Chỉ bằng cách giải quyết những quan niệm của mình thì mới có thể tiến vào đúng hướng của đức tin nơi Đức Chúa Trời (3)
Hôm nay chúng ta tiếp tục thông công về vấn đề quan niệm. Trước đó, chúng ta đã thông công hai lần về vấn đề quan niệm, hôm nay thông công một lần nữa là kết thúc. Về những lời đã thông công trước đây, các ngươi sau này hãy tự mình thông công lần nữa, sau đó nghiền ngẫm từng chút một, trải nghiệm từng chút một. Những chủ đề này không phải ngày một, ngày hai là có thể hiểu rõ, đều phải dựa vào những trải nghiệm, thể nghiệm trong cuộc sống mới có thể dần dần hiểu. Bây giờ những gì các ngươi có thể thông công dựa vào trí nhớ chỉ là học vẹt, ăn uống lời Đức Chúa Trời mà không trải nghiệm thì không được, chỉ khi trải nghiệm một khoảng thời gian trong cuộc sống thực tế thì mới có nhận thức, thể nghiệm và lĩnh hội chân thực. Quan niệm của con người chủ yếu là quan niệm đối với Đức Chúa Trời và đối với công tác của Ngài, hai phương diện quan niệm này ảnh hưởng nhất đến sự mưu cầu của con người, ảnh hưởng đến quan điểm nhìn nhận sự việc của con người, cũng ảnh hưởng đến nhận thức và thái độ của con người đối với Đức Chúa Trời, càng có thể ảnh hưởng đến con đường mà người tin Đức Chúa Trời đi, đến phương hướng và mục tiêu cuộc đời mà họ lựa chọn. Thông qua hai lần thông công trước, bây giờ các ngươi có thể định nghĩa rốt cuộc quan niệm là gì không? Tưởng tượng về việc tin Đức Chúa Trời, đây là một loại quan niệm. Những tưởng tượng này chủ yếu biểu hiện ở một số cách làm bề ngoài của lời nói cử chỉ, ở những chuyện chi tiết như ăn, mặc, ngủ, nghỉ trong cuộc sống thường nhật, đây là bước đầu tiên. Tiến thêm một bước nữa là một vài tưởng tượng của con người đối với việc mưu cầu tin Đức Chúa Trời và con đường mà người tin Đức Chúa Trời đi, còn cả một số yêu cầu, tưởng tượng và hiểu lầm của con người đối với công tác của Đức Chúa Trời. Sự hiểu lầm này bao gồm những gì? Tại sao gọi là hiểu lầm? Nói đến hiểu lầm, chắc chắn đây không phải là ý nghĩ chính đáng, mà là ý nghĩ không phù hợp với sự thật, không phù hợp với lẽ thật, không ăn khớp và đi ngược lại công tác của Đức Chúa Trời và tâm tính của Ngài, hoặc là những thứ mà ý của con người nảy sinh ra dựa vào những quan niệm, tưởng tượng và tri thức. Chúng không có chút quan hệ nào với bản thân Đức Chúa Trời, với công tác của Ngài. Khi những quan niệm, tưởng tượng, hiểu lầm và yêu cầu này nảy sinh, cũng tức là quan niệm của con người về Đức Chúa Trời và công tác của Ngài đã đạt đến đỉnh điểm, lúc đó quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời sẽ trở nên như thế nào? (Thưa, có sự ngăn cách.) Giữa con người và Đức Chúa Trời có sự ngăn cách, vấn đề này có nghiêm trọng không? (Thưa, nghiêm trọng.) Khi ngăn cách nảy sinh, thì quan niệm và tưởng tượng của con người sẽ rất nghiêm trọng. Con người nảy sinh sự ngăn cách đối với Đức Chúa Trời, tức là họ không hài lòng đối với một vài việc mà Đức Chúa Trời làm, không muốn tâm sự với Ngài, không muốn đối đãi với Ngài như Đức Chúa Trời, không muốn thuận phục Ngài, nảy sinh nghi ngờ đối với sự công chính và tâm tính của Ngài, tiếp sau đó sẽ còn có những biểu hiện nào? (Thưa, là chống đối.) Nếu con người không tìm kiếm lẽ thật, trong khi sự hiểu lầm này khiến con người nảy sinh sự ngăn cách thì ngay sau đó nó sẽ khiến con người nảy sinh sự chống đối, chống đối lẽ thật, chống đối lời Đức Chúa Trời, chống đối sự tể trị của Ngài, không hài lòng với những việc Ngài làm, họ nói rằng: “Ngài làm như vậy không phù hợp, con không tán thành, con không đồng ý!”. Ngụ ý của lời này là: “Tôi không thể thuận phục, đây là lựa chọn của tôi, tôi phải nói ra tiếng nói bất đồng, một tiếng nói bất đồng với những gì Đức Chúa Trời phán, bất đồng với lẽ thật, với yêu cầu của Ngài”. Đây là hành vi gì? (Thưa, là kêu gào.) Sau khi nảy sinh sự chống đối thì liền kêu gào, đối kháng, như thế là đã leo thang. Khi tâm tính bại hoại của con người làm chủ, quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời chỉ vì một quan niệm mà có thể nảy sinh ngăn cách, nảy sinh hiểu lầm, nếu như không kịp thời tìm kiếm lẽ thật để giải quyết thì sự ngăn cách sẽ càng ngày càng lớn, trở thành một bức tường thật dày, ngươi không nhìn thấy Đức Chúa Trời nữa, không nhìn thấy sự tồn tại chân thực của Ngài nữa, càng không nhìn thấy mặt thực chất thần tính của Ngài nữa. Khi đó, ngươi sẽ hoài nghi xác thịt nhập thể rốt cuộc có phải là Đức Chúa Trời hay không, ngươi cũng không muốn ăn uống lời Đức Chúa Trời, không muốn cầu nguyện với Đức Chúa Trời, như vậy quan hệ với Đức Chúa Trời sẽ càng ngày càng xa cách. Tại sao con người có thể có biểu hiện như vậy? Bởi vì họ cảm thấy những việc Đức Chúa Trời làm khiến tâm hồn và tôn nghiêm của họ bị tổn thương, khiến nhân cách của họ bị áp bức và lăng nhục. Trên thực tế là như vậy sao? (Thưa, không phải.) Vậy chuyện là như thế nào? (Thưa, là vì dục vọng của con người không được thỏa mãn, sự việc gặp phải đụng chạm đến lợi ích của họ.) Chính là bởi vì con người có tâm tính bại hoại, dục vọng xa xỉ của con người nhất thời không được thỏa mãn nên con người nảy sinh sự chống đối với Đức Chúa Trời, vô cùng bất mãn với công tác không hợp với quan niệm con người của Đức Chúa Trời. Họ không thừa nhận, không tiếp nhận rằng Đức Chúa Trời làm như vậy là lẽ thật, là tình yêu thương của Đức Chúa Trời, là để cứu rỗi con người. Họ nảy sinh quan niệm, hiểu lầm đối với những gì Đức Chúa Trời làm, đây có nghĩa là tâm tính bại hoại của con người đã làm chủ. Sau khi những ngăn cách này nảy sinh, các loại tâm tính bại hoại con người dựa vào quan niệm mà sống và bộc lộ ra có những biểu hiện gì? Đó là không tìm kiếm, không chờ đợi, không thuận phục, càng không kính sợ, cũng không có sự hối cải, họ nghiên cứu và phán đoán trước, sau đó lên án, tiếp đó là chống đối. Có phải những hành vi này trái ngược với những biểu hiện tích cực như tìm kiếm, chờ đợi, thuận phục, tiếp nhận, hối cải hay không? (Thưa, phải.) Vậy những hành vi này thuộc về những điều tiêu cực, đó là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại, là tâm tính bại hoại kiểm soát hành vi của họ, kiểm soát tâm tư của họ, cũng kiểm soát thái độ, ý định và quan điểm của họ khi phán đoán con người, sự việc và sự vật. Khi con người nghiên cứu, phân tích, phán đoán, lên án và nảy sinh chống đối, bước tiếp theo con người sẽ làm gì? (Thưa, là đối kháng.) Đến lượt đối kháng rồi. Con người có những biểu hiện nào là đối kháng? (Thưa, là tiêu cực, mặc kệ.) Tiêu cực là một loại, tiêu cực biếng nhác, mặc kệ không thực hiện bổn phận. Còn gì nữa? (Thưa, là phát tán quan niệm.) (Thưa, là xét đoán.) Xét đoán, phát tán quan niệm, đây đều là một số biểu hiện của hành vi kêu gào, đối kháng với Đức Chúa Trời. Còn gì nữa không? (Thưa, có thể sẽ phản bội Đức Chúa Trời, phản bội con đường thật.) Đây là biểu hiện nghiêm trọng nhất rồi, đến bước này thì đó hoàn toàn là quỷ tính lộ ra, hoàn toàn phủ nhận và phản bội Đức Chúa Trời, bất cứ lúc nào cũng có thể rời bỏ Đức Chúa Trời.
Những biểu hiện của hành vi kêu gào, đối kháng với Đức Chúa Trời mà chúng ta vừa nói đến là gì? (Thưa, là tiêu cực biếng nhác, mặc kệ không thực hiện bổn phận.) (Thưa, là xét đoán Đức Chúa Trời.) Là xét đoán Đức Chúa Trời, xét đoán công tác của Ngài. (Thưa, sau đó là phát tán quan niệm và cuối cùng thì sẽ phản bội Đức Chúa Trời.) Hãy nói chi tiết hơn một chút đi. Có lời oán trách nào trong việc phát tán quan niệm hay không? (Thưa, có.) Đôi khi trộn lẫn đôi chút oán trách, với ý là: “Những việc Đức Chúa Trời làm cũng không công chính”, “Tôi tin Đức Chúa Trời, tôi không tin con người”, “Tôi tin Đức Chúa Trời là công chính”. Họ nói kiểu lời nói này và trong những lời này có sự oán trách. Tiêu cực biếng nhác, phát tán quan niệm, xét đoán Đức Chúa Trời, mấy việc này đều khá nghiêm trọng, nghiêm trọng nhất là phản bội. Bốn điều này khá rõ ràng, khá nghiêm trọng, mang tính chất trực tiếp chống lại Đức Chúa Trời. Trong mấy điều này còn có những biểu hiện chi tiết nào mà các ngươi có thể đã nghĩ đến, đã gặp qua, hoặc là đã từng có? (Thưa, còn có kích động. Muốn trút hết bất mãn với Đức Chúa Trời thì kích động càng nhiều người đứng lên đối kháng với Đức Chúa Trời.) Đây là một loại biểu hiện trong việc phát tán quan niệm. Có ai bề ngoài thuận phục, nhưng khi cầu nguyện lại nói rằng: “Hãy để Đức Chúa Trời tỏ lộ, điều tôi làm là đúng, thời gian sẽ tỏ lộ mọi sự, không phải Đức Chúa Trời công chính sao”? Lời này nghe có vẻ rất đúng, lại còn có vẻ cây ngay không sợ chết đứng, nhưng bên trong lại ẩn chứa sự không phục, bất mãn đối với Đức Chúa Trời, đây là sự đối kháng trong lòng, là tiêu cực biếng nhác, tiêu cực đối kháng. Còn có phương diện nào khác hay không? (Thưa, bên trong tiêu cực biếng nhác còn có cam tâm sa đọa, thái độ bất cần, cảm thấy dù sao mình cũng chính là loại người này, chính là loại bản tính này, ai cũng không cứu rỗi được, Đức Chúa Trời muốn diệt thì diệt thôi.) Đây là một loại đối kháng âm thầm, thực ra tình trạng thực sự của họ là tiêu cực, họ cảm thấy những việc Đức Chúa Trời làm không có cách nào hiểu được, con người nhìn không thấu, Đức Chúa Trời thích làm như thế nào thì làm như thế đó. Bề ngoài có vẻ như họ đã thuận phục sự sắp đặt, an bài của Đức Chúa Trời, nhưng trên thực tế, sâu thẳm nội tâm họ đang chống đối sâu sắc với sự an bài của Ngài, đặc biệt bất mãn và không phục. Con người đã thừa nhận đây là việc Đức Chúa Trời làm, cũng không có yêu cầu gì, vậy tại sao còn nói đây là một loại cảm xúc chống đối? Tại sao lại xác định tính chất của nó như vậy? Thực ra, trong ý thức của họ cũng không muốn lên án chuyện này, không muốn quy định mà nói: “Đức Chúa Trời làm chuyện này là sai, tôi sẽ không tiếp nhận, Đức Chúa Trời làm chuyện khác tôi còn có thể thuận phục, nhưng chuyện này tôi không thuận phục. Dù thế nào đi nữa, tôi cũng sẽ vì chuyện này mà tiêu cực biếng nhác”. Trong tiềm thức của họ, tình trạng của họ không phải như vậy, họ không có ý thức này, trong lòng họ chỉ là có chút không phục, bất mãn hoặc là bất bình. Cũng có thể có một bộ phận người sẽ lên án, nói rằng những chuyện Đức Chúa Trời làm là sai, nhưng từ sâu thẳm nội tâm họ, xét từ ý nguyện chủ quan của họ, trong ý thức của họ không hề muốn lên án như vậy, dù sao Đấng họ tin vẫn là Đức Chúa Trời. Vậy tại sao lại nói hành vi này của họ là đối kháng, là tiêu cực biếng nhác, là có thành phần tiêu cực? Bản thân tiêu cực là một loại chống đối, đối kháng, và trong chuyện này có vài biểu hiện. Đầu tiên, khi con người nảy sinh những tình trạng như bất cần và tiêu cực biếng nhác, trong lòng con người có thể ý thức được tình trạng này là sai hay không? (Thưa, có thể.) Mỗi một người đều có thể nhận thức được, trừ những người mới tin hai hoặc ba năm và ít nghe giảng đạo, họ không hiểu được những chuyện này. Miễn là người đã tin Đức Chúa Trời ba năm trở lên, thường xuyên nghe giảng đạo và hiểu lẽ thật thì đều có thể ý thức được. Khi con người ý thức được những tình trạng này là không đúng, họ nên làm như thế nào mới không phải là đối kháng? Đầu tiên phải tìm kiếm. Tìm kiếm cái gì? Tìm kiếm lý do tại sao Đức Chúa Trời lại sắp đặt như vậy, tại sao bản thân phải gặp những chuyện như vậy, tâm ý của Đức Chúa Trời là gì, bản thân nên làm gì, như thế là tích cực, là biểu hiện mà con người nên có. Còn gì nữa không? (Thưa, là tiếp nhận, thuận phục, buông bỏ ý nghĩ của mình.) Ý nghĩ của bản thân có dễ buông bỏ hay không? (Thưa, không dễ buông bỏ.) Ngươi cho rằng mình đúng thì không thể buông bỏ được, muốn đạt đến buông bỏ thì phải có trình tự. Vậy những cách thực hành nào là thích hợp nhất, thỏa đáng nhất? (Thưa, là cầu nguyện.) Nếu ngươi cầu nguyện mà chỉ nói một vài câu sáo rỗng, cầu nguyện cho xong chuyện, thì sẽ không giải quyết được vấn đề. Ngươi cầu nguyện rằng: “Thưa Ðức Chúa Trời, con sẵn lòng thuận phục, xin Ngài hãy sắp đặt, an bài hoàn cảnh để con có thể thuận phục. Nếu con không thuận phục, xin Ngài hãy trách phạt con”, nói mấy lời sáo rỗng như vậy thì tình trạng sai trái đó có thay đổi được không? Một chút cũng không thay đổi. Ngươi phải có một cách thực hành khiến ngươi có thể xoay chuyển. Vậy thực hành như thế nào mới có thể xoay chuyển được? (Thưa, con người nên chủ động tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời, trong lòng thừa nhận rằng Đức Chúa Trời đúng, còn mình sai, có thể chối bỏ chính mình.) Đó là hai cách thực hành, chủ động tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời, và trong lòng thừa nhận rằng Đức Chúa Trời đúng, còn mình sai. Cả hai cách này đều rất hay, nói đều đúng, nhưng có một cách là thực dụng nhất. Cách nào là thực dụng? Cách nào là nói suông? (Thưa, chủ động tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời là thực dụng.) Nhiều khi, Đức Chúa Trời sẽ không trực tiếp nói cho ngươi biết tâm ý của Ngài, mặt khác, Ngài cũng sẽ không đột nhiên ban cho ngươi ánh sáng để ngươi hiểu, Đức Chúa Trời cũng sẽ không khiến ngươi ăn uống được lời Đức Chúa Trời có liên quan mà ngươi nên hiểu đúng lúc. Mấy con đường tắt này đối với con người mà nói đều không quá thực tế. Cho nên, đối với các ngươi mà nói, cách chủ động tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời có thể có hiệu quả hay không? Phương pháp có hiệu quả mới là phương pháp tốt nhất, là phương pháp hiện thực nhất, thực tế nhất. Còn phương pháp không có hiệu quả thì có nói dễ nghe hơn nữa cũng chỉ là lý luận, chỉ có thể dừng lại ở đầu lưỡi, chứ không đạt được hiệu quả. Vậy cách nào là thực dụng? (Thưa, là cách thứ hai, thừa nhận Đức Chúa Trời là lẽ thật, còn bản thân mình sai.) Đúng vậy, thừa nhận sai lầm của mình, điều này là có lý trí. Có vài người nói họ không nhận thức được mình sai, trong tình huống này ngươi nên có lý trí, có thể buông bỏ chính mình, chối bỏ chính mình. Có người nói: “Trước kia tôi cho rằng mình đúng, bây giờ vẫn cho là như vậy, hơn nữa có rất nhiều người tán thành và đồng ý, trong lòng tôi cũng không thấy tự trách gì, ngoài ra, ý định của tôi cũng đúng, sao có thể sai được?”. Có nhiều lý do khiến ngươi không thể buông bỏ chính mình, không thể bác bỏ chính mình, lúc này ngươi làm thế nào? Cho dù ngươi có lý do gì để nghĩ rằng mình đúng, chỉ cần cái “đúng” của ngươi đối kháng với Đức Chúa Trời, đi ngược với lẽ thật, thì chính là sai. Cho dù ngươi có thái độ thuận phục như thế nào, cho dù trong lòng ngươi cầu nguyện với Đức Chúa Trời ra sao, hoặc ngoài miệng ngươi có thể thừa nhận rằng ngươi đã sai, nhưng sâu thẳm nội tâm ngươi vẫn đang đối chọi với Đức Chúa Trời, vẫn sống trong những tình trạng tiêu cực, thực chất là ngươi vẫn đang chống lại Đức Chúa Trời, điều này chứng tỏ ngươi chưa nhận thức được mình sai và ngươi không chấp nhận sự thật rằng mình sai. Khi con người nảy sinh hiểu lầm và quan niệm đối với Đức Chúa Trời, thì trước hết phải thừa nhận rằng Đức Chúa Trời là lẽ thật, còn con người không có lẽ thật, và chắc chắn là họ sai. Đây có phải là một dạng hình thức hay không? (Thưa, không phải.) Nếu như biến một cách thực hành thành một loại hình thức, một loại bề ngoài, vậy ngươi có thể nhận thức được cái sai của mình hay không? Mãi mãi không thể. Nhận thức bản thân cũng phải có một vài bước. Trước hết phải xem những gì mình làm có phù hợp với lẽ thật, phù hợp với nguyên tắc hay không, đừng nhìn vào ý định trước, có lúc ý định của ngươi đúng, nhưng nguyên tắc ngươi thực hành là sai. Tình huống này có nhiều hay không? (Thưa, có nhiều.) Tại sao lại nói nguyên tắc thực hành của ngươi là sai? Cũng có thể ngươi đã tìm kiếm rồi, nhưng ngươi căn bản không rõ nguyên tắc là gì, cũng có thể ngươi hoàn toàn không tìm kiếm, mà làm việc dựa vào lòng tốt, sự nhiệt tình của mình, dựa vào tưởng tượng và kinh nghiệm của mình, kết quả dẫn đến sai lầm. Bản thân ngươi có thể tưởng tượng ra được không? Ngươi không dự liệu được, thì sai lầm sẽ nảy sinh, vậy có phải ngươi sẽ bị tỏ lộ hay không? Bị tỏ lộ, nhưng ngươi vẫn đối chọi với Đức Chúa Trời, vậy ngươi sai ở chỗ nào? (Thưa, không thừa nhận Đức Chúa Trời đúng, mà vẫn khăng khăng rằng mình đúng.) Ngươi sai ở chỗ này. Sai lầm lớn nhất không phải là bởi vì ngươi làm sai một chuyện, vi phạm nguyên tắc, nên gây ra một vài tổn thất hoặc có một vài hậu quả, mà là sau khi làm sai, ngươi vẫn khăng khăng với lý lẽ của mình, vẫn không thể thừa nhận sai lầm, vẫn dựa vào quan niệm và tưởng tượng của mình mà đối kháng với Đức Chúa Trời, mà phủ nhận công tác của Đức Chúa Trời, phủ nhận lẽ thật mà Đức Chúa Trời bày tỏ, đây là sai lầm lớn nhất, sai lầm nghiêm trọng nhất. Tại sao nói tình trạng này của con người là đối kháng với Đức Chúa Trời? (Thưa, vì họ không thừa nhận những việc mình làm là sai.) Cho dù con người có nhận thức được những gì Đức Chúa Trời làm và tể trị là đúng và có ý nghĩa gì hay không, thì trước hết việc con người không thể nhận thức được mình sai là một loại tình trạng đối kháng. Muốn giải quyết loại tình trạng này thì nên làm gì? Đầu tiên phải chối bỏ chính mình. Vừa rồi chúng ta nói đến việc phải tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời trước, chuyện này không quá thực tế đối với con người. Có vài người nói rằng: “Không quá thực tế, vậy có phải không cần tìm kiếm hay không? Có những điều có thể tìm kiếm, có thể hiểu thì không cần tìm kiếm nữa, bớt được bước này”. Như vậy có được không? (Thưa, không.) Nếu làm như vậy, có phải người này đã hết cứu nổi rồi không? Người như vậy đã lĩnh hội một cách lệch lạc. Tìm kiếm tâm ý của Đức Chúa Trời là chuyện hơi xa vời, không thể đạt được ngay lập tức, nếu muốn đi đường tắt thì cách hiện thực hơn là phải buông bỏ chính mình trước, nhận thức được những gì mình làm là sai và không phù hợp với lẽ thật, sau đó mới tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật, trình tự chính là như vậy. Trình tự này thoạt nhìn tuy đơn giản, nhưng đưa vào thực hành thì lại có rất nhiều khó khăn, bởi vì con người có tâm tính bại hoại, có đủ loại tưởng tượng, đủ loại yêu cầu, lại còn có dục vọng, chúng sẽ ảnh hưởng đến việc con người chối bỏ chính mình, buông bỏ chính mình, đây không phải là chuyện dễ như thế. Chủ đề này chúng ta sẽ không đi sâu vào nữa, chúng ta sẽ tiếp tục thông công về vấn đề quan niệm đã nói ở hai lần trước.
Vừa rồi chúng ta chủ yếu là thông công về chuyện quan niệm có thể làm cho con người nảy sinh hiểu lầm đối với Đức Chúa Trời, hiểu lầm khiến con người nảy sinh ngăn cách với Ngài, ngăn cách khiến con người nảy sinh sự chống đối với Ngài. Sự chống đối này mang tính chất gì? (Thưa, là đối đầu.) Là đối đầu, phản nghịch. Cho nên, con người nảy sinh sự đối kháng, kêu gào với Đức Chúa Trời thì đây không phải là chuyện hình thành trong ngày một ngày hai, nó vốn có căn nguyên. Giống như khi con người đột nhiên phát hiện mình mắc một căn bệnh, hơn nữa còn rất nghiêm trọng, họ sẽ lấy làm lạ, sao bệnh tình lại phát triển nhanh như vậy? Thực ra, bệnh này đã có từ lâu trong cơ thể con người, đã có gốc bệnh, bệnh này không phải mới mắc phải vào ngày nó bộc phát, mà là vào ngày nó bộc phát thì con người mới phát hiện. Ta nói lời này là có ý gì? Nghĩa là con người có thể phản nghịch Đức Chúa Trời, có thể đối kháng, có thể kêu gào với Đức Chúa Trời, đây có phải là điều mà mỗi người lúc mới tin vào Đức Chúa Trời đều có thể đoán trước được hay không? Một trăm phần trăm là không. Đó có phải ý định ban đầu trong việc tin Đức Chúa Trời của mỗi một người kêu gào, đối kháng với Ngài hay không? Có ai nói: “Tôi tin Đức Chúa Trời không phải vì được phúc, chỉ là tôi muốn sau khi nhìn thấy Đức Chúa Trời thì kêu gào, đối kháng với Ngài, tiếp đó tôi sẽ nêu cao tên tuổi, danh tiếng lẫy lừng, đời này của tôi sẽ thật đáng giá” hay không, có ai tính toán như vậy hay không? (Thưa, không có.) Không có ai tính toán như vậy cả, người đần độn, ngu ngốc, ác độc hơn nữa cũng không có sự tính toán này. Con người đều muốn tin Đức Chúa Trời cho tốt, làm người tốt, nghe lời Đức Chúa Trời, Ngài bảo làm cái gì thì làm cái đó, tuy rằng không thể đạt đến tuyệt đối thuận phục Đức Chúa Trời, nhưng chí ít cũng đạt đến yêu cầu thấp nhất của Ngài, có thể làm hết khả năng để thỏa mãn Đức Chúa Trời. Đây là nguyện vọng tốt biết bao, nhưng sao lại phát triển đến mức kêu gào, đối kháng với Đức Chúa Trời? Trong lòng con người cũng không cam lòng, cũng không biết đây là chuyện gì. Nói đến việc kêu gào, đối kháng với Đức Chúa Trời, trong lòng người ta sẽ cảm thấy khó chịu và buồn bã, cảm thấy rằng: “Sao con người có thể làm như vậy? Ai như vậy đi chăng nữa thì mình cũng không được như vậy!”, như Phi-e-rơ đã nói: “Dầu mọi người vấp phạm vì cớ thầy, song tôi chắc không bao giờ vấp phạm vậy” (Ma-thi-ơ 26:33). Những lời Phi-e-rơ nói phát ra từ nội tâm, nhưng những gì ông biểu hiện lại không đạt đến tâm nguyện và chí hướng của ông. Sự yếu đuối của con người là điều mà bản thân con người không dự đoán được, khi gặp chuyện thì sự bại hoại của con người sẽ bị tỏ lộ, thực chất bản tính của con người, tâm tính bại hoại của con người sẽ kiểm soát họ, sẽ nắm thế chủ đạo trong suy nghĩ và hành vi của họ. Con người có tâm tính bại hoại thì có thể nảy sinh ra các loại quan niệm, có thể nảy sinh ra các loại dục vọng, yêu cầu, còn có thể nảy sinh các loại hành vi phản nghịch, ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ giữa con người và Đức Chúa Trời, ảnh hưởng trực tiếp đến lối vào sự sống và sự thay đổi tâm tính của con người, đây đều không phải là ý định ban đầu của người tin Đức Chúa Trời, càng không phải là chuyện mà trong lòng con người nguyện ý và mong mỏi làm. Quan niệm của con người về Đức Chúa Trời có thể dẫn đến những hậu quả này. Nếu như không giải quyết những quan niệm này thì chỉ sợ là tiền đồ, số phận, đích đến của con người đều gặp trục trặc.
Muốn giải quyết hiểu lầm của con người đối với Đức Chúa Trời thì phải giải quyết quan niệm đối với Ngài, đối với công tác của Ngài, đối với thực chất và tâm tính của Ngài, muốn giải quyết những quan niệm này thì trước tiên phải hiểu rõ, biết và nhận thức được những quan niệm này. Vậy những quan niệm này cụ thể là gì, chuyện này đưa chúng ta trở về vấn đề chính. Chúng ta vẫn phải bắt đầu từ một vài ví dụ thực tế để giải quyết những quan niệm, những biểu hiện này của con người, khiến con người từ những ví dụ thực tế này mà nhìn thấy tâm ý của Đức Chúa Trời, nhìn thấy sâu thẳm nội tâm Đức Chúa Trời, nhìn thấy tâm tính và thực chất của Ngài là gì, Ngài đối đãi với con người như thế nào và Ngài trong tưởng tượng của con người nên đối đãi với con người như thế nào, hai cái này phải phân biệt, làm rõ, đối chiếu với nhau, từ đó có thể hiểu rõ, tiếp nhận phương thức mà Đức Chúa Trời đối đãi với con người, phương thức Ngài tể trị con người, đồng thời hiểu rõ và tiếp nhận thực chất và tâm tính của Đức Chúa Trời. Sau khi đã có nhận thức rõ ràng về phương thức Đức Chúa Trời tể trị nhân loại và công tác của Ngài, con người sẽ không còn nảy sinh quan niệm đối với Ngài nữa, sự ngăn cách giữa con người và Đức Chúa Trời cũng sẽ biến mất, trong lòng con người cũng sẽ không nảy sinh tình trạng đối kháng, kêu gào với Đức Chúa Trời, những vấn đề phản nghịch, chống đối Đức Chúa Trời sẽ trực tiếp được giải quyết thông qua việc đọc lời Đức Chúa Trời và thông công lẽ thật. Cho dù giải quyết vấn đề quan niệm của phương diện nào cũng đều phải bắt đầu từ việc đọc lời Đức Chúa Trời, thông công lẽ thật, mọi thứ đều phải gắn liền với lẽ thật, mọi thứ đều liên quan đến lẽ thật. Vậy những quan niệm này của con người là gì? Chúng ta vẫn nên bắt đầu nói từ công tác của Đức Chúa Trời trước, căn cứ vào một vài ví dụ để con người thấy rõ trong chuyện này nguyên tắc công tác của Đức Chúa Trời là gì, nguyên tắc và phương thức mà Đức Chúa Trời đối đãi và tể trị con người là gì. Có thể trong một ví dụ sẽ đề cập tới phương thức Đức Chúa Trời làm việc, cũng có thể đề cập tới cách Đức Chúa Trời quy định một người, quy định kết cục của một người, cũng có thể đề cập tới tâm tính và thực chất của Ngài. Muốn con người hiểu được những điều này, nếu nói một cách rất sáo rỗng rằng Đức Chúa Trời như thế này như thế kia, trong công tác sáu ngàn năm, Ngài làm những việc gì, đối đãi với con người như thế nào, nếu nói bằng phương thức này thì các ngươi cảm thấy có thích hợp hay không? Có dễ tiếp nhận hay không? Ví dụ như, công tác sáu ngàn năm mà Đức Chúa Trời làm, giai đoạn công tác thứ hai Đức Chúa Trời làm ở Giu-đê, Ngài đối đãi với người Do Thái như thế nào, từ đó thấy được tâm tính của Đức Chúa Trời là gì, điều này có dễ hiểu không? (Thưa, không dễ hiểu.) Ví dụ, Đức Chúa Trời tể trị thế giới này, Ngài đối đãi với người của các chủng tộc trên thế giới như thế nào, trong lòng Ngài nghĩ gì, phân chia ranh giới của họ như thế nào, vì sao lại phân chia họ ở những nơi khác nhau, nhất là tại sao những người tốt lại sống ở nơi không như ý nguyện của họ, còn kẻ ác lại sống ở nơi tốt hơn nhiều, nguyên tắc Đức Chúa Trời bố trí những chuyện này là gì, rồi từ những chuyện này mà thấy được phương thức Đức Chúa Trời tể trị nhân loại, những thứ này có dễ hiểu hay không? (Thưa, không dễ hiểu.) Chẳng phải là những thứ này tương đối xa vời với sự thay đổi tâm tính và lối vào sự sống trong cuộc sống thường nhật của con người, hơn nữa cũng khá trừu tượng hay sao? (Thưa, phải.) Tại sao lại nói là xa vời và trừu tượng? Bởi vì trong đời sống hiện thực, con người chỉ hiểu những lẽ thật về phương diện khải tượng, chẳng hạn chi tiết của những lẽ thật như cách Đức Chúa Trời tể trị và dẫn dắt nhân loại dường như hơi xa vời và không liên quan lắm đến các vấn đề trong đời sống hiện thực của chúng ta. Muốn giải quyết vấn đề hiện thực vẫn phải bắt đầu từ một số ví dụ mà con người có thể nghe được, thấy được và cảm nhận được từ trong cuộc sống, sau đó mới làm cho các ngươi mở mang kiến thức từ chúng. Cho dù Ta kể câu chuyện nào, hay nội dung câu chuyện này liên quan đến những người nào, những chuyện nào, thậm chí có thể liên quan đến một số chuyện ngươi đã từng làm, cho dù như thế nào đi nữa thì kết quả mà bản thân câu chuyện mang lại là khiến con người có thể hiểu được phương diện lẽ thật liên quan đến chủ đề được nói hôm nay. Mỗi chuyện được kể đều có mục đích của nó, đều liên quan đến giá trị mà bản thân câu chuyện nên mang lại và lẽ thật được biểu đạt ra trong đó.
