Chỉ bằng cách giải quyết những quan niệm của mình thì mới có thể tiến vào đúng hướng của đức tin nơi Đức Chúa Trời (2)
Liên quan về vấn đề quan niệm, lần trước chúng ta đã nói đến ba mục chính: mục thứ nhất là quan niệm về việc tin Đức Chúa Trời, mục thứ hai là quan niệm về sự nhập thể, mục thứ ba là quan niệm về công tác của Đức Chúa Trời. Hai mục đầu đều đã nói xong, mục thứ ba cũng đã nói đến một vài nội dung mang tính khái niệm tương đối sơ bộ. Đối với phần quan niệm này hoặc là nội dung liên quan đến phần quan niệm này, sau đó các ngươi có nghiền ngẫm kỹ càng xem còn có những cái nào liên quan đến phần quan niệm này, liên quan đến lẽ thật này hay không? Không có lẽ thật nào chỉ có nghĩa đen đơn giản, mọi lẽ thật đều có nội hàm thực tế, đều liên quan đến lối vào sự sống của con người, liên quan đến các phương diện của cuộc sống thường nhật và việc tin Đức Chúa Trời. Vậy trong cuộc sống thường nhật, các ngươi có suy ngẫm ra những nội dung của lẽ thật về phương diện này không? Khi nghe phương diện lẽ thật này tại chỗ, các ngươi chỉ có thể hiểu một phần theo nghĩa đen, có chút phân định đối với những quan niệm đã rõ ràng, sau đó các ngươi lại kết hợp với những trải nghiệm nghiền ngẫm, cầu nguyện, tìm kiếm và thông công với anh chị em, nên mới có thể hiểu sâu sắc hơn, thực tế hơn một chút. Ba mục lẽ thật này xét theo nghĩa đen thì lẽ thật nào liên quan nhiều nhất đến tâm tính bại hoại của con người, đến nhận thức của con người về tâm tính của Đức Chúa Trời và đến lối vào thực tế của con người? Mục nào đi sâu và sâu sắc hơn một chút? (Thưa, mục thứ ba.) Mục thứ ba đi sâu hơn một chút. Mục thứ nhất là những quan niệm về việc tin Đức Chúa Trời, những quan niệm này đều là những thứ tương đối rõ ràng và bề ngoài. Mục thứ hai là quan niệm về sự nhập thể, liên quan đến nội dung mà một vài người có thể nhìn thấy, có thể hiểu được, cũng là nội dung mà trong cuộc sống con người có thể tiếp xúc đến, phản tỉnh được. Mục thứ ba là quan niệm về công tác của Đức Chúa Trời, điều này liên quan đến tâm tính bại hoại của con người, và mục này sâu sắc hơn một chút. Vậy rốt cuộc quan niệm đối với công tác Đức Chúa Trời là gì, con người có những quan niệm nào đối với công tác Đức Chúa Trời, con người nên nhận thức, đối đãi với những quan niệm này như thế nào, nên giải quyết những quan niệm này ra sao, đây chính là nội dung mà chúng ta cần thông công hôm nay.
Đối với quan niệm của con người về công tác của Đức Chúa Trời, từ khi việc suy luận, phán đoán của con người tăng lên thành yêu cầu và dục vọng xa xỉ của con người đối với Đức Chúa Trời, sự mâu thuẫn của con người với Ngài, và một vài phê phán hoặc xét đoán đối với công tác của Đức Chúa Trời, thì quan niệm này không chỉ là một loại quan điểm, một loại niềm tin, mà còn liên quan đến tâm tính bại hoại của con người. Một khi liên quan đến tâm tính bại hoại, thì đủ để khiến con người chống đối Đức Chúa Trời, xét đoán Ngài và thậm chí phản bội Ngài. Cho nên, quan niệm của con người đối với Đức Chúa Trời nếu như chỉ dừng lại ở sự tưởng tượng, suy đoán của con người thì vẫn chưa tính là vấn đề lớn. Nếu như tăng lên thành một loại quan điểm, thái độ đối với công tác của Đức Chúa Trời, biến thành một loại yêu cầu vô lý đối với Ngài hoặc là xét đoán, lên án Ngài, hoặc là tràn đầy một loại dã tâm, dục vọng và tính toán, thì đây không phải là quan niệm bình thường. Tại sao nói đó không phải là quan niệm bình thường? Bởi vì những quan niệm và ý nghĩ này liên quan đến lối vào sự sống của ngươi, đến nhận thức của ngươi về công tác của Đức Chúa Trời, đến việc liệu ngươi có thể tiếp nhận và thuận phục sự tể trị của Đức Chúa Trời hay không, có thừa nhận Đức Chúa Trời là Đấng tể trị của ngươi, là Chúa của mọi loài thọ tạo hay không, điều này liên quan trực tiếp đến lập trường của ngươi và thái độ của ngươi khi đối đãi với Đức Chúa Trời. Như vậy xem ra, con người có những quan niệm này có phải là vấn đề rất nghiêm trọng hay không? (Thưa, phải.) Nếu muốn mổ xẻ những quan niệm này, thì từ góc độ lý luận mà nói, các ngươi nghe có lẽ sẽ cảm thấy có chút trừu tượng hoặc xa vời với cuộc sống thường nhật của các ngươi, nhưng chúng ta vẫn nên nói một chút về trạng thái sinh tồn của các loại người mà chúng ta có thể nhìn thấy trong cuộc sống thường nhật hay giữa nhân loại, hoặc là về số phận của họ, các loại quan điểm, thái độ của họ đối với cuộc sống, đối với sự sắp đặt và tể trị của Đức Chúa Trời, từ đó mổ xẻ quan niệm của con người, cũng để cho người ta nhìn thấy Đức Chúa Trời tể trị và sắp đặt nhân loại như thế nào, tình huống thực tế của công tác của Đức Chúa Trời rốt cuộc là như thế nào. Đây là một chủ đề không dễ thông công cho lắm, nếu thông công quá lý thuyết hóa thì con người sẽ cảm thấy sáo rỗng, nếu thông công quá vụn vặt hoặc quá gần gũi với cuộc sống hiện thực của con người thì con người sẽ cảm thấy nó rất dễ hiểu, sẽ có vấn đề như vậy. Bất kể thế nào, chúng ta vẫn dùng phương thức kể chuyện tương đối rõ ràng và dễ hiểu này để thông công. Thông qua tình tiết câu chuyện, nhân vật, triết lý nhân sinh mà bản thân câu chuyện phản ánh ra và hiện tượng mà con người nhìn thấy, thì con người có thể từ đó mà ngộ ra một vài phương thức và phương pháp làm việc của Đức Chúa Trời, ngộ ra quan điểm sai lầm của con người trong cuộc sống thực tế đối với công tác của Đức Chúa Trời, việc Đức Chúa Trời tể trị và sắp đặt mọi sự, hoặc là ngộ ra một vài thứ sai lầm mà con người bám giữ. Dùng cách này thông công thì con người mới tương đối dễ hiểu hơn một chút.
Ta sẽ kể cho các ngươi nghe một câu chuyện. Có một cô bé sinh ra trong một gia đình không mấy giàu có, từ nhỏ cô đã có một nguyện vọng, đó là cả đời này không cầu đại phú đại quý, chỉ cần có một chỗ dựa là được. Nguyện vọng này có được xem là quá đáng hay không? Yêu cầu này có được xem là cao không? (Thưa, không.) Nhưng thật không may, khi cô còn vị thành niên thì cha cô đã qua đời, điều này đối với cô không khác gì mất đi chỗ dựa trong cuộc sống. Cuộc đời này, cô đã mất đi chỗ dựa đầu tiên, mất đi người duy nhất mà trong tâm hồn trẻ thơ của cô cho rằng mình có thể dựa vào, tâm hồn trẻ thơ của cô có phải rất đau khổ hay không? Gặp phải chuyện như vậy, chắc chắn cô rất đau khổ, vậy trong lòng cô có bị tổn thương hay không? Chắc chắn là có. Sự tổn thương như vậy từ đâu mà ra? Chính là từ trong tâm hồn trẻ thơ của cô, cô còn chưa kịp chuẩn bị sẵn sàng để nói: “Con có thể độc lập, có thể tự nuôi sống mình, con không cần dựa vào cha mẹ”, tức là giống như người ta thường nói cánh còn chưa cứng, trong tư tưởng lơ mơ của mình, cô còn chưa kịp nghĩ ra tương lai của mình sẽ như thế nào, nếu như rời xa cha mẹ thì mình sinh tồn như thế nào. Trong tình trạng còn chưa có được những ý thức này thì cha đã qua đời, điều này có nghĩa là nguồn sống đã không còn, cũng có nghĩa là cuộc sống tương lai sẽ còn khổ hơn so với hiện tại. Những ngày tháng sau đó có thể tưởng tượng ra được, cô đi theo mẹ và em trai còn nhỏ sống một cuộc sống khó khăn, gắng gượng duy trì kế sinh nhai. Nhưng cho dù đau khổ thế nào, cuộc sống vẫn phải tiếp tục, cô cứ sống bấp bênh bên mẹ và em trai như vậy. Vài năm sau, cô trưởng thành, có thể độc lập kiếm chút tiền sinh hoạt để nuôi mẹ và em trai, nhưng cuộc sống vẫn không giàu có như vậy. Lúc này, nguyện vọng trong lòng cô vẫn không thay đổi, cô cần có một chỗ dựa, chỗ dựa như thế nào? Chỗ dựa trong nguyện vọng của cô rốt cuộc là gì? Các ngươi thử hình dung xem. Khái niệm đơn giản nhất về “chỗ dựa” là gì? Chính là có thể cung cấp cho cô nguồn sống, có thể cung cấp cho cô cái ăn, cái mặc mà không cần bản thân cô dốc sức làm việc, cũng không cần cô chịu bất kỳ nỗi khổ nào, ít nhất lúc có chuyện thì cô có thể dựa vào một chút, có một bờ vai vững chãi giống như người ta thường nói, đó chính là chỗ dựa của cô. Cho dù không thể tiếp tế hay là nuôi cô trong cuộc sống, nhưng ít nhất lúc có chuyện, lúc trong lòng đau khổ thì có thể có một bờ vai để dựa vào, nghĩa là người này có thể giúp cô vượt qua cửa ải khó khăn, chắn mưa cản gió, nguyện vọng của cô là như vậy. Yêu cầu này có cao hay không? Nguyện vọng này có thực tế hay không? Yêu cầu này không cao, nguyện vọng này cũng được coi là thực tế. Nguyện vọng đơn giản như vậy có phải rất nhiều người đều có hay không? Rất ít người nói rằng họ sinh ra không cần dựa vào ai, chỉ dựa vào chính mình, hầu hết mọi người sống trên nhân thế này hoặc sống trong một nhóm người đều hy vọng có một người bạn hoặc là có một chỗ dựa, cô gái này cũng không ngoại lệ.
Trong chớp mắt, cô gái đến tuổi dựng vợ gả chồng, cô vẫn ôm dạng nguyện vọng như vậy, hy vọng tìm được một người có thể dựa vào, người có thể tin cậy được. Người này không cần quá giàu có, không cần làm cho cô được đại phú đại quý, cũng không cần biết ăn nói, chỉ cần vào lúc cô khó khăn nhất hoặc gặp phải khó khăn, ốm đau, người đó làm chỗ dựa cho cô, cho dù chỉ là cho cô vài câu an ủi, chỉ thế thôi. Nguyện vọng này có dễ thực hiện hay không? Đó là một ẩn số. Nguyện vọng của con người rốt cuộc có phải là điều mà Đức Chúa Trời muốn ban cho hay không, có phải là điều Đức Chúa Trời muốn hoàn thành hay không, rốt cuộc có phải là thứ đã được tiền định sẵn trong số phận của con người hay không, không một ai biết. Cho nên, nguyện vọng của cô gái này có thể thành hiện thực hay không thì cũng không ai biết, chính cô cũng không biết. Thế nhưng, trước sau như một, cô vẫn ôm nguyện vọng như vậy mà bước vào giai đoạn tiếp theo của cuộc đời. Lúc này, trong lòng cô rất thấp thỏm, rất bất an, nhưng cho dù thế nào, ngày này vẫn phải tới. Cô không biết người cô muốn tìm rốt cuộc có phải là chỗ dựa cho nửa đời còn lại của cô hay không, nhưng trong lòng cô vẫn thỉnh cầu: “Người này nên là người mình có thể tin cậy được. Hơn hai mươi năm nay, số mình đã đủ khổ rồi, nếu lại tìm được một người không đáng tin cậy, vậy nửa đời còn lại của mình sẽ càng khổ hơn. Mình còn có thể dựa vào ai đây?”. Trong lòng cô đau khổ, nhưng cũng không còn cách nào khác, chỉ có thể trông chờ như thế. Vì sinh tồn, khi con người không biết tại sao mình lại đến cuộc đời này và nên sống cuộc đời này thế nào, thì con người sẽ ôm nguyện vọng như vậy, ôm một loại trông mong chưa biết mà mò mẫm đi về phía trước. Khi giờ khắc này đến, cô không biết tương lai của mình sẽ như thế nào, tương lai là một ẩn số. Cô cứ tiếp tục đi về phía trước, nhưng rất nhiều sự thật thường trái ngược với ý nguyện của con người. Bây giờ chúng ta tạm thời không bình luận chuyện vì sao Đức Chúa Trời an bài số phận của con người như vậy, rốt cuộc là Đức Chúa Trời cố ý an bài như vậy, hay là bởi vì sự bại hoại, vô tri của con người tạo thành nguyện vọng và yêu cầu hoàn toàn trái ngược với số phận mà Đức Chúa Trời an bài cho con người, khiến cho nguyện vọng của con người thường không thể thành hiện thực, thường trái với ý muốn ban đầu. Chúng ta tạm thời không bình luận về điều này, hãy nói về bản thân câu chuyện trước đã.
Sau khi kết hôn, cô ôm nguyện vọng của mình bước vào giai đoạn tiếp theo của cuộc đời. Điều đang chờ đợi cô ở giai đoạn cuộc đời này là gì? Cô không biết, nhưng dù không biết thì cũng không thể vì sợ hãi mà trốn tránh, vẫn phải kiên trì đi về phía trước, cuộc sống dù sao cũng phải trôi qua từng ngày. Trong giai đoạn bước ngoặt trọng đại của cuộc đời, số phận trái với ý nguyện mà Đức Chúa Trời đã an bài cho cô cuối cùng đã đến. Cuộc sống gia đình nhỏ mà cô trông mong, một cái giường đơn giản, một cái bàn làm việc nhỏ, một căn phòng đơn giản, sạch sẽ, có chồng, có con, một cuộc sống đơn giản như vậy từ đầu đến cuối lại không thể như ý nguyện. Sau khi kết hôn, vì lý do công việc, chồng cô xa nhà quanh năm, cô và chồng chỉ có thể sống riêng hai nơi. Đối với một người phụ nữ mà nói, cuộc sống như thế sẽ xảy ra cái gì? Bị người ta ức hiếp, bị người ta kỳ thị. Đối với cô, gặp phải hoàn cảnh sống như vậy lại là một sự đả kích trong cuộc sống và trong số phận, đây là điều cô chưa từng nghĩ tới, cũng là điều cô chưa bao giờ muốn nhìn thấy, cũng không sẵn lòng đối mặt. Nhưng hiện tại sự thật hoàn toàn không phù hợp với nguyện vọng và tưởng tượng của cô, những gì cô không muốn nhìn thấy, không muốn trải qua vừa hay đều đến với cô. Chồng cô quanh năm làm việc xa nhà, dù là trong sinh hoạt hay là kinh tế, cô buộc phải độc lập, phải tự ra ngoài kiếm tiền sinh hoạt, trong sinh hoạt cũng không có bất kỳ người nào giúp đỡ, chuyện gì cũng phải dựa vào chính mình. Đối với cô gái ấy mà nói, hoàn cảnh sống như vậy là cô có được một chỗ dựa hay căn bản là không có? (Thưa, không có.) Sau khi kết hôn, nguyện vọng của cô đã được thực hiện hay là đã tan vỡ? (Thưa, tan vỡ.) Rõ ràng là ở giai đoạn quan trọng thứ hai trong cuộc đời, mong muốn của cô lại một lần nữa tan vỡ và cô không có chỗ dựa. Người cô cho rằng có thể dựa vào trong cuộc sống của cô thì lại không ở bên cạnh cô, căn bản không dựa vào được, nghĩa là người mà cô cho là cánh tay, hậu phương, chỗ dựa vững chắc, cô lại không dựa vào được. Chuyện gì cô cũng phải tự mình làm, tự mình xử lý, tự mình đối mặt, lúc khó khăn nhất chỉ có thể lén trốn trong chăn mà khóc, không có ai để có thể giãi bày. Vì thể diện, vì háo thắng, vì lòng tự trọng, cô thường làm ra vẻ rất mạnh mẽ bên ngoài, nhìn như một người phụ nữ mạnh mẽ, thật ra sâu thẳm nội tâm cô lại vô cùng yếu đuối. Cô cần chỗ dựa, cô hy vọng đạt được một chỗ dựa, nhưng nguyện vọng đó đến bây giờ vẫn chưa thể thành hiện thực.
Vài năm sau, cô dẫn theo mấy đứa con còn nhỏ đi khắp nơi thuê phòng trọ để ở, trải qua những ngày tháng không có chỗ ở cố định. Như vậy, yêu cầu cơ bản nhất của cô đối với cuộc sống cũng dần mài mòn từng chút một theo năm tháng trôi qua. Cô vốn chỉ muốn có một gian phòng nhỏ, trong phòng có một cái giường, một cái bàn làm việc nhỏ, rồi có một cái bếp có thể nấu ăn, cả gia đình có thể quây quần trước bàn ăn cơm, nuôi thêm mấy con gà, sống cuộc sống gia đình yên ổn, không cần đại phú đại quý, chỉ cần đơn giản, bình an, sum vầy là đủ rồi. Thế nhưng, đến bây giờ cô chỉ có thể mang theo mấy đứa con nhỏ mà gắng gượng sống qua ngày, cô chẳng những không thể có được chỗ dựa của mình, ngược lại còn phải trở thành chỗ dựa của đàn con nhỏ. Cô cũng từng nghĩ, nếu sống trong nhân thế đau khổ như vậy, vì sao không tìm cách để giải quyết những đau khổ này, ví dụ như xuất gia làm ni cô hoặc là tìm một nơi để tu hành, rời xa hồng trần, rời xa những đau khổ này, không cần dựa vào ai, cũng không cần bị ai dựa vào, bởi vì sống như vậy quá mệt mỏi, quá đau khổ. Nhưng mà, một thứ giúp cô sống tiếp là gì? (Thưa, là con cái.) Đúng vậy. Nếu như không có con cái, có lẽ mỗi ngày trôi qua cô sẽ càng đau khổ hơn. Nhưng sau khi có con, cô có trách nhiệm, cũng trở thành chỗ dựa của con cái. Khi đứa con gọi một tiếng “Mẹ”, cô cảm thấy trọng trách trên vai mình rất lớn, cô không thể vô trách nhiệm như vậy, bản thân không thể dựa vào người khác nhưng có thể trở thành chỗ dựa của người khác, cô coi đây cũng là một niềm vui cuộc sống, là một thái độ sống, một động lực sống. Cứ như vậy, cô lại chịu đựng hơn mười năm vì con cái. Ngày tháng đó có tính là dài hay không? (Thưa, dài.) Tại sao nói là dài? (Thưa, bởi vì cuộc sống của cô gian nan cực khổ, cho nên ngày tháng ấy có vẻ rất dài.) Có sự từng trải đấy, vừa nghe đã biết là lời của người từng trải nói. Cuộc sống gian khổ, khó chịu đựng, nên có vẻ rất dài, mỗi một chuyện trải qua đều là một loại dày vò nơi sâu thẳm nội tâm cô, cho nên cô đếm ngày tháng mà sống, và cuộc sống này thật không dễ chịu đựng. Chờ đến lúc con cái lớn lên thêm một chút, nguyện vọng của cô vẫn không thay đổi, sâu thẳm nội tâm cô vẫn có nguyện vọng như vậy: “Con cái đều lớn rồi, không phải vất vả chăm sóc nữa, nếu như chồng có thể ở bên cạnh, cả nhà có thể sum vầy, vậy cuộc sống tạm bợ này sẽ tốt hơn”. Những tưởng tượng tươi đẹp lại xuất hiện, giống như người ngoại đạo nói, giăng cánh buồm hy vọng cho cuộc sống lên. Buổi tối ngủ không được lại suy nghĩ: “Con cái lớn rồi, nếu như có thể thi đậu đại học, sau này tìm được một công việc tốt, có thể kiếm được tiền, cuộc sống này sẽ dễ chịu, cái ăn, cái mặc, chỗ ở sẽ tốt hơn so với hiện tại. Chồng mình mà trở về thì cuộc sống này lại càng tốt hơn, mình sẽ có chỗ dựa! Trước kia mất đi hai chỗ dựa, bây giờ lại có nhiều chỗ dựa hơn, ông trời đối xử với mình cũng không tệ! Xem ra những ngày tháng tốt đẹp sắp tới rồi”. Cô cho rằng ngày tháng tốt đẹp sắp đến, đây là chuyện tốt hay là chuyện xấu? Không ai biết được. Số phận cả đời của con người như thế nào, phía trước ra sao, không ai biết cả, con người đều thất tha thất thểu như vậy, cứ ôm lấy nguyện vọng tươi đẹp mà sống.
