đến mức độ này, tự khắc họ sẽ phủ nhận Đức Chúa Trời, lên án, báng bổ và phản bội Ngài. Họ không chỉ phủ nhận sự tồn tại của Đức Chúa Trời mà còn có thể từ chối tiếp nhận lẽ thật, từ chối đi theo Ngài, điều này có phải rất đáng sợ hay không? (Thưa, phải.) Đó là một vấn đề rất đáng sợ. Có thể nói, đối với con người quan niệm “có hại trăm đường, lợi thì không có”. Vì thế mà hôm nay chúng ta thông công, mổ xẻ về chuyện quan niệm là gì và con người có những quan niệm nào, đây là chuyện rất cần thiết. Thông thường các ngươi sẽ nảy sinh những quan niệm nào? Có tư tưởng, nhận thức nào, có xét đoán hay quan điểm nào thuộc về quan niệm không? Những điều này có đáng để suy nghĩ không? Hành vi của con người không thuộc về quan niệm, nhưng tư tưởng, quan điểm đằng sau hành vi đó có quan hệ trực tiếp với quan niệm. Quan niệm của con người không nằm ngoài phạm vi công tác của Đức Chúa Trời. Mục thứ nhất là các loại quan niệm mà con người nảy sinh đối với việc tin Đức Chúa Trời, nghĩa là con người có những tưởng tượng và định nghĩa khác nhau đối với việc tin Đức Chúa Trời, việc phải được những gì và phải đi con đường nào khi tin Đức Chúa Trời, do đó nảy sinh đủ loại quan niệm. Mục thứ hai là quan niệm của con người đối với sự nhập thể của Đức Chúa Trời. Con người càng có tưởng tượng, có định nghĩa về sự nhập thể thì tự khắc sẽ nảy sinh rất nhiều quan niệm, đây là quan hệ liên đới. Mục thứ ba là quan niệm mà con người nảy sinh đối với công tác của Đức Chúa Trời. Con người có những tưởng tượng và định nghĩa khác nhau về lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ, về tâm tính mà Đức Chúa Trời bộc lộ và về cách thức công tác của Đức Chúa Trời, do đó nảy sinh rất nhiều quan niệm. Trong ba mục này, vẫn có thể phân chia chi tiết hơn một chút, nhưng quan niệm của con người về cơ bản đều bao gồm ba mục này, chúng ta sẽ thông công từng mục một.
Trước hết chúng ta sẽ nói về mục thứ nhất, đó là các loại quan niệm mà con người nảy sinh đối với việc tin Đức Chúa Trời. Các phương diện của quan niệm này tương đối rộng một chút. Bất kể con người có xa lạ gì với chuyện tin Đức Chúa Trời hay không, trước đây đã từng tin hay chưa, thì từ lúc bắt đầu tin Đức Chúa Trời, họ đều có rất nhiều quan niệm và tưởng tượng. Khi bắt đầu đọc Kinh Thánh, trong lòng người cảm khái mà nghĩ rằng, “Mình phải làm người tốt, phải vào thiên đàng”, sau đó họ nảy sinh đủ loại tưởng tượng, định nghĩa hoặc định vị về chuyện tin Đức Chúa Trời, chắc chắn sẽ nảy sinh những quan niệm khác nhau. Ví dụ, con người có đủ loại tưởng tượng về việc phải làm người như thế nào sau khi tin Đức Chúa Trời. Có người nói: “Sau khi tin Đức Chúa Trời, tôi sẽ không hút thuốc, không uống rượu, cũng không đánh bạc, không đến những nơi tà ác, nói chuyện với người khác phải lễ độ, trên mặt nở nụ cười”. Đây là cái gì vậy? Đây là quan niệm hay là hành vi mà con người nên có? (Thưa, là hành vi con người nên có.) Đây là biểu hiện của nhân tính bình thường, con người nên làm như vậy, đây không được tính là quan niệm cũng không phải là tưởng tượng gì, ý nghĩ này vẫn là hợp tình hợp lý. Có người anh em đã lớn tuổi nói rằng: “Tôi đã lớn tuổi, cũng đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm rồi, bây giờ nói chuyện, làm việc đều phải làm gương cho người trẻ, không thể tí ta tí toét, cũng không thể vì mình già mà không đàng hoàng. Tôi phải để người khác nhìn thấy sự đứng đắn, nhã nhặn, phải có phong độ nho nhã lịch thiệp”. Cho nên, khi nói chuyện với người trẻ thì họ rất trang nghiêm trịnh trọng, nói năng lúc nào cũng chi ly trau chuốt, người trẻ nhìn thấy họ thì thấy khó chịu, không muốn tiếp xúc. Tới lúc nhóm họp, các anh chị em nhảy múa ca ngợi Đức Chúa Trời, họ nghĩ rằng phải kiểm soát tình dục trong đôi mắt mình, cái gì không hợp lễ thì không nhìn, thế là họ kiềm chế không nhìn, nhưng trong lòng vẫn lẩm bẩm: “Những người trẻ tuổi này sống thoải mái biết bao, vậy sao mình lại sống kìm nén như vậy? Chẳng qua là tin Đức Chúa Trời rồi thì phải sống kìm nén một chút, ai bảo mình lớn tuổi như vậy chứ!”. Ngoài miệng họ nói là không được nhìn, nhưng vẫn lén nhìn, đây rõ ràng là đang ngụy trang. Sự ngụy trang này từ đâu mà có? Vì sao lại nảy sinh loại tình trạng khó xử này? Chính là bởi vì con người có một loại tưởng tượng về biểu hiện và hành vi nên có khi tin Đức Chúa Trời, dưới sự chi phối của loại tưởng tượng này, lời nói, hành động của họ trở nên lén la lén lút, giả vờ giả vịt. Ví dụ như, lúc nhóm họp ca hát, có vài người sẽ vỗ tay hò reo, vô cùng thoải mái, còn họ thì tê dại, đờ đẫn giống như người đã chết, ngay cả chút sức sống, chút hình tượng con người cũng không có, họ cho rằng mình lớn tuổi, phải có chút hình tượng của người lớn tuổi, đừng ngây thơ giống như trẻ con, làm người ta chê cười. Tóm lại, những thứ họ thể hiện ra ngoài tất cả đều là ngụy trang, đều là tự mình bắt chước nhân vật lớn rồi giả trang một cách cứng nhắc. Những hành vi giả trang này liệu con người nhìn thì có được xây dựng gì không? (Thưa, không được xây dựng gì.) Vậy nhìn vào, ngươi cảm thấy thế nào? Một là cảm thấy họ giả vờ giả vịt, trong lòng không thoải mái; hai là cảm thấy họ rất giả tạo, còn có một loại cảm giác buồn nôn, nổi da gà, nói chuyện với họ thì trong lòng thấy bức bối, còn bị kìm kẹp, không thoải mái chút nào. Hễ không cẩn thận thì bị họ giáo huấn một trận: “Xem lũ trẻ các người bây giờ đã thành bộ dạng gì rồi, các người bại hoại quá sâu rồi! Các người ăn ngon, mặc đẹp, ăn uống không khác gì đón tết đón lễ trước đây, lại còn kén cá chọn canh, không biết đủ là gì, chúng tôi hồi nhỏ đều phải ăn cám nuốt rau đấy”. Họ lấy tư cách người già để giáo huấn người khác, người trẻ đều trốn tránh họ, vậy mà họ không hiểu, còn chê trách người trẻ không tôn trọng người già, không hiểu quy củ. Những cách nói này có chứa quan niệm, có ý của con người, không hợp lẽ thật, không xây dựng gì cho người khác, có phải không? Nhưng đây đều là chuyện nhỏ, mấu chốt là họ làm như vậy thì có thể hiểu lẽ thật hay không? (Thưa, không thể.) Nó có giúp đỡ gì, có ích lợi gì cho việc bước vào thực tế lẽ thật không? (Thưa, không.) Họ thực hành như vậy, làm người như vậy, sinh hoạt mỗi ngày như vậy thì có thể khiến họ sống trước mặt Đức Chúa Trời hay không? Họ có bao giờ ngẫm nghĩ: “Mình lý giải về việc tin Đức Chúa Trời như vậy có phù hợp với lẽ thật, phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời không? Đức Chúa Trời yêu cầu như thế nào? Đức Chúa Trời thích loại người nào? Lý giải của mình rốt cuộc có gì không ăn nhập với yêu cầu của Ngài không?”. Họ chắc chắn không nghĩ tới những vấn đề này, nếu như từng nghĩ tới, thì dù là nghĩ không ra, họ cũng không đến mức làm ra hành vi ngu xuẩn như vậy. Vậy căn nguyên khiến họ nảy sinh cách làm này là gì? (Thưa, là do quan niệm.) Căn nguyên khiến họ nảy sinh quan niệm đó là gì? Là vì họ có một cách hiểu sai lầm về những biểu hiện và hành vi mà người tin Đức Chúa Trời nên có. Vậy cách hiểu sai lầm này nảy sinh như thế nào? Căn nguyên là gì? Có sự hun đúc của văn hóa truyền thống, cũng có sự giáo dục của thầy cô, trường lớp. Ví dụ như, người trẻ tuổi thì nên kính già yêu trẻ, người già không thể vì già mà không đàng hoàng, vân vân. Cho nên, họ nảy sinh đủ loại biểu hiện kỳ quặc, có lúc có hành vi kỳ quặc, có lúc có biểu cảm kỳ quặc, tóm lại, thoạt nhìn thì không bình thường cho lắm. Bất kể là hành vi hay biểu cảm kỳ quặc, chỉ cần họ không hiểu lẽ thật, không hiểu yêu cầu của Đức Chúa Trời, còn không tìm kiếm lẽ thật, vậy những gì họ làm ra chắc chắn có khoảng cách với lẽ thật. Một chuyện đơn giản như vậy, chỉ là một hành vi bên ngoài, nhưng bởi vì quan niệm cắm rễ trong lòng khiến cho người ta nảy sinh những cách làm vô lý này. Con người không hiểu lẽ thật, không hiểu lời Đức Chúa Trời, không hiểu tâm ý của Ngài, thì sẽ không hiểu tiêu chuẩn yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người rốt cuộc là gì. Người lớn tuổi không hiểu tiêu chuẩn yêu cầu của Đức Chúa Trời, có một số hành vi và biểu hiện kỳ quặc, những hành động vô lý, người trẻ tuổi cũng không hiểu tiêu chuẩn yêu cầu của Đức Chúa Trời, dựa vào tưởng tượng và quan niệm mà tin Đức Chúa Trời thì cũng sẽ có những biểu hiện và hành vi sai lầm. Vậy có những hành vi và biểu hiện sai lầm nào? Ví dụ, có người trẻ tuổi nhìn thấy trong lời nói của Đức Chúa Trời có yêu cầu con người sống thể hiện ra hình tượng trẻ con đơn thuần, cởi mở, tươi tắn, hoạt bát, thế là họ cho rằng: “Trước mặt Đức Chúa Trời chúng ta mãi mãi là trẻ sơ sinh, không lớn lên được, vậy chúng ta nói chuyện, đi đứng cũng phải giống như một đứa trẻ. Bây giờ tôi đã biết làm thế nào để trở thành dân được Đức Chúa Trời chọn, để làm người đi theo Đức Chúa Trời, đã hiểu hình dạng trẻ con là gì rồi. Trước đây luôn làm người giả dối, khiến người ta thấy tôi quá già dặn, tê dại ngu ngốc, sau này tôi phải tỏ ra tươi tắn, hoạt bát một chút”. Sau đó, họ liền quan sát xem những người trẻ tuổi trong xã hội hiện nay có những hành động nào, sau khi đúc kết ra một bộ cách làm thì bắt đầu thực hành giữa các anh chị em, nói chuyện với ai cũng luôn dùng một loại giọng điệu trẻ con, hạ giọng khi nói chuyện, nũng nịu, trong cảm nhận của họ cho rằng chỉ có giọng điệu này mới là giọng điệu trẻ con, đồng thời còn làm một vài cử chỉ kỳ quặc, khiến cho người ta thấy khó chịu, không thoải mái. Hình tượng của một đứa trẻ đơn thuần, cởi mở, tươi tắn, hoạt bát mà Đức Chúa Trời nói là cái mà họ không lĩnh hội được, những gì họ làm đều là hành vi bên ngoài, là ngụy trang, bắt chước và ra vẻ mà thôi. Người như vậy chỉ lĩnh hội một cách lệch lạc. Hơn nữa, vấn đề lớn nhất là gì? Là họ không những không thể lĩnh hội ý nghĩa trong lời Đức Chúa Trời một cách thuần túy, ngược lại còn kết hợp lời Đức Chúa Trời với hành vi, cách làm và trào lưu của người ngoại đạo, đó có phải là sai lầm không? Họ không đến trước mặt Đức Chúa Trời để tìm kiếm, không đọc lời Đức Chúa Trời, không tìm kiếm lẽ thật, mà lại dựa vào đầu óc để phân tích, nghiên cứu, hoặc tìm căn cứ lý luận từ những người ngoại đạo, từ văn hóa truyền thống, hoặc từ tri thức khoa học, như thế có phải là sai lầm không? (Thưa, phải.) Đó là sai lầm lớn nhất. Trong tri thức của người ngoại đạo có chút lẽ thật nào không? Để tìm căn cứ mà làm người thì chỉ có thể tìm kiếm lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời. Tóm lại, mỗi một câu mà Đức Chúa Trời nói, mỗi một yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người, bất kể con người có thể hiểu đến mức độ nào, thì đều là có thực tế và chi tiết, tuyệt đối không đơn giản như quan niệm và tưởng tượng của con người. Yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người không phải để trang trí cho bề ngoài của con người, không phải là hành vi đơn giản, càng không phải là một loại cách làm, mà là tiêu chuẩn yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người, là tiêu chuẩn nguyên tắc làm người, làm việc, nguyên tắc này con người nên nắm vững, nên có đủ. Những vấn đề chi tiết này nếu không thông công thấu đáo thì con người chỉ có thể hiểu được một chút đạo lý, không dễ bước vào thực tế lẽ thật.
Những điều vừa mới thông công đều là quan niệm và tưởng tượng của con người về phương diện hành vi bề ngoài đối với việc tin Đức Chúa Trời, về phương diện này các ngươi còn biết những gì nữa? Nói đến quan niệm, vậy quan niệm rốt cuộc là đúng đắn hay sai lầm? (Thưa, là sai lầm.) Nó là tích cực hay tiêu cực? (Thưa, là tiêu cực.) Chắc chắn nó trái ngược với yêu cầu của Đức Chúa Trời, với lẽ thật và không phù hợp với lẽ thật. Bất kể là thứ do con người tưởng tượng ra một cách vô căn cứ hay là có căn cứ, tóm lại, chúng đều không liên quan đến lẽ thật. Vậy mục đích của việc thông công, mổ xẻ những quan niệm này là vì cái gì? Chính là làm cho con người biết quan niệm là gì trước, trong khi biết những thứ này là quan niệm thì cũng làm cho họ hiểu rõ lẽ thật là gì, sau đó bước vào lẽ thật. Mục đích chính là làm cho con người nhận thức thực chất của lẽ thật, đây chính là thực sự đến trước mặt Đức Chúa Trời. Quan niệm của ngươi dù có lý, có căn cứ đi nữa, tóm lại nó vẫn chỉ là quan niệm, không phải là lẽ thật, cũng không thay thế được lẽ thật. Nếu ngươi coi quan niệm là lẽ thật, thì lẽ thật không liên quan gì đến ngươi, ngươi cũng không liên quan gì tới việc tin Đức Chúa Trời, đức tin của ngươi chẳng đáng một đồng. Bất kể ngươi dựa vào quan niệm và tưởng tượng của mình mà làm bao nhiêu việc cho Đức Chúa Trời, bôn ba bao nhiêu nẻo đường, trả bao nhiêu cái giá đắt, thì kết quả cuối cùng là gì? Tất cả những gì ngươi làm đều không liên quan gì đến lẽ thật, không liên quan gì đến Đức Chúa Trời, lại còn bị Ngài lên án, chứ không được Ngài khen ngợi; đây chính là quan hệ lợi-hại. Bây giờ các ngươi nên hiểu việc giải quyết quan niệm và tưởng tượng của con người quan trọng như thế nào.
Bước đầu tiên để giải quyết các quan niệm là gì? Chính là phân định, nhận thức quan niệm là gì. Khi nhà Đức Chúa Trời vừa mới bắt đầu quay phim, tổ điện ảnh đã xảy ra một chuyện rất đáng ghê tởm, chuyện này có liên quan đến quan niệm của con người. Bây giờ Ta mổ xẻ chuyện này, không phải để lên án, mà là để cho tất cả mọi người phân định, ghi nhớ chuyện này, làm sâu sắc hơn cách hiểu của các ngươi về quan niệm thông qua chuyện này, để cho các ngươi biết quan niệm có nguy hại đến thế nào đối với con người. Chuyện này nếu như Ta không nói, các ngươi có thể cảm thấy nó chẳng là gì, nhưng chờ Ta mổ xẻ xong, các ngươi chắc chắn đều phải gật đầu thừa nhận đây là chuyện lớn. Quay phim thì liên quan đến vấn đề chọn màu sắc, kiểu dáng cho trang phục, có vài người vô cùng bảo thủ, chuyên chọn màu xám đất, màu vàng đất. Ta bối rối, chuyện gì đang xảy ra vậy? Tại sao lại chọn dùng trang phục màu này? Thuần một màu xám đất, vàng đất khiến cho toàn bộ cảnh phim trở nên vô cùng u ám, Ta thấy mà trong lòng rất khó chịu. Tại sao không chọn thứ gì đó nhiều màu sắc hơn? Trước đây, Ta đã từng nói trang phục có thể đủ màu đủ sắc, kiểu dáng cũng phải thỏa đáng, nền nã, nhưng tại sao con người có thể gạt lời của Đức Chúa Trời, yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời qua một bên và không để ý tới, thay vào đó lại chọn vải màu xám đất, vàng đất làm quần áo? Tại sao lại có thể có hành vi như vậy? Chuyện này có đáng để suy ngẫm không? Căn nguyên nào gây ra chuyện này? Con người không hiểu lẽ thật, cũng không nghe lời, không thuận phục, căn nguyên là bên trong con người có bản tính phản bội Đức Chúa Trời. Bản tính này là gì? Tâm tính này là gì? Điều then chốt nhất chính là họ không yêu thích lẽ thật, còn có thể từ chối tiếp nhận lẽ thật, trong lòng họ cương ngạnh. Con người luôn miệng nói sẵn lòng thuận phục sự an bài của Đức Chúa Trời, sẵn lòng tìm kiếm lẽ thật, kết quả thì khi làm việc lại dựa vào sở thích để đạt tới mục đích của mình. Nếu đó là chuyện trong cuộc sống cá nhân, thì ngươi có luôn đặt “cái tôi” lên hàng đầu cũng không phải là vấn đề lớn, chuyện này chỉ liên quan đến lối vào sự sống của bản thân ngươi. Nhưng bây giờ ngươi đang thực hiện bổn phận trong hội thánh, hậu quả của việc làm như vậy có liên quan đến công tác của Đức Chúa Trời và sự vinh hiển của Ngài, cũng liên quan đến thanh danh của hội thánh nữa. Con người dựa vào ý mình mà làm xằng làm bậy thì sẽ dễ làm ô nhục Đức Chúa Trời. Cá nhân mỗi người mặc quần áo như thế nào, nhà Đức Chúa Trời không can thiệp, chỉ cần theo nguyên tắc là đứng đắn đàng hoàng, để cho người khác nhìn thấy thì sẽ có được sự xây dựng nào đó. Nhưng lúc quay phim mà có người chủ trương tất cả mặc đồ màu xám đất, màu vàng đất cũ kỹ, thì có thích hợp không? Thực chất của vấn đề này là gì? Chính là con người làm việc dựa vào quan niệm, coi màu xám đất, vàng đất là một ký hiệu và biểu tượng cho những người tin Đức Chúa Trời, đi theo Đức Chúa Trời. Có thể nói rằng việc họ định nghĩa màu này là màu hợp với lẽ thật, hợp với tâm ý và yêu cầu của Đức Chúa Trời là sai lầm. Bản thân màu này không có vấn đề gì, nhưng nếu con người làm việc dựa vào quan niệm, biến màu sắc này thành một loại ký hiệu, thì sẽ nảy sinh vấn đề, đây chính là hậu quả do quan niệm của con người gây ra, bởi vì trong lòng con người có quan niệm này nên mới sinh ra cách nhìn, cách làm này. Con người đối đãi với quan niệm và tưởng tượng này như lẽ thật, coi màu tro đất, màu vàng đất là một ký hiệu để người tin Đức Chúa Trời mặc, còn đem lẽ thật, đem lời Đức Chúa Trời, đem yêu cầu của Ngài sang một bên, gạt hẳn ra ngoài, dùng quan niệm và tiêu chuẩn của con người để thay thế, đây chính là căn nguyên của vấn đề. Thực ra, lựa chọn màu sắc, kiểu dáng trang phục đều là chuyện bên ngoài, không có quan hệ gì đến lẽ thật, nhưng những chuyện vô lý như vậy nảy sinh do quan niệm của con người cũng gây ra một vài ảnh hưởng tiêu cực, chuyện này phải dùng lẽ thật để giải quyết.
Trong quá trình tin Đức Chúa Trời, cho dù xảy ra chuyện gì hay gặp phải vấn đề gì, quan niệm của con người luôn không ngừng nảy sinh, con người cũng liên tục dùng những quan niệm này, liên tục sống trong những quan niệm này, bị chúng kìm kẹp, chi phối và kiểm soát, khiến cho tư tưởng và hành vi, phương thức sống và nguyên tắc làm người, mục tiêu và phương hướng cuộc đời của con người, cách họ đối đãi với lời nói và công tác của Đức Chúa Trời, tất cả đều bị quan niệm phủ bóng không được tự do, giải phóng về mặt lẽ thật một chút nào. Họ cứ tin Đức Chúa Trời theo kiểu như vậy, cứ luôn bám giữ quan niệm, qua mười năm, hai mươi năm, cho tới bây giờ quan niệm ban đầu của con người vẫn nguyên vẹn, chưa từng được mổ xẻ, họ cũng chưa từng kiểm điểm bản thân, càng chưa từng tiếp nhận sự tỉa sửa, chưa từng nghiêm túc đối đãi với những quan niệm này. Vậy thì cho dù đã tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, liệu họ có thành quả hay là không? Chắc chắn là không có thành quả. Quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời được dần dần cải thiện trong quá trình con người không ngừng mổ xẻ quan niệm, nhận thức quan niệm, sau đó giải quyết quan niệm, lời này có phải có một mặt thực tế hay không? (Thưa, phải.) Nhưng nếu quan niệm của ngươi mãi dừng lại tại mức độ tin Đức Chúa Trời lúc đầu, thì mối quan hệ của ngươi với Ngài có thể nói là chưa bao giờ được cải thiện. Về phương diện tin Đức Chúa Trời, có quan niệm nào các ngươi dựa vào để sinh tồn mà đến giờ vẫn chưa được giải quyết không? Những quan niệm nào các ngươi luôn cho là đúng đắn, hợp với lẽ thật và không có vấn đề gì? Những quan niệm nào có thể ảnh hưởng đến hành vi của ngươi, đến sự mưu cầu và quan điểm trong việc tin Đức Chúa Trời của ngươi, khiến cho quan hệ giữa ngươi và Đức Chúa Trời luôn ở trong trạng thái không nóng mà cũng không lạnh, không xa mà cũng không gần? Ngươi còn lầm tưởng rằng mình rất yêu kính Đức Chúa Trời, đức tin và lòng trung thành đối với Đức Chúa Trời đều đã tăng lên, ý chí chịu khổ cũng lớn. Thực ra, trong mắt Đức Chúa Trời, ngươi không có chút thực tế lẽ thật nào. Các ngươi đều nên mổ xẻ bản thân, mỗi người chắc chắn đều có không ít quan niệm mà mình dựa vào để sinh tồn và cho đến giờ chúng vẫn tồn tại, chưa được giải quyết, đây là vấn đề rất nghiêm trọng.
Về quan niệm của con người đối với việc tin Đức Chúa Trời, tổng cộng Ta đã nêu ra ba ví dụ, bây giờ có phải các ngươi đã biết đôi chút về chuyện có những quan niệm nào đối với việc tin Đức Chúa Trời rồi không? (Thưa, phải.) Vậy các ngươi nói xem, còn có quan niệm và tưởng tượng nào có thể cản trở con người thực hành lẽ thật, ảnh hưởng đến việc con người làm bổn phận và mối quan hệ bình thường giữa con người và Đức Chúa Trời, cũng tức là có thể cản trở con người đến trước mặt Đức Chúa Trời, ảnh hưởng trực tiếp đến việc con người nhận thức Đức Chúa Trời không? (Thưa, trong con có quan niệm khá lớn, là cho rằng khi tin Đức Chúa Trời thì mỗi ngày có thể làm bổn phận một cách bình thường là con có thể được cứu rỗi.) Ngươi cho rằng làm bổn phận là có thể được cứu rỗi, đây là một loại quan niệm và tưởng tượng. Vậy chuyện làm bổn phận đạt tiêu chuẩn hay không thì có quan trọng không? Người làm bổn phận không đạt tiêu chuẩn thì có thể được cứu rỗi không? Nếu như làm xằng làm bậy, thì sẽ bị quy vào gây gián đoạn và nhiễu loạn công tác của Đức Chúa Trời, chẳng những không thể được cứu rỗi, mà còn phải chịu trừng phạt. Những chuyện này các ngươi đều không nghĩ tới, đều không hiểu, cũng nhìn không thấu, lại còn có thể nói ra những lời như: “Chỉ cần làm được bổn phận là có thể được cứu rỗi và vào thiên quốc”, điều này có phù hợp với lời Đức Chúa Trời không? Ý nghĩ này chỉ là mong muốn đơn phương của con người, làm gì có chuyện dễ dàng như vậy chứ? Không tiếp nhận lẽ thật mà là tin Đức Chúa Trời sao? Không bỏ tâm tính bại hoại đi mà có thể được cứu rỗi sao? Bên trong các ngươi có quá nhiều thứ thuộc về quan niệm và tưởng tượng. Các loại tưởng tượng, lý giải, định nghĩa không tương hợp với lẽ thật thì đều thuộc về quan niệm. Các ngươi còn có những quan niệm nào nữa? (Thưa, con cảm thấy bổn phận mình thực hiện càng quan trọng thì thành quả trong việc làm chứng cho Đức Chúa Trời càng nhiều, công lao càng nhiều, càng được Đức Chúa Trời khen ngợi, phúc phận sau này con có cũng càng lớn.) Đây cũng được tính là quan niệm. Tóm lại, quan niệm đều là do con người tưởng tượng, suy luận ra một cách vô căn cứ, cho dù có chút căn cứ, thì cũng không phải là căn cứ vào lời Đức Chúa Trời và lẽ thật, mà là căn cứ vào ý nghĩ mơ tưởng của con người, cũng là do dục vọng được phúc lành chi phối mà ra. Con người làm việc dưới sự chi phối của tư tưởng này, làm đi làm lại, phải trả giá rất nhiều mới phát hiện mình đã làm sai, đi ngược nguyên tắc, không phải là chuyện như họ tưởng tượng, thế là họ trở nên tiêu cực. Đến một ngày nào đó, khi con người quay đầu lại, phát hiện con đường mình đi đều là dựa vào quan niệm và tưởng tượng, thấy đã lãng phí rất nhiều thời gian, muốn cứu vãn cũng không được nữa. Các ngươi còn những quan niệm nào chưa được giải quyết không? (Thưa, con cảm thấy nếu như con tin Đức Chúa Trời, dâng mình cho Ngài thì Ngài nên chúc phúc cho con, cho con được lợi, khi con gặp chuyện và kêu cầu Ngài thì Ngài nên mở lối thoát cho con, con tin Đức Chúa Trời thì nên được thuận buồm xuôi gió. Vì vậy, khi làm bổn phận mà gặp phải hoàn cảnh khó khăn, con sẽ hiểu lầm và chống đối Ngài, cho rằng Ngài không nên để con gặp phải những chuyện này.) Hầu hết mọi người đều có quan niệm này, nó là một kiểu lý giải của con người đối với việc tin Đức Chúa Trời. Con người cho rằng tin Đức Chúa Trời chính là để được lợi, nếu như không được lợi, con đường này chắc chắn là đi sai rồi. Vậy bây giờ quan niệm này đã được giải quyết hay chưa, đã bắt đầu thay đổi hay chưa? Khi quan niệm này chi phối hành vi của ngươi hoặc ảnh hưởng đến hướng đi tiếp theo của ngươi, ngươi có tìm kiếm lẽ thật để giải quyết không? Trong lòng con người thường có một dạng quy định đối với việc tin Đức Chúa Trời, cho rằng tin Đức Chúa Trời thì nên được bình an, hoặc là cho rằng: “Tôi dâng mình cho Đức Chúa Trời và làm bổn phận, vậy thì Đức Chúa Trời nên ban phúc lành cho gia đình tôi, phù hộ cho cả nhà tôi được bình an, cho tôi không bị bệnh, cả nhà tôi đều hạnh phúc. Ngoài ra, mặc dù tôi đang làm bổn phận, nhưng công tác này là của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời nên chịu toàn bộ trách nhiệm, nên sắp xếp mọi chuyện cho tốt, để khi tôi làm bổn phận sẽ không gặp phải khó khăn, nguy hiểm hay thử thách gì, nếu như có những chuyện này xảy ra, vậy thì có thể đây không phải là việc Đức Chúa Trời làm”. Đây đều là quan niệm của con người, con người không nhận thức được công tác của Đức Chúa Trời thì sẽ dễ nảy sinh những quan niệm này. Trong quá trình các ngươi làm bổn phận, những quan niệm này có thường xuất hiện hay không? (Thưa, có.) Nếu ngươi luôn cho rằng quan niệm và tưởng tượng của ngươi là lẽ đương nhiên, luôn cho rằng đó là việc nên làm, mà không đi tìm kiếm lẽ thật để giải quyết quan niệm, vậy thì ngươi sẽ không có được lẽ thật, cũng không có lối vào sự sống, lẽ thật đối với ngươi mà nói sẽ không có bất kỳ giá trị hay ý nghĩa gì, việc ngươi tin Đức Chúa Trời cũng sẽ không có ý nghĩa gì. Người tin Đức Chúa Trời mà thường xuyên ăn uống lời Đức Chúa Trời, thường xuyên nhóm họp, nghe giảng đạo, đời sống thuộc linh rất bình thường, nhưng khi làm việc, đối nhân xử thế và làm bổn phận thì lại luôn dựa vào quan niệm, căn cứ vào quan niệm, dùng quan niệm để đánh giá sự đúng sai của mọi chuyện, người như vậy có phải là người sống trong quan niệm hay không? Người sống trong quan niệm thì cho dù có nghe giảng đạo nhiều thế nào, có ăn uống bao nhiêu lời Đức Chúa Trời, liệu họ có thể có bất cứ thay đổi nào không? Mối quan hệ giữa họ với Đức Chúa Trời có thể có bất cứ sự cải thiện nào không? (Thưa, không thể.) Vậy Đức Chúa Trời có khen ngợi đức tin như vậy của họ không? (Thưa, không khen ngợi.) Chắc chắn không khen ngợi. Cho nên, việc mổ xẻ quan niệm bên trong con người là rất quan trọng.
Đa số mọi người khi đã ăn no uống đủ, bình an vô sự thì không có quan niệm gì, khi tuân thủ nghi thức tôn giáo truyền thống cũng không có quan niệm gì, nhưng khi Đức Chúa Trời công tác để bày tỏ lẽ thật thì quan niệm gì cũng xuất hiện. Khi con người không làm bổn phận và chỉ nhóm họp bình thường thì họ cũng không có quan niệm gì, nhưng khi Đức Chúa Trời yêu cầu con người làm bổn phận hoặc khi làm bổn phận mà gặp phải khó khăn thì rất nhiều quan niệm lại nảy sinh. Khi xác thịt con người được an nhàn, được hưởng thụ cuộc sống, thì họ không có quan niệm gì, nhưng khi thân thể mắc bệnh, khi gặp phải hoạn nạn, thì quan niệm tự nhiên xuất hiện. Ví dụ, có người khi chưa tin Đức Chúa Trời thì công việc và cuộc sống gia đình đều rất thuận lợi, nhưng sau khi tin Đức Chúa Trời thì lại xảy ra một số chuyện không như ý, có lúc bị xét đoán, bị kỳ thị, bị ức hiếp, thậm chí bị truy bắt, chịu cực hình tra tấn, còn để lại di chứng về sau, thế là trong lòng họ không thoải mái, cảm thấy: “Tôi tin Đức Chúa Trời nhiều năm như vậy, sao mọi chuyện lại không thuận lợi chứ? Tôi tin Đức Chúa Trời thật, tại sao Đức Chúa Trời không che chở cho tôi? Tại sao Ngài nhìn thấy tôi bị kẻ ác đánh đập, bị ma quỷ chà đạp mà chẳng quản chuyện này?”. Con người có phải sẽ nảy sinh những quan niệm này hay không? Nguyên nhân nảy sinh những quan niệm này là gì? Người ta cho rằng: “Tôi đã tin Đức Chúa Trời, vậy tôi là người của Đức Chúa Trời, Ngài nên quan tâm tôi, quan tâm cái tôi ăn, nơi tôi ở, tiền đồ và số phận của tôi, cũng nên quan tâm đến sự an toàn của bản thân tôi, bao gồm cả sự an toàn của người nhà tôi, còn phải bảo đảm mọi chuyện của tôi đều suôn sẻ, bình an vô sự”. Nếu sự thật không giống như những gì con người yêu cầu và tưởng tượng, thì họ sẽ cảm thấy: “Tin Đức Chúa Trời không tốt như tôi tưởng tượng, không dễ như tôi tưởng tượng, thì ra tin Đức Chúa Trời còn gặp phải nhiều bức bách, hoạn nạn như vậy, còn gặp phải rất nhiều thử luyện, vì sao Đức Chúa Trời không che chở tôi?”. Loại ý nghĩ này có đúng không? Có hợp với lẽ thật không? (Thưa, không hợp.) Vậy loại ý nghĩ này có phải là yêu cầu vô lý đối với Đức Chúa Trời không? Ngươi có loại ý nghĩ này tại sao không cầu nguyện với Đức Chúa Trời để tìm kiếm lẽ thật? Ðức Chúa Trời khiến con người gặp phải những chuyện này đương nhiên là có ý tốt của Ngài, tại sao con người không hiểu tâm ý của Ngài? Tại sao họ không phối hợp với công tác của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời chính là cố ý để cho con người gặp phải những chuyện này, để cho họ tìm kiếm lẽ thật, đạt được lẽ thật, sống dựa vào lẽ thật, nhưng con người lại không tìm kiếm lẽ thật, luôn dùng quan niệm và tưởng tượng của họ để đánh giá Đức Chúa Trời, đây chính là vấn đề của con người. Đối với những chuyện không như ý thì phải lĩnh hội như thế này: Không ai sống cả đời mà không chịu đau khổ. Đối với một số người, điều này liên quan với gia đình, một số người khác thì với công việc, một số khác thì với hôn nhân, và một số khác thì với bệnh tật của thể xác. Ai cũng phải chịu khổ. Một số người nói: “Tại sao con người phải chịu khổ? Sẽ thật tuyệt khi sống cả cuộc đời chúng ta một cách bình an và hạnh phúc. Chúng ta không thể không chịu khổ sao?”. Không – mọi người đều phải chịu khổ. Sự đau khổ khiến mọi người trải nghiệm vô số cảm giác của đời sống thể xác, dù là cảm giác tích cực, tiêu cực, chủ động hay bị động; sự đau khổ cho ngươi những cảm nhận và sự lĩnh hội khác nhau, những điều mà đối với ngươi đều là trải nghiệm trong đời. Đó là một phương diện, và nó cũng nhằm làm cho con người giàu kinh nghiệm hơn. Nếu ngươi có thể tìm kiếm lẽ thật và hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời từ điều này, thì ngươi sẽ đến càng gần hơn với tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu ở ngươi. Một phương diện khác đó là trách nhiệm mà Đức Chúa Trời trao cho con người. Trách nhiệm gì? Đây là sự đau khổ mà ngươi phải trải qua. Nếu ngươi có thể nhận lấy sự đau khổ này và chịu được nó, thì đây là lời chứng, và không phải là điều đáng xấu hổ. Có người mắc bệnh mà sợ người khác biết, họ cho rằng đây là chuyện xấu hổ, thực ra, đây đâu phải là chuyện xấu hổ gì. Là một người bình thường, nếu trong lúc ốm đau, ngươi có thể thuận phục sự an bài của Đức Chúa Trời, chịu đựng đủ loại đau khổ, hơn nữa còn có thể làm bổn phận một cách bình thường, có thể hoàn thành sự ủy thác mà Đức Chúa Trời giao cho ngươi, thì đó là chuyện tốt hay xấu? Đó là chuyện tốt, đó là lời chứng về sự thuận phục Đức Chúa Trời, là lời chứng về lòng trung thành làm bổn phận, là lời chứng về việc hạ nhục Sa-tan và đắc thắng trước nó. Cho nên, bất kể chịu khổ ở phương diện nào, thì đây là điều mà mỗi một loài thọ tạo, mỗi một người được Đức Chúa Trời chọn nên tiếp nhận, nên thuận phục và nhất định phải lĩnh hội như vậy, còn phải rút ra được bài học, đạt tới thực sự thuận phục Đức Chúa Trời. Như thế là hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời, đây cũng là chủ ý của Ngài. Đức Chúa Trời khi đối đãi với mỗi loài thọ tạo đều an bài như thế, Ngài cho ngươi hoàn cảnh và điều kiện như vậy đồng nghĩa với việc giao cho ngươi một phần trách nhiệm, nghĩa vụ và sự ủy thác như vậy, do đó ngươi nên tiếp nhận lấy. Đây có phải là lẽ thật hay không? (Thưa, phải.) Miễn là đến từ Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời có yêu cầu, có tâm ý như vậy đối với ngươi, thì đó chính là lẽ thật. Tại sao lại nói đó là lẽ thật? Vì sau khi ngươi tiếp nhận lấy những lời này như là lẽ thật, thì ngươi có thể giải quyết được tâm tính bại hoại của mình, có thể giải quyết quan niệm và sự phản nghịch của mình, để khi gặp khó khăn thì ngươi có thể không làm trái ý của Đức Chúa Trời, không phản nghịch Đức Chúa Trời, cũng tức là có thể đạt đến thực hành lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời. Như vậy ngươi có thể đưa ra lời chứng để hạ nhục Sa-tan, có thể đạt được lẽ thật và đạt đến được cứu rỗi. Nếu ngươi dựa theo quan niệm và suy nghĩ của mình mà cho rằng: “Tôi đã tin Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời nên ban phúc cho tôi, tôi nên là người có phúc”, vậy cái phúc này ngươi hiểu như thế nào? Cái phúc mà ngươi hiểu chính là vinh hoa phú quý một đời, muốn ăn có ăn, muốn uống có uống, bệnh tật gì cũng không có, sinh ra đã không thiếu thứ gì, cái gì cũng có sẵn, không cần vất vả làm công cũng có thể hưởng thụ cuộc sống vật chất phong phú, hơn nữa cả đời luôn được bình an, thuận lợi, sống rất thoải mái, một chút đau khổ cũng không có, ngươi cho rằng như thế là có phúc. Bây giờ nhìn xem, đó là phúc sao? Đó không phải phúc, mà là họa. Đi theo con đường tham hưởng an nhàn xác thịt sẽ khiến ngươi ngày càng xa rời Đức Chúa Trời, đồng thời cũng khiến ngươi ngày càng lún sâu vào thế giới tà ác này, không thể tự thoát ra được. Khi Đấng Tạo Hóa kêu gọi ngươi, ngươi có rất nhiều sự không nỡ, ngươi không buông bỏ được những thứ hưởng thụ xác thịt này. Cho dù là Đức Chúa Trời ủy thác cho ngươi, để ngươi thực hiện một bổn phận, nhưng ngươi xem thân thể mình quý giá quá, hôm nay ngươi thấy cơ thể không thoải mái, ngày mai lại thấy tâm trạng không tốt, lại nhớ cha mẹ, lại nhớ người yêu, ngày nào cũng nghĩ đến những chuyện xác thịt, bổn phận nào cũng không làm xong, còn muốn được hưởng thụ hơn người khác, ngươi sống như ký sinh trùng kiểu đó thì có thể thực hành được lẽ thật sao? Còn có thể làm chứng sao? Không thể nào. Con người có rất nhiều tưởng tượng đối với chuyện tin Đức Chúa Trời, tưởng tượng sau khi mình tin Đức Chúa Trời thì có thể cả đời phú quý, bình an, người thân xung quanh đều được thơm lây theo, hơn nữa đều dành cho mình ánh mắt ngưỡng mộ, sẽ không nghèo khổ chán chường, cũng sẽ không có bệnh tật hay tai họa gì xảy ra. Những tưởng tượng này khiến con người nảy sinh rất nhiều yêu cầu vô lý đối với Đức Chúa Trời. Khi ngươi nảy sinh những yêu cầu vô lý này thì mối quan hệ giữa ngươi với Đức Chúa Trời có bình thường hay không? Chắc chắn là không bình thường. Vậy những quan niệm và tưởng tượng này khiến ngươi đứng ở phía đối lập với Đức Chúa Trời, hay là đứng về phía Đức Chúa Trời? Nó sẽ chỉ khiến ngươi đứng ở phía đối lập với Đức Chúa Trời, khiến ngươi đọ sức và đối kháng với Ngài, thậm chí phản bội và vứt bỏ Ngài, hơn nữa những hành vi này sẽ càng ngày càng nghiêm trọng. Nghĩa là, sau khi con người nảy sinh những quan niệm này thì sẽ không thể duy trì quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời. Sau khi con người nảy sinh quan niệm đối với Đức Chúa Trời, thì trong lòng họ cũng nảy sinh sự phản nghịch, tiêu cực theo. Lúc này, họ nên tìm kiếm lẽ thật để giải quyết. Sau khi con người hiểu lẽ thật, hiểu sự ủy thác mà Đức Chúa Trời giao cho con người và rất nhiều yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với người tin Ngài, sau khi đã hiểu những điều này rồi thì con người có thể đi và làm theo yêu cầu của Đức Chúa Trời, như vậy quan niệm và tưởng tượng của con người sẽ được giải quyết. Sau khi hiểu lẽ thật, con người tự nhiên sẽ vứt bỏ quan niệm, từ đó quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời sẽ bình thường hơn một chút. Giải quyết quan niệm đồng nghĩa với việc giải quyết hiểu lầm của con người đối với Đức Chúa Trời, cũng có thể nói, sau khi buông bỏ quan niệm, giải quyết quan niệm, con người mới hiểu thế nào là lẽ thật, thế nào là yêu cầu của Đức Chúa Trời.
Trong lòng các ngươi còn có quan niệm nào có thể ảnh hưởng đến việc các ngươi làm bổn phận không? Trong cuộc sống của các ngươi còn thường bị ảnh hưởng, chi phối bởi những quan niệm nào? Khi để ngươi gặp phải một vài chuyện không như ý, quan niệm của ngươi tự nhiên sẽ xuất hiện, sau đó ngươi oán trách Đức Chúa Trời, so đo, đọ sức với Đức Chúa Trời, khiến cho quan hệ giữa ngươi và Đức Chúa Trời nhanh chóng nảy sinh sự chuyển biến. Ban đầu ngươi cảm thấy mình rất yêu kính Đức Chúa Trời, rất trung thành với Đức Chúa Trời, muốn hiến dâng cả đời cho Ngài, đột nhiên ngươi lại đổi ý, không muốn làm bổn phận và hết lòng trung thành với Ngài nữa, hơn nữa ngươi hối hận vì đã tin Đức Chúa Trời, hối hận vì lựa chọn con đường này, thậm chí oán trách Đức Chúa Trời đã chọn ngươi. Còn những quan niệm nào khác có thể khiến mối quan hệ giữa ngươi với Đức Chúa Trời đột nhiên xảy ra sự thay đổi? (Thưa, khi Đức Chúa Trời sắp đặt một hoàn cảnh thử luyện và tỏ lộ con, khi con cảm thấy mình không có kết cục tốt đẹp, thì sẽ nảy sinh quan niệm về Đức Chúa Trời, cảm thấy con tin Đức Chúa Trời, đi theo Đức Chúa Trời, cũng luôn làm bổn phận của mình, chỉ cần con không rời bỏ Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời cũng không nên rời bỏ con.) Đây là một loại quan niệm. Có phải các ngươi thường xuyên có quan niệm này hay không? Các ngươi hiểu thế nào về chuyện Ðức Chúa Trời rời bỏ? Cho rằng Đức Chúa Trời rời bỏ nghĩa là Đức Chúa Trời không cần ngươi nữa, không cứu rỗi ngươi nữa sao? Đây cũng là một loại quan niệm. Vậy quan niệm này từ đâu mà ra? Là dựa vào tưởng tượng hay là có căn cứ? Sao ngươi biết Đức Chúa Trời không cho ngươi một kết cục tốt đẹp? Chính miệng Ngài đã nói với ngươi sao? Con người suy nghĩ như vậy hoàn toàn là do con người tự mình quy định. Bây giờ đã biết đây là quan niệm rồi thì vấn đề mấu chốt là giải quyết quan niệm này như thế nào. Quan niệm của con người đối với việc tin Đức Chúa Trời thực ra cũng không ít, nếu như có thể ý thức được đó là quan niệm, thì nên biết nó là sai. Vậy nên giải quyết những quan niệm này như thế nào đây? Đầu tiên phải thấy rõ những quan niệm này xuất phát từ tri thức hay là từ triết lý của Sa-tan, sai lầm ở đâu, nguy hại ở đâu, sau khi thấy rõ thì tự nhiên có thể buông bỏ quan niệm. Nhưng như thế không có nghĩa là đã giải quyết triệt để, còn phải tìm kiếm lẽ thật, xem yêu cầu của Đức Chúa Trời là gì, lại đối chiếu với lời Đức Chúa Trời mà mổ xẻ quan niệm, có thể phân định rõ quan niệm là thứ sai lầm, là thứ hoang đường, là thứ hoàn toàn không hợp với lẽ thật. Đây về cơ bản là đã giải quyết được quan niệm. Nếu không tìm kiếm lẽ thật, không đối chiếu với lời Đức Chúa Trời, thì ngươi không thể phân định rõ quan niệm sai ở đâu, không thể hoàn toàn từ bỏ quan niệm, cho dù có biết đó là quan niệm, chưa chắc ngươi đã có thể hoàn toàn buông bỏ nó. Trong trường hợp này, khi quan niệm của ngươi mâu thuẫn với yêu cầu của Đức Chúa Trời, mặc dù ngươi có thể ý thức được quan niệm của mình không đúng, nhưng trong lòng ngươi vẫn giữ quan niệm của mình, mặc dù ngươi biết rõ quan niệm không hợp với lẽ thật, nhưng trong lòng vẫn cho rằng quan niệm này đứng vững được, đây không phải là người hiểu rõ lẽ thật. Người như vậy sẽ không có lối vào sự sống, vóc giạc kém quá xa. Ví dụ, con người vô cùng nhạy cảm với đích đến và kết cục của mình, nhạy cảm với sự điều chỉnh và thay thế trong bổn phận, có người thường có một loại phán đoán sai lầm đối với những chuyện này, cho rằng một khi bị thay thế rồi thì không còn địa vị, hoặc là khi Đức Chúa Trời nói không thích, không cần nữa, thì con người toi đời rồi, họ cứ quy định như vậy, cảm thấy: “Tin Đức Chúa Trời không có ý nghĩa gì nữa, Đức Chúa Trời không cần mình nữa, kết cục đã định, vậy sống còn có ý nghĩa gì?”. Người ta nghe xong còn cảm thấy họ rất có lý trí, rất cần thể diện, thực ra đây là loại ý nghĩ gì? Đó là một sự phản nghịch Đức Chúa Trời, là cam tâm sa đọa. Họ sa đọa vì cái gì? Chính là vì họ không hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, không thể nhìn thấu cách Đức Chúa Trời cứu rỗi con người và không có đức tin thực sự nơi Đức Chúa Trời. Con người cam tâm sa đọa thì Đức Chúa Trời có biết hay không? (Thưa, biết.) Đức Chúa Trời biết thì Ngài đối xử với người như vậy thế nào? Con người có một loại quan niệm, rằng: “Đức Chúa Trời đã trả giá và dốc tâm huyết rất nhiều trên con người, đã làm rất nhiều công tác và bỏ rất nhiều công sức trên mỗi con người, Đức Chúa Trời chọn lựa, cứu rỗi một con người thật không dễ dàng gì, nếu như người này cam tâm sa đọa thì Đức Chúa Trời quá đau lòng, mỗi ngày đều ngóng trông họ có thể xốc lại bản thân”. Ở bề ngoài có một tầng nghĩa như vậy, nhưng trên thực tế đây cũng là một loại quan niệm của con người. Đối với người như vậy, Đức Chúa Trời có một loại thái độ, là khi ngươi cam tâm sa đọa, không muốn tiến lên, thì Đức Chúa Trời để cho ngươi tự lựa chọn, Ngài không gây khó dễ. Nếu ngươi nói: “Con vẫn sẵn lòng làm bổn phận của loài thọ tạo, có thể làm hết khả năng để thực hành theo yêu cầu của Ngài, thỏa mãn tâm ý của Ngài, bản thân con có bao nhiêu ân tứ và tài cán thì phát huy bấy nhiêu, nếu con không có bản lĩnh gì thì con sẽ học cách thuận phục, nghe lời, con không thể từ bỏ bổn phận của mình”. Đức Chúa Trời đáp lại: “Ngươi sẵn lòng sống như vậy thì ngươi tiếp tục đi theo Ta, nhưng ngươi phải làm theo yêu cầu của Ta. Tiêu chuẩn, yêu cầu và nguyên tắc của Ta không thay đổi”. Lời này có ý gì? Nghĩa là chỉ có con người từ bỏ chính mình, chứ Đức Chúa Trời mãi mãi không từ bỏ con người. Cuối cùng, những ai có thể được cứu rỗi, có thể nhìn thấy Đức Chúa Trời, xây dựng mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời, có thể đến trước mặt Ngài, thì đều không phải có thể đạt đến như vậy chỉ sau khi trải qua một lần thất bại, một lần tỉa sửa, hoặc một lần chịu sự phán xét và hình phạt. Phi-e-rơ được hoàn thiện thì đã trải qua mấy trăm lần tinh luyện. Nghĩa là những người đem sức lực phục vụ đến cuối cùng mà có thể tồn tại, có ai chỉ trải qua tám lần mười lần thử luyện, tinh luyện mà có thể đi đến tận cuối đường. Bất kể trải qua bao nhiêu thử luyện và tinh luyện, thì đây có phải là tình yêu thương của Đức Chúa Trời hay không? (Thưa, phải.) Có thể nhìn thấy tình yêu của Đức Chúa Trời là có thể hiểu thái độ của Đức Chúa Trời đối với con người.
Có người khi đọc lời Đức Chúa Trời, nhìn thấy lời Ngài lên án con người thì liền nảy sinh quan niệm và có sự chống đối. Ví dụ, lời Đức Chúa Trời nói nếu ngươi không tiếp nhận lẽ thật thì Đức Chúa Trời không thích ngươi, không chấp thuận ngươi, ngươi là kẻ hành ác, là kẻ địch lại Đấng Christ, hễ nhìn thấy ngươi thì Đức Chúa Trời sẽ buồn phiền và Ngài không cần ngươi nữa. Người ta nghe những lời này thì cảm thấy: “Những lời này chính là nói đến mình, Đức Chúa Trời chắc chắn không cần mình nữa, Ngài đã vứt bỏ mình, vậy thì mình cũng không tin Đức Chúa Trời nữa”. Có những người khi đọc lời Đức Chúa Trời thường nảy sinh những quan niệm và hiểu lầm vì Đức Chúa Trời phơi bày tình trạng bại hoại của con người và nói những lời lên án con người. Họ trở nên tiêu cực và yếu đuối, nghĩ rằng những lời Đức Chúa Trời nhắm vào họ, rằng Đức Chúa Trời đang từ bỏ họ và sẽ không cứu rỗi họ. Họ trở nên tiêu cực đến mức rơi lệ và không muốn đi theo Đức Chúa Trời nữa. Đây thực sự là một sự hiểu lầm về Đức Chúa Trời. Khi ngươi không hiểu ý nghĩa của lời Đức Chúa Trời, ngươi không nên cố quy định Đức Chúa Trời. Ngươi không biết Đức Chúa Trời ruồng bỏ loại người nào, hay Ngài từ bỏ con người trong hoàn cảnh nào, hay Ngài gạt con người sang một bên trong hoàn cảnh nào; có những nguyên tắc và bối cảnh cho tất cả những điều này. Nếu ngươi không thông hiểu đầy đủ về những việc cụ thể này, ngươi sẽ rất dễ bị quá mẫn cảm và ngươi sẽ quy định bản thân mình dựa trên một vài lời từ Đức Chúa Trời. Chẳng phải như thế là có vấn đề sao? Khi Đức Chúa Trời phán xét con người, khía cạnh chính của họ mà Ngài lên án là gì? Điều Đức Chúa Trời phán xét và quy định là những tâm tính bại hoại và thực chất bại hoại của con người, Ngài lên án tâm tính Sa-tan và bản tính Sa-tan của họ, Ngài lên án những biểu hiện và hành vi khác nhau của việc họ phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời, Ngài lên án họ vì không thể thuận phục Đức Chúa Trời, vì luôn chống đối Đức Chúa Trời, và vì luôn có những động cơ và mục tiêu riêng của mình – nhưng sự lên án như vậy không có nghĩa là Đức Chúa Trời đã từ bỏ những người có tâm tính Sa-tan. Nếu ngươi không hiểu rõ điều này thì ngươi không có năng lực lĩnh hội, điều này khiến ngươi có chút giống những người mắc bệnh tâm thần, luôn nghi ngờ mọi chuyện và hiểu sai Đức Chúa Trời. Những người như vậy không có đức tin thật, vậy sao họ có thể theo Đức Chúa Trời đến cùng được? Nghe chỉ một lời tuyên án của Đức Chúa Trời, ngươi nghĩ rằng đã bị Đức Chúa Trời kết án, mọi người đã bị Đức Chúa Trời từ bỏ và sẽ không còn được cứu rỗi nữa, và bởi vì điều này mà ngươi trở nên tiêu cực, bỏ mặc bản thân rơi vào tuyệt vọng. Đây là hiểu sai về Đức Chúa Trời. Thực ra, Đức Chúa Trời không từ bỏ con người. Họ đã hiểu sai Đức Chúa Trời và tự từ bỏ bản thân mình. Không có gì nghiêm trọng hơn là khi con người tự từ bỏ bản thân mình, như đã được ứng nghiệm bằng những lời trong Cựu Ước: “Kẻ ngu dại chết, vì thiếu trí hiểu” (Châm ngôn 10:21). Không có hành vi nào ngu ngốc hơn là khi con người ta bỏ mặc bản thân rơi vào tuyệt vọng. Đôi khi ngươi đọc những lời Đức Chúa Trời dường như quy định con người; nhưng thực ra, những lời đó không quy định bất cứ ai cả, mà là sự thể hiện tâm ý và quan điểm của Đức Chúa Trời. Những lời này là lẽ thật và nguyên tắc, chúng không quy định ai cả. Những lời Đức Chúa Trời phán ra trong những lúc giận dữ hay thạnh nộ cũng thể hiện tâm tính của Đức Chúa Trời, những lời này là lẽ thật, và hơn nữa, chúng thuộc về nguyên tắc. Con người phải hiểu được điều này. Mục đích Đức Chúa Trời phán những lời này là để con người hiểu được lẽ thật và hiểu được các nguyên tắc; nó hoàn toàn không phải là để quy định con người. Điều này không liên quan gì đến đích đến và phần thưởng cuối cùng của con người, càng không phải là sự trừng phạt cuối cùng của con người. Đây chỉ đơn thuần là những lời để phán xét và tỉa sửa con người, lời Ngài là kết quả của sự tức giận khi con người không sống đúng kỳ vọng của Ngài, và những lời này hòng để thức tỉnh họ, để thúc giục họ – và chúng là những lời phát xuất từ tấm lòng Đức Chúa Trời. Ấy thế mà, một số người gục ngã và từ bỏ Đức Chúa Trời chỉ vì một lời phán xét của Đức Chúa Trời. Những người như thế không biết điều gì tốt cho họ, họ trơ lì với lý trí và hoàn toàn không tiếp nhận lẽ thật. Có người yếu đuối một khoảng thời gian rồi lại đến trước mặt Đức Chúa Trời, họ cảm thấy: “Không được, mình vẫn phải tiếp tục đi theo Đức Chúa Trời, vẫn phải làm theo những gì Đức Chúa Trời yêu cầu. Nếu không đi theo Đức Chúa Trời, không làm tốt bổn phận của mình, thì sống như vậy chẳng có giá trị gì. Để sống thể hiện ra một cuộc đời có ý nghĩa, mình vẫn phải đi theo Đức Chúa Trời”. Vậy làm sao để đi theo Đức Chúa Trời? Thì phải trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, chỉ nói mình tin Đức Chúa Trời ngoài miệng, mà không trải nghiệm công tác của Ngài, thì đó không phải là đi theo Đức Chúa Trời. Trước đây khi làm bổn phận thì ngươi không trung thành, gặp phải chút tỉa sửa ngươi cũng không sẵn lòng tiếp nhận, đây là thái độ nên có khi tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời sao? Không tiếp nhận sự tỉa sửa, chịu chút khổ cũng oán trách mãi, đây là tâm tính gì? Chuyện này người ta nên phản tỉnh, nên xem xem Đức Chúa Trời yêu cầu như thế nào và nên làm theo những gì Ngài yêu cầu. Nếu như Đức Chúa Trời nói chúng ta không ổn, nghĩa là chúng ta không ổn. Chúng ta cũng không được dùng quan niệm và tưởng tượng của mình để quy định, đối kháng Đức Chúa Trời, mà chúng ta thuận phục, thừa nhận bản thân mình không ổn. Đây có phải là có con đường thực hành hay không? Con người có thể thực hành lẽ thật, có thể thuận phục Đức Chúa Trời, thì còn có thể rời bỏ Đức Chúa Trời không? Không thể rời bỏ Đức Chúa Trời được. Có những lúc người ta cho rằng Đức Chúa Trời vứt bỏ mình rồi, thực ra Ngài không hề vứt bỏ ngươi, chẳng qua là Ngài quẳng ngươi sang một bên, để cho ngươi phản tỉnh. Đức Chúa Trời thấy ngươi đáng ghét, không muốn để ý tới ngươi, nhưng cũng không phải thực sự vứt bỏ ngươi. Có người mặc dù đã ra sức làm bổn phận của mình trong nhà Đức Chúa Trời, nhưng bởi vì những nguyên do như thực chất của họ và đủ loại biểu hiện của họ… mà Đức Chúa Trời thấy họ không phải là người yêu thích lẽ thật, không tiếp nhận lẽ thật chút nào. Thực ra, đối với Đức Chúa Trời người này đã bị vứt bỏ và không thực sự được tuyển chọn, họ chẳng qua là kẻ dốc sức lực phục vụ tạm thời. Nhưng đối với một số người, Đức Chúa Trời lại gắng hết sức sửa dạy, sửa phạt và phán xét họ, thậm chí lên án và nguyền rủa họ, dùng các loại phương thức không phù hợp với quan niệm của con người để đối đãi với họ. Một số người không hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, và nghĩ rằng Đức Chúa Trời đang chỉ trích họ và làm tổn thương họ. Họ nghĩ rằng sống trước Đức Chúa Trời thì họ không có tôn nghiêm, họ không muốn làm đau lòng Ngài thêm nữa và rời khỏi hội thánh. Họ thậm chí nghĩ rằng làm điều này là có lý trí, và theo cách đó, họ quay lưng với Đức Chúa Trời – nhưng trên thực tế, Đức Chúa Trời đã không từ bỏ họ. Họ không hề biết chút gì về tâm ý của Ngài. Họ có phần quá nhạy cảm, đi quá xa đến mức từ bỏ sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Họ có thật sự có lương tâm không? Có những lúc Đức Chúa Trời lánh khỏi con người, và những lúc Ngài để họ sang một bên một khoảng thời gian để họ có thể phản tỉnh về chính mình, nhưng Đức Chúa Trời chưa từ bỏ họ; Ngài đang ban cho họ cơ hội ăn năn. Đức Chúa Trời chỉ thật sự từ bỏ và những kẻ ác phạm nhiều điều ác, những kẻ chẳng tin và những kẻ địch lại Đấng Christ. Một số người nói: “Tôi cảm thấy không có công tác của Đức Thánh Linh và tôi đã không có sự khai sáng của Đức Thánh Linh từ lâu. Có phải Đức Chúa Trời đã từ bỏ tôi?”. Đây là một quan niệm sai lầm. Có một vấn đề về tâm tính ở đây: con người có quá chiều theo cảm xúc, họ luôn làm theo lý lẽ riêng của mình, luôn tùy ý và không có lý trí – đây chẳng phải là vấn đề về tâm tính sao? Ngươi nói rằng Đức Chúa Trời đã từ bỏ ngươi, rằng Ngài sẽ không cứu rỗi ngươi, vậy thì Ngài đã quy định kết cục cho ngươi sao? Đức Chúa Trời chỉ đơn thuần phán vài lời giận dữ với ngươi. Sao ngươi có thể nói Ngài đã từ bỏ ngươi, rằng Ngài không muốn ngươi nữa? Có những lúc ngươi không thể cảm nhận được công tác của Đức Thánh Linh, nhưng Đức Chúa Trời chưa tước đi của ngươi quyền đọc lời Ngài, Ngài cũng chưa quy định kết cục của ngươi, hay chia cắt con đường dẫn đến sự cứu rỗi của ngươi – vậy ngươi buồn phiền về điều gì? Ngươi đang ở trong một trạng thái tồi tệ, có vấn đề trong những động cơ của ngươi, có vấn đề trong quan điểm và tư tưởng của ngươi, trạng thái tâm trí của ngươi bị méo mó – thế mà ngươi không cố gắng sửa chữa những điều này bằng cách tìm kiếm lẽ thật, và liên tục diễn dịch sai và oán trách Đức Chúa Trời, và đẩy trách nhiệm cho Đức Chúa Trời, và thậm chí còn nói: “Đức Chúa Trời không muốn tôi, do đó tôi không tin vào Ngài nữa”, thì chẳng phải ngươi lố bịch sao? Chẳng phải ngươi không có lý trí sao? Người như thế là quá ngang ngược, một chút lý trí cũng không có, là người không nói lý lẽ được, loại người đó khó tiếp nhận lẽ thật nhất, là người rất khó được cứu rỗi.
Các ngươi hãy ghi nhớ lời này: Trải qua hàng trăm lần tinh luyện, Phi-e-rơ mới được hoàn thiện. Trong quan niệm và tưởng tượng của các ngươi, hàng trăm lần tinh luyện chính là một đời oanh liệt đi theo Đức Chúa Trời chịu trăm cay nghìn đắng, cuối cùng chịu đóng đinh trên thập tự giá như thế. Không phải như vậy đâu, đây là quan niệm của con người thôi. Tại sao Ta nói đây là quan niệm của con người? Bởi vì con người không hiểu sự thử luyện của Đức Chúa Trời là gì, không hiểu được rằng mỗi một lần thử luyện đều do tay Đức Chúa Trời an bài và làm việc, cũng không hiểu được “mấy trăm lần” là gì, hay chuyện vì sao Đức Chúa Trời tinh luyện Phi-e-rơ mấy trăm lần, mấy trăm lần này được tổng kết ra như thế nào, căn nguyên ở đâu. Mọi chuyện này, con người đều không biết, họ chỉ hiểu dựa vào quan niệm và tưởng tượng, kết quả là họ có thể hiểu lầm Đức Chúa Trời. Có một số lời Đức Chúa Trời nếu người không có trải nghiệm thì không hiểu được. Trong cuộc sống hiện thực, nếu những gì Đức Chúa Trời làm trên mỗi người đều là chúc phúc, dẫn dắt con người, ôn hoà nhã nhặn nói chuyện với con người, thì đối với con người mà nói, thử luyện mãi mãi chỉ là một câu nói suông, chỉ là một từ, một định nghĩa, một khái niệm. Nhưng Đức Chúa Trời lại thường làm những công tác này trên ngươi, có lúc Ngài khiến ngươi gặp phải bệnh tật, có lúc Ngài khiến ngươi gặp phải những chuyện không như ý, khiến ngươi nản lòng, yếu đuối, có lúc gặp phải những hoàn cảnh khó khăn, Ngài còn khiến ngươi thấy khó ứng phó, không biết phải làm gì cho phù hợp. Đối với ngươi, những chuyện này là gì? Tất cả những chuyện không được như ý, tất cả những đau khổ hoặc khó khăn, trắc trở, thậm chí là sự cám dỗ của Sa-tan này, nếu ngươi có thể tiếp nhận chúng như những sự thử luyện của Đức Chúa Trời, như một trong hàng trăm lần thử luyện, để tìm kiếm lẽ thật, thì tình trạng của ngươi sẽ có sự chuyển biến, mối quan hệ giữa ngươi và Đức Chúa Trời sẽ có sự cải thiện. Nhưng nếu khi thử luyện xảy ra mà ngươi từ chối, một mực tránh né, chống đối, đối kháng, vậy thì đối với ngươi, mấy trăm lần thử luyện này mãi mãi là một câu nói suông, không thể thực hiện được. Ví dụ như, có người có thái độ không tốt đối với ngươi, ngươi không biết nguyên nhân là gì, nhưng chuyện này khiến ngươi cảm thấy không thoải mái. Nếu ngươi sống trong huyết khí, sống trong xác thịt, thì ngươi sẽ có lý do để bản thân cũng đối xử không tốt với họ, theo kiểu mắt đền mắt, răng đền răng với họ. Nhưng nếu ngươi sống trước mặt Đức Chúa Trời, muốn tiếp nhận sự hoàn thiện của Đức Chúa Trời, tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài, thì ngươi nên tiếp nhận lấy mọi chuyện xảy ra như sự thử luyện của Đức Chúa Trời. Trên thực tế, đây chính là sự thử luyện ở nhiều hình thức của Đức Chúa Trời đối với ngươi. Thông công như vậy, có phải các ngươi đã cảm thấy được giải phóng nhiều hơn, trong lòng cũng nhẹ nhõm hơn hay không? Nếu ngươi có thể thực hành theo những lời này, đối chiếu hành vi và quan điểm của ngươi thì điều này sẽ giúp ích rất nhiều đối với việc thuận phục sự sắp đặt, an bài của Đức Chúa Trời trong cuộc sống thường nhật.
Quan niệm của con người đối với việc tin Đức Chúa Trời mà hôm nay chúng ta nói đến chủ yếu liên quan đến những phương diện nào? Một là về phương diện hành vi bên ngoài, ngụy trang giống như người Pha-ri-si, vô cùng nho nhã, lễ độ; một phương diện khác là về ăn, mặc, ở, đi lại; còn nữa, về phương diện lý giải của con người về việc tin Đức Chúa Trời, cho rằng tin Đức Chúa Trời phải được phúc, được lợi. Phương diện này Gióp đã trải nghiệm như thế nào? Khi Gióp gặp phải thử luyện, ông nhận định rằng việc đó đến từ Đức Chúa Trời, bản thân ông không làm gì sai trái, đó không phải là sự trừng phạt của Đức Chúa Trời, mà là sự thử luyện của Ngài và cũng là sự cám dỗ của Sa-tan, ông đã lĩnh hội như vậy. Nhưng một vài người bạn của Gióp đã lĩnh hội điều đó như thế nào? Họ cho rằng Gióp đã làm điều sai trái và đắc tội với Đức Chúa Trời nên mới gặp tai họa như vậy, họ có thể nghĩ như vậy thì chứng tỏ họ có quan niệm về việc tin Đức Chúa Trời. Tại sao Gióp không lĩnh hội giống như những người khác? Đó là bởi vì Gióp nhìn thấu loại chuyện này, nên Gióp không có quan niệm trong loại chuyện này. Trong thời gian Đức Chúa Trời làm việc trên người ông, ông đã có trải nghiệm và có nhận thức về công tác của Ngài, những quan niệm và ý nghĩ này của con người không tồn tại trong ông, cho nên khi bàn tay của Đức Chúa Trời đến với ông, ông có hiểu lầm hay không? (Thưa, không.) Không có sự hiểu lầm thì không có oán trách hay phản nghịch, không có sự hiểu lầm thì sẽ có sự thuận phục thực sự. Lời này có đúng hay không? (Thưa, đúng.) Đúng ở đâu? Nếu trong lòng con người thưa “Amen” lời Đức Chúa Trời, coi lời Đức Chúa Trời là thực tế của những điều tích cực, là đúng đắn, là tiêu chuẩn, là tối cao, là nguyên tắc mà con người nên thực hành thì con người sẽ có sự thuận phục và không có sự hiểu lầm nữa. Bất cứ khi nào con người nảy sinh hiểu lầm về những gì Đức Chúa Trời nói và làm thì đều có một biểu hiện, đó là biểu hiện gì? (Thưa, không sẵn lòng tiếp nhận.) Đằng sau việc không muốn tiếp nhận này là gì? Chính là có ý nghĩ của riêng mình, những ý nghĩ này mâu thuẫn, đối lập với lời Đức Chúa Trời, lúc này họ nảy sinh hiểu lầm và quan niệm về Đức Chúa Trời, cho rằng những gì Đức Chúa Trời nói cũng chưa chắc đúng. Có lúc cho dù tiếp nhận ở bề ngoài thì cũng là ngụy trang, không phải là thực sự tiếp nhận. Phải thông qua tìm kiếm lẽ thật, đạt đến hoàn toàn nhất trí với lời và yêu cầu của Đức Chúa Trời về mặt tư tưởng, tán thành lời Đức Chúa Trời trong lòng, thì mới là tương hợp với Đức Chúa Trời. Trong lòng ngươi không tiếp nhận, có hiểu lầm, thậm chí phản kháng, chống đối, thì chứng tỏ bên trong ngươi có thứ gì đó. Nếu ngươi biết mổ xẻ thứ bên trong ngươi, biết tìm kiếm lẽ thật, thì quan niệm của ngươi có thể được giải quyết; nếu ngươi lĩnh hội một cách lệch lạc, không có hiểu biết thuộc linh, hoặc không có năng lực lĩnh hội, thì căn bản ngươi sẽ không biết đối chiếu với lời Đức Chúa Trời, cũng không biết nhận thức, mổ xẻ, có quan niệm nảy sinh cũng không biết, vậy thì quan niệm của ngươi sẽ không giải quyết được. Có người rõ ràng trong lòng có hiểu lầm đối với Đức Chúa Trời mà ngoài miệng còn nói không có, hắn sợ nói ra thì mất mặt, khiến người ta coi thường, nếu như có người hỏi hắn: “Anh không hiểu lầm Đức Chúa Trời, vậy tại sao không thể thuận phục Ngài?”. Hắn liền trả lời: “Tôi không biết thực hành như thế nào”. Đây là biểu hiện gì? Là không có hiểu biết thuộc linh, không biết phân định, bản thân có vấn đề cũng không biết phản tỉnh, vậy thì quan niệm của ngươi không giải quyết được, hiểu lầm của ngươi đối với Đức Chúa Trời cũng không giải quyết được. Khi gặp phải chuyện không liên quan đến quan niệm của mình thì trong lòng ngươi rất thản nhiên và không nhìn ra mình có vấn đề, nhưng một khi đụng đến quan niệm của ngươi thì sự chống đối của ngươi đối với Đức Chúa Trời liền xuất hiện. Biểu hiện của sự chống đối đó là gì? Có lúc là bất mãn, lâu dần không giải quyết thì hiểu lầm của ngươi đối với Đức Chúa Trời càng sâu sắc hơn, tâm tính bại hoại lại tăng thêm, thế là ngươi loan truyền quan niệm và xét đoán Đức Chúa Trời. Một khi đã xét đoán Đức Chúa Trời thì đó không còn là vấn đề của một loại hành vi hay tư tưởng, mà là sự bộc lộ tâm tính của Sa-tan. Nếu con người có chút chống đối, hoặc không thuận phục trong hành động vì ngu muội vô tri thì Ðức Chúa Trời không lên án. Nếu con người chống đối trực tiếp và có ý thức trong tâm tính, thì phiền phức rồi, đó chính là chống lại Đức Chúa Trời. Con người chống lại Đức Chúa Trời một cách có ý thức là xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời. Cho nên, con người có quan niệm thì phải giải quyết, giải quyết được quan niệm thì con người mới có thể giải quyết hiểu lầm với Đức Chúa Trời, chỉ khi giải quyết được hiểu lầm giữa con người và Đức Chúa Trời thì con người mới có thể có sự thuận phục chân thực đối với Ngài. Có người nói: “Tôi không có quan niệm, hiểu lầm giữa tôi và Đức Chúa Trời đã được giải quyết, tôi không nghĩ gì nữa”. Nói như vậy có được không? Mục đích của việc giải quyết quan niệm không chỉ là để giải quyết quan niệm, mà còn là để thực hành theo yêu cầu của Đức Chúa Trời và theo lẽ thật, để đạt đến thuận phục và thỏa mãn Đức Chúa Trời. Có những người nói: “Tôi không hiểu lầm Đức Chúa Trời là được rồi, thế là mọi chuyện ổn cả, là an toàn rồi”. Đây không phải là sự thực hành lẽ thật chân thực, không phải là sự thuận phục chân thực, và vấn đề vẫn chưa được giải quyết. Nếu vấn đề thực sự được giải quyết, con người không những không hiểu lầm Đức Chúa Trời, mà còn có thể biết Ngài yêu cầu điều gì và tâm ý của Ngài đối với con người trong những chuyện xảy ra với mình. Họ không chỉ có thể mổ xẻ quan niệm của mình mà còn có thể giúp người có quan niệm học cách tìm kiếm lẽ thật, biết thực hành lẽ thật, thỏa mãn yêu cầu của Đức Chúa Trời. Đây có phải là hợp tâm ý của Đức Chúa Trời hay không? Mục tiêu cuối cùng của việc giải quyết quan niệm là hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, có thể bước vào thực tế lẽ thật, đó là mấu chốt. Ngươi nói ngươi không nảy sinh sự hiểu lầm nào về Đức Chúa Trời, vậy ngươi có hiểu lẽ thật không? Ngươi không hiểu lẽ thật thì cho dù ngươi không có quan niệm hay hiểu lầm về Đức Chúa Trời, ngươi cũng không phải là người thuận phục Đức Chúa Trời. Không hiểu lầm không có nghĩa là ngươi hiểu Ngài, càng không có nghĩa là ngươi có thể thuận phục Ngài. Khi bình an vô sự thì con người không có quan niệm, không có hiểu lầm đối với Đức Chúa Trời, nhưng như thế không có nghĩa là con người không có quan niệm, hiểu lầm đối với Ngài, một khi gặp phải chuyện liên quan đến lợi ích thiết thân của mình, quan niệm của họ tự nhiên sẽ nảy sinh, lại còn hiểu lầm Đức Chúa Trời, thậm chí buông lời oán trách. Con người đặc biệt xem trọng lợi ích thì có thể đạt đến thuận phục Đức Chúa Trời không? Tại sao liên quan đến lợi ích cá nhân thì quan niệm, hiểu lầm của con người lại có thể theo đó nảy sinh và họ phản nghịch, chống đối Đức Chúa Trời? Con người có bản tính và tâm tính của Sa-tan thì sẽ như vậy, khi liên quan đến lợi ích cá nhân, khi không hợp với quan niệm và tưởng tượng của con người thì không thể thuận phục Đức Chúa Trời nữa. Quan niệm và sự hiểu lầm của con người đối với Đức Chúa Trời sẽ nảy sinh tùy theo hoàn cảnh, nếu như họ không thể tìm kiếm lẽ thật, tiếp nhận lẽ thật thì quan niệm của họ mãi mãi không được giải quyết, quan hệ của họ với Đức Chúa Trời mãi mãi cũng không thể khôi phục lại bình thường. Người có quan niệm mà không tìm kiếm lẽ thật để giải quyết thì tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm cũng sẽ không được Đức Chúa Trời cứu rỗi.
Sự cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời không phải chỉ là những lời nói suông. Ngài bày tỏ tất cả những lẽ thật này để giải quyết nhiều thứ khác nhau trái với lẽ thật của nhân loại bại hoại – những quan niệm, sự tưởng tượng, kiến thức, triết lý, văn hóa truyền thống, v.v. của họ. Bằng cách mổ xẻ những điều này, Ngài làm cho con người hiểu cái gì cấu thành những điều tích cực, cái gì cấu thành những điều tiêu cực, những điều nào đến từ Đức Chúa Trời, những điều nào đến từ Sa-tan, lẽ thật là gì, các triết lý và logic của Sa-tan là gì. Khi con người có thể nhìn thấu những điều này, họ sẽ tự nhiên chọn theo đuổi con đường đúng đắn của cuộc sống, và họ có thể thực hành lẽ thật, làm như Đức Chúa Trời bảo, và nhận thức rõ những điều tiêu cực. Đây là những gì Đức Chúa Trời yêu cầu ở con người, và do vậy, đây cũng là tiêu chuẩn mà Ngài dùng để hoàn thiện và cứu rỗi con người. Một số người nói: “Đức Chúa Trời mổ xẻ những quan niệm của con người, nhưng tôi không có quan niệm. Những người có quan niệm thường là những con cáo già gian ác, hoặc nếu không thì là những nhà thần học và người Pha-ri-si. Tôi không giống như vậy”. Họ có thể nói những lời như vậy, thì vấn đề ở đây là gì? Họ không biết bản thân họ. Cho dù có thông công lẽ thật với họ thế nào, họ cũng không áp dụng cho bản thân mình, nghĩ rằng mình không như vậy. Đây là sự ngu dốt, và họ không có hiểu biết thuộc linh. Các ngươi có thể suy nghĩ theo cách này không? Ngày nay, hầu hết mọi người đều không nghĩ như thế. Khi đã ăn uống nhiều lời Đức Chúa Trời và có thể hiểu nhiều lẽ thật, người ta có thể thấy rõ rằng tất cả mọi người đều có những thứ thuộc về quan niệm và tưởng tượng, rằng tất cả mọi người đều có tâm tính bại hoại. Không có gì đáng hổ thẹn khi mổ xẻ những điều này, hơn nữa, sau khi mổ xẻ chúng, họ tin rằng điều đó sẽ giúp những người khác phát triển sự sáng suốt, bản thân họ sẽ trưởng thành và có thể hiểu lẽ thật nhanh hơn. Vì lý do này, tất cả họ đều có thể công khai mổ xẻ bản thân mình. Vậy mục đích mổ xẻ những quan niệm là gì? Đó là gạt những quan niệm này sang một bên, giải quyết những hiểu lầm giữa con người và Đức Chúa Trời, và sau đó cho phép con người tập trung vào những gì Đức Chúa Trời yêu cầu ở con người, biết cách bước vào con đường cứu rỗi, và biết phải làm gì để thực hành lẽ thật. Bằng cách thường xuyên thực hành theo cách này, hiệu quả cuối cùng sẽ đạt được là: Một mặt, con người sẽ bắt đầu hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời và trở nên có thể thuận phục Đức Chúa Trời, mặt khác, họ sẽ có sự miễn dịch để loại bỏ và chống lại nhiều thứ tiêu cực, chẳng hạn như những quan niệm và sự tưởng tượng tà ác, cùng những thứ nảy sinh từ kiến thức. Khi đối mặt với một trí thức tôn giáo, một nhà thần học, một mục sư hay trưởng lão tôn giáo, ngươi có thể nhìn thấu họ khi nói chuyện với họ, và có thể dùng lẽ thật để bác bỏ vô số quan niệm, sự tưởng tượng, dị giáo và những sự ngụy biện của họ. Điều này cho thấy rằng ngươi có thể xác định những điều tiêu cực, rằng ngươi đã hiểu một số lẽ thật, rằng ngươi sở hữu một vóc giạc nhất định, và do đó không lo sợ khi đối mặt với những lãnh đạo và nhân vật tôn giáo này. Kiến thức, học thức, và các triết lý mà họ nói đến – thậm chí tất cả những hệ tư tưởng và lý thuyết của họ – đều không thể trụ vững, bởi ngươi đã nhìn thấu những câu chữ và đạo lý, những quan niệm và sự tưởng tượng của tôn giáo, và những thứ này không còn có thể mê hoặc ngươi nữa. Nhưng các ngươi vẫn chưa đạt đến đó. Khi đối mặt với những kẻ lừa đảo trong tôn giáo hay người Pha-ri-si này, hay bất kỳ ai có chút địa vị, các ngươi lo sợ; các ngươi biết điều họ đang nói là sai, rằng nó bao gồm những quan niệm và sự tưởng tượng, từ kiến thức mà ra, nhưng các ngươi không biết cách bác bỏ nó, các ngươi không biết bắt đầu mổ xẻ nó từ đâu, hay dùng những lời nào để vạch trần những người này. Chẳng phải điều này cho thấy ngươi vẫn chưa hiểu lẽ thật sao? (Thưa, phải.) Vậy thì các ngươi phải trang bị lẽ thật cho bản thân và khi đã hiểu lẽ thật rồi thì có thể mổ xẻ bản thân, rồi ngươi sẽ biết cách phân định con người. Khi các ngươi đã hiểu lẽ thật, các ngươi sẽ có thể thấy rõ người khác, nhưng nếu không hiểu lẽ thật, các ngươi sẽ không bao giờ thấy rõ được họ. Để nhìn thấu con người và sự việc, ngươi phải hiểu lẽ thật; không có lẽ thật làm nền tảng, làm sự sống của ngươi, ngươi sẽ không thể thâm nhập sâu vào bất kỳ điều gì.
Khi con người đã giải quyết được những quan niệm và sự tưởng tượng khác nhau thì họ có kiến thức và trải nghiệm về lời Đức Chúa Trời, và đồng thời họ cũng đã bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời. Trong quá trình bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời, những quan niệm và sự tưởng tượng khác nhau nảy sinh trong con người đều được giải quyết, từng cái một, và có một sự thay đổi trong kiến thức của con người về công tác của Đức Chúa Trời, thực chất của Đức Chúa Trời, và những thái độ khác nhau của Đức Chúa Trời đối với con người. Sự thay đổi này có được như thế nào? Nó có được khi con người buông bỏ những quan niệm và sự tưởng tượng của họ, khi họ buông bỏ những tư tưởng và quan điểm đến từ kiến thức, triết lý, văn hóa truyền thống hay thế gian, và thay vào đó chấp nhận những quan điểm khác nhau đến từ Đức Chúa Trời và những gì liên quan đến lẽ thật. Khi con người chấp nhận những lời của Đức Chúa Trời như sự sống của mình, họ cũng bước vào thực tế của lời Đức Chúa Trời, và có thể dùng lẽ thật để suy nghĩ và nhìn nhận vấn đề, và dùng lẽ thật mà giải quyết các vấn đề. Giải quyết được các quan niệm và hiểu lầm khác nhau của mình về Đức Chúa Trời rồi, họ liền có thể lập tức cải thiện mối quan hệ với Đức Chúa Trời, đồng thời mở đường cho lối vào sự sống của mình. Khi con người đạt được những thay đổi như thế, mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời trở nên như thế nào? Nó trở thành mối quan hệ của vật thọ tạo và Đấng Tạo Hóa. Trong những mối quan hệ ở cấp độ này, không có cạnh tranh, không có thử thách, và rất ít sự phản nghịch; con người vâng phục, hiểu biết, thờ phượng, trung thành và trung thực hơn nhiều đối với Đức Chúa Trời, và họ thật sự kính sợ Đức Chúa Trời. Đây là sự thay đổi mang lại cho cuộc sống của con người sau khi các quan niệm của họ được giải quyết. Nếu có thể đạt đến dạng thay đổi này, các ngươi có sẵn lòng giải quyết các quan niệm của mình không? (Thưa, có.) Nhưng giải quyết những quan niệm của mọi người là một quá trình rất đau đớn. Mọi người phải phủ nhận bản thân, phải buông bỏ những quan niệm của mình, buông bỏ những điều mình tin là đúng, buông bỏ những điều mình kiên trì tìm kiếm, buông bỏ những điều mình đã tin là đúng và đã theo đuổi, đã khao khát cả cuộc đời. Điều này nghĩa là con người phải chống lại chính mình, phải buông bỏ những kiến thức, triết lý – thậm chí cả cách họ tồn tại – mà đã học được từ thế giới của Sa-tan, và thay thế chúng bằng một cách sống khác, với nền tảng và gốc rễ là lẽ thật. Như thế, con người phải chịu rất nhiều đau khổ. Đau khổ ấy có thể không phải là bệnh tật thể chất hay gian nan và khó khăn trong đời sống hằng ngày, mà nó có thể đến từ một sự thay đổi trong mọi dạng quan điểm về những điều khác nhau và về nhân loại trong lòng ngươi, hay nó thậm chí có thể đến từ một sự thay đổi trong những khía cạnh khác nhau của kiến thức mà ngươi có về Đức Chúa Trời, điều làm đảo lộn kiến thức và quan điểm của ngươi về thế giới, cuộc đời, nhân loại, thậm chí cả về Đức Chúa Trời.
Vừa rồi chúng ta đã thông công về quan niệm của con người đối với việc tin Đức Chúa Trời và đưa ra vài ví dụ, để con người có một khái niệm cơ bản về phương diện lẽ thật này. Sau đó các ngươi nghiền ngẫm lần nữa, cùng nhau thông công, suy một ra ba, dần dần đạt đến có sự nghĩ lại, nhận thức và mổ xẻ đối với các loại quan niệm về việc tin Đức Chúa Trời, sau đó từng bước giải quyết chúng. Tóm lại, các loại tưởng tượng và quan niệm của con người đối với việc tin Đức Chúa Trời cũng không ít. Ví dụ, cho dù là về phương diện cuộc sống hay hôn nhân, gia đình, công việc, một khi nảy sinh khó khăn thì quan niệm của con người đối với Đức Chúa Trời sẽ xuất hiện, họ sẽ oán trách Đức Chúa Trời, xét đoán Ngài, trong lòng họ luôn suy nghĩ: “Vì sao Đức Chúa Trời không bảo vệ mình, không ban phúc lành cho mình?”, giống như người ngoại đạo luôn nói “Ông trời bất công”, “Ông trời không có mắt”, những thứ này đều không phải ngẫu nhiên mà nảy sinh. Khi cuộc sống an nhàn, hạnh phúc, con người chẳng bao giờ cảm tạ Đức Chúa Trời, thậm chí có thể phủ nhận Ngài, hoài nghi sự tồn tại của Ngài. Một khi gặp phải hoạn nạn, ngươi lại đổ trách nhiệm lên Đức Chúa Trời, bắt đầu xét đoán, báng bổ Ngài. Có người thậm chí còn cho rằng sau khi tin Đức Chúa Trời thì cái gì cũng không cần học, cũng không cần làm việc, đến thời điểm thì Đức Chúa Trời đều chuẩn bị sẵn cho họ rồi, nếu có khó khăn gì thì cầu nguyện Đức Chúa Trời, phó thác cho Ngài, để cho Ngài giải quyết, có bệnh thì Ngài chữa trị, tai hoạ đến thì có Ngài bảo vệ, đến ngày của Đức Chúa Trời thì chúng ta đều được thay đổi hình tượng, Đức Chúa Trời chỉ cần làm dấu kỳ và phép lạ thì việc gì cũng được giải quyết, quan niệm và tưởng tượng của con người là vậy. Đối với tri thức nghiệp vụ có liên quan đến bổn phận mà con người nên học thì con người nên học tập dựa theo nhu cầu của việc thực hiện bổn phận, cái này gọi là thiết thực, theo đuổi việc chính đáng, đừng suy nghĩ viển vông, đừng dựa vào tưởng tượng. Chuyện Đức Chúa Trời yêu cầu con người làm thì con người phải làm được, đó là bổn phận mà con người nên làm, tuyệt đối không thể thay đổi, con người phải nghiêm túc đối đãi với chuyện đó, như thế mới phù hợp với lẽ thật. Đây chính là quan điểm mà con người nên có đối với bổn phận, đây không phải là quan niệm, mà là lẽ thật, cũng là yêu cầu của Đức Chúa Trời. Nhiều lúc những gì Đức Chúa Trời làm không phù hợp với tưởng tượng của con người, nếu con người có thể buông bỏ quan niệm, tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời, tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, thì con người có thể vượt qua trong chuyện này, nếu ngươi cố chấp, ôm chặt quan niệm không buông, vậy có nghĩa là ngươi không tiếp nhận lẽ thật, không tiếp nhận những điều đúng, không tiếp nhận yêu cầu của Đức Chúa Trời. Nếu ngươi không tiếp nhận lẽ thật, không tiếp nhận những thứ đúng, thì có thể nói rằng ngươi đối địch với Đức Chúa Trời không? Lẽ thật và những điều tích cực là đến từ Đức Chúa Trời, ngươi không tiếp nhận, lại còn giữ quan niệm của mình, rõ ràng ngươi chính là kẻ địch của lẽ thật. Về quan niệm của con người đối với việc tin Đức Chúa Trời, Ta thông công đến đây thôi, còn lại các ngươi cứ căn cứ vào những nguyên tắc này, căn cứ vào những mối thông công hôm nay mà đối chiếu và áp dụng. Quan niệm của con người về phương diện tin Đức Chúa Trời là quan niệm thường thấy nhất, căn bản nhất trong ba loại quan niệm mà chúng ta thông công, lẽ thật liên quan đến chúng cũng đều không quá sâu, nên dễ dàng giải quyết thôi.
Kế tiếp chúng ta sẽ thông công quan niệm của con người đối với sự nhập thể, quan niệm của con người đối với sự nhập thể cũng không ít. Khi không nhìn thấy Đức Chúa Trời nhập thể, có phải con người có rất nhiều tưởng tượng hay không? Ví dụ, Đức Chúa Trời nhập thể thì cái gì cũng hiểu, cái gì cũng có thể nhìn thấu, tóm lại, họ cảm thấy xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời thì phải vô cùng hoàn mỹ, là một xác thịt mà con người không xứng đáng để kết giao, không có cách nào thân cận. Khi không gặp mặt Đức Chúa Trời, những tưởng tượng này của con người là quan niệm, nảy sinh từ một số phán đoán của con người hoặc là tri thức, tín ngưỡng tôn giáo, sự giáo dục của văn hóa truyền thống. Sau khi gặp mặt Đức Chúa Trời, con người lại nảy sinh một số quan niệm mới: “Thì ra Đấng Christ trông như vậy, nói chuyện như vậy, có tính cách như vậy, sao lại khác với những gì tôi nghĩ? Đức Chúa Trời của tôi không phải như vậy”. Thực ra, Đức Chúa Trời nên như thế nào, chính con người cũng không biết và không thể nói rõ được. Con người không ngừng nảy sinh quan niệm, đồng thời cũng không ngừng phủ nhận chính mình, tỉa sửa chính mình, cho rằng có quan niệm, tưởng tượng là không đúng, cho rằng những gì Đức Chúa Trời làm phải là đúng, nhưng vẫn chưa hiểu được. Quan niệm vẫn không ngừng xuất hiện, thế là trong lòng bắt đầu đấu tranh và suy nghĩ: “Vẫn là Đức Chúa Trời làm đúng, mình không thể có quan niệm”, nhưng con người cũng không thể hoàn toàn buông bỏ quan niệm của mình, vẫn không phục, trong lòng không có bình an. Họ nghĩ: “Rốt cuộc là người hay là Đức Chúa Trời đây? Nếu là Đức Chúa Trời thì không giống lắm; nếu là người cũng không thể bày tỏ nhiều lẽ thật như vậy”. Họ bị mắc kẹt ở chỗ này, muốn tìm người khác thông công thì không tiện mở miệng, sợ người khác chê cười, nói mình quá ngu muội, không có đức tin, lĩnh hội lệch lạc, cũng chỉ có thể tự kìm nén. Tóm lại, cho dù con người có từng gặp mặt Đức Chúa Trời hay chưa, chỉ cần trong lòng nảy sinh quan niệm, hiểu lầm về Đức Chúa Trời thì đều là do sự lĩnh hội của con người có vấn đề. Đức Chúa Trời bày tỏ quá nhiều lẽ thật rồi, những vấn đề này đều được thông công rất rõ ràng, rất sáng tỏ, đều khiến người ta tâm phục khẩu phục, trong loại tình huống này mà còn có thể nảy sinh quan niệm và sự hiểu lầm thì đây không phải là vấn đề đơn giản. Có người vì không có hiểu biết thuộc linh mà có quan niệm, có người vì lĩnh hội lệch lạc mà có quan niệm, có người vì không yêu thích lẽ thật, không hiểu lẽ thật chút nào mà nảy sinh quan niệm, cho dù nói thế nào, chỉ cần niềm tin và ý nghĩ của con người không phù hợp với lời của Đức Chúa Trời nói, với công tác và thực chất của Ngài thì có thể cản trở con người tin tưởng và nhận thức Đức Chúa Trời, cản trở họ thuận phục công tác của Ngài, hoặc là có thể khiến họ nảy sinh quan điểm và ý nghĩ hoài nghi, hiểu lầm, phủ nhận, và chống lại Đức Chúa Trời, những thứ này đều là quan niệm, đều là trái với lẽ thật.
Sau đây chúng ta sẽ kết hợp với các ví dụ cụ thể để thông công. Có thể có không ít người trong các ngươi đã nghe qua một số câu chuyện về Ta. Khi ngươi mới tin Đức Chúa Trời hoặc trong một hoàn cảnh nào đó, có người sẽ kể cho ngươi nghe một vài câu chuyện nhỏ khiến cơn sóng trong lòng ngươi dâng trào hoặc khiến ngươi cảm động đến rơi lệ. Ví dụ, có người nói rằng vào dịp năm mới nọ, trong khi những người khác trở về nhà ăn mừng năm mới thì Đấng Christ đang đi trên đường phố, hứng chịu gió tuyết, không có nhà để về. Sau khi nghe xong câu chuyện này, một số người vô cùng cảm động mà nói rằng: “Đức Chúa Trời đến nhân gian thật không dễ dàng gì! Nhân loại quá bại hoại, đều vứt bỏ Đức Chúa Trời, mới khiến Đức Chúa Trời chịu khổ như vậy. Đức Chúa Trời nói ‘Con cáo có hang, chim trời có tổ, song Con người không có chỗ mà gối đầu’ xem ra là thật rồi, lời này ứng nghiệm rồi, Đức Chúa Trời quá vĩ đại!”. Họ cho rằng sự vĩ đại của Đức Chúa Trời bắt nguồn từ câu chuyện này, là kết luận từ câu chuyện này. Trong khi cảm động đến rơi lệ lúc nghe xong câu chuyện này, các ngươi có bao giờ tự hỏi tại sao người ta lại sẵn lòng nghe câu chuyện như vậy không? Tại sao họ có thể bị câu chuyện như vậy làm cho cảm động? Con người có một loại quan niệm, một loại yêu cầu, một loại tiêu chuẩn đánh giá đối với xác thịt của chính Đức Chúa Trời. Vậy quan niệm này là gì? Đó là nếu Đức Chúa Trời nhập thể đến, vậy thì Ngài phải chịu khổ. Đức Chúa Trời phán: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, song Con người không có chỗ mà gối đầu”, nếu những lời này không ứng nghiệm, nếu trạng thái cuộc sống của Con người không phải như vậy, nếu Ngài không chịu khổ như vậy mà lại hưởng phúc thì con người không thể khâm phục, cũng không được khích lệ, họ sẽ không muốn thực hiện bổn phận, cũng không cam lòng chịu chút đau khổ. Con người cho rằng Đức Chúa Trời nên chịu khổ, như vậy mới có thể làm gương sáng, làm hình mẫu cho toàn nhân loại, Đức Chúa Trời đến rồi thì không thể hưởng thụ vinh hoa phú quý, những thứ đó thuộc về thế giới. Đức Chúa Trời đến rồi thì phải chuyên chịu khổ, sau khi chịu khổ xong thì khiến cho toàn nhân loại đều không nói nên lời, đều cảm động, khâm phục vì chuyện này, sau đó đi theo Đức Chúa Trời. Con người đã có một loại quan niệm như vậy đối với chính Đức Chúa Trời, cho nên họ rất đồng cảm, dễ tiếp nhận đối với câu chuyện như vậy. Vậy các ngươi có muốn biết chuyện này rốt cuộc có hay không? Các ngươi hy vọng có hay là không có? Có phải câu hỏi này không dễ trả lời không? Nếu như có chuyện này, con người liền cảm thấy quá hợp với quan niệm của họ, nếu như không có chuyện này, tấm gương anh hùng trong sâu thẳm nội tâm các ngươi có phải sẽ tan vỡ hay không? Đó có phải là một đòn đau đối với các ngươi không? Có thể nào đả kích đến các ngươi hay không? Thực ra thì có chuyện này hay không cũng không quan trọng, vậy quan trọng là cái gì? Là mổ xẻ quan niệm của con người. Con người đối với sự nhập thể của Đức Chúa Trời, đối với cuộc sống, hoàn cảnh sống, chất lượng sống của Ngài, cả việc ăn, mặc, ngủ, nghỉ của Ngài, đều có một tiêu chuẩn đánh giá, đều có một quan niệm. Quan niệm này chính là Đức Chúa Trời đã đến thì nhất định phải chịu khổ. Ngoài ra, trong lòng con người, Đấng Christ nhất định phải có sức ảnh hưởng, đáng để con người sùng bái, đáng để con người kính trọng, ngưỡng mộ. Ngài có thể đọc nhanh như gió, xem qua là nhớ, có một số khả năng đặc biệt mà người bình thường không với tới, thậm chí có thể làm những dấu kỳ và phép lạ, như vậy mới đáng để con người đi theo, mới xứng đáng với danh xưng “Đức Chúa Trời quyền năng”. Quan niệm và tưởng tượng của con người nếu được thực hiện trong cuộc sống hiện thực, thì con người sẽ tin một cách rất mạnh mẽ, rất tự tin. Nếu những gì xảy ra trong hiện thực khác với quan niệm và tưởng tượng của con người, chẳng hạn như nhìn thấy Đấng Christ vẫn đang bị truy đuổi bởi các thế lực cầm quyền, con người sẽ cảm thấy: “Đức Chúa Trời vẫn có thể chịu nỗi đau bị truy đuổi, đây không phải là anh hùng hay Chúa Cứu Thế trong tưởng tượng của tôi!”. Họ cảm thấy đức tin này không có giá trị. Đây có phải là do quan niệm của con người tạo thành hay không? Những quan niệm này nảy sinh như thế nào? Một mặt là bắt nguồn từ tưởng tượng của con người, một mặt là chịu ảnh hưởng của một số hình tượng danh nhân, vĩ nhân, khiến con người nảy sinh một vài định nghĩa sai lầm về Đức Chúa Trời. Người ta cho rằng cuộc sống của danh nhân vĩ nhân đều giản dị, một cái bàn chải đánh răng có thể dùng 20, 30 năm, một bộ quần áo vá đi vá lại thậm chí có thể mặc cả đời, có danh nhân vĩ nhân ăn cơm cũng không lãng phí chút nào, ăn cơm xong còn phải liếm sạch chén, đồ ăn rơi xuống còn phải nhặt lên ăn. Trong lòng con người liền nảy sinh một ấn tượng siêu phàm đối với vĩ nhân, họ sẽ lấy những ấn tượng này để đánh giá Đức Chúa Trời nhập thể. Nếu như không phù hợp với ấn tượng đó thì họ sẽ có quan niệm, nếu như hoàn toàn giống với ấn tượng đó, thì họ sẽ không có quan niệm. Con người đối chiếu những điều này với Đấng Christ thì có phù hợp với lẽ thật không? Chẳng lẽ những việc mà các danh nhân, vĩ nhân làm là phù hợp với lẽ thật sao? Chẳng lẽ thực chất bản tính của bọn họ là thánh nhân sao? Thực ra, những danh nhân, vĩ nhân này đều là ma quỷ, ma vương, không một ai là người có thực chất nhân tính bình thường. Cho dù dùng quan niệm của con người để đánh giá ở bề ngoài thì hình như cũng có chút ưu điểm, nhưng xét về thực chất bản tính của họ, xét về mọi hành vi và việc làm của họ thì đều là thực chất của ma quỷ và Sa-tan. Các ngươi lấy hình tượng ma quỷ và Sa-tan để đối chiếu với Đức Chúa Trời nhập thể, đây không phải là sự báng bổ đối với Đức Chúa Trời sao? Sa-tan và ma quỷ từ trước đến nay đều giỏi ngụy trang nhất, bề ngoài chúng nói năng và hành động đều dựa theo quan niệm và tưởng tượng của con người, chỉ nói những lời dễ nghe, nhưng những gì chúng vạch kế hoạch trong lòng, những gì chúng làm đằng sau đều là chuyện ma quỷ xấu xa, nếu như không có ai vạch trần được thì chẳng ai đoán ra nổi. Chỉ cần là tất cả những lời mà ma quỷ Sa-tan nói thì đều là đạo đức giả, đều là những lời làm mê hoặc con người, điểm này thì những người hiểu lẽ thật có thể nhìn thấu. Có người luôn đối chiếu hình tượng vĩ nhân, ma quỷ với Đức Chúa Trời nhập thể, một khi thấy không khớp, trong lòng họ sẽ không thoải mái, sẽ có quan niệm, mãi vẫn không buông bỏ được, người như vậy có nhiều không? Chắc chắn là nhiều. Có người còn đang quan tâm câu chuyện Ta vừa kể rốt cuộc có phải là sự thật hay không. Chuyện này lúc Ta nghe lần đầu thì đã rất bối rối. Đây là chuyện xảy ra trên người Ta, người trong cuộc như Ta lại không biết, đây thực sự là chuyện cực kỳ nực cười, đồng thời cũng là một chuyện cực kỳ bịa đặt, đây không phải là chuyện có thật. Trong hoàn cảnh lúc đó, mặc dù không có nhiều anh chị em tiếp nhận bước công tác mới này, nhưng cũng có một số người đã tiếp nhận từ khi Đức Chúa Trời bắt đầu phán lời, nói chuyện, hơn nữa họ đều là những người tin Chúa Jêsus đến tiếp nhận công tác này, họ đều sẵn lòng nói về lòng yêu thương, tuyệt đối không chặn Đấng Christ ngoài cửa, chắc chắn là không thể. Một vài người vào dịp tết đều mời Ta đến nhà họ. Hơn nữa, có nhiều anh chị em như vậy, Ta đến nhà ai mà không được tiếp đãi cơ chứ? Nói như vậy giống như anh chị em đều phản nghịch, Ta đến đâu cũng không có ai tiếp đãi, đây là đang vu khống anh chị em, là bịa đặt! Đây đều là chuyện không có căn cứ, rõ ràng là do một vài người mưu mô bất lương bịa ra, nhưng các ngươi lại thực sự tin chuyện đó. Tại sao vẫn còn có thể tin chuyện đó chứ? Chính là bởi vì con người đã có một ít quan niệm đối với bản thân sự nhập thể, về mặt tình cảm, dục vọng hoặc là về mặt tâm lý, con người có những nhu cầu này, họ sẽ sẵn lòng nghe loại câu chuyện này, có vài người sẽ lợi dụng sơ hở đó để bịa ra những câu chuyện này, sau đó cật lực tuyên truyền, lan truyền, thêm mắm dặm muối, rồi suy diễn, bịa đặt, cuối cùng người nghe càng ngày càng nhiều, coi chuyện này thành chuyện thật. Chuyện này nếu Ta không làm sáng tỏ, các ngươi cả đời cũng không phân định được thật, giả. Bây giờ các ngươi đã hiểu chưa? Chuyện này căn bản không tồn tại.
Ta sẽ kể cho các ngươi một vài chuyện nữa, để các ngươi thông qua những chuyện này mà nhận thức được có những quan niệm nào về sự nhập thể và Đấng Christ. Bước công tác mới này của Đức Chúa Trời vừa bắt đầu không lâu thì hội thánh cần viết một số bài thánh ca, Ta cũng viết một bài. Lúc đó đã làm chứng là Đức Chúa Trời nhập thể rồi. Sau khi mọi người xem xong bài hát Ta viết, có một số cảm thấy rất hay, nhưng có một người lại nói ra một câu nói rất kỳ quái: “Sao Ngài viết bài hát nhanh như vậy? Sao Ngài lại có nhiều ngôn từ như vậy?”. Nghe xong câu này, Ta rất bối rối: “Viết bài hát thì cần ngôn từ sao, cần tri thức sao? Vậy những lời mà Ta bày tỏ, người đó xem là gì?”. Người đó có một loại quan niệm, một loại ý nghĩ, trong lòng cho rằng những lời mà sự nhập thể bày tỏ đều là từ, đều là văn chương, người đó không cho đây là lẽ thật, cũng không biết được đây là lẽ thật. Đối với mỗi một việc mà sự nhập thể làm, người đó đều thấy rất khó hiểu, bởi vì không hiểu lẽ thật, cho nên người đó sẽ dùng một vài lời của người ngoại đạo để giải thích, khiến người ta nghe xong thì cảm thấy khó chịu, ghê tởm, đó chính là không có hiểu biết thuộc linh, loại người như vậy bây giờ vẫn có. Vậy chuyện này liên quan đến quan niệm của phương diện nào? Người đó không phủ nhận sự nhập thể, không phủ nhận Đấng Christ, mà người đó dùng một loại quan niệm để đánh giá chuyện này. Người đó cho rằng Đấng Christ phải có tri thức, có văn hóa, ở giữa mọi người thì phải khiến người ta tin phục, cho dù không đọc nhiều sách, nhưng tố chất, tài cán, năng lực phải cao hơn người bình thường, nghĩa là nhất định phải có một số chỗ hơn người hoặc khác với người thường mới xứng làm Đức Chúa Trời, mới xứng làm Đấng Christ. Người đó cho rằng Đấng Christ có đủ tư cách thì mới được là Đấng Christ, chứ không cho rằng chỉ có ai sẵn có thực chất của Đấng Christ thì mới là Đấng Christ, vì thế mà người đó có thể nói những lời như vậy. Đối với việc con người tin Đức Chúa Trời, đối với lối vào sự sống của con người, quan niệm như vậy sẽ gây ra những trở ngại nào? Con người sẽ dùng đầu óc để phân tích lời Đức Chúa Trời, phân tích, nghiên cứu xác thịt của Đức Chúa Trời, lúc nào cũng nghiên cứu: “Lời nói của người này có hợp lô-gic hay không? Có hợp với tư duy bình thường hay không? Có hợp với ngữ pháp hay không? Lời này học được từ đâu?”. Họ không tìm kiếm lẽ thật từ lời Đức Chúa Trời, không đứng ở góc độ tiếp nhận lẽ thật để lĩnh hội lời Ngài, không tiếp nhận lời Đức Chúa Trời như là lẽ thật, mà lại dùng đầu óc, tri thức của con người để phân tích, nghiên cứu, nghi ngờ. Cho dù con người dùng quan điểm và quan niệm như thế nào để đánh giá người này, đối xử với người này thì kết quả cuối cùng là gì? (Thưa, không đạt được lẽ thật.) Chắc chắn là không đạt được lẽ thật. Còn có một khía cạnh mà ngươi không nhìn thấu, đó là con người không thể xác nhận Ngài rốt cuộc có phải là sự nhập thể hay không. Chuyện này có quan trọng không? (Thưa, quan trọng.) Rất nhiều người thông qua việc nghe Ngài giảng đạo, nghe một vài lẽ mầu nhiệm Ngài tiết lộ mà xác nhận rằng Ngài là Đức Chúa Trời, lời của Ngài là lẽ thật, là sự sống, và đến từ Đức Chúa Trời. Nhưng nếu con người luôn mang theo quan niệm mà nghiên cứu Đức Chúa Trời, không bao giờ tiếp nhận lời Ngài là lẽ thật, thì kết quả cuối cùng là gì? Đối với thân phận và thực chất của Ngài, đối với công tác của Ngài, từ đầu đến cuối họ đều nghi ngờ, không xác định được Ngài rốt cuộc là người hay là Đức Chúa Trời. Họ cảm thấy người này có thể là sứ giả Đức Chúa Trời phái tới, cũng có thể là tiên tri, bởi vì những lời mà người này nói thì con người không nói ra được. Có người không thừa nhận người này là Đức Chúa Trời, bởi vì bên trong họ có rất nhiều khuôn sáo, có rất nhiều quan niệm không trùng khớp với xác thịt này. Lúc thấy không trùng khớp, họ cũng không tìm kiếm lẽ thật, mà vẫn giữ quan niệm, kết quả là bị kẹt ở đó. Với người như vậy, ngươi bảo họ tin cho tốt thì họ lại có rất nhiều quan niệm không buông bỏ được, ngươi bảo họ rời đi, họ lại sợ không đạt được phúc lành. Có người như vậy hay không? Các ngươi có phải là người như vậy hay không? Đa số các ngươi mặc dù đã xác định thực sự là Đức Chúa Trời nhập thể, nhưng thực ra cũng chỉ chắc chắn 80%, 90% thôi, vẫn có 10%, 20% nghi hoặc và nghi ngờ, đây cũng có thể nói là cơ bản đã xác định, còn lại chút nghi hoặc và nghi ngờ cũng không phải vấn đề cấp bách, giải quyết chút quan niệm này là chuyện ngày một ngày hai sẽ xong. Nhưng chút quan niệm này, nghi ngờ này, nếu như không kịp thời được giải quyết thì cũng rất phiền phức. Trong quan niệm của các ngươi, Ta nên đối đãi với các ngươi như thế nào các ngươi mới hài lòng, mới cảm thấy là những gì Đức Chúa Trời làm, là cách mà Đức Chúa Trời nên đối đãi với con người? Là nói chuyện mềm mỏng nhỏ nhẹ, rồi quan tâm, yêu thương các ngươi khắp nơi? Nếu một ngày nào đó, Ta phát hiện ra rằng một vài người trong các ngươi đang làm những việc quá vô lý, thì Ta sẽ mắng các ngươi một trận, vạch trần và phán xét các ngươi một cách tàn nhẫn, làm tổn thương lòng tự tôn của các ngươi, các ngươi có cảm thấy Ta lại không giống Đức Chúa Trời nữa không? Các ngươi cho rằng Đức Chúa Trời là người hoà nhã nhất, từ ái nhất, các ngươi cho rằng tràn đầy từ ái thì mới là Đức Chúa Trời, vậy Ta phải làm thế nào mới phù hợp với Đức Chúa Trời trong quan niệm và tưởng tượng của các ngươi đây? Nếu như bây giờ các ngươi vẫn yêu cầu Đức Chúa Trời như vậy, thì các ngươi quá thiếu lý trí, quá thiếu nhận thức về Đức Chúa Trời rồi.
Về quan niệm đối với sự nhập thể, Ta sẽ nói cho các ngươi một chuyện nữa. Hai mươi năm trước, khi còn ở đại lục, lúc đó Ta còn chưa tới hai mươi tuổi, ở độ tuổi đó, con người nói chuyện, làm việc đều không quá lão luyện, không quá thành thục, giống người trẻ tuổi, đây là chuyện bình thường, nếu như giống người già thì mới không bình thường, đến độ tuổi nào thì giống người ở độ tuổi đó, như thế là bình thường. Đức Chúa Trời tạo ra nhân loại này, tiền định cho nhân loại quy luật sinh trưởng bình thường, đương nhiên bản thân Đức Chúa Trời nhập thể cũng không ngoại lệ, Ngài cũng sinh tồn và thể nghiệm cuộc đời dựa theo quy luật này, quy luật này là từ Đức Chúa Trời mà ra, Ngài không làm trái với quy luật này. Cho nên, khi Đức Chúa Trời nhập thể chưa tới hai mươi tuổi, Ngài có chút hành vi chắc chắn trông giống như người trẻ tuổi. Ví dụ, có một lần khi chuyển nhà, một số anh chị em dọn đi và để lại một ít bút và sổ, Ta cảm thấy vứt đi thì thật đáng tiếc, anh chị em ghi chép cũng có thể dùng được, Ta liền thu thập lại, chia cho mấy chị em dùng. Có người có quan niệm, nói rằng: “Những thứ này ai muốn thì tự mình lấy, lại còn chia đồ nữa chứ, thật giống trẻ con!”. Họ đã nói câu này thì đây là chuyện nhỏ hay chuyện lớn? Nếu như đánh giá một người bình thường giống như trẻ con thì là rất bình thường, đây chỉ là một câu nói, sẽ chẳng ai để tâm, sẽ coi như một chuyện cỏn con, cũng sẽ không ai cho rằng câu nói này chính là một loại quan niệm hay quan điểm, chỉ là tùy việc mà xét thôi. Nhưng, họ nói với Ta như vậy, thì đây là cách làm gì? Là tính chất gì? Trong quan niệm và tưởng tượng của con người, Đức Chúa Trời nhập thể cho dù chưa đến hai mươi tuổi cũng nên thể hiện giống người già, mỗi ngày đều phải ngồi trang nghiêm, ánh mắt nhìn thẳng về phía trước, làm cho người ta thấy giống như là một người già nhìn xa trông rộng, dày dạn sương gió, không bao giờ nói đùa, cũng không nói chuyện phiếm, hơn nữa vô cùng thận trọng, vững vàng. Một khi có những hành vi hoặc cách làm trái ngược với người già, như việc Ta đã chia bút và sổ cho mọi người, có người sẽ lên án làm như vậy là giống một đứa trẻ, không giống Đấng Christ, không giống Đức Chúa Trời trong tâm trí họ, vì Đức Chúa Trời nhập thể thì không nên có bất kỳ hành động nào giống một đứa trẻ. Đây có phải là định nghĩa của họ hay không? Dạng định nghĩa đó là một dạng lên án, xét đoán, hay là một dạng tán thưởng, một sự công nhận? (Thưa, lên án, xét đoán.) Tại sao nói đây là một dạng lên án? Nói sự nhập thể của Đức Chúa Trời giống trẻ con chính là phủ nhận Đức Chúa Trời sao? Lời này của họ sai ở chỗ nào? Trọng điểm của việc nảy sinh quan niệm này của họ là gì? (Thưa, họ phủ nhận nhân tính bình thường của sự nhập thể, phủ nhận thực tế bình thường của Đức Chúa Trời. Giống như vừa rồi Đức Chúa Trời nói sự nhập thể cũng giống như loài người thọ tạo chúng con, có quy luật trưởng thành bình thường, nhưng họ nghĩ Đức Chúa Trời vô cùng siêu nhiên, cho nên họ không nhận thức được sự nhập thể này, loại tính chất này chính là sự phủ nhận, sự lên án, cũng là sự báng bổ đối với Đức Chúa Trời.) Đúng vậy, sự phủ nhận này của họ chính là thực chất của vấn đề. Tại sao họ lại có kiểu phủ nhận như vậy? Bởi vì trong lòng họ có một dạng quan niệm đối với sự nhập thể của Đức Chúa Trời rằng: “Ngài là Đức Chúa Trời thì không thể bộc lộ nhân tính bình thường của Ngài theo tuổi tác bình thường. Ngài chưa tới hai mươi tuổi nhưng phải thành thục lão luyện như người năm mươi tuổi, Ngài là Đức Chúa Trời thì phải sống trái với quy luật sinh trưởng của nhân tính bình thường. Ngài phải siêu nhiên, phải khác người thường, như vậy Ngài mới là Đấng Christ, mới là Đức Chúa Trời trong lòng chúng ta”, đây chính là quan niệm của họ. Vậy quan niệm này của họ cuối cùng dẫn đến hậu quả gì? Nếu như không có chuyện này, quan niệm của họ có bộc lộ ra hay không? Không ai biết cả, chỉ nhờ chuyện đó mà họ bị tỏ lộ. Nếu họ có quan niệm về chuyện này, nhưng lại cảm thấy Đức Chúa Trời làm như vậy, con người nhìn không thấu, nên họ không tùy tiện nói lung tung, vậy thì họ có không gian để tìm kiếm, và chuyện này có thể tha thứ được. Con người không hiểu lẽ thật thì không nhìn thấu được rất nhiều chuyện, nhưng cùng là nhìn không thấu, có người sẽ xét đoán và lên án, có người sẽ không nói lung tung mà chờ đợi, tìm kiếm lẽ thật, đây có phải là tính chất khác nhau hay không? (Thưa, phải.) Vậy việc họ không nhìn thấu là loại tính chất gì? Nếu họ trực tiếp lên án, thì vấn đề này nghiêm trọng rồi đây. Sau khi con người nảy sinh quan niệm, thì họ sẽ nảy sinh sự nghi hoặc, thậm chí nảy sinh sự lên án, phủ nhận đối với sự nhập thể của Đức Chúa Trời, đây là vấn đề nghiêm trọng nhất.
Đối với quan niệm về sự nhập thể, vừa rồi chúng ta nêu ra ba ví dụ, ba ví dụ này đều có thể nói rõ về một số vấn đề, và các ngươi đều nên tìm kiếm xem lẽ thật ở bên trong đó là gì. Quan niệm đầu tiên là gì? (Thưa, con người dùng định nghĩa về những vĩ nhân để quy định Đức Chúa Trời nhập thể và cho rằng Đức Chúa Trời nên chịu khổ nhiều để làm gương cho toàn thể nhân loại.) Đây là quan niệm của con người. Quan niệm của con người chính là Đức Chúa Trời nhập thể thì nên chịu khổ nhiều hơn, làm gương, làm hình mẫu cho toàn nhân loại. Quan niệm thứ hai là gì? (Thưa, là người ta cảm thấy Đấng Christ phải có tri thức, có văn hóa, giỏi hơn người bình thường, như vậy mới là Đấng Christ.) Bây giờ vẫn có không ít người cho rằng lời nói, công tác của Đức Chúa Trời là đến từ tri thức, ân tứ, hoặc là từ một số thứ đã nắm vững hoặc ngộ ra, đây cũng là quan niệm. Quan niệm thứ ba là gì? (Thưa, là người ta cảm thấy Đấng Christ không nên có sự bộc lộ của nhân tính bình thường.) Nói cụ thể hơn một chút nữa chính là Đức Chúa Trời nhập thể thì phải là siêu nhiên, phải khác người thường, phải có khả năng đặc biệt, nếu như phương diện nào cũng phổ thông, bình thường thì người tin Đức Chúa Trời sẽ không có hứng thú, sẽ nảy sinh hoài nghi, thậm chí phủ nhận Đức Chúa Trời, con người đều thích Đức Chúa Trời siêu nhiên. Kể những câu chuyện này có thể giúp ích gì cho các ngươi trong việc hiểu lẽ thật không? (Thưa, có thể.) Hẳn là hữu ích. Nếu Ta thông công lẽ thật về phương diện này một cách vô căn cứ, thì có thể rất trừu tượng đối với các ngươi, các ngươi sẽ không biết thực tế là gì. Nhưng khi Ta nói ra một số ví dụ cụ thể, các ngươi nghe rồi thì cảm thấy thực tế, dễ hiểu, có thể hiểu một vài lẽ thật bên trong đó nhờ loại chuyện này. Nhưng khi gặp phải những chuyện khác, các ngươi có thể học cách dùng lẽ thật để đánh giá và đối đãi chúng không? Nếu các ngươi biết vận dụng lẽ thật, vậy thì các ngươi đã có hiểu biết thuộc linh, đã hiểu lẽ thật trong đó; nếu không biết vận dụng thì các ngươi không có hiểu biết thuộc linh, không hiểu lẽ thật trong đó. Trong tình tiết của những câu chuyện này, nếu ngươi có thể phát hiện lẽ thật trong đó, có thể biết tâm ý của Đức Chúa Trời là gì, biết điều mà con người nên nhận thức, nên mổ xẻ là gì, con người nên bước vào điều gì, lẽ thật con người nên tìm kiếm và đạt được là gì, thì ngươi đã có hiểu biết thuộc linh. Nếu Ta kể xong những câu chuyện này và ngươi có hứng thú với chúng, ghi nhớ chúng mà gạt lẽ thật sang một bên thì đó là không có hiểu biết thuộc linh. Nếu các ngươi thật sự có thể hiểu lẽ thật trong đó, thì những câu chuyện này Ta không kể một cách vô ích rồi. Chỉ cần có ích cho việc các ngươi hiểu lẽ thật, thì Ta đều phải kể một vài ví dụ thực tế, bất kể là chuyện gì, đều phải lấy ra mổ xẻ, chỉ cần có thể khiến các ngươi có nhận thức, có thể đạt đến hiểu lẽ thật và nhìn thấu sự tình, thì kể bao nhiêu câu chuyện đều không quan trọng. Thực ra, Ta không sẵn lòng kể những chuyện này, Ta không sẵn lòng kể những chuyện đúng sai nhất, nhưng nếu những chuyện này có ích cho việc các ngươi bước vào lẽ thật, thì Ta sẽ kể, chỉ cần có ích đối với việc các ngươi hiểu lẽ thật, thì Ta nói nhiều một chút cũng không sao. Nhưng nếu các ngươi chê Ta nói dông dài, vậy Ta cũng hết cách, đành nói ít lại mà thôi.
Trong những câu chuyện Ta đã kể, quan niệm mà con người nên giải quyết là gì? Trước hết phải hiểu rằng, về Đức Chúa Trời nhập thể, Đức Chúa Trời định nghĩa thực chất về nhân tính của xác thịt này là gì? Chính là phổ thông và bình thường, có thể sống giữa nhân loại bại hoại và làm mọi hoạt động của nhân tính bình thường, không phải khác loại. Ngài có thể giúp đỡ, dẫn dắt, lãnh đạo con người. Dù là nhân tính bình thường hay là thần tính của Ngài, hoặc là tính cách của Ngài, cho dù nói từ phương diện nào, Ngài nhất định có thể gánh vác được công tác mà Ngài đảm nhiệm, chức vụ mà Ngài làm, đây chính là tiêu chuẩn đánh giá của Đức Chúa Trời đối với Đấng Christ, đối với sự nhập thể, là một tiêu chuẩn cho công tác của Ngài và định nghĩa về Ngài. Khi Đức Chúa Jêsus làm công tác, nhân tính của Ngài có một số phần siêu nhiên hơn so với lần nhập thể này, có thể hiển lộ khả năng đặc biệt, có thể nguyền rủa cây vả, cũng có thể quở trách biển cả, làm cho biển cả gió êm sóng lặng, có thể chữa bệnh, trừ quỷ, dùng năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người ăn no, vân vân, nhưng ngoài việc này ra, nhân tính bình thường của Ngài và việc ăn, mặc, ở, đi lại, tất cả đều khiến cho người ta thấy vô cùng bình thường, thực tế. Ngài không phải vừa sinh ra là đã ba mươi ba tuổi rưỡi và sau đó bị đóng đinh trên thập tự giá, Ngài sống đến ba mươi ba tuổi rưỡi, mỗi một năm, mỗi một ngày đều trôi qua từng giây từng phút, cuối cùng bị đóng đinh trên thập tự giá để hoàn thành công tác cứu chuộc nhân loại. Là xác thịt nhập thể sống trên thế giới này ba mươi ba năm rưỡi mới hoàn thành công tác này, đây có phải là thực tế hay không? (Thưa, phải.) Đây là thực tế. Và trong giai đoạn công tác mà Đức Chúa Trời đang làm bây giờ, mỗi chuyện Ngài nói với các ngươi, mỗi lẽ thật Ngài thông công với các ngươi đều căn cứ vào vóc giạc của các ngươi, vào mức độ tiến bộ sự sống của các ngươi và toàn bộ hoàn cảnh chung mà Đức Chúa Trời sắp đặt, Ta sẽ nghiền ngẫm xem thông công những lẽ thật nào thì phù hợp nhất và để các ngươi hiểu những lẽ thật nào. Nhìn bề ngoài, có vẻ như xác thịt này đang suy ngẫm về những chuyện này, nhưng sự thật là Thần của Đức Chúa Trời đang đồng thời làm việc, và trong lúc người này đang phối hợp thì Thần của Đức Chúa Trời đang hướng dẫn mọi sự. Nếu nhìn nhận như vậy, ngươi sẽ không hoài nghi thực chất của xác thịt này, cũng sẽ không hoài nghi thân phận của Ngài, mãi mãi sẽ không hoài nghi. Những gì Ta làm trên các ngươi, những yêu cầu của Ta đối với các ngươi, mãi mãi không mâu thuẫn với toàn bộ kế hoạch quản lý của Thần Đức Chúa Trời, mà là đồng bộ tiến lên, cùng một phương hướng, hỗ trợ lẫn nhau. Nếu Thần của Đức Chúa Trời không mặc lớp xác thịt này thì không thể nói chuyện mặt đối mặt với các ngươi, các ngươi sẽ không có cách nào nghe được Ngài đang phán gì, cũng sẽ không hiểu yêu cầu của Ngài là gì. Nhưng nếu chỉ có xác thịt này, không có Thần của Đức Chúa Trời ở bên trong, thì có thể thực hiện công tác được không? Chắc chắn là không. Nếu Đức Chúa Trời không nhập thể thì không một ai có thể đảm đương được công tác này. Vì vậy, xác thịt bình thường này cũng phải sống qua mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm từng chút từng chút một như thế, và nhân tính của Ngài không ngừng trưởng thành, sự từng trải cũng không ngừng tăng lên, đồng thời không ngừng đạt đến có thể gánh vác công tác cần thực hiện trong kế hoạch quản lý của Đức Chúa Trời. Khi làm giai đoạn công tác này, Ta chưa đầy hai mươi tuổi đã bắt đầu làm công tác trong hội thánh, tiếp xúc với các anh chị em, sau đó nhóm họp, thông công, đến các hội thánh và tiếp xúc với đủ loại người. Từ đó đến nay, Ta cảm thấy khả năng tổ chức ngôn ngữ và khả năng nhìn người, nhìn việc của Ta đang không ngừng được nâng cao. Sự nâng cao này có gì khác với các ngươi? Đó là các ngươi phải thông qua lời Ta nói, lẽ thật Ta thông công và đi trải nghiệm nữa, trong quá trình trải nghiệm thì từng bước chứng thực lời Ta nói là từ Đức Chúa Trời, là lẽ thật, là đúng và có thể làm cho tâm tính các ngươi thay đổi, có thể làm cho các ngươi được cứu rỗi. Còn Ta, trong quá trình các ngươi tiến bộ, Ta cũng đang không ngừng tiến sâu. Trong khi liên tục hiểu các ngươi, Ta cũng đang không ngừng làm cho những gì Ta muốn giảng có thể từng bước chu cấp nhu cầu cho các ngươi. Có vài người nói: “Ngài muốn đạt đến chu cấp cho nhu cầu của chúng con, muốn cho vóc giạc của chúng con dần dần lớn lên, có thể ngày càng có sự thay đổi và tiến bộ trên con đường được cứu rỗi, mối quan hệ với Đức Chúa Trời ngày càng gần gũi hơn, vậy Ngài làm cách nào để đạt đến những chuyện này?”. Điều này Ta không cần con người phải lo âu, Ta chưa bao giờ cầu xin, cũng chưa bao giờ kiêng ăn, cầu nguyện, hoặc cầu như cầu mưa, để Đức Chúa Trời mau chóng chu cấp cho Ta vài lời hay để chu cấp cho các ngươi, Ta không cần phải làm như vậy. Vì bản thân xác thịt này là chính Đức Chúa Trời, Ngài thực hiện chức vụ này, Ngài bày tỏ lẽ thật để chu cấp cho con người, đó là sự khác biệt giữa xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời và nhân loại bại hoại. Cho nên, các ngươi cần cái gì Ta cũng không cần cố ý hiểu, nhưng Ta muốn chu cấp cho các ngươi cái gì, muốn cùng các ngươi thông công điều gì, đó chắc chắn là những gì cần thiết với các ngươi. Các ngươi tiến lên thuận theo lời nói của Ta, công tác của Ta thì tình trạng của các ngươi sẽ bắt đầu ngày càng tốt lên, sự sống cũng theo đó mà càng ngày càng có sự tiến bộ. Đồng thời, trong quá trình Ta chăm tưới cho các ngươi, Thần của Đức Chúa Trời sẽ làm công tác phối hợp. Thực ra là Thần của Đức Chúa Trời phối hợp với nhân tính, nhân tính đồng thời lại phối hợp với thần tính, đều làm cùng một lúc. Ta ở đây để chăm tưới cho các ngươi, Thần của Đức Chúa Trời thì đang làm việc trong các ngươi, khai sáng và soi sáng cho các ngươi, sau đó sắp đặt hoàn cảnh cho các ngươi và tạo điều kiện cho các ngươi bước vào các lẽ thật. Nhân tính và thần tính chính là một dạng phối hợp như vậy. Một sự phối hợp giữa xác thịt và Thần như vậy, có người nào có thể làm được hay không? Tuyệt đối không có. Vì vậy, nếu ngươi không nhận thức toàn bộ sự quản lý của Đức Chúa Trời và đối đãi với xác thịt này từ phương diện lẽ thật này, thì ngươi mãi mãi không nhận thức được thực chất của xác thịt này rốt cuộc là gì, xác thịt này là chuyện gì, Ngài rốt cuộc thực hiện công tác như thế nào. Nếu không nhận thức được những điều này, ngươi sẽ không bao giờ xác định chính xác Ngài là người hay Đức Chúa Trời. Nhưng nếu ngươi có thể nhìn xuyên qua tầng này, hoặc có thể trải nghiệm và thể hội tầng này, thì ngươi có thể biết xác thịt của Đức Chúa Trời – rằng trong khi Đấng Christ đang làm việc trên mặt đất, thì Đức Thánh Linh cũng đang phối hợp, đang làm cùng một công tác mà không ai trong toàn nhân loại có thể đạt đến. Trong khi Thần làm việc, xác thịt cũng phối hợp với công tác của Thần, cả hai bổ trợ cho nhau, nhất quán và không bao giờ xung đột. Một vài người nói: “Có những lúc gặp phải thử luyện, Đức Thánh Linh khai sáng cho con bài học, nhưng Ngài lại bày tỏ những lẽ thật khác, chuyện này là sao?”. Chuyện này căn bản không có mâu thuẫn cũng không có xung đột. Đấng Christ bày tỏ lẽ thật tuần tự từng bước, Đức Thánh Linh dẫn dắt mỗi người trải nghiệm cũng là ở những mức độ nông sâu khác nhau, ở đây không áp đặt. Đấng Christ giảng đạo là thông công lẽ thật dựa trên các vấn đề quan trọng tồn tại trong hiện thực của những người được Đức Chúa Trời chọn, Đức Thánh Linh dẫn dắt mỗi một người thì cũng căn cứ vào tình hình cá nhân, trong chuyện này không có mâu thuẫn, không có chỗ nào xung đột. Mỗi người ở mỗi thời kỳ và giai đoạn khác nhau thì vóc giạc cũng khác nhau, nhưng toàn bộ công tác Đức Chúa Trời làm chính là mọi lẽ thật mà Đức Chúa Trời đã bày tỏ, là lẽ thật, đường đi và sự sống mà Đức Chúa Trời đã phán, chứ không ra khỏi những phạm vi này, tất cả đều là lẽ thật. Lẽ thật mà Đức Thánh Linh khai sáng cho ngươi và ánh sáng Ngài cho ngươi hiểu là căn cứ vào điều gì? Căn cứ vào những lẽ thật mà Đấng Christ hiện đang bày tỏ, những lẽ thật, đường đi và sự sống mà Ngài đang làm cho ngươi hiểu. Một vài người nói: “Chúng con không cần xác thịt này của Ngài, chúng con có Đức Thánh Linh khai sáng và dẫn dắt là được rồi, không có Ngài, chúng con vẫn có thể có ánh sáng và sự khai sáng mới như thường, chúng con cũng có thể bước vào thời đại mới và được cứu rỗi như thường”. Lời này có đứng vững được không? (Thưa, không đứng vững được.) Những người của tôn giáo đã tin Đức Chúa Jêsus hai ngàn năm rồi, Đức Thánh Linh đã dẫn dắt họ trong hai ngàn năm và họ đã có được gì? Chỉ là phúc âm của sự cứu chuộc, chỉ là hưởng thụ nhiều ân điển của Đức Chúa Trời, chứ không có cách nào có được những lẽ thật mà Đức Chúa Trời muốn bày tỏ trong thời kỳ sau rốt. Vì thế, nếu không có nhiều lẽ thật được xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời bày tỏ như vậy, thì các ngươi có thể đạt được gì? Giống như người trong tôn giáo, nhận được sự khai sáng của Đức Thánh Linh lớn hơn nữa, nhận được ân điển nhiều hơn nữa, hoặc là Đức Chúa Trời chọn ngươi, sử dụng ngươi, ngươi có thể làm một tiên tri, làm một sứ đồ, nhưng nếu ngươi không tiếp nhận những lẽ thật mà Đức Chúa Trời nhập thể bày tỏ vào thời kỳ sau rốt, thì ngươi không có cách nào đạt đến được hoàn thiện, được vào thiên quốc, cũng không có cách nào được Đức Chúa Trời khen ngợi.
Bây giờ, các ngươi đã có thể tiếp nhận sự nhập thể, nhưng vẫn còn chút quan niệm đối với thực chất của sự nhập thể, lúc nào cũng không xác định được chính xác sự nhập thể chính là Đức Chúa Trời thực tế. Nếu như bây giờ Ta tiếp xúc với các ngươi, mà các ngươi phát hiện ra Ta không hiểu một số chuyện bên ngoài, liệu các ngươi có nảy sinh quan niệm hay không? Có người nghĩ không thông, cho rằng: “Thì ra Ngài cũng không hiểu, chuyện này là không nên, bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời nhập thể, nên cái gì Ngài cũng phải hiểu, Ngài phải là người cái gì cũng biết, cái gì cũng có thể, tuy rằng Ngài không thể hiện diện ở khắp mọi nơi, nhưng Ngài phải là người cái gì cũng biết chứ!”. Đây có phải là quan niệm của con người không? (Thưa, phải.) Đó cũng là quan niệm. Khái niệm về nhân tính bình thường của sự nhập thể là gì? Chính là cách tư duy của sự nhập thể có lô-gic của con người bình thường, không siêu nhiên, không mơ hồ, không trống rỗng. Thứ gì tư duy của nhân tính bình thường có thể đạt đến, thì nếu Ngài đào sâu nghiên cứu cũng có thể đạt đến, nhưng chưa chắc giỏi hơn người có sở trường về phương diện đó, điều này là bình thường. Ngoài ra, Ngài nói chuyện và làm việc đều dựa theo lô-gic và tư duy của nhân tính bình thường, chứ không siêu nhiên. Ví dụ như, tư duy của nhân tính bình thường là từng bước một tiến lên phía trước, thì tư duy của Ngài cũng như vậy. Nhân tính bình thường này tại sao lại như vậy? Như vậy thì có hợp lý hay không? (Thưa, hợp lý.) Căn cứ vào cái gì để nói rằng như vậy là hợp lý? Người bình thường đi cầu thang thì bước mỗi lần mấy bậc? (Thưa, một bậc.) Là bước từng bậc một, đây là đi cầu thang một cách bình thường, nếu Ta bước một bước đã qua mấy bậc thang trực tiếp vào nhà, vậy các ngươi có đạt đến không? (Thưa, không đạt đến.) Các ngươi không đạt đến nhưng Ta lại bắt ép các ngươi đạt đến, các ngươi sẽ như thế nào? Có thể đạt đến không? (Thưa, không thể.) Các ngươi không thể đạt đến. Đây chính là căn cứ vào nhu cầu của đối tượng công tác. Ta thông công lẽ thật như vậy, nắm chắc một chủ đề và trung tâm là cố gắng nói thật cụ thể, đầy đủ, kể chuyện, nêu ví dụ, kể đi kể lại. Như vậy mà còn có rất nhiều người nghe không hiểu, với không tới, nếu Ta không nói chi tiết, nếu Ta toàn nói những điều sâu xa nhất, lớn lao nhất, thì các ngươi sẽ chẳng đạt được gì, chẳng hiểu được gì. Vậy thì công tác này sẽ trống rỗng, không hiện thực. Các ngươi có thể đạt tới việc tiến bộ bằng cách đi từng bước một, Ta cũng dẫn dắt các ngươi đi lên từng bước một, như thế các ngươi có thể theo kịp Ta. Nếu Ta bước một bước qua được bốn bậc thang thì kết quả sẽ như thế nào? Các ngươi sẽ không bao giờ theo kịp Ta. Nếu tư duy của Ta đi trước và nhảy vọt, thì các ngươi hoàn toàn với không tới, vậy sự nhập thể của Đức Chúa Trời sẽ không có ý nghĩa. Cho nên, xác thịt này dù bình thường, thực tế đến thế nào, thậm chí trong mắt con người không có khả năng như thần linh, nhưng tất cả đều là vì nhu cầu của nhân loại. Bởi vì đối tượng Đức Chúa Trời hiện đang chu cấp là những người bị Sa-tan làm bại hoại, những người không hiểu bất kỳ lẽ thật nào và không có năng lực lĩnh hội lẽ thật, nên sự nhập thể của Ngài phải có tư duy cơ bản nhất của nhân tính bình thường. Tư duy cơ bản nhất là gì? Đó là lời Ngài nói, cho dù là người tố chất bình thường thậm chí hơi kém đều có thể nghe là hiểu, chỉ cần tư duy bình thường thì đều có thể nghe hiểu Ngài đang phán gì và giảng gì, có thể nghe hiểu những lẽ thật Ngài phán, sau đó tiếp nhận lấy lẽ thật. Như vậy, mỗi bước công tác mà Đức Chúa Trời làm, và mọi lời Đức Chúa Trời phán mới có thể đạt được hiệu quả, mới có thể nhìn thấy kết quả. Như thế có hiện thực không? (Thưa, có.) Cho nên, nếu con người ôm giữ quan niệm không buông, nói rằng: “Trước đây có bậc đế vương đọc đến đâu nhớ đến đấy, đọc nhanh như gió, Đức Chúa Trời có phải cũng nên như vậy không? Nếu như Ngài không được như vậy thì chúng con không có cách nào đi theo Ngài, bởi vì Ngài quá bình thường, nếu có hình tượng mà nhân vật lớn nên có thì tốt biết bao”. Từ chuyện này thấy được điều gì? Con người bị Sa-tan làm bại hoại đến mức đã vô tri hết thuốc chữa rồi, ngoại trừ có chút tư duy của người bình thường, có chút tố chất, dưới sự tuyển chọn của Đức Chúa Trời, dưới công tác của Đức Chúa Trời, con người vẫn có thể có lòng đi theo Đức Chúa Trời, có chút lương tâm và lý trí, ngoại trừ những điều đó ra con người cái gì cũng không hiểu, không chỉ là lẽ thật nào cũng không hiểu mà ngay cả những chuyện như nhân tính bình thường là gì, tâm tính bại hoại là gì, quan niệm và tưởng tượng nảy sinh như thế nào, nên giải quyết như thế nào, con người nên đối đãi với Đức Chúa Trời như thế nào, ít nhất phải có lý trí lương tâm nào, vân vân, họ đều không hiểu. Lời Đức Chúa Trời có phổ thông, dễ hiểu hơn nữa, thì con người nghe xong cũng không hiểu lắm, toàn là hiểu nửa vời. Các ngươi nói xem, đối mặt với một đám nhân loại bại hoại cái gì cũng không hiểu, một đám nhân loại đối địch với Đức Chúa Trời, xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời nên có thực chất như thế nào, có nhân tính như thế nào, có tư duy của người bình thường như thế nào, mới có thể đưa những người này đến trước mặt Đức Chúa Trời? Các ngươi nói xem, Đức Chúa Trời nên làm gì? Có những người nói: “Không phải Đức Chúa Trời việc gì cũng làm được sao? Tại sao không làm nhiều dấu kỳ và phép lạ để chinh phục con người?”. Đây là quan niệm tồn tại trong lòng đa số mọi người. Con người không nghĩ xem, nếu làm nhiều dấu kỳ và phép lạ và dùng biện pháp siêu nhiên thì có thể tỏ lộ và giải quyết tâm tính bại hoại của con người hay không? Biện pháp siêu nhiên có thể đưa lẽ thật vào trong con người sao? Làm vậy, Sa-tan có thể chịu phục sao? (Thưa, không thể.) Bây giờ các ngươi nói “không thể” cũng có thể là một loại đạo lý mà thôi, nhưng cứ trải nghiệm rồi đến một ngày, các ngươi sẽ hiểu con người tê dại đờ đẫn chừng nào, phản nghịch, cương ngạnh, tà ác, không yêu thích lẽ thật chừng nào. Cứ trải nghiệm rồi đến một ngày, các ngươi sẽ hiểu xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời, xác thịt có nhân tính bình thường này là nhu cầu của toàn bộ nhân loại. Cho nên, nếu ngươi có đủ loại tưởng tượng và quan niệm thì đối với ngươi mà nói, đây là một loại thái độ vô trách nhiệm, còn đối với Đức Chúa Trời mà nói thì đây chính là một dạng báng bổ, cũng là một dạng phủ định, nghi ngờ đối với ý định thiết tha của Đức Chúa Trời trong việc cứu rỗi nhân loại. Nếu ngươi cảm thấy “Chúng con có tri thức, có văn hóa, có đầu óc, chúng con sinh vào thời kỳ sau rốt, một số người trong chúng con đã được học cao, cũng có bối cảnh gia đình nhất định. Chúng con là người hiện đại, là người có văn hóa, chúng con có lý do để từ chối một Đấng Christ quá thông thường, bình thường mà con người xem nhẹ. Chúng con có lý do để nảy sinh quan niệm đối với Ngài”. Đây là vấn đề gì? Đây chính là phản nghịch, không biết tốt xấu! Con người nảy sinh quan niệm thì có thể giải quyết, nhưng sau khi quan niệm được giải quyết mà con người vẫn cứng đầu không chịu tiếp nhận sự nhập thể của Đức Chúa Trời, không tiếp nhận một mặt nhân tính bình thường của Đấng Christ, thì sẽ phiền phức, sẽ không thể được cứu rỗi. Khi ngươi đã trải nghiệm đến một ngày nhất định, ngươi sẽ hiểu rằng sự nhập thể, nhân tính bình thường của Đức Chúa Trời và tất cả những gì Ngài có và Ngài tỏ lộ càng bình thường, thì sự cứu rỗi dành cho chúng ta càng lớn lao, và chúng càng bình thường thì càng là những gì chúng ta cần. Nếu xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời siêu nhiên, thì không một ai sống trên đất có thể đạt được sự cứu rỗi trọn vẹn. Chính bởi sự khiêm nhường và ẩn giấu của Đức Chúa Trời, bởi tính bình thường và thực tế của Đức Chúa Trời dường như không có gì nổi bật này mà nhân loại có cơ hội được cứu rỗi. Bởi trong con người có sự phản nghịch, có tâm tính bại hoại của Sa-tan và có thực chất bại hoại, nên sinh ra đủ kiểu quan niệm, hiểu lầm, và đối kháng với Đức Chúa Trời; thậm chí vì những quan niệm này, con người thường tự đắc hay tự tin phủ nhận Đấng Christ này, và phủ nhận nhân tính bình thường của Ngài – đây là một sai lầm lớn. Nếu ngươi muốn đạt được sự cứu rỗi, nếu ngươi muốn nhận được sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, cùng sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, thì trước hết ngươi phải gạt bỏ những quan niệm, tưởng tượng và định nghĩa sai lầm khác nhau của mình về nhân tính bình thường của Đấng Christ, ngươi phải gạt bỏ những hiểu biết và quan điểm khác nhau của mình về Đấng Christ, và ngươi phải nghĩ cách chấp nhận tất cả những gì đến từ Ngài. Chỉ khi đó, những lời Ngài phán và những lẽ thật Ngài bày tỏ mới dần tìm được lối vào lòng ngươi và trở thành sự sống của ngươi. Nếu muốn theo Ngài, thì ngươi nên tiếp nhận mọi sự của Ngài, cho dù đó là Thần của Ngài, là lời nói hay xác thịt của Ngài thì ngươi đều phải tiếp nhận. Nếu như thực sự tiếp nhận Ngài, thì ngươi không nên đứng ở phía đối lập với Ngài, không nên dựa vào quan niệm của mình mà hiểu lầm, phản nghịch Ngài, càng không nên giữ chặt quan niệm của mình mà liên tục hoài nghi Ngài, thậm chí chống lại, đối kháng với Ngài. Dạng thái độ này chỉ có thể làm hại chính ngươi, chứ chẳng có bất kỳ lợi ích gì cho ngươi. Ta nói lời này, các ngươi có thể tiếp nhận hay không? (Thưa, có thể.) Có thể tiếp nhận thì tốt, vậy hãy nhanh chóng tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, đây là vấn đề thuộc về tâm tính bại hoại, không giải quyết thì ngươi sẽ phải chết vì tâm tính bại hoại đó.
Hiện tại đối với hình thức công tác vào thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời, mặc dù có vài người nảy sinh vài tưởng tượng và quan niệm nào đó, nhưng về cơ bản không thể ngăn cản con người tin Đức Chúa Trời, con người sẽ không tùy tiện nói không tin hoặc là phủ nhận Đức Chúa Trời, đây là loại hiện tượng gì? Đây chính là hiệu quả mà lời Đức Chúa Trời đạt được, con người bị lời và công tác của Đức Chúa Trời chinh phục, về cơ bản họ có thể tiếp nhận Đấng Christ làm Đức Chúa Trời của mình. Từ ý nghĩa này mà nói, con người về cơ bản đã đặt nền móng trên con đường đúng đắn, xác định thật sự và nhận thức chính xác rồi. Đạt được hiệu quả này, thì có phải hiểu lầm giữa con người và Đức Chúa Trời sẽ được giải quyết hay không? (Thưa, không.) Vẫn chưa giải quyết được thì chứng tỏ bên trong con người còn có rất nhiều tưởng tượng, yêu cầu hoặc quan niệm về xác thịt mà Đức Chúa Trời trở nên và về Đấng Christ. Những quan niệm này còn có thể nắm thế chủ đạo tư tưởng, phương hướng và mục tiêu mưu cầu của ngươi, hơn nữa sẽ thường ảnh hưởng đến tình trạng của ngươi. Nếu sự việc xảy ra không liên quan đến quan niệm của ngươi, thì ngươi vẫn có thể ăn uống lời Đức Chúa Trời một cách bình thường, làm bổn phận một cách bình thường. Nhưng ngay khi chuyện này đụng chạm đến quan niệm của ngươi, vượt ra ngoài quan niệm của ngươi và sinh ra mâu thuẫn, thì ngươi sẽ giải quyết như thế nào? Để quan niệm tự tung tự tác, hay là tỉa sửa, khắc chế và chống lại nó? Có những người gặp chuyện và có quan niệm rồi, họ chẳng những không buông bỏ quan niệm, lại còn tìm người để phát tán, tìm cơ hội trút giận, làm cho người khác cũng có quan niệm. Có người còn nói lý lẽ: “Các anh nói Ðức Chúa Trời làm gì cũng có ý nghĩa, tôi thì thấy việc này không có ý nghĩa gì cả”. Nói như vậy có thích hợp hay không? (Thưa, không thích hợp.) Làm thế nào mới là con đường đúng đắn? Có những người có quan niệm đối với Đức Chúa Trời thì có thể ý thức được rằng mối quan hệ giữa mình và Đức Chúa Trời đang không bình thường, rằng mình đang nảy sinh hiểu lầm đối với Ngài, nếu không giải quyết thì rất nguy hiểm, dễ nảy sinh chống đối, nghi ngờ thậm chí là phản bội Đức Chúa Trời. Họ sẽ cầu nguyện với Đức Chúa Trời, buông bỏ quan niệm của mình, trước tiên họ phủ nhận quan điểm sai lầm của mình, sau đó tìm kiếm lẽ thật để giải quyết, làm như vậy thì dễ đạt đến thuận phục Đức Chúa Trời. Nếu nảy sinh quan niệm mà còn cho rằng mình có lý, cuối cùng cũng không thể hoàn toàn buông bỏ hay giải quyết, về lâu dài nó sẽ ảnh hưởng đến lối vào sự sống, thậm chí nếu nghiêm trọng thì còn có thể phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời, vậy thì hậu quả sẽ không thể tưởng tượng nổi. Nếu là người mưu cầu lẽ thật, đã hiểu rõ một vài lẽ thật rồi, thì thỉnh thoảng nảy sinh quan niệm trong một sự việc nào đó cũng không phải là vấn đề lớn, không có ảnh hưởng gì lớn. Bởi vì bên trong họ có lẽ thật nắm thế chủ đạo tư tưởng và hành vi của họ, dẫn dắt họ làm bổn phận, không ảnh hưởng đến việc họ đi theo Đức Chúa Trời. Có lẽ đến một ngày nào đó, nghe được giảng đạo hoặc thông công thì họ sẽ hiểu, lúc đó, quan niệm này của họ sẽ được giải quyết. Có những người nảy sinh quan niệm đối với sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, sau đó khi thực hiện bổn phận họ chẳng có tâm tư, cũng không làm tốt, cứ ở mãi trong tình trạng tiêu cực, trong lòng mang sự chống đối, bất mãn, và oán giận, dạng hành vi này có đúng hay không? Chuyện này có dễ giải quyết không? Ví dụ, ngươi cho rằng mình rất thông minh, Ta thì nói ngươi là người ngốc nghếch, không có hiểu biết thuộc linh, sau khi nghe xong ngươi liền tức giận, chống đối, trong lòng tự nhủ: “Không một ai dám nói mình không có hiểu biết thuộc linh, hôm nay là lần đầu tiên mình nghe được, lời này mình không tiếp nhận nổi. Không có hiểu biết thuộc linh mà có thể lãnh đạo hội thánh sao? Có thể làm nhiều công tác như vậy sao?”. Ngươi nảy sinh mâu thuẫn rồi phải không? Ngươi nên làm gì đây? Gặp phải chuyện này, con người có dễ phản tỉnh bản thân hay không? Loại người nào có thể phản tỉnh? Người tiếp nhận lẽ thật và tìm kiếm lẽ thật thì mới có thể phản tỉnh bản thân. Nếu ngươi là một người có lý trí, thì trước hết trong chuyện này, ngươi hãy phủ nhận chính mình trước. Ý nghĩa của việc phủ nhận chính mình chính là thừa nhận mình không có lẽ thật, cho dù có chút ý kiến, quan điểm cũng chưa chắc chính xác. Vì vậy, trong trường hợp này, cách làm phủ nhận chính mình này là đúng đắn, chứ không phải là hạ thấp bản thân. Sau khi phủ nhận chính mình, trong lòng ngươi sẽ thấy bình an, sẽ trung thực nhiều hơn, thái độ của ngươi cũng sẽ đoan chính. Khi nghe Đức Chúa Trời nói ngươi ngốc nghếch và không có hiểu biết thuộc linh, ngươi nên tĩnh lặng trước mặt Đức Chúa Trời, giữ tâm thái thuận phục và tiếp nhận lấy trước đã. Mặc dù ngươi chưa có cảm giác, chưa có nhận thức với những lời này của Ngài, cũng chưa biết Đức Chúa Trời nói lời này có đúng hay không, nhưng trong tín niệm của mình, ngươi thừa nhận rằng: “Đức Chúa Trời là lẽ thật, làm sao Đức Chúa Trời có thể nói sai được?”. Mặc dù lời Đức Chúa Trời không giống với những gì ngươi nghĩ, nhưng đối với lời Đức Chúa Trời thì phải tiếp nhận bằng đức tin, cho dù không hiểu cũng phải tiếp nhận như lẽ thật, đảm bảo sẽ không sai. Nếu con người không hiểu lời Đức Chúa Trời liền không tiếp nhận như lẽ thật, thì người đó quá thiếu lý trí, và họ nhất định phải hổ thẹn về điều đó. Cho nên, thuận phục Đức Chúa Trời thì mãi mãi không sai, đây không phải là đạo lý, mà là thực tế, đây là lời từ trải nghiệm mà ra. Tiếp theo, khi có thể tiếp nhận lời Đức Chúa Trời như là lẽ thật, ngươi sẽ phải bắt đầu phản tỉnh bản thân. Qua những lúc chung sống với người khác và lúc làm bổn phận, ngươi sẽ phát hiện ra mình không những không có hiểu biết thuộc linh, mà còn vô cùng ngu muội, lại còn có rất nhiều khuyết điểm, thiếu sót, sẽ phát hiện ra vấn đề của mình nghiêm trọng. Như thế có phải là có thể hiểu và tiếp nhận lời Đức Chúa Trời phán hay không? Ngươi phải tiếp nhận những lời này, trước tiên tiếp nhận từ một quy định, một định nghĩa hoặc một khái niệm, sau đó trong cuộc sống thực tế nghĩ cách đối chiếu và áp dụng, nghĩ cách để nhận thức và trải nghiệm, như vậy lâu dần, ngươi sẽ có đánh giá chính xác về bản thân mình. Lúc đó, ngươi có còn hiểu lầm về Ngài không? Trong chuyện này giữa ngươi và Đức Chúa Trời không còn bất đồng, vậy ngươi có cự tuyệt đánh giá của Đức Chúa Trời về ngươi không? (Thưa, không.) Ngươi sẽ có thể tiếp nhận và không phản nghịch nữa. Nếu có thể tiếp nhận lẽ thật và nhận thức thấu đáo những chuyện này, ngươi có thể tiến được một bước về phía trước, có thể có tiến bộ. Nếu không tiếp nhận, thì ngươi mãi mãi dậm chân tại chỗ, không có tiến bộ. Việc tiếp nhận lẽ thật có quan trọng không? (Thưa, có.) Con người phải buông bỏ quan niệm của mình đối với Đức Chúa Trời, không được có bất kỳ thái độ thù địch hay chống đối nào đối với lời Đức Chúa Trời phán, đây mới là thái độ tiếp nhận lẽ thật. Có người bởi vì bị cách chức mà trở nên tiêu cực, yếu đuối, không sẵn lòng làm bổn phận, cứ mãi tiêu cực biếng nhác, nhìn bề ngoài thì có vẻ là vì họ không có địa vị, vì họ quá yêu quý địa vị, nhưng sự thật không phải như vậy. Sự yếu đuối, tiêu cực của họ đơn giản là bởi vì đánh giá của Đức Chúa Trời hoặc đánh giá của anh chị em đối với họ không khớp với đánh giá của họ dành cho chính mình, thấp hơn so với đánh giá và nhận thức của họ về chính mình, cho nên họ không phục, trong lòng mất cân bằng, cuối cùng họ tiêu cực, đối kháng và bất cần: “Không phải Ngài nói là con không ổn sao, vậy con sẽ không làm gì cả cho Ngài xem”. Kết quả là bổn phận bị chậm trễ, đắc tội với Đức Chúa Trời, lối vào sự sống của họ trì trệ không tiến lên được, tổn thất này rất lớn.
Có người nói: “Đấng Christ nói rằng tôi không tốt, tôi không tiếp nhận nổi, nếu Đức Chúa Trời trên trời phán tôi không tốt ở đâu, thì tôi mới có thể tiếp nhận. Bởi vì Đức Chúa Trời nhập thể có nhân tính bình thường, phán đoán sẽ có những sai sót, hơn nữa Ngài cũng không thể làm việc đạt tới độ chuẩn xác 100%, liệu Ngài có sai sót trong việc đánh giá, lên án hoặc xử lý, sắp xếp ai đó hay không, điều này phải đặt một dấu chấm hỏi. Vì vậy, Đấng Christ – Đức Chúa Trời ở trên mặt đất nói tôi thế nào, tôi cũng không sợ, bởi vì Ngài không thể lên án tôi, cũng không định được kết cục của tôi”. Có người như vậy hay không? Chắc chắn là có. Khi bị Ta tỉa sửa, họ nói: “Đức Chúa Trời trên trời là công chính!”. Khi bị Ta xử lý, họ nói: “Dù sao thì Đấng tôi tin là Đức Chúa Trời, không phải là con người!”. Họ dùng những lời này để đối đáp với Ta. Đây là lời gì? (Thưa, là phủ nhận Đức Chúa Trời.) Đúng vậy, đó là phủ nhận Đức Chúa Trời, phản bội lời Đức Chúa Trời, có nghĩa là: “Ngài nói thì không tính, Đức Chúa Trời trên trời nói mới tính”. Trong quan niệm của họ, trong nhận thức của họ về Đức Chúa Trời, họ không bao giờ biết mối quan hệ giữa Đấng Christ nhập thể và Đức Chúa Trời trên trời, cũng chính là mối quan hệ giữa xác thịt này và Thần trên trời là gì. Trong mắt của loại người này, con người nhỏ bé trên mặt đất này mãi mãi là con người, dù Ngài có bày tỏ nhiều lẽ thật đi chăng nữa, có giảng đạo nhiều đi chăng nữa thì cũng là con người, dù Ngài có làm trọn vẹn một bộ phận người, cho con người đạt đến được cứu rỗi, thì Ngài vẫn ở trên mặt đất, vẫn là con người, không vượt qua được Đức Chúa Trời trên trời. Cho nên họ nghĩ rằng tin Đức Chúa Trời thì phải tin Đức Chúa Trời trên trời, chỉ có tin Đức Chúa Trời trên trời mới là thực sự tin Đức Chúa Trời. Loại người này nghĩ như thế nào thì tin như thế đó, thích tin như thế nào thì tin như thế đó, họ tưởng tượng Đức Chúa Trời như thế nào thì là như thế đó. Đối với Đấng Christ nhập thể, họ cũng dựa vào tưởng tượng: “Vị Đức Chúa Trời trên mặt đất này nếu đối xử tốt với tôi một chút, khiến tôi hài lòng thì tôi sẽ tôn trọng và yêu kính Ngài; nếu Ngài đối xử với tôi như bình thường, thấy tôi không vừa mắt, có thái độ không tốt đối với tôi, luôn tỉa sửa tôi, vậy Ngài không phải là Đức Chúa Trời của tôi, tôi vẫn lựa chọn tin Đức Chúa Trời trên trời”. Người có loại thái độ này có thể nói là không ít, bao gồm cả các ngươi ở đây, bởi vì Ta đã tiếp xúc với một vài người như vậy rồi. Lúc không có việc gì thì đối xử với Ta rất tốt, bưng trà rót nước, hầu hạ, một khi bị cách chức thì sẽ trở mặt với Ta. Vậy lúc đối tốt với Đức Chúa Trời, họ có thật sự cho rằng đó là Đức Chúa Trời, là Đấng Christ không? Không, thứ họ nhắm đến chính là thân phận, địa vị của Đức Chúa Trời, nhất cử nhất động của họ ngoại trừ việc tâng bốc địa vị, thân phận của Đức Chúa Trời ra thì không có gì khác. Trong lòng họ, bất kể lúc nào, cũng chỉ cho rằng Đức Chúa Trời mơ hồ trên trời mới là Đức Chúa Trời chân chính, vị Đức Chúa Trời trên mặt đất này dù có thể bày tỏ bao nhiêu lẽ thật, dù xây dựng và đem lại bao nhiêu lợi ích cho con người, chỉ cần Ngài sống trong nhân tính bình thường, là xác thịt, thì không thể nào là vị Đức Chúa Trời trên trời kia. Cho dù họ có lấy lòng, hầu hạ, tôn kính Đức Chúa Trời trên mặt đất như thế nào, thì thực ra trong lòng họ vẫn cho rằng Đức Chúa Trời trên trời mới là Đức Chúa Trời chân chính. Quan điểm này thế nào? Có thể nói, quan điểm này đều có trong sâu thẳm nội tâm rất nhiều người và ẩn núp rất sâu trong tiềm thức của con người. Trong khi tiếp nhận sự chu cấp của Đấng Christ, sự chăn dắt của Đấng Christ, thì họ cũng đang quan sát nghiên cứu, nghi ngờ Đấng Christ, và họ cũng đang trông mong vị Đức Chúa Trời công chính trên trời sẽ phán xét mọi việc họ làm ra. Tại sao lại cần Đức Chúa Trời trên trời phán xét? Là vì họ muốn căn cứ vào sở thích của mình, căn cứ vào quan niệm và tưởng tượng của mình, tùy theo ý mình mà để cho Đức Chúa Trời trên trời, cũng chính là Đức Chúa Trời trong tưởng tượng của họ, đối đãi với họ theo sở thích của họ. Trong khi đó, vị Đức Chúa Trời trên mặt đất này sẽ không như vậy, vị Đức Chúa Trời trên đất chỉ biết bày tỏ lẽ thật, nói về nguyên tắc lẽ thật, họ cho rằng: “Tình yêu thương của Đức Chúa Trời trên trời đối với con người là vô tư, là không có điều kiện, không có bất kỳ giới hạn nào, nhưng vị Đức Chúa Trời trên mặt đất này, anh nói sai một câu hoặc là làm sai một chút chuyện, một khi để Ngài biết, thì Ngài sẽ coi anh như tài liệu giảng dạy tiêu cực mà bắt đầu mổ xẻ trong quá trình giảng đạo. Cho nên con người phải cẩn thận một chút, phải tránh né một chút, có chuyện gì cũng không được để cho Ngài biết”. Các ngươi nói xem, Ta có thể mổ xẻ những chuyện các ngươi không cho Ta biết hay không? Ta không cần phải mổ xẻ chuyện các ngươi làm, Ta chỉ mổ xẻ tâm tính của ngươi, tình trạng của ngươi. Không cần phải dựa vào những chuyện này, Ta vẫn có thể thông công lẽ thật như cũ, vẫn giảng đạo và giải quyết vấn đề như cũ, còn có thể đạt đến làm cho con người hiểu lẽ thật. Trong lòng người không tin cho rằng xác thịt này, vị Đức Chúa Trời này, chỉ cần là chuyện mắt không nhìn thấy thì không thể biết, càng không biết những chuyện liên quan đến cõi thuộc linh, liên quan đến lẽ thật. Nghĩa là con người bị tâm tính bại hoại chi phối có thể làm ra những chuyện gì, thì Ngài cũng không nhìn ra, Ngài không thể hiểu thực chất bại hoại của con người. Đây chính là lý luận lô-gic của những người không tin. Họ mãi mãi đối đãi với Đấng Christ bằng một dạng thái độ nghiên cứu, nghi ngờ, thậm chí là không tin, đồng thời họ cũng dùng tiêu chuẩn của con người, dùng tri thức họ hiểu và những thứ mà họ tưởng tượng được để đánh giá Đấng Christ. Ví dụ, có người khi nói chuyện với người khác, họ cho rằng người khác không biết trong lòng họ nghĩ cái gì, không biết tâm tính họ như thế nào, rồi khi nói chuyện với Ta, họ cũng nói như vậy, cũng đối đãi với Ta giống như đối đãi với người bình thường, cho rằng Ta cái gì cũng không biết, đó có phải là không nhận thức Đức Chúa Trời hay không? Họ nói dối người khác thì người khác không để tâm, rồi họ cũng nói dối với Ta như vậy, còn tí ta tí toét, ngang vai ngang vế, luôn muốn bàn luận như anh em, họ cho rằng thân thuộc thì có thể như vậy, còn cho rằng có lẽ Ta cái gì cũng không biết, đây có phải là quan niệm của con người hay không? Đây là quan niệm của con người, cũng là sự vô tri của con người, trong sự vô tri này có tâm tính tà ác của Sa-tan, chính dạng tâm tính tà ác này dẫn đến việc con người nảy sinh quan niệm. Các ngươi nói xem, Ta vạch trần bản tính của con người hoặc nhìn thấu bản tính của một con người thì có cần sống chung với người này hay không, có cần quan sát tư tưởng và quan điểm của người đó từng giây từng phút, có cần hiểu hết mọi bối cảnh của người đó hay không? (Thưa, không cần.) Ta không cần làm vậy, nhưng các ngươi không đạt đến được như vậy. Tuy rằng các ngươi tiếp xúc với người ta hằng ngày, cùng nhau sinh hoạt, nhưng vẫn nhìn không thấu thực chất bản tính của con người, cho dù gặp phải chuyện gì cũng chỉ có thể nhìn thấu bề ngoài, chứ không nhìn thấu được thực chất. Trừ phi Đức Chúa Trời tỏ lộ hoàn toàn, các ngươi mới có được chút phân định, nếu không thì các ngươi tiếp xúc mấy năm cũng vẫn nhìn không thấu. Có người, Ta tiếp xúc với hắn một hai ngày, hắn làm một số việc, nói một vài lời, bày tỏ một vài quan điểm, về cơ bản Ta đã biết hắn là loại người nào. Nhưng có người không làm gì cả, Ta cũng không ở chung, làm việc chung với hắn, Ta sẽ vẽ một dấu chấm hỏi đối với người này, một khi xảy ra chuyện gì đó, hắn bày tỏ một quan điểm thì bản tính thực chất của hắn sẽ lập tức bị bộc lộ ra ngay. Rất nhiều người nói: “Bộc lộ ra thì Ngài nhìn thấu chăng? Ngài căn cứ vào cái gì mà nhìn thấu? Sao chúng con lại không nhìn thấu được?”. Ngươi không hiểu lẽ thật thì sẽ không đánh giá được con người, sẽ mãi mãi không có tiêu chuẩn để đánh giá, mà không có tiêu chuẩn để đánh giá thì ngươi sẽ không nhìn thấu người ta được. Nhưng Ta có tiêu chuẩn. Một mặt, Ta hiểu lẽ thật, nên Ta đánh giá con người nhạy bén hơn và nhanh hơn một chút, mặt khác là Thần của Đức Chúa Trời đang làm việc. Có người cho rằng: “Con người sống trên thế giới này lâu rồi thì có thể nhìn thấu sự tình, nhìn thấu con người”. Đó không phải là nhìn thấu chân thực, thứ họ nhìn thấu là cái gì? Trong xã hội này có những trò lừa bịp, như trò lừa bịp chính trị, trò lừa bịp thương mại, kinh tế hoặc là trò lừa bịp liên quan đến tình dục, những chuyện này con người trải nghiệm nhiều, nghe nhiều thì có thể tránh được, người trải nghiệm ít, từng trải ít thì thường bị lừa, bị lừa nhiều lần thì sẽ có kinh nghiệm, cũng có thể nhìn thấu. Cái nhìn thấu của họ là như vậy. Tuy nhiên, đối với sự bại hoại của nhân loại, bản tính của nhân loại, thực chất bị Sa-tan làm bại hoại của nhân loại, con người mà không có lẽ thật thì mãi mãi không có sự khôn ngoan để nhìn thấu, mãi mãi không nhìn thấu tâm tính mà mọi người bộc lộ phía sau một sự việc là gì, căn nguyên của vấn đề là gì. Ngươi không nhìn thấu những chuyện này, thì sẽ không biết xử lý những chuyện này, không biết xử lý những con người, sự việc, sự vật liên quan như thế nào, ngươi sẽ không có cách nào, cũng không có sự khôn ngoan để xử lý chúng. Cho nên khi gặp phải chuyện này, ngươi sẽ rất hoang mang, mất bình tĩnh, cảm thấy rất khó giải quyết. Nếu đã hiểu lẽ thật cho thông suốt rồi, thì ngươi có thể nhìn thấu tâm tính bại hoại của con người, nhìn thấu thực chất của tâm tính bại hoại. Thông qua việc nhìn thấy tâm tính bại hoại mà họ bộc lộ để nhận thức thực chất của họ, sẽ biết họ là thứ gì, biết họ là loại người nào, ngươi sẽ biết cách để đề phòng họ, cách để phân định họ, cũng như cách để ứng phó với chuyện này. Đây có phải là nguồn gốc của sự khôn ngoan không? (Thưa, phải.) Vậy Đấng Christ có thể nhìn thấu con người, có thể chu cấp cho con người, căn nguyên của mọi sự này nằm ở đâu? Nếu nói theo kiểu đạo lý thì là đến từ Thần của Đức Chúa Trời, nếu nói thực tế hơn một chút thì đó là vì Đấng Christ có lẽ thật đến từ Đức Chúa Trời, chuyện chính là như vậy. Đợi đến một ngày, các ngươi có được thực tế lẽ thật làm sự sống của mình, thì các ngươi sẽ có sự khôn ngoan, cũng có thể nhìn thấu con người.
Quan niệm của con người còn có một phương diện nữa, đó là quan niệm mà con người nảy sinh về công tác của Đức Chúa Trời. Quan niệm của con người về công tác của Đức Chúa Trời nảy sinh như thế nào? Có một số đến từ sự lý giải về tín ngưỡng của tiền nhân, có một số đến từ tưởng tượng của con người đối với công tác của Đức Chúa Trời. Ví dụ, trước đây con người tưởng tượng công tác phán xét của Đức Chúa Trời là có một ngai lớn màu trắng trên không trung, Đức Chúa Trời ngồi trên ngai lớn để phán xét muôn dân, bây giờ họ đều biết rằng tưởng tượng này là không thực tế và là chuyện không thể. Cho dù như thế nào, tóm lại, con người có rất nhiều tưởng tượng đối với công tác của Đức Chúa Trời, sự quản lý của Đức Chúa Trời và phương thức Đức Chúa Trời đối đãi với con người, những tưởng tượng này phần lớn là bắt nguồn từ sở thích của con người. Tại sao lại nói như vậy? Vì con người không muốn chịu khổ, luôn muốn đi theo Đức Chúa Trời đến hết đường một cách dễ dàng, hưởng thụ đủ ân điển, hưởng phúc lành của Đức Chúa Trời, sau đó còn có thể vào thiên quốc, suy nghĩ như thế thật đẹp biết bao! Ngồi kiệu hoa tiến vào thiên quốc, đây là ý nghĩ thường thấy nhất, quá đáng nhất của nhân loại bại hoại đối với công tác của Đức Chúa Trời. Ngoài ra, khi con người gặp phải công tác của Đức Chúa Trời, con người phần nhiều không thể lý giải, không biết lẽ thật bên trong đó là gì, không biết mục đích của Đức Chúa Trời khi làm công tác này là gì, và tại sao Đức Chúa Trời lại dùng cách này để đối đãi với con người. Ví dụ về tình yêu thương của Đức Chúa Trời, trước đây Ta đã dùng hai từ “bao la” và “vĩ đại khôn sánh” để mô tả, nhưng Ta tin có lẽ các ngươi chưa bao giờ lý giải được hai từ này có nghĩa là gì. Mục đích của Ta sử dụng hai từ này là gì? Là để thu hút sự chú ý của mọi người, sau đó để cho các ngươi suy ngẫm. Hai từ này bề ngoài có vẻ như rất sáo rỗng, nhưng chắc chắn có ý nghĩa nhất định, thế nhưng con người suy ngẫm thế nào cũng chỉ có thể nhận thức được rằng: “Bao la, chính là rộng lớn giống như bầu trời, nghĩa là tấm lòng của Đức Chúa Trời rộng lớn, Đức Chúa Trời yêu thương con người vô hạn!”. Tình yêu của Đức Chúa Trời không phải là dạng tình yêu mà tâm trí con người có thể tưởng tượng được. Con người không có khả năng tưởng tượng ra tình yêu này, họ không được dùng học thức và kiến thức để diễn giải từ này, mà phải dùng một phương pháp khác để hiểu rõ và trải nghiệm nó. Sau hết, ngươi bắt đầu thật sự cảm thấy rằng tình yêu của Đức Chúa Trời khác với tình yêu mà con người nói, rằng tình yêu đích thực của Đức Chúa Trời không giống với bất kỳ dạng tình yêu nào khác, không giống với tình yêu mà toàn thể nhân loại hiểu. Vậy thì chính xác tình yêu này của Đức Chúa Trời là gì? Ngươi nên hiểu tình yêu của Đức Chúa Trời như thế nào? Trước tiên, ngươi không được tiếp cận nó bằng những quan niệm và sự tưởng tượng của con người. Lấy tình yêu của người mẹ làm ví dụ: Tình yêu của một người mẹ đối với các con mình là vô điều kiện, cực kỳ bảo bọc và ấm áp. Ngay bây giờ, tình yêu của Đức Chúa Trời đối với con người mà các ngươi cảm nhận có cùng mức độ cảm giác và ý nghĩa như tình yêu của một người mẹ không? (Có.) Vậy thì đây là một vấn đề – điều này sai. Ngươi phải phân biệt tình yêu của Đức Chúa Trời với tình yêu của cha mẹ, của chồng, vợ, hay con cái, của họ hàng, với sự quan tâm của bạn bè, và đi đến nhận biết tình yêu của Đức Chúa Trời theo một cách khác. Tình yêu của Đức Chúa Trời chính xác là gì? Tình yêu của Đức Chúa Trời không có cảm xúc xác thịt và không bị ảnh hưởng bởi quan hệ huyết thống. Đó là tình yêu không hơn không kém. Vậy thì con người nên hiểu tình yêu của Đức Chúa Trời như thế nào? Tại sao chúng ta lại thảo luận về tình yêu của Đức Chúa Trời? Tình yêu của Đức Chúa Trời được thể hiện trong công tác của Đức Chúa Trời, để con người công nhận nó, chấp nhận nó, trải nghiệm nó, và cuối cùng nhận ra đây là tình yêu của Đức Chúa Trời, và tình yêu của Đức Chúa Trời không phải là những lời nói suông, cũng không phải dạng hành vi nào đó về phần Đức Chúa Trời, mà là lẽ thật. Khi ngươi chấp nhận tình yêu của Đức Chúa Trời như lẽ thật, ngươi sẽ có thể nhận ra phương diện này trong thực chất của Đức Chúa Trời từ đó. Nếu ngươi xem nó như một dạng hành vi, ngươi sẽ khó mà nhận ra nó. “Hành vi” nghĩa là gì? Lấy những bà mẹ làm ví dụ: Họ cho đi tuổi thanh xuân, máu, mồ hôi và nước mắt của mình để nuôi dạy con cái và cho chúng bất cứ thứ gì chúng muốn. Bất kể chúng đã làm đúng hay sai, hay bất kể chúng đi con đường nào, một người mẹ cho đi một cách vị tha, đáp ứng nhu cầu của con mình, không bao giờ dạy dỗ, giúp đỡ và hướng dẫn đứa trẻ bước đi trên con đường đúng đắn, chỉ liên tục chăm sóc, yêu thương và bảo vệ chúng không suy xét, đến mức sau cùng, đứa trẻ không thể phân biệt đúng sai. Đây là tình yêu của một người mẹ hay bất kỳ dạng tình yêu nào được sinh ra từ xác thịt, tình cảm, và những mối quan hệ xác thịt của con người. Trong khi đó, tình yêu của Đức Chúa Trời thì hoàn toàn ngược lại: Nếu Đức Chúa Trời thương yêu ngươi, Ngài bày tỏ điều này bằng cách thường xuyên sửa phạt, sửa dạy và tỉa sửa ngươi. Dù ngày tháng của ngươi có thể không thoải mái, trôi qua trong sự sửa phạt và sửa dạy, nhưng một khi ngươi đã trải nghiệm điều này, ngươi sẽ phát hiện ra rằng ngươi đã học được nhiều điều, rằng ngươi có được sự phân định và khôn ngoan khi nói đến việc tương tác với người khác, và ngươi cũng bắt đầu hiểu một số lẽ thật. Nếu tình yêu của Đức Chúa Trời giống như tình yêu của người mẹ hay người cha, như ngươi tưởng tượng, nếu Ngài quá kỹ trong sự chăm sóc của Ngài và luôn nuông chiều thì ngươi có thể đạt được những điều này không? Ngươi không thể. Cho nên, tình yêu thương của Đức Chúa Trời mà con người có thể lý giải được thì không giống với tình yêu đích thực của Đức Chúa Trời mà họ có thể nếm trải qua công tác của Ngài. Con người phải căn cứ vào lời Đức Chúa Trời mà đối đãi, tìm kiếm lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời thì mới có thể biết được tình yêu đích thực là gì. Nếu không tìm kiếm lẽ thật thì làm thế nào mà một người bại hoại có thể lý giải được tình yêu của Đức Chúa Trời là gì, mục đích làm công tác của Đức Chúa Trời trên con người là gì, và ý muốn thiết tha của Đức Chúa Trời là gì? Những người này sẽ không bao giờ lý giải được. Đây là sự hiểu lầm dễ nảy sinh nhất đối với phương diện công tác của Đức Chúa Trời, đây là một phương diện trong thực chất của Đức Chúa Trời mà con người khó lĩnh hội được nhất. Con người phải trải nghiệm sâu sắc, phải đặt mình vào vị trí của người khác để tiếp xúc và thể nghiệm một cách thực tế thì mới có thể nhận thức được. Người bình thường khi nói đến tình yêu thì nghĩa là thích cái gì cho cái đó, người ta thích ngọt thì sẽ không cho đắng, mặc dù có đôi khi cho đắng cũng là vì chữa bệnh, tóm lại chính là nó có lòng ích kỷ của con người, có tình cảm, huyết khí của con người và đều có ý định, mục đích. Nhưng dù Đức Chúa Trời làm gì trên con người, dù là phán xét hành phạt, sửa phạt sửa dạy, hay tỉa sửa như thế nào, cho dù ngươi sẽ hiểu lầm Ngài, thậm chí trong lòng oán trách Ngài, Đức Chúa Trời vẫn sẽ không ngại phiền phức mà công tác trên ngươi, mục đích cuối cùng là vì cái gì? Dùng cách đó để thức tỉnh ngươi, để đến một ngày nào đó ngươi có thể hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời. Nhưng khi nhìn thấy kết quả này, Đức Chúa Trời có được gì? Thực ra Ngài chẳng có được gì cả. Tại sao lại nói như vậy? Bởi vì tất cả mọi sự của ngươi đều đến từ Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời không cần gì cả. Ngài chỉ cần trong thời gian Ngài công tác, con người đi theo và bước vào dựa theo yêu cầu của Đức Chúa Trời cho tốt, cuối cùng có thể sống thể hiện ra thực tế lẽ thật, sống có hình tượng con người, không còn bị Sa-tan mê hoặc, dẫn dụ, cám dỗ nữa, có thể chống lại Sa-tan, đạt đến thuận phục Đức Chúa Trời, thờ phượng Ngài, thì Ngài đã hài lòng thỏa dạ và việc vĩ đại của Đức Chúa Trời đã được hoàn thành. Vậy Ngài có được gì? Đức Chúa Trời có được con người của ngươi, ngươi có thể chúc tụng Ngài. Nhưng lời chúc tụng đó của ngươi là gì với Ngài? Ngươi không chúc tụng Ngài thì Ngài không phải là Đức Chúa Trời sao? Ngươi không chúc tụng Ngài thì Ngài sẽ không toàn năng sao? Ngươi không chúc tụng Đức Chúa Trời thì có thể thay đổi thực chất và địa vị của Ngài sao? (Thưa, không thể.) Không thể nào. Đó chỉ có thể nói là tình yêu của Đức Chúa Trời, là công tác của Ngài. Các ngươi hiểu được tầng ý nghĩa này của tình yêu bao la, vĩ đại khôn sánh của Đức Chúa Trời chưa? (Thưa, chưa.) Các ngươi chưa hiểu được chuyện này. Thậm chí trong tình huống một người làm tan nát trái tim của Đức Chúa Trời, và mọi người thấy Đức Chúa Trời không thể cứu rỗi họ, thì khi họ phản tỉnh và tỉnh ngộ, buông bỏ điều ác trong tay để tiếp nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, thì thái độ của Đức Chúa Trời là gì? Đức Chúa Trời cũng thu nhận họ như thường, chỉ cần con người có thể đi con đường đúng đắn thì Ngài không chấp nhặt vi phạm của con người, đây chính là tình yêu của Đức Chúa Trời. Trong chuyện này, quan niệm nào của con người phải được thay đổi? Chính là cách yêu kính Đức Chúa Trời, con người nên đi ra khỏi các loại quan niệm và tưởng tượng, phải tìm kiếm lẽ thật, hiểu lẽ thật mới có thể buông bỏ quan niệm. Đi ra khỏi quan niệm thì dễ, nhưng hoàn toàn thay đổi quan niệm thì không dễ. Nếu như ngươi lại gặp phải chuyện tương tự, quan niệm lại nảy sinh, thì đó là vấn đề gì? Nó chứng tỏ quan niệm này đã ăn sâu bén rễ bên trong ngươi, mặc dù ngươi có thể vứt bỏ trong một số chuyện thông qua việc thông công lẽ thật, nhưng trong một số chuyện ngươi vẫn không buông bỏ được. Buông bỏ quan niệm trong một chuyện thì dễ, nhưng để con người giải quyết triệt để quan niệm thì không dễ, phải hiểu rất nhiều lẽ thật mới có thể giải quyết triệt để vấn đề quan niệm. Điều này cần con người phải tìm kiếm lẽ thật trong những chuyện xảy ra, trải nghiệm và lĩnh hội tình yêu của Đức Chúa Trời một cách thực tế, cần Đức Chúa Trời làm rất nhiều việc thì con người mới có thể nhận thức Ngài, chỉ khi đạt đến nhận thức Đức Chúa Trời thì vấn đề quan niệm và tưởng tượng của con người đối với Đức Chúa Trời mới có thể hoàn toàn được loại bỏ.
Bây giờ các ngươi phải mổ xẻ quan niệm đối với công tác của Đức Chúa Trời là gì, và những quan niệm đó là những quan niệm nào. Chủ yếu là tổng kết lại các loại tưởng tượng, chống đối và yêu cầu của ngươi đối với công tác của Đức Chúa Trời, đối với sự tể trị, an bài của Đức Chúa Trời và đối với cách công tác của Ngài. Những thứ này có thể cản trở ngươi thuận phục sự sắp đặt, an bài của Đức Chúa Trời, có thể dẫn đến việc ngươi hiểu lầm và chống đối tất cả những gì Đức Chúa Trời đã làm trên ngươi. Quan niệm như thế rất nghiêm trọng, đáng để mổ xẻ. Ví dụ, nếu có một số người đọc lời Đức Chúa Trời phán xét con người, định tội con người thì sẽ nảy sinh quan niệm, họ nói: “Đức Chúa Trời nói không thích loại người như tôi, vậy có thể là Đức Chúa Trời không cứu rỗi tôi rồi”, đây có phải là quan niệm hay không? Loại quan niệm này có thể mang đến hậu quả gì? Dù ngươi có sự bại hoại nào, ngươi là loại người nào, ngươi biết Đức Chúa Trời không thích những kẻ phản nghịch Ngài, vậy tại sao ngươi không hối cải? Ngươi tiếp nhận lẽ thật, thoát khỏi tâm tính bại hoại, hoàn toàn thuận phục Đức Chúa Trời thì chẳng phải Ngài sẽ thích ngươi sao? Tại sao ngươi lại quy định rằng Đức Chúa Trời không cứu rỗi ngươi? Ý nghĩ tiêu cực này có thể cản trở ngươi đi theo Đức Chúa Trời, trải nghiệm công tác của Ngài, sẽ làm cho ngươi giậm chân tại chỗ, cam tâm sa đọa, và thậm chí khiến ngươi vứt bỏ Đức Chúa Trời. Những kẻ địch lại Đấng Christ và những kẻ ác xuất hiện trong một số hội thánh, gây nhiễu loạn và mê hoặc một số người, đây là chuyện tốt hay xấu? Đây là tình yêu của Đức Chúa Trời, hay là Đức Chúa Trời đang trêu đùa và tỏ lộ con người? Các ngươi không thể nhìn thấu được, đúng không? Đức Chúa Trời lợi dụng sự phục vụ của vạn sự vạn vật để hoàn thiện và cứu rỗi những người mà Ngài muốn cứu rỗi. Điều mà những người thực sự tìm kiếm lẽ thật và thực hành lẽ thật cuối cùng sẽ đạt được chính là lẽ thật, còn một số người không tìm kiếm lẽ thật thì sẽ oán trách rằng: “Đức Chúa Trời làm việc theo cách này cũng đâu có thích hợp, nó khiến tôi chịu tội lớn biết bao! Suýt chút nữa là tôi chạy theo những kẻ địch lại Đấng Christ rồi. Nếu điều này thực sự là do Đức Chúa Trời sắp đặt, sao Ngài có thể khiến con người chạy theo những kẻ địch lại Đấng Christ chứ?”. Chuyện này là sao? Không đi theo những kẻ địch lại Đấng Christ chứng tỏ rằng ngươi có được sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, còn nếu ngươi chạy theo những kẻ địch lại Đấng Christ, thì chính là phản bội Đức Chúa Trời và Ngài sẽ không còn muốn ngươi nữa. Vậy thì việc những kẻ địch lại Đấng Christ và những kẻ ác đang gây nhiễu loạn trong hội thánh là chuyện tốt hay xấu? Nhìn bề ngoài thì đó không phải là chuyện tốt, nhưng đợi đến khi những kẻ địch lại Đấng Christ và những kẻ ác này bị tỏ lộ, thì ngươi sẽ có tiến bộ về khả năng phân định, bọn họ cũng bị thanh lọc ra khỏi hội thánh, và vóc giạc của ngươi cũng sẽ trưởng thành hơn. Sau này nếu lại gặp loại người như vậy thì không cần đợi đến khi họ hiện nguyên hình, ngươi đã có thể phân định và từ bỏ họ. Chuyện này sẽ giúp ngươi rút ra bài học và hưởng được lợi ích. Ngươi sẽ biết cách phân định những kẻ địch lại Đấng Christ và sẽ không còn bị Sa-tan mê hoặc nữa. Vậy các ngươi nói xem, việc những kẻ địch lại Đấng Christ gây nhiễu loạn và mê hoặc con người có phải là chuyện tốt không? Những người đã trải nghiệm đến bước này mới thấy được rằng, Đức Chúa Trời đã không hành động theo những quan niệm và tưởng tượng của con người, Đức Chúa Trời đã cho phép con rồng lớn sắc đỏ điên cuồng gây nhiễu loạn và cho phép những kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc dân được Đức Chúa Trời chọn. Đây chính là lợi dụng sự phục vụ của Sa-tan để hoàn thiện dân được Đức Chúa Trời chọn, như vậy con người mới hiểu được sự lao tâm khổ tứ của Đức Chúa Trời. Có những người nói: “Tôi đã bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc hai lần nhưng vẫn không biết phân định chúng, nếu một kẻ địch lại Đấng Christ xảo quyệt hơn lại đến, tôi vẫn sẽ bị mê hoặc”. Thì để nó đến một lần nữa, để ngươi trải nghiệm và khiến ngươi học bài học, Đức Chúa Trời phải làm việc như vậy thì mới có thể cứu rỗi nhân loại khỏi quyền thế của Sa-tan. Cách công tác của Đức Chúa Trời trong chuyện này có thể dùng hai cụm từ để hình dung, chính là các cách công tác khác nhau của Đức Chúa Trời không giống bình thường, ngoài sức tưởng tượng của người bình thường. Tại sao lại dùng hai cụm từ “không giống bình thường” và “ngoài sức tưởng tượng” để định nghĩa công tác của Đức Chúa Trời? Vì nhân loại bại hoại không hiểu những chuyện này, không hiểu lẽ thật, không hiểu cách công tác của Đức Chúa Trời, không hiểu sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời khi chiến đấu với Sa-tan, toàn bộ nhân loại đều trống rỗng về phương diện này. Vậy con người tại sao vẫn có ý nghĩ và quan niệm? Là vì con người học chút tri thức, hiểu được chút đạo lý, có sở thích của mình thì sẽ nảy sinh một vài quan niệm và tưởng tượng, nhưng đối với chuyện về cõi thuộc linh và công tác mà Đức Chúa Trời làm thì họ lại không hiểu chút nào. Vào thời kỳ sau rốt, Đấng Tạo Hóa trực tiếp hướng mặt về phía toàn bộ nhân loại phán ra và nói chuyện, đây là lần đầu tiên kể từ khi khai thiên lập địa. Nghĩa là Ngài đối diện với toàn bộ nhân loại mà công tác công khai, công khai kế hoạch quản lý của Ngài như thế, đồng thời thực thi, tiến hành giữa nhân loại này, đây là lần đầu tiên. Nhân loại đối với ý niệm của Đức Chúa Trời, đối với lĩnh vực thực chất và cách công tác của Đức Chúa Trời vốn dĩ là trống rỗng và xa lạ, cho nên việc con người có quan niệm về phương diện này tuy là bình thường, nhưng bình thường không có nghĩa là phù hợp với lẽ thật. Quan niệm của con người cho dù bình thường như thế nào, nó cũng là trái với lẽ thật, không hợp với lời Đức Chúa Trời, cũng là chống đối tâm ý của Đức Chúa Trời. Nếu như không kịp thời giải quyết, thì sẽ là trở ngại lớn nhất đối với việc con người trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời và đối với lối vào sự sống của con người. Cho nên, về quan niệm của con người, cho dù phù hợp với tưởng tượng của con người, phù hợp với ý của con người đến đâu, chỉ cần không phù hợp với lẽ thật, không phù hợp với lời Đức Chúa Trời thì đều là trái với lẽ thật, đều là đối địch với Đức Chúa Trời, chứ không phải tương hợp với Đức Chúa Trời. Quan niệm có hợp với tưởng tượng của con người hơn nữa thì cũng nên tiến hành phân định, tuyệt đối không thể mù quáng tiếp nhận. Nhân loại nên tiếp nhận điều gì? Nên tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, lẽ thật, và tất cả những điều tích cực đến từ Đức Chúa Trời. Đối với những thứ thuộc về Sa-tan, con người có nhìn nhận tốt hơn nữa, có hợp với tưởng tượng của con người hơn nữa, cũng không được tiếp nhận, chỉ có thể vứt bỏ mà thôi. Làm được như vậy mới có thể đạt đến vâng phục Đức Chúa Trời, thỏa mãn yêu cầu của Đấng Tạo Hóa.
Chỉ có căn cứ vào lời Đức Chúa Trời và dùng lẽ thật mới có thể giải quyết quan niệm của con người, chứ không phải giảng đạo lý cộng thêm khích lệ là có thể buông bỏ, không dễ dàng như vậy. Con người không kiên trì với chuyện chính đáng như vậy, nhưng đối với các loại quan niệm hoặc là những thứ đường ngang ngõ tắt, lệch lạc thì lại dễ bám giữ, không dễ buông bỏ, nguyên nhân nào gây ra chuyện này? Bởi vì con người có tâm tính bại hoại. Quan niệm của con người dù lớn hay nhỏ, nghiêm trọng hay không, nếu con người không có tâm tính bại hoại thì những quan niệm này đều dễ giải quyết. Thực ra, nói cho cùng thì quan niệm chính là một loại ý nghĩ, nhưng bởi vì con người có tâm tính bại hoại như kiêu căng, cương ngạnh thậm chí là tà ác, nên quan niệm sẽ trở thành ngòi nổ, dẫn đến việc con người chống đối, hiểu lầm thậm chí xét đoán Đức Chúa Trời. Ngươi xem, có ai nảy sinh quan niệm với Đức Chúa Trời mà vẫn có thể thuận phục Ngài, chúc tụng Ngài không? Không có, họ đều chống đối, oán trách, xét đoán và thậm chí là lên án Đức Chúa Trời. Điều này đủ để nói rõ, quan niệm nảy sinh từ trong tâm tính bại hoại, một khi quan niệm xuất hiện là tâm tính bại hoại bộc lộ, mọi tâm tính bại hoại được bộc lộ đều là phản nghịch, chống đối Đức Chúa Trời. Có người nói: “Tôi có quan niệm, nhưng tôi không chống đối Đức Chúa Trời”. Đây là lời nói lừa bịp, cho dù ngoài miệng họ không nói, nhưng trong lòng họ lại đang chống đối, hành vi của họ cũng có sự chống đối, trong tình huống này họ còn có thể thuận phục lẽ thật sao? Đây là chuyện không thể nào. Họ giữ chặt quan niệm của mình dưới sự chi phối của một loại tâm tính bại hoại, đó là do tâm tính bại hoại gây ra. Cho nên, trong khi giải quyết quan niệm thực ra cũng là giải quyết tâm tính bại hoại của con người. Nếu như tâm tính bại hoại của con người được giải quyết, thì rất nhiều ý nghĩ chưa trưởng thành, ấu trĩ của con người, thậm chí những thứ đã trở thành quan niệm của con người, đối với con người mà nói thực ra đều không thành vấn đề, chúng chỉ là một loại ý nghĩ, không ảnh hưởng đến việc thực hiện bổn phận của ngươi, cũng không ảnh hưởng đến sự thuận phục của ngươi đối với Đức Chúa Trời. Quan niệm và tâm tính bại hoại có quan hệ với nhau, có lúc quan niệm ở trong lòng ngươi, nhưng không chi phối ngươi làm việc, khi không liên quan đến lợi ích thiết thân của ngươi thì ngươi không thèm ngó ngàng đến. Ngươi không thèm ngó ngàng đến không có nghĩa là trong quan niệm của ngươi không có tâm tính bại hoại, khi một chuyện gì đó xảy ra và nảy sinh xung đột với quan niệm của ngươi, ngươi dùng một loại thái độ để bám giữ quan niệm của mình, loại thái độ này chính là do tâm tính của ngươi chi phối. Tâm tính này có thể là cương ngạnh, có thể là kiêu ngạo, cũng có thể là hung ác, khiến cho các ngươi kêu gào với Đức Chúa Trời: “Quan điểm của con trải qua bao nhiêu là luận chứng học thuật, mấy ngàn năm qua con người đều giữ vững như vậy, dựa vào cái gì mà con không thể giữ vững chứ? Những điều Ngài nói không hợp với quan niệm của con người thì là không đúng, sao Ngài còn có thể nói là lẽ thật, là tối thượng đây? Quan điểm này của con mới là tối thượng trong toàn nhân loại!”. Một quan niệm có thể dẫn đến việc ngươi nảy sinh hành vi như vậy, kêu gào như vậy, điều này do cái gì gây ra? (Thưa, do tâm tính bại hoại.) Đúng vậy, là do tâm tính bại hoại gây ra. Quan niệm có quan hệ trực tiếp với tâm tính bại hoại của con người, nhất định phải giải quyết. Sau khi giải quyết các loại quan niệm đối với việc tin Đức Chúa Trời của con người, thì con người sẽ dễ dàng thuận phục sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời, có thể thuận lợi làm tốt bổn phận, không đi đường vòng, không gây gián đoạn và nhiễu loạn, không làm chuyện sỉ nhục Đức Chúa Trời. Quan niệm và tưởng tượng của con người mà không được giải quyết thì dễ gây ra những chuyện làm gián đoạn và nhiễu loạn, nghiêm trọng hơn nữa là quan niệm của con người có thể khiến con người nảy sinh đủ loại chống đối với xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời. Nói đến quan niệm, chắc chắn đó là quan điểm không đúng đắn, không phù hợp với lẽ thật, hoàn toàn đối lập với lẽ thật, có thể dẫn đến việc nảy sinh những sự chống đối khác nhau đối với Đức Chúa Trời, những sự chống đối này khiến ngươi nghi ngờ Đấng Christ, khiến ngươi không thể tiếp nhận Ngài, thuận phục Ngài, đồng thời cũng ảnh hưởng đến việc ngươi tiếp nhận lẽ thật và bước vào thực tế lẽ thật. Trong những trường hợp thậm chí còn nghiêm trọng hơn, các quan niệm khác nhau của con người về công tác của Đức Chúa Trời khiến họ phủ nhận công tác của Đức Chúa Trời, cách làm việc của Đức Chúa Trời cũng như tể trị và sự sắp đặt của Đức Chúa Trời – trong trường hợp đó, họ không còn hy vọng được cứu rỗi nữa. Bất kể con người có quan niệm về khía cạnh nào của Đức Chúa Trời thì đằng sau những quan niệm này ẩn chứa những tâm tính bại hoại của họ, những quan niệm này có thể khiến những tâm tính bại hoại này trở nên tồi tệ hơn, tạo cho con người càng nhiều cớ để tiếp cận công tác của Đức Chúa Trời, chính Đức Chúa Trời và tâm tính của Đức Chúa Trời bằng những tâm tính bại hoại của chính họ. Và điều này chẳng phải khích lệ họ chống đối Đức Chúa Trời bằng những tâm tính bại hoại của họ sao? Đây là hệ quả của quan niệm đối với con người.
Trước đây, mặc dù chúng ta thường nói đến quan niệm của con người, nhưng từ đầu đến cuối chúng ta không thông công một cách hệ thống và chi tiết việc con người có quan niệm về phương diện nào và đối với những chuyện nào, cũng như họ nảy sinh loại quan niệm gì. Hôm nay phân ra để thông công, mổ xẻ như vậy đã cho các ngươi một đường nét rõ ràng, để cho các ngươi biết mình có quan niệm ở phương diện nào, sau đó có thể có lộ trình để giải quyết từng cái một. Nếu như giải quyết những quan niệm này từng cái một rồi, con người sẽ ngày càng rõ ràng đối với lẽ thật ở mọi phương diện, như vậy lộ trình phía trước của con người cũng sẽ càng ngày càng rõ ràng, con đường tin Đức Chúa Trời của con người sẽ càng đi càng vững vàng, càng đi càng tươi sáng.
Ngày 20 tháng 9 năm 2018