Bây giờ chúng ta bắt đầu kể chuyện. Trường hợp 1. Rất lâu về trước, có một hội thánh gửi đến một chai sirô trị ho, họ nói: “Đức Chúa Trời hay nói chuyện, giảng đạo với chúng con, mà nói nhiều có lúc sẽ bị ho, để cho Ngài giảng đạo được trôi chảy, ít bị ho, chúng con gửi cho Ngài chút sirô trị ho này”. Sau khi chai sirô trị ho này được mang đến, có một người anh em cao tuổi thấy được liền nói: “Thứ này mặc dù nói là sirô trị ho, nhưng rốt cuộc là trị cái gì thì không ai biết, không thể tùy tiện đưa cho Đức Chúa Trời uống. Nếu uống rồi thì còn gì nữa, vì đây là thuốc, thuốc có ba phần độc, uống vào sẽ có tác dụng phụ!”. Người bên cạnh nghe xong, nghĩ thầm: “Đây là anh ấy có lòng tốt, vậy thì không thể đưa cho Đức Chúa Trời uống rồi”. Lúc đó Ta cũng chưa cần nó, nên chỉ muốn để nó ở đấy trước đã, có thể sau này cần đến. Chuyện này cứ mặc kệ như vậy thôi. Nhưng chuyện này kết thúc ở đây sao? Vẫn chưa, câu chuyện này, chuyện thuốc thang này bắt đầu từ ngày ấy. Đến một ngày, có người phát hiện người anh em cao tuổi kia lấy chai sirô trị ho này uống, lúc phát hiện thì chai sirô trị ho chỉ còn lại một nửa, chuyện về sau có thể tưởng tượng được, người đó đã uống hết toàn bộ. Nội dung câu chuyện là như vậy. Các ngươi hãy nghiền ngẫm một chút, liệu chuyện này có quan hệ gì với quan niệm hôm nay chúng ta sẽ nói? Trước hết nói thử xem câu chuyện này có khiến các ngươi chấn động và kích động hay không? (Thưa, có.) Các ngươi có cảm nghĩ gì khi nghe xong câu chuyện này? Điều gì làm các ngươi kích động? Người bình thường mà kích động thì sẽ nghĩ: “Ôi, đây là thứ dâng cho Đức Chúa Trời, sao con người có thể uống được?” đó là sự kích động đầu tiên. Sự kích động thứ hai là “Thế mà vẫn uống, lại còn uống hết nữa!” các ngươi ngoại trừ kích động ra, còn có thể nghĩ đến điều gì nữa? Với những gì người anh em cao tuổi này đã làm, những biểu hiện người đó có, tất cả những gì xảy ra trong toàn bộ câu chuyện, ngươi có thể nghĩ ra được Đức Chúa Trời sẽ phản ứng như thế nào không? Ngài sẽ làm thế nào? Ngài nên làm thế nào? Đức Chúa Trời nên đối đãi thế nào với một người như vậy? Chẳng phải trong chuyện này sẽ có quan niệm của con người nảy sinh hay sao? Trước hết không nói đến nội dung gây kích động, chỉ nói đến việc sự kích động này có thể khiến con người được lợi ích hay không? Chỉ là lương tâm con người sẽ có một vài cảm giác không thoải mái, nhưng cũng không nói rõ được, tiếp theo sẽ nảy sinh sự khiển trách và quở trách xuất phát từ câu chữ và đạo lý, từ lý luận đạo nghĩa, đạo đức hoặc thần học, nhưng những thứ này đều không phải là lẽ thật. Nếu muốn nói liên quan đến lẽ thật, thì đó chính là quan niệm mà con người có thể nảy sinh đối với bản thân chuyện này, hoặc là một vài yêu cầu nảy sinh đối với việc Đức Chúa Trời nên làm như thế nào, đây là vấn đề cần giải quyết. Trong câu chuyện này, một số quan niệm, ý nghĩ mà con người nảy sinh ra về việc Đức Chúa Trời nên làm như thế nào trong chuyện này là rất quan trọng. Đừng nhìn vào chuyện ngươi kích động, dù có kích động cũng không giải quyết được sự phản nghịch của ngươi. Nếu có một ngày, ngươi phát hiện trong của lễ của Đức Chúa Trời có một thứ ngươi rất thích hoặc rất cần, trong tình huống rất hấp dẫn đối với ngươi, thì ngươi cũng có thể chiếm đoạt nó như thường, lúc đó ngươi sẽ không còn chút kích động nào nữa. Sự kích động bây giờ chẳng qua là tác dụng của lương tâm, là tác dụng của tiêu chuẩn đạo đức của nhân tính, nó không phải là tác dụng của lẽ thật. Khi ngươi có thể giải quyết được những quan niệm nảy sinh ra trong chuyện này thì ngươi sẽ hiểu được lẽ thật trong chuyện này, sẽ giải quyết được những quan niệm và hiểu lầm về Đức Chúa Trời trong những chuyện này, và ngươi sẽ có thể hiểu được lẽ thật trong những chuyện này, sẽ có thu hoạch. Vậy bây giờ các ngươi hãy suy ngẫm xem, trong chuyện này con người sẽ nảy sinh những quan niệm nào, những quan niệm nào sẽ khiến ngươi hiểu lầm Đức Chúa Trời, nảy sinh ngăn cách với Ngài, thậm chí đối đầu với Ngài, đây đều là những gì chúng ta nên thông công. Các ngươi nói xem, ngay sau khi chuyện này xảy ra, trong lương tâm người anh em cao tuổi này có cắn rứt hay không? (Thưa, không.) Làm thế nào nhìn ra người đó không cắn rứt? (Thưa, người đó uống hết chai sirô trị ho rồi.) Cái này quá dễ phân tích, phải không? Người đó uống từ ngụm đầu tiên đến ngụm cuối cùng đều không có bất kỳ sự kiềm chế nào, cũng không dừng tay lại, dù là uống thử một ngụm rồi không uống nữa, cũng coi như là có cắn rứt, bởi vì đã dừng tay lại rồi, đã kiểm soát được bản thân không tiếp tục làm vậy nữa. Nhưng người anh em cao tuổi này không phải như vậy, người đó uống từ đầu đến cuối, nếu như còn nữa thì người đó vẫn có thể uống, chuyện này cho thấy trong lương tâm người đó không có bất kỳ sự cắn rứt nào, đây là xét từ góc độ con người. Vậy Đức Chúa Trời nhìn nhận và đối đãi chuyện này như thế nào, đây là điều các ngươi nên hiểu rõ. Từ cách Đức Chúa Trời đối đãi, đánh giá, định nghĩa chuyện này như thế nào có thể thấy được tâm tính và thực chất của Đức Chúa Trời, cũng có thể thấy được nguyên tắc và phương thức làm việc của Đức Chúa Trời, đồng thời cũng có thể tỏ lộ quan niệm của một số người, họ nói: “Thì ra Đức Chúa Trời có thái độ như vậy với con người, Ngài xử lý con người theo phương thức như vậy, trước đây tôi không cho là như vậy”. Trong khi việc ngươi không cho là như vậy đã tỏ lộ việc giữa ngươi và Đức Chúa Trời có sự ngăn cách, ngươi cũng có thể nảy sinh hiểu lầm với Ngài, cũng có thể có quan niệm về công tác của Đức Chúa Trời, về phương thức làm việc của Ngài trong phương diện này. Khi đối diện với chuyện này, Đức Chúa Trời đã làm gì? Người anh em cao tuổi này nói: “Đây là thuốc, thuốc có ba phần độc, không thể để cho Đức Chúa Trời uống, uống vào sẽ có tác dụng phụ”. Vậy ý định, mục đích người đó nói lời này là gì? Lời này là nói thật hay là nói dối? Đây không phải là lời nói thật, mà là gạt người, là giả dối, không phải chân thật, từ tất cả những gì người này làm về sau và tất cả những gì người này bộc lộ, cũng đã nhìn ra được nội tâm của người này là gì. Đối với loại lời nói dối này, loại hành vi này, Đức Chúa Trời có làm chuyện gì hay không? (Thưa, không.) Đức Chúa Trời không làm gì, vậy sao có thể nhìn ra được? Khi nói lời này, người đó không thành tâm, mà là giả dối, thì Đức Chúa Trời đã ở ngay bên cạnh quan sát, Ngài không làm công tác hướng dẫn tích cực hoặc công tác quở trách tiêu cực. Đôi khi bên trong con người có sự cắn rứt lương tâm, đó chính là lúc Đức Chúa Trời đang làm công tác, vậy người anh em cao tuổi này lúc ấy có cắn rứt hay không? (Thưa, không.) Chẳng những không cắn rứt, lại còn nói năng thật đường hoàng. Đức Chúa Trời không quở trách người đó, Ngài chỉ ở bên cạnh quan sát. Tại sao Ngài lại muốn quan sát? Có phải Ngài muốn xem quá trình phát triển của sự thật không? (Thưa, không phải.) Không hẳn. Trước khi một người vừa gặp chuyện, vẫn chưa lựa chọn được làm như thế nào, vẫn chưa hình thành sự thật, liệu Đức Chúa Trời có hiểu rõ người đó hay không? (Thưa, hiểu rõ.) Đức Chúa Trời không chỉ hiểu rõ bề ngoài của người đó mà còn hiểu rõ nội tâm của người đó, hiểu rõ lòng người đó thiện hay ác, là chân thật hay giả dối, thái độ trong lòng người đó đối với Đức Chúa Trời rốt cuộc là như thế nào, trong lòng có Đức Chúa Trời hay không, có đức tin chân thực hay không, Đức Chúa Trời đã nắm chắc, đã có bằng chứng xác thực, và Ngài vẫn luôn quan sát. Sau khi người anh em cao tuổi này nói xong câu đó, Đức Chúa Trời đã làm gì? Thứ nhất, Ngài không quở trách người đó; thứ hai, Ngài không khai sáng cho người đó, cũng không khiến người đó ý thức được rằng đó là của lễ và con người không được tùy tiện động vào. Vậy ý thức này có cần Đức chúa Trời trực tiếp nói cho con người biết hay không? (Thưa, không cần.) Trong nhân tính bình thường phải có ý thức này rồi. Có người nói: “Có vài người không biết, Ngài cũng sẽ không nói cho người ta biết sao? Nếu Ngài nói cho họ biết, chẳng phải họ sẽ biết sao? Người không biết không có tội, bây giờ họ không biết thôi, chứ biết thì đã không phạm sai lầm rồi, đó chẳng phải là che chở cho một con người sao?”. Đức Chúa Trời có làm như vậy hay không? (Thưa, không.) Vậy tại sao Ngài không làm như vậy? Một mặt, người đó nên biết đạo lý thế này: “Đây là của lễ của Đức Chúa Trời, con người không được động vào”. Mặt khác, nếu người đó không biết, tại sao Đức Chúa Trời không nói cho người đó biết, sao không cho người đó biết chuyện này, đề phòng người đó làm ra chuyện như vậy và nảy sinh hậu quả như vậy? Chẳng phải Đức Chúa Trời nói cho người đó biết thì càng có thể tỏ lộ sự thật lòng muốn cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời hay sao? Chẳng phải càng có thể tỏ lộ tình yêu thương của Đức Chúa Trời hay sao? Vậy tại sao Ngài không làm như vậy? (Thưa, vì Ðức Chúa Trời muốn tỏ lộ con người.) Đúng rồi, Ngài muốn tỏ lộ con người. Khi ngươi gặp phải một số chuyện, những chuyện này đều không đến với ngươi trong lúc vô tình; đối với ngươi, có thể chuyện này là sự cứu rỗi, cũng có thể là sự hủy diệt. Trong thời gian này Đức Chúa Trời đang quan sát, Ngài không nói một lời, cũng không sắp đặt bất kỳ hoàn cảnh nào để nhắc nhở ngươi, cũng không dùng phương thức khai sáng mà báo cho ngươi biết rằng: “Chuyện này ngươi không được làm, ngươi mà làm thì hậu quả khó lường” hay “Ngươi làm chuyện này như vậy là không có lý trí, không có nhân tính”, con người không có chút ý thức nào. Con người không có những ý thức này, một mặt là do Đức Chúa Trời lúc đó không nhắc nhở người đó, Ngài đã không hành động. Mặt khác, nếu con người có lương tâm, có nhân tính nhất định, thì trên cơ sở như vậy, có phải Đức Chúa Trời sẽ hành động hay không? (Thưa, phải.) Đúng vậy, Ngài sẽ ban cho người đó ân điển như vậy. Tại sao Đức Chúa Trời không để ý đến chuyện này? Ở đây có một nguyên nhân, đó là người này không có lương tâm và lý trí, không có tôn nghiêm và nhân cách, không có nhân tính bình thường, cũng không mưu cầu những điều này, trong lòng người đó không có Đức Chúa Trời, cũng không phải là người thực sự tin Đức Chúa Trời, cho nên Đức Chúa Trời muốn tỏ lộ người đó trong chuyện này. Đức Chúa Trời tỏ lộ con người đôi khi là một cách để cứu rỗi, đôi khi lại không phải, Ngài cố ý làm như vậy. Nếu ngươi là người có lương tâm, có lý trí, thì sự tỏ lộ của Đức Chúa Trời đối với ngươi là một loại thử luyện, cũng là một loại cứu rỗi; nhưng nếu ngươi không có lương tâm và lý trí thì sự tỏ lộ của Đức Chúa Trời đối với ngươi mà nói là sự đào thải và hủy diệt. Vậy bây giờ, sự tỏ lộ của Đức Chúa Trời đối với người anh em cao tuổi này mà nói là gì? Là sự đào thải, không phải phúc, mà là họa. Có vài người nói: “Người đó làm chuyện sai trái lớn như vậy rất mất mặt. Vậy từ lúc người đó bắt đầu uống trộm, chẳng lẽ Đức Chúa Trời không thể mượn một hoàn cảnh nào đó ngăn cản không cho người đó uống sao? Như vậy thì chẳng phải người đó sẽ không phạm sai lầm này, sẽ không cần bị đào thải hay sao?”. Đức Chúa Trời có làm như vậy không? (Thưa, không.) Vậy Ngài đã làm như thế nào? (Thưa, Ngài thuận theo tự nhiên.) Đức Chúa Trời làm việc thuận theo tự nhiên, đó là nguyên tắc. Tính chất giữa việc người đó mở chai uống ngụm đầu tiên và ngụm cuối cùng có sự khác biệt nào không? (Thưa, không có.) Tại sao nói không có sự khác biệt? (Thưa, vì thực chất của người đó chính là loại người này.) Điều này đã hoàn toàn tỏ lộ nhân tính, sự mưu cầu và cả đức tin của người đó.
Vào thời Cựu Ước, Ê-sau dùng danh phận con trưởng đổi lấy một chén canh đậu đỏ, hắn không biết cái gì là quan trọng, cái gì có giá trị, “Con trưởng cái gì chứ, đó không tính là chuyện gì to tát, đổi cũng chẳng sao, không phải vẫn sống như thường sao?”. Trong lòng hắn nghĩ như vậy, hắn suy nghĩ vấn đề có vẻ như rất thực tế, nhưng thứ hắn mất đi chính là phúc lành của Đức Chúa Trời, hậu quả này sẽ không thể tưởng tượng nổi. Hiện tại trong hội thánh có rất nhiều người không mưu cầu lẽ thật, họ không coi trọng lời hứa và phúc lành của Đức Chúa Trời, điều này so với việc mất đi danh phận con trưởng thì có phải cùng một tính chất không? Có phải càng nghiêm trọng hơn không? Bởi vì Đức Chúa Trời chỉ có một cơ hội này để cứu rỗi con người, bỏ qua cơ hội này thì sẽ hoàn toàn tiêu tùng. Có người chỉ vì một chai sirô trị ho mà cuối cùng bị đào thải, đổi lấy kết cục bị hủy diệt như vậy, thật không thể tưởng tượng nổi! Thực ra thì cũng không có gì là không thể tưởng tượng nổi, vì sao lại nói như vậy? Vì chuyện này trông thì chỉ là một chuyện nhỏ, nếu như xảy ra một chuyện như vậy giữa mọi người với nhau thì không tính là gì, giống như xảy ra một chuyện trái pháp luật, ai đó trộm cắp hoặc là tàn hại người khác, nhiều lắm sau khi chết sẽ bị trừng phạt, vài đời luân hồi lại đầu thai thành người, chuyện này chẳng tính là gì cả. Nhưng chuyện Ta nói bây giờ chỉ đơn giản như vậy thôi sao? (Thưa, không.) Tại sao lại nói chuyện này không đơn giản? Tại sao chuyện này đáng để lấy ra giảng? Trước tiên bắt đầu nói từ một chai sirô trị ho này, thực ra chai trị ho này nó không phải là thứ gì đáng giá, nhưng thứ này được dâng lên cho Đức Chúa Trời, nên thực chất của nó liền thay đổi, biến thành của lễ. Một số người nói rằng “Của lễ là của biệt riêng ra thánh, của lễ không phải là của con người, con người không được động vào của lễ”, nói như vậy cũng đúng. Của lễ là gì? Một của lễ là thứ mà một người dâng cho Đức Chúa Trời, bất kể nó là thứ gì cũng đều gọi là của lễ; vì nó thuộc về Đức Chúa Trời, nên nó không còn thuộc về con người nữa. Bất cứ thứ gì được dâng cho Đức Chúa Trời – dù là tiền bạc hay vật chất, và dù nó có giá trị như thế nào – thì chúng đều hoàn toàn thuộc về Đức Chúa Trời, không phải thứ con người tùy ý sử dụng, và cũng không phải của họ để sử dụng. Các của lễ của Đức Chúa Trời có thể được khái niệm hóa như thế nào? Chúng chỉ thuộc về Đức Chúa Trời, chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền định đoạt chúng, và trước khi được Ngài chấp thuận, thì không ai có thể động vào những thứ đó hoặc dự tính gì về chúng. Có những người nói rằng: “Nếu Đức Chúa Trời không sử dụng thứ gì đó, thì tại sao chúng ta không được phép dùng? Nếu nó bị hư hỏng sau một thời gian, thì chẳng phải đó là điều đáng tiếc sao?”. Không, dù vậy cũng không được; đây là một nguyên tắc. Của lễ là những thứ thuộc về Đức Chúa Trời, không thuộc về con người; dù lớn hay nhỏ, và dù chúng có giá trị hay không, một khi con người đã dâng chúng cho Đức Chúa Trời, thì bản chất của chúng đã thay đổi, dù Đức Chúa Trời có muốn chúng hay không. Một khi một vật đã trở thành của lễ, thì nó thuộc quyền sở hữu của Đấng Tạo Hóa và để Ngài tùy ý sử dụng. Cách tiếp cận của một người đối với của lễ liên quan đến điều gì? Nó liên quan đến thái độ của một người đối với Đức Chúa Trời. Nếu thái độ của một người đối với Đức Chúa Trời là thái độ xấc xược, khinh khi và vô tâm, thì thái độ của người đó đối với tất cả những thứ Đức Chúa Trời sở hữu chắc chắn cũng sẽ tương tự như vậy. Có một vài người nói rằng: “Một số của lễ không có ai trông coi. Chẳng phải điều đó có nghĩa là chúng thuộc về bất kỳ ai sở hữu chúng sao? Cho dù có ai biết hay không, thì đó là ‘trong tay quan thì của quan’; bất kỳ ai có được những thứ đó trong tay thì đều là chủ nhân của chúng”. Ngươi nghĩ gì về quan điểm đó? Rõ ràng là nó không đúng. Thái độ của Đức Chúa Trời đối với của lễ là gì? Cho dù vật được dâng lên Đức Chúa Trời là gì, và dù Ngài có chấp nhận nó hay không, một khi vật gì đó đã được xác định là của lễ, thì bất kỳ người nào có ý đồ khác về nó đều có thể gặp kết cục “tự chuốc họa vào thân”. Điều này có nghĩa là gì? (Thưa, điều đó có nghĩa là xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời.) Đúng vậy. Hết thảy các ngươi đều biết khái niệm này. Vậy, vấn đề này cho mọi người biết điều gì? Nó cho họ biết rằng con người không được phép xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời, và rằng họ không được tùy tiện động vào những thứ của Ngài. Chẳng hạn các của lễ của Đức Chúa Trời – nếu một người lấy chúng làm của riêng mình, hoặc lãng phí và phung phí chúng, thì họ sẽ dễ xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời và bị trừng phạt. Cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời có nguyên tắc của nó; nó không như mọi người tưởng tượng, rằng Đức Chúa Trời giáng đòn vào bất kỳ ai phạm lỗi. Mà là, con người xúc phạm Đức Chúa Trời trong những chuyện quan trọng và trọng đại thì Đức Chúa Trời mới nổi cơn thịnh nộ. Nhất là trong chuyện đối đãi với xác thịt của Đức Chúa Trời nhập thể và của lễ của Đức Chúa Trời, con người phải cẩn thận, phải có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, như thế mới có thể bảo đảm không xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời.
