38. Mối quan hệ giữa kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác với việc được cứu rỗi

Lời Đức Chúa Trời Toàn Năng trong thời kỳ sau rốt

Nếu con người muốn được cứu rỗi khi tin Đức Chúa Trời, thì quan trọng là phải xem liệu họ có lòng kính sợ Đức Chúa Trời không, liệu Đức Chúa Trời có vị trí trong lòng họ không, liệu họ có thể sống trước mặt Đức Chúa Trời và duy trì một mối quan hệ bình thường với Ngài không. Quan trọng là phải xem liệu con người có thể thực hành lẽ thật và đạt được sự vâng phục Đức Chúa Trời hay không. Đó là con đường và điều kiện để được cứu rỗi. Nếu lòng ngươi không thể sống trước mặt Đức Chúa Trời, nếu ngươi không thường xuyên cầu nguyện và thông công với Đức Chúa Trời, nếu ngươi đánh mất mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời thì ngươi sẽ không bao giờ được cứu rỗi, vì ngươi đã chặn đứng con đường dẫn đến sự cứu rỗi của mình. Nếu ngươi không có bất kỳ mối quan hệ nào với Đức Chúa Trời thì ngươi chỉ có con đường chết. Nếu Đức Chúa Trời không ở trong lòng ngươi và ngươi chỉ tin Đức Chúa Trời ngoài miệng, chỉ tin Đức Chúa Trời trên danh nghĩa thì cũng là vô ích. Cho dù ngươi có thể nói bao nhiêu câu chữ đạo lý, đã phải chịu đựng bao nhiêu khổ cực vì tin Đức Chúa Trời, hay ngươi có ân tứ ra sao cũng vô dụng. Chỉ cần trong lòng ngươi không có Đức Chúa Trời, và ngươi không kính sợ Đức Chúa Trời, thì tin Đức Chúa Trời như thế nào cũng vô dụng. Đức Chúa Trời sẽ phán: “Hãy rời xa khỏi Ta, hỡi kẻ hành ác”. Ngươi sẽ bị xác định là kẻ hành ác. Ngươi sẽ không liên quan đến Đức Chúa Trời; Ngài sẽ không phải là Chúa của ngươi hay Đức Chúa Trời của ngươi. Ngay cả khi ngươi thừa nhận rằng Đức Chúa Trời có sự tể trị lên mọi thứ, và thừa nhận rằng Ngài là Đấng Tạo Hóa, nhưng ngươi không thờ phượng Ngài và cũng không quy phục sự tể trị của Ngài. Ngươi đi theo Sa-tan và ma quỷ; chỉ có Sa-tan và ma quỷ mới là Chúa của ngươi. Nếu trong mọi sự, ngươi đều tin tưởng vào bản thân và làm theo ý mình, nếu ngươi tin rằng số phận nằm trong tay mình, thì điều ngươi tin là chính bản thân ngươi. Ngay cả khi ngươi nói rằng mình tin và thừa nhận Đức Chúa Trời, Ngài cũng không thừa nhận ngươi. Ngươi không có bất cứ quan hệ nào với Đức Chúa Trời, vì vậy ngươi bị định sẵn là đối tượng mà đến cuối cùng sẽ bị Ngài khinh ghét và loại bỏ, bị Ngài trừng phạt và đào thải; Đức Chúa Trời không cứu rỗi những người như ngươi. Những người thực lòng tin Đức Chúa Trời là những người chấp nhận Ngài là Đấng Cứu Rỗi, chấp nhận Ngài là lẽ thật, là đường đi và sự sống. Họ có thể thật lòng dâng mình cho Ngài và thực hiện bổn phận của một loài thọ tạo; họ trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời, thực hành lời Ngài và lẽ thật, và họ bước đi trên con đường mưu cầu lẽ thật. Họ là những người vâng phục sự tể trị và sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, là những người làm theo ý chỉ của Ngài. Chỉ khi con người tin Đức Chúa Trời như thế thì họ mới có thể được cứu rỗi; nếu không, họ sẽ là đối tượng bị lên án. Tin Đức Chúa Trời mà có tâm lý cầu may thì có được không? Tin Đức Chúa Trời mà luôn ôm những quan niệm và tưởng tượng mơ hồ của riêng mình thì có thể đạt được lẽ thật không? Tuyệt đối là không. Khi người ta tin Đức Chúa Trời, họ phải tiếp nhận lẽ thật, phải tin Đức Chúa Trời như cách Ngài yêu cầu, phải vâng phục sự sắp đặt và an bài của Ngài; chỉ khi đó họ mới có thể đạt được sự cứu rỗi. Ngoài cách này ra thì không còn con đường nào khác. Tuyệt đối không được có tâm lý cầu may. Thông công về chủ đề này có phải là rất quan trọng đối với con người không? Đây là một hồi chuông cảnh tỉnh cho các ngươi.