Mười năm trôi qua, người chồng chuyển công tác, cuối cùng cả nhà cũng được đoàn tụ, đây là chuyện tốt. Vậy cuối cùng chồng cô có thể trở thành chỗ dựa cho cô hay không? Có thể chia sẻ một vài nỗi khổ trong cuộc sống của cô hay không? Bởi vì chưa từng sống cùng nhau, chưa từng thắm thiết, nên cô cũng không hiểu gì về chồng. Những ngày tháng tiếp theo, cô và chồng tiếp xúc với nhau trong cuộc sống, hiểu sâu về nhau. Nguyện vọng của cô vẫn không thay đổi, cô hy vọng người này có thể trở thành chỗ dựa của cô, dù xảy ra chuyện gì cũng có thể an ủi cô, có thể khiến cô vơi đi đau khổ, nhưng chuyện vẫn không như ý muốn. Người chồng mà cô chưa từng tiếp xúc sâu sắc này, người đàn ông mà cô hoàn toàn không hiểu này, hoàn toàn không thể trở thành chỗ dựa của cô. Bởi vì năng lực sinh tồn, phẩm chất nhân tính, nhân sinh quan, giá trị quan, thái độ đối đãi với con cái, đối đãi với gia đình, đối đãi với người thân của họ, tất cả đều hoàn toàn không giống nhau. Họ không ngừng tranh cãi, không ngừng so đo với nhau vì một chuyện nào đó. Sâu thẳm nội tâm người phụ nữ này hy vọng mình có thể tiếp tục nhẫn nại, để chồng của cô có thể hiểu được sự lương thiện, nhẫn nại và khó khăn của cô, sau đó có thể bị cô làm cho cảm động, có thể hồi tâm chuyển ý, nhưng nguyện vọng của cô vẫn không thực hiện được. Đối với cô mà nói, sâu thẳm nội tâm cô, người chồng có phải là chỗ dựa của cô hay không? Có thể trở thành chỗ dựa của cô hay không? (Thưa, không thể.) Khi gặp khó khăn, chồng cô chẳng những không an ủi cô hoặc làm cho cô vơi bớt đau khổ, ngược lại còn làm cho cô thêm đau khổ, khiến cô càng thất vọng hơn, càng bất lực hơn. Lúc này, sự lĩnh hội và cảm nhận từ sâu thẳm nội tâm cô đối với cuộc đời là gì? Là thất vọng và đau khổ, khiến trong lòng cô nảy sinh nghi ngờ: “Rốt cuộc có ông trời không? Cả đời này vì sao mình lại sống khổ như vậy? Chẳng phải mình chỉ muốn tìm một chỗ dựa thôi sao? Mình chỉ có chút nguyện vọng như vậy, vì sao sống đến tuổi này vẫn không thể thành hiện thực? Yêu cầu của mình không cao, cũng không có dã tâm gì, mình chỉ muốn khi gặp chuyện sẽ có người có thể cho mình dựa vào một chút, chỉ thế thôi. Vì sao chút nguyện vọng này cũng không thể được thỏa nguyện?”. Cuộc sống như vậy kéo dài mấy năm. Rất hiển nhiên, cuộc sống của gia đình này không hòa thuận cho lắm, thường xuyên cãi vã, con cái sống không vui vẻ, không hạnh phúc, người cha người mẹ trong nhà cũng sống không vui vẻ gì. Trong gia đình này không có sự bình an, vui sướng, ai cũng chỉ có hoảng hốt, thận trọng, lo sợ, và đau khổ, bất an trong sâu thẳm nội tâm.
Vài năm sau, cuối cùng cũng có sự chuyển biến, phúc âm của Đức Chúa Jêsus đã đến với cô. Cô cảm thấy nguyện vọng của mình cuối cùng cũng có thể thành hiện thực: “Mình không cần dựa vào cha, không cần dựa vào chồng, cũng không cần dựa vào bất cứ ai bên cạnh, mình chỉ cần dựa vào Đức Chúa Jêsus là có thể có được bình an, có thể có được một chỗ dựa đích thực, có thể thực sự bình an, vui vẻ hẳn lên, cuộc sống cũng sẽ không khó chịu đựng như cũ”. Sau khi tiếp nhận phúc âm của Đức Chúa Jêsus, người phụ nữ này hạnh phúc hơn rất nhiều, cuộc sống đương nhiên cũng ổn định hơn rất nhiều. Mặc dù thái độ của người chồng đối với cô vẫn không thay đổi, vẫn hà khắc như trước, coi như không thấy, không có bất kỳ sự bận tâm, quan tâm, chăm sóc nào, thậm chí ngay cả sự nhẫn nại, biết ơn, nhường nhịn cũng không có, nhưng bởi vì trong lòng cô có ơn cứu rỗi của Đức Chúa Jêsus nên thái độ của cô đối với tất cả những điều này đã thay đổi. Cô không còn tranh cãi hay nói lý lẽ với chồng nữa, vì cô nhìn thấu rằng tất cả những chuyện này chẳng tranh cãi nổi. Có chuyện gì cô đều thưa với Đức Chúa Jêsus, trong lòng cô rộng rãi hơn nhiều. Như vậy, cuộc sống gia đình cô bề ngoài cũng tương đối ổn định một chút. Nhưng ngày vui chóng tàn, cuộc sống của cô lại có sự chuyển biến. Sau khi tin Đức Chúa Jêsus, cô nhiệt tình rao truyền phúc âm, sống đời sống hội thánh, giúp đỡ anh chị em, nhưng chồng cô không đồng ý, bắt đầu bức ép cô, còn thường dạy dỗ cô: “Cô còn muốn sống cùng nhau không? Nếu thực sự không muốn sống cùng nhau nữa thì chia tay đi!”. Cô đành bất lực, chỉ có thể cầu nguyện Chúa và chịu đựng như vậy. Những ngày tháng đó mặc dù có khó khăn, có đau khổ, nhưng so với lúc trước, vết thương trong tâm hồn cô nhỏ hơn nhiều, nhờ cầu nguyện cô cũng có thể có được một vài sự an ủi. Trong lúc đau khổ cô cầu nguyện Chúa thì tâm hồn cô có chỗ dựa, cũng có được sự thỏa nguyện tạm thời, cảm giác cuộc sống dễ chịu hơn nhiều.
Dần dần, con cái cô cũng trưởng thành. Bởi vì chúng từ nhỏ đã cùng cô sống nương tựa lẫn nhau, tình cảm giữa chúng với cô cũng tốt hơn một chút, người phụ nữ này cảm thấy: “Bây giờ các con đã trưởng thành, mình không dựa vào chồng thì có thể dựa vào con cái”. Về hình thức bên ngoài có vẻ như cô đã dựa vào Đức Chúa Jêsus, đem lòng mình, đem gia đình, thậm chí đem tương lai, tiền đồ của mình đều giao vào tay Đức Chúa Jêsus. Nhưng trên thực tế, đối với người có thể nhìn thấy được, đối với người có quan hệ với mình, sâu thẳm nội tâm cô vẫn ôm một nguyện vọng, hy vọng nguyện vọng này một ngày nào đó có thể thành hiện thực. Bởi vì Đức Chúa Jêsus ở đâu thì người ta không nhìn thấy, người ta nói Đức Chúa Jêsus ở ngay bên cạnh con người, ở trong lòng con người, nhưng cô cảm thấy không sờ được Ngài, không nhìn thấy Ngài, trong lòng cô không vững vàng. Cô cho rằng dựa vào Đức Chúa Jêsus trong những chuyện lớn, những vấn đề lớn là được rồi, nhưng trong cuộc sống thực tế thì phải dựa vào con cái. Nguyện vọng này của cô từ đầu đến cuối không thay đổi, và cô không hề buông bỏ nó. Cô đã tin Đức Chúa Jêsus, vậy tại sao nguyện vọng này vẫn không thay đổi? Chuyện này có nhiều nguyên nhân: một mặt là cô không hiểu lẽ thật, đối với sự tể trị và sắp đặt của Đức Chúa Trời cô không biết cũng không hiểu lắm, đây là nguyên nhân khách quan; nguyên nhân chủ quan chính là con người cô nhu nhược. Mặc dù cô đã tin Đức Chúa Trời, nhưng sau khi trải qua nhiều đau khổ như vậy, cô vẫn không nhìn thấu ý nghĩa của việc tin Đức Chúa Trời, số phận con người, sự sắp đặt của Đức Chúa Trời và cách thức làm việc của Đấng Tạo Hóa. Những chuyện nào cho thấy cô nhìn không thấu? Đầu tiên, cô luôn đem hạnh phúc của mình và sự trông mong trong sâu thẳm nội tâm về cuộc sống tốt đẹp mà gửi gắm lên người khác, hy vọng có thể khiến nguyện vọng của mình thành hiện thực nhờ sự giúp đỡ của họ hoặc vì họ giúp một tay. Đây có phải là một loại quan điểm sai lầm đối với cuộc đời, đối với số phận hay không? (Thưa, phải.) Quan điểm này là sai. Với tư cách là cha mẹ, gửi gắm chút hy vọng lên người con cái, hy vọng con cái sau khi lớn lên có thể hiếu thuận, có thể nuôi dưỡng cha mẹ thì đó có được coi là một loại sai lầm hay không? Không tính là sai lầm, cũng không tính là quá đáng. Vậy vấn đề ở đây là gì? Cô luôn muốn dựa vào con cái, muốn trông cậy vào con cái để sống được cuộc sống tốt đẹp hơn, dựa vào con cái để trải qua nửa đời còn lại của mình, muốn trông cậy vào con cái để có thể hưởng thụ được cái gì đó, quan điểm sai lầm ở đây là gì? Tại sao cô lại có ý nghĩ đó? Nguồn gốc quan điểm này của cô là gì? Con người luôn ước mong quá cao về một cách sống, ước mong quá cao về một tiêu chuẩn sống. Nghĩa là khi còn chưa biết Đức Chúa Trời tiền định cả đời mình như thế nào, không biết số phận của mình như thế nào, thì con người đã hoạch định xong tiêu chuẩn sống của mình phải là hạnh phúc, là cả đời bình an vui vẻ, là đại phú đại quý, là có người có thể giúp đỡ mình, có thể để mình dựa vào. Con người đều đã hoạch định xong mọi nội dung như con đường sống, mục tiêu sống, đích đến cuối cùng của cuộc sống. Ở đây có đức tin vào Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Như thế là không có đức tin. Người phụ nữ này luôn có một loại quan điểm về cuộc sống: “Tôi dựa vào một người nào đó thì cuộc sống của tôi có thể trở nên bình an hơn, vui vẻ hơn, giàu có hơn. Tôi dựa vào ai đó thì cuộc sống của tôi có thể yên ổn hơn, có sự bảo đảm hơn, hạnh phúc hơn”. Quan điểm này có đúng không? (Thưa, không đúng.) Trải nghiệm nhiều năm như vậy, đã đến giai đoạn tin Đức Chúa Jêsus, thế mà cô vẫn không thấy rõ cuộc đời là như thế nào, vẫn có dự định, kế hoạch của bản thân như cũ, vẫn tính toán con đường tương lai của mình, hoạch định cho cuộc sống tương lai của mình. Bây giờ nhìn lại, loại thái độ, loại kế hoạch đối với cuộc sống này là đúng đắn hay không đúng đắn? (Thưa, không đúng đắn.) Tại sao? (Thưa, bởi vì thứ cô mưu cầu chính là lý tưởng, nguyện vọng của chính cô, chứ không phải điều mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người.) Thứ cô mưu cầu và sự tiền định của Đức Chúa Trời không có quan hệ gì với nhau, cô không biết Đức Chúa Trời muốn làm như thế nào, nhưng đã tự quy định bản thân muốn tìm một người để dựa vào trước rồi, giai đoạn này dựa vào người này, giai đoạn tiếp theo dựa vào người kia, dựa tới dựa lui như vậy sẽ không phải dựa vào Đức Chúa Trời nữa, tức là chỉ dựa vào con người chứ không dựa vào Đức Chúa Trời. Cô luôn có một nguyện vọng như vậy, có một kế hoạch như vậy, vậy trong lòng cô có Đức Chúa Trời hay không? (Thưa, không có.) Cho nên, có thể nói, đau khổ đến từ mọi sự vùng vẫy của cô là do cái gì gây ra? (Thưa, là do nguyện vọng của cô gây ra.) Quả thật là thế, vậy nguyện vọng của cô nảy sinh như thế nào? (Thưa, do không tin tưởng sự tể trị, an bài và sắp đặt của Đức Chúa Trời.) Đúng vậy. Cô không nhận thức được số phận của con người đến như thế nào, cũng không nhận thức được sự tể trị của Đức Chúa Trời là như thế nào, đây là căn nguyên của vấn đề.
Chúng ta lại tiếp tục kể chuyện. Con cái của người phụ nữ này sau khi trưởng thành, người thì đi làm, người thì lập gia đình, chắc chắn đều phải rời xa cha mẹ và sống độc lập, không thể thường xuyên chung sống với cha mẹ nữa. Như vậy, vấn đề tiếp theo mà người phụ nữ này phải đối mặt là gì? Là nguyện vọng muốn dựa vào con cái của cô dường như lại phải đối mặt với sự tan vỡ, lại là một hồi bi kịch bất hạnh, đối với cô mà nói lại là một sự đả kích trong trải nghiệm cuộc đời. Bởi vì đủ loại nguyên nhân mà con cái không thể ở bên cạnh sống cùng cô, cũng không thể thường xuyên thăm hỏi cô, chăm sóc cô, cho nên cô hy vọng con cái có thể ở bên cạnh hiếu thuận với cô, chăm sóc cô, muốn dựa vào con cái để mình thoải mái hơn một chút, cuộc sống dễ chịu hơn và hạnh phúc hơn một chút, thế mà nguyện vọng này ngày càng xa vời với cô. Như thế, sự bận lòng, lo âu và nhớ nhung của cô đối với con cái ngày càng trở nên mãnh liệt, đây có phải là một loại đau khổ khác hay không? Tuổi tác ngày càng cao, tích lũy từng chút từng chút một theo năm tháng, nỗi khổ của cô ngày càng sâu sắc, sự nhớ nhung đối với con cái cũng ngày càng sâu đậm. Rất nhiều năm trôi qua, tuy rằng đối tượng mà người phụ nữ này muốn dựa vào ở mỗi một giai đoạn không giống nhau, nhưng những người này đều rời cô mà đi một cách đúng hạn, khiến nguyện vọng hoặc ảo tưởng của cô hoàn toàn tan vỡ, khiến sâu thẳm nội tâm cô vô cùng giày vò, vô cùng đau khổ. Điều đó mang lại gì cho cô? Là suy tư về cuộc đời? Hay là một loại suy tư về cách Đấng Tạo Hóa an bài số phận của nhân loại? Nếu theo tư duy bình thường của con người, những người đã nghe một vài bài giảng và hiểu một vài lẽ thật, thì nên có một vài nhận thức đối với Đấng Tạo Hóa, đối với cuộc đời, đối với số phận của con người, nhưng bởi vì nhiều loại nguyên nhân, bởi vì vấn đề của bản thân nhân vật chính trong câu chuyện, đến bây giờ cô vẫn không thể hiểu mỗi một giai đoạn cuộc đời cô đã trải qua, đã gặp phải, cũng không thể hiểu vấn đề tồn tại của bản thân. Cô không biết là chuyện gì đã xảy ra, nhưng sâu thẳm nội tâm cô vẫn trông mong có thể có một chỗ dựa. Vậy rốt cuộc ai là chỗ dựa của cô? Đức Chúa Trời là chỗ dựa của con người, đúng là vậy, nhưng Ngài không phải chỉ để cho con người dựa vào, không phải chỉ như vậy. Quan trọng hơn, là để cho con người biết nên chung sống với Đấng Tạo Hóa như thế nào, nên nhận thức Đức Chúa Trời như thế nào, thuận phục Ngài ra sao, chứ không phải chỉ có mối quan hệ dựa vào và được dựa vào.
Sau khi người phụ nữ này mất đi chỗ dựa vào con cái thì đến lúc về già, bà lại đem hy vọng chuyển tới người chồng già. Cọng rơm cứu mạng duy nhất của bà chính là người chồng già của bà. Bà phải dựa vào người chồng già trong chuyện cơm ăn áo mặc, bà muốn sống thì phải dựa vào người chồng già, bà phải tìm mọi cách để cho ông ấy sống lâu thêm vài năm, như vậy bản thân bà mới có thể được nhờ, đây chính là chỗ dựa của bà. Sống đến tuổi này, bà lão cao tuổi này đã đầu đầy tóc bạc, mặt đầy nếp nhăn, răng trong miệng cũng gần rụng hết, tuy rằng dung mạo của bà đã thay đổi, nhưng thứ không thay đổi chính là ở mỗi một giai đoạn cuộc đời bà đều vấp phải trắc trở, tuy đã nhiều lần vấp phải trắc trở nhưng nguyện vọng của bà trước sau như một, không hề thay đổi – là đạt được một chỗ dựa. Ngoài ra bà còn có một ảo tưởng về những lời hứa mà Đức Chúa Trời đã ban cho con người và một vài ảo tưởng về bản thân, về nhân loại, về số phận và tiền đồ. Trong sâu thẳm nội tâm bà, những ảo tưởng này tuy rằng ngày càng mơ hồ, ngày càng xa vời, nhưng có lẽ sâu thẳm trong nội tâm bà vẫn ôm một tia hy vọng: “Nếu như trong những năm sinh thời mình có thể cùng người mà mình có thể dựa vào sống cuộc sống hạnh phúc, hoặc là có thể nhìn thấy ngày công tác của Đức Chúa Trời kết thúc trong vinh quang thì cả đời này coi như không sống uổng phí”. Cuộc đời của người phụ nữ này là như vậy. Câu chuyện kết thúc rồi. Tựa đề của câu chuyện này nên là gì? (Thưa, nên là “Ai là chỗ dựa của tôi”.) Cái tựa này rất hay, khơi gợi người ta suy nghĩ sâu xa về nó.