Có người tin Đức Chúa Trời thì có đức tin, có thể dâng mình, cũng có thể trả giá, các phương diện biểu hiện đều rất tốt, chỉ có một thứ là không tốt. Nhìn thấy vật tư của nhà Đức Chúa Trời phong phú, những người được Đức Chúa Trời chọn ngoại trừ dâng hiến tiền tài ra, còn dâng hiến lương thực, áo quần, thuốc thang, v.v., họ liền nghĩ: “Những người được Đức Chúa Trời chọn dâng hiến cho Ngài nhiều thứ như vậy, một mình Ngài cũng không dùng được nhiều như vậy, tuy rằng việc mở rộng phúc âm sẽ phải dùng một phần, nhưng cũng dùng không hết, vậy những thứ này nên xử lý như thế nào nhỉ? Có phải là để cho lãnh đạo và chấp sự chia sẻ một chút không?”. Họ vì chuyện này mà sốt ruột, trong lòng nảy sinh “gánh nặng”, họ bắt đầu suy nghĩ: “Bây giờ mình là người bảo quản những thứ này, mình nên dùng một ít, nếu không nhiều của lễ như vậy, đến khi thế giới bị hủy diệt thì không phải sẽ lãng phí sao? Chia cho lãnh đạo và chấp sự một chút, âu cũng là chuyện công bằng. Trong nhà Đức Chúa Trời mọi người đều bình đẳng, chúng ta ai cũng dâng hiến cho Đức Chúa Trời, đồ của Đức Chúa Trời cũng là đồ của chúng ta, đồ của chúng ta cũng là của Đức Chúa Trời. Mình hưởng thụ chút của lễ của Đức Chúa Trời cũng chẳng tính là gì, dù sao đây cũng là phúc lành của Ngài, cứ trực tiếp dùng đi”, họ vừa suy nghĩ như vậy thì đã động lòng rồi. Dục vọng của họ tăng lên từng chút một, họ bắt đầu nghĩ cách giành của lễ, bắt đầu thò tay vào lấy đồ, trong lòng cũng không có chút cắn rứt nào. Họ cho rằng không ai biết, còn an ủi chính mình rằng: “Mình đã dâng mình cho Đức Chúa Trời, giờ hưởng thụ chút của lễ cũng chẳng sao, cho dù Đức Chúa Trời biết thì cũng sẽ tha thứ, trước hết mình phải hưởng thụ một chút đã”, kết quả là họ bắt đầu ăn trộm của lễ, xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời. Nhìn bề ngoài, họ tìm rất nhiều cái cớ cho chính mình, ví dụ như: “Mấy thứ này để lâu không ăn sẽ hỏng mất! Nhiều đồ như vậy một mình Đức Chúa Trời cũng dùng không hết, chia đều ra thì lại quá đông người, có chia cũng không đủ, chi bằng cứ để mình quản lý vậy! Ngoài ra, nhiều tiền như vậy, đến ngày tận thế tiêu cũng không hết thì phải làm sao? Chúng ta mỗi người chia sẻ một chút đi, đây cũng thể hiện tình yêu thương và ân điển của Đức Chúa Trời! Tuy rằng Ngài không nói, cũng không cho nguyên tắc này, nhưng chúng ta chủ động một chút không được sao? Đây là làm việc theo nguyên tắc mà!”. Họ tìm ra rất nhiều lý do quang minh chính đại, sau đó sẽ bắt đầu hành động, một khi đã hành động thì chuyện càng vuột khỏi tầm kiểm soát, hơn nữa trong lòng càng ngày càng không có cắn rứt, có lẽ họ còn cảm thấy đây là việc nên làm, “Thứ Đức Chúa Trời không dùng thì mình nên dùng, chuyện này đâu phải là vấn đề gì”. Xảy ra chuyện rồi. Các ngươi nói xem, chuyện này là chuyện lớn hay chuyện nhỏ? Có tính là nghiêm trọng không? (Thưa, có.) Tại sao lại nói chuyện này nghiêm trọng? Chuyện này có đáng để thông công không? (Thưa, có.) Lý do nó đáng để thông công là gì? (Thưa, chuyện này liên quan đến tâm tính của Đức Chúa Trời, còn liên quan đến đích đến và kết cục của con người.) Chuyện này rất lớn, tính chất rất nghiêm trọng. Bây giờ, Ta phải cảnh cáo các ngươi điều gì? Tuyệt đối đừng nghĩ cách giành của lễ. Có vài người nói: “Vậy không đúng, những thứ anh chị em dâng hiến là dâng cho nhà Đức Chúa Trời, cho hội thánh, đó là tài sản chung của tất cả mọi người”. Lời nói này có đúng hay không? Lời này nảy sinh như thế nào? Con người có lòng tham, họ sẽ chế ra một loại lý luận như vậy. Chuyện này còn liên quan đến điều gì nữa? Trong chuyện này có một điểm mà chúng ta vẫn chưa nói đến, đó là gì? Một vài người cho rằng: “Nhà Đức Chúa Trời là một đại gia đình, để có thể thể hiện đây là một đại gia đình tốt đẹp, thì đại gia đình này nên có tình yêu thương, bao dung, tất cả mọi người cùng ăn, cùng uống, cùng dùng, mọi thứ đều phân chia bình đẳng. Ví dụ, mỗi người đều có quần áo mặc, hơn nữa đều được chia đều, hưởng dụng như nhau. Đức Chúa Trời sẽ không thiên vị người nào, nếu có người đến cái vớ cũng không có để mang, nếu Đức Chúa Trời có nhiều, thì Ngài nên cứu tế cho họ. Ngoài ra, những của lễ của Đức Chúa Trời là do các anh chị em dâng hiến, Đức Chúa Trời đã có nhiều như vậy thì có phải nên chia cho người nghèo khó một ít hay không? Làm như vậy có phải có thể thể hiện tình yêu thương của Đức Chúa Trời không?”. Có phải con người sẽ có ý nghĩ như vậy hay không? Đây có phải là quan niệm của con người hay không? Con người chiếm đoạt những thứ của Đức Chúa Trời, lại còn gọi nó bằng cái tên mỹ miều là ân điển của Ngài, là ban phúc, là tình yêu lớn lao của Ngài. Họ luôn muốn chia đều với Đức Chúa Trời, cái gì cũng muốn chia đều, luôn muốn thực hiện chủ nghĩa bình quân, họ cho rằng đây là một biểu tượng của thế giới đại đồng, nhân loại hòa hợp, cuộc sống mỹ mãn, là một loại cảnh tượng nên xuất hiện, đây có phải là quan niệm của con người hay không? Nhất là ở nhà Đức Chúa Trời, con người cảm thấy không thể có người không có cơm ăn, nếu có người như vậy thì Đức Chúa Trời nên dùng của lễ của mình để cứu tế cho họ, Ngài không nên mặc kệ họ. Cái “nên” mà con người cho là có phải quan niệm không? Đó có phải là yêu cầu của con người đối với Đức Chúa Trời hay không? Có vài người sau khi tin Đức Chúa Trời thì nói: “Tôi tin Đức Chúa Trời nhiều năm như vậy mà không có được cái gì cả, trong nhà còn nghèo khó, đây là cảnh tượng không nên xuất hiện, Đức Chúa Trời nên ân đãi tôi, nên ban phúc cho tôi, như vậy tôi mới dễ làm Đức Chúa Trời vinh hiển!”. Bởi vì gia đình ngươi nghèo nên ngươi không mưu cầu lẽ thật, ngươi muốn mượn việc tin Đức Chúa Trời để thay đổi hiện trạng nghèo khó trong gia đình, lấy cớ làm Đức Chúa Trời vinh hiển để thực hiện giao dịch với Ngài, đây là quan niệm và tưởng tượng của con người, cũng là dục vọng xa xỉ của con người. Con người tin Đức Chúa Trời mà có ý định như vậy thì đó có phải là thực hiện giao dịch với Đức Chúa Trời hay không? Thực hiện giao dịch với Đức Chúa Trời thì có phải là người có lương tâm lý trí không? Có phải là người thuận phục Đức Chúa Trời không? Chắc chắn là không. Những người này đều không có lương tâm lý trí, cũng không phải là người tiếp nhận lẽ thật, là người Đức Chúa Trời ghét bỏ, đều là những kẻ không thể nói lý lẽ, không có cách nào đạt được ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Có người cho rằng: “Khi con người có những ý nghĩ hoặc cách làm không chính đáng sẽ vi phạm sắc lệnh quản trị của Đức Chúa Trời và xúc phạm tâm tính của Ngài, thì Ngài nên ra mặt ngăn cản, đó là sự cứu rỗi và tình yêu thương của Đức Chúa Trời”, đây có phải là quan niệm và tưởng tượng của con người hay không? Đức Chúa Trời công tác, cứu rỗi con người như thế sao? Ngài bày tỏ lẽ thật để cứu rỗi con người nhưng con người có thể được cứu rỗi hay không thì phải xem con người có thể tiếp nhận lẽ thật hay không, ngoại trừ điều này ra, trong mắt Đức Chúa Trời còn có một điều quan trọng hơn, chính là lương tâm và nhân tính của con người. Nếu trong nhân tính của ngươi không có lương tâm, không có nhân cách, không có lý trí, cũng tức là khi gặp chuyện, lương tâm và lý trí của ngươi đều không thể phát huy tác dụng bình thường, đều không thể ràng buộc và đưa hành vi của ngươi vào nề nếp, không thể chỉnh đốn ý định và quan điểm của ngươi, vậy thì Đức Chúa Trời tuyệt đối sẽ không làm bất cứ chuyện gì. Đức Chúa Trời muốn thay đổi ngươi thì trước tiên Ngài sẽ để lương tâm và lý trí của ngươi phát huy tác dụng, khi lương tâm ngươi bị cắn rứt, ngươi sẽ suy xét: “Mình làm như vậy thì không đúng, Đức Chúa Trời sẽ nhìn mình như thế nào?”. Ngươi sẽ có thêm sự tìm kiếm và có lối vào tích cực, chính diện. Nhưng nếu con người ngay cả bước đầu tiên này cũng không có, không có lương tâm và trong lòng căn bản không thấy cắn rứt, vậy khi gặp chuyện Đức Chúa Trời sẽ làm gì? Ngài không làm gì cả. Vậy nên, lời Đức Chúa Trời phán, tất cả những yêu cầu và lẽ thật mà Đức Chúa Trời chỉ dạy con người, được thực hiện trên cơ sở nào? Đều thực hiện trên cơ sở con người có lương tâm, có lý trí. Vậy người anh em cao tuổi vừa rồi mà chúng ta nói đến, nếu người đó có lương tâm, có lý tính nhất định, thì sau khi nhìn thấy chai sirô trị ho kia, người đó sẽ có hành động gì? Sẽ có những biểu hiện nào? Khi người đó có ý nghĩ: “Thứ này là dành cho Đức Chúa Trời, ước chừng cũng không tệ, vậy đừng để Đức Chúa Trời uống, mình uống được rồi”. Nếu có lương tâm, lúc này người đó sẽ làm gì? Sẽ mở chai và uống ngụm đầu tiên? (Thưa, không.) Vậy từ “không” này nảy sinh như thế nào? (Thưa, vì có tri giác của lương tâm.) Nếu người đó biết kiểm soát lương tâm, nếu lương tâm trỗi dậy thì chuyện này sẽ không có bước tiếp theo, người đó sẽ không uống ngụm đầu tiên, kết quả của chuyện này sẽ hoàn toàn đảo ngược và kết cục cũng sẽ hoàn toàn khác. Nhưng chuyện lại hoàn toàn ngược lại, người đó không có lương tâm, lý tính, một trăm phần trăm không có, kết quả dẫn đến chuyện gì? Sau khi nảy sinh ý nghĩ như vậy, lại không có sự ràng buộc của lương tâm, người đó liền không kiêng dè gì mà mở nắp chai ra uống ngụm đầu tiên, sau đó chẳng những không thấy cắn rứt, không thấy tự trách, ngược lại còn có cảm giác hưởng thụ, cảm thấy mình đã trót lọt rồi: “Xem tôi thông minh chưa kìa, thật biết nắm bắt thời cơ, còn các người thì ngu ngốc, không hiểu những chuyện này, đúng là gừng càng già càng cay! Các người không ai có ý nghĩ này, không ai dám làm như vậy, chỉ có mình tôi dám làm như vậy thôi, mà tôi làm thì đã sao? Uống được ngụm đầu tiên, có ai thấy không?”. Người đó cảm thấy chiếm được lợi, trong lòng được thỏa mãn, còn cho rằng mình được hưởng, đây là sự ân đãi của Đức Chúa Trời. Sai lầm này người đó phạm một lần rồi lại phạm tiếp, không thể kiểm soát được, mãi cho đến cuối cùng uống hết rồi, lương tâm cũng không hề cảm thấy cắn rứt, tự trách. Lương tâm và lý trí của người đó chưa bao giờ nói cho người đó biết: “Thứ này không thuộc về ngươi, dù Đức Chúa Trời không uống, hoặc Ngài quăng cho chó, cho mèo, miễn là Ngài không nói ban cho ngươi thì ngươi không được dùng, đây không phải là thứ ngươi được hưởng”. Lương tâm của người đó sẽ không nói cho người đó biết như vậy, bởi vì người đó không có lương tâm. Người không có lương tâm là gì? Là súc sinh, định nghĩa như vậy đấy. Con người không có lương tâm mới làm những chuyện như vậy, từ lúc bắt đầu nảy sinh tư tưởng đó thì người đó liên tục làm như vậy cho đến cuối cùng, một chút cắn rứt lương tâm cũng không có. Chuyện cho tới bây giờ, cũng có thể người anh em cao tuổi kia đã sớm quên, hoặc nếu trí nhớ tốt thì còn nhớ được, còn cảm thấy lúc đó đã làm đúng, chưa bao giờ cảm thấy mình làm chuyện này là sai, cũng không nhận thức được tính nghiêm trọng của chuyện này và tính chất của việc làm chuyện này là gì, người đó không nhận thức được. Vậy đối với người như vậy, Đức Chúa Trời quy định như vậy thì có chính xác hay không? (Thưa, chính xác.) Đức Chúa Trời quy định người như vậy, Ngài tỏ lộ họ, đào thải họ, cho họ kết cục như vậy, thì nguyên tắc và cơ sở để Đức Chúa Trời quy định là gì? (Thưa, căn cứ vào bản tính thực chất của người đó.) Một người không có tri giác của lương tâm và không có lý trí thì có điều kiện để tiếp nhận lẽ thật và thực hành lẽ thật không? Họ có thực chất như vậy hay không? (Thưa, không có.) Tại sao lại nói không có? Khi họ bắt đầu bày tỏ quan điểm của mình về chuyện này, sâu thẳm nội tâm họ, Đức Chúa Trời của họ ở đâu? Ai là Đức Chúa Trời trong lòng họ? Ngài ở vị trí nào? Trong lòng họ có Đức Chúa Trời hay không? Có thể nói một cách chắc chắn rằng, trong lòng người như vậy không có Đức Chúa Trời. Trong lòng không có Đức Chúa Trời, ngụ ý là gì? (Thưa, là người không tin.) Đúng vậy, họ không thật lòng tin Đức Chúa Trời, không phải là anh chị em, mà chính là một người không tin. Từ những biểu hiện nào có thể nhìn ra họ là người không tin? Trong lòng họ không có Đức Chúa Trời, họ làm việc, nói chuyện hoàn toàn dựa vào ý mình, hoàn toàn dựa vào quan niệm, tưởng tượng và sở thích của mình, mà không có tác dụng của lương tâm. Trong tình huống không hiểu lẽ thật, họ cũng không có tác dụng lương tâm, hoàn toàn dựa vào sở thích của mình, chỉ chiếm lợi thế, thu được lợi cho mình, vậy trong lòng họ còn có chỗ cho Đức Chúa Trời không? Một chút cũng không có. Tại sao lại nói như vậy? Bởi vì động cơ, ngọn nguồn và phương hướng họ làm việc và nói chuyện, cũng như những thứ họ bộc lộ ra, đều là vì lợi ích của bản thân, họ cảm thấy cái gì có lợi cho mình thì làm cái đó, nói cái đó, toàn bộ suy nghĩ đều là về lợi ích của mình, mục đích của mình, không hề cảm thấy bị cắn rứt, ràng buộc. Xét từ loại hành vi này, họ xem Đức Chúa Trời là gì? (Thưa, là không khí.) Đúng vậy, câu này nói rất đúng trọng điểm. Nếu như họ có thể cảm giác được Đức Chúa Trời tồn tại và Ngài dò xét tận đáy lòng người, ở ngay bên cạnh con người, lúc nào cũng dò xét con người, thì họ có hành động không chút trói buộc nào như vậy không? Họ có cả gan làm bậy như vậy hay không? Chắc chắn là không. Ở đây nảy sinh một vấn đề, đó là Đức Chúa Trời mà họ tin rốt cuộc có tồn tại hay không? (Thưa, không tồn tại.) Đây là thực chất của vấn đề. Đức Chúa Trời mà họ tin không tồn tại, Đức Chúa Trời của họ là không khí. Cho nên, bất kể họ xưng Ngài là như thế nào, bất kể họ cầu nguyện Đức Chúa Trời ra sao, bất kể họ đã tin bao nhiêu năm, làm những chuyện gì, trả giá bao nhiêu, căn cứ vào lời nói và hành động của họ, căn cứ vào thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời và thái độ của họ đối với tất cả mọi sự liên quan đến Ngài, bản tính của họ được bộc lộ ra hết. Họ coi Đức Chúa Trời như không khí, đây có phải là báng bổ Đức Chúa Trời hay không? (Thưa, phải.) Tại sao lại nói là báng bổ? Họ cảm thấy: “Nói là Đức Chúa Trời dò xét lòng người, vậy Ngài ở đâu? Sao tôi không cảm giác được? Còn nói ăn trộm của lễ thì Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt, sao tôi chẳng thấy ai ăn trộm của lễ mà gặp báo ứng vậy?”. Họ phủ nhận sự tồn tại của Đức Chúa Trời, đây chính là sự báng bổ đối với Ngài. Họ nói: “Đức Chúa Trời còn không tồn tại thì Ngài có thể làm công tác gì chứ? Còn cứu rỗi con người như thế nào? Ngài quở trách con người như thế nào? Ngài trừng phạt ai? Tôi chưa từng thấy, cho nên thứ mà mọi người dâng hiến cho Đức Chúa Trời thì có thể tùy tiện dùng, hôm nay tôi vớ phải cái đó thì nó chính là của tôi, xem như tôi được hưởng. Ai nhìn thấy hoặc vớ được cái gì thì nó là của người đó, là Đức Chúa Trời đang ân đãi người đó”. Đây là lô-gic gì? Đây là lô-gic của Sa-tan, của kẻ cướp, là quỷ tính đã lộ ra. Người như vậy có đức tin chân thực hay không? (Thưa, không.) Nghe giảng đạo nhiều như vậy, mà lại nói ra một đống lời của quỷ như thế thì có chút nền tảng lẽ thật nào hay không? (Thưa, không có.) Vậy khi nghe giảng đạo, hắn rút ra được cái gì? Hắn căn bản không tiếp nhận lời Đức Chúa Trời phán, không coi lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, cũng không đối đãi với Ngài như Đức Chúa Trời, chuyện là như vậy.
Có một vài người trong lòng quả thật tin rằng có Đức Chúa Trời, đối với xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời không có chút hoài nghi, tuy rằng cũng đã đi theo Đức Chúa Trời vài năm, chịu một vài đau khổ, trả một vài cái giá, nhưng sâu thẳm nội tâm họ lại không có chút nhận thức nào đối với Đức Chúa Trời, thực ra những gì họ tin vẫn là một Đức Chúa Trời mơ hồ, một Đức Chúa Trời tưởng tượng, định nghĩa của họ về Đức Chúa Trời chỉ là không khí. Đức Chúa Trời đối đãi với những người này như thế nào? Ngài căn bản là mặc kệ. Một số người nói: “Nếu Đức Chúa Trời mặc kệ, vậy tại sao họ vẫn ở lại trong nhà Đức Chúa Trời?”. Vì họ đang đem sức lực phục vụ. Khái niệm đem sức lực phục vụ là gì? Chính là không có hứng thú với lẽ thật, hoặc là tố chất quá kém, với không tới lẽ thật, đối đãi với Đức Chúa Trời và lẽ thật như thứ hư vô và mơ hồ, nhưng để được phúc họ chỉ có thể dốc ra chút sức lực để đổi lấy. Mặc dù bề ngoài họ không trực tiếp chống đối Đức Chúa Trời, không nguyền rủa Ngài và đối đầu với Ngài, nhưng thực chất của họ là đồng loại với Sa-tan, phủ nhận và chống đối Đức Chúa Trời. Hễ là người không yêu thích lẽ thật thì đều chẳng phải thứ tốt lành gì, trong lòng Đức Chúa Trời đã xác định Ngài không cứu rỗi người như vậy. Đối với người không được cứu rỗi, Đức Chúa Trời còn nghiêm túc với họ sao? Ngài có thể nói với họ: “Dù ngươi không hiểu lẽ thật của phương diện này, thì ngươi cũng phải nghe cho kỹ, ngươi không hiểu lẽ thật ở phương diện kia, thì cũng phải bỏ nhiều công sức để nghiền ngẫm nó chứ” hay không? Mặt khác, Đức Chúa Trời biết những người này không hiểu lẽ thật, cũng không đối đãi với Ngài như Đức Chúa Trời, vậy Ngài nên cho họ thấy những dấu kỳ và phép lạ để họ biết sự tồn tại của Ngài, hoặc là khai sáng và soi sáng cho họ nhiều hơn để trong lòng họ biết rằng có Đức Chúa Trời, biết Ngài có thể làm chuyện như vậy hay không? (Thưa, không thể.) Đức Chúa Trời có nguyên tắc khi làm những việc này, không phải với ai Ngài cũng làm như vậy. Đối với người có thể tiếp nhận lẽ thật thì Ngài sẽ luôn làm, nhưng đối với những người không thể tiếp nhận lẽ thật hoặc không thể với tới lẽ thật thì Đức Chúa Trời có thái độ gì? (Thưa, mặc kệ.) Trong quan niệm của con người, khi Đức Chúa Trời mặc kệ ai đó thì họ sẽ lang thang khắp nơi như một người ăn xin, chẳng thấy họ mưu cầu lẽ thật, cũng chẳng thấy Đức Chúa Trời làm gì trên họ, nên họ chỉ đơn thuần đem sức lực phục vụ, chứ không hiểu lẽ thật. Chỉ thế thôi sao? Thực ra, những người này cũng có thể hưởng thụ được một vài ân điển, phúc lành của Đức Chúa Trời, khi xuất hiện một vài hoàn cảnh nguy hiểm, Đức Chúa Trời cũng sẽ che chở an toàn cho họ, lúc họ mắc bệnh nặng thì Đức Chúa Trời cũng sẽ chữa khỏi cho họ, thậm chí còn có thể ban cho họ một vài tài cán đặc biệt, hoặc là trong một vài hoàn cảnh đặc biệt, Đức Chúa Trời cũng sẽ làm một vài dấu kỳ và một vài việc đặc biệt trên họ. Nói cách khác, những người này nếu thực sự có thể dâng mình cho Đức Chúa Trời, thực sự có thể đem sức lực phục vụ cho tốt, không quấy nhiễu thì Đức Chúa Trời sẽ không đối xử bất công với họ. Vậy quan niệm của con người là gì? “Đức Chúa Trời không cứu rỗi những người này, vậy Ngài sẽ tùy tiện dùng họ, dùng xong thì đá”. Đức Chúa Trời sẽ làm như vậy hay sao? Ngài sẽ không làm như vậy, ngươi đừng quên Đức Chúa Trời là ai, Ngài là Đấng Tạo Hóa. Trong toàn thể nhân loại, bất kể là người tin Đức Chúa Trời hay người không tin Đức Chúa Trời, bất kể là người của tôn giáo, giáo phái hay chủng tộc nào thì đều là loài thọ tạo trong mắt Đức Chúa Trời. Cho nên Đức Chúa Jêsus mới nói “Bởi vì Ngài khiến mặt trời mọc lên soi kẻ dữ cùng kẻ lành”, đây chính là một nguyên tắc làm việc của Đức Chúa Trời – Đấng Tạo Hóa. Bất kể Đức Chúa Trời căn cứ vào thực chất của người này mà cuối cùng ban cho họ kết cục như thế nào, hoặc Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi hay không cứu rỗi họ trước khi ban cho họ một kết cục, bất kể họ có thực chất gì, chỉ cần họ có thể làm một số việc, đem một phần sức lực phục vụ trong nhà Đức Chúa Trời và trong công tác của Ngài thì ân điển của Ngài sẽ không thay đổi, Ngài vẫn sẽ dùng nguyên tắc của mình để đối xử với họ, không bất công với họ. Đây là tình yêu thương của Đức Chúa Trời, là nguyên tắc làm việc của Đức Chúa Trời, là tâm tính của Ngài. Nhưng căn cứ vào thực chất của những người này, cách nhìn và thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời, từ đầu đến cuối họ luôn cho rằng Đức Chúa Trời là mờ mịt, mơ mơ hồ hồ, có mà không có. Họ không thể nhận thức được sự tồn tại chân thực của Đức Chúa Trời, cũng không thể lĩnh hội được sự tồn tại chân thực của Ngài, đến cuối cùng vẫn không thể xác định được sự tồn tại chân thực của Ngài. Vậy thì Đức Chúa Trời chỉ có thể đối đãi với họ tận tình tận nghĩa, ban cho họ một vài ân điển, cho họ một vài phúc lành, che chở cho họ kiếp này, khiến họ cảm nhận được sự ấm áp của nhà Đức Chúa Trời, hưởng thụ được ân điển và lòng thương xót, từ ái của Đức Chúa Trời, chỉ thế thôi, đây chính là phúc phần kiếp này của họ. Có vài người nói: “Nếu Đức Chúa Trời đã khoan dung như vậy, họ cũng đã được hưởng ân điển, phúc lành của Đức Chúa Trời, nếu tiến thêm một bước nữa, để họ nhận được ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời thì chẳng phải càng tốt hơn sao?”. Đây là quan niệm của con người, Đức Chúa Trời không làm như vậy. Tại sao Ngài không làm như vậy? Một người trong lòng không có Đức Chúa Trời thì ngươi có thể đặt Đức Chúa Trời vào trong lòng họ không? Không thể. Bất kể ngươi thông công với họ bao nhiêu lẽ thật, nói bao nhiêu lời cũng không có tác dụng, đều không thể thay đổi được quan niệm và tưởng tượng của họ về Đức Chúa Trời. Cho nên, đối với loại người này, Đức Chúa Trời cũng chỉ có thể ban cho họ một vài ân điển, phúc lành, chăm sóc, che chở mà thôi. Còn có vài người nói: “Họ đều có thể hưởng thụ ân điển của Đức Chúa Trời, nếu như Đức Chúa Trời lại khai sáng, soi sáng nữa, chẳng phải họ sẽ nhận thức được sự tồn tại chân thực của Đức Chúa Trời sao?”. Người như vậy liệu có thể nghe mà hiểu lẽ thật hay không? Có thể thực hành lẽ thật hay không? (Thưa, không thể.) Họ không thể thực hành lẽ thật, điều này quy định họ không thể được cứu rỗi. Vậy nên Đức Chúa Trời cũng không làm công tác vô nghĩa, không làm việc vô ích. Có vài người nói: “Không đúng, có lúc họ cũng bị sửa dạy hoặc có một vài sự khai sáng của Đức Chúa Trời và cũng đạt được một vài lẽ thật từ Đức Chúa Trời”. Điều này lại liên quan đến công tác của Đức Chúa Trời. Người mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi phải có những gì mới có thể được Ngài cứu rỗi, mới là đối tượng được Ngài cứu rỗi? Chuyện này con người phải hiểu, ở trong lòng Đức Chúa Trời cũng có hạn, không phải ai Ngài cũng cứu rỗi. Cho dù Đức Chúa Trời thể hiện những dấu kỳ và phép lạ, thể hiện chút quyền năng để con người thừa nhận Đức Chúa Trời, thì con người có thể được cứu rỗi sao? Chuyện không phải vậy đâu. Đức Chúa Trời có tiêu chuẩn trong việc cứu rỗi con người, con người phải có đức tin chân thực và yêu thích lẽ thật mới được. Cho nên, công tác phán xét, hành phạt, thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời trên con người cũng có tiêu chuẩn. Có vài người nói: “Bình thường chúng ta thường gặp phải một vài hình phạt và sự phán xét, có thể gặp phải hình phạt và sự phán xét, sự thử luyện, sự tinh luyện, thì có phải là một dấu hiệu của việc được Đức Chúa Trời cứu rỗi hay không?”. Có phải như vậy không? (Thưa, không phải.) Sao lại xác định là không phải? Nếu đã có vài người không có đủ điều kiện để Đức Chúa Trời cứu rỗi, thì Đức Chúa Trời có còn hành phạt, phán xét, thử luyện, tinh luyện họ không? Ở đây nảy sinh một vấn đề, đó là trong chuyện Đức Chúa Trời làm công tác hành phạt, phán xét, thử luyện, tinh luyện trên những người nào, con người cũng có sự hiểu lầm. Các ngươi nói xem, một người mà ngay cả Đức Chúa Trời là ai, Ngài ở đâu, Ngài rốt cuộc có tồn tại hay không, cũng không biết thì có thể tiếp nhận được hình phạt và sự phán xét của Đức Chúa Trời hay không? Một người coi Đức Chúa Trời là không khí thì có thể tiếp nhận được hình phạt và sự phán xét của Ngài hay không? Một người trong lòng không hề có Đức Chúa Trời thì có thể tiếp nhận được sự thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời hay không? Chắc chắn là không thể. Vậy có lúc con người sẽ gặp phải điều gì? (Thưa, là sự sửa dạy.) Đúng vậy, là sự sửa dạy. Loại người coi Đức Chúa Trời là không khí này căn bản là người không thừa nhận và không tin rằng có Đức Chúa Trời, họ tuyệt đối sẽ không tiếp nhận được hình phạt và sự phán xét của Đức Chúa Trời, cũng sẽ không tiếp nhận được sự thử luyện và tinh luyện của Ngài. Có thể nói, người có những thực chất này, có những biểu hiện này thì không phải là đối tượng được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Họ không thể đạt đến được cứu rỗi, không phải là Đức Chúa Trời không cứu rỗi họ, mà là do thực chất bản tính chán ghét lẽ thật, thù hận lẽ thật của họ quyết định, họ không có tâm thái đúng đắn là yêu thích lẽ thật, tiếp nhận lẽ thật, cho nên họ không có đủ điều kiện để được cứu rỗi. Vậy họ trà trộn vào trong nhà Đức Chúa Trời, còn muốn được phúc, thì Đức Chúa Trời sẽ đối xử với họ như thế nào? Ngoài việc ban cho họ một vài phúc lành, ân điển, chăm sóc và che chở ra, Đức Chúa Trời đã dùng phương thức gì để làm được những việc mà Đấng Tạo Hóa nên làm? Đó là dùng lời nói nhắc nhở, khuyên giải, khích lệ, tiếp đến là tỉa sửa, quở trách, sửa dạy, công tác mà Đức Chúa Trời làm trên họ chỉ đến đây thôi, chỉ trong phạm vi này thôi. Những công tác mà Đức Chúa Trời đã làm này đạt được kết quả gì trên con người? Con người có thể ngoan ngoãn chịu ràng buộc, đem sức lực phục vụ trong nhà Đức Chúa Trời vì Đức Chúa Trời một cách quy củ, không quấy nhiễu, không làm ác. Vậy những điều Đức Chúa Trời đã làm có đạt đến việc khiến họ trung thành thực hiện bổn phận hay không? (Thưa, không đạt đến.) Tại sao không đạt đến? Những thứ như ân điển, phúc lành, sự chăm sóc và che chở mà họ tiếp nhận, còn cả sự nhắc nhở, tỉa sửa, sửa phạt, sửa dạy, v.v. của lời Đức Chúa Trời có thể khiến tâm tính của họ thay đổi hay không? (Thưa, không thể.) Không thể khiến tâm tính của họ thay đổi, vậy những công tác mà Đức Chúa Trời đã làm trên họ đạt được hiệu quả gì? Khiến họ có thể chịu chút ràng buộc trong hành vi, có thể tuân thủ quy củ, có chút hình tượng con người ở bên ngoài, ngoài ra còn biết nghe lời, vì ân điển và phúc lành, họ có thể miễn cưỡng tiếp nhận một vài sự tỉa sửa, có thể tuân theo quy định, làm việc theo sắc lệnh quản trị của nhà Đức Chúa Trời, chỉ thế thôi. Có thể đạt đến những điều này, có phải sẽ đạt đến thực hành lẽ thật hay không? Vẫn chưa đạt đến, bởi vì mọi việc họ làm về cơ bản chỉ là thực hành dựa theo nguyên tắc trong sắc lệnh quản trị của nhà Đức Chúa Trời và một vài khuôn sáo thôi. Đó chỉ là có sự thay đổi về mặt hành vi, không hơn không kém. Vậy có thể nói nếu những người này đã có sự thay đổi về hành vi thì hãy để cho tâm tính của họ cũng đạt được sự thay đổi, như vậy không phải càng tốt hơn sao? (Thưa, họ không với tới được.) Họ không với tới được, không đạt đến được, đây là một nguyên nhân, vậy nguyên nhân chủ yếu nhất là gì? Chính là trong lòng họ căn bản không có Đức Chúa Trời, họ không tin vào sự tồn tại của Đức Chúa Trời. Cho nên, đối với họ mà nói, họ có thể nghe hiểu lời Đức Chúa Trời không? Có một bộ phận người nghe thì hiểu, họ nói: “Lời Đức Chúa Trời rất hay, đáng tiếc tôi không thực hành ra được, lúc thực hành còn khó chịu hơn cả việc lên bàn mổ để ghép tim”. Khi lợi ích của chính họ bị tổn thất, khi họ làm việc gì đó trái với ý nguyện của mình, họ sẽ cảm thấy tâm tư rối bời, không thực hành ra được, nghĩa là có mệt nhoài họ cũng không thực hành được lời Đức Chúa Trời. Ngoài ra, họ không bao giờ thừa nhận hay tiếp nhận sự thật rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, họ tiếp nhận không nổi, họ không hiểu tại sao lời Đức Chúa Trời lại là lẽ thật. Ví dụ, Đức Chúa Trời muốn con người làm người trung thực, thì họ nói: “Bảo làm người trung thực thì làm người trung thực thôi, tại sao lại nói làm người trung thực là lẽ thật?”. Họ không biết, nên không tiếp nhận được. Đức Chúa Trời bảo con người thuận phục Ngài thì họ nói: “Thuận phục Đức Chúa Trời thì có kiếm ra tiền không? Thuận phục thì Ngài có ban phúc phần không? Có thể thay đổi đích đến không?”. Họ không hề cho rằng mọi điều Đức Chúa Trời nói hay làm đều là lẽ thật, họ không hề hiểu lời Đức Chúa Trời hay yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người có ý nghĩa gì, họ cũng không phân định rõ ràng rốt cuộc làm thế nào mới là đúng, là phù hợp với nguyên tắc lẽ thật. Tất cả những gì đến từ Đức Chúa Trời như thân phận, thực chất, lời phán, yêu cầu của Đức Chúa Trời, v.v. trong mắt họ đều không thể chắc chắn đó là những gì Đức Chúa Trời có và là. Họ không biết Đức Chúa Trời chính là Đấng Tạo Hóa, họ không hiểu Đấng Tạo Hóa là gì, Đức Chúa Trời là gì, chuyện này chẳng phải phiền phức hay sao? Có vài người sẽ có loại biểu hiện này. Có người nói: “Điều đó không đúng, nếu họ có những ý nghĩ, quan điểm này, thì sao họ có thể cam lòng thực hiện bổn phận của mình ở nhà Đức Chúa Trời chứ?”. Chữ “cam lòng” này phải thêm dấu ngoặc kép, vậy giải thích như thế nào đây? Một mặt là xuất phát từ tình thế ép buộc hoặc là từ nhu cầu được phúc, mặt khác là xuất phát từ việc không có lối đi nào khác, chỉ có thể miễn cưỡng tạm thời đi theo mà làm chút bổn phận, góp chút sức lực, trong lòng họ cũng cảm thấy đây là việc nên làm, nhưng bởi vì không có hứng thú với lẽ thật nên họ chỉ có thể dựa vào việc ra sức, làm bổn phận để đổi lấy phúc lành của Đức Chúa Trời. Họ mang theo loại tâm thái này thì có thể tiếp nhận lẽ thật hay không? (Thưa, không thể.) Không hiểu lẽ thật là gì thì làm sao họ có thể tiếp nhận lẽ thật đây?