Các ngươi đã nghe những lời giảng này rồi thì nên hiểu được lẽ thật và có thể thấy rõ việc được cứu rỗi là như thế nào. Cho dù con người thích cái gì, mưu cầu và đam mê cái gì thì cũng không quan trọng. Điều quan trọng nhất là tiếp nhận lẽ thật. Suy cho cùng, việc có thể đạt được lẽ thật là điều quan trọng nhất, và con đường nào có thể cho phép ngươi đạt được sự kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác thì là con đường chính xác. Nếu ngươi đã tin Đức Chúa Trời vài năm và luôn chú trọng vào việc mưu cầu những điều không liên quan đến lẽ thật, thì đức tin của ngươi không liên quan gì đến lẽ thật, và cũng không liên quan gì đến Đức Chúa Trời. Ngươi có thể tuyên bố rằng mình tin và thừa nhận Đức Chúa Trời, nhưng Đức Chúa Trời không phải là Chúa của ngươi, Ngài không phải là Đức Chúa Trời của ngươi. Ngươi không chấp nhận rằng Đức Chúa Trời có sự tể trị đối với số phận của ngươi, không quy phục tất cả những gì Đức Chúa Trời sắp đặt cho ngươi và không thừa nhận sự thật rằng Đức Chúa Trời là lẽ thật – nếu vậy thì những hy vọng cứu rỗi của ngươi đã tan tành. Nếu ngươi không thể bước đi trên con đường mưu cầu lẽ thật, thì con đường ngươi đi chính là con đường diệt vong. Nếu tất cả những gì ngươi mưu cầu, chú trọng, cầu nguyện và van xin đều dựa trên lời Đức Chúa Trời, và dựa trên những gì Đức Chúa Trời yêu cầu; nếu ngươi càng lúc càng cảm thấy mình đang vâng phục Đấng Tạo Hóa và thờ phượng Đấng Tạo Hóa, và cảm thấy rằng Đức Chúa Trời là Chúa của ngươi, Đức Chúa Trời của ngươi; nếu ngươi càng lúc càng cam tâm vâng phục tất cả những gì Đức Chúa Trời sắp đặt và an bài cho ngươi, và mối quan hệ của ngươi với Đức Chúa Trời ngày càng gần gũi và bình thường hơn; nếu tình yêu của ngươi đối với Đức Chúa Trời ngày càng tinh sạch và chân thật, vậy thì những sự than phiền và hiểu lầm của ngươi về Đức Chúa Trời và những dục vọng xa xỉ của ngươi đối với Ngài sẽ ngày càng ít đi, và ngươi sẽ hoàn toàn đạt được sự kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. Điều này cũng có nghĩa là ngươi đã đặt chân vào con đường được cứu rỗi. Mặc dù việc bước đi trên con đường cứu rỗi đi kèm với sự sửa dạy, tỉa sửa, phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, và những điều này khiến ngươi phải chịu nhiều đau đớn, nhưng đây là tình yêu của Đức Chúa Trời đã đến với ngươi. Nếu ngươi tin Đức Chúa Trời mà chỉ mưu cầu việc được ban phước, danh lợi và địa vị, và chưa bao giờ được sửa dạy, tỉa sửa, hay phán xét và hành phạt, thì tuy rằng ngươi sống an nhàn, nhưng lòng ngươi sẽ ngày càng xa cách Đức Chúa Trời, ngươi sẽ đánh mất mối quan hệ bình thường với Đức Chúa Trời, và cũng sẽ không sẵn lòng tiếp nhận sự dò xét của Đức Chúa Trời nữa. Ngươi sẽ muốn chính mình làm chủ – điều này chứng tỏ rằng con đường mà ngươi bước đi không phải là con đường đúng đắn. Nếu ngươi đã trải nghiệm công tác của Đức Chúa Trời một thời gian và ngày càng hiểu rõ loài người đã bại hoại sâu sắc đến mức nào, rằng con người rất dễ chống đối Đức Chúa Trời, và nếu ngươi lo lắng có một ngày mình sẽ làm chuyện chống đối Đức Chúa Trời, có thể đắc tội với Đức Chúa Trời và bị Ngài bỏ rơi, thì ngươi sẽ cảm thấy rằng không gì đáng sợ hơn việc chống đối Đức Chúa Trời, và sẽ có lòng kính sợ Ngài. Ngươi sẽ cảm thấy rằng con người tin Đức Chúa Trời thì không thể rời xa Ngài; nếu họ rời xa Đức Chúa Trời, rời khỏi sự sửa dạy, sự phán xét và hình phạt của Đức Chúa Trời, thì điều này tương đương với việc mất đi sự bảo vệ và chăm sóc của Đức Chúa Trời, mất đi các phước lành của Ngài, và con người lúc này coi như xong, họ chỉ có thể càng ngày càng sa đọa, họ sẽ giống như những người trong thế giới tôn giáo, tin Đức Chúa Trời mà vẫn có thể chống đối Ngài. Như vậy họ sẽ trở thành những kẻ địch lại Đấng Christ. Nếu ngươi có thể nhận ra điều này, thì ngươi sẽ cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Xin hãy phán xét con và hành phạt con. Trong mọi việc con làm, con cầu xin Ngài dò xét con. Nếu con làm điều gì đó đi ngược lại với lẽ thật và ý muốn của Ngài, xin Ngài nghiêm khắc phán xét con và hành phạt con. Con không rời xa sự phán xét và hình phạt của Ngài được”. Đây là con đường chính xác mà người ta nên bước đi trong đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời.