Trở lại chủ đề thông công của chúng ta, câu chuyện này có liên quan gì đến quan niệm của con người về công tác của Đức Chúa Trời? Phần nào liên quan đến quan niệm của con người về công tác của Đức Chúa Trời? Liên quan đến những quan niệm nào? Các ngươi nói thử xem. (Thưa, con người cảm thấy Đức Chúa Trời nên hoàn thành theo những gì con người trông mong và lên kế hoạch, bên trong con người có những quan niệm như vậy.) Trong quan niệm của con người cho rằng chỉ cần đó là nguyện vọng tốt đẹp tích cực và tiến thủ thì Đấng Tạo Hóa nên ban và hoàn thành cho họ, không nên tước đoạt quyền hướng tới cuộc sống tốt đẹp của con người, đó là một loại quan niệm. Nhưng Đấng Tạo Hóa có hoàn thành dựa theo nguyện vọng, hy vọng và tưởng tượng của con người không? (Thưa, không.) Vậy Đấng Tạo Hóa làm như thế nào? Cho dù ngươi là ai, cho dù ngươi lên kế hoạch như thế nào, ngươi tưởng tượng hoàn mỹ, vẻ vang đến mức nào, phù hợp với cuộc sống hiện thực của ngươi đến mức nào thì Đức Chúa Trời đều không nhìn, cũng không để ý đến, thay vào đó Đức Chúa Trời dựa theo phương thức và quy luật mà Ngài đã tiền định xong xuôi để hoàn thành, sắp đặt và an bài, đây là tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Có những người cho rằng: “Trong cuộc đời tôi đã trải qua vô số gian khổ, chẳng phải tôi có tư cách để sống những ngày tháng tốt đẹp sao? Đến trước mặt Đấng Tạo Hóa, chẳng phải tôi có tư cách để yêu cầu và hướng tới cuộc sống tốt đẹp, đích đến tốt đẹp sao?”. Đây có phải là quan niệm của con người không? Đối với Đức Chúa Trời, những quan niệm này của con người, những ý nghĩ mà con người nảy sinh này là gì? Là những yêu cầu vô lý. Những yêu cầu vô lý này nảy sinh như thế nào? (Thưa, do con người không nhận thức được thẩm quyền của Đức Chúa Trời.) Đó là nguyên nhân khách quan. Còn nguyên nhân chủ quan là gì? Là con người có tâm tính phản nghịch, không sẵn lòng tìm kiếm lẽ thật, không thuận phục sự tể trị và an bài của Đấng Tạo Hóa. Cuộc đời mà Đấng Tạo Hóa an bài cho hầu hết mọi người là gian khổ, hay là hạnh phúc, vô âu vô lo? (Thưa, là gian khổ.) Cuộc đời của hầu hết mọi người là gian khổ, quá nhiều bấp bênh, quá nhiều đau khổ. Vậy mục đích, ý nghĩa của việc Đấng Tạo Hóa an bài những gian khổ này cho cuộc đời con người là gì? Một mặt là để cho con người thể nghiệm nhận thức sự tể trị, an bài và thẩm quyền của Đức Chúa Trời; mặt khác, chủ yếu là để cho con người trải nghiệm cuộc đời này rốt cuộc là như thế nào, từ đó nhận thức được rằng số phận của con người đều nằm trong tay Đức Chúa Trời nắm giữ, chứ không phải một cá nhân nào đó có thể quyết định, cũng không phải thay đổi dựa theo sự thay đổi của ý nguyện chủ quan của con người. Cho dù Đấng Tạo Hóa làm gì, Ngài an bài cho con người một cuộc đời như thế nào, số phận như thế nào, Ngài khiến con người nghĩ lại về cuộc đời, nghĩ lại về số phận của con người rốt cuộc là gì. Trong lúc con người nghĩ lại tất cả những chuyện này, Ngài cũng khiến con người đến trước mặt Ngài. Khi Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật và nói cho con người biết tất cả những chuyện này là gì, Ngài khiến con người có thể đến trước mặt Ngài, tiếp nhận và trải nghiệm lời Ngài phán, hiểu tất cả những điều Ngài nói này rốt cuộc có quan hệ gì với tất cả những chuyện mà con người trải qua trong cuộc sống thực tế. Ngài khiến con người xác minh tính thực tế, tính chính xác, tính chân thực của những lẽ thật này, rồi sau đó họ có được những lẽ thật này, thừa nhận rằng nhân loại đang nằm trong tay Đấng Tạo Hóa, số phận của nhân loại là do Đức Chúa Trời tể trị và an bài. Sau khi hiểu tất cả những chuyện này, con người sẽ không có bất kỳ kế hoạch nào đối với cuộc đời mình mà không phù hợp với thực tế, sẽ không có một vài kế hoạch trái với ý muốn của Đấng Tạo Hóa, trái với sự tiền định và an bài của Đấng Tạo Hóa. Thay vào đó, họ ngày càng có sự phán đoán, nhận thức hoặc lĩnh hội, kế hoạch chính xác đối với việc họ nên sống cuộc đời của mình như thế nào, nên đi con đường ra sao. Đây chính là mục đích và ý nghĩa của việc Đấng Tạo Hóa sắp đặt nhiều gian khổ cho cuộc đời con người.
Trở lại với câu chuyện, sau khi nhân vật chính của câu chuyện đã trải qua rất nhiều gian khổ, cô nhận thức như thế nào về lý do tại sao cả đời mình chịu khổ chịu nạn, nhận thức như thế nào về sự sắp đặt và an bài như vậy của Đấng Tạo Hóa? Liệu các ngươi có thể nhìn ra được điều đó từ trong câu chuyện hay không? Cô có đạt được những nhận thức này không? (Thưa, không.) Tại sao không đạt được? (Thưa, bởi vì ở mỗi giai đoạn, mỗi bước ngoặt của cuộc đời cô, khi nguyện vọng của cô tan vỡ hết lần này đến lần khác, cô không nghĩ lại chuyện đã qua, cũng không đúc kết ra tại sao giấc mơ cả đời mình theo đuổi không bao giờ thành hiện thực. Nếu cô có thể nghĩ lại, có thể tìm kiếm lẽ thật thì sẽ có được sự thay đổi, nhưng cô không nhận thức được sự tể trị của Đấng Tạo Hóa, và chỉ có thể dựa vào nghị lực mà liên tục kiên trì với giấc mơ của mình, mong chờ có một ngày số phận của mình đột nhiên được thay đổi, đây là chuyện không thể nào. Trong quá trình này, cô vẫn luôn chống cự, vùng vẫy, cho nên cô vô cùng đau khổ.) Chuyện chính là như vậy. Bởi vì cô đã chọn một con đường sai lầm, nhưng chính cô cũng không biết, lại còn coi nó là một con đường đúng đắn, coi là sự mưu cầu và nguyện vọng chính đáng của mình, sau đó cố gắng, nỗ lực, vùng vẫy theo hướng đó. Cô chưa bao giờ hoài nghi nguyện vọng này của mình rốt cuộc có thực tế hay không, cũng chưa bao giờ hoài nghi tính đúng đắn của nguyện vọng này, mà cứ mưu cầu theo phương hướng đó một cách cố chấp như vậy, chưa bao giờ thay đổi, cũng không biết quay đầu. Vậy mục đích của việc Đức Chúa Trời ban cho cô quá nhiều gian khổ như vậy trong cuộc đời là gì? Đức Chúa Trời làm tất cả những chuyện này đều không phải ngẫu nhiên. Trong cuộc đời mỗi người, Đức Chúa Trời an bài cho con người một vài trải nghiệm khác thường và đau khổ. Thực ra là Đấng Tạo Hóa đang dùng phương thức này, dùng những sự thật này để nói cho ngươi biết rằng ngươi không nên đi tiếp như vậy, con đường này là vô nghĩa, không phải con đường ngươi nên đi. Vô hình trung ngươi nhìn thấy được gì? Đó là Đức Chúa Trời đang lựa chọn con đường cho con người, cũng là Đức Chúa Trời dùng cách của Ngài để đối thoại với con người, dùng cách của Ngài để cứu rỗi con người, để con người đi ra khỏi các quan niệm sai lầm, các phương thức cố chấp, Đức Chúa Trời cũng đang dùng phương thức này nói cho ngươi biết rằng con đường ngươi lựa chọn là một vũng bùn, là một hố lửa, là con đường không lối về, ngươi không nên đi tiếp như vậy. Nếu đi tiếp như vậy, ngươi sẽ tiếp tục đau khổ, đây không phải là con đường cuộc đời đúng đắn, không phải con đường ngươi nên đi, cũng không phải con đường mà Đức Chúa Trời tiền định sẵn cho ngươi. Nếu ngươi là một người sáng suốt, trải qua một lần gian khổ, ngươi sẽ nghĩ lại: “Tại sao lại trải qua gian khổ như vậy? Tại sao lại vấp phải trắc trở? Con đường này chẳng lẽ không thích hợp với mình sao? Vậy mình nên đi con đường như thế nào, nên có phương hướng cuộc đời như thế nào?”. Trong khi ngươi nghĩ lại, Đức Chúa Trời sẽ cho ngươi một vài gợi ý, dẫn dắt hoặc chỉ cho ngươi phương hướng đúng đắn nên đi của bước tiếp theo. Đức Chúa Trời sẽ không ngừng dẫn dắt ngươi, để ngươi có thể nắm bắt được một cách thực tế hơn và chính xác hơn con đường phía trước mà Đức Chúa Trời đã lên kế hoạch sẵn cho ngươi trong cuộc sống thực tế. Vậy nhân vật chính của câu chuyện vừa kể có làm được điều này không? (Thưa, không được, cô chưa bao giờ nghĩ lại chuyện đã qua.) Đây là một loại tâm tính gì? (Thưa, là cương ngạnh.) Là cương ngạnh, điều này quá phiền phức rồi. Từ tuổi vị thành niên mãi cho đến khi tóc bạc phơ, nguyện vọng có được một chỗ dựa của cô từ đầu đến cuối không thay đổi. Cho dù là trong tình huống cô chưa nghe phúc âm của Đức Chúa Trời và chưa hiểu biết được Đấng Tạo Hóa tạo ra trời đất vạn vật như thế nào, hay là lúc phúc âm của Đức Chúa Trời đến với cô, Ngài nói cho cô biết tất cả những chân tướng này, nguyện vọng này của cô từ đầu đến cuối vẫn không thay đổi, đây là chỗ đáng buồn nhất. Con người có tư tưởng, có tâm tư, vậy mục đích của việc Đức Chúa Trời tạo ra tất cả những thứ này là vì điều gì? Là để con người có thể cảm nhận, có thể lĩnh hội con người, sự việc, sự vật và hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời an bài cho. Là một con người bình thường có lý trí, có lương tâm, khi mỗi một loài người thọ tạo dụng tâm thể nghiệm và lĩnh hội mọi sự mà Đức Chúa Trời sắp đặt, thì dù ít hay nhiều, sâu hay nông, họ đều hiểu được ý của Đấng Tạo Hóa, đây là một cách thức làm việc của Đức Chúa Trời, rất thực tế và rất chân thực. Nhưng bởi vì con người quá kiêu ngạo, quá cương ngạnh, không dễ dàng tiếp nhận lẽ thật, rất khó thể nghiệm và lĩnh hội được tâm ý của Đấng Tạo Hóa. Sự cương ngạnh của con người biểu hiện ở chỗ nào? Đó là cho dù Đức Chúa Trời nói gì, làm gì, con người vẫn bám giữ những thứ của riêng mình, và tâm thái của con người là: “Tôi phải lên kế hoạch cho cuộc đời của mình, tôi có tư tưởng, có đầu óc, tôi có văn hóa, tôi có thể kiểm soát cuộc sống của tôi. Nguồn gốc của mọi chuyện trong cuộc sống của tôi thì tự tôi có thể nhìn thấy, tôi hoàn toàn có thể sắp đặt mọi thứ, vì vậy tôi có thể tự lên kế hoạch cho hạnh phúc của mình, cho tương lai và tiền đồ của chính mình”. Khi vấp phải trắc trở, họ nói: “Lần này thất bại thì lần sau tôi sẽ thử lại”. Họ cho rằng con người nên sống như vậy, con người nếu như không có lòng cạnh tranh, háo thắng thì đời này sống quá hèn nhát, quá nhu nhược. Căn nguyên khiến họ kiên trì như vậy là cái gì? Lý do là gì? Chính là vì họ cho rằng nhất định phải làm kẻ mạnh, không thể làm kẻ yếu, không thể bị cuộc sống đè bẹp, càng không thể để cho người khác xem thường, con người nên sống độc lập, nên cạnh tranh, háo thắng, nên có ý chí, để cho người khác coi trọng mình. Những tâm tính này, những tâm tư này, những tư tưởng này nắm thế chủ đạo trong hành vi của họ, khiến họ hết lần này đến lần khác vẫn chọn một cách như cũ khi đối mặt với những khó khăn, khốn cảnh hoặc đau khổ mà Đức Chúa Trời sắp đặt cho họ: kiên trì với ý nghĩ của mình, không được quay đầu lại, những gì họ cho là tốt, là đúng, là có lợi cho mình thì nhất định phải kiên trì đến cùng, phải làm một người cạnh tranh, háo thắng. Chính loại tâm tính cương ngạnh này dẫn đến việc họ đưa ra rất nhiều phán đoán ngu muội, không phù hợp thực tế, nảy sinh rất nhiều nhận thức và lĩnh hội không phù hợp với thực tế.
Vừa rồi chúng ta đã nói đến một phương diện tâm tính của con người, sự cương ngạnh. Vì sự cương ngạnh đó của con người mà khi đối mặt với hoàn cảnh đau khổ và khốn cảnh mà Đấng Tạo Hóa sắp đặt, thì thái độ của con người không phải là thuận phục, mà là kiên trì với những gì có lợi cho mình, không vứt bỏ. Đối với hành vi như vậy của con người, Đức Chúa Trời đã làm như thế nào? Công tác của Đức Chúa Trời sẽ không thay đổi theo ý chí của con người, vậy Đức Chúa Trời đối đãi với những cách làm này của con người như thế nào? Chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ không nói rằng: “Lần này ngươi thất bại thì ngươi xong rồi, người như ngươi chẳng ra gì, Ta không cần ngươi nữa”. Đức Chúa Trời không vứt bỏ con người, mà Ngài sẽ tiếp tục dùng cùng một cách thức, sắp đặt hoàn cảnh, con người, sự việc, sự vật khác nhau để con người có thể trải qua những đau khổ giống nhau, đối mặt với những khốn cảnh giống nhau, vậy mục đích của việc này là gì? (Thưa, là để khiến cho con người tỉnh ngộ.) Là để khiến cho con người có thể nghĩ lại, tỉnh ngộ, có thể vứt bỏ quan điểm cố chấp của mình. Đức Chúa Trời hết lần này đến lần khác dùng cách thức đặc biệt của mình để đối thoại và sống chung với nhân loại như thế. Cuối cùng, cách thức làm việc này của Đức Chúa Trời cần đạt được kết quả gì? Ngài dẫn dắt con người, khiến cho con người vượt qua những khốn cảnh, đau khổ khác nhau trong cuộc đời, thậm chí là những cảnh ngộ như bệnh tật, gia đình bất hạnh. Mục đích của việc khiến con người trải qua những gian khổ này chính là để cho con người không ngừng nghĩ lại, không ngừng nhận thức trong tâm hồn, và để con người chứng thực trong sâu thẳm tâm hồn rằng: “Đây có phải là sự an bài của ông trời hay không? Mình nên đi con đường sau này như thế nào? Có phải nên chuyển hướng rồi không? Có phải nên tìm kiếm con đường lẽ thật hay không? Có phải nên thay đổi cách sống không?”. Đức Chúa Trời khiến cho con người trải qua các loại đau khổ, hoạn nạn, các loại bất hạnh, khốn cảnh, sau đó khiến sâu thẳm nội tâm con người có được sự chứng thực rằng: số phận của con người có một Đấng tể trị đang tể trị, con người không thể tùy hứng, không thể liều lĩnh, cố chấp, mà phải học cách thuận phục, thuận phục hoàn cảnh, thuận phục số phận, thuận phục tất cả những chuyện xảy ra quanh mình. Trước khi ngươi vẫn chưa được nghe lời nói rõ ràng của Đức Chúa Trời, thì Ngài đã dùng những cách thức và sự thật này để cho ngươi trải nghiệm đủ loại hoàn cảnh, con người, sự việc, sự vật, để sâu thẳm nội tâm ngươi không ngừng chứng thực rằng số phận của con người là do ông trời an bài, không con người nào có thể tể trị, con người không tể trị được số phận của mình. Sâu thẳm nội tâm ngươi không ngừng có nhận thức hoặc tiếng hô hào như vậy, cũng không ngừng chứng thực rằng tất cả những gì ngươi trải qua không phải do người nào tạo ra cho ngươi, cũng không phải ngẫu nhiên phát sinh, càng không phải do nguyên nhân khách quan, hoàn cảnh khách quan gây nên, mà là Đức Chúa Trời đang tể trị hết thảy một cách vô hình. Chẳng ai tình cờ gặp phải một người khác và xảy ra chuyện hay là gặp một hoàn cảnh khiến cuộc đời của họ có chút thay đổi, cũng không ai tình cờ mắc phải một căn bệnh và sau đó có được phúc lành lớn. Đó đều là Đức Chúa Trời đang dùng cách thức đặc biệt để nói với mỗi một người rằng: Đức Chúa Trời đang tể trị số phận của con người, Ngài đang chăm sóc, dẫn dắt mỗi một ngày của con người, dẫn dắt mỗi người sống qua mỗi ngày, sống qua cuộc đời mỗi người. Ngoại trừ khiến cho người ta biết Đức Chúa Trời tể trị số phận của nhân loại, tể trị toàn bộ những gì liên quan đến cuộc sống, đích đến và tất cả mọi sự của nhân loại ra, Đức Chúa Trời còn muốn hoàn thành điều gì nữa? Đó là làm cho một số quan niệm, tưởng tượng và yêu cầu không phù hợp với thực tế của con người đối với Đức Chúa Trời, đối với Đấng Tạo Hóa dần dần phai nhạt, biến mất, và bị bỏ đi, sau đó từng bước đạt đến làm cho con người nhận rõ, hiểu rõ Đấng Tạo Hóa có những phương thức gì để dẫn dắt nhân loại. Đấng Tạo Hóa dùng những cách thức nào để an bài số phận cả đời của nhân loại. Từ những chuyện này, con người có thể thấy được Đức Chúa Trời có tâm tính, thấy được Ngài rất sống động. Ngài không phải là một pho tượng đất sét, không phải là một người máy, cũng không phải sinh vật không có sinh mệnh mà con người tưởng tượng ra. Thay vào đó, Ngài có sinh mệnh, có tâm tính. Một mặt là khiến cho con người nhận thức được cách thức làm việc của Đấng Tạo Hóa, buông bỏ đủ loại quan niệm, tưởng tượng của con người, buông bỏ một vài suy luận, lô-gic rỗng tuếch không phù hợp với thực tế. Tóm lại chính là để con người buông bỏ tất cả quan niệm và tưởng tượng rỗng tuếch về công tác của Đức Chúa Trời. Mặt khác, sau khi buông bỏ những quan niệm và tưởng tượng này, họ có thể tiếp nhận, thuận phục công tác và sự tể trị của Đức Chúa Trời. Đây chỉ là một phương diện kết quả nhỏ, còn có một phương diện kết quả lớn nhất và sâu sắc nhất mà các ngươi chưa thấy, kết quả đó là gì? Chính là Đức Chúa Trời sẽ dùng những cách thức này để nói cho con người biết, mỗi một việc Ngài làm, mỗi một chuyện Ngài hoàn thành, thì Ngài làm trên con người một cách vô cùng thực tế, vô cùng chân thực. Sau khi con người hiểu được những điều này, họ sẽ thoát khỏi những thứ rỗng tuếch, hư vô mờ mịt, họ nghe lời và thuận phục sự an bài của Đấng Tạo Hóa một cách thực tế, sau đó đối mặt với mọi sự mà Đấng Tạo Hóa sắp đặt trong cuộc sống thực tế một cách thực tế, chứ không dùng một vài lý luận rỗng tuếch hoặc quan niệm tôn giáo, tri thức thần học để tưởng tượng về Đấng Tạo Hóa hoặc là để xử lý một vài chuyện trong cuộc sống. Đây là kết quả mà Đức Chúa Trời muốn nhìn thấy và là những gì Ngài muốn làm trên con người. Vì vậy, ở giai đoạn đầu tiên, trước khi ngươi vẫn chưa nghe thấy tiếng nói của Đấng Tạo Hóa và chưa hiểu lời nói rõ ràng của Ngài về các lẽ thật, thì cách Đức Chúa Trời làm việc trên con người là an bài các hoàn cảnh khác nhau để ngươi trải nghiệm và thể nghiệm. Sau khi ngươi có một vài sự chứng thực, sau khi ngươi có những cảm giác, sự cảm động và lĩnh hội về những điều này trong sâu thẳm tâm hồn ngươi, Đức Chúa Trời sẽ dùng lời nói rõ ràng để nói cho ngươi biết cuộc đời là như thế nào, Đức Chúa Trời là như thế nào, con người xuất hiện ra sao, và con người nên đi con đường như thế nào. Như thế, trên cơ sở tin rằng con người đến từ Đức Chúa Trời, do Đức Chúa Trời tạo ra, tin rằng trong trời đất vạn vật có một Đấng tể trị, con người lại đi theo con đường tin Đức Chúa Trời, lại tiếp nhận hình phạt và sự phán xét của Đức Chúa Trời, tiếp nhận sự cứu rỗi, hoàn thiện của Ngài, thì kết quả này lại càng tốt hơn. Hiện tại, tất cả những người tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời là người nào? Ít nhất họ thừa nhận có Đức Chúa Trời, tin rằng toàn bộ thế giới vũ trụ có sự tể trị của Đức Chúa Trời, ngoài ra họ cũng tin rằng số phận, tin rằng cả cuộc đời con người đều do Đức Chúa Trời tiền định, thậm chí tin tưởng sự tồn tại của cõi thuộc linh, sự tồn tại của địa ngục thiên đàng, tin rằng số phận của con người đều có vận mệnh. Trong số những người này, Đức Chúa Trời đã tuyển chọn dân được Ngài chọn, những người yêu mến lẽ thật và có thể tiếp nhận lẽ thật. Họ có thể hiểu được tiếng của Đức Chúa Trời, có thể tiếp nhận công tác của Ngài. Đó là một cách thức, một nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời.
Vừa rồi chúng ta đã nói về chuyện Đức Chúa Trời làm việc như thế nào trên con người, cách thức làm việc của Đức Chúa Trời là gì. Chúng ta chỉ đề cập đến những chuyện này, chứ không nói cái nào là quan niệm của con người, cái nào là yêu cầu của con người đối với Đức Chúa Trời, nên bây giờ sẽ thông công vấn đề về phương diện này. Nếu ở đây đã đề cập tới việc con người có một vài ý nghĩ, nhận thức rỗng tuếch và mơ hồ đối với công tác của Đức Chúa Trời, vậy thì chúng ta sẽ tìm một vài ví dụ để đối chứng chuyện này, sẽ nói một chút về những điều tích cực và những điều tiêu cực. Trên cơ sở này, có phải con người sẽ có thể biết tưởng tượng nào là tưởng tượng khá rỗng tuếch, khá mơ hồ và là quan niệm đối với công tác của Đức Chúa Trời hay không? Từ câu chuyện kể trước đó, nhân vật chính của câu chuyện đã trải qua nhiều trải nghiệm đau khổ trong cuộc đời, sau mỗi một trải nghiệm đau khổ, Đức Chúa Trời dùng cách thức của Ngài mà tiếp tục an bài và sắp đặt số phận của cô, dẫn dắt cô đi con đường phía trước. Tuy rằng cô không hiểu, không biết, cũng không nghĩ lại, nhưng Đức Chúa Trời vẫn cứ làm như vậy, trước sau như một. Ở giai đoạn này, những gì cô thể hiện có phải là cô có một vài ý nghĩ đối với cách thức làm việc của Đấng Tạo Hóa hay không? Có thể nói những ý nghĩ này là một loại quan niệm hay không? Loại quan niệm này, những ý nghĩ này rốt cuộc là gì? Đầu tiên, từ bản thân nhân vật chính này mà nói, cô có một loại nguyện vọng, đó là cả đời này không cầu đại phú đại quý, chỉ cần có một chỗ dựa là được. Thông qua mổ xẻ và phân định, loại nguyện vọng này là không đúng, một mặt là trái với số phận mà Đức Chúa Trời sắp đặt và an bài cho con người, mặt khác nó cũng không thực tế. Vậy Đức Chúa Trời có định nghĩa hay câu nói gì về nguyện vọng này của cô hay không? Nếu theo tưởng tượng của con người, thì việc Đức Chúa Trời khiến cho người ta hiểu được chút đạo lý chẳng phải là quá dễ dàng hay sao? Ngài khiến cho họ hiểu thì không phải là họ sẽ hiểu sao? Người phụ nữ này có ý nghĩ như thế, vậy Đức Chúa Trời có khiến cô không có ý nghĩ này nữa hoặc là bắt cô thay đổi ý nghĩ này hay không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời không làm như thế. Vậy ý nghĩ này của con người có phải là một loại quan niệm hay không? Nó có siêu nhiên không? Nó có rỗng tuếch không? Con người nảy sinh ý nghĩ này là một hiện tượng tự nhiên. Tại sao lại nói là hiện tượng tự nhiên? Đức Chúa Trời tạo ra cho con người ý chí tự do, con người có bộ não, có tư tưởng, có tâm tư. Sau khi trải qua việc bị Sa-tan làm bại hoại, con người nghe quen tai, nhìn quen mắt ở trong thế giới, sự giáo dục của cha mẹ, sự hun đúc của gia đình và sự giáo dục của xã hội sẽ sản sinh rất nhiều thứ trong tư tưởng con người, những thứ này do lòng người sinh ra, đều là tự nhiên sinh sôi ra. Những thứ tự nhiên sinh sôi trong con người này hình thành như thế nào? Đầu tiên, họ phải có năng lực suy nghĩ về vấn đề, họ có thể nảy sinh ra những thứ này thì phải có nền tảng đó. Sau đó, thông qua sự hun đúc của hoàn cảnh chung như sự giáo dục của gia đình, của xã hội, lại có sự xúi giục của tâm tính bại hoại, dã tâm và dục vọng, mà tư tưởng này dần dần thành hình. Đối với loại tư tưởng hoặc ý nghĩ đã thành hình này, bất kể là phù hợp với thực tế hay là rỗng tuếch, hay là như thế nào đi nữa, chúng ta trước tiên không xác định tính chất, mà sẽ nói xem Đức Chúa Trời sẽ xử lý loại ý nghĩ này của họ như thế nào, Ngài có lên án hay không? Ngài không lên án. Vậy Đức Chúa Trời đối đãi với chuyện này như thế nào? Ngài không xoá bỏ ý nghĩ đó. Con người tồn tại quan niệm và tưởng tượng cho rằng Đức Chúa Trời chỉ cần dùng bàn tay to lớn, vô hình nhẹ nhàng chạm một cái thì tư tưởng của con người sẽ thay đổi, quan niệm này có phải mơ hồ, siêu nhiên, rỗng tuếch hay không? (Thưa, phải.) Đó là một loại quan niệm của con người về công tác của Đức Chúa Trời. Mặc dù ngoài miệng con người không nói, nhưng trong sâu thẳm nội tâm con người thường có một số ảo tưởng về công tác của Đức Chúa Trời, về cách thức công tác của Ngài. Con người tưởng tượng Đấng Tạo Hóa nhẹ nhàng đến bên cạnh con người, sau đó tay vừa vung lên, thổi một hơi hoặc là ý niệm vừa xoay chuyển thì những thứ tiêu cực bên trong con người sẽ lập tức biến mất, tựa như cơn gió lớn thổi bay đám mây một cách im hơi lặng tiếng. Đức Chúa Trời đối đãi với những tư tưởng này của con người và những thứ nảy sinh trong tâm tư con người như thế nào? Đức Chúa Trời không giải quyết bằng những cách thức siêu nhiên và rỗng tuếch, mà bằng cách sắp đặt hoàn cảnh cho con người. Ngài sắp đặt dạng hoàn cảnh nào? Chuyện này cũng không phải là rỗng tuếch, Đức Chúa Trời không làm một chuyện siêu nhiên, phá vỡ tất cả những quy luật này, thay vào đó, Ngài sắp đặt một hoàn cảnh để buộc họ hiểu chuyện này, để họ không ngừng nghĩ lại. Sau đó, Đức Chúa Trời lại dựa vào các loại con người, sự việc, sự vật để giảng giải cho họ, thì trong lòng họ sẽ hiểu được. Đức Chúa Trời không thay đổi số phận của họ, Ngài chỉ thêm vào số phận của họ một vài sự việc xen giữa nho nhỏ mà thôi, từ đó khiến cho họ hiểu những chuyện này. Quan niệm của con người đều là siêu nhiên, rỗng tuếch, mơ hồ, không phù hợp với thực tế, và thoát ly hiện thực. Ví dụ, người ta đói và muốn ăn cơm, thì có người nói: “Đức Chúa Trời là toàn năng, Ngài thổi một hơi là tôi no rồi, còn cần tôi nấu cơm sao? Nếu Đức Chúa Trời làm chút phép lạ để người ta không bị đói thì thật tốt biết bao”. Đây có phải là phi thực tế không? (Thưa, phải.) Nếu ngươi thưa với Đức Chúa Trời rằng ngươi đói, Ngài sẽ nói gì? Ngài sẽ bảo ngươi đi tìm thức ăn và nấu ăn. Nếu như ngươi nói không có đồ ăn, cũng không biết nấu ăn, vậy Đức Chúa Trời sẽ làm như thế nào? Ngài sẽ bảo ngươi học nấu ăn. Đây là một mặt thực tế trong công tác của Đức Chúa Trời. Khi nào gặp phải chuyện mình nhìn không thấu, các ngươi không còn cầu nguyện một cách rỗng tuếch, không còn cây ngay không sợ chết đứng mà dựa vào Đức Chúa Trời một cách mơ hồ, cũng không còn gửi gắm hy vọng vào những quan niệm và tưởng tượng về Đức Chúa Trời nữa, thì khi đó ngươi sẽ biết mình nên làm gì, bổn phận của mình là gì, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình là gì.
Vừa rồi chúng ta đã nói đến một phương diện khi con người không hiểu hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt thì Ngài sẽ làm gì? Ngài sẽ tiếp tục sắp đặt hoàn cảnh, khiến con người không ngừng hiểu sự tể trị của Đấng Tạo Hóa, hiểu số phận của con người là gì trong sự thể nghiệm của cuộc đời, và khiến cho con người từ sâu thẳm nội tâm biết nguyện vọng của mình và số phận của mình là hai chuyện khác nhau, nguyện vọng của mình và sự an bài của Đấng Tạo Hóa là hai chuyện khác nhau. Sau đó, con người học cách từng bước buông bỏ nguyện vọng của mình, thuận phục tất cả những gì Đấng Tạo Hóa sắp đặt, chuyện này tương đối dễ hiểu. Mặt khác, khi lời nói rõ ràng của Đức Chúa Trời đến với con người, con người lại nảy sinh một số quan niệm và tưởng tượng. Là quan niệm gì? “Lời Đức Chúa Trời là bánh sự sống, là lẽ thật, lời Đức Chúa Trời chính là bản thân Đức Chúa Trời, và khi tôi nghe thấy lời Ngài, cho dù tôi ngu ngốc đến đâu thì cũng trở nên khôn ngoan ngay lập tức. Chỉ cần tôi đọc lời Đức Chúa Trời nhiều hơn thì tố chất của tôi có thể được nâng cao và sở trường của tôi cũng có thể được tăng lên”. Những ý nghĩ này của con người là gì? Đó chính là quan niệm của con người. Đức Chúa Trời có làm như vậy hay không? (Thưa, không.) Vì đó là quan niệm của con người nên chắc chắn là không phù hợp, chắc chắn là đối lập với công tác của Đức Chúa Trời. Ở đây có một sự thật, đó là Đức Chúa Trời mặt đối mặt nói chuyện với con người, nói cho con người biết họ nên làm gì, không nên làm gì, nên đi con đường như thế nào, nên thuận phục Đức Chúa Trời ra sao, các nguyên tắc mà con người nên tiến vào trong các công tác là gì. Những điều này Ngài đều nói rõ ràng cho họ biết, nhưng con người vẫn thường chờ đợi, họ đang trông mong Đức Chúa Trời có thể nói thêm cho họ biết ngoài lời Ngài ra thì ý của Đức Chúa Trời rốt cuộc là gì, họ hy vọng có thể đạt được kết quả không tưởng, hy vọng kỳ tích xuất hiện, đây có phải là quan niệm của con người không? (Thưa, phải.) Trên thực tế, Đức Chúa Trời làm như thế nào? (Thưa, Đức Chúa Trời sắp đặt hoàn cảnh thực tế để con người trải nghiệm và thể nghiệm lời Đức Chúa Trời.) Nếu sắp đặt hoàn cảnh thực tế mà con người vẫn không hiểu thì Ngài sẽ làm gì? (Thưa, Ngài sẽ khai sáng, dẫn dắt con người.) Nếu Ngài không khai sáng, dẫn dắt con người thì ngươi phải làm sao? (Thưa, con sẽ thực hành theo lời Đức Chúa Trời, Ngài phán như thế nào thì con làm như thế ấy.) Đúng rồi. Từ khi Đức Chúa Trời bắt đầu công tác của Ngài cho đến bây giờ, Ngài đã mặt đối mặt mà nói cho con người bao nhiêu lời? Nhiều lắm, nhiều đến mức vài năm cũng không đọc hết, nhưng con người có được bao nhiêu? Việc con người có được quá ít chứng tỏ điều gì? Chứng tỏ con người không dốc công sức vào lời Đức Chúa Trời, không lắng nghe lời Ngài. Có vài người nói: “Con có nghe mà”, vậy ngươi có nghe lọt tai không? Ngươi có hiểu được không? Ngươi có chú trọng không? Nếu ngươi không chú trọng lời Ngài, thì lời Ngài sẽ đổ sông đổ bể như vậy. Cho nên, khi Đức Chúa Trời dùng lời nói rõ ràng nói cho con người biết họ nên làm như thế nào, nên sống như thế nào, thuận phục Đức Chúa Trời ra sao, trải nghiệm mỗi một chuyện như thế nào, nếu con người vẫn không hiểu, thì ngoài việc sắp đặt một vài hoàn cảnh cho con người, cho con người một vài sự khai sáng đặc biệt, hoặc là để con người trải qua một vài chuyện đặc biệt ra, Đức Chúa Trời sẽ không làm gì nữa, những việc Đức Chúa Trời có thể làm, nên làm và sẵn lòng làm sẽ dừng lại tại đây. Có những người nói: “Chẳng phải Đức Chúa Trời muốn vạn người được cứu, không muốn bất kỳ ai trầm luân hay sao? Nếu Đức Chúa Trời làm theo cách này thì có bao nhiêu người có thể được cứu chứ?”. Ngài sẽ hỏi ngược lại con người một câu: “Có mấy ai nghe lời Ta và tuân theo con đường của Ta?”. Có mấy người thì tính là mấy người, đây chính là quan điểm của Đức Chúa Trời, cũng là cách thức làm việc của Ngài, Ngài chỉ làm đến đây thôi. Quan niệm của con người trong chuyện này là gì? “Đức Chúa Trời thương xót và bận lòng về nhân loại này thì Ngài phải chịu trách nhiệm đến cùng, người đi theo đến cùng tất nhiên sẽ được cứu rỗi”. Loại quan niệm này có đúng hay không? Có hợp với tâm ý của Đức Chúa Trời không? Trong Thời đại Ân điển, con người có những quan niệm này là bình thường, bởi vì lúc đó họ chưa nhận biết Đức Chúa Trời. Vào thời kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời đã nói cho con người biết hết mọi lẽ thật, cũng đã nói rõ ràng cho họ về nguyên tắc công tác cứu rỗi con người của Ngài, nếu trong lòng họ vẫn có những quan niệm này thì quá vô lý. Đức Chúa Trời đã nói với ngươi hết mọi lẽ thật này, thế mà cuối cùng ngươi vẫn nói rằng ngươi không hiểu tâm ý của Ngài, không biết thực hành thế nào, còn nói ra những lời đại nghịch bất đạo, những người như vậy có thể được Đức Chúa Trời cứu rỗi sao? Có vài người luôn nghĩ: “Đức Chúa Trời thực hiện công tác lớn như vậy, hẳn là phải thu nhận hơn một nửa số người trên toàn cầu, dùng nhân số đông, thế lực lớn, đông đảo nhân vật ở tầng lớp trên để làm chứng cho Đức Chúa Trời được quang vinh thì thật tốt biết bao!”. Đây chính là quan niệm của con người. Theo ghi chép trong Kinh Thánh, dù là Tân Ước hay Cựu Ước thì có tổng cộng bao nhiêu người được cứu rỗi và hoàn thiện? Cuối cùng người có thể kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác có những ai? (Thưa, là Gióp và Phi-e-rơ.) Chỉ có hai người họ. Ở nơi Đức Chúa Trời, tiêu chuẩn của việc kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác đạt đến, thực ra chính là nhận thức Đức Chúa Trời, nhận thức Đấng Tạo Hóa. Trong mắt Đức Chúa Trời, người giống như Áp-ra-ham và Nô-ê cũng được coi là con người công chính nhưng vẫn kém hơn Gióp và Phi-e-rơ một bậc. Đương nhiên, vào thời điểm đó Đức Chúa Trời không làm nhiều công tác như vậy, không chu cấp cho nhân loại như bây giờ, không nói nhiều lời rõ ràng và thực hiện công tác cứu rỗi quy mô lớn như vậy, mặc dù thu nhận được ít người, nhưng chuyện đó cũng nằm trong dự định của Đức Chúa Trời. Vậy từ việc này thấy được phương diện tâm tính nào của Đấng Tạo Hóa? Đức Chúa Trời cũng hy vọng thu nhận được nhiều người, nhưng nếu như trên thực tế không thể thu nhận được những người này, nhân loại trong lúc Đức Chúa Trời làm công tác cứu rỗi không thể được Đức Chúa Trời thu nhận, vậy Đức Chúa Trời thà rằng vứt bỏ, không cần, đây chính là tiếng lòng và quan điểm của Đấng Tạo Hóa. Con người có yêu cầu hay quan niệm gì đối với Đức Chúa Trời ở phương diện này không? “Ngài đã cứu rỗi con thì nhất định phải chịu trách nhiệm đến cùng, nếu Ngài đã hứa ban phúc cho con thì nhất định phải ban cho con, để con có được nó”. Bên trong con người có rất nhiều cái “nhất định phải”, có rất nhiều yêu cầu, đây là một loại quan niệm trong đó. Lại có người nói: “Đức Chúa Trời làm công tác lớn như vậy, kế hoạch quản lý sáu ngàn năm, cuối cùng nếu chỉ thu nhận được hai người thì thật đáng tiếc, đây chẳng phải là đã làm việc vô ích sao?”. Con người cho rằng không nên như vậy, nhưng đối với Đức Chúa Trời, cho dù thu nhận được hai người cũng đáng mừng rồi. Thực ra, mục đích của Đức Chúa Trời không phải chỉ để thu nhận được hai người này, mà là để thu nhận được nhiều người hơn, nhưng nếu như con người ai cũng không thông suốt, hiểu lầm Đức Chúa Trời, chống đối Ngài, như thứ bùn nhão không thể trát tường, thì Đức Chúa Trời thà không cần, đó chính là tâm tính của Đức Chúa Trời. Có vài người nói: “Không được, như vậy Sa-tan không cười nhạo sao?”, Sa-tan chẳng phải là bại tướng dưới tay Đức Chúa Trời sao? Đức Chúa Trời vẫn thu nhận được nhân loại, vẫn thu nhận được một số người có thể chống lại Sa-tan từ trong nhân loại, không bị Sa-tan kiểm soát, Đức Chúa Trời đã thu nhận được con người thọ tạo chân chính. Vậy thì những người không được Đức Chúa Trời thu nhận đã bị Sa-tan bắt đi rồi sao? Bây giờ các ngươi chưa được hoàn thiện, vậy các ngươi có thể đi theo Sa-tan hay không? (Thưa, không thể.) Có vài người nói rằng: “Đức Chúa Trời không cần tôi thì tôi cũng không đi theo Sa-tan, dầu Sa-tan có ban phúc cho tôi, tôi cũng không cần”. Những người chưa được Đức Chúa Trời thu nhận đều không đi theo Sa-tan, đây chẳng phải là Đức Chúa Trời được vinh hiển sao? Con người có quan niệm về số lượng hoặc quy mô của những người mà Đức Chúa Trời thu nhận, cho rằng Đức Chúa Trời không nên chỉ thu nhận số ít những người đó. Con người có thể nảy sinh loại quan niệm này, một mặt là do con người đoán không thấu tâm tư của Đức Chúa Trời, cũng nhìn không thấu Ngài muốn thu nhận người như thế nào, giữa con người và Đức Chúa Trời luôn luôn có khoảng cách; mặt khác, trong lòng con người có loại quan niệm đó là một dạng tự an ủi, tự giải thoát đối với tiền đồ và số phận của mình. Con người cho rằng: “Số người mà Đức Chúa Trời thu nhận quá ít, nếu như thu nhận được chúng ta, vậy Đức Chúa Trời sẽ vinh hiển biết mấy! Nếu như Đức Chúa Trời không vứt bỏ bất cứ ai, ai cũng được Đức Chúa Trời chinh phục, hơn nữa cuối cùng còn được Đức Chúa Trời hoàn thiện, lời nói Ngài tuyển chọn con người, cứu rỗi con người này không vô ích, công tác quản lý của Ngài cũng không vô ích, vậy thì không phải Sa-tan sẽ càng nhục nhã, còn Đức Chúa Trời càng được vinh hiển hơn sao?”. Họ có thể nói lời này, một mặt là vì họ không có nhận thức về Đấng Tạo Hóa, mặt khác họ có tư tâm của mình, họ lo lắng cho tiền đồ của mình, nên họ gắn liền tương lai của mình với vinh hiển của Đấng Tạo Hóa, như vậy trong lòng họ mới yên ổn, cảm thấy đây là chuyện vẹn cả đôi đường. Ngoài ra, họ còn cảm thấy “Con người được Đức Chúa Trời thu nhận, khiến cho Sa-tan phải nhục nhã, đó là bằng chứng mạnh mẽ của việc đánh bại Sa-tan, đây là chuyện một công ba việc”. Con người thật biết cách tính toán, quan niệm này thật tài tình phải không? Con người có tư tâm, trong tư tâm này có mang theo sự phản nghịch hay không? Có mang theo yêu cầu đối với Đức Chúa Trời hay không? Trong đó có một loại phản kháng vô thanh đối với Đức Chúa Trời, nói rằng: “Nếu Ngài đã tuyển chọn chúng con, Ngài đã dẫn dắt chúng con, Ngài đã tốn nhiều công sức ở trên người chúng con như vậy, Ngài đem sự sống và mọi sự của Ngài ban cho chúng con, đem lời nói và lẽ thật của Ngài ban cho chúng con, hơn nữa còn để cho chúng con đi theo Ngài nhiều năm như vậy, đến cuối cùng nếu như Ngài không thu nhận được chúng con thì Ngài bị thiệt thòi quá rồi”. Họ lấy cớ này để uy hiếp Đức Chúa Trời, để Đức Chúa Trời nhất định phải thu nhận họ, nếu như Ngài không thu nhận họ, vậy thì không phải là chuyện họ chịu thiệt, mà là Đức Chúa Trời lỗ vốn, câu nói này đúng không? Trong chuyện này, một mặt có yêu cầu của con người, mặt khác cũng có quan niệm và tưởng tượng của con người, tức là Đức Chúa Trời làm công tác lớn như vậy thì nhất định phải thu nhận bao nhiêu người. Cái “nhất định phải” này đến từ đâu? Đến từ quan niệm và tưởng tượng của con người, đến từ yêu cầu vô lý, lòng tham hư vinh của con người, đồng thời cũng có sự cương ngạnh và tâm tính hung ác của con người trộn lẫn trong đó.
Đối với loại quan niệm này của con người, chúng ta vẫn phải thông công lại từ một phương diện khác. Có người cho rằng: “Nếu Đấng Tạo Hoá đã không quan tâm đến việc thu nhận được bao nhiêu người, có mấy người thì tính là mấy người, thái độ của Đấng Tạo Hoá chính là như thế, vậy chúng ta nên phối hợp như thế nào? Có phải cứ tùy tiện tin là được và không cần phải nghiêm túc đối đãi như vậy hay không? Dù sao Đức Chúa Trời cũng không nghiêm túc, vậy chúng ta lựa ý hùa theo yêu cầu của Ngài thì cũng không cần nghiêm túc, không cần coi đó là nghề nghiệp chính, cũng không cần coi đó là mưu cầu suốt cuộc đời. Nếu đã biết tâm tư của Đức Chúa Trời, chẳng phải chúng ta nên đổi cách sống hay sao?”. Quan điểm này có đúng không? (Thưa, không đúng.) Nếu thái độ của Đức Chúa Trời đã sáng tỏ với con người, con người đã hiểu rõ rồi, thì họ nên buông bỏ quan niệm. Sau khi đã buông bỏ quan niệm, con người nên làm như thế nào, lựa chọn, nhận thức và đối đãi với chuyện này như thế nào mới là quan điểm và thái độ mà con người nên có nhất? Trước hết, con người nên nghiền ngẫm về quan điểm của mình. Khi một người tin Đức Chúa Trời, họ có sự tưởng tượng mơ hồ về lòng tôn kính và kính trọng đối với Ngài. Họ nghĩ rằng: “Đức Chúa Trời là toàn năng, có quyền tuyệt đối, và, bởi vì Ngài đã chọn một nhóm người giữa nhân loại bại hoại này, Ngài chắc chắn sẽ có thể làm cho họ trọn vẹn. Do đó, chúng ta nhất định được ban phước, như một vấn đề hiển nhiên”. Chẳng phải sự “hiển nhiên” đó mang một tâm lý thử vận may đằng sau nó sao? Ao ước đạt được phúc lành và sự chấp thuận của Đức Chúa Trời mà không theo đuổi lẽ thật hay trải qua sự phán xét và hình phạt là thái độ mà con người không nên có nhất. Đừng mang tâm lý thử vận may – vận may là kẻ thù rất lớn. Thử vận may là dạng tâm lý gì? Con người có những tình trạng, ý nghĩ, tư tưởng, thái độ, quan niệm và quan điểm nào mang theo tâm lý ăn may? Ngươi có thể phát hiện ra không? Nếu như ngươi phát hiện ra, thấy có tâm lý ăn may được phúc lành tồn tại, thì ngươi nên thay đổi nó như thế nào? Làm thế nào để giải quyết nó? Đây đều là vấn đề thực tế. Đối với tâm lý ăn may, nhất định phải nhìn thấu, không giải quyết không được, không giải quyết thì sẽ dễ làm ngươi vấp ngã và ngươi có thể gặp tai ương. Vậy những cái nào là tâm lý ăn may? Có người cho rằng: “Tôi tin Đức Chúa Trời và đã bỏ lại gia đình và sự nghiệp, cho dù như thế nào thì không có công lao cũng có khổ lao, không có khổ lao cũng có vất vả, chỉ cần đi theo đến cùng thì có thể chính là một phần tử trong số những người đắc thắng, là một phần tử được cứu rỗi, được phúc lành, là một phần tử trong vương quốc của Đức Chúa Trời”, đây là một loại tâm lý ăn may. Có phải ai cũng có loại tâm lý này hay không? Trong những người bỏ lại tất cả và đi theo Đức Chúa Trời, dùng toàn bộ thời gian thực hiện bổn phận, chí ít đa số đều mang tâm lý như vậy. Chẳng phải tâm lý thử vận may là một dạng quan niệm sao? (Thưa, phải.) Tại sao Ta nói nó là một dạng quan niệm? Bởi vì, khi ngươi chưa hiểu hay lĩnh hội quan niệm và thái độ mà Đấng Tạo Hóa có đối với vấn đề này, ngươi chỉ kỳ vọng một cách chủ quan về kết cục tốt đẹp và theo đuổi một cách chủ quan, và đó là cách ngươi tiếp cận nó. Nó là một dạng quan niệm. Đối với Đấng Tạo Hóa, chẳng phải loại quan niệm như thế là một dạng bắt bí sao? Chẳng phải đó là một yêu cầu không hợp lý sao? Cứ như thể nói rằng: “Bởi vì con đã theo Ngài, và bởi vì con đã gạt bỏ tất cả và đến nhà Đức Chúa Trời để thực hiện bổn phận toàn thời gian, con phải được tính là người đã quy phục những sự sắp đặt của Đấng Tạo Hóa, đúng không? Như vậy, bây giờ con có thể có một tương lai đầy hứa hẹn không? Tương lai của con không được mờ mịt – nó phải được nhìn thấy rõ ràng”. Đây là tâm lý thử vận may. Tâm lý như thế được giải quyết như thế nào? Người ta phải biết tâm tính Đức Chúa Trời. Giờ Ta đã thông công như thế này, ai cũng hiểu được cơ bản rằng: “Như vậy đó là điều Đức Chúa Trời nghĩ. Đó là quan điểm của Đức Chúa Trời và thái độ của Ngài. Như vậy, chúng ta nên làm gì?”. Mọi người nên gạt bỏ tâm lý thử vận may của mình. Khi gạt bỏ tâm lý này, có đủ không khi nói rằng: “Tôi đã gạt bỏ nó và sẽ không có những ý nghĩ như thế nữa. Tôi sẽ nghiêm túc với bổn phận của mình, có trách nhiệm, và làm việc chăm chỉ hơn”? Không đơn giản như vậy – khi một người phát triển tâm lý thử vận may, trong họ nổi lên những ý nghĩ và sự thực hành, và, hơn thế nữa, một số tâm tính sẽ bị bộc lộ. Những điều này nên được giải quyết bằng cách tìm kiếm lẽ thật. Một số người nói: “Nếu tôi hiểu tâm ý và thái độ của Đức Chúa Trời, chẳng phải tôi đã loại bỏ tâm lý thử vận may sao?”. Kiểu nói như vậy là gì? Đó là không có hiểu biết thuộc linh; đó là lời nói sáo rỗng. Vậy thì, vấn đề này được giải quyết như thế nào? Ngươi phải suy xét: “Tôi nên làm gì nếu Đức Chúa Trời lấy đi mọi thứ khỏi tôi? Chẳng phải mọi thứ tôi đã dành cho Đức Chúa Trời và dâng cho Ngài một cách sẵn lòng sao, hay chúng là những nỗ lực đổi chác với Ngài? Nếu tôi có ý định đổi chác với Ngài thì không tốt rồi. Tôi sẽ phải cầu nguyện và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết điều đó”. Hơn nữa, khi ngươi thực hành và thực hiện bổn phận, ngươi nên hiểu những nguyên tắc lẽ thật nào mà ngươi không hiểu, những việc gì ngươi làm đi ngược lại những yêu cầu của Đức Chúa Trời và tâm ý của Ngài, con đường loại nào là sai và là con đường thảm họa, và con đường dạng nào có thể được sự chấp thuận của Đức Chúa Trời. Còn điều gì liên quan đến tư duy thử vận may của con người nữa? Có những người mà, khi đã lâm bệnh nặng, được Đức Chúa Trời cứu và không còn bệnh nữa. Họ nghĩ: “Tất cả các người tin Đức Chúa Trời để đeo đuổi những phúc lành. Tôi thì khác. Chính tình yêu vĩ đại của Đức Chúa Trời đã đưa tôi đến đây; Ngài ban cho tôi những hoàn cảnh đặc biệt và những trải nghiệm đặc biệt khiến tôi tin Ngài, do đó Ngài yêu tôi hơn yêu các người, Ngài cho tôi ân điển đặc biệt và cuối cùng, tôi sẽ có nhiều cơ hội sống sót hơn các người”. Họ nghĩ mình có một mối quan hệ khác thường, đặc biệt với Đức Chúa Trời – rằng mối quan hệ giữa họ với Ngài thì khác với những người bình thường. Bởi trải nghiệm đặc biệt của họ, họ cảm thấy mình không tầm thường và hiếm có, và do đó họ duy trì một kiểu tin chắc rằng họ sẽ thành công. Họ tự nhận mình khác biệt hẳn so với những người khác, và chắc chắn về khả năng sống sót của mình – điều này cũng là tâm lý thử vận may. Có những người khác, là người nhận một vài công tác quan trọng và có địa vị cao. Họ chịu khổ nhiều hơn những người khác một chút, bị tỉa sửa nhiều hơn những người khác một chút, để mình bận rộn hơn người khác một chút, và nói nhiều hơn người khác một chút. Họ nghĩ: “Tôi đã được giao một vị trí quan trọng bởi Đức Chúa Trời và nhà Ngài và tôi được ưu ái bởi các anh chị em mình. Đây quả là một vinh dự. Chẳng phải điều này có nghĩa là tôi sẽ được ban phước trước những người khác sao?”. Đây cũng là tâm lý thử vận may, và nó là một dạng quan niệm.
Vừa rồi chúng ta đã nói đến một vài biểu hiện và tình trạng thực tế của việc ăn may. Còn có những tình trạng, biểu hiện nào hoặc là những thứ thường nảy sinh, tồn tại nhất quán trong tư tưởng con người nào thuộc về việc ăn may hay không? Ngoại trừ những người có trải nghiệm đặc biệt, địa vị cao, đã bỏ lại mọi thứ và dâng mình cho Đức Chúa Trời toàn thời gian ra, còn có những người có tư cách, làm một vài bổn phận đặc biệt, có chút tài năng đặc biệt thì đều sẽ có một vài tâm lý ăn may. “Có tư cách” chỉ những điều gì? Ví dụ, có những người rao truyền phúc âm cho rằng, rao truyền và đưa được 10 người về thì kết được 10 quả, vậy xác suất có thể được phúc lành là 10%, kết được 50 quả thì xác suất là 50%, kết được 100 quả thì xác suất là 100%. Đây là một loại quan niệm, cũng là một loại giao dịch, càng là một dạng ăn may. Có thể ôm tâm lý ăn may và những quan niệm này trong lòng để đánh giá công tác của Đức Chúa Trời thì đó là tin Đức Chúa Trời sao? Con đường họ đang đi này là con đường gì? Sự mưu cầu của họ có phải có vấn đề hay không? Tại sao họ có thể nảy sinh những thứ này? Tại sao còn có thể ôm đến chết không buông? Có vài người nói họ không nhận thức được Đức Chúa Trời, lời này có đúng không? Đó là những lời sáo rỗng. Vậy nguyên nhân rốt cuộc là gì? Những người luôn ôm loại quan điểm và thái độ này, cùng những người có và vô cùng ngoan cố bám giữ những quan niệm này, thì liệu có nghiêm túc dốc công sức vào lời Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Họ từ đầu đến cuối luôn có một thái độ qua loa lấy lệ đối với lời Đức Chúa Trời, chính là loại thái độ và quan điểm ngắm hoa trong sương. Họ cho rằng, tin Đức Chúa Trời thì chỉ cần biết mình đã vì Đức Chúa Trời mà chịu bao nhiêu đau khổ, trả bao nhiêu cái giá, lập bao nhiêu công lao, có tài năng đặc biệt gì, có bản lĩnh lớn bao nhiêu, địa vị cao chừng nào, đã từng “cùng chung hoạn nạn” với Đức Chúa Trời như thế nào, đã từng có những trải nghiệm đặc biệt nào, Đức Chúa Trời đã cho họ những thứ đặc biệt gì hoặc là ân điển, phước lành gì khác với người khác, thế là đủ rồi. Cho dù bám giữ những điều này như thế nào, họ cũng chưa bao giờ nghĩ lại xem những quan điểm này có đúng đắn hay không, xem những quan điểm này mâu thuẫn với những lời nào của Đức Chúa Trời, mâu thuẫn với những nguyên tắc nào trong công tác của Ngài, những quan điểm này có được chứng thực bởi Đức Chúa Trời hay không, Ngài có làm như vậy hay không, có hoàn thành như vậy hay không. Họ chưa bao giờ quan tâm đến những điều này, họ chỉ suy nghĩ, ấp ủ và mơ mộng trong đầu mình. Vậy thì, đối với họ lẽ thật trở thành cái gì? Thành vật trang trí. Những người này mặc dù tin Đức Chúa Trời, nhưng không có quan hệ gì với Đức Chúa Trời, với lẽ thật. Vậy đức tin của họ có quan hệ với cái gì? Có quan hệ với quan niệm, tưởng tượng, dục vọng cá nhân, còn có quan hệ với việc được phúc lành, được đích đến cuối cùng, nó chỉ có quan hệ với những thứ này thôi. Họ không dốc công sức vào lẽ thật thì cuối cùng sẽ nảy sinh những kết quả này.
Thông qua buổi thông công ngày hôm nay, sau khi con người có một chút hiểu biết về cách thức công tác của Đức Chúa Trời hoặc về quan điểm, thái độ của Đức Chúa Trời, thì điều này có thể có một số tác dụng, đạt được một số hiệu quả đối với việc các ngươi mưu cầu nhận thức về Đức Chúa Trời, mưu cầu lẽ thật hoặc mưu cầu lối vào sự sống hay không? Có thể xoay chuyển quan điểm sai lầm của các ngươi, khiến các ngươi buông bỏ quan niệm của mình hay không? (Thưa, có thể.) Trong chuyện này yêu cầu con người phải làm được điều gì? (Thưa, phải buông bỏ quan niệm, dựa theo tiêu chuẩn và yêu cầu của Đức Chúa Trời mà làm.) Ngươi phải hiểu rằng nếu Đức Chúa Trời đã yêu cầu như vậy, đã quy định như vậy thì Ngài phải hoàn thành như vậy, sự thật cuối cùng là lời Đức Chúa Trời sẽ không vô ích, lời Ngài phải được hoàn thành và ứng nghiệm. Nếu ngươi cho rằng Đức Chúa Trời chưa chắc có thể thực hiện theo lời Ngài nói thì đây chính là quan niệm và tưởng tượng của con người, cũng là sự hoài nghi, xét đoán đối với Đức Chúa Trời. Có những người nói: “Đức Chúa Trời sao có thể làm như vậy? Làm sao có thể cứu rỗi được bao nhiêu người thì tính là bấy nhiêu người? Không phải Đức Chúa Trời có tình yêu thương to lớn vô hạn sao? Đức Chúa Trời nhẫn nại vô hạn, khoan dung và thương xót vô hạn mà”. Ngươi tìm đủ mọi lý do để không mưu cầu lẽ thật, mở ra cánh cửa thuận tiện để ngươi đi theo con đường của mình, phớt lờ lời và công tác của Đức Chúa Trời, phớt lờ sự xuất hiện của Đấng Tạo Hóa, trong lòng ngươi biết rõ đó là lẽ thật nhưng lại chỉ mong không phải vậy, bên trong đó còn có thành phần không tin, còn có thành phần so đo với Đấng Tạo Hóa, chống đối và uy hiếp Ngài. Mục đích của Ta khi nói những lời này là gì? Có một vài người nói: “Đây là tiếng chuông cảnh tỉnh, đe dọa chúng ta, hoặc là để khiến chúng ta hiểu, nên rút lui thì rút lui, nên yếu đuối thì yếu đuối, nên tiêu cực thì tiêu cực, nên sống qua ngày thì cứ sống qua ngày. Công tác của Đức Chúa Trời cũng không làm được bao lâu, hơn nữa Đức Chúa Trời cũng không cần nhiều người như vậy, thôi thì chúng ta giải tán đi!”. Chuyện có phải là như vậy không? (Thưa, không.) Dù Đức Chúa Trời nói gì, nói như thế nào thì những gì Ngài muốn con người hiểu chính là tâm ý của Ngài, là lẽ thật. Vậy con đường mà con người nên đi là gì? Đó là tuân theo con đường của Đức Chúa Trời. Thứ con người nên nghĩ lại, nên tìm kiếm, giải quyết là gì? Là tất cả quan niệm, tưởng tượng, yêu cầu đối địch với Đức Chúa Trời. Những thứ này đều trái với lẽ thật, ngươi phải bỏ chúng, phải trừ khử những thứ này khỏi lòng mình, không còn bị những thứ này ảnh hưởng và kiểm soát nữa và có thể thực sự đến trước mặt Đức Chúa Trời để tiếp nhận hình phạt, sự phán xét và sự tỉa sửa của lời Đức Chúa Trời, tâm tính bại hoại được tinh sạch và đạt đến thuận phục sự sắp đặt, an bài của Đức Chúa Trời. Ngoài ra, còn phải không ngừng nghĩ lại xem trên mình có những chỗ nào không tương hợp với Đức Chúa Trời, có những thứ nào trái với lẽ thật, nghĩ lại về tâm tính bại hoại của mình, về quan điểm không đúng đắn của mình đối với các loại sự việc, sự vật, các quan niệm và tưởng tượng của con người về các phương diện. Phản tỉnh, nhận thức rõ ràng về những thứ này, và tìm kiếm lẽ thật để giải quyết chúng triệt để, thì sẽ tiến vào nề nếp trong việc tin Đức Chúa Trời, mới có thể đạt đến thuận phục Đức Chúa Trời, thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời.
Câu chuyện “Ai là chỗ dựa của tôi” mà chúng ta vừa kể, phần cuối của nó, chúng ta vẫn chưa mổ xẻ xong. Sau khi một người tin Đức Chúa Trời, đến trước mặt Ngài để cầu nguyện, tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời, tiếp nhận sự khai sáng, soi sáng và dẫn dắt của Ngài, tới lắng nghe từng câu nói từ chính miệng Đức Chúa Trời nói ra thì trong thời gian đó, Đức Chúa Trời dùng lời nói rõ ràng để nói cho con người biết tâm ý của Ngài và mọi điều mà con người cần hiểu. Đức Chúa Trời không phải bảo ngươi hiểu đạo lý và câu chữ, cũng không phải bảo ngươi học thần học. Ngài không dùng những lời này để giáo dục ngươi làm một người có quy củ, một người tốt, một người có khao khát và chí hướng, Ngài không phải bảo ngươi làm người như vậy. Đức Chúa Trời muốn dùng lời của Ngài để ngươi hiểu con người từ đâu tới, con người nên sống như thế nào, nên tuân theo con đường gì. Thế nhưng, con người sau khi nghe những lời này lại không cho là đúng, vẫn kiên trì với quan điểm của mình, kiên trì với nguyện vọng của mình, thậm chí còn kiên trì với nguyên tắc làm người của mình như cũ. Ví dụ, có người nói: “Tôi bẩm sinh đã muốn làm một người tốt, tôi cho rằng mình chẳng còn cách người tốt quá xa nữa. Con người tôi không làm chuyện gì xấu, không lừa người gạt người, cũng không lợi dụng của người khác. Sau khi tin Đức Chúa Trời, tôi càng trở nên tốt hơn, nói thật với mọi người, giao thiệp tốt với mọi người, làm bổn phận cũng nghe lời Đức Chúa Trời, nghe theo sự sắp xếp của hội thánh, đây không phải là được rồi sao?”. Người có loại tư tưởng đó có nhiều không? Người dựa vào loại ý nghĩ tin Đức Chúa Trời này rốt cuộc có thể đạt đến yêu cầu của Đức Chúa Trời hay không? Lẽ thật mà Đức Chúa Trời yêu cầu con người hiểu thì rất nhiều, bài học nên học cũng rất nhiều, đặc biệt là lẽ thật về phương diện khải tượng, đây là lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời cần phải có, là thứ thiết lập nền tảng. Những lẽ thật này họ đều không hiểu, vậy họ có thể đạt đến được cứu rỗi không? Họ chỉ dựa vào tưởng tượng, tự cảm thấy bản thân tốt lành, cũng không mưu cầu lẽ thật, vậy họ còn có tư cách tiếp nhận hình phạt, sự phán xét, thử luyện, tinh luyện của Đức Chúa Trời không? Có thể đạt đến được Đức Chúa Trời làm tinh sạch và hoàn thiện không? (Thưa, không thể.) Điều này chắc chắn là không thể. Trong hội thánh, những người không mưu cầu lẽ thật có lẽ phải chiếm đến hơn một nửa, thậm chí nhiều hơn thế. Khi nhìn thấy tình trạng này, các ngươi có nghĩ rằng: “Đức Chúa Trời phán nhiều lời như vậy mà người ta vẫn không hiểu, tại sao Đức Chúa Trời không khai sáng cho những kẻ ngoan cố, ngu muội này? Tại sao Đức Chúa Trời không phán nhiều lời hơn một chút, không làm nhiều công tác hơn một chút, không bỏ nhiều công sức trên họ hơn một chút? Tại sao Đức Thánh Linh không làm họ cảm động và sửa dạy họ để những kẻ ngu muội và ngoan cố này không còn ngu muội và ngoan cố nữa? Tại sao Đức Chúa Trời không làm như vậy?”. Lời này nói sai rồi, lời Đức Chúa Trời phán còn ít sao? Có nhiều người nói rằng lời Đức Chúa Trời phán quá nhiều, quá chi tiết, thậm chí quá vụn vặt. Có ai biết tại sao Đức Chúa Trời phải nói như vậy không? Chính là bởi vì con người quá cương ngạnh, quá phản nghịch, từ đầu đến cuối đều không tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, không dốc công sức vào lẽ thật, đối với người như vậy Đức Chúa Trời sẽ không cố ép họ. Con người không tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, vậy Ngài đối đãi với họ như thế nào? Đức Chúa Trời không bao giờ ép buộc, đây là cách thức làm việc của Ngài. Lời Đức Chúa Trời phán đã quá nhiều, đến nỗi con người không thể đọc hết, vậy Đức Chúa Trời còn cố ép con người làm gì? Tại sao con người không hiểu được sự lao tâm khổ tứ của Ngài? Nhân vật chính đã trải qua một đời đau khổ trong câu chuyện, cô cũng đọc lời Đức Chúa Trời, cũng đã nghe con đường của Ngài, thậm chí cũng đã tiêu tốn toàn bộ thời gian để làm bổn phận trong hội thánh, nhưng đến cuối cùng cô cũng không biết chỗ dựa của cô rốt cuộc là ai, nguyện vọng của cô nảy sinh như thế nào, có thể thành hiện thực hay không, trong chuyện này có vấn đề. Thực ra, trong mắt Đức Chúa Trời, đây là một vấn đề rất đơn giản, ngươi chỉ cần thay đổi phương hướng, hướng về phương hướng mà Đức Chúa Trời chỉ dẫn cho ngươi và con đường mà Ngài đã nói cho ngươi biết, tin tưởng, tiếp nhận, thuận phục và thực hành một cách vững vàng, không có bất kỳ sự hoài nghi hay ngờ vực vô căn cứ nào là được. Nhưng con người không làm được, họ cứ khư khư giữ lấy quan niệm, tưởng tượng và mong mỏi của mình và cả những ảo tưởng ẩn giấu trong lòng không buông. Họ vẫn coi những thứ này là cọng rơm cứu mạng của mình, thậm chí coi chúng như nền tảng cho sự sinh tồn của mình, mà đem lời Đức Chúa Trời, phương hướng mà Đức Chúa Trời chỉ dẫn gạt sang một bên, không thèm đếm xỉa. Vậy Đức Chúa Trời đối đãi với chuyện này như thế nào? Những điều tốt đẹp ban cho ngươi mà ngươi không nhận biết, không tiếp nhận, thì Đức Chúa Trời sẽ lấy đi. Sau khi bị lấy đi rồi, thì thứ con người có được là gì? Chẳng có gì cả. Cho nên, đối với chuyện “Đức Chúa Trời rốt cuộc có phải là chỗ dựa của tôi hay không, chỗ dựa của tôi rốt cuộc là ai, tôi phải dựa vào ai để sinh tồn, dựa vào ai để được phúc, dựa vào ai để có được đích đến sau này” thì sâu thẳm nội tâm của nhân vật chính này đã không còn biết nữa, đã ngày càng mơ hồ. Cuối cùng, tiếc nuối lưu lại nơi sâu thẳm nội tâm cô là gì? Chính là không có một ai để cô có thể dựa vào, không có một ai để cô có thể tin cậy. Cả đời này của cô bi thương, đau đớn biết bao! Cô mơ hồ, không biết ý nghĩa về sự an bài của Đấng Tạo Hoá dành cho con người trong đời này rốt cuộc nằm ở đâu. Sau khi đã trải nghiệm cuộc đời như vậy, đến khi về già vẫn không thể nhìn rõ tất cả những điều này, hoặc là không thể đưa ra một kết luận chính xác, không thể nảy sinh một phương hướng, mục tiêu cuộc đời chính xác, khi con người không thể có được tất cả những điều này thì Đức Chúa Trời sẽ làm gì? Cuộc đời người này đã được đặt dấu chấm hết. Việc Đức Chúa Trời có thể làm cũng đã làm rồi, Ngài sắp đặt hoàn cảnh, khai sáng, dẫn dắt, thậm chí trong lúc cô đau khổ nhất hoặc lúc cô đối mặt với bước đường cùng, Ngài đã cho cô động lực để sống tiếp, dùng tình yêu thương ở mức độ lớn nhất và dùng hết sức chống đỡ để cô sống đến bây giờ, mục đích là vì điều gì? Là để cô quay đầu. Mục đích của việc quay đầu là vì cái gì? Hiểu rằng không ai là chỗ dựa của ngươi, ngươi không được dựa vào bất kỳ ai, ngươi không được dựa vào chính mình để tạo ra một cuộc sống hạnh phúc, không được nảy sinh bất kỳ nguyện vọng nào. Ngoại trừ Đấng Tạo Hóa ra, không ai có thể sắp đặt, kiểm soát số phận của ngươi, ngay cả chính ngươi cũng không thể. Lựa chọn ngươi nên đưa ra là gì? Là đến trước mặt Đấng Tạo Hóa mà không oán trách, không có bất kỳ điều kiện gì, lắng nghe những gì Ngài phán, tuân theo con đường của Ngài, cho dù là đau khổ hay bệnh tật, đây đều là một phần cần phải trải nghiệm trong cuộc sống con người. Khi cuộc đời của một người phải được đặt dấu chấm hết mà họ vẫn không hiểu tất cả những điều này, vậy Đức Chúa Trời còn có thể làm gì đây? Ngài không làm gì nữa, điều đó cũng có nghĩa là Ngài đã vứt bỏ họ. Tại sao Ngài không làm gì nữa? Bởi vì họ cứ sống trong quan niệm của mình, cứ sống trong dục vọng và sự bám giữ của mình, dùng thái độ cương ngạnh, cố chấp, dùng thái độ bản thân họ cho là đúng, cạnh tranh và háo thắng để đối đãi với tất cả những gì Đức Chúa Trời sắp đặt. Cho nên, đến khi một người sắp kết thúc cuộc đời, họ đều đã từng bước từng bước trải qua những hoàn cảnh hoặc quá trình mà Đức Chúa Trời sắp đặt, nhưng nhận thức của họ đối với Đấng Tạo Hóa không có bất kỳ thay đổi nào, họ cũng không có bất kỳ nhận thức nào về số phận của con người, vậy cuộc đời này của họ là như thế nào thì không cần nói cũng biết, Đấng Tạo Hóa sẽ không nhúng tay vào làm chuyện gì nữa. Cách thức làm việc của Ngài là như vậy.
Dưới cách thức làm việc này của Đức Chúa Trời, con người sẽ lại nảy sinh những quan niệm và tưởng tượng nào? Khi nhìn thấy Đức Chúa Trời đào thải con người, có một vài người sẽ nảy sinh quan niệm mà nói rằng: “Người này cả đời đã trải qua nhiều đau khổ, lẽ nào Đấng Tạo Hoá không thương xót họ sao?”. Thương xót có thể đại diện cho điều gì? (Thưa, là bố thí ân điển.) Bố thí ân điển có thể quyết định số phận của họ hay không? Có thể thay đổi số phận của họ hay không? Có thể thay đổi quan điểm của họ hay không? (Thưa, không thể.) Cho nên, dù Đấng Tạo Hóa ban cho người ta bao nhiêu phúc lành, bao nhiêu ân điển, bao nhiêu sự hưởng thụ vật chất, nếu như tất cả chúng đều không thể thúc đẩy hoặc giúp đỡ họ hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, không thể giúp họ đi trên con đường đúng đắn trong đời và cuối cùng đi trên con đường mà Đức Chúa Trời chỉ cho con người, hiểu tất cả những gì mà con người trải nghiệm trong cuộc đời này là như thế nào, thì mọi công tác mà Đức Chúa Trời làm trên họ đều uổng phí, có thể thấy rằng, một đời tin Đức Chúa Trời của người này cũng sẽ bị đặt dấu chấm hết. Vậy quan niệm mà con người dễ nảy sinh là gì? Là “Đức Chúa Trời có sự bao dung, sự nhẫn nại, có tình yêu lớn mạnh, có tình yêu bao la, tại sao Ngài không thể yêu thương một người như vậy?”. Tình yêu thương của Đức Chúa Trời biểu hiện như thế nào? Ngài rốt cuộc có yêu thương họ không? Tình yêu của Ngài có kết quả gì nơi họ không? Khi không có kết quả thì tình yêu thương của Đức Chúa Trời được thể hiện như thế nào? Tâm tính của Ngài sẽ biểu hiện như thế nào? Ngài sẽ làm gì? Trên thực tế, trước khi làm bất cứ điều gì, Ngài đã chọn người đó, làm công tác trên họ, tiêu tốn tâm tư để tiền định cuộc đời họ, sắp đặt cuộc đời họ theo cách thức của Đức Chúa Trời và trong đó đều có tâm ý của Ngài, đây có phải là tình yêu thương của Đức Chúa Trời hay không? (Thưa, phải.) Đó đã là tình yêu thương của Ngài rồi. Khi họ trải qua mỗi một quá trình trong cuộc đời, Đức Chúa Trời có sự thương xót, chăm sóc, bảo vệ đối với họ, cho họ một loại động lực, sắp đặt một vài hoàn cảnh, liên tục bảo vệ cho họ hoàn thành sứ mạng đời này của họ. Trong quá trình này, dù họ kiên trì, cố chấp, kiêu ngạo, cương ngạnh như thế nào, Đức Chúa Trời vẫn dùng cách thức của mình, dùng tình yêu thương, tấm lòng bao la của Đấng Tạo Hóa, và cả trách nhiệm của Đức Chúa Trời khiến họ thuận lợi đi hết cuộc đời. Cho dù đời này họ gặp bao nhiêu hiểm cảnh, bao nhiêu cám dỗ, thậm chí bao nhiêu lần cảm thấy tuyệt vọng muốn quyên sinh, Đức Chúa Trời đều dùng cách thức của Ngài mà dẫn dắt họ đi hết cuộc đời này. Nếu không có sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, cuộc đời này của họ chắc chắn sẽ không thuận lợi, bởi vì nó chứa đầy các loại dẫn dụ, cám dỗ hoặc nguy hiểm. Cho nên, đây đều là tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Trong quan niệm của con người cho rằng tình yêu thương của Đức Chúa Trời không nên có những đau khổ, hoạn nạn này, cũng không nên có những thứ không hợp với ý của con người. Thực ra, Đức Chúa Trời luôn dùng cách thức yêu thương và khoan dung mà ban cho con người sự thương xót, ân điển, phúc lành, cuối cùng lại dùng sự nhẫn nại và lòng yêu thương cực độ để bày tỏ lẽ thật, khiến con người hiểu được lẽ thật và có được sự sống. Ngài áp dụng đủ loại phương thức khác nhau để đạt được hiệu quả, từng bước dẫn dắt con người, khiến con người nhận thức cuộc đời và biết nên sống như thế nào mới có ý nghĩa. Mục đích Đức Chúa Trời làm việc như vậy là gì? Nói một cách nông cạn thì mục đích là để con người có thể thoát khỏi mọi đau khổ mà họ gặp phải trong cuộc đời và mọi đau khổ nảy sinh từ chính bản thân họ; nói một cách sâu xa hơn thì mục đích của Đức Chúa Trời là để con người sống hạnh phúc, sống như một con người bình thường, như một con người đích thực, sống trong sự dẫn dắt của Đấng Tạo Hóa. Tuy nhiên, mỗi người đều có sự tự do của riêng mình, Đức Chúa Trời tạo ra cho con người ý chí tự do, tạo ra cho con người cơ quan để suy nghĩ, sau đó, con người tiếp nhận rất nhiều thứ của thế giới này, của xã hội này như tri thức, văn hóa truyền thống, trào lưu xã hội, sự giáo dục của gia đình, v.v.. Đối với những thứ đến từ Sa-tan, Đức Chúa Trời từ trước đến nay đều ghê tởm, hơn nữa còn dành cho chúng sự vạch trần để cho con người biết sự hoang đường, giả tạo và hoàn toàn không tương hợp với lẽ thật của những thứ này. Nhưng Đức Chúa Trời chưa bao giờ cách ly con người, khiến con người tránh xa những thứ thuộc về Sa-tan này, thay vào đó Ngài để cho con người đích thân nếm trải và phân định, từ đó có được trải nghiệm và nhận thức đúng đắn về cuộc đời. Khi toàn bộ quá trình kết thúc, sau khi Đức Chúa Trời đã làm xong mọi việc cần làm, con người có thể có được bao nhiêu thì chính là bấy nhiêu. Vậy ở giai đoạn cuối cùng này, quan niệm mà con người nảy sinh là gì? Sự vứt bỏ của Đức Chúa Trời đối với một con người làm cho họ cảm thấy Đức Chúa Trời không hợp với ý của con người, cảm thấy chút hy vọng ấm áp con người có thể gửi gắm nơi Đức Chúa Trời giờ đây cũng tan vỡ, họ cảm thấy có chút tàn khốc. Trong khi con người cảm thấy tàn khốc thì quan niệm của họ cũng bộc lộ ra ngoài. Ngươi muốn làm người tốt để giúp đỡ họ, để họ được cứu rỗi, làm vậy có ích gì không? Họ tin Đức Chúa Trời nhiều năm như vậy mà không mưu cầu lẽ thật chút nào, không đạt được gì cả, ngươi muốn thương xót họ, giúp đỡ họ, vậy ngươi có thể chu cấp lẽ thật cho họ sao? Ngươi có thể ban cho họ sự sống sao? Căn bản là ngươi không làm được, vậy tại sao ngươi còn có quan niệm đối với Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời công tác công bằng và hợp lý đối với bất kỳ ai, cá nhân họ không tiếp nhận lẽ thật, không thuận phục công tác của Ngài thì sao có thể oán trách Ngài không cứu rỗi con người? Trong chuyện này chắc chắn có nhiều quan niệm của con người. Bên trong con người có rất nhiều quan niệm đối với công tác của Đức Chúa Trời: “Nếu Đức Chúa Trời đã làm nhiều như vậy, tại sao bước cuối cùng này lại không làm cho trọn vẹn? Đây không giống với việc mà Đức Chúa Trời muốn làm, cũng không nên là việc Đức Chúa Trời làm. Nếu Ngài đã làm công tác lớn như vậy thì nên để cho tất cả những ai tin Đức Chúa Trời đều được cứu rỗi. Phải đạt được hiệu quả như vậy mới là kết quả hoàn mỹ cho công tác của Ngài. Tại sao Ngài lại đào thải người này? Đây là trái với tình yêu thương, lòng thương xót của Đức Chúa Trời đối với con người, điều này dễ khiến người ta hiểu lầm! Đức Chúa Trời sao có thể làm như vậy? Có phải có chút không hợp với ý của con người hay không?”. Tâm tính công chính của Đức Chúa Trời chính là như vậy. Đây là tâm tính công chính của Ngài. Các ngươi thể nghiệm đi, đến một ngày nào đó các ngươi sẽ hiểu.
Những điều vừa nói ở trên liên quan đến một số quan niệm, tưởng tượng của con người đối với công tác của Đức Chúa Trời, trong đó có một phần là tưởng tượng của con người, một phần là yêu cầu của con người đối với Đức Chúa Trời, nghĩa là con người cho rằng Đức Chúa Trời nên làm như thế này, nên làm như thế kia. Khi công tác của Đức Chúa Trời không hợp với quan niệm của ngươi, mâu thuẫn với yêu cầu hoặc tưởng tượng của ngươi, trong lòng ngươi sẽ thấy khó chịu, sẽ buồn bã, cảm thấy: “Ngài không phải là Đức Chúa Trời của tôi, Đức Chúa Trời của tôi sẽ không giống như Ngài”. Ngài không phải là Đức Chúa Trời của ngươi, vậy ai là Đức Chúa Trời của ngươi? Những thứ này nếu như không được giải quyết thì con người sẽ thường sống trong những tình trạng, quan niệm này, trong tâm tư họ thường dùng những quan niệm và yêu cầu này để đánh giá công tác của Đức Chúa Trời, để phán đoán xem việc mình làm là đúng hay sai, để phán đoán xem con đường mình có đúng đắn không, như thế thì sẽ phiền phức đấy. Ngươi đang đi trên một con đường hoàn toàn không liên quan gì đến những yêu cầu của Đức Chúa Trời, cho dù về hình thức ngươi đi theo Đức Chúa Trời hay là nghe bài giảng, lắng nghe lời Đức Chúa Trời, thì cuối cùng ngươi có thể đạt đến được cứu rỗi hay không? Không thể. Cho nên, tin Đức Chúa Trời mà muốn đạt đến được cứu rỗi thì không phải ngươi tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời và bước vào đời sống của hội thánh là có thể chắc chắn mình là một phần tử trong công tác quản lý của Đức Chúa Trời, một phần tử mà Đức Chúa Trời sẽ cứu rỗi, hoàn thiện, cũng không thể chứng minh ngươi đã được cứu rỗi hoặc chắc chắn được cứu rỗi, không phải như vậy. Đây chỉ là quan niệm và tưởng tượng của con người, là suy luận, xét đoán của con người.
Các ngươi tổng kết lại xem, quan niệm của con người liên quan đến câu chuyện vừa kể là gì? Tổng kết xong thì đọc to ra đi. (Thưa Đức Chúa Trời, chúng con tổng kết ra bốn điều: thứ nhất, con người cảm thấy nếu mình có một nguyện vọng và mưu cầu hợp lý, không có gì quá đáng, Đức Chúa Trời nên thành toàn cho họ. Thứ hai, con người cảm thấy Đức Chúa Trời đã trả giá nhiều đến vậy để làm việc trên con người mà họ vẫn không hiểu, vậy Đức Chúa Trời nên làm một vài công tác siêu nhiên, khai sáng cho họ ngay lập tức, để cho họ biết con đường đúng đắn trong đời, đừng để cho cả đời họ chịu nhiều đau khổ như vậy, còn phải tự mình mò mẫm, tự mình trải nghiệm, nếm trải. Thứ ba, con người có quan niệm đối với tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, cảm thấy Đức Chúa Trời đã trả giá nhiều đến vậy cho con người, thì cuối cùng phải nhìn thấy thành quả, con người phải được Ngài thu nhận. Thứ tư, những người tin Đức Chúa Trời đều có một vài tâm lý ăn may.) Còn gì nữa không? Còn ai muốn nói gì nữa? (Thưa, còn có một quan niệm rằng Đức Chúa Trời đã làm việc nhiều năm như vậy, đã thực hiện công tác lớn lao như vậy, thì Ngài nên thu nhận được nhiều người hơn, và nếu thu nhận được ít hơn thì đó không phải là công tác của Đức Chúa Trời.) Vậy là có năm điều. Còn nữa không? (Thưa, con nghĩ đến một điều, đó là con người có một số trải nghiệm đặc biệt, ví dụ như từng gặp phải sự truy bắt và bách hại, trong quá trình này họ có một vài sự giao tiếp chân thực với Đức Chúa Trời và có lời chứng chân thực thì họ xem nó như một loại vốn liếng, cho rằng có lời chứng trải nghiệm như vậy thì có thể được Đức Chúa Trời khen ngợi, xác suất sống sót sẽ cao.) (Thưa, còn nữa, con người cho rằng mình làm công tác càng lớn, trả giá càng nhiều thì càng được Đức Chúa Trời khen ngợi, càng có hy vọng được cứu rỗi.) Nói cách khác, con người cho rằng xác suất được Đức Chúa Trời khen ngợi là căn cứ vào cái giá mình trả ra là bao nhiêu, hai thứ này phải tỷ lệ thuận với nhau chứ không được tỷ lệ nghịch với nhau, không được không có quan hệ mà phải móc nối với nhau, đây là một loại quan niệm. Đây là điều thứ bảy. Còn gì nữa? (Thưa, còn có một phương diện nữa, con người cho rằng Đức Chúa Trời muốn làm cho con người hiểu lẽ thật thì phải khai sáng để con người hiểu, chứ không nên thử luyện, tước đoạt, làm cho con người đau khổ. Bởi vì Đức Chúa Trời yêu thương con người, mà khiến con người chịu đựng đau khổ thì không phải là tình yêu thương.) Đây là có quan niệm về tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Còn có quan niệm gì nữa? (Thưa, con người cho rằng Ðức Chúa Trời thu nhận được mọi người thì càng tốt, như vậy Sa-tan sẽ bị sỉ nhục, Ðức Chúa Trời cũng thu nhận được con người, thực ra đó là ý nghĩ ích kỷ và đê tiện của con người, là vì chính bản thân họ.) Họ có một tưởng tượng hoàn mỹ về kết quả công tác của Đức Chúa Trời, đây cũng là quan niệm. Ngoại trừ những mục đích ích kỷ và đê tiện của con người ra, họ cho rằng Đức Chúa Trời làm tất cả những thứ này thì phải có đầu có cuối, kết cục nhất định là hoàn mỹ, nhất định là như con người mong muốn, phù hợp với tưởng tượng của con người, phù hợp với một loại khao khát của con người về những gì tốt đẹp. Tuy nhiên, khi Đức Chúa Trời kết thúc công tác, sự thật thường không phù hợp với tưởng tượng của con người, và kết cục của tất cả những điều này không nhất thiết phải hoàn mỹ như con người tưởng tượng. Đương nhiên, con người cũng không muốn thấy khi công tác của Đức Chúa Trời kết thúc thì không còn bao nhiêu người được tồn tại, cũng giống như tín đồ trong Thời đại Luật pháp cũng không có bao nhiêu người kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác như Gióp. Con người cảm thấy rằng kết quả công tác của Đức Chúa Trời không nên như vậy, bởi vì Đức Chúa Trời toàn năng mà, họ định nghĩa sự toàn năng của Đức Chúa Trời như vậy đấy. Bản thân định nghĩa đối với sự toàn năng của Đức Chúa Trời này chính là một loại quan niệm, là một loại khái niệm của chủ nghĩa hoàn mỹ trong tưởng tượng của con người, hoàn toàn không liên quan đến điều Đức Chúa Trời muốn làm và nguyên tắc mà Đức Chúa Trời làm công tác. Còn có những quan niệm nào nữa? (Thưa, người ta tin Đức Chúa Trời mà không nghĩ lại con đường mình đi là gì và làm thế nào để có thể thoát khỏi sự bại hoại và được cứu rỗi. Thay vào đó, họ cảm thấy Đức Chúa Trời là toàn năng, Ngài nói sẽ khiến con người thay đổi thì con người sẽ thay đổi.) Đức Chúa Trời nói cho con người biết họ nên thay đổi như thế nào, thì họ lại không thực hành, bản thân không thay đổi, lại còn luôn muốn bớt việc, muốn Đức Chúa Trời thay đổi họ. Điều này mang theo một dạng tưởng tượng rỗng tuếch, một loại quan niệm. Còn nữa không? (Thưa, con người cảm thấy nếu một người cả đời đã phải chịu đựng rất nhiều đau khổ, vấp phải rất nhiều trắc trở thì cuối cùng họ nên có một kết cục tốt đẹp, và Đức Chúa Trời không nên vứt bỏ họ. Cuối cùng, khi người đó không được Đức Chúa Trời thu nhận, Ngài muốn vứt bỏ họ, thì con người sẽ đứng trên lập trường của một “người tốt” để nhìn nhận và đối đãi với tất cả những điều mà Ngài đã làm. Họ cảm thấy Ngài làm như vậy là không hợp với ý của con người, làm như vậy là quá tàn khốc.) Đây là vấn đề gì? Các ngươi chỉ kể lại một số chuyện và một vài nhận thức cảm tính của mình, chứ không nói được đây là vấn đề về quan niệm. Quan niệm của con người ở đây chủ yếu là gì? Con người cho rằng Đức Chúa Trời dựa trên mức độ đáng thương và mức độ chịu khổ của một con người mà cứu rỗi họ. Con người cho rằng Đức Chúa Trời ở thời điểm cuối cùng quyết định kết cục của con người thì nên thể hiện lòng thương xót của Ngài, thể hiện sự rộng lượng, khoan dung, yêu thương và trắc ẩn của Ngài. Bởi vì người này đã chịu khổ quá nhiều rồi, cả đời này quá đáng thương rồi, bất kể họ có hiểu lẽ thật hay không, bất kể họ thuận phục Đức Chúa Trời chừng nào, thì Ngài cũng không nên nhìn những điều đó, mà nên nể tình họ đáng thương, nể tình họ chịu khổ nhiều, nể tình họ cố chấp với giấc mơ của mình như vậy mà phá lệ cho họ được cứu rỗi, đây là quan niệm của con người. Con người có rất nhiều cái “nên”, dùng nhiều cái “nên” như vậy để quy định Đức Chúa Trời nên làm như thế nào, để định nghĩa hành động của Đức Chúa Trời. Khi sự thật thể hiện rõ Đức Chúa Trời không làm như vậy, thì giữa con người và Đức Chúa Trời sẽ nảy sinh sự chia rẽ, hiểu lầm của con người đối với Đức Chúa Trời cũng sẽ nảy sinh. Đó chỉ là hiểu lầm thôi sao? Sự phản nghịch của con người cũng theo đó mà nảy sinh. Thứ mà quan niệm mang đến cho con người chính là những tai hại này, những hậu quả này.
Trọng điểm mà chúng ta nói đến là quan niệm. Thông qua câu chuyện vừa kể, con người có thể thấy được rằng nhân vật chính dùng rất nhiều quan niệm để đánh giá mọi sự mà Đức Chúa Trời sắp đặt, nhưng thông qua mọi chuyện xảy đến với nhân vật chính và cách thức Đức Chúa Trời đối xử với cô, con người lại nảy sinh ra rất nhiều ý nghĩ và yêu cầu đối với Đức Chúa Trời, đây đều là quan niệm. Các ngươi lại nói xem, con người còn có những quan niệm nào? (Thưa, con người cho rằng nếu Đức Chúa Trời đã thực hiện công tác lớn như vậy thì Ngài nên thu nhận nhiều người hơn, nhưng Đức Chúa Trời phán rằng thu nhận được mấy người thì tính là mấy người, thế là con người cảm thấy Đức Chúa Trời không thích thu nhận nhiều người như vậy, nên họ không mưu cầu nữa.) Quan niệm ảnh hưởng đến sự mưu cầu của con người. Ở đây phải đính chính lại một chút, không phải Đức Chúa Trời không thích thu nhận được nhiều người, Ngài thích chứ. Trong chuyện này có một vấn đề, cuối cùng khi Đức Chúa Trời quyết định kết cục của con người, Ngài căn cứ vào điều gì để nói rằng Ngài không làm việc trên con người nữa mà thay vào đó lại vứt bỏ con người? Trong chuyện này, Đức Chúa Trời có một tiêu chuẩn, cũng là nguyên tắc và giới hạn cuối cùng. Nếu ngươi có quan niệm hoặc là nhìn không thấu đối với tiêu chuẩn, nguyên tắc và ranh giới cuối cùng này, thì ngươi sẽ nảy sinh những sự đối chọi hoặc là tưởng tượng đối với Đức Chúa Trời. Có người nói: “Đức Chúa Trời bỏ ra nhiều công sức trên người cô như vậy mà cô cũng không thay đổi, không buông bỏ nguyện vọng của mình, vẫn kiên trì với nguyện vọng của mình, không đến trước mặt Đức Chúa Trời, cho nên Đức Chúa Trời đã vứt bỏ cô”, đây có phải là nguyên nhân chính hay không? (Thưa, không phải.) Vậy nguyên nhân chính là gì? Vào cuối câu chuyện, khi nhân vật chính già đi, mặc dù dung mạo của cô đã thay đổi, tuổi tác dần dần tăng lên theo năm tháng, thời đại thay đổi, nhưng thứ không thay đổi là nguyện vọng của cô và những ảo tưởng gần như mơ hồ của cô. Vậy điều gì đã khiến cô tiếp tục kiên trì với nguyện vọng như vậy? (Thưa, là tâm tính cương ngạnh và phản nghịch.) Đúng vậy, chính việc cô không yêu thích lẽ thật, không mưu cầu lẽ thật, không tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, không thực hành lẽ thật đã gây ra kết quả như vậy. Những tâm tính bại hoại như kiêu ngạo, cương ngạnh, cố chấp của cô làm cho cô vẫn kiên trì với nguyện vọng của mình, với lý tưởng của mình, không thể buông bỏ lý tưởng của bản thân. Chuyện này do đâu mà ra? Là do tâm tính bại hoại của cô gây ra. Cho nên, khi Đức Chúa Trời nhìn thấy một người đi đến cuối con đường mà tâm tính của họ vẫn cương ngạnh, kiêu ngạo và cố chấp, thì điều này nghĩa là gì? Người này trong thời gian Đức Chúa Trời công tác, mặc dù nhìn bề ngoài thì họ đang đi theo Đức Chúa Trời, cũng đang làm bổn phận, nhưng trong mọi việc đang làm, họ lại không thực hành trải nghiệm lời Đức Chúa Trời, về thực chất họ cũng không có lối vào sự sống, người như vậy có sự tiếp nhận và thuận phục chân thực với công tác của Đức Chúa Trời hay không? (Thưa, không.) Đúng vậy, điều này tạo thành kết quả cuối cùng là bị Đức Chúa Trời vứt bỏ. Họ đi hết con đường cuộc đời, tuy rằng họ đã đến trước mặt Đức Chúa Trời, hiểu rằng Đấng Tạo Hóa sắp đặt mọi thứ, hiểu rằng Đấng Tạo Hóa an bài số phận con người, thế nhưng trong thời gian họ đi theo Đức Chúa Trời, lắng nghe lời Đức Chúa Trời, thì tâm tính cương ngạnh, kiêu ngạo, cố chấp của họ cuối cùng cũng không hề thay đổi chút nào. Kết quả này của chuyện này như thế nào thì không cần nói cũng biết. Đây là tiêu chuẩn cuối cùng để Đức Chúa Trời vứt bỏ một con người, và đây là nguyên tắc của Đức Chúa Trời. Bất kể con người có cái nhìn và đánh giá như thế nào về nguyên tắc và tiêu chuẩn này của Đức Chúa Trời, Ngài đều sẽ không chịu sự ảnh hưởng của con người, Ngài nên làm như thế nào thì vẫn làm như thế đó. Ngươi không tiếp xúc với người này, không hiểu thực chất trong sâu thẳm nội tâm của họ rốt cuộc là gì, tâm tính của họ rốt cuộc là gì, ngươi chỉ nhìn bề ngoài, mãi mãi không hiểu nguyên tắc và căn nguyên Đức Chúa Trời làm như vậy là gì. Ngươi sẽ xét đoán hành động của Ngài, xét đoán sự quy định của Ngài đối với người này. Ta hỏi các ngươi, đối với một người đáng thương như vậy, đối với một người đã trải qua đủ loại đau khổ trong cuộc đời, tức là một người đã trải qua cả đời đau khổ, tại sao Đức Chúa Trời lại có một cách xử lý như vậy đối với họ? Tại sao Ngài lại vứt bỏ họ? Kết quả này là điều mà mọi người đều không muốn nhìn thấy, nhưng nó thực sự là sự thật, là điều thực sự tồn tại, lý do Đức Chúa Trời đối xử với họ như vậy là gì? Là vì sự mưu cầu và tâm tính như vậy của họ, cùng con đường mà họ đi, nếu Đức Chúa Trời công tác thêm mười năm nữa, liệu họ có thay đổi không? (Thưa, không.) Vậy nếu Ngài lại công tác thêm năm mươi năm nữa và cho họ sống lâu hơn một chút, liệu họ có thay đổi không? (Thưa, không.) Tại sao không thay đổi? (Thưa, vì thực chất bản tính của họ đã được quyết định rồi, họ không phải là người mưu cầu lẽ thật, vì vậy dù tin bao nhiêu năm đi nữa họ cũng sẽ không có sự thay đổi.) Ai đó nói cụ thể hơn đi? (Thưa, con đường họ đi là không đúng, không đi con đường mưu cầu lẽ thật, điều này quyết định rằng dù họ tin bao nhiêu năm đi nữa cũng chỉ vô ích. Họ tin mười năm, hai mươi năm nữa thì con đường họ đi, phương hướng cuộc đời họ cũng sẽ không xoay chuyển.) Chuyện là như vậy. Bên trong họ tồn tại quan niệm và tưởng tượng, họ không mưu cầu lẽ thật, không mưu cầu hiểu lẽ thật, bước vào lẽ thật, thay vào đó họ mưu cầu việc liên tục đi theo về mặt hình thức, nhưng thực chất của họ lại không thay đổi chút nào. Họ tin Đức Chúa Trời mười năm, hai mươi năm mà không mưu cầu lẽ thật, tin ba mươi năm, năm mươi năm vẫn không mưu cầu lẽ thật, cuối cùng những thứ họ bộc lộ ra, sống thể hiện ra mãi mãi đều không thay đổi. Điều này là do thực chất bản tính của họ quyết định, đây là dạng tâm tính của họ. Từ đầu đến cuối không thay đổi, quan niệm và tưởng tượng của họ đối với Đức Chúa Trời từ đầu đến cuối không thay đổi, vậy cách Đức Chúa Trời xử lý họ như thế thì có nguyên tắc hay không? Rất có nguyên tắc. Con người luôn ra vẻ là người tốt, cảm thấy mình khoan dung biết bao, vĩ đại biết bao. Vậy sự khoan dung của ngươi lớn bằng sự khoan dung của Đức Chúa Trời không? Tình yêu của ngươi có lớn bằng tình yêu của Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Sự khoan dung của Đức Chúa Trời là gì? Làm sao mà ngươi thấy Đức Chúa Trời có sự khoan dung, thấy Đức Chúa Trời có tình yêu thương? Ngài dùng các cách thức khác nhau có lợi cho con người để đưa con người đến trước mặt Ngài, để con người nghe lời Ngài, nghe hiểu lời Ngài, để con người đi và thực hành theo cách thức Đức Chúa Trời yêu cầu, nhưng họ lại không tiếp nhận, họ vẫn kiên trì với quan điểm của mình đến cuối cùng. Vậy trong quá trình trải nghiệm của họ đời này, Đức Chúa Trời từng vứt bỏ họ chưa? (Thưa, chưa từng.) Đức Chúa Trời không vứt bỏ họ, trong mỗi giai đoạn của cuộc đời họ, Đức Chúa Trời đều nghiêm túc chịu trách nhiệm đến cùng về mọi chuyện Ngài làm cho họ, mọi chuyện Ngài yêu cầu họ trải nghiệm. Đức Chúa Trời chịu trách nhiệm đến cùng là vì mục đích gì? Là để có thể nhìn thấy một kết quả tốt, có thể nhìn thấy một kết quả làm cho con người hài lòng, như ý, để cho họ có thể hưởng thụ được hạnh phúc thực sự trong nguyện vọng của họ, đây chính là sự khoan dung của Đức Chúa Trời. Nhưng kết quả cuối cùng mà Đức Chúa Trời nhìn thấy là gì? Đức Chúa Trời có nhìn thấy kết quả cuối cùng mà Ngài muốn nhìn thấy không? (Thưa, không.) Ngài không nhìn thấy, đã không còn thấy hy vọng gì nữa. Ngài không còn thấy hy vọng có nghĩa là gì? Nghĩa là Đức Chúa Trời đã không còn ôm bất cứ hy vọng gì nơi người này nữa, dùng cách nói của con người thì chính là tuyệt vọng. Nếu có một tia hy vọng, Đức Chúa Trời cũng sẽ không vứt bỏ, đây là sự khoan dung của Đức Chúa Trời, là tình yêu thương của Ngài. Sự khoan dung và tình yêu thương của Đức Chúa Trời được thực hiện trên con người một cách thực tế, chứ không phải chỉ là nói một câu nói suông. Cuối cùng, điều Đức Chúa Trời nhìn thấy nơi người này chính là tâm tính bại hoại của con người vẫn không thay đổi, sự cố chấp vẫn được giữ vững, nguyện vọng của con người vẫn lưu lại nơi đáy lòng. Con người tuy rằng muốn được phúc, nhưng khi đến trước mặt Đức Chúa Trời thì họ không chịu vứt bỏ gì cả, chỉ một nguyện vọng nho nhỏ mà con người lại kiên trì với nó cả đời, cầm giữ cả đời, nắm thật chặt, nắm suốt một đời. Bề ngoài, con người giao bản thân cho Đức Chúa Trời, giao cả cuộc đời mình cho Đức Chúa Trời, giao người thân của mình cho Đức Chúa Trời, nhưng trên thực tế thì sao? Họ muốn tự mình làm chủ, làm chủ người bên cạnh mình, làm chủ người thân của mình, làm chủ bản thân mình, hơn nữa còn muốn dựa dẫm lẫn nhau, họ cũng không thật sự giao mọi thứ cho Đức Chúa Trời. Cho dù nhìn từ phương diện nào, con đường con người đi cũng không phải là tuân theo con đường của Đức Chúa Trời, cũng không phải là thỏa mãn yêu cầu của Đức Chúa Trời một cách có ý thức, căn bản là không đi trên con đường tuân theo con đường của Đức Chúa Trời. Cả đời họ chịu nhiều cực khổ như vậy, trải nghiệm nhiều chuyện không bình thường như vậy, nhưng như thế vẫn không khiến họ từ bỏ hình ảnh cuộc đời hạnh phúc tốt đẹp mà họ phác thảo ra, cũng không khiến họ có bất cứ sự nghĩ lại nào. Đây là người như thế nào? Người như vậy quá cương ngạnh. Con người không mưu cầu lẽ thật, không đi con đường đúng đắn trong đời, thì kết quả cuối cùng chính là như vậy. Đến cuối cùng, những gì Đức Chúa Trời làm đã là tận tình tận nghĩa, đã vượt quá tưởng tượng của con người, vượt quá phạm vi mà con người có thể đạt tới, Đức Chúa Trời đã cho con người quá nhiều. Căn cứ vào sự bại hoại và tâm tính con người, căn cứ vào thái độ của con người đối với Đức Chúa Trời, thì con người không nên có được những điều này, không xứng đáng có được những phúc lành này, nhưng Đức Chúa Trời có vứt bỏ không? Ngài đã làm rất nhiều công tác trước khi vứt bỏ, Ngài chưa bao giờ tiếc rẻ mà ban tình yêu, lòng thương xót, ân điển và phước lành của Ngài cho con người, nhưng sau khi con người nhận được những điều này từ Ngài, thái độ của con người đối với Đức Chúa Trời là gì? Vẫn là tránh né, rời xa, thường hoài nghi, đề phòng, chống đối, từ bỏ ở trong lòng. Tại sao họ luôn muốn dựa vào con người để tạo ra cuộc sống hạnh phúc? Họ không thể tin Đức Chúa Trời, không tin Đức Chúa Trời có thể đưa họ lên con đường đúng đắn hay là khiến họ có hạnh phúc, họ luôn cảm thấy con đường của mình là đúng. Nếu Đức Chúa Trời có thể căn cứ theo con đường họ đã chọn và yêu cầu của họ mà giúp đỡ và dẫn dắt họ thực hiện mục đích của mình, họ sẽ tiếp nhận và thuận phục. Nhưng Đức Chúa Trời bày tỏ lẽ thật để khiến con người trở về với Đức Chúa Trời, để họ có thể tiếp nhận lẽ thật và sống thể hiện ra một cuộc đời có ý nghĩa, điều này lại không phù hợp với quan niệm của họ. Cho nên, họ muốn đi con đường của mình, trải qua cuộc sống của mình, họ cho rằng phải dựa vào chính mình, còn dựa vào người khác, dựa vào Đức Chúa Trời thì không đạt được mục đích của bản thân. Bởi vì con người không hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời, chỉ bám giữ quan niệm của mình, cho nên họ ngày càng rời xa Đức Chúa Trời. Chỉ có người nhìn thấy Đức Chúa Trời là lẽ thật, đường đi, và sự sống, nhìn thấy con người bại hoại quá sâu sắc, cần sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, nhìn thấy chỉ có mọi thứ mà Ngài làm mới là lẽ thật, đều là để cứu rỗi con người thoát khỏi quyền thế của Sa-tan, đưa nhân loại vào trong đích đến tốt đẹp, người như vậy mới có thể ngưỡng vọng Đức Chúa Trời, dựa vào Ngài, đi theo Ngài đến cuối cùng, vĩnh viễn không rời xa Đức Chúa Trời.
Những điều vừa mới thông công đó chính là thái độ của Đức Chúa Trời đối với một con người, cũng là những cách thức khác nhau mà Đức Chúa Trời công tác giữa con người và trên con người. Nếu con người nảy sinh quan niệm trong chuyện này thì nên thường xuyên kiểm điểm, nghĩ lại, nhận thức, rồi sau đó xoay chuyển. Mục đích của sự xoay chuyển là gì? Nếu như con người nhận thức được đây là quan niệm, tưởng tượng, nhận thức được Đức Chúa Trời rốt cuộc làm như thế nào, vậy con người còn dễ dàng nảy sinh một số quan niệm sai lầm, lệch lạc hơn đối với Đức Chúa Trời hay không? Vẫn có thể, bởi vì con người có sự phản nghịch, có tư tưởng sống động, dễ nảy sinh các loại quan niệm khác nhau đối với Đức Chúa Trời, từ quan niệm này nảy sinh quan niệm khác, rồi lại từ quan niệm khác nảy sinh quan niệm khác nữa, các loại quan niệm cứ không ngừng nảy sinh. Trong khi nảy sinh quan niệm đối với Đức Chúa Trời, thì con người không ngừng hiểu lầm Ngài, cũng không ngừng nghĩ lại, sau đó lại không ngừng hiểu lẽ thật, và trong quá trình này họ dần dần nhận thức Đức Chúa Trời. Lý do nào khiến con người không đạt tới nhận thức Đức Chúa Trời? Do họ không biết cái gì là quan niệm, không nhận thức được quan niệm bên trong mình, không nghĩ lại về quan niệm của mình, cũng chưa bao giờ buông bỏ quan niệm của mình. Họ chỉ chú trọng giữ vững quan niệm của mình, chưa bao giờ nghe ngóng cũng chưa bao giờ nhận thức Đức Chúa Trời làm như thế nào, thực chất công tác của Đức Chúa Trời là gì. Người như thế ngoại trừ tâm tính bại hoại ra còn có thêm một thứ ngăn cách giữa Đức Chúa Trời và họ, và nó cũng ảnh hưởng đến sự cứu rỗi của họ. Cho nên, trong khi giải quyết tâm tính bại hoại của mình, con người cần nhận thức chi tiết hơn, tỉ mỉ hơn về chuyện quan niệm của con người là những điều gì. Mục đích của việc nhận thức và giải quyết quan niệm của con người là gì? Là để buông bỏ quan niệm sao? Mục đích là để con người có thể nhanh chóng bước vào thực tế lẽ thật, hiểu điều Đức Chúa Trời muốn con người bước vào rốt cuộc là gì, hiểu Đức Chúa Trời làm như thế nào. Nếu Đức Chúa Trời làm theo những gì ngươi tưởng tượng, vậy công tác mà Đức Chúa Trời làm trên ngươi có thể đạt được kết quả không? Không thể. Ví dụ như, có một số chuyện Đức Chúa Trời không bao giờ khai sáng cho ngươi, thay vào đó Ngài quy định bằng văn bản rõ ràng để nói cho ngươi biết phải làm như thế nào, ngươi cứ làm như vậy là được, thế nhưng ngươi luôn chờ Đức Chúa Trời cảm thúc, luôn chờ Ngài khai sáng, kết quả việc chờ đợi này làm công tác bị chậm trễ, bổn phận làm không tốt và bị cách chức, điều này do cái gì gây ra? (Thưa, do quan niệm.) Bây giờ nhìn vào, ngươi thấy quan niệm của con người có phải sẽ ảnh hưởng đến việc bước vào của con người không? (Thưa, phải.) Nó ảnh hưởng đến mức độ nào? Nhẹ nhất thì nó sẽ ảnh hưởng đến việc con người hiểu lẽ thật, bước vào thực tế; nặng nhất thì nó sẽ ảnh hưởng đến sự lựa chọn đúng đắn của con người, dễ khiến con người đi lên con đường sai lầm. Người có quan niệm thì dễ hiểu lầm Đức Chúa Trời nhất. Ví dụ như, Đức Chúa Trời tỉa sửa con người, phán xét và hành phạt con người, đều là để đạt được hiệu quả tích cực, để khiến con người biết mình, có sự hối cải chân thực, nhưng con người lại cho rằng Đức Chúa Trời cố ý đối đầu với họ, là Đức Chúa Trời cố ý muốn tỏ lộ họ, đào thải họ. Cho dù Đức Chúa Trời nói gì, làm gì, họ đều nghĩ xấu về Đức Chúa Trời, cho rằng Ngài không có tình yêu thương đối với họ, thậm chí Ngài còn có thể đối xử với những người thực hành lẽ thật như những kẻ ngốc. Đức Chúa Trời chỉ cho con người con đường đúng đắn, khiến cho con người thực hành lẽ thật, sống trong ánh sáng, họ khăng khăng muốn sống trong bóng tối dựa vào triết lý và lô-gic của Sa-tan, như vậy con đường mà họ đi không phải là con đường được cứu rỗi. Nếu ngươi khăng khăng muốn chống lại Đức Chúa Trời thì chẳng phải ngươi ngày càng rời xa công tác của Ngài sao? Khi ngày càng rời xa con đường được cứu rỗi, ngươi sẽ bị đào thải triệt để. Kinh Thánh có một câu thế này: “Kẻ ngu dại chết, vì thiếu trí hiểu” (Châm ngôn 10:21). Cái chết có nghiêm trọng không? Ở thời kỳ sau rốt, cái chết không nghiêm trọng, diệt vong mới nghiêm trọng, chết không có nghĩa là diệt vong, nhưng diệt vong thì chắc chắn là không có kết cục, là mãi mãi chết đi. Trước đây Ta từng nói con người có thể chết vì ngu muội, nhưng bây giờ, ngu muội không phải là vấn đề, ai mà không làm chuyện ngu muội chứ? Cái chết cũng không phải là vấn đề, bởi vì chết không nhất định là diệt vong. Vậy vì sao con người bị diệt vong? Con người sẽ bị diệt vong vì sự cố chấp, ngang ngược, so với việc bởi vì ngu muội mà chết thì nghiêm trọng hơn nhiều, cái này sẽ không có kết cục. Vì sao nói cố chấp, ngang ngược có thể dẫn đến việc con người bị diệt vong? Điều này liên quan đến vấn đề con đường mà con người đi. Cố chấp là loại tâm tính gì? Là cương ngạnh. Có tâm tính cương ngạnh này thì rất phiền phức. Có lúc họ không hiểu và chỉ muốn làm như vậy, có lúc họ hiểu rồi mà vẫn muốn làm như vậy chứ không làm theo yêu cầu của Đức Chúa Trời. Còn nữa, ngang ngược cũng là một loại tâm tính, nghĩa là không nói lý lẽ được, trong đây có sự kiêu ngạo, cũng có sự hung ác, hai loại tâm tính này nếu như không thay đổi, cuối cùng có thể dẫn đến việc con người bị diệt vong. Chuyện này có đơn giản không? Các ngươi có đối chiếu được không? Các ngươi nên hiểu tâm tính kiêu ngạo và hung ác có thể dẫn đến việc con người làm ra những chuyện gì. Cho dù là loại người gì thì mỗi chuyện con người làm đều là làm trước mặt Đức Chúa Trời, làm trước mặt Đấng Tạo Hóa, và Đức Chúa Trời sẽ dựa theo tâm tính công chính của Ngài mà phán quyết con người. Vậy người có hai loại tâm tính kiêu ngạo và hung ác thì những chuyện họ làm có thể dẫn đến hậu quả gì? Vì sao nói đây là hậu quả không thể cứu vãn? Đây là điều mà các ngươi đều nên hiểu. Được rồi, đối với quan niệm liên quan đến câu chuyện này thì nói đến đây thôi.
Về quan niệm của con người đối với công tác của Đức Chúa Trời, các ngươi thử nghĩ xem còn có điều gì chưa nói xong hay không? Quan niệm đối với công tác của Đức Chúa Trời chỉ là những điều các ngươi được nghe hôm nay thôi sao? Nếu nói về sự phán xét, hành phạt, thử luyện, tinh luyện, tỉa sửa, tỏ lộ và hoàn thiện con người thì sẽ liên quan đến những nội dung nào? Loại người nào sẽ được Đức Chúa Trời tỉa sửa, hành phạt và phán xét? Loại người nào sẽ gặp phải sự thử luyện, tinh luyện? Đức Chúa Trời làm những công tác này, dùng những cách thức công tác này để làm việc trên con người thì đều có nguyên tắc, có phạm vi, đều căn cứ vào vóc giạc, sự mưu cầu và nhân tính của con người, cũng căn cứ vào mức độ hiểu lẽ thật của con người, hôm nay Ta sẽ không nói cặn kẽ về điều này. Tóm lại, Đức Chúa Trời tỉa sửa con người, sửa dạy con người, hành phạt phán xét, thử luyện, tinh luyện con người đều là dựa trên mấy bước này để công tác trên con người. Nguyên tắc Đức Chúa Trời công tác trên con người và làm đến bước nào thì đều căn cứ vào vóc giạc của con người, từ “vóc giạc” này đối với các ngươi cũng có thể hơi rỗng tuếch. Chủ yếu là đánh giá căn cứ vào mức độ hiểu lẽ thật của con người, quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời có bình thường hay không và mức độ thuận phục của con người đối với Đức Chúa Trời. Nếu căn cứ vào sự phân biệt này thì đa số mọi người bây giờ có gặp phải hình phạt, sự phán xét, thử luyện, tinh luyện hay không? Đối với một số người, có thể vẫn còn sớm, họ chỉ có thể nhìn mà không thể với tới, còn có người nhìn thấy đã khiếp sợ. Tóm lại, những cách thức này là mấy bước mà Đức Chúa Trời cứu rỗi và hoàn thiện con người, mấy bước này được Ngài xác định dựa trên những định nghĩa chính xác về các phương diện của một người. Những công tác mà Đức Chúa Trời làm trên con người đều không phải là tùy tiện, Đức Chúa Trời làm công tác có trình tự, có nguyên tắc, Ngài nhìn vào sự mưu cầu, nhân tính và nhận thức của ngươi, còn nhìn vào thái độ đối đãi với các loại con người, sự việc, sự vật của ngươi trong cuộc sống thường nhật, v.v.. Ngài căn cứ vào những điều này để xác định cách làm việc và dẫn dắt con người. Cần một khoảng thời gian để Đức Chúa Trời xem xét một con người, chứ không phải Ngài quy định qua quýt dựa vào một hai chuyện. Mỗi một chuyện Đức Chúa Trời làm trên bất kỳ người nào đều không phải qua loa như vậy. Có một vài người nói: “Tôi sợ cách thức mà Đức Chúa Trời thử luyện Gióp, lỡ như chuyện đó thực sự đến với tôi và tôi không thể làm chứng cho Đức Chúa Trời, lỡ như Đức Chúa Trời thực sự tước đoạt như vậy, thì tôi phải làm sao?”. Ngươi yên tâm, Ngài tuyệt đối sẽ không tuỳ tiện làm như vậy trên người ngươi, ngươi không cần phải sợ. Tại sao không cần phải sợ? Trước khi sợ hãi, ngươi phải dùng một sự thật để thuyết phục chính mình, nhìn nhận vóc giạc của mình, xem mình có đức tin giống Gióp hay không, có thuận phục như Gióp hay không, có kính sợ Đức Chúa Trời như Gióp hay không, có mức độ trung thành và mức độ tuyệt đối như Gióp trong việc tuân theo con đường của Đức Chúa Trời hay không. Những điều này ngươi đánh giá thử xem, nếu không, thì ngươi có thể yên tâm, Đức Chúa Trời sẽ không cho ngươi thêm sự thử luyện và tinh luyện, bởi vì vóc giạc của ngươi không đủ, còn kém quá xa. Đối với sự thử luyện, tinh luyện của Đức Chúa Trời, con người cũng có một vài quan niệm và tưởng tượng, bao gồm sự ngờ vực, sợ hãi hoặc né tránh, đề phòng của con người. Con người nhận thức thấu đáo những điều này, nhận thức thấu đáo Đức Chúa Trời công tác như thế nào, thì những quan niệm của con người đối với công tác của Đức Chúa Trời dần dần sẽ không còn, con người sẽ chú trọng mưu cầu lẽ thật, dốc công sức vào lời Đức Chúa Trời. Ngài nói những lời này chính là muốn đạt được mục đích này. Ngươi đi theo Đức Chúa Trời thì phải hiểu rõ Đức Chúa Trời làm việc và cứu rỗi con người như thế nào, nếu ngươi thật sự là người mưu cầu lẽ thật thì hãy làm theo yêu cầu của Đức Chúa Trời, đừng nhìn nhận Đức Chúa Trời bằng cái nhìn thiên kiến, đừng dùng lòng dạ tiểu nhân của mình để đo lòng Đức Chúa Trời. Ngươi phải hiểu rõ nguyên tắc làm việc của Đức Chúa Trời rốt cuộc là gì, nguyên tắc Ngài đối đãi với con người là gì, Đức Chúa Trời làm đến mức độ nào trên một con người, tiêu chuẩn đánh giá của Đức Chúa Trời là gì. Sau khi hiểu rõ những điều này, bước tiếp theo ngươi nên làm như thế nào? Điều Đức Chúa Trời hy vọng thấy được không phải là ngươi vứt bỏ sự mưu cầu đối với lẽ thật, không phải là thái độ vò đã mẻ lại còn sứt, mà là sau khi hiểu tất cả chân tướng này, ngươi có thể vững vàng hơn, yên tâm mạnh dạn mà mưu cầu lẽ thật, và nhận thức rõ ràng Đức Chúa Trời là Đấng công chính. Chỉ cần khi đi đến cuối con đường này, ngươi đạt đến tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời cho ngươi, đi trên con đường được cứu rỗi, thì Đức Chúa Trời sẽ không vứt bỏ ngươi. Đối với quan niệm của con người về phương diện hình phạt, sự phán xét, thử luyện, tinh luyện và tỉa sửa, trước tiên hãy nói đại khái về những thứ này đã. Những phương diện chi tiết còn có rất nhiều, muốn nói cho rõ những chi tiết này thì không phải một vài lời là có thể nói rõ ràng, mà phải đưa ra một vài ví dụ thực tế về những gì con người biểu hiện và bộc lộ ra trong cuộc sống hàng ngày, còn phải kể một vài câu chuyện nhỏ và thêm một vài nhân vật, tình tiết nhỏ vào trong đó, để các ngươi nhận thức hoặc giải mã quan niệm của con người rốt cuộc là cái gì thông qua những ví dụ thực tế này, để cho con người nhận thức được những thứ này là quan niệm, không phù hợp với thực tế, hoàn toàn không phù hợp với nguyên tắc và tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời làm. Đức Chúa Trời không làm như vậy, thì ngươi còn suy nghĩ vớ vẩn, suy nghĩ lung tung cái gì? Ngươi luôn sống trong quan niệm và tưởng tượng của mình, ngươi mãi mãi sẽ không biết đi con đường mưu cầu lẽ thật theo yêu cầu của Đức Chúa Trời và luôn có khoảng cách với yêu cầu của Ngài. Cứ tiếp tục đi như vậy thì ngươi sẽ không có con đường thực hành, luôn bị kìm kẹp, bên trái không được, bên phải cũng không xong, vấp phải trắc trở ở mọi nơi, không biết làm thế nào, không có chút gì là thuận lợi cả. Kết quả là tới cuối cùng đến tư cách tiếp nhận hình phạt và sự phán xét của Đức Chúa Trời ngươi cũng không có, như thế thì thật đáng buồn biết bao!
Trong chuyện tin Đức Chúa Trời này, trước đây không có ai nghiêm túc với các ngươi, bây giờ đã đến lúc nghiêm túc rồi, bởi vì thời điểm này quan trọng! Thời gian không còn nhiều, các ngươi đừng coi việc tin Đức Chúa Trời là trò trẻ con. Đức Chúa Trời đã hạ quyết tâm muốn làm trọn vẹn con người và muốn cứu rỗi con người, Ngài muốn làm công tác này cho triệt để. Làm triệt để là làm như thế nào? Chính là muốn nói cho con người biết mọi phương diện của lẽ thật, để cho con người hiểu thấu đáo, không đi con đường lệch lạc. Khi ngươi đi con đường lệch lạc, Đức Chúa Trời sẽ sửa dạy ngươi, và nếu ngươi thường xuyên đi theo con đường của riêng mình, Ngài sẽ liên tục sửa dạy ngươi cho đến khi ngươi trở về con đường đúng đắn mới thôi. Cuối cùng, những gì Đức Chúa Trời làm đều đã làm xong, trong khi ngươi vẫn chưa đạt được yêu cầu của Đức Chúa Trời, vậy thì trách ai? Chỉ có thể oán trách chính mình, lúc đó con người sẽ phải đấm ngực đấm lưng, đau khổ khóc lóc. Điều quan trọng nhất về việc con người hiểu lẽ thật là gì? Đó là phải tiếp nhận lẽ thật, sau khi tiếp nhận thì có thể tìm kiếm lẽ thật, có thể liên hệ với cuộc sống hàng ngày, như vậy con người mới có thể từng bước đạt đến thực sự hiểu lẽ thật. Khi ngươi nghe giảng đạo và chỉ hiểu nghĩa đen mà đã cho rằng mình hiểu rồi, thì đó không phải thực sự hiểu lẽ thật, nghe hiểu thì chỉ là hiểu đạo lý. Sau khi nghe hiểu rồi còn phải liên hệ với tình trạng của mình, với lối vào của mình trong cuộc sống thực tế, đạt đến biết mình, có thể thực hành lẽ thật, đây mới là bước vào thực tế lẽ thật. Nếu ngươi không thực hành như vậy thì lẽ thật, lời Đức Chúa Trời không có quan hệ gì với ngươi, và Đức Chúa Trời cũng không có quan hệ gì với ngươi. Ngươi không thực hành lẽ thật thì ngươi sẽ không đạt được gì cả!
Ngày 11 tháng 10 năm 2018