Công tác phán xét thời kỳ sau rốt mà Đức Chúa Trời thực hiện là để kết thúc thời đại. Về việc con người có thể được cứu rỗi hay không, quan trọng nhất là phải xem họ có thể tiếp nhận hình phạt và sự phán xét của Đức Chúa Trời hay không, có thể tiếp nhận lẽ thật hay không. Có người mặc dù thừa nhận lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, nhưng lại không tiếp nhận lẽ thật, bảo họ tiếp nhận lẽ thật cũng giống như bảo họ mổ thay tim vậy, họ có thể đau khổ đến mức như vậy đấy. Loại người này đối đãi với lẽ thật như vậy, sống chết cũng không tiếp nhận lẽ thật. Chuyện này không thể trách Đức Chúa Trời không cứu rỗi họ mà chỉ có thể trách họ không tiếp nhận lẽ thật, không có được phúc phần này. Đức Chúa Trời cứu rỗi con người thoát khỏi quyền thế của Sa-tan không đơn giản như con người tưởng tượng. Người tin Đức Chúa Trời một mặt phải tiếp nhận sự sửa phạt, tỉa sửa của lời Đức Chúa Trời, đây là một cửa ải; ngoài ra còn phải tiếp nhận hình phạt, sự phán xét, sự thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời, hình phạt và sự phán xét là một cửa ải, sự thử luyện và tinh luyện cũng là một cửa ải. Có vài người có thể miễn cưỡng tiếp nhận sự tỉa sửa thì đã cho rằng mình có sự thuận phục, liền dậm chân tại chỗ, không phấn đấu hướng tới lẽ thật. Có vài người đặc biệt yêu thích lẽ thật, để có được lẽ thật thì có thể chịu bất kỳ đau khổ nào, không chỉ có thể chịu được sự sửa phạt và trách phạt của lời Đức Chúa Trời, mà còn có thể bước vào cửa ải tiếp nhận hình phạt và sự phán xét của Đức Chúa Trời. Họ cảm thấy tiếp nhận hình phạt và sự phán xét của Đức Chúa Trời chính là được Đức Chúa Trời đề cao, là tình yêu thương của Đức Chúa Trời, là chuyện vinh hiển, và họ không sợ chịu khổ. Những người này sau khi trải qua hình phạt và sự phán xét, còn có thể tiếp nhận sự thử luyện và tinh luyện, vẫn mưu cầu lẽ thật như thường, cho dù chịu bao nhiêu sự thử luyện và tinh luyện, họ đều có thể nhìn thấy tình yêu thương của Đức Chúa Trời, đều có thể hiến thân để làm hài lòng Đức Chúa Trời, chịu bao nhiêu tỉa sửa cũng không cảm thấy khổ, mà lại cảm thấy đây là tình yêu lớn lao hơn của Đức Chúa Trời. Cuối cùng sau khi lại trải qua rất nhiều sự thử luyện và tinh luyện thì họ có được sự tinh sạch và hoàn thiện triệt để. Đây là giai đoạn cao nhất mà việc trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời đạt đến. Vậy các ngươi nói xem, những người tin Đức Chúa Trời chỉ trải qua cửa ải là một vài sự sửa phạt và trách phạt của lời Đức Chúa Trời thì có sự khác biệt với người trải qua hai cửa ải là hình phạt và sự phán xét cùng với sự thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời hay không? Chắc chắn là có sự khác biệt. Đức Chúa Trời chỉ làm đến bước sửa phạt, trách phạt trên vài người thì không làm thêm gì nữa, phần còn lại dựa vào sự lựa chọn và tự giác của con người. Nếu con người không tiếp nhận lẽ thật, không lựa chọn con đường đúng đắn thì việc này nói lên điều gì? Có thể nói Đức Chúa Trời không có cách nào cứu rỗi người như vậy. Có vài người thường nói họ chịu khổ về công việc, tiền đồ, nhà cửa, bạn đời, tình cảm, cái gì cũng chịu khổ, cuối cùng kết quả là gì? (Thưa, không liên quan gì đến lẽ thật.) Đúng vậy, không liên quan gì đến lẽ thật và công tác của Đức Chúa Trời. Đó là mù quáng chịu khổ, ngươi chỉ là đang giãy giụa, đang để thời gian trôi, căn bản không có quá trình cầu nguyện Đức Chúa Trời và tìm kiếm lẽ thật, đó không phải là “sự chịu khổ” liên quan đến sự tinh luyện, bởi vì đó không phải việc Đức Chúa Trời làm, không liên quan đến Đức Chúa Trời, bản thân ngươi đang tự chịu khổ chứ không phải Đức Chúa Trời đang tinh luyện ngươi. Ngươi vẫn cho rằng Đức Chúa Trời đang tinh luyện ngươi, nghĩ hay đấy nhưng đó là mơ tưởng thôi! Ngươi không có tư cách được Đức Chúa Trời tinh luyện. Cửa ải hình phạt và sự phán xét này còn chưa vượt qua, mà vẫn muốn để Đức Chúa Trời thử luyện ngươi, tinh luyện ngươi, chuyện này có thể sao? Đây không phải là ý nghĩ viển vông sao? Sự thử luyện, tinh luyện là thứ mà người bình thường có thể chịu được sao? Là thứ mà người bình thường có thể tiếp nhận sao? Là thứ mà Đức Chúa Trời ban cho người bình thường sao? Tuyệt đối không phải. Sau khi Đức Chúa Trời trách phạt một người, nếu vì tâm tính ngạo mạn của họ, vì sự cương ngạnh của họ, vì sự giả dối, tà ác hoặc các loại tâm tính khác của họ, mà Đức Chúa Trời có sự phán xét, có sự sửa dạy, có sự sửa phạt rõ ràng đối với họ trong một hoặc rất nhiều chuyện, để cho họ biết vì sao họ bị Đức Chúa Trời sửa dạy, từ đó mà họ nảy sinh nhận thức chân thực về Đức Chúa Trời, nảy sinh nhận thức chân thực về chính mình, tâm tính cũng nảy sinh sự thay đổi chân thực, sau đó dần dần có sự thuận phục chân thực đối với lẽ thật, thì quá trình như vậy mới là quá trình Đức Chúa Trời hành phạt và phán xét con người. Đức Chúa Trời thực hiện công tác như vậy dựa trên cơ sở nào? Trong chuyện này có một điều kiện, người như vậy nhất định phải có thể thực hiện bổn phận một cách đạt tiêu chuẩn ở trong nhà Đức Chúa Trời. Việc đạt tiêu chuẩn này không cần yêu cầu thêm điều kiện nào ngoài hai điều kiện là thuận phục và trung thành. Trước hết, bản thân người đó phải có lương tâm và lý trí, người có lương tâm và lý trí thì mới có điều kiện tiên quyết để tiếp nhận lẽ thật. Những người có lương tâm lý trí khi tiếp nhận sự sửa phạt và trách phạt của Đức Chúa Trời vẫn có thể tìm kiếm lẽ thật, thuận phục Đức Chúa Trời, sau đó Đức Chúa Trời sẽ thực hiện công tác hành phạt và phán xét, đây là trình tự làm việc của Ngài. Tuy nhiên, nếu như một người ở trong nhà Đức Chúa Trời chưa bao giờ có thể trung thành thực hiện bổn phận, không có chút thuận phục nào đối với sự tể trị của Đức Chúa Trời, cũng không đạt đến việc thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn, thì khi người như vậy gặp phải một vài bất lợi, bị tỏ lộ hoặc là tỉa sửa, thì cùng lắm cũng chỉ là sự trách phạt và sửa dạy của Đức Chúa Trời thôi, căn bản không liên quan đến hình phạt và sự phán xét, lại càng không liên quan đến sự thử luyện và tinh luyện, cũng căn bản không liên quan đến công tác hoàn thiện con người của Đức Chúa Trời.
Những điều được thông công vừa rồi liên quan đến công tác cứu rỗi con người, công tác hoàn thiện con người của Đức Chúa Trời, liên quan đến phương thức công tác và đối tượng công tác của Đức Chúa Trời, liên quan đến việc công tác phán xét, hành phạt, thử luyện, tinh luyện của Đức Chúa Trời được thực hiện trên những người nào. Nó cũng liên quan đến việc khi công tác của Đức Chúa Trời được thực hiện trên con người thì lối vào sự sống của con người đến được mức độ nào, con người ít nhất phải có thực chất, điều kiện như thế nào thì mới có thể tiếp nhận sự phán xét, hành phạt của Đức Chúa Trời. Vậy quan niệm của con người trong chuyện này là gì? Người ta cho rằng: “Chỉ cần là người đi theo Đức Chúa Trời, chỉ cần là người tiếp nhận bước công tác này của Đức Chúa Trời thì tất nhiên sẽ chịu sự phán xét hành phạt của Đức Chúa Trời, tiếp đó sự thử luyện, tinh luyện của Đức Chúa Trời cũng sẽ đến. Cho nên, những người như chúng ta thường gặp phải thử luyện, tinh luyện và tỉa sửa, bị tước đoạt gia đình, tước đoạt tình cảm, địa vị, tiền đồ, sau đó không ngừng chịu khổ về mặt tình cảm, địa vị, tiền đồ”. Những câu nói này có chính xác hay không? (Thưa, không chính xác.) Con người có thể biến một từ trong lời nói và công tác của Đức Chúa Trời thành một thuật ngữ thuộc linh, tại sao lại như vậy? Trên thực tế, sự chịu khổ của con người đều là đang vùng vẫy, để thời gian trôi, không có chút ý nghĩa nào, nhưng con người lại coi nó như sự thử luyện và tinh luyện, nói nó thành sự tinh luyện từ Đức Chúa Trời, đây là chuyện sai hoàn toàn, là con người gán ép cho Đức Chúa Trời, hoàn toàn không đại diện cho ý nghĩ của Đức Chúa Trời. Đây có phải là một loại hiểu lầm về Đức Chúa Trời không? Đó là một loại hiểu lầm. Loại hiểu lầm này nảy sinh như thế nào? Con người không hiểu lẽ thật mà cứ dựa vào tưởng tượng của mình thì sẽ nảy sinh hiểu lầm như vậy. Sau đó, người ta sẽ không chút kiêng nể gì mà tuyên truyền, phát tán lung tung khắp nơi, cuối cùng sẽ nảy sinh các loại câu nói về “chịu khổ”. Vì vậy, Ta thường nghe được có vài người nói rằng: “Có người bị thay thế thì tinh thần sa sút, họ đang chịu khổ vì địa vị của mình đấy!”. Chịu khổ vì địa vị không phải là trải nghiệm sự thử luyện và tinh luyện, mà chỉ là con người mất đi địa vị, tình cảm bị suy sụp, khi thất bại thì trong lòng vật lộn đau khổ. Nếu sự “chịu khổ” mà con người nói và sự tinh luyện mà Đức Chúa Trời phán đã có sự chênh lệch, vậy sự tinh luyện thực sự rốt cuộc là nói đến điều gì? Trước hết phải hiểu rằng Đức Chúa Trời sẽ làm rất nhiều công tác chuẩn bị trước khi thử luyện, tinh luyện con người. Một mặt, Ngài muốn tuyển chọn người, Ngài muốn chọn người đúng. Vừa rồi cũng đã nói người như thế nào là người đúng trong mắt Đức Chúa Trời, đó là người phải có mấy điều kiện sau: Đầu tiên, về mặt nhân tính ít nhất phải có lương tâm và lý trí; tiếp theo, có thể đạt đến thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn, thực hiện bổn phận có lòng trung thành và sự thuận phục; sau đó còn phải trải qua nhiều năm tỉa sửa, sửa dạy và sửa phạt. Cái gì là sửa dạy, sửa phạt, chuyện này có thể các ngươi không rõ lắm, tính khái niệm cũng không mạnh. Đối với con người mà nói, chuyện này hẳn là khá vô hình, khá trừu tượng, trong khi đó, với việc tỉa sửa thì con người có thể nghe thấy, cũng có thể cảm nhận được, có ngôn ngữ rõ ràng, ngữ điệu rõ ràng, mọi người đều biết đó là gì. Khi con người làm sai, làm trái nguyên tắc, hoặc làm xằng làm bậy, chuyên quyền độc đoán, làm ra một số chuyện có hại cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, cho công tác của hội thánh thì bị tỉa sửa, đây chính là việc tỉa sửa. Vậy trách phạt, sửa dạy thì sao? Ví dụ như, có người làm trưởng nhóm nhưng không đảm đương nổi trách nhiệm, không có lòng trung thành, làm một vài chuyện trái với nguyên tắc lẽ thật, trái với quy định của hội thánh và bị thay thế, đây có phải là trách phạt hay không? Đây là một loại trách phạt. Bề ngoài cho dù là bị hội thánh xử lý, hay bị một lãnh đạo nào đó thay thế, tóm lại trong mắt Đức Chúa Trời, đây là việc Đức Chúa Trời làm, là một phần trong công tác của Đức Chúa Trời, đây là một loại trách phạt. Còn nữa, con người bình thường khi ở trạng thái tốt thì rất có ánh sáng, cũng có thể có cái nhìn mới mẻ, nhưng vì một số tình trạng hoặc nguyên nhân nào đó mà làm công tác rối tinh rối mù và bị tỏ lộ, đây có phải là một loại trách phạt hay không? Đây cũng là một loại trách phạt. Vậy những điều này có thể được coi là sự phán xét và hình phạt không? Cho tới bây giờ, những điều này vẫn chưa được coi là sự phán xét và hình phạt, cho nên càng không thể nói là sự thử luyện và tinh luyện, đây chỉ là sự trách phạt mà con người chịu đựng trong quá trình thực hiện bổn phận. Biểu hiện của sự trách phạt có khi là ốm đau hoặc là làm việc lúc nào cũng lầm lỡ, hoặc là không tìm được ra đường lối trong chuyện mình đã từng rất am hiểu, không biết làm như thế nào, đây đều là trách phạt. Đương nhiên, còn có một vài sự trách phạt là mượn người bên cạnh nhắc nhở hoặc là mượn sự tỏ lộ của một chuyện nào đó khiến người ta xấu mặt, khiến người ta trở lại sâu thẳm nội tâm mình để kiểm điểm, ngẫm lại, đây cũng là trách phạt. Nếu có sự trách phạt của Đức Chúa Trời, thì đó là chuyện tốt hay xấu? (Thưa, là chuyện tốt.) Trên lý thuyết mà nói thì đây là chuyện tốt, bất kể con người có thể tiếp nhận hay không, đây đều là chuyện tốt, ít nhất nó chứng minh được Đức Chúa Trời đang chịu trách nhiệm với ngươi, Ngài không rời xa ngươi mà đang làm công tác trên ngươi, nhắc nhở, chỉ dẫn cho ngươi. Đức Chúa Trời làm công tác trên ngươi, điều này chứng thực rằng Đức Chúa Trời không có ý vứt bỏ ngươi. Trong chuyện này có một tầng ý nghĩa chính là tiếp theo có thể Đức Chúa Trời sẽ tiếp tục sửa phạt và sửa dạy ngươi, cũng có thể nếu biểu hiện của ngươi tốt, con đường ngươi đi là đúng, thì Đức Chúa Trời sẽ cho ngươi sự phán xét và hình phạt. Những chuyện sau này thì không nói nữa, nói chuyện gần đã, Đức Chúa Trời sẽ sửa phạt, sửa dạy ngươi nhiều lần, sau đó, bởi vì ngươi mưu cầu lẽ thật, bởi vì ngươi có sự thuận phục, bởi vì ngươi là người đúng, nên Đức Chúa Trời sẽ có sự phán xét và hình phạt đối với ngươi, đây là bước mở đầu. Việc tỉa sửa đơn giản thì đa số mọi người đã trải nghiệm được rồi, chỉ có những người mới tin thì vẫn chưa trải nghiệm được. Hầu hết thời gian con người đều dựa vào cảm giác của lương tâm, trong lòng thấy có cắn rứt, cảm giác được lời Đức Chúa Trời nhắc nhở ở ngay bên tai hoặc là trong lòng rằng: “Mình không nên làm như vậy, đây là phản nghịch”, đây là lời nhắc nhở, khích lệ, cảnh báo của Đức Chúa Trời. Việc tỉa sửa mà con người trải nghiệm được có mấy phương diện, có sự tỉa sửa của lãnh đạo và chấp sự, sự tỉa sửa của anh chị em, còn có sự tỉa sửa của Bề trên, sự tỉa sửa trực tiếp của Đức Chúa Trời. Số người đã trải nghiệm được những chuyện này hẳn là không ít, người trải nghiệm được sự trách phạt, sửa dạy của Đức Chúa Trời thì ít hơn một chút. Ít hơn nghĩa là sao? Nghĩa là nhiều người vẫn còn cách xa sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, vậy còn sự thử luyện và tinh luyện của Đức Chúa Trời thì sao? Thì càng cách xa hơn, khoảng cách càng lớn, càng xa hơn. Trước đây, người ta cho rằng “Đức Chúa Trời phán xét và hành phạt tôi, làm cho miệng tôi bị phồng rộp”, “Đức Chúa Trời đã phán xét và hành phạt tôi, tôi làm một chuyện sai trái, nói một câu sai trái thì đau đầu mấy ngày liền, lần này tôi nhận thức được cái gì là sự phán xét và hành phạt của Đức Chúa Trời rồi”, đây có phải là hiểu lầm hay không? Loại hiểu lầm đối với Đức Chúa Trời này là phổ biến nhất, đa số mọi người đều hiểu lầm Đức Chúa Trời ở phương diện này, hiểu lầm này cũng sẽ nảy sinh một vài tác dụng tiêu cực, khiến con người cảm thấy nói sai một câu sẽ bị Đức Chúa Trời sửa dạy, đây đơn thuần là hiểu lầm Đức Chúa Trời, rất không phù hợp với những gì Ngài làm. Hiểu lầm Đức Chúa Trời như vậy, đến cuối cùng có thể đạt đến yêu cầu của Đức Chúa Trời không? Chắc chắn là còn xa mới đạt đến.
Bây giờ, hầu hết mọi người đã trải nghiệm được sự trách phạt, sửa dạy của Đức Chúa Trời cũng như trải nghiệm được sự tỉa sửa, trải nghiệm được sự nhắc nhở, khích lệ của lời Đức Chúa Trời rồi, nhưng chỉ vậy thôi. Ở đây có một vấn đề, tại sao con người đã trải nghiệm được bước này rồi mà vẫn chưa trải nghiệm được sự phán xét và hành phạt? Tại sao sự tỉa sửa và sự nhắc nhở, sửa dạy, trách phạt của lời Đức Chúa Trời không được tính là sự phán xét và hình phạt? Xét từ sự nhắc nhở, sự tỉa sửa, trách phạt và sửa dạy của lời Đức Chúa Trời mà con người đã trải nghiệm thì hiệu quả đạt được là gì? (Thưa, là có sự ràng buộc về hành vi bên ngoài.) Về mặt hành vi có một vài thay đổi, điều này có thể đại diện cho việc tâm tính cũng có sự thay đổi hay không? (Thưa, không.) Không đại diện cho việc tâm tính có sự thay đổi. Có người nói: “Chúng ta tin Đức Chúa Trời nhiều năm như vậy, cũng nghe giảng đạo đã nhiều, nhưng rõ ràng tâm tính vẫn chưa có sự thay đổi, vậy không phải là oan cho chúng ta sao? Chỉ là về mặt hành vi có chút thay đổi thôi, đây không phải là quá đáng thương sao? Vậy khi nào thì Đức Chúa Trời bắt đầu cứu rỗi chúng ta? Chúng ta khi nào mới có thể được cứu rỗi?”. Vậy chúng ta hãy thảo luận xem những người đã trải nghiệm được công tác của Đức Chúa Trời trong những phương diện này có những thu hoạch và thay đổi nào. Vừa rồi có người nói về mặt hành vi có chút thay đổi, đây là câu nói chung chung, cụ thể mà nói, lúc người ta vừa đến hội thánh và làm bổn phận, chưa trải qua sự tỉa sửa, ai cũng giống như kẻ hay sinh sự, đều muốn tự mình định đoạt, trong lòng họ sẽ cho rằng: “Bây giờ tôi tin Đức Chúa Trời, thì ở trong hội thánh liền có nhân quyền, có tự do, tôi muốn làm như thế nào thì làm như thế ấy”. Rồi họ trải qua một phen tỉa sửa và sửa dạy, còn đọc lời Đức Chúa Trời, nghe giảng đạo, thông công lẽ thật, cuối cùng họ không dám như vậy nữa. Thực ra họ cũng không hoàn toàn trung thực, chỉ là đã hiểu được chút chuyện, hiểu chút đạo lý, người khác nói phù hợp với lẽ thật thì họ có thể thừa nhận là đúng, tuy nghe không hiểu lắm, nhưng vẫn có thể tiếp nhận, đây có phải là đã trung thực hơn nhiều hay không? Họ có thể tiếp nhận, điều này chứng tỏ về mặt hành vi, họ đã sinh ra một vài thay đổi. Sự thay đổi này đến từ đâu? Đến từ sự khuyên nhủ, nhắc nhở của lời Đức Chúa Trời, cộng thêm sự an ủi, có lúc còn phải có chút sửa dạy, tỉa sửa, sau đó thông công chút nguyên tắc, nói cho họ biết chuyện này nhất định phải làm như vậy, không làm như vậy thì không được, rồi họ ngẫm nghĩ: “Không tiếp nhận thì không được, lẽ thật bày ra ở đó, ai dám phản đối cơ chứ?”. Trong nhà Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời vĩ đại, lẽ thật vĩ đại, lẽ thật nắm quyền, bởi vì có nền tảng lý luận này nên một số người được tỉnh ngộ, hiểu được việc tin Đức Chúa Trời rốt cuộc là gì. Giả dụ có một người vốn dĩ dã man, phóng đãng, căn bản là người không chịu được sự ràng buộc, không hiểu cái gì là quy củ, không hiểu tin Đức Chúa Trời là gì, nhà Đức Chúa Trời là gì, hội thánh là gì, cũng không hiểu nguyên tắc thực hiện bổn phận là gì. Sau khi người mà cái gì cũng không hiểu đó mang theo lòng tốt và sự nhiệt tình, mang theo chí hướng và nguyện vọng “to lớn” đến nhà Đức Chúa Trời, họ tiếp nhận lời khuyên nhủ và nhắc nhở, chăm tưới và nuôi nấng, còn có sự tỉa sửa, có sự sửa phạt và sửa dạy nhiều lần từ lời Đức Chúa Trời, thì trong nhân tính của họ dần dần sinh ra một vài thay đổi. Thay đổi đó là gì? Hiểu được chút đạo lý làm người, nhận thức được trước kia mình không có hình tượng con người, kiêu ngạo, dã man, không phục bất kỳ người hay việc nào, nói chuyện thì không có hình tượng con người, làm việc thì không có quy củ, cũng không biết tìm kiếm lẽ thật, cảm thấy tin Đức Chúa Trời rất đơn giản, Đức Chúa Trời bảo làm cái gì thì làm cái đó, Đức Chúa Trời bảo đi chỗ nào thì đi chỗ đó, chỉ là một thái độ ngang tàng bạo ngược, mà còn cho rằng đó là trung thành, là yêu kính Đức Chúa Trời. Bây giờ họ đã chối bỏ những thứ này, biết những thứ này đều thuộc về tưởng tượng của con người, là hành vi tốt của con người, một số trong đó còn xuất phát từ Sa-tan. Người tin Đức Chúa Trời thì phải nghe lời Ngài, xem lẽ thật là vĩ đại, và để lẽ thật nắm quyền trong mọi sự. Nói tóm lại, hết thảy mọi người về mặt lý thuyết đều đã hiểu, thừa nhận và chấp nhận rằng những lời Đức Chúa Trời phán này là đúng – rằng chúng là lẽ thật, là thực tế của những điều tích cực – bất kể những lời này đã bén rễ sâu đến mức nào trong lòng họ và cho dù những lời này đã đóng một vai trò lớn lao như thế nào đi nữa. Sau đó, sau khi trải qua một mức độ sửa phạt và sửa dạy vô hình, thì một mức độ đức tin thật nảy sinh trong ý thức của họ. Từ những sự tưởng tượng mơ hồ ban đầu về Đức Chúa Trời đến cảm giác hiện tại của họ – rằng có một Đức Chúa Trời, và rằng Ngài hoàn toàn thực tế – một khi con người có những cảm giác đó trong đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời, thì suy nghĩ và quan điểm, cách nhìn mọi sự và tiêu chuẩn đạo đức cũng như cách suy nghĩ của họ, sẽ bắt đầu thay đổi dần. Ví dụ như, Đức Chúa Trời yêu cầu con người làm người trung thực, mặc dù ngươi vẫn có thể nói dối và bày trò giả dối, nhưng trong lòng ngươi biết rằng giả dối là không tốt, biết rằng nói dối lừa gạt Đức Chúa Trời là phạm tội, là tâm tính tà ác, nhưng lại không kiềm chế được. Ví dụ như, bây giờ ngươi vẫn có tâm tính kiêu ngạo, có lúc ràng buộc không được, thường xuyên bộc lộ, cũng thường xuyên phản nghịch Đức Chúa Trời, luôn muốn một mình thống trị, độc đoán chuyên quyền, tự mình định đoạt. Ngươi cũng biết đây là tâm tính bại hoại, cũng cầu nguyện với Đức Chúa Trời, mặc dù không có sự thay đổi rõ ràng, nhưng về mặt hành vi đã từng bước sinh ra sự thay đổi. Mặc dù ngươi chưa trải qua sự phán xét và hình phạt, tâm tính vẫn chưa có sự thay đổi, nhưng lẽ thật và lời Đức Chúa Trời bắt đầu sáng tỏ từng chút một ở sâu thẳm nội tâm ngươi, đồng thời cũng đang dẫn dắt, thay đổi hành vi của ngươi, khiến ngươi càng sống càng có hình tượng con người, khiến lương tâm ngươi dần dần có tri giác. Nếu như làm một chuyện trái với lương tâm thì trong lòng ngươi sẽ không thoải mái, nhắc tới chuyện đó thì trong lòng ngươi sẽ có cảm giác, chứ không tê liệt, ngươi có sự ăn năn và sẵn lòng sửa chữa. Mặc dù ngươi không thể thay đổi tâm tính về phương diện này ngay lập tức, nhưng nếu chạm đến tình trạng của ngươi thì ngươi có thể ý thức được bản thân mình có tình trạng này, trong ngươi có tri giác và tri giác này đang thay đổi hành vi của ngươi. Sự thay đổi như vậy chỉ là sự thay đổi của hành vi, mặc dù nó đang xảy ra, cũng đang tiếp tục xảy ra, nhưng nó không đại diện cho việc có sự thay đổi của tâm tính, đây hoàn toàn không phải là sự thay đổi của tâm tính. Một số người nghe lời này có thể cảm thấy không thoải mái lắm, họ nói rằng: “Sự thay đổi lớn như vậy vẫn không phải là sự thay đổi về tâm tính, vậy rốt cuộc sự thay đổi về tâm tính là gì? Sự thay đổi nào mới thuộc về sự thay đổi của tâm tính?”. Điều này trước hết chúng ta không nói đến, hãy nói về sự thay đổi mà người vừa nói đến đã đạt được, đó là tác dụng và hiệu quả của lời Đức Chúa Trời, của tất cả những gì Đức Chúa Trời làm đã đạt được trên con người. Con người đang cố gắng thay đổi tư tưởng và quan điểm không phù hợp với lẽ thật của mình, khi gặp chuyện, con người sẽ có tri giác, sẽ đối chiếu mà nói: “Chuyện này không phù hợp với lẽ thật, nhưng quan điểm của tôi vẫn chưa thể buông bỏ, vẫn còn tồn tại”. Ngươi chỉ đơn giản là đã ý thức được, đã biết được quan điểm của ngươi không phù hợp với lời Đức Chúa Trời, điều này có thể chứng minh rằng quan điểm của ngươi đã thay đổi, đã bị buông bỏ hay không? Không thể chứng minh được. Quan điểm của ngươi không thay đổi, cũng không bị buông bỏ, điều này chứng minh tâm tính bại hoại của ngươi vẫn nguyên vẹn, chưa bắt đầu sinh ra sự thay đổi, chỉ là ý thức của ngươi, nội tâm của ngươi đã tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, coi lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, nhưng đó chỉ là lý luận, là nguyện vọng chủ quan mà thôi, lời Đức Chúa Trời vẫn chưa trở thành sự sống của ngươi, chưa trở thành thực tế của ngươi. Khi lời Đức Chúa Trời trở thành thực tế của ngươi, ngươi sẽ buông bỏ được quan điểm của mình, ngươi sẽ vận dụng quan điểm của lời Đức Chúa Trời để đối đãi với con người, sự vật, sự việc, và những chuyện xảy ra xung quanh ngươi.
Bây giờ, lối vào sự sống của các ngươi đang ở giai đoạn nào? Ngươi đã nhận thức được quan điểm của ngươi không đúng, nhưng ngươi vẫn có thể sống dựa vào quan điểm của mình, vẫn có thể dùng quan điểm của mình để đánh giá công tác của Đức Chúa Trời, dùng tư tưởng và quan điểm của mình để phán đoán hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt cho ngươi, dùng tư tưởng và quan điểm của mình để đối đãi với sự tể trị của Đức Chúa Trời, điều này có phù hợp với nguyên tắc lẽ thật không? Đây có phải là hoang đường hay không? Con người hiểu được chút đạo lý nhỏ bé này mà vẫn muốn đánh giá hành động của Đức Chúa Trời, đây có phải là quá kiêu ngạo hay không? Bây giờ ngươi chỉ thừa nhận rằng lời Đức Chúa Trời là tốt, là đúng, và xét từ những hành vi bên ngoài, ngươi không làm những chuyện rõ ràng trái với lẽ thật, càng không làm những chuyện xét đoán công tác của Đức Chúa Trời, vẫn có thể thuận phục sự sắp xếp công việc của nhà Đức Chúa Trời, từ một người ngoại đạo biến thành một người đi theo Đức Chúa Trời và có thể thống thánh đồ. Từ một người sống hoàn toàn dựa vào triết lý, ý tưởng, quy luật và tri thức của Sa-tan, ngươi trở thành một người nghe lời Đức Chúa Trời thì cảm thấy đây là lẽ thật, có thể tiếp nhận, có thể mưu cầu lẽ thật, trở thành một người có thể tiếp nhận lời Đức Chúa Trời như sự sống, quá trình là như vậy, chỉ thế thôi. Trong thời gian này, hành vi và cách làm việc của ngươi chắc chắn sẽ sinh ra một số thay đổi, cho dù có thay đổi bao nhiêu đi chăng nữa thì trong mắt Đức Chúa Trời, ngươi có thể có những biểu hiện này thì cũng chỉ là sự thay đổi của hành vi, cách làm, là sự thay đổi của ý nguyện và ý chí trong nội tâm, cùng lắm chỉ là sự thay đổi của tư tưởng và quan điểm, thế thôi. Có lẽ bây giờ ngươi có thể dâng mạng sống mình ra cho Đức Chúa Trời một cách mãnh liệt và kích động, nhưng ngươi lại không thể đạt đến việc tuyệt đối thuận phục Đức Chúa Trời trong một chuyện mà ngươi đặc biệt không thích, đó là sự khác biệt giữa thay đổi hành vi và thay đổi tâm tính. Có lẽ lòng tốt của ngươi khiến ngươi có thể đạt đến xả thân vì Đức Chúa Trời, vứt bỏ tất cả vì Đức Chúa Trời, còn nói: “Vì Đức Chúa Trời, tôi dầu có chảy cạn máu cũng cam tâm tình nguyện, cả đời này tôi không oán trách không hối tiếc! Tôi đã từ bỏ hôn nhân, từ bỏ tiền đồ ở thế giới, từ bỏ tất cả vinh hoa phú quý để tiếp nhận những hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt, người đời chế nhạo, phỉ báng tôi đều có thể chịu đựng được”. Thế mà chỉ gặp một hoàn cảnh do Đức Chúa Trời sắp đặt không phù hợp với quan niệm của ngươi, ngươi lại có thể đứng lên kêu gào, đối kháng với Đức Chúa Trời, đây chính là sự khác biệt giữa thay đổi hành vi và thay đổi tâm tính. Có lẽ ngươi có thể xả thân vì Đức Chúa Trời, vứt bỏ người mà ngươi yêu thương nhất hoặc là thứ ngươi yêu thích nhất và khó dứt bỏ nhất trong nội tâm, nhưng bảo ngươi nói một lời thật lòng với Đức Chúa Trời, bảo ngươi làm một người trung thực, thì ngươi lại cảm thấy rất khó, không làm được, đây chính là sự khác biệt giữa thay đổi hành vi và thay đổi tâm tính. Có lẽ cả đời này ngươi cũng không tham hưởng an nhàn xác thịt, không ăn ngon cũng không mặc đẹp, mỗi ngày đều cực nhọc, vất vả thực hiện bổn phận như thế, ngươi có thể chịu đựng các loại đau khổ mà xác thịt mang lại, nhưng khi đối mặt với việc sự sắp xếp của Đức Chúa Trời không phù hợp với quan niệm của ngươi, ngươi lại không thể hiểu được, lại còn nảy sinh oán trách, hiểu lầm đối với Đức Chúa Trời, quan hệ với Đức Chúa Trời cũng ngày càng không bình thường, luôn có sự chống đối, phản nghịch, không thể hoàn toàn thuận phục Đức Chúa Trời, đây chính là sự khác biệt giữa thay đổi hành vi và thay đổi tâm tính. Nếu ngươi sẵn sàng xả thân vì Đức Chúa Trời, tại sao ngươi không thể nói thật một câu với Ngài? Ngươi sẵn lòng buông bỏ tất cả vật ngoài thân, vậy tại sao không thể một lòng trung thành đối với sự ủy thác mà Ngài giao cho ngươi? Nếu ngươi sẵn lòng xả thân vì Đức Chúa Trời, tại sao ngươi không phản tỉnh bản thân khi ngươi làm việc dựa vào tình cảm, khi ngươi bảo vệ mối quan hệ giữa người với người? Tại sao ngươi không thể đứng lên bảo vệ công tác của hội thánh, bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời? Đây có phải là người sống trước mặt Đức Chúa Trời không? Ngươi đã lập lời thề trước mặt Đức Chúa Trời, nói rằng cả đời này sẽ dâng mình cho Đức Chúa Trời, bất kể chịu khổ gì cũng đều tiếp nhận, vậy tại sao một lần bị thay thế lại có thể khiến ngươi tiêu cực đến mức bao nhiêu ngày cũng không đứng dậy nổi, trong lòng tràn đầy chống đối, oán trách, hiểu lầm, tiêu cực? Chuyện này là sao? Chứng tỏ trong lòng ngươi địa vị là quý báu nhất, điều này liên quan đến điểm trí mạng của ngươi, cho nên sau khi bị thay thế chức vụ, ngươi liền suy sụp, không đứng dậy nổi. Điều này đủ để chứng minh, mặc dù ngươi có sự thay đổi của hành vi đi chăng nữa thì cũng không có sự thay đổi của tâm tính sự sống, đây chính là sự khác biệt giữa thay đổi hành vi và thay đổi tâm tính.
Bây giờ hầu hết mọi người đều có một vài hành vi tốt, nhưng rất ít người tìm kiếm lẽ thật và tiếp nhận lẽ thật, hầu như không có ai thực sự thuận phục. Nhìn từ điểm này, nhiều người chỉ sinh ra sự thay đổi trong hành vi, trong tư tưởng và quan điểm của họ, họ cũng có ý nguyện, có chí hướng tiếp nhận và thuận phục sự tể trị của Đức Chúa Trời, trong lòng không có lời oán trách, vậy các ngươi nói xem, những người này có trải nghiệm được sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Thật không may, những lời chứng trải nghiệm mà các ngươi đã nói trước đó đều không liên quan đến sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, đều không đạt tới yêu cầu của Ngài. Chừng nào ngươi vẫn chưa trải nghiệm sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời thì tâm tính của ngươi vẫn chưa bắt đầu thay đổi, tâm tính của ngươi chưa bắt đầu thay đổi thì những gì ngươi cho là sự thay đổi thực ra chỉ là sự thay đổi về mặt hành vi. Trong sự thay đổi về mặt hành vi có công lao phối hợp của bản thân ngươi, có một mặt nhân tính tốt của ngươi, còn có kết quả công tác của Đức Chúa Trời. Chẳng lẽ Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi con người mà cũng chỉ có thể làm đến mức độ này thôi sao? (Thưa, không.) Vậy tiếp theo Đức Chúa Trời sẽ làm gì? Công tác chủ yếu mà Đức Chúa Trời làm để cứu rỗi con người là gì? (Thưa, là phán xét và hành phạt.) Phương thức chủ yếu để Đức Chúa Trời cứu rỗi con người là phán xét và hành phạt, nhưng thật không may, hiện tại hầu như không có một ai có thể tiếp nhận được sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời. Cho nên, công tác cứu rỗi và hoàn thiện con người của Ngài, công tác thay đổi tâm tính con người của Ngài vẫn chưa chính thức bắt đầu. Tại sao chưa chính thức bắt đầu? Bởi vì công tác này của Đức Chúa Trời vẫn chưa có cách nào thực hiện được trên con người. Tại sao chưa có cách nào thực hiện trên con người? Bởi vì theo tình trạng và vóc giạc hiện tại của con người, theo những gì con người hiện tại có thể với tới được, thì còn lâu mới đạt được tiêu chuẩn yêu cầu của Đức Chúa Trời, Ngài không có cách nào thực hiện được. Đức Chúa Trời không có cách nào thực hiện được thì chẳng lẽ Ngài sẽ không làm sao? Không phải, Ngài đang chờ đợi. Đức Chúa Trời đang làm gì trong lúc chờ đợi? Ngài đang làm tinh sạch hội thánh, thanh lọc những kẻ gây gián đoạn và nhiễu loạn, kẻ địch lại Đấng Christ, tà linh, kẻ ác, người không tin, không thật lòng tin Đức Chúa Trời, và cả những người đem sức lực phục vụ mà không phục vụ được ra ngoài. Cái này gọi là dọn đồng, cũng gọi là sàng lúa. Vậy việc dọn đồng đó có phải là công tác chủ yếu trong thời gian này không? Không phải, trong thời gian này, Đức Chúa Trời vẫn sẽ tiếp tục công tác trên các ngươi bằng những phương thức như dùng lời nhắc nhở, chăm tưới, nuôi dưỡng, tỉa sửa, trách phạt, sửa dạy. Thực hiện đến mức độ nào? Khi con người có đủ các điều kiện cơ bản để tiếp nhận sự phán xét và hình phạt, Đức Chúa Trời mới bắt đầu thực hiện công tác phán xét và hành phạt. Các ngươi nói xem, căn cứ vào suy đoán, phán đoán của các ngươi, con người có những điều kiện gì thì Đức Chúa Trời mới bắt đầu thực hiện công tác phán xét và hành phạt? Ngươi xem, Đức Chúa Trời làm chuyện gì cũng có thời điểm, Ngài không làm lung tung, công tác quản lý của Ngài là làm theo kế hoạch của Ngài, Ngài làm việc gì cũng có trình tự, không phải làm lung tung. Trình tự này là gì? Đó là mỗi bước công tác mà Đức Chúa Trời thực hiện trên con người đều phải đạt được hiệu quả, Ngài nhìn thấy hiệu quả rồi mới làm bước tiếp theo. Làm thế nào để có thể đạt được hiệu quả, cần nói những lời nào, cần làm những chuyện gì, trong lòng Đức Chúa Trời tự hiểu rõ, Ngài căn cứ theo nhu cầu của con người mà làm, chứ không phải làm lung tung. Làm những việc gì trên con người mà có thể đạt được hiệu quả thì Đức Chúa Trời sẽ làm việc đó, làm những việc gì không đem lại hiệu quả nào cả thì Ngài tuyệt đối không làm. Ví dụ như, khi cần một thứ phản diện để dạy cho những người được Đức Chúa Trời chọn phát triển sự phân định, thì trong hội thánh sẽ xuất hiện một số christ giả, kẻ địch lại Đấng Christ, tà linh, kẻ ác và những kẻ gây nhiễu loạn, gián đoạn, khiến con người phát triển sự phân định. Nếu những người được Đức Chúa Trời chọn hiểu lẽ thật thì sẽ phân định được, vậy thì những người này đã đem sức lực phục vụ xong, không còn giá trị tồn tại nữa, khi đó những người được Đức Chúa Trời chọn sẽ đứng lên vạch trần, tố cáo họ, hội thánh sẽ ngay lập tức thanh lọc họ ra ngoài. Công tác của Đức Chúa Trời đều có trình tự, các trình tự này đều do Đức Chúa Trời căn cứ vào nhu cầu sự sống của con người, căn cứ vào vóc giạc của con người để sắp xếp. Con người rốt cuộc cần cái gì, tại sao trong hội thánh lại xuất hiện kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác, những chuyện này con người đều mơ mơ màng màng không biết là thế nào. Có vài người không hiểu được công tác của Đức Chúa Trời liền có quan niệm, còn oán trách Đức Chúa Trời, họ nói: “Hội thánh của Đức Chúa Trời sao lại có thể xuất hiện kẻ địch lại Đấng Christ? Đức Chúa Trời sao lại mặc kệ như vậy?”. Khi nhìn thấy lời Đức Chúa Trời nói rằng đây chính là để cho con người học được bài học, phát triển sự phân định, con người mới tỉnh ngộ, mới hiểu được tâm ý của Đức Chúa Trời. Ban đầu, người ta không có sự phân định đối với kẻ ác, khi hội thánh khai trừ kẻ ác, người ta sẽ có quan niệm, cảm thấy những người này đã dâng hiến nhiều, cũng có thể chịu khổ thì không nên bị khai trừ, rồi người ta có sự chống đối với những việc Đức Chúa Trời làm. Trải nghiệm một thời gian, con người hiểu lẽ thật, có sự phân định đối với kẻ ác, lúc khai trừ kẻ ác một lần nữa thì họ không có quan niệm nữa, cũng không chống đối nữa, khi gặp kẻ ác làm việc ác một lần nữa thì có thể phân định được, không đợi kẻ ác làm ra việc đại ác, mọi người đã hợp lại để tố cáo, thanh trừ chúng, kẻ ác ở nhà Đức Chúa Trời sẽ không thể đứng vững nữa. Làm thế nào để đạt được điều này? Những sự phân định này của con người được nảy sinh như thế nào? Là do Đức Chúa Trời làm, Đức Chúa Trời không làm thì con người không thể hiểu được những chuyện này. Đức Chúa Trời công tác có trình tự, trình tự này căn cứ vào nhu cầu sự sống của con người, nhưng con người rốt cuộc cần gì thì trong lòng họ cũng mơ hồ, không rõ. Đức Chúa Trời chỉ có thể tiếp tục công tác, sắp xếp cho con người rất nhiều bài học để con người học tập, bước vào thực tế lẽ thật, đạt được hiệu quả mà Đức Chúa Trời yêu cầu. Mặc kệ con người có hiểu hay không, Đức Chúa Trời vẫn không ngại phiền phức mà làm, đây chính là tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Giống như việc tỉa sửa một người, lần trước phạm sai lầm đã tỉa sửa, lần sau lại phạm sai lầm vẫn tỉa sửa, tỏ lộ lần nào thì tỉa sửa lần đó, không nề hà phiền phức gì, mãi cho đến khi con người thực sự có nhận thức, không còn tê liệt nữa, rồi khi gặp phải chuyện này lần nữa họ sẽ nhạy cảm như bị điện giật vậy, không còn phạm sai lầm nữa. Như vậy là được rồi, Đức Chúa Trời sẽ không làm nữa. Nếu ngươi có thể tự xử lý khi gặp phải những chuyện này lần nữa, có thể hành động phù hợp với nguyên tắc thì Đức Chúa Trời sẽ không cần phải lo lắng nữa, điều này chứng minh rằng ngươi đã hiểu, đã tiếp nhận vào trong lòng lời của Đức Chúa Trời và lẽ thật của Đức Chúa Trời, đã biến chúng thành sự sống của ngươi. Đến đây, Đức Chúa Trời sẽ không làm nữa. Đây chính là trình tự công tác của Đức Chúa Trời, ngươi trải nghiệm được rồi thì có thể nhìn thấy thực chất và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, điều này là không thể phủ nhận, chắc chắn 100%.
Vừa rồi chúng ta đã nói đến trình tự công tác của Đức Chúa Trời có liên quan đến sự thay đổi tâm tính của con người. Đức Chúa Trời làm công tác không phải là để khiến con người có chút thay đổi về mặt hành vi, hiểu một chút quy củ, có chút hình dạng con người thì xem như việc lớn đã thành, nếu là như vậy thì công tác trong Thời đại Ân điển cũng đã kết thúc. Vậy điều Đức Chúa Trời muốn là gì? (Thưa, là sự thay đổi tâm tính của con người.) Đúng vậy, thay đổi tâm tính là điều mà người thật sự được cứu rỗi nên có. Đức Chúa Trời không chỉ muốn con người có sự thay đổi về hành vi mà quan trọng hơn là sự thay đổi về tâm tính, đó mới là tiêu chuẩn để đạt đến được cứu rỗi. Vừa rồi chúng ta cũng đã nói một vài biểu hiện của sự thay đổi hành vi, ví dụ như có thể vì Đức Chúa Trời mà vứt bỏ, xả thân, đây là sự thay đổi rõ ràng về hành vi, nhưng nếu như không trung thành với sự uỷ thác của Đức Chúa Trời, còn có thể qua loa chiếu lệ, lừa dối, thì chưa đạt đến sự thay đổi trong tâm tính. Bây giờ con người chỉ đáng khen về mặt hành vi, coi như khá phù hợp với thể thống thánh đồ, về mặt hành vi tương đối có nhân tính, có chút tôn nghiêm và nhân cách, nhưng dù con người có bao nhiêu hành vi tốt đi chăng nữa, nếu như không liên quan đến việc thực hành lẽ thật, không sống thể hiện ra từ lương tâm lý trí và nhân tính bình thường thì chúng đều không liên quan đến sự thay đổi tâm tính, không phải là điều Đức Chúa Trời muốn. Như vậy xem ra, những gì các ngươi biểu hiện bây giờ, bất kể các ngươi làm việc phù hợp với quy củ thế nào, bất kể các ngươi nghe lời thế nào, có thể xả thân đến đâu, có tâm chí lớn cỡ nào thì liệu có đạt đến làm hài lòng Đức Chúa Trời hay chưa? Có đạt đến yêu cầu của Ngài chưa? (Thưa, chưa.) Vậy có phải yêu cầu của Đức Chúa Trời quá cao hay không? Có vài người nghĩ rằng: “Bây giờ con người đã nghe lời như vậy, sao vẫn chưa đạt đến yêu cầu của Đức Chúa Trời?”. Các ngươi nói xem, việc nghe lời lúc này có phải là thuận phục không? (Thưa, không phải.) Đúng vậy, việc nghe lời lúc này chỉ là có chút lý tính, đây đều là do Đức Chúa Trời sửa dạy mà có, hoàn toàn là hiệu quả đạt được nhờ Đức Chúa Trời sửa dạy, là Đức Chúa Trời tận tình khuyên bảo, nói biết bao nhiêu lời mới đánh thức được lương tâm con người, mới khơi gợi được lương tri con người, từ đó họ bắt đầu sống thể hiện ra chút hình tượng con người, bắt đầu làm việc có chút quy củ, làm chuyện gì cũng đã biết trưng cầu ý kiến, nếu làm chuyện gì đó trái với nguyên tắc thì trong lòng sẽ có chút cắn rứt. Tóm lại, sự thay đổi của hành vi không với tới điều kiện để Đức Chúa Trời phán xét và hành phạt, Ngài không muốn sự thay đổi về hành vi của con người. Vậy rốt cuộc Ngài muốn điều gì? Ngài muốn sự thay đổi tâm tính của con người. Thay đổi tâm tính rốt cuộc có những biểu hiện nào? Các phương diện phải thay đổi đến mức độ nào mới đủ tư cách tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời? Nhất định phải khiến cho Đức Chúa Trời nhìn thấy biểu hiện ở mọi mặt của người này, nhất là đạt tiêu chuẩn về mặt thực hiện bổn phận, có thể tiếp nhận sự tỉa sửa, trong bất cứ chuyện gì cũng có thể tìm kiếm lẽ thật, gặp hoạn nạn và thử luyện vẫn có thể đi theo Đức Chúa Trời, về cơ bản thì Đức Chúa Trời nói như thế nào cũng có thể tiếp nhận và thuận phục, tức là trong tình huống không có người giám sát, trong tình huống gặp phải cám dỗ cũng không làm chuyện xấu, không làm bất cứ việc ác nào. Trong mắt Đức Chúa Trời, người như vậy là đạt tiêu chuẩn, có tư cách có thể chính thức tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, nghĩa là Đức Chúa Trời đã tiến thêm một bước trong công tác cứu rỗi và hoàn thiện con người. Ở đây có tín hiệu thế nào, tiêu chuẩn thế nào, các ngươi có biết hay không? (Thưa, thứ con nghĩ đến là nhờ vào sự trách phạt và sửa dạy của Đức Chúa Trời nên lương tâm, lý trí của con người được khôi phục dần dần, cộng thêm việc con người có một số sự thay đổi về hành vi, cuối cùng con người có thể đạt đến trung thành thực hiện bổn phận và Đức Chúa Trời có thể bắt đầu thực hiện công tác phán xét và hành phạt trên con người.) Các ngươi có đồng ý với cách nói này không? (Thưa, đồng ý.) Rất tốt, nhưng đó chỉ là một trong các điều kiện mà thôi. Trước khi thực hiện công tác phán xét và hành phạt trên con người, Đức Chúa Trời sẽ đánh giá họ, vậy Ngài đánh giá bằng cách nào? Ngài có mấy tiêu chuẩn. Đầu tiên là xem thái độ của con người đối với sự uỷ thác của Đức Chúa Trời là gì, cũng như thái độ đối với bổn phận mà con người nên thực hiện là gì, lúc thực hiện bổn phận có thể tận tâm, tận lực hay không, có thể đạt đến trung thành hay không. Tóm lại chính là xem con người có thể đạt đến thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn hay không, đây là hạng mục thứ nhất. Hạng mục này liên quan trực tiếp đến cuộc sống của những người tin Đức Chúa Trời và công việc hằng ngày mà con người làm. Tại sao Đức Chúa Trời coi hạng mục này như một điều kiện, như một tiêu chuẩn để đánh giá? Nguyên nhân là gì, các ngươi có biết hay không? Đức Chúa Trời đánh giá như thế này: khi Đức Chúa Trời giao phó cho con người một việc, thái độ của con người là gì rất quan trọng, đây là việc mà Đức Chúa Trời giao phó, người có lương tâm sẽ đối đãi như thế nào, người không có lương tâm sẽ đối đãi như thế nào, người có lý tính sẽ đối đãi như thế nào, người không có lý tính sẽ đối đãi như thế nào, những chuyện này có sự khác biệt. Lương tâm và lý tính là điều nên có trong nhân tính, ngoài ra, không phải chỉ có chút tri giác của lương tâm, có chút lý tính là được. Con người khôi phục lương tâm và lý tính thì sẽ có hình tượng con người sao? Thì đạt đến có được thực tế lẽ thật sao? Chuyện này vẫn chưa được đâu, Đức Chúa Trời còn phải xem con người trong thời gian thực hiện bổn phận sẽ đi con đường như thế nào. Con người đi con đường như thế nào mới có thể đạt đến các tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu? Trước hết, thực hiện bổn phận có thể không làm điều ác, có thể thuận phục, đây là tiêu chuẩn tối thiểu nhất. Nếu có khả năng làm điều ác thì sẽ hoàn toàn tiêu đời, sẽ không phải là người mà Đức Chúa Trời muốn cứu rỗi. Ngoài ra, đối với sự uỷ thác của Đức Chúa Trời, ngoài việc dùng lương tâm và lý tính ra, ngươi càng có thể tìm kiếm lẽ thật, hiểu tâm ý của Đức Chúa Trời hơn, bất kể trong hoàn cảnh nào, bất kể những gì đến với ngươi có phù hợp với quan niệm, tưởng tượng của ngươi hay không, thì ngươi đều nên có thái độ thuận phục, vào lúc này điều Đức Chúa Trời muốn là thái độ thuận phục của ngươi. Nếu ngươi chỉ thừa nhận rằng những gì Đức Chúa Trời nói đều là lẽ thật và đều đúng, thì đó có phải là thái độ thuận phục không? Chắc chắn là không phải. Mặt thực tế của thái độ thuận phục là gì? Là ngươi phải tiếp nhận được lời Đức Chúa Trời. Tuy rằng lối vào sự sống của ngươi còn rất nông, vóc giạc còn quá nhỏ bé, nhận thức đối với thực tế lẽ thật còn chưa đủ sâu sắc, nhưng trong tình huống này ngươi vẫn có thể đi theo Đức Chúa Trời, vẫn có thể thuận phục Ngài, thì đây chính là thái độ thuận phục. Trước khi có thể đạt đến thuận phục hoàn toàn, trước tiên ngươi phải có thái độ thuận phục, nghĩa là tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, tin rằng lời Đức Chúa Trời là đúng, coi lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, là nguyên tắc thực hành của ngươi, ngay cả khi không nắm vững các nguyên tắc, ngươi vẫn coi như quy định điều lệ mà tuân thủ, cũng có thể tuân thủ được, đây là một loại thái độ thuận phục. Bởi vì bây giờ tâm tính của ngươi vẫn chưa có sự thay đổi, ngươi muốn đạt đến thực sự thuận phục Đức Chúa Trời thì trước hết phải có tâm thái thuận phục, có tâm chí thuận phục và nói rằng: “Dù Đức Chúa Trời làm gì con cũng thuận phục, con không hiểu nhiều lẽ thật, con chỉ biết Ngài bảo con làm thế nào thì con sẽ làm thế đó”. Trong mắt Đức Chúa Trời đây là một loại thái độ thuận phục. Có vài người nói: “Nếu thuận phục sai thì sao?”. Đức Chúa Trời có thể sai được sao? Ngài là lẽ thật, là công chính, Ngài sẽ không làm chuyện sai trái, chỉ là trong những chuyện Đức Chúa Trời làm có rất nhiều chuyện không phù hợp với quan niệm của con người mà thôi. Ngươi nên nói: “Con không quan tâm những gì Ngài làm có phù hợp với quan niệm của con hay không, con chỉ nghe lời, thuận phục, tiếp nhận, đi theo Ngài, đây là điều mà một loài thọ tạo như con nên làm”. Cho dù có người xét đoán rằng ngươi thuận phục một cách hồ đồ, ngươi cũng không quan tâm, trong lòng ngươi đã nhận định Đức Chúa Trời là lẽ thật thì nên thuận phục, vậy là đúng rồi, thuận phục thì nên có tâm thái như vậy. Có tâm tính như vậy, con người mới có thể có được lẽ thật. Nếu như không có tâm thái như vậy, ngươi sẽ nói: “Người như con không nhẫn nhịn những việc không hợp với quan điểm lợi ích của mình, chẳng ai có thể lừa gạt được con, con khôn khéo lắm, bảo con cái gì cũng thuận phục thì không được! Chuyện gì đến với con, con đều phải nghiên cứu, phân tích một chút, chừng nào phù hợp với ý con, con mới có thể tiếp nhận, mới có thể thuận phục”. Đây có phải là thái độ thuận phục hay không? Đây không phải là thái độ thuận phục, tức là không có tâm thái thuận phục, trong lòng không có ý thuận phục. Ngươi nói rằng: “Cho dù là Đức Chúa Trời thì tôi cũng phải nghiên cứu, cho dù là vua chúa đến chỗ tôi thì tôi cũng phải nghiên cứu, anh nói chuyện với tôi không có tác dụng. Tôi là loài thọ tạo thì không sai, nhưng tôi không phải kẻ ngốc, anh đừng coi tôi là kẻ ngốc!”. Vậy thì coi như xong, người này không có điều kiện để tiếp nhận lẽ thật. Người như vậy không có lý tính, không có nhân tính bình thường, vậy chẳng phải là súc sinh sao? Con người không có lý tính thì làm sao có thể đạt đến thuận phục? Muốn đạt đến thuận phục trước tiên phải có tâm thái thuận phục, có tâm thái thuận phục mới có lý tính để nói đến, không có tâm thái thuận phục thì chính là không có lý tính. Con người là loài thọ tạo thì làm sao dò thấu Đấng Tạo Hóa? Chỉ một ý niệm của Đức Chúa Trời mà toàn nhân loại sáu ngàn năm cũng không có cách nào đoán rõ, vậy Đức Chúa Trời làm thế nào thì con người trong chốc lát có thể nhìn rõ sao? Ngươi không thể nhìn rõ được. Rất nhiều chuyện Đức Chúa Trời đã làm mấy ngàn năm, Ngài cũng đã tỏ lộ với nhân loại, nhưng Ngài không nói rõ ràng với mọi người nên họ vẫn không hiểu được. Cũng có thể hiện tại ngươi đã hiểu nghĩa đen, nhưng 20 năm sau ngươi mới có thể thực sự hiểu được một chút. Giữa con người và yêu cầu của Đức Chúa Trời có khoảng cách lớn như vậy đấy. Căn cứ vào điểm này, con người nên có lý tính, có tâm thái thuận phục. Con người chỉ là con kiến, là giòi bọ, mà lại muốn dò thấu Đấng Tạo Hoá, đây chính là việc không có lý trí nhất. Có người luôn oán giận Đức Chúa Trời vì Ngài không nói những màu nhiệm cho họ biết, trực tiếp nói rõ ràng về lẽ thật, luôn bắt con người phải tìm kiếm. Nói câu này thì không đúng, không có lý trí rồi. Bây giờ Đức Chúa Trời nói với ngươi nhiều như vậy, ngươi hiểu được bao nhiêu? Ngươi có thể thực hành được bao nhiêu lời Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời công tác đều có trình tự, nếu như 2.000 năm trước, Đức Chúa Trời đem công tác thời kỳ sau rốt nói cho những người lúc bấy giờ biết, liệu họ có thể hiểu được hay không? Trong Thời đại Ân điển, Đức Chúa Jêsus đã trở thành hình tượng của thân xác tội lỗi, làm của lễ chuộc tội của toàn thể nhân loại, nếu lúc đó Ngài nói với mọi người thì ai có thể hiểu được? Cho đến bây giờ, các ngươi cũng chỉ hiểu một chút lý luận mang tính khái niệm, nhưng mặt tâm tính thực sự của Đức Chúa Trời, tâm ý yêu thương nhân loại của Đức Chúa Trời, nguồn gốc, kế hoạch công tác của Đức Chúa Trời lúc bấy giờ, những lẽ thật này con người mãi mãi không thể hiểu được. Đây chính là bí ẩn của lẽ thật, là thực chất của Đức Chúa Trời, làm sao con người có thể dò thấu được? Nếu con người muốn dò thấu Đấng Tạo Hóa thì quá không có lý trí rồi! Ngươi quá ngông cuồng, không biết tự lượng sức mình! Con người đừng nghĩ tới chuyện dò thấu Đức Chúa Trời, con người chỉ cần hiểu được một chút lẽ thật là tốt lắm rồi, đối với ngươi mà nói, hiểu được chút lẽ thật cũng là đã có đủ rồi. Vậy, có tâm thái thuận phục có phải là có lý tính hay không? Đây là cách làm hoàn toàn lý tính. Có tâm thái thuận phục, có thái độ thuận phục là điều tối thiểu mà mỗi loài thọ tạo chí ít phải có.
Để đạt đến thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn, trung thành thực hiện bổn phận, có tâm thái thuận phục, thì cần thời gian bao lâu? Có thời hạn hay không? Không có thời hạn, điều này căn cứ vào sự mưu cầu, tâm chí và mức độ khát khao lẽ thật của cá nhân mỗi người, cũng căn cứ vào lương tâm, lý trí, tố chất và sức hiểu biết bẩm sinh của cá nhân mỗi người. Sau khi có tâm thái thuận phục, thì lời nói, cử chỉ và hành vi của con người sẽ xảy ra sự thay đổi thêm một bước nữa. Vậy có những sự thay đổi nào? Trong mắt Đức Chúa Trời, về cơ bản ngươi là một người trung thực rồi. Về cơ bản là một người trung thực nghĩa là gì? Nghĩa là yếu tố cố ý nói dối trong lời nói, cử chỉ của ngươi ít hơn rồi, 80% đều là lời nói thật. Có lúc bởi vì tính đáng khinh bỉ, vì hoàn cảnh hoặc là nguyên nhân nào đó mà ngươi vô tình nói dối thì sẽ giống như ăn phải ruồi bọ chết, trong lòng khó chịu vài ngày, ngươi nhận sai, hối cải trước mặt Đức Chúa Trời, sau đó mới có sự thay đổi, việc nói dối ngày càng ít đi, tình trạng ngày càng tốt hơn. Trong mắt Đức Chúa Trời, về cơ bản, ngươi chính là một người trung thực. Có một vài người nói: “Về cơ bản là người trung thực, vậy chẳng phải tâm tính đã thay đổi rồi sao?”. Có phải như vậy không? Không phải, đó chỉ là sự thay đổi về hành vi. Nhìn từ góc độ của Đức Chúa Trời, có thể làm người trung thực thì không chỉ là có sự thay đổi trong hành vi và biểu hiện, mà còn là thay đổi về thực chất trong tâm thái và quan điểm nhìn nhận sự việc, không còn ý định nói dối hay lừa gạt nữa, trong mọi lời nói, việc làm đều không có chút nói dối hay lừa gạt nào nữa, nói chuyện làm việc ngày càng chân thật, lời nói thật ngày càng nhiều. Ví dụ như, hỏi ngươi chuyện này có phải ngươi làm hay không, cho dù thừa nhận sẽ bị ăn vả, bị phạt, ngươi cũng sẽ nói thật, cho dù phải gánh vác trách nhiệm lớn, phải chết, phải diệt vong, ngươi cũng sẽ nói thật và nguyện ý thực hành lẽ thật để làm hài lòng Đức Chúa Trời. Đây nghĩa là thái độ đối với lời Đức Chúa Trời của ngươi đã rất kiên định rồi. Bất kể lúc nào, lựa chọn một trong những tiêu chuẩn thực hành mà Đức Chúa Trời yêu cầu đều không thành vấn đề đối với ngươi, ngươi đều có thể đạt được một cách rất tự nhiên, có thể thực hành ra được, không cần sự ràng buộc của hoàn cảnh bên ngoài, sự chỉ dẫn của lãnh đạo và chấp sự, hoặc là cảm giác Đức Chúa Trời ở bên cạnh giám sát, bản thân ngươi có thể làm được những điều này một cách rất tự nhiên. Không có sự ràng buộc của hoàn cảnh bên ngoài, không phải bởi vì sợ Đức Chúa Trời sửa dạy, cũng không phải bởi vì sợ lương tâm cắn rứt, lại càng không phải sợ người khác chê cười hoặc là đốc thúc, không phải bởi vì những lý do đó, mà là bản thân ngươi có thể chủ động kiểm điểm hành vi của mình, đánh giá hành vi của mình đúng hay sai, đánh giá hành vi của mình có phù hợp lẽ thật hay không, có làm Đức Chúa Trời hài lòng hay không. Vậy trong mắt Đức Chúa Trời, tiêu chuẩn làm người trung thực của ngươi cơ bản đã đạt tiêu chuẩn. Cơ bản là người trung thực, đây là điều kiện cơ bản thứ ba để có thể tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời.
Vừa rồi chúng ta đã thông công ba điều kiện để có thể tiếp nhận sự phán xét và hình phạt. Điều kiện thứ nhất là thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn, điều kiện thứ hai là thái độ thuận phục, điều kiện thứ ba là về cơ bản là người trung thực. Điều kiện về cơ bản là người trung thực thì làm thế nào để đánh giá? Tiêu chuẩn là gì? (Thưa, những lúc cố ý nói dối ít đi, nói thật nhiều hơn.) Nghĩa là hầu hết thời gian đều nói thật, điều này các ngươi nên biết đánh giá. Làm người trung thực là điều kiện thứ ba để tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời. Điều kiện thứ hai là thái độ thuận phục, bên trong sự thuận phục bao gồm một số chi tiết, chủ yếu là không nghiên cứu, không phân tích công tác của Đức Chúa Trời mà chỉ có tâm thái thuận phục. Ngoài ra, chính là có thể mưu cầu làm người trung thực, đạt đến ngày càng ít nói dối hơn, hầu hết thời gian đều nói thật, nói lời trong lòng, điều quan trọng nhất ở đây là sự phối hợp chủ quan của con người, nghĩa là tích cực tiến thủ, dốc hết sức mà hướng tới lẽ thật. Tâm thái thuận phục là hiệu quả mà con người đạt được về phương diện chủ quan, có thể đạt đến làm người trung thực, thì về cơ bản là người trung thực rồi, đây cũng là phương diện chủ quan, là hiệu quả đạt được từ nỗ lực mưu cầu của con người. Tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời còn có một điều kiện quan trọng nữa, trước tiên Ta sẽ cung cấp manh mối cho các ngươi, các ngươi nghiền ngẫm theo lời Ta nói thì có thể nghĩ ra được. Từ lúc bắt đầu tin Đức Chúa Trời tới khi đi đến tận cùng, những việc con người làm sai trong đời này có nhiều không? Có phải con người có nhiều hành vi phản nghịch Đức Chúa Trời không? (Thưa, phải.) Vậy khi làm chuyện sai trái và phản nghịch thì phải làm sao? (Thưa, phải có lòng hối cải.) Một người có lòng hối cải là một người có lương tâm và lý trí. Có lương tâm, có lý trí, đây là điều tối thiểu mà người được Đức Chúa Trời cứu rỗi chí ít phải có, người không có lương tâm lý trí đều không thể đạt đến được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Nếu một người làm việc sai trái mà không bao giờ biết hối cải, thì người đó là thứ gì? Những người không bao giờ biết hối cải thì có thể theo Đức Chúa Trời đến cùng không? Có thể có sự thay đổi chân thực hay không? (Thưa, không thể.) Tại sao? (Thưa, bởi vì họ không có lòng hối cải.) Đúng vậy, điều này liên quan đến điều kiện cuối cùng, đó là phải có lòng hối cải. Trong khi đi theo Đức Chúa Trời, vì sự ngu ngốc và thiếu hiểu biết của con người và do những tâm tính bại hoại khác nhau của họ, nên họ thường tỏ lộ ra mình là người phản nghịch, và họ hiểu lầm hoặc thậm chí oán trách Đức Chúa Trời. Họ đi chệch hướng, và một số thậm chí còn hình thành quan niệm về Đức Chúa Trời, trở nên tiêu cực và chểnh mảng trong công tác trong một thời gian, và đánh mất đức tin. Những hành vi phản nghịch nảy sinh trong nhiều giai đoạn khác nhau trong cuộc đời con người. Khi gặp chuyện thì họ có Đức Chúa Trời trong lòng mình và biết Ngài đang công tác, nhưng đôi khi họ không thể hiểu thấu thực tế đó. Mặc dù bề ngoài họ có thể thuận phục, nhưng trong thâm tâm họ lại không thể chấp nhận điều đó. Điều gì cho thấy rõ trong thâm tâm họ không thể chấp nhận điều đó? Một cách mà điều này biểu lộ là, mặc dù biết mọi thứ, nhưng họ chỉ đơn giản là không thể gạt những gì họ đã làm sang một bên và đến trước Đức Chúa Trời để thừa nhận lỗi lầm của mình và thưa rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, con đã sai rồi. Con sẽ không hành động như thế nữa. Con sẽ tìm kiếm ý của Ngài và làm những gì Ngài muốn con làm. Con chưa từng nghe lời Ngài; vóc giạc của con nhỏ bé, con ngu muội và vô tri, thường xuyên phản nghịch. Bây giờ con đã nhận ra điều đó”. Nếu có thể thừa nhận lỗi lầm thì họ có thái độ gì? (Thưa, thái độ xoay chuyển.) Nếu con người có lương tâm và lý trí, và khao khát lẽ thật, nhưng họ chưa bao giờ biết phản tỉnh và xoay chuyển sau khi phạm sai lầm, thay vào đó họ lại tin rằng quá khứ đã qua và cảm thấy chắc chắn rằng họ không sai, thì điều này thể hiện loại tâm tính gì? Loại hành vi gì? Thực chất của hành vi đó là gì? (Thưa, là cương ngạnh.) Những người như thế rất cương ngạnh và dù bất kỳ chuyện gì xảy ra thì đó vẫn là con đường họ sẽ đi theo. Đức Chúa Trời không thích những người như thế. Giô-na đã nói gì khi bày tỏ lời Đức Chúa Trời cho dân thành Ni-ni-ve? (“Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-ve sẽ bị đổ xuống!” (Giô-na 3:4).) Người dân thành Ni-ni-ve đã phản ứng thế nào trước những lời này? Khi thấy rằng Đức Chúa Trời sắp hủy diệt mình, họ đã vội vã cầm lấy bao gai và tro, rồi xưng nhận tội lỗi của mình với Ngài và từ bỏ con đường tà ác. Đây là ý nghĩa của việc ăn năn. Nếu con người có thể ăn năn, thì nó mang đến cho con người một cơ hội lớn lao. Đó là cơ hội gì? Đó là cơ hội tiếp tục sống. Nếu không có sự ăn năn như thế, thì sẽ khó có thể tiếp tục tiến về phía trước, cho dù trong việc thực hiện bổn phận của mình hay trong việc mưu cầu sự cứu rỗi. Ở mỗi giai đoạn – cho dù khi Đức Chúa Trời đang sửa dạy hoặc sửa phạt ngươi, hay khi Ngài đang nhắc nhở và khuyên giục ngươi – nếu như ngươi phát sinh mâu thuẫn với Đức Chúa Trời, mà ngươi vẫn không thay đổi, và tiếp tục bám vào những ý tưởng, quan điểm và thái độ của riêng mình, thì mặc dù ngươi có đang tiến về phía trước, thì mâu thuẫn giữa ngươi và Đức Chúa Trời, sự hiểu lầm, oán trách và phản nghịch của ngươi vẫn chưa được khắc phục, và lòng ngươi không xoay chuyển. Về phần Đức Chúa Trời, Ngài sẽ đào thải ngươi ra. Mặc dù ngươi chưa buông bỏ bổn phận đang có, ngươi vẫn giữ bổn phận của mình cũng như có một chút trung thành với những gì Đức Chúa Trời đã ủy nhiệm, và mọi người xem điều này là có thể chấp nhận được, nhưng mối bất hòa giữa ngươi và Đức Chúa Trời đã hình thành một nút thắt vĩnh viễn. Ngươi đã không sử dụng lẽ thật để giải quyết nó và có được hiểu biết thật sự về tâm ý của Đức Chúa Trời. Kết quả là sự hiểu lầm của ngươi về Đức Chúa Trời ngày càng sâu, và ngươi luôn nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã sai và ngươi đang bị đối xử bất công. Như thế nghĩa là ngươi chưa thay đổi. Sự phản nghịch, quan niệm và sự hiểu lầm của ngươi về Đức Chúa Trời vẫn còn dai dẳng, và điều này khiến ngươi có tâm thái không phục, luôn luôn phản nghịch và chống đối Đức Chúa Trời. Chẳng phải hạng người này là người phản nghịch Đức Chúa Trời, chống đối Đức Chúa Trời và ngoan cố không chịu ăn năn sao? Tại sao Đức Chúa Trời lại coi trọng việc con người thay đổi? Một loài thọ tạo nên nghĩ về Đấng Tạo Hóa với thái độ nào? Một thái độ thừa nhận rằng bất kể Đấng Tạo Hóa làm gì thì Ngài đều đúng. Nếu ngươi không thừa nhận điều này, thì việc Đấng Tạo Hóa là lẽ thật, là đường đi và sự sống sẽ chỉ là những lời nói suông đối với ngươi. Nếu là trường hợp như vậy, ngươi vẫn có thể đạt được sự cứu rỗi chứ? Ngươi không thể. Ngươi sẽ không đủ tư cách; Đức Chúa Trời không cứu rỗi những người như ngươi. Có một số người nói rằng: “Đức Chúa Trời yêu cầu mọi người phải có lòng ăn năn, và rằng họ phải biết thay đổi hoàn toàn. Nhưng có nhiều việc tôi chưa có xoay chuyển gì. Liệu tôi có còn thời gian để làm điều đó không?”. Còn, vẫn còn thời gian. Ngoài ra, một số nói rằng: “Tôi phải xoay chuyển trong những việc nào? Những việc trong quá khứ đã qua đi và bị lãng quên rồi”. Chỉ cần tâm tính của ngươi chưa thay đổi, chỉ cần ngươi không biết được điều nào trong các hành động của ngươi không phù hợp với lẽ thật và điều nào không thể phù hợp với Đức Chúa Trời, thì khúc mắc tồn tại giữa ngươi và Đức Chúa Trời vẫn chưa được tháo gỡ; vấn đề chưa được giải quyết. Tâm tính này nằm trong ngươi; ý nghĩ, quan điểm và thái độ phản nghịch Đức Chúa Trời này nằm trong ngươi. Ngay khi hoàn cảnh phù hợp xuất hiện, thì quan điểm này của ngươi một lần nữa sẽ xuất hiện, và mâu thuẫn của ngươi với Đức Chúa Trời sẽ bùng phát trở lại. Vì vậy, mặc dù ngươi có thể không giải quyết chuyện quá khứ, nhưng ngươi phải giải quyết những chuyện sẽ xảy ra trong tương lai. Chúng sẽ được giải quyết như thế nào? Ngươi phải xoay chuyển và gạt những ý tưởng và ý định của ngươi sang một bên. Một khi ngươi có ý định này, thì tự nhiên ngươi cũng sẽ có thái độ thuận phục. Tuy nhiên, nói chính xác hơn một chút, điều này đề cập đến việc mọi người thay đổi thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa; đó là sự công nhận và khẳng định thực tế rằng Đấng Tạo Hóa là lẽ thật, là đường đi và sự sống. Nếu ngươi có thể xoay chuyển, thì điều này chứng tỏ rằng ngươi có thể gạt những điều ngươi cho là đúng đó sang một bên, hoặc những điều mà nhân loại – loài người bại hoại – đều nghĩ là đúng; và thay vào đó, ngươi đang thừa nhận rằng lời Đức Chúa Trời là lẽ thật và là những điều tích cực. Nếu ngươi có thể có thái độ này, thì điều đó chứng tỏ ngươi đã thừa nhận thân phận của Đấng Tạo Hóa và bản chất của Ngài. Đây là cách mà Đức Chúa Trời nhìn nhận vấn đề và do đó Ngài xem việc con người thay đổi là đặc biệt quan trọng.
Có vài người nói: “Nếu con người không làm việc gì sai trái, vậy thì xoay chuyển làm gì?”. Cho dù trước mắt ngươi không làm việc gì sai trái, nhưng trước hết ngươi cũng phải hiểu lẽ thật về phương diện hối cải này, đó là điều ngươi nên trang bị. Chờ đến khi hiểu lẽ thật rồi, ngươi sẽ có thể phát hiện một số việc làm không thích hợp, cũng có thể phát hiện các vấn đề liên quan đến ý định và tâm thái, tức là vấn đề liên quan đến phương diện tâm tính. Những chuyện này sẽ bất giác nổi lên mặt nước, khiến ngươi nhìn thấy giữa ngươi và Đức Chúa Trời thực ra không phải là mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và con người đơn thuần như vậy. Đức Chúa Trời vẫn là Đức Chúa Trời, nhưng ngươi lại không phải là loài thọ tạo đạt tiêu chuẩn. Con người không đứng đúng vị trí của mình, không làm tốt việc mình nên làm, cũng như không làm tốt bổn phận của mình ở những việc nào thì trong lòng sẽ nảy sinh một nút thắt, đây là vấn đề hiện thực nhất, nhất định phải giải quyết. Vậy phải giải quyết như thế nào? Nên có thái độ như thế nào? Đầu tiên phải có lòng xoay chuyển. Lòng xoay chuyển này nên thực hành như thế nào? Ví dụ như, có người làm lãnh đạo một, hai năm, bởi vì tố chất kém nên không thể đảm đương công việc, chuyện gì cũng nhìn không thấu, cũng không biết dùng lẽ thật để giải quyết vấn đề, không làm được công tác thực tế, cho nên bị thay thế. Nếu bị thay thế mà vẫn có thể tiếp tục thuận phục, vẫn tiếp tục thực hiện bổn phận, có lòng xoay chuyển thì người đó nên làm như thế nào? Đầu tiên, người đó nên nhận thức được rằng: “Việc Đức Chúa Trời làm không sai, tố chất của mình kém như vậy, thời gian dài như vậy mà mình cũng không làm được công tác thực tế gì, làm chậm trễ công tác hội thánh và lối vào sự sống của anh chị em. Nhà Đức Chúa Trời không khai trừ mình đã là không tệ rồi. Mình mặt dày quá, cứ ở mãi vị trí này, còn cảm thấy như mình đã làm rất nhiều công tác to lớn vậy, thật không có lý trí!”. Người đó có thể căm ghét chính mình, trong lòng nảy sinh sự ăn năn, đây có phải là một loại biểu hiện của lòng xoay chuyển không? Người đó có thể nói như vậy nghĩa là đã có lòng xoay chuyển. Nếu người đó tự nhủ trong lòng rằng: “Ở vị trí lãnh đạo thời gian dài như vậy, mình mưu cầu lợi ích của địa vị, cố gắng giảng đạo lý, trang bị đạo lý, không mưu cầu lối vào sự sống, lần này bị thay thế mình mới thấy mình kém quá nhiều, thiếu sót quá nhiều. Việc Đức Chúa Trời làm không sai, mình phải thuận phục. Trước đây mình có địa vị, anh chị em đối xử với mình rất tốt, đi đến đâu cũng có người vây quanh, giờ đây không ai để ý, bị họ từ chối, cũng phải thôi, mình nên chịu báo ứng này. Ngoài ra, loài thọ tạo ở trước mặt Đức Chúa Trời làm gì có địa vị? Địa vị có cao hơn đi chăng nữa thì đó cũng không phải là kết cục hay đích đến. Đức Chúa Trời uỷ thác cho mình không phải để mình đứng vào địa vị, hưởng thụ địa vị, mà là để mình thực hiện bổn phận, để mình có thể làm cái gì thì làm cái đó. Mình phải có thái độ thuận phục đối với sự tể trị của Đức Chúa Trời và sự sắp xếp của nhà Đức Chúa Trời. Mặc dù thuận phục rất khó, nhưng mình cũng phải thuận phục, việc Đức Chúa Trời làm không sai, cho dù mình có hàng ngàn, hàng vạn lý do, nhưng đó đều không phải là lẽ thật, thuận phục Đức Chúa Trời mới là lẽ thật!”. Đây chính là biểu hiện của sự xoay chuyển. Nếu người ta có những thứ này, Đức Chúa Trời sẽ đánh giá họ như thế nào? Ngài sẽ nói rằng đó là một người có lương tâm và lý trí. Đánh giá này có cao quá không? Cũng không quá cao, chỉ là có lương tâm, có lý trí, nhưng vẫn chưa đạt đến tiêu chuẩn Đức Chúa Trời muốn hoàn thiện, nhưng đối với người như vậy mà nói thì đã rất khó có được, có thể tiếp tục thuận phục là rất đáng quý. Tiếp theo, người này phải mưu cầu như thế nào thì mới có thể khiến Đức Chúa Trời thay đổi cách nhìn của Ngài đối với họ, điều đó phụ thuộc vào con đường mà họ chọn. Nếu như không có sự hối cải chân thực, không có địa vị thì thực hiện bổn phận cũng không trung thành, hoàn toàn qua loa chiếu lệ, vậy thì hoàn toàn tiêu tùng rồi, đó chính là người bị đào thải. Nếu như trong lòng họ vẫn có lời oán giận mà nói: “Trong thời gian làm lãnh đạo, tôi đã chịu nhiều đau khổ như vậy, không có công lao thì cũng có khổ lao, lại còn nói tôi không làm công tác thực tế, tôi cũng làm không ít đâu, cho dù có đạt được hiệu quả hay không thì tôi cũng không ăn không ngồi rồi. Vì tôi chưa từng ăn không ngồi rồi nên Đức Chúa Trời không thể tùy tiện đào thải tôi như vậy. Không cho địa vị còn bắt tôi làm cái này làm cái kia, đó không phải là bỡn cợt người ta sao?”. Sau khi bị thay thế, họ thực hiện bổn phận gì cũng không hăng hái, vậy họ có trung thành không, có thuận phục hay không? Không trung thành, không thuận phục cũng không xoay chuyển, cái gì cũng không, họ có đáng thương hay không? Thật đáng thương, mấy năm nay họ đã tin vô ích. Họ nghe giảng đạo nhiều năm như vậy mà một chút lẽ thật cũng không thực hành, ra sức giảng câu chữ và đạo lý cho người khác trong khi chính mình không làm được gì, họ chính là người tin Đức Chúa Trời như vậy, giảng đạo lý cho người khác cũng không ít nhưng cuối cùng ngay cả chút vấn đề của mình cũng không giải quyết được, thật đáng thương! Đã vậy còn muốn tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời sao? Bị thay thế còn ở đó đọ sức với Đức Chúa Trời, chịu dày vò, không có một chút thuận phục nào, đây không phải là chịu những đau khổ vớ vẩn sao? Ngươi chịu khổ như thế nào cũng không có giá trị! Chưa nói gì khác, chỉ nói đến việc hội thánh tước đi địa vị của ngươi thì ngươi liền thẹn quá hóa giận, liền đọ sức, chỉ điểm này thôi ngươi đã không xứng làm người, không xứng làm loài thọ tạo của Đức Chúa Trời rồi, vậy ngươi còn nói lý lẽ gì nữa? Ngươi nói lý lẽ gì cũng vô dụng. Ngươi tin nhiều năm như vậy ngay cả chút thuận phục này cũng không có, thành quả mấy năm nay ngươi tin Đức Chúa Trời ở đâu rồi? Thật đáng thương, đáng hận, đáng ghê tởm! Cho ngươi một địa vị ngươi liền coi là chức quan mà làm, có địa vị là đại diện cho việc tâm tính thay đổi sao? Đó chẳng phải là sự ân đãi của Đức Chúa Trời sao? Đức Chúa Trời ân đãi ngươi, giao cho ngươi sự uỷ thác thì ngươi lại coi là chức quan mà làm, như thế có đáng ghê tởm hay không? Trong nhà Đức Chúa Trời nào có quan? Trong thời các thánh đồ cũng không có một vị quan nào, trong hai ngàn năm người ta tôn thờ Phao-lô nhưng không ai nói Phao-lô là quan. Cho nên cách nói “quan” này không đứng vững được, nó không phải là phần thưởng, cũng không phải là sự uỷ thác Đức Chúa Trời giao cho ngươi, ngươi phải buông bỏ nó đi. Ngươi luôn mưu cầu làm quan thì liệu Đức Chúa Trời có khen ngợi không? Có thể đạt đến được cứu rỗi không? Chắc chắn là không thể. Vừa rồi chúng ta đã nói đến việc muốn tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời thì phải có lòng xoay chuyển, điều này có quan trọng không? (Thưa, quan trọng.) Con người có thái độ như vậy là rất quan trọng! Nếu ngươi muốn thiết lập được cho ngươi và Đấng Tạo Hóa một tầng quan hệ giữa Đấng Cứu Thế và người được cứu chuộc, nếu ngươi muốn Đức Chúa Trời cứu rỗi ngươi, ngươi phải xếp đặt đúng vị trí của mình, phải xác định vị trí và địa vị của Đức Chúa Trời trong lòng ngươi. Vậy ngươi ở vị trí nào? (Thưa, loài thọ tạo.) Ai là loài thọ tạo? Là con người, không phải súc sinh. Bất kể lúc nào, ngươi cũng phải nhớ rằng mình là một loài thọ tạo, là một người bình thường, đừng quên vị trí mà mình nên đứng. Đức Chúa Trời ban cho ngươi chút ân điển, cho ngươi chút phúc lành thì ngươi đã không biết mình là ai, nếu Đức Chúa Trời khiêm nhường và ẩn mình, nói với ngươi chút lời ân cần an ủi ngươi thì là Ngài đề cao ngươi, thế mà ngươi lại muốn ngồi ngang hàng, đứng ngang vai ngang vế với Đức Chúa Trời, đề cao bản thân, ngươi là thứ gì vậy? Có phải là con người không? (Thưa, không phải.) Ðức Chúa Trời không thừa nhận một loài thọ tạo như ngươi, ngươi hãy đi qua một bên đi! Đức Chúa Trời không thừa nhận ngươi, vậy Ngài còn có thể hoàn thiện ngươi không? Ngươi không có những điều kiện mà Đức Chúa Trời muốn hoàn thiện. Nói đến đây có phải là đã nói thấu đáo rồi không? Cho nên, có được lòng xoay chuyển là rất quan trọng, đây là một loại tâm thái, đồng thời cũng là một loại thái độ, loại thái độ này là một nguyên tắc thực hành quan trọng mà con người muốn được Đức Chúa Trời cứu rỗi và hoàn thiện nên có. Ngươi đừng cảm thấy mình vĩ đại, cao quý, cũng đừng cảm thấy mình đúng đắn, không có sai lầm. Ngươi không vĩ đại, vinh quang, đúng đắn gì cả, ngươi nhỏ bé, thấp hèn, ngươi là con người thọ tạo đã trải qua sự bại hoại của Sa-tan, ngươi cần tiếp nhận sự cứu rỗi của Đấng Tạo Hóa, chứ không phải là đã được cứu rỗi, không phải là người hoàn mỹ. Lý trí này ngươi phải có.
Điều kiện để tiếp nhận sự phán xét và hành phạt của Đức Chúa Trời tổng cộng có bốn điều. Đó là: thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn, có tâm thái thuận phục, cơ bản là người trung thực, có một tấm lòng hối cải. Các ngươi hãy ghi nhớ bốn điều này, khi gặp phải chuyện gì thì đối chiếu với bản thân. Nếu chuyện đó liên quan đến sự thuận phục thì các ngươi hãy thực hành thuận phục. Lời Đức Chúa Trời yêu cầu con người có tâm thái thuận phục, ngươi đối chiếu với lời Đức Chúa Trời thì phát hiện mình còn kém rất xa, vậy ngươi nên làm gì? Đức Chúa Trời phán như thế nào thì ngươi làm như thế đó, làm theo lời Đức Chúa Trời, chứ đừng phân tích, đừng nói lý lẽ, ngươi nói lý lẽ thì Đức Chúa Trời sẽ ghê tởm ngươi. Nếu Đức Chúa Trời ghê tởm ngươi, thì ngươi phải làm sao? Vẫn còn một cách để cứu vãn, đó là nhanh chóng xoay chuyển, không thể bởi vì một chuyện nhỏ mà làm Đức Chúa Trời đau lòng, sau đó lại làm Ngài đau lòng hết lần này đến lần khác, năm lần bảy lượt không để ý đến Ngài. Con người chẳng là gì cả, ngươi không để ý đến Ngài thì Ngài sẽ không cần ngươi nữa. Nếu Đức Chúa Trời không để ý đến ngươi, không cần ngươi nữa, ngươi sẽ làm gì? Ngươi nói: “Con sẽ xoay chuyển, xin Đức Chúa Trời đừng không cần con, con không thể không có Ngài”. Chỉ nói lời này thì vô ích, Ngài không cần ngươi nói những lời dễ nghe, Ngài muốn xem thái độ của ngươi, sự thực hành của ngươi, xem con đường ngươi đi sau này. Đức Chúa Trời muốn xem biểu hiện của ngươi. Ngươi đừng nghĩ rằng Đức Chúa Trời là một người bình thường, nói vài câu dễ nghe thì Ngài sẽ cảm động. Đức Chúa Trời không như vậy, Ngài sẽ xem thái độ của ngươi. Ngươi xoay chuyển rồi, Đức Chúa Trời thấy ngươi từ một kẻ cương ngạnh trở thành một người có thể thuận phục, có thể tiếp nhận lẽ thật, không đọ sức với Đức Chúa Trời, sự cương ngạnh của ngươi đã thay đổi, ngươi biết mình là ai, còn thừa nhận Đức Chúa Trời của mình, ngay sau đó Đức Chúa Trời sẽ muốn làm một số việc trên ngươi. Có vài người nói: “Tôi cũng không cảm giác được Đức Chúa Trời muốn làm chuyện gì”. Ngươi đừng dựa vào cảm giác, cảm giác của ngươi có chính xác không? Ngươi có cảm nhận được Đức Chúa Trời đã làm bao nhiêu công tác trên ngươi không? Ngươi có cảm giác khi Ngài đau lòng không? Cái gì ngươi cũng không biết, nói không chừng còn đang vui vẻ ở đâu đó. Cho nên, ngươi đừng dựa vào cảm giác của mình để ngầm hiểu cảm giác của Đức Chúa Trời, cũng đừng dựa vào cảm giác của ngươi để đánh giá cảm giác của Đức Chúa Trời, vô ích mà thôi. Nếu Đức Chúa Trời không để ý đến ngươi, ngươi sẽ chẳng có cảm giác gì, không được khai sáng, cũng không được thừa nhận, vậy ngươi nên làm gì? Hãy nhớ kỹ một điều, trách nhiệm và bổn phận mà loài thọ tạo nên thực hiện phải được tiếp tục, nên nói thật thì phải nói thật, đừng vì Đức Chúa Trời không để ý tới ngươi, không cần ngươi mà lượm nhặt lại những lời nói dối trước kia, trước kia nói năng như thế nào giờ vẫn nói năng như thế, nếu như vậy thì ngươi hoàn toàn tiêu tùng rồi, như vậy là đang đọ sức và đối kháng với Đức Chúa Trời. Ngươi phải giữ vững bổn phận, nên thuận phục thì phải thuận phục. Như vậy có ích lợi gì không? Đức Chúa Trời thấy ngươi đã xoay chuyển, lòng Đức Chúa Trời cũng sẽ dịu đi, sự thịnh nộ và phẫn nộ của Ngài đối với ngươi sẽ dần dần nguôi ngoai. Đối với ngươi mà nói, sự thịnh nộ của Ngài nguôi ngoai có phải là điềm lành hay không? Bước ngoặt của ngươi đã xuất hiện. Khi nào ngươi không còn sống dựa vào cảm giác, không còn chú trọng quan sát sắc mặt của Đức Chúa Trời, cũng không yêu cầu xa xỉ sự bày tỏ thái độ của Đức Chúa Trời, thay vào đó là căn cứ vào lời Đức Chúa Trời phán, vào bổn phận và nguyên tắc thực hành mà Đức Chúa Trời giao phó cho ngươi, căn cứ vào con đường nên thực hành, nên đi mà Đức Chúa Trời đã nói cho ngươi. Ngươi dựa vào những điều này mà sống, thì bất kể Đức Chúa Trời đối xử với ngươi như thế nào, cho dù Ngài lờ ngươi đi, thì nên làm như thế nào ngươi vẫn làm như thế đó, Đức Chúa Trời sẽ công nhận con người ngươi. Tại sao lại công nhận? Vì bất kể Đức Chúa Trời làm gì trên ngươi, Ngài có để ý tới ngươi hay không, bất kể ngươi có ân điển hay phúc lành hay không, có ánh sáng và sự khai sáng hay không, có sự chăm sóc và che chở hay không, bất kể ngươi cảm giác được bao nhiêu, ngươi đều có thể đi theo đến cùng, ngươi đã giữ vững vị trí mà một loài thọ tạo nên giữ, không thay đổi, ngươi coi lời Đức Chúa Trời như mục tiêu và phương hướng cuộc đời của ngươi, coi lời Đức Chúa Trời là lẽ thật, là lời lẽ chí lý cao nhất trong cuộc đời ngươi. Thực chất của biểu hiện này là gì? Đó là trong lòng ngươi nhận định Đấng Tạo Hóa là sự sống của ngươi, là Đức Chúa Trời của ngươi, như vậy Đức Chúa Trời sẽ yên tâm, ngươi chính là một con người bình thường sống trước mặt Đức Chúa Trời, người như vậy sẽ có điều kiện cơ bản của sự thay đổi tâm tính. Vậy trên cơ sở đó, sự thay đổi mà con người hiểu được và đạt được có thể đạt tới sự thay đổi trong tâm tính hay không? Vẫn chưa thể đạt tới. Cho nên, ngươi phải có sự thừa nhận đối với thân phận của Đấng Tạo Hóa, còn phải có thái độ chịu trách nhiệm với bổn phận của mình, có thái độ tiếp nhận, thuận phục đối với lẽ thật, sau khi ngươi có được những điều này, Đức Chúa Trời sẽ muốn thực hiện công tác phán xét và hành phạt trên ngươi, việc được cứu rỗi bắt đầu từ đây. Có vài người nói: “Có được những điều này thì có phải tâm tính đã thay đổi rồi không? Nếu đã có nhiều thay đổi như vậy rồi thì Đức Chúa Trời còn phán xét và hành phạt gì nữa?”. Thứ mà Đức Chúa Trời phán xét và hành phạt là gì? Là thực chất bản tính của con người, cũng chính là tâm tính bại hoại của con người. Nếu con người có đủ bốn điều này, có thể đạt đến những điều kiện này, vậy bên trong con người có phương diện tâm tính bại hoại nào có sự thay đổi hoàn toàn? Không có phương diện nào cả, chỉ có một chút thay đổi hành vi, vậy thì vẫn chưa được, vẫn chưa có sự thay đổi về mặt căn nguyên. Nghĩa là, trước khi Đức Chúa Trời vẫn chưa làm công tác phán xét và hành phạt trên ngươi, thì nhận thức của ngươi đối với bản thân mãi mãi lửng lơ trên mặt chữ và ở bề ngoài, không ăn khớp với thực chất bại hoại của ngươi, nó rất xa vời và có khoảng cách rất lớn với thực chất bại hoại của ngươi. Cho nên, trước khi Đức Chúa Trời thực hiện công tác phán xét và hành phạt, bất kể ngươi cho rằng mình tốt thế nào, trung thực, có quy củ và có thái độ thuận phục đến đâu, thì ngươi cũng phải biết một điều rằng tâm tính của ngươi vẫn chưa chính thức bắt đầu thay đổi. Những cách thực hành và cách làm kia của ngươi chỉ là những thay đổi về mặt hành vi, là nhân tính cơ bản mà một người được Đức Chúa Trời cứu rỗi nên có. Trung thực, thuận phục, có thể xoay chuyển, có lòng trung thành, mấy điều này là những điều cần có trong nhân tính, tất nhiên lương tâm và lý trí thì không cần phải nói đến nữa, ngươi phải có đủ những điều này trước khi Đức Chúa Trời thực hiện công tác phán xét và hành phạt. Thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn, có tâm thái thuận phục, cơ bản là người trung thực, có một tấm lòng hối cải, nếu bốn điều này con người đều có thì Đức Chúa Trời sẽ bắt đầu triển khai công tác phán xét và hành phạt trên con người.
Bây giờ, đối với cách Đức Chúa Trời thực hiện cụ thể công tác phán xét và hành phạt trên con người, trong lòng các ngươi nên có chút khái niệm. Ví dụ, về phương diện tà ác, con người thường thăm dò Đức Chúa Trời, chẳng hiểu sao lại thường muốn nghiên cứu Đức Chúa Trời, rồi còn nghi ngờ, hoài nghi, chất vấn lời Đức Chúa Trời, suy đoán thái độ của Đức Chúa Trời đối với con người rốt cuộc là gì, luôn muốn biết điều này. Như vậy có phải là tà ác hay không? Bây giờ con người có biết những tình trạng, biểu hiện nào của mình là loại tâm tính này hay không? Con người không rõ. Trong thời gian phán xét và hành phạt ngươi, Đức Chúa Trời khiến ngươi vạch rõ bộ dạng của bản thân và các tình trạng của mình, khiến ngươi hiểu rõ trong lòng. Đương nhiên, vào thời điểm vạch rõ có thể ngươi sẽ không quá mất mặt, nhưng ít nhất cũng khiến ngươi biết vì sao Đức Chúa Trời phán xét, hành phạt ngươi, khiến ngươi nhìn thấy lời phán xét của Đức Chúa Trời, thấy mọi điều Đức Chúa Trời vạch rõ đều là sự thật, khiến ngươi tâm phục khẩu phục, thấy chúng không sai chút nào. Trong lòng ngươi sẽ hiểu rõ rằng những thứ này đều là những thứ có trong ngươi, chúng không phải là một loại hành vi, không phải là sự bộc lộ nhất thời, mà là tâm tính của ngươi. Tiếp theo, trong thời gian Đức Chúa Trời thực hiện công tác phán xét và hành phạt, ngươi sẽ liên tục bị tỏ lộ, ngươi sẽ bị tỉa sửa vì tâm tính bại hoại của mình, vì thế mà ngươi đau khổ, chịu sự tinh luyện. Ví dụ như, nghi ngờ Đức Chúa Trời là một loại biểu hiện của tà ác, con người thường nghi ngờ Đức Chúa Trời, nhưng con người xưa nay không ý thức được đây là tà ác, vấn đề này phải được giải quyết. Khi Đức Chúa Trời phán xét và hành phạt ngươi, nếu ngươi nghi ngờ Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ cho ngươi biết đó là tà ác. Ngươi sống trong tâm tính tà ác, ngươi dùng tâm tính tà ác để đối đãi với Đức Chúa Trời mà ngươi tin, để so đo với Đức Chúa Trời của ngươi, để nghi ngờ Đức Chúa Trời của ngươi, trong lòng ngươi cũng rất đau khổ, ngươi không muốn làm như vậy, nhưng chẳng còn cách nào cả. Ngươi có tâm tính bại hoại này thì Đức Chúa Trời sẽ sắp đặt hoàn cảnh để tinh luyện ngươi, khiến ngươi bất giác vứt bỏ quan niệm và tưởng tượng của mình, vứt bỏ tư duy và lô-gic của mình, vứt bỏ tư tưởng và lý luận của mình, lúc này ngươi cần phải chịu khổ, đây mới là sự tinh luyện thật sự. Do tâm tính bại hoại nên ngươi mới phải chịu sự tinh luyện. Vậy làm thế nào có thể hình thành sự tinh luyện? Nếu ngươi cho rằng nó không phải là tâm tính bại hoại, cho rằng ngươi không có biểu hiện đó, cũng không có tình trạng đó, bản thân không phải là loại người đó, cảm thấy phương diện tâm tính bại hoại này không tồn tại trong ngươi, vậy khi Đức Chúa Trời phán xét ngươi, ngươi sẽ chịu sự tinh luyện chứ? (Thưa, sẽ không.) Khi ngươi thừa nhận bản thân bộc lộ tâm tính bại hoại và khi Đức Chúa Trời phán xét ngươi, thì ngươi biết và có thể đối chiếu được, nhưng ngươi vẫn có thể nói lý lẽ, vẫn sống trong tâm tính bại hoại đó, không thoát khỏi được, chính điều này hình thành nên sự tinh luyện. Ngươi biết Đức Chúa Trời không thích, Ngài ghê tởm nó, biết ngươi cách rất xa yêu cầu của Đức Chúa Trời, ngươi cũng biết rõ mình sai và Đức Chúa Trời đúng, nhưng ngươi lại không thực hành ra được lẽ thật, cũng không thể tuân theo con đường của Đức Chúa Trời, lúc này thì sự đau khổ của ngươi nảy sinh. Hiện tại, các ngươi có nỗi đau khổ như vậy không? (Thưa, không.) Ít nhất các ngươi vẫn chưa chịu sự tinh luyện về tâm tính bại hoại, chỉ khi các ngươi phạm sai lầm thì mới phải chịu chút đau đớn của sự quở trách và sửa dạy về việc vi phạm, nhưng đó chắc chắn không phải là sự tinh luyện. Nếu các ngươi có thể bước vào cuộc sống như vậy, đi trên con đường như vậy, còn nói rằng: “Tôi không còn chịu đựng đau khổ về tình cảm, chịu đựng đau khổ về địa vị nữa, mà là thực sự chịu sự tinh luyện, tôi phát hiện mình thật sự không tương hợp với Đức Chúa Trời, tâm tính bại hoại thâm căn cố đế, có cố thế nào cũng không thoát ra được. Hãy để Đức Chúa Trời tinh luyện và tỏ lộ tôi đi”. Khi sống trong tình trạng như vậy, ngươi sẽ đi trên con đường được cứu rỗi. Bây giờ nói như vậy, các ngươi có thể đều rất khao khát ngày đó đến, đều rất hy vọng ngày đó đến, nhưng Ta không biết các ngươi có bao nhiêu người có thể có phúc, hưởng thụ được đãi ngộ như vậy. Đây chính là chuyện tốt vô cùng lớn, cũng là phúc phần to lớn. Con người được cứu rỗi không phải là chuyện dễ, nếu Đấng Tạo Hóa thật sự nhìn trúng ngươi, chọn trúng ngươi, để ngươi làm người đi theo Ngài, thì đây mới là bước đầu tiên để ngươi được cứu rỗi. Nếu như Đấng Tạo Hóa nhìn trúng ngươi, nói ngươi có thể có tư cách tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Ngài thì đây mới là bước thứ hai. Nếu ngươi có thể bước ra khỏi sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, có thể đạt đến tâm tính có sự thay đổi, tương hợp với Đấng Tạo Hóa, đi trên con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, thì đó mới là kết quả cuối cùng. Hiện tại trong các ngươi, không biết ai có thể có phúc đi đến ngày đó, không biết ai có thể có phúc tiếp nhận sự cứu rỗi như vậy. Chuyện này liệu xem tướng mạo thì có thể nhìn ra hay không? Xem tố chất thì có thể nhìn ra hay không? Xem văn hóa cao hay thấp thì có thể nhìn ra hay không? (Thưa, không nhìn ra được.) Vậy xem con người bây giờ thực hiện bổn phận gì thì có thể nhìn ra hay không? Xem họ sống ở gia đình nào thì có thể nhìn ra hay không? Đều không thể nhìn ra được. Có vài người nói: “Nhà tôi ba đời đều tin Chúa, tôi đã tin từ trong bụng mẹ, vậy nên tôi chắc chắn sẽ được cứu rỗi”. Đây là lời nói ngu ngốc, quá vô tri, Đức Chúa Trời đâu có nhìn vào chuyện này. Người Pha-ri-si từ đời này sang đời khác đều tin Đức Chúa Trời, vậy bây giờ họ ra sao rồi? Ngài còn không cần họ làm người đi theo Ngài, họ bị đào thải triệt để, không liên can đến công tác cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Việc có thể tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời hay không liên quan trực tiếp đến điểm mấu chốt là sự thay đổi tâm tính. Thế nhưng con người lại nảy sinh rất nhiều quan niệm đối với sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, cần phải thường xuyên thông công lẽ thật căn cứ vào lời Đức Chúa Trời để giải quyết những vấn đề này, chuyện này rất cần phải có. Tại sao Đức Chúa Trời lại muốn phán xét và hành phạt con người, nhân loại bại hoại đến mức độ nào, sự phán xét và hình phạt rốt cuộc phải giải quyết những vấn đề nào, đạt được hiệu quả gì, tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời yêu cầu đối với con người là gì? Nếu con người không hiểu những lẽ thật này thì sẽ không dễ dàng tiếp nhận sự phán xét và hình phạt, sẽ dễ nảy sinh quan niệm đối với Đức Chúa Trời, nảy sinh sự phản nghịch, chống đối, thậm chí báng bổ Đức Chúa Trời, trở thành kẻ địch của Ngài. Đức Chúa Trời cứu rỗi con người như thế nào? Ai có thể tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Ngài? Ai có thể đi lên con đường mưu cầu lẽ thật để được hoàn thiện? Ai có thể bị đào thải bởi công tác của Đức Chúa Trời trong thời kỳ sau rốt? Những lẽ thật này nếu được thông công sáng tỏ thì có phải quan niệm của con người về sự phán xét và hình phạt sẽ được giải quyết không? Ít nhất về cơ bản chúng sẽ được giải quyết, vấn đề còn lại chỉ có thể dựa vào trải nghiệm của bản thân, chờ đến lúc hiểu được lẽ thật thì tự nhiên sẽ được giải quyết thôi. Có vài người nói: “Chúng con đã được tha tội, tại sao còn phải trải qua sự phán xét và hình phạt?”. Được tha tội là ân điển của Đức Chúa Trời, khiến con người có tư cách đến trước mặt Đức Chúa Trời, nhưng sự phán xét và hình phạt là để triệt để cứu rỗi con người khỏi tội lỗi và khỏi quyền thế của Sa-tan, hai điều này không có mâu thuẫn với nhau. Trong Thời đại Ân điển thì Đức Chúa Trời cứu chuộc và tha tội cho con người, trong Thời đại Vương quốc thì Đức Chúa Trời phán xét con người, làm tinh sạch tâm tính bại hoại của con người, đó là hai giai đoạn công tác. Trong tôn giáo có rất nhiều người vô lý luôn có quan niệm đối với sự phán xét và hình phạt, tức là chỉ bám vào câu: “Sự tha tội là được xưng công chính bởi đức tin”, sống chết cũng không tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, người như vậy có cần tranh luận phải trái với họ không? Khi ngươi đụng phải những người như thế, nếu họ có thể tiếp nhận lời Đức Chúa Trời và tiếp nhận lẽ thật thì có thể thông công lẽ thật với họ, đọc lời Đức Chúa Trời cho họ nghe, còn nếu họ sống chết cũng không tiếp nhận lẽ thật thì không cần để ý đến họ, họ tuyệt đối không phải là đối tượng được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Đức Chúa Trời chỉ cứu rỗi những người có thể tiếp nhận lời Ngài và tiếp nhận lẽ thật, Ngài tuyệt đối sẽ không cứu rỗi những người sống chết cũng không tiếp nhận lời Đức Chúa Trời, không tiếp nhận lẽ thật. Người có thể tiếp nhận lẽ thật thì cho dù có bao nhiêu quan niệm cũng đều giải quyết dễ dàng, chỉ cần đọc lời Đức Chúa Trời nhiều hơn một chút, tìm kiếm lẽ thật nhiều hơn thì có thể giải quyết được. Người có thể tiếp nhận lẽ thật là người có nhân tính, có lương tâm và lý trí. Con người trước khi tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời đều sẽ nảy sinh rất nhiều quan niệm, rất nhiều ý nghĩ sai lầm, nảy sinh một số tình trạng tiêu cực. Tình trạng tiêu cực thường gặp nhất chính là: “Tôi dâng mình cho Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận, đáng lẽ nên được Đức Chúa Trời bảo vệ và chúc phúc trong mọi chuyện, nhưng tại sao hoạn nạn lại đến với tôi?”. Đây là tình trạng thường gặp nhất. Còn có một dạng tình trạng nữa, đó là nhìn thấy người khác có điều kiện sống tốt, hưởng thụ sung sướng, còn cuộc sống của mình thì khó khăn, bần cùng, họ liền oán trách Đức Chúa Trời không công chính, thậm chí nhìn thấy hiệu quả thực hiện bổn phận của người khác tốt hơn mình thì họ sẽ ghen ghét, tiêu cực, thấy gia đình người khác hòa thuận và sum vầy thì họ cũng tiêu cực, thấy tố chất người khác cao hơn mình một chút thì họ cũng tiêu cực, thực hiện bổn phận mệt mỏi một chút cũng tiêu cực, có chút không hài lòng cũng tiêu cực, tóm lại, bất kể tình huống nào, chỉ cần không phù hợp với quan niệm và tưởng tượng của họ thì họ sẽ tiêu cực. Nếu như người này có chút tố chất, có thể tiếp nhận lẽ thật thì nên giúp đỡ họ, chỉ cần hiểu lẽ thật thì vấn đề tiêu cực sẽ dễ dàng được giải quyết. Nếu họ không tìm kiếm lẽ thật mà vẫn luôn tiêu cực, luôn có quan niệm về Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ gạt họ sang một bên, không để ý tới nữa và Đức Thánh Linh cũng không làm việc vô ích. Loại người này quá cứng đầu, không tiếp nhận lẽ thật, luôn có quan niệm về Đức Chúa Trời, luôn có yêu cầu cá nhân, chuyện này là quá không có lý trí rồi, còn có chút không chịu nói lý lẽ nữa. Họ nghe thì có thể hiểu lẽ thật, nhưng lại không tiếp nhận lẽ thật, đây có phải có nghĩa là đã biết rõ còn cố ý vi phạm không? Vì vậy, Đức Chúa Trời sẽ không để ý đến họ. Một vài người nói: “Tôi thường tiêu cực nhưng Đức Chúa Trời lại không để ý đến tôi, điều này nghĩa là Đức Chúa Trời không yêu thương tôi!”. Nói như vậy là vô lý. Ngươi có biết Đức Chúa Trời yêu thương người nào không? Ngươi có biết tình yêu thương của Đức Chúa Trời biểu hiện như thế nào không? Ngươi có biết Đức Chúa Trời không yêu thương người nào, Ngài sửa dạy người nào không? Tình yêu thương của Đức Chúa Trời có nguyên tắc, tình yêu thương đó không phải như những gì con người tưởng tượng, không ngừng nhẫn nại, thương xót và ân đãi con người, bất kể là ai cũng đều được cứu rỗi, dù phạm tội gì cũng đều được tha thứ, đến cuối cùng đều được đưa vào vương quốc của Đức Chúa Trời. Đây có phải là quan niệm và tưởng tượng của con người hay không? Nếu là như vậy thì Đức Chúa Trời đâu cần phải thực hiện công tác phán xét nữa. Đức Chúa Trời có nguyên tắc khi đối xử với người thường xuyên tiêu cực, con người luôn tiêu cực thì bên trong sẽ có vấn đề. Đức Chúa Trời phán nhiều lời như vậy, bày tỏ nhiều lẽ thật như vậy, nếu là người thật lòng tin Ngài thì khi đọc xong lời Ngài và hiểu được lẽ thật, những thứ tiêu cực chỉ có thể ngày càng ít đi. Nếu con người luôn tiêu cực thì chắc chắn một chút lẽ thật cũng không tiếp nhận nổi, cho nên một khi gặp phải chuyện không phù hợp với quan niệm của họ thì họ sẽ tiêu cực. Tại sao họ không tìm kiếm lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời? Tại sao không tiếp nhận lẽ thật? Chắc chắn là bởi vì họ có quan niệm, có hiểu lầm đối với Đức Chúa Trời, hơn nữa họ chưa bao giờ tìm kiếm lẽ thật, họ đối đãi với lẽ thật như vậy, thì Đức Chúa Trời còn có thể để ý tới họ sao? Người như thế có phải bất chấp lý lẽ hay không? Đối với những người bất chấp lý lẽ, thái độ của Đức Chúa Trời là gì? Là gạt sang một bên, không để ý tới, ngươi thích tin thế nào thì tin thế đó, tin hay không tùy ngươi, nếu ngươi thực sự tin và mưu cầu lẽ thật thì có thể đạt được lẽ thật, nếu ngươi không mưu cầu lẽ thật thì không thể đạt được lẽ thật, vậy thôi. Đức Chúa Trời đối xử với mỗi người đều công bằng. Ngươi không có thái độ tiếp nhận lẽ thật, không có thái độ thuận phục, không nỗ lực vươn tới yêu cầu của Đức Chúa Trời, vậy ngươi sẵn lòng tin như thế nào thì cứ tin như thế, sẵn lòng đi thì mau đi đi, ngươi không muốn thực hiện bổn phận thì nhà Đức Chúa Trời cũng không ép ngươi, ngươi muốn đi đâu thì đi. Đối với người như vậy, Đức Chúa Trời không giữ lại, đây chính là thái độ của Đức Chúa Trời. Ngươi rõ ràng là một loài thọ tạo, thế mà cứ luôn không muốn làm một loài thọ tạo, lại luôn muốn làm thiên sứ trưởng, tức là không muốn thuận phục Đức Chúa Trời, còn luôn muốn ngồi ngang hàng với Ngài, đây là chống lại Đức Chúa Trời một cách trắng trợn, cũng là chuyện xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời. Ngươi rõ ràng chỉ là một người bình thường, lại luôn muốn có chút ưu đãi đặc biệt, muốn làm người có địa vị, có thân phận, muốn mọi thứ đều mạnh hơn người khác, muốn có được phúc lớn, vượt trội hơn tất cả mọi người, đây chính là không có lý trí. Đối với người không có lý trí, Đức Chúa Trời nhìn nhận thế nào? Ngài đánh giá thế nào? Người như vậy thì bất chấp lý lẽ. Có người nói: “Ngài nói con bất chấp lý lẽ, vậy con không đem sức lực phục vụ nữa!”. Ai bắt ngươi đem sức lực phục vụ chứ? Ngươi không cam lòng đem sức lực phục vụ thì Đức Chúa Trời cũng không ép ngươi, ngươi đi nhanh đi, nhà Đức Chúa Trời không giữ ngươi. Nếu ngươi cam lòng đem sức lực phục vụ thì nhà Đức Chúa Trời vẫn còn có yêu cầu. Nếu như ngươi đem sức lực phục vụ không đạt tiêu chuẩn, thực hiện bổn phận lại mang đến quá nhiều phiền toái cho nhà Đức Chúa Trời, lợi bất cập hại, thì nhà Đức Chúa Trời tất nhiên phải đào thải ngươi, ngươi muốn đem sức lực phục vụ thì nhà Đức Chúa Trời cũng không cần ngươi nữa. Con người có thể cam lòng đem sức lực phục vụ, có thể tiếp nhận lẽ thật, tiếp nhận sự tỉa sửa, mới có tư cách ở lại trong nhà Đức Chúa Trời. Con người có thể mưu cầu lẽ thật, tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, đạt đến được cứu rỗi và được hoàn thiện, đó là phúc phần lớn lao. Ngươi đừng nghĩ rằng Đức Chúa Trời đang cầu xin ngươi, nhất định phải phán xét và hành phạt ngươi, Ngài không cầu xin ngươi. Việc Đức Chúa Trời cứu rỗi và hoàn thiện con người là việc có đối tượng, có lựa chọn, cũng có nguyên tắc, không phải tất cả những người tin Đức Chúa Trời thì đều có thể đạt đến được Ngài cứu rỗi. Người được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì lại ít. Ngươi phải đạt được mấy tiêu chuẩn này của Đức Chúa Trời, đó là: thực hiện bổn phận đạt tiêu chuẩn, có tâm thái thuận phục, cơ bản là người trung thực, có một tấm lòng hối cải, thì Đức Chúa Trời mới chính thức bắt đầu phán xét và hành phạt ngươi, làm tinh sạch và hoàn thiện ngươi. Có vài người nói: “Trải nghiệm sự phán xét và hành phạt thì phải chịu khổ!”. Chịu khổ thì đúng, nhưng vẫn phải có tư cách, ngươi không có tư cách, thì muốn chịu nỗi khổ này cũng không xứng đâu! Ngươi nghĩ Đức Chúa Trời công tác và hoàn thiện con người đơn giản như vậy sao? Người nào từ chối tiếp nhận sự phán xét và hình phạt, người nào trốn chạy sự phán xét và hình phạt thì cuối cùng đều phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Bất kể là ai đi chăng nữa, bất kể thái độ của họ đối với Đức Chúa Trời như thế nào, chỉ cần không phù hợp với thái độ mà Đức Chúa Trời yêu cầu thì Ngài đều không quản, để họ tự phát triển. Lời Đức Chúa Trời bày ra ở đó, ngươi có thể làm được thì làm, sẵn lòng làm thì làm, ngươi không sẵn lòng làm hoặc làm không được thì Đức Chúa Trời cũng không ép. Ngươi cho rằng Đức Chúa Trời sẽ cầu xin ngươi sao? Ngươi cho rằng Đức Chúa Trời sẽ sửa dạy ngươi sao? Ngươi yên tâm, Ngài tuyệt đối sẽ không làm như vậy. Đức Chúa Trời phán: “Ngươi không thích tiếp nhận lẽ thật, ngươi chán ghét sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời. Được thôi, ngươi đã hưởng thụ một số ân điển rồi, hãy mau mau trở về thế gian, mau đi đi, đừng miễn cưỡng nữa. Phúc phần thiên quốc này ngươi không có tư cách hưởng thụ, ngươi muốn cũng không có được”. Đức Chúa Trời không ép con người tiếp nhận sự phán xét và hình phạt, trong chuyện này có ý gì? Ý là con người không tiếp nhận sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời thì Ngài cũng không sửa dạy, sửa phạt, cũng không nhắc nhở, khuyên nhủ nữa, Đức Thánh Linh cũng không khai sáng soi sáng gì nữa. Nhìn bề ngoài thì con người vẫn sống rất thoải mái, thực hiện bổn phận qua loa chiếu lệ hay tiêu cực, chểnh mảng thì cũng không bị sửa dạy, họ tùy ý xét đoán Đức Chúa Trời thì cũng không bị sửa dạy, thậm chí họ hiểu lầm, oán trách và chống đối Đức Chúa Trời thì trong tâm hồn họ cũng không có cảm giác gì, đến khi làm điều đại ác, ăn trộm của lễ, lạm dụng của lễ, họ cũng không có tri giác gì. Người làm những chuyện đại ác như vậy thì dù mấy năm trôi qua họ cũng không phản tỉnh, không có chút hối cải nào, cũng không dự cảm được sẽ gặp phải sự trừng phạt gì, nhận được kết cục gì. Người bình thường hẳn là sẽ có một loại dự cảm, nhưng họ lại không có, bởi vì Đức Chúa Trời không công tác chút gì ở trên họ. Đức Chúa Trời không công tác, đây là một loại thái độ của Đức Chúa Trời, điều này đại diện cho cái gì? Ngươi có thể tưởng tượng được những gì Ngài đang nghĩ trong lòng không? Ngài đã hoàn toàn vứt bỏ người như vậy. Tại sao Đức Chúa Trời lại vứt bỏ người như vậy? Vì Ngài xem thường người như vậy, người như vậy còn không bằng cọng lông gà, còn không bằng con kiến, không đáng nhắc tới, kết cục của họ đã được xác định như vậy rồi. Đến một ngày, người như vậy nói: “Con muốn làm loài thọ tạo của Ngài, con tiếp nhận Ngài làm Chúa của con, làm Đức Chúa Trời của con”. Lúc đó, Đức Chúa Trời có cần hay không? Ngài không cần. Có người nói: “Con hối hận rồi, bây giờ con sẽ quay đầu”. Còn kịp không? Muộn rồi. Vì bản tính của họ là ma quỷ và sẽ không bao giờ thay đổi, nên Đức Chúa Trời không cứu rỗi người như vậy. Loại người này có ăn năn, có khóc lóc rưng rức thế nào, thì liệu họ có thể thay đổi không? Họ có thể thật sự hối cải không? Tuyệt đối không. Cho nên, dù ngươi có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không, chỉ cần là người thật lòng tin Đức Chúa Trời, thì ngươi nên hiểu sắc lệnh quản trị của nhà Đức Chúa Trời, tuyệt đối không được có chủ ý gì với của lễ của Đức Chúa Trời, dù là có ý niệm muốn ăn trộm hay muốn dùng đều không được, một khi làm ra chuyện gì thì sẽ gặp phải đại họa, sẽ liên quan đến kết cục của ngươi. Một khi kết cục đã được xác định, ngươi lại nhớ tới lời Đức Chúa Trời phán thế nào, Ngài yêu cầu điều gì, thì hối hận cũng vô ích, lúc đó đã muộn rồi. Bây giờ công tác của Đức Chúa Trời vẫn chưa kết thúc, nhưng kết cục của một số người đã được xác định rồi, Đức Chúa Trời chưa từng để lộ chuyện này, Ngài cũng không nói cho bất kỳ ai biết. Những người này vẫn cảm thấy bản thân mình không sai, vẫn đang sống cho qua ngày đoạn tháng, cái chết ập lên đầu cũng không biết, đây chính là một đám người hồ đồ, là một đám phế vật.
Ta sẽ kể thêm hai ví dụ nữa. Ví dụ lần trước nói đến một người anh em cao tuổi, còn nhân vật chính của hai ví dụ này là hai chị lớn, vừa nghe danh xưng này đã biết địa vị cũng không thấp, nhưng mà người có địa vị cao thì có thể làm ra chuyện đại ác. Trong đó có một chị lớn giao du với một người ngoại đạo, doanh nghiệp của người ngoại đạo này không đủ vốn để quay vòng, sắp phải phá sản, chị lớn này làm lãnh đạo hội thánh, có thể kiểm soát tiền bạc, người ngoại đạo này liền vay tiền của cô, chị lớn này không tìm kiếm Bề trên, tự mình đồng ý cho mượn mấy trăm ngàn tệ. Tiền của người khác ngươi có thể cho mượn, duy chỉ có tiền của Đức Chúa Trời là của lễ, ai mà động đến của lễ của Đức Chúa Trời thì phải bị trừng phạt. Chị lớn này tham ô của lễ, hơn nữa còn không phải là con số nhỏ, sau khi cô tham ô, hội thánh sẽ xử lý cô, bắt cô làm thuê để hoàn trả, đây là cách xử lý của hội thánh, của con người. Cô có thể trả lại, nhìn bề ngoài thì thái độ không tệ, nhưng nó có thể đại diện cho sự xoay chuyển hay không? (Thưa, không.) Hành vi này của cô có chút to gan, giống như một kẻ liều lĩnh, điều này đại diện cho tâm tính của cô, đại diện cho thái độ của cô đối với Đức Chúa Trời. Một người như vậy có thể lĩnh hội lẽ thật một cách thuần túy hay không? Làm việc có thể đạt đến có lý trí hay không? Của lễ của Đức Chúa Trời mà cô cũng dám tùy tiện động vào, dùng như tiền của mình, Đức Chúa Trời không nói sẽ phân chia như thế nào, cũng không nói không được động vào, nên trong lòng cô không có nguyên tắc, cũng không có giới hạn cuối cùng, cô cho rằng cô làm lãnh đạo thì có quyền kiểm soát số tiền này, cô đã dám lạm dụng số tiền này. Sau khi cô lạm dụng, Đức Chúa Trời sẽ xử lý như thế nào? Ngài cũng không thèm bận tâm, hội thánh đã xử phạt cô, mấy trăm ngàn này đã xác định kết cục của cô, Đức Chúa Trời vĩnh viễn loại bỏ cô, không cần cô nữa. Tại sao Đức Chúa Trời có thể làm như vậy? Điều này đại diện cho sự phẫn nộ của Đức Chúa Trời, đương nhiên cũng là một loại tâm tính của Ngài. Đức Chúa Trời không dung thứ cho sự xúc phạm của con người, ngươi xúc phạm tâm tính của Ngài, điều này là vượt quá giới hạn. Trong sắc lệnh quản trị có điều này không? (Thưa, có.) Những người được Đức Chúa Trời chọn đều hiểu rõ rằng lạm dụng của lễ chính là xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời. Khi chị lớn này lạm dụng của lễ, Đức Chúa Trời có quản hay không? Đức Chúa Trời không quản, không ngăn cản, cũng không nói gì. Lúc cô làm việc, Ngài cũng không ràng buộc, không quở trách, cũng không nhắc nhở, tiền cứ như vậy được đem đi cho mượn. Khi cô đang đắc ý thì vấn đề bị bại lộ, hội thánh liền xử lý cô, thế là cô khóc lóc, ngay sau đó bắt đầu làm thuê để hoàn trả. Trên thực tế, thứ Đức Chúa Trời coi trọng có phải là tiền bạc không? Không phải, Đức Chúa Trời không coi trọng tiền bạc, mà là thái độ con người bộc lộ ra đối với Đức Chúa Trời trong chuyện này, Ngài coi trọng điều đó. Con người hoàn toàn vì tiền mà xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời, đây có phải là đáng chết không? Cái này gọi là đáng đời! Ngươi tiêu cực một chút, yếu đuối một chút, thỉnh thoảng thực hiện bổn phận có chút hỗn tạp, hoặc là thỉnh thoảng đứng ở địa vị mà hưởng thụ chút lợi ích của địa vị, thì Đức Chúa Trời xem đây là sự bộc lộ của tâm tính bại hoại mà thôi. Nhưng ngươi động vào của lễ của Đức Chúa Trời mà không hỏi ý Ngài, không được Ngài cho phép đã lạm dụng của lễ, đây là vấn đề gì? Đây là ăn trộm của lễ. Đây là tâm tính gì? Đây là tâm tính của thiên sứ trưởng, là tâm tính của Sa-tan. Có thể ăn trộm của lễ của Đức Chúa Trời, đây có phải là sự phản bội không? (Thưa, phải.) Sa-tan đã làm gì mà Đức Chúa Trời xem là phản bội? (Thưa, hắn muốn làm Đức Chúa Trời.) Vậy chị lớn mà chúng ta đang nói đến, ngay cả của lễ của Đức Chúa Trời mà cũng muốn chiếm đoạt, cô coi mình là ai? (Thưa, là Đức Chúa Trời.) Đúng vậy, cô coi mình là Đức Chúa Trời, sai là sai ở chỗ này, cho nên, cô đã xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời. Tính chất của chuyện này có nghiêm trọng hay không? (Thưa, nghiêm trọng.) Xác định tính chất như vậy có chính xác không? (Thưa, chính xác.) Chị lớn này không có kết cục nữa rồi. Không có kết cục, đây là những gì lúc này chúng ta nhìn thấy. Còn theo định nghĩa của Đức Chúa Trời, sau này phải trải nghiệm trừng phạt gì thì đó chính là chuyện của sau này. Đây là một trong hai chị lớn được lấy làm ví dụ, chị lớn này lá gan thật lớn, có thể lừa trên gạt dưới, còn có thể làm xằng làm bậy, không suy nghĩ đến hậu quả, vừa ngu xuẩn vừa liều lĩnh. Cô có chút thuận phục nào không? Có chút ý muốn tìm kiếm nào hay không? (Thưa, không có.) Cô muốn kiểm soát của lễ và đồ của Đức Chúa Trời mà không có sự đồng ý của bất kỳ ai, không cùng bất kỳ ai bàn bạc, thông công, tự mình toàn quyền xử lý chuyện này, kết quả sau khi xử lý xong chính là như vậy. Có vài người nói: “Lẽ nào cứ động đến của lễ của Đức Chúa Trời là xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời sao” Có phải như vậy không? Không phải. Hội thánh sẽ có nguyên tắc về việc của lễ của Đức Chúa Trời được phân phối như thế nào, ngươi làm theo nguyên tắc thì Đức Chúa Trời không can thiệp. Nếu như đã cho ngươi nguyên tắc rồi, mà ngươi lại không làm theo, nhất quyết phải làm xằng làm bậy, làm theo cung cách riêng của mình, tự mình xử lý những chuyện này thì đó là xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời. Đây là câu chuyện của chị lớn đầu tiên.
Câu chuyện của chị lớn thứ hai cũng là về phương diện của lễ. Chuyện là thế này: Hội thánh mua một căn nhà để làm hội thánh, căn nhà đó cần được sửa sang một chút, mà sửa sang thì cần có thiết kế, mua vật liệu, phải tốn tiền. Bởi vì là công tác của nhà Đức Chúa Trời, liên quan đến sự quản lý của Đức Chúa Trời nên chắc chắn phải tiêu tốn tiền của nhà Đức Chúa Trời và của lễ của Đức Chúa Trời, số tiền này là được sử dụng một cách hợp lý, hợp pháp và chính đáng căn cứ vào nguyên tắc của nhà Đức Chúa Trời. Chị lớn này khi đó là lãnh đạo, phụ trách công trình này, cô tìm một người mới tin, người mà ai cũng không biết rõ để phụ trách công trình này. Người đó giống như người ngoại đạo, thời gian sau cô đã thông đồng với người ngoại đạo này, mua rất nhiều vật dụng cao cấp, tốn rất nhiều tiền uổng phí. Đây không phải là lừa tiền của nhà Đức Chúa Trời sao? Đây là lừa của lễ của Đức Chúa Trời, phung phí của lễ của Đức Chúa Trời! Người ngoại đạo này kiếm được không ít tiền, việc anh ta có thể kiếm được số tiền này có liên quan gì đến chị lớn này hay không? (Thưa, có.) Một tay chị lớn này thúc đẩy, cô đã cho phép người ngoại đạo kia làm chuyện như vậy. Có người phát hiện vấn đề và muốn tố cáo, cô còn ra sức ngăn cản, uy hiếp người ta, cô bán đứng lợi ích của nhà Đức Chúa Trời như vậy, khiến cho lợi ích của nhà Đức Chúa Trời bị tổn thất, hơn nữa còn làm mất mát rất nhiều của lễ. Trong thời gian cô làm chuyện này, Đức Chúa Trời có quở trách cô không? (Thưa, không.) Cô không có tri giác. Làm sao nhìn ra cô không có tri giác? Có vài sự thật có thể chứng minh, đó là ngay từ đầu cô đã có thể thấy rõ người ngoại đạo kia muốn làm gì, nhưng cô không kìm hãm người đó, mà còn dung túng, ngầm thông đồng, không ngừng đổ tiền vào, kết quả tiền tiêu tốn ngày càng nhiều, mà công việc lại làm chẳng ra gì. Cô có thể thấy rõ, nhưng vẫn đổ tiền vào, Đức Chúa Trời vào lúc này có làm việc gì hay không? Ngài không làm gì cả. Trong chuyện này, quan niệm và tưởng tượng của con người là gì? Con người cho rằng tiền của Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời phải chịu trách nhiệm, Ngài phải ngăn cản chị lớn này, đây là quan niệm của con người, nhưng Đức Chúa Trời không làm như vậy. Chờ sau khi công trình này hoàn thành, nhà Đức Chúa Trời trải qua điều tra, phát hiện tổn thất không ít của lễ, vậy nên xử lý chị lớn này như thế nào? Đức Chúa Trời không làm gì cả, hội thánh đã xử lý cô rồi, lại một chị lớn nữa bắt đầu việc hoàn trả tiền. Tính chất của chuyện mà chị lớn này làm là gì? Cô thân là lãnh đạo, chẳng những không chịu trách nhiệm, không kiểm định trong việc tiêu dùng của lễ, hơn nữa còn thông đồng với người ngoài để lừa gạt nhà Đức Chúa Trời, lừa lấy của lễ của Đức Chúa Trời, tính chất của chuyện này còn nghiêm trọng hơn so với trường hợp trước. Cho nên, Đức Chúa Trời quyết định kết cục như thế nào cho người như vậy? Là diệt vong, có trừng phạt hay không, đó là chuyện sau này. Người như vậy có thể đến một ngày sẽ bị Đức Chúa Trời đặt ở nơi quần cư của tà linh ô quỷ, thể xác kiếp này bị hủy diệt, linh hồn bị tà linh ô quỷ chà đạp, vấy bẩn, kiếp sau quá xa, không nói tới nữa, đây chính là kết cục. Tại sao Đức Chúa Trời có thể xử lý như vậy với người như vậy? Bởi vì cô đã xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời. Cô xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời, vậy Ngài có còn tình yêu thương đối với cô không? Không còn tình yêu thương, không còn sự thương xót, không còn sự từ ái nữa, chỉ còn sự thịnh nộ. Nhắc tới chuyện của chị lớn này, Đức Chúa Trời liền hận, liền chán ghét, tại sao Ngài lại chán ghét đến mức này? Là vì cô biết rõ con đường thật mà còn cố ý phạm tội, chẳng những không có của lễ chuộc tội, mà còn phải tiếp nhận sự trừng phạt từ sự thịnh nộ của Đức Chúa Trời. Kết cục, đích đến, được cứu rỗi, những thứ này cô đều không còn nữa, đây chính là xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời, kết quả của việc xúc phạm tâm tính Đức Chúa Trời chính là như vậy.
Các ngươi nói xem, con người có dễ xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời không? Thực ra, không có nhiều cơ hội như vậy, cũng không có nhiều trường hợp như vậy, cơ hội rất ít, xác suất cũng rất nhỏ, nhưng vì sao trong tình huống cơ hội rất ít, xác suất cũng rất nhỏ như vậy con người vẫn có thể xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời? Hai chị lớn này đều tin Đức Chúa Trời hơn 20 năm, nghe giảng đạo cũng rất nhiều năm, cũng đảm nhiệm vị trí lãnh đạo và người làm công trong một thời gian dài, vậy tại sao họ có thể phạm sai lầm nghiêm trọng như vậy? Từ góc độ nhân tính mà nói, họ không có nhân tính, không có lương tâm và lý trí; từ góc độ đức tin của họ đối với Đức Chúa Trời mà nói, họ không có đức tin chân thực, trong lòng họ không có Đức Chúa Trời. Việc trong lòng không có Đức Chúa Trời được biểu hiện như thế nào? Họ làm việc thì không có chữ “sợ”, không có giới hạn, không ngẫm nghĩ xem: “Làm xong chuyện này, mình sẽ như thế nào? Có hậu quả gì hay không? Làm xong chuyện này, người ta không biết nhưng Đức Chúa Trời biết thì phải làm sao? Mình phải chịu trách nhiệm với chuyện này, chuyện này liên quan đến kết cục của mình”. Họ không biết suy xét những chuyện này, đây không phải là phiền phức sao? Không biết suy xét những chuyện này, thì họ có lương tâm và lý trí hay không? (Thưa, không có.) Cho nên, họ có thể xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời, có thể phạm sai lầm lớn như vậy. Nếu có tư duy của nhân tính bình thường, họ sẽ có tấm lòng này, khi người khác vay tiền họ, họ sẽ suy nghĩ: “Vay tiền à? Đây là tiền của Đức Chúa Trời, nếu mình toan tính khiến họ coi trọng mình trong chốc lát và đem tiền của Đức Chúa Trời cho họ mượn, ngộ nhỡ họ không trả nổi thì mình làm sao bù lại được số tiền này? Cho dù có thể bù lại được, vậy hành vi mình cho họ mượn là gì? Tiền của Đức Chúa Trời có thể tùy tiện động đến sao? Cái này không thể tùy tiện động đến, nếu mình động đến thì đó là tính chất gì?”. Họ phải suy xét những điều này, khi có người vay tiền, không được xốc nổi cho họ mượn. Nếu họ không suy xét, hoặc là họ từng suy xét nhưng không nghĩ tới hậu quả này, vậy họ nhìn nhận Đức Chúa Trời thế nào? Đức tin của họ như thế nào? Họ căn bản không thừa nhận sự tồn tại của Đức Chúa Trời, điều này thật đáng sợ! Họ không thừa nhận sự tồn tại của Đức Chúa Trời, không thừa nhận rằng Đức Chúa Trời sẽ định đoạt kết cục của họ, cũng không thừa nhận rằng Đức Chúa Trời sẽ báo ứng lên họ, họ không sợ điều này, không tin có báo ứng. Người bình thường nếu có 50, 60% đức tin thì khi làm việc sẽ thận trọng và chịu sự ràng buộc, nếu có 30% đức tin, có thể cũng sẽ chịu chút ràng buộc, nhưng một khi có cơ hội họ vẫn sẽ thực hiện âm mưu, nếu cơ hội không nhiều hoặc là chưa chín muồi, họ cũng có thể khắc chế lại, chịu chút hạn chế. Còn những người không có chút đức tin nào thì chuyện xấu gì cũng dám làm, làm bất chấp hậu quả, đây chính là súc sinh. Nhìn bề ngoài thì họ là con người, nhưng họ không làm những chuyện mà con người làm, ít nhất có thể nói là súc sinh, nói một cách nghiêm trọng hơn thì chính là tà linh ô quỷ, đến làm gián đoạn và nhiễu loạn công tác của Đức Chúa Trời, chuyên môn phá hoại công tác của Ngài. Đức Chúa Trời quy định họ như vậy thì có chính xác hay không? (Thưa, chính xác.) Quá chính xác, chuyện Ngài làm không có gì sai; chuyện Đức Chúa Trời làm đều chính xác. Ngoài ra, Đức Chúa Trời làm việc, quy định kết cục của con người thì không phải căn cứ vào biểu hiện nhất thời của con người. Người như hai chị lớn này, tin Đức Chúa Trời 20 năm mà lại hồ đồ đến nước ấy, họ đã đặt dấu chấm hết cho kết cục của mình bằng cách này, chuyện này do đâu mà có? Đây không phải là chuyện ngày một ngày hai gây nên, từ sự mưu cầu của họ trong việc tin Đức Chúa Trời, từ con đường họ lựa chọn mà nói, họ không phải là người mưu cầu lẽ thật, một mặt là như vậy. Mặt khác, họ không có chút hứng thú nào với lẽ thật. Nếu có chút hứng thú, nhân tính của họ sẽ sinh ra sự thay đổi. Nhân tính sinh ra sự thay đổi sẽ mang đến cho họ điều gì? Đó là họ làm việc sẽ có chừng mực, có giới hạn, sẽ có một tiêu chuẩn đánh giá, sẽ dựa vào lý trí và tư duy của người bình thường để đánh giá, thấy làm như vậy không thích hợp thì sẽ không làm nữa. Thế nhưng, hai chị lớn này chưa bao giờ mưu cầu lẽ thật, ngay cả giới hạn này, tư duy này họ cũng không có, chuyện gì cũng dám làm, loại bản tính này đã làm khổ và hại chết họ, đây chính là nguyên nhân vì sao họ đã đặt dấu chấm hết cho một đời tin Đức Chúa Trời của họ bằng cách này.
Các ngươi nghe xong hai ví dụ này có ý kiến gì không? Có vài người nói: “Hôm nay đã thu hoạch được quá nhiều, con đã đạt được lẽ thật cao nhất, chính là thứ gì của Đức Chúa Trời thì tuyệt đối đừng động vào, tuyệt đối đừng tìm cách có được, tuyệt đối đừng táy máy, táy máy vào thì sẽ không có kết cục tốt”. Chuyện có phải như vậy hay không? Đây có phải là lẽ thật không? (Thưa, không phải.) Không quan trọng ngươi có táy máy vào thứ đó hay không, mà quan trọng là thái độ trong lòng ngươi đối với Đức Chúa Trời như thế nào. Nếu ngươi có sự kính sợ, có sự sợ hãi đối với Ngài, ngươi thực sự tin vào sự tồn tại của Ngài, thực sự suy nghĩ cho kết cục của mình, thì có vài chuyện ngươi sẽ không làm, ngay cả nghĩ tới thôi cũng không muốn, thì sự thử thách này sẽ không đến với ngươi, mãi mãi cũng sẽ không đến với ngươi. Ngươi sợ có ích gì không? Sợ cũng vô ích. Vậy trong lúc hai chị lớn này làm những chuyện này, Đức Chúa Trời đã làm gì? Đức Chúa Trời để mặc cho chuyện tự phát triển, Ngài đem hai con quỷ này – hai kẻ không phải là con người, căn bản không có chút lòng sợ hãi nào đối với Đức Chúa Trời đặt vào giữa sự cám dỗ của Sa-tan, khiến họ hoàn toàn bị tỏ lộ và hủy diệt. Đó có phải là thái độ của Đức Chúa Trời không? Đây là tâm tính công chính của Đức Chúa Trời, đây là chuyện không đùa được! Thủ đoạn con người giải quyết lẫn nhau, báo ứng lẫn nhau chính là lấy ác báo ác, nhưng Đức Chúa Trời không làm như vậy, Ngài có giới hạn, có nguyên tắc của Ngài, Ngài cũng có phương thức của Ngài. Khi Đức Chúa Trời báo ứng một người, Ngài sẽ khiến ngươi không có cảm giác gì cả, ngươi không có cảm giác, nhưng sự tình ở chỗ Đức Chúa Trời đã được giải quyết xong, sau bao nhiêu năm, nỗi khổ về sau của con người sẽ nổi lên mặt nước từng chút một. Sau khi Đức Chúa Trời tước đi ân điển, phúc lành, sự khai sáng, soi sáng của Đức Chúa Trời hoặc là tước đi tất cả đãi ngộ mà Đức Chúa Trời ban cho loài người bình thường hưởng thụ, thì người đó hoàn toàn không phải là con người nữa, trong mắt Đức Chúa Trời họ không còn là loài thọ tạo nữa, mà là súc vật, là loại khác hẳn. Đức Chúa Trời phán: “Ngài khiến mặt trời mọc lên soi kẻ dữ cùng kẻ lành”, người như vậy là kẻ dữ hay là kẻ lành? Đều không phải. Đối với Đức Chúa Trời, trong danh sách của Ngài đã loại bỏ loại người này, không còn nữa, họ không phải là con người nữa. Định nghĩa của không phải con người là gì? (Thưa, là súc sinh, mặt người dạ thú.) Có thể một số người còn ngưỡng mộ rằng: “Người ta ở bên ngoài làm thuê kiếm tiền, chung sống cùng người ngoại đạo, cuộc sống đó trôi qua rất thoải mái, không hề phải chịu khổ như ở trong hội thánh, mỗi ngày không cần phải thực hiện bổn phận từ sáng đến tối”. Ta nói cho ngươi biết, cuộc sống khổ cực của họ còn ở phía sau, nếu như ai ngưỡng mộ thì có thể học theo, nhà Đức Chúa Trời không hạn chế. Cuộc sống khổ cực của con người không phải chỉ là nỗi đau về xác thịt, mà còn là nỗi đau trong tâm linh, nếu nghiêm trọng đến một mức độ, mức độ mà con người không cách nào hình dung được, ví dụ như sự đả kích về mặt tinh thần, nhất là sự trừng phạt của Đức Chúa Trời, thì chính là sống không bằng chết, nó càng đau khổ hơn, nó là sự đau khổ thuộc về tâm linh. Hai chị lớn này vì làm xằng làm bậy mà xúc phạm tâm tính Đức Chúa Trời nên rơi vào kết cục như vậy. Trong quan niệm của con người, thì dường như bất kể con người phạm sai lầm gì, làm chuyện gì, chỉ cần có thể trở lại trước mặt Đức Chúa Trời nhận tội và hối cải, thì Đức Chúa Trời đều có thể tha thứ, như vậy mới có thể chứng minh rằng tình yêu thương to lớn của Đức Chúa Trời là bao la, rằng Đức Chúa Trời thực sự yêu thương loài người. Đây là quan niệm của con người, qua điều này sẽ thấy được nhận thức của con người đối với Đức Chúa Trời mang theo quá nhiều tưởng tượng, mang theo quá nhiều ý nghĩ của con người, nếu như dựa theo quan niệm của con người để quy định Đức Chúa Trời, vậy thì Đức Chúa Trời làm việc không có nguyên tắc, Ngài không có bất kỳ tâm tính nào, Đức Chúa Trời như vậy là không tồn tại. Chính bởi vì Đức Chúa Trời thực sự tồn tại, Ngài hằng sống, Ngài tồn tại một cách xác thực và thực tế nên Ngài mới có các loại biểu hiện. Biểu hiện này chính là những việc Ngài làm trên con người và các loại thái độ của Ngài đối với con người, đây chính là một chứng cứ của việc Đức Chúa Trời thật sự tồn tại. Có một số người nói: “Dù xử lý những người này thì bản thân họ cũng không có tri giác, vậy sao họ có thể nhìn thấy sự tồn tại của Đức Chúa Trời?”. Chính mấy trường hợp vừa nói đến này khiến người ta thấy được thái độ của Đức Chúa Trời, thấy được tâm tính của Đức Chúa Trời, cũng khiến người ta thấy được nguyên tắc Đức Chúa Trời làm việc và xử lý con người, đây có phải là chứng cứ của việc Đức Chúa Trời thật sự tồn tại hay không? (Thưa, phải.) Nếu vị Đức Chúa Trời này căn bản không tồn tại, Ngài thực sự là không khí, vậy thì Ngài làm bất cứ chuyện gì cũng không có nguyên tắc, không có giới hạn, không nhìn thấy, không sờ được, trống rỗng, sẽ không thực hiện vào trong cuộc sống của con người được, không liên quan đến cuộc sống, hành vi cũng như bất kỳ biểu hiện nào của con người. Đó chỉ là một loại lý luận, chỉ là một loại luận điệu, lời nói suông. Chính vì vị Đức Chúa Trời này tồn tại, cho nên rất nhiều chuyện mà Ngài làm có thể khiến người ta thấy được thái độ của Ngài.
Phần chính của các loại quan niệm, các loại tưởng tượng của con người đối với công tác của Đức Chúa Trời về cơ bản đã thông công xong. Phần chính chủ yếu là gì? Là đủ loại quan niệm, tưởng tượng và niềm tin của con người đối với sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, còn có đủ loại quan niệm và tưởng tượng của con người về sự thay đổi trong tâm tính là gì, ngoài ra, đối với nguyên tắc thực hiện công tác phán xét và hành phạt của Đức Chúa Trời và tiêu chuẩn yêu cầu của Ngài đối với con người, con người cũng có rất nhiều tưởng tượng. Những thứ này đối với con người mà nói, về cơ bản thì khái niệm còn tương đối lộn xộn, không rõ ràng. Sự không rõ ràng này đại diện cho cái gì? Đại diện cho việc con người chưa hiểu lẽ thật, chưa hiểu lẽ thật liên quan đến những công tác mà Đức Chúa Trời đang thực hiện trên con người. Thông qua buổi thông công như hôm nay, về cơ bản các ngươi đã có định nghĩa khái quát về sự phán xét và hình phạt, tiêu chuẩn và yêu cầu của Đức Chúa Trời đối với con người rồi phải không? (Thưa, phải.) Có nhận thức như vậy, tiếp theo việc mà các ngươi nên làm là gì? Trước hết, các ngươi phải nhận thức được Đức Chúa Trời có những tiêu chuẩn và yêu cầu như vậy. Vậy những tiêu chuẩn và yêu cầu này có linh hoạt không? Có phải cao một chút cũng được, thấp một chút cũng được? (Thưa, không.) Tại sao lại nói là không? Từ Thời đại Ân điển cho đến bây giờ, từ con người được Đức Chúa Trời hoàn thiện, người ta có thể thấy rằng tiêu chuẩn này nghiêm ngặt, đã được quy định rõ ràng, và Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ thay đổi. Hai ngàn năm trước không thay đổi thì đến bây giờ Ngài vẫn không thay đổi, chỉ có điều bây giờ người được hoàn thiện sẽ nhiều hơn so với lúc đó, bởi vì lời Đức Chúa Trời phán quá nhiều rồi. Lúc đó làm chút ít công tác, Đức Chúa Trời cũng không nói rõ ràng cho con người biết nhiều lẽ thật hơn. Còn bây giờ, bởi vì Đức Chúa Trời đã nói cho con người biết nhiều lẽ thật hơn, khiến con người biết nhiều hơn nữa về tâm ý của Đức Chúa Trời, Ngài đã bày tỏ ra ngoài tất cả các tiêu chuẩn yêu cầu và lẽ thật của Ngài cho con người biết, đồng thời Thần của Đức Chúa Trời cũng thực hiện công tác phối hợp giữa con người như vậy. Việc hai phương diện này kết hợp lại đã chứng minh rằng Đức Chúa Trời muốn hoàn thiện nhiều người hơn nữa trong thời kỳ này, là một nhóm người, chứ không phải một hai người. Xét từ thông tin này, có phải đa số các ngươi đều có hy vọng được hoàn thiện hay không? Có vài người nói họ không chắc chắn, nếu không chắc chắn thì chúng ta cứ thử xem, thà rằng thất bại còn hơn xin sự tha thứ vào lúc này. Bây giờ xin tha thứ là biểu hiện gì? Là biểu hiện của sự hèn nhát, bất lực, không có khả năng, đáng khinh, là biểu hiện của việc sỉ nhục Đức Chúa Trời. Không được hèn nhát! Những điều kiện, những tiêu chuẩn để được hoàn thiện đều đã được nói một cách rõ ràng, minh bạch cho con người biết, việc kế tiếp con người nên làm chính là thực hành như thế nào, phối hợp với công tác của Đức Chúa Trời như thế nào. Cho dù trong thời gian này ngươi có thất bại bao nhiêu lần, chỉ cần ngươi không xúc phạm đến tâm tính của Đức Chúa Trời, thì ngươi đừng nản lòng, đừng từ bỏ, mà hãy tiếp tục tiến lên. Có người nói tố chất của mình kém. Tố chất của ngươi kém mà Đức Chúa Trời không biết sao? Ngươi đã thừa nhận tố chất của mình kém, thì trong mắt Đức Chúa Trời đã là không tồi rồi, bởi vì nhân loại bại hoại đều kiêu ngạo và tự cho mình đúng, không có mấy ai thừa nhận tố chất của mình kém, ngươi có thể thừa nhận như vậy thì đây là chuyện tốt, là biểu hiện tốt. Có người nói về trải nghiệm, nhận thức được nhân tính của mình không tốt, xấu xa, những người khác sao lại không có nhận thức này? Ngươi có thể thừa nhận nhân tính của mình không tốt, xấu xa, chứng tỏ ngươi hiểu được lời Đức Chúa Trời, đối chiếu được với chính mình, chứng tỏ ngươi có đức tin đối với công tác cứu rỗi con người của Đức Chúa Trời, có tâm chí sẵn lòng thỏa mãn Đức Chúa Trời, ít nhất ngươi cũng đã nói được một câu nói thật này. Bây giờ có người ngoại đạo nào nói mình không tốt không? Chỉ có không tốt cũng phải nói thành tốt, những việc ác họ làm cũng phải nói thành chuyện cực kỳ tốt, hành động cực kỳ tốt, quả là đổi trắng thay đen. Cho nên, cho dù gặp phải cản trở gì, gặp phải thất bại hay vấp ngã gì, ngươi đều phải có thể nhìn thấy hy vọng ở phía trước. Phía trước là ai? Là Đức Chúa Trời! Có lời Đức Chúa Trời dẫn dắt, lời Đức Chúa Trời lãnh đạo, thì con người có thể đi trên con đường đúng đắn.
Hôm nay Ta đã kể ra ba ví dụ, thông công rõ ràng các loại quan niệm, các loại tưởng tượng của con người đối với công tác của Đức Chúa Trời, các ngươi nghe có phải đều hiểu rồi không? (Thưa, đã hiểu rồi.) Các ngươi có thể nghe hiểu, chứng tỏ rằng các ngươi có tố chất, có bộ phận để tiếp nhận lẽ thật, như vậy là có hy vọng hiểu được lẽ thật, đạt được lẽ thật. Tại sao nói về những lẽ thật này thì không thể nói rõ ràng được trong một, hai tiếng hay hai, ba tiếng? Bởi vì trước đó phải nói rất nhiều lời làm nền mới có thể nói chi tiết nội dung phía sau, nếu như phía trước không nói lời nào làm nền thì nội dung phía sau các ngươi sẽ với không tới. Nếu như Ta nói một cách đơn giản, không nói chút lời nào làm nền thì các ngươi nghe sẽ rất vất vả, thế nên Ta kể một vài ví dụ, sau đó mới nói một chút về cả mặt tích cực và tiêu cực, để cho các ngươi nghe hiểu, biết phân định, biết loại chuyện này rốt cuộc là gì, con người nên lĩnh hội thuần túy như thế nào. Các ngươi có thể đạt đến những chuyện này thì Ta mới không nói vô ích. Từ khi con người bắt đầu nghe thấy lẽ thật của phương diện này, bắt đầu có chút khái niệm đối với nó, đến khi có một nhận biết triệt để về lẽ thật của phương diện này, từ sâu thẳm nội tâm biết tại sao Đức Chúa Trời nói những lời này, lẽ thật về phương diện mà Đức Chúa Trời nói liên quan đến mặt nào của tâm tính bại hoại của ngươi, tại sao Ngài muốn nói cho ngươi biết những chuyện này, muốn hiểu được đến mức độ này thì cần một khoảng thời gian. Ngươi phải liên hệ những lẽ thật này với tâm tính bại hoại, lời nói việc làm và mọi suy nghĩ của mình, tức là phải kết hợp với thực tế mà đối chiếu, thì bất giác những lẽ thật này ngươi sẽ dần dần hiểu và thông suốt. Nếu như ngươi không đối chiếu, hôm nay ghi chép xong, ngày mai cầm lên xem, học thuộc lòng, sau khi học thuộc lòng thì phổ biến rộng rãi cho người chưa từng nghe qua, thế là ngươi cảm thấy mình đã đạt được chúng, nhưng thực ra ngươi không đạt được gì cả. Kể từ ngày ngươi biết giảng đạo lý, lẽ thật này đối với ngươi không còn là lẽ thật nữa, ngươi khó mà lần mò ra lẽ thật, như thể lẽ thật đã hoàn toàn biến mất. Một khi lẽ thật trở thành đạo lý đối với ngươi, thì lẽ thật sẽ không dễ đạt được kết quả ở trên ngươi. Ngươi phải biến lẽ thật thành thực tế của mình, thực hành từng bước các phương diện thực tế của mỗi lẽ thật bằng cách tìm kiếm và thông công, cuối cùng đạt đến hiểu lẽ thật này có mấy tình trạng, bao gồm những gì, hiểu được ý Đức Chúa Trời nói những lời này có ý gì, đó mới là lúc ngươi bắt đầu hiểu rõ lẽ thật. Bây giờ thứ mà các ngươi hiểu được là gì? (Thưa, là đạo lý.) Khi mới tiếp xúc với lẽ thật, cái mà con người hiểu được chính là một loại đạo lý, nhưng hiểu được đạo lý cũng không đơn giản, cũng phải cần con người có tố chất nhất định, có năng lực lĩnh hội, cũng phải cần ngươi có một trái tim yên tĩnh, một trái tim chuyên tâm, không chút tạp niệm mà nghe giảng đạo. Ta phát hiện có một số người khi nghe giảng đạo thì cảm thấy: “Những chuyện mà Ngài giảng không đáng giá, con không sẵn lòng nghe. Con sẵn lòng nghe giảng đạo, không sẵn lòng nghe kể chuyện”, và họ cảm thấy chuyện mà Ta kể là chuyện thị phi. Bởi vì mang theo loại quan điểm này nên họ sẽ không nghe lọt tai, thấy buồn ngủ, nghe không hiểu, với không tới, loại người này không có năng lực lĩnh hội lẽ thật, tố chất không đủ. Có những người tự xưng là người thuộc linh, khi nghe Ta kể chuyện thì không sẵn lòng nghe, lúc thì uống nước, lúc thì ngáp, luôn cựa quậy, trong lòng họ nghĩ: “Ngài kể chuyện này là chuyện bên ngoài, quá nông cạn, con không nghe lọt tai. Ngài nên nói nhiều chuyện về cõi thuộc linh, như vậy mới hợp thị hiếu của con”. Có một số người có thái độ này, họ làm lãnh đạo nhiều năm, thích nói về những thứ cao vời, nói về những lý luận hoành tráng, nói ngôn ngữ tầng trời thứ ba, càng nói càng hăng say. Nhưng nếu như kể về những chuyện trong hội thánh, những chuyện thực tế trải nghiệm, nhất là chuyện mổ xẻ động thái tâm lý của con người thì họ luôn cảm thấy đó là nông cạn, không có hứng thú, đây là tâm tính gì? Loại người này có thực tế lẽ thật không? Loại người này công tác thì có thể giải quyết vấn đề hiện thực không? Các ngươi có thích những người như vậy không? Thông công lẽ thật thì không được thoát khỏi hiện thực, người không có hứng thú với hiện thực thì có thể yêu thích lẽ thật không? Ta thấy là không thể, người như vậy chán ghét lẽ thật và rất nguy hiểm.
Ngày 8 tháng 11 năm 2018