– Chỉ với lòng kính sợ Đức Chúa Trời, ta mới có thể đi trên con đường của sự cứu rỗi, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt

Có một câu nói mà các ngươi nên ghi lại. Ta tin rằng câu nói này rất quan trọng, bởi vì đối với Ta, nó xuất hiện trong tâm trí vô số lần mỗi một ngày. Tại sao vậy? Chính vì mỗi lần Ta đối mặt với ai đó, mỗi lần Ta nghe câu chuyện của ai đó, và mỗi lần Ta nghe về sự trải nghiệm hay chứng ngôn về việc tin Đức Chúa Trời của một người, thì Ta luôn luôn sử dụng câu nói này để xác định trong lòng rằng liệu cá nhân này có phải là loại người mà Đức Chúa Trời muốn và loại người mà Đức Chúa Trời thích không. Vậy thì câu nói này là gì? Giờ thì Ta khiến tất cả các ngươi đều thấp thỏm. Khi ta tiết lộ câu nói, có lẽ các ngươi sẽ cảm thấy thất vọng, bởi vì nó là câu nói đầu môi chót lưỡi của một số người trong nhiều năm. Tuy nhiên, Ta chưa một lần nào coi nó là câu nói đầu môi chót lưỡi cả. Câu nói này ngự trong lòng Ta. Vậy thì câu nói này là gì? Đó là: “Tuân theo đường lối của Đức Chúa Trời: Kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác”. Đây chẳng phải là một cụm từ cực kỳ đơn giản sao? Tuy nhiên, mặc dù nó đơn giản, những người đích thực có một sự hiểu biết sâu sắc về những lời này sẽ cảm thấy rằng chúng có tầm quan trọng rất lớn, rằng câu nói này rất có giá trị cho sự thực hành của con người, rằng đó là một câu từ ngôn ngữ cuộc sống chứa đựng thực tế lẽ thật, rằng đó là một mục tiêu suốt đời đối với những ai cố gắng làm thỏa lòng Đức Chúa Trời, và rằng đó là một con đường đời mà bất kỳ ai quan tâm về những ý định của Đức Chúa Trời nên đi theo. … Bất kể hiện tại các ngươi hiểu gì về câu nói này hoặc các ngươi xem nó như thế nào, thì Ta vẫn sẽ cho các ngươi biết điều này: Nếu con người có thể đưa những lời trong câu nói này vào thực hành và trải nghiệm, cũng như đáp ứng tiêu chuẩn kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, thì đảm bảo họ sẽ là những người sống sót và chắc chắn có những kết cục tốt đẹp. Tuy nhiên, nếu ngươi không thể đáp ứng tiêu chuẩn câu nói này đề ra, thì có thể nói rằng kết cục của ngươi là một ẩn số.

– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời

Trong mỗi thời đại công tác của Đức Chúa Trời, Ngài ban cho con người một số lời và cho họ biết một vài lẽ thật. Những lẽ thật này đóng vai trò là đường lối mà con người nên tuân thủ, đường lối mà con người nên tuân theo, đường lối làm cho họ kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, đường lối mà con người nên đưa vào thực hành và tuân theo trong cuộc sống và trong suốt hành trình cuộc đời của mình. Chính vì những lý do này mà Đức Chúa Trời bày tỏ những lời này với loài người. Những lời đến từ Đức Chúa Trời này nên được con người tuân theo, và tuân theo chúng là nhận được sự sống. Nếu một người không tuân theo chúng, không đưa chúng vào thực hành, và không sống bày tỏ ra lời Đức Chúa Trời trong đời mình, thì người này đang không đưa lẽ thật vào thực hành. Hơn nữa, nếu con người đang không đưa lẽ thật vào thực hành, thì họ đang không kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, mà cũng không thể làm Đức Chúa Trời thỏa lòng. Những ai không có khả năng làm Đức Chúa Trời thỏa lòng thì không thể nhận được sự khen ngợi của Ngài, và những người như thế không có hậu.

– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời

Mọi điều Đức Chúa Trời làm đều là cần thiết và mang ý nghĩa phi thường, bởi tất cả những gì Ngài làm nơi con người đều liên quan đến sự quản lý và cứu rỗi nhân loại của Ngài. Đương nhiên, công tác mà Đức Chúa Trời đã làm nơi Gióp không có gì khác cả, mặc dù Gióp trọn vẹn và ngay thẳng trong mắt Đức Chúa Trời. Nói cách khác, bất kể Đức Chúa Trời làm gì hay Ngài làm bằng phương tiện nào, bất kể giá nào, bất kể mục tiêu của Ngài, thì mục đích trong những hành động của Ngài cũng không thay đổi. Mục đích của Ngài là đưa lời Đức Chúa Trời vào con người, cũng như những yêu cầu và tâm ý của Đức Chúa Trời đối với con người; nói cách khác, đó là đưa vào con người tất cả những gì Đức Chúa Trời tin là tích cực theo các bước của Ngài, cho phép con người hiểu lòng Đức Chúa Trời và thấu hiểu thực chất của Đức Chúa Trời, cũng như cho phép con người thuận phục sự tể trị và những sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, do đó cho phép con người đạt được sự kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác – tất cả những điều này là một phương diện của mục đích của Đức Chúa Trời trong tất cả những gì Ngài làm. Phương diện kia là, bởi vì Sa-tan là vật làm nền và đối tượng phục vụ trong công tác của Đức Chúa Trời, con người thường bị giao cho Sa-tan; đây là phương tiện mà Đức Chúa Trời dùng để cho phép con người từ những sự cám dỗ và tấn công của Sa-tan mà nhìn thấy sự độc ác, sự xấu xa, và tính đê hèn của Sa-tan, từ đó khiến con người ghét Sa-tan và có thể biết cũng như nhận ra điều gì là tiêu cực. Quá trình này cho phép họ dần giải phóng bản thân khỏi sự kiểm soát và cáo buộc, sự quấy rầy, và tấn công của Sa-tan – cho đến khi, nhờ lời Đức Chúa Trời, nhận thức và sự thuận phục Đức Chúa Trời của họ, cũng như đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời và sự kính sợ Ngài, mà họ chiến thắng những cuộc tấn công và cáo buộc của Sa-tan; chỉ khi đó họ mới hoàn toàn được giải cứu khỏi quyền lực của Sa-tan. Sự giải cứu con người có nghĩa là Sa-tan đã bị đánh bại, nghĩa là họ không còn là miếng mồi trong miệng Sa-tan nữa – thay vì nuốt chửng họ, Sa-tan đã thả họ ra. Điều này là vì những người như thế ngay thẳng, bởi vì họ có đức tin, sự thuận phục, và kính sợ đối với Đức Chúa Trời, và bởi vì họ hoàn toàn cắt đứt với Sa-tan. Họ khiến Sa-tan hổ thẹn, họ khiến Sa-tan thành kẻ hèn nhát, và họ đánh bại Sa-tan hoàn toàn. Niềm tin chắc của họ vào việc theo Đức Chúa Trời, và sự thuận phục, kính sợ Đức Chúa Trời của họ đánh bại Sa-tan, và làm cho Sa-tan hoàn toàn bỏ cuộc với họ. Chỉ những người như thế này mới thật sự được thu phục bởi Đức Chúa Trời, và đây chính là mục tiêu sau cùng của Đức Chúa Trời trong việc cứu rỗi con người. Nếu họ muốn được cứu rỗi, và muốn được Đức Chúa Trời thu phục hoàn toàn, thì tất cả những ai theo Đức Chúa Trời đều phải đối mặt với những cám dỗ và tấn công cả lớn lẫn nhỏ từ Sa-tan. Những ai vượt lên những cám dỗ và tấn công này và có thể đánh bại Sa-tan hoàn toàn là những người đã được Đức Chúa Trời cứu rỗi. Nói vậy nghĩa là, những ai đã được Đức Chúa Trời cứu rỗi là những người đã trải qua những thử thách của Đức Chúa Trời, là những người đã bị cám dỗ và tấn công bởi Sa-tan vô số lần. Những ai đã được Đức Chúa Trời cứu rỗi thì hiểu tâm ý và những yêu cầu của Đức Chúa Trời, và có thể thuận phục sự tể trị và những sự sắp đặt của Đức Chúa Trời, và họ không từ bỏ con đường kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác giữa những cám dỗ của Sa-tan. Những ai được Đức Chúa Trời cứu rỗi thì là người trung thực, tốt bụng, yêu ghét phân minh, có ý thức công lý và có lý trí, họ có thể quan tâm đến Đức Chúa Trời và trân quý tất cả những gì thuộc về Đức Chúa Trời. Những người như thế không bị Sa-tan trói buộc, rình mò, cáo buộc, hay ngược đãi; họ hoàn toàn tự do, họ đã hoàn toàn được giải phóng và giải thoát. Gióp chỉ là một con người tự do, và đây chính là ý nghĩa của việc tại sao Đức Chúa Trời đã giao ông cho Sa-tan.

– Công tác của Đức Chúa Trời, tâm tính của Đức Chúa Trời, và chính Đức Chúa Trời II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời

Khi Đức Chúa Trời muốn thu nhận lòng của một người nào đó, Ngài sẽ để người đó vượt qua nhiều thử luyện. Trong những cuộc thử luyện này, nếu Đức Chúa Trời không thu nhận được lòng của người đó hay không thấy rằng người này có bất kỳ thái độ nào – nghĩa là, nếu Đức Chúa Trời không thấy người này thực hành hay hành xử theo cách thể hiện sự kính sợ với Ngài, và nếu Ngài không nhìn thấy ở người này một thái độ và quyết tâm lánh khỏi điều ác – thì sau nhiều cuộc thử luyện, Đức Chúa Trời sẽ không còn nhẫn nại với họ, và Ngài sẽ không dung thứ họ nữa. Ngài sẽ không còn thử luyện người này, và Ngài sẽ không còn làm việc trên họ nữa. Vậy thì, điều này có ý nghĩa gì đối với kết cục của người này? Nó có nghĩa là họ không có hậu. Có thể người này đã không làm điều gì xấu xa; có thể họ đã không phá hoại hay gây nhiễu loạn gì. Có thể họ đã không chống đối Đức Chúa Trời một cách công khai. Tuy nhiên, lòng của người này vẫn còn ẩn giấu với Đức Chúa Trời; họ chưa bao giờ có một thái độ và quan điểm rõ ràng đối với Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời không thể thấy rõ rằng họ đã dâng lòng mình cho Ngài hoặc họ đang cố gắng để kính sợ Ngài và lánh khỏi điều ác. Đức Chúa Trời mất kiên nhẫn với những người như thế, và sẽ không còn trả bất kỳ giá nào cho họ, dành bất kỳ sự thương xót nào cho họ hoặc làm việc trên họ. Đời sống đức tin nơi Đức Chúa Trời của một người như thế đã kết thúc. Đó là vì, trong tất cả nhiều thử luyện mà Đức Chúa Trời đưa ra cho họ, Đức Chúa Trời đã không thu nhận được kết quả Ngài muốn. Do đó, có một số người mà Ta chưa bao giờ nhìn thấy sự khai sáng và soi sáng của Đức Thánh Linh trong họ. Điều này có thể được hiểu như thế nào? Những người này có thể đã tin vào Đức Chúa Trời trong nhiều năm, và bề ngoài, họ hành xử một cách sốt sắng; họ đã đọc nhiều sách, xử lý nhiều công việc, ghi chép gần cả chục quyển sổ, và nắm vững rất nhiều lời và giáo lý. Tuy nhiên, không bao giờ có thể nhìn thấy bất kỳ sự tăng trưởng nào trong họ, quan điểm của họ về Đức Chúa Trời vẫn vô hình, và thái độ của họ vẫn không rõ ràng. Nói cách khác, không thể nhìn thấy lòng của họ; chúng luôn luôn được bọc lại và niêm phong – chúng bị cô lập khỏi Đức Chúa Trời. Vì thế, Ngài không nhìn thấy tấm lòng thật sự của họ, Ngài không nhìn thấy trong những người này bất kỳ sự kính sợ thật sự nào đối với Ngài, và hơn nữa, Ngài đã không nhìn thấy những người này tuân theo đường lối Ngài như thế nào. Nếu đến giờ Đức Chúa Trời vẫn chưa thu phục được những người như thế, thì trong tương lai liệu Ngài có thể thu phục được họ không? Ngài không thể! Ngài sẽ tiếp tục thúc đẩy những điều mà không thể đạt được không? Ngài sẽ không tiếp tục! Vậy thì, thái độ hiện tại của Đức Chúa Trời đối với những người như thế là gì? (Ngài cự tuyệt họ và bỏ mặc họ). Ngài bỏ mặc họ!

– Cách nhận biết tâm tính của Đức Chúa Trời và các kết quả mà công tác của Ngài sẽ đạt được, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời

Đức Chúa Trời là để được kính sợ và thuận phục, bởi hữu thể của Ngài và tâm tính Ngài không giống như của một loài thọ tạo và cao hơn của một loài thọ tạo. Đức Chúa Trời là tự hữu và bất diệt, Ngài không phải một loài thọ tạo, và chỉ có Đức Chúa Trời mới đáng được kính sợ và thuận phục; con người không đủ tư cách được như vậy. Vì thế, hết thảy những người đã trải nghiệm công tác của Ngài và thực sự biết Ngài đều nảy sinh lòng kính sợ Ngài. Tuy nhiên, những ai không buông bỏ các quan niệm của họ về Ngài – những ai đơn giản không xem Ngài là Đức Chúa Trời – thì không có lòng kính sợ Ngài, và mặc dù họ theo Ngài, nhưng họ không được chinh phục; họ là những kẻ phản nghịch từ trong bản tính. Vì vậy, những gì Ngài muốn đạt qua công tác là để cho muôn loài thọ tạo đều có lòng kính sợ Đấng Tạo Hóa, thờ phượng Ngài, và quy phục vô điều kiện sự thống trị của Ngài. Đây là kết quả cuối cùng mà mọi công tác của Ngài đều nhằm đạt được. Nếu những người đã trải nghiệm công tác như thế không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời, dù chỉ một chút, và nếu sự phản nghịch của họ trong quá khứ không thay đổi chút nào, thì họ chắc chắn sẽ bị loại bỏ. Nếu thái độ của một người đối với Đức Chúa Trời chỉ là ngưỡng mộ Ngài, hoặc thể hiện sự kính trọng với Ngài từ xa, và không yêu kính Ngài chút nào, thì đây là kết quả mà một người không có lòng yêu kính Đức Chúa Trời có được, và người đó thiếu các điều kiện để được hoàn thiện. Nếu quá nhiều công tác vẫn không thể có được tình yêu đích thực của một người, thì người đó chưa có được Đức Chúa Trời và không thực sự theo đuổi lẽ thật. Một người không yêu kính Đức Chúa Trời thì không yêu lẽ thật và vì thế không thể có được Đức Chúa Trời, càng không thể nhận được sự chấp thuận của Đức Chúa Trời. Những người như thế, bất kể họ trải nghiệm công tác của Đức Thánh Linh như thế nào, và bất kể họ trải nghiệm sự phán xét như thế nào, vẫn không thể có lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Đây là những người có bản tính không thể thay đổi và là những người có tâm tính cực kỳ xấu xa. Hết thảy những ai không có lòng kính sợ Đức Chúa Trời đều sẽ bị loại bỏ, là đối tượng của sự trừng phạt, và sẽ bị trừng phạt y như những kẻ hành ác, thậm chí còn phải chịu khổ hơn những kẻ đã làm điều bất chính.

– Công tác của Đức Chúa Trời và công việc của con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời

Trong niềm tin của họ vào Đức Chúa Trời, nếu con người không có một tấm lòng kính sợ Đức Chúa Trời, nếu họ không có một tấm lòng thuận phục Đức Chúa Trời, thì không những họ sẽ không thể thực hiện bất kỳ công việc gì cho Ngài, mà ngược lại sẽ trở thành những kẻ làm nhiễu loạn công tác của Ngài và những kẻ chống đối Ngài. Tin vào Đức Chúa Trời nhưng không thuận phục hoặc kính sợ Ngài, mà thay vào đó lại chống đối Ngài, là một điều nhục nhã nhất đối với một tín đồ. Nếu các tín hữu chỉ tùy tiện và không kiềm chế trong lời nói của mình và hành xử như những người ngoại đạo, thì họ thậm chí còn tà ác hơn những người ngoại đạo; họ là ma quỷ điển hình. Những kẻ tuôn ra những lời độc hại, hiểm ác trong hội thánh, những kẻ loan tin đồn, xúi giục bất hòa, và lập bè kết phái giữa các anh chị em – lẽ ra họ phải bị trục xuất khỏi hội thánh. Tuy nhiên vì hiện nay là một thời đại khác trong công tác của Đức Chúa Trời, nên những kẻ này bị giới hạn, bởi họ dứt khoát bị bỏ ra. Hết thảy những kẻ đã bị Sa-tan làm cho bại hoại đều có tâm tính bại hoại. Một số chỉ đơn thuần có những tâm tính bại hoại, trong khi những kẻ còn lại thì khác: Không những họ có những tâm tính Sa-tan bại hoại, mà bản tính của họ cũng cực kỳ hiểm độc. Không chỉ lời nói và hành động của họ tỏ lộ những tâm tính Sa-tan bại hoại của mình; hơn nữa, những kẻ này là ma quỷ và Sa-tan đích thực. Hành vi của họ gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của Đức Chúa Trời, nó quấy rầy lối vào sự sống của anh chị em, và nó làm hại đời sống bình thường của hội thánh. Sớm muộn gì thì những con sói đội lốt cừu này cũng phải bị thanh trừ; cần phải tỏ một thái độ không thương xót, một thái độ cự tuyệt đối với những tên tay sai này của Sa-tan. Chỉ điều này mới là đứng về phía Đức Chúa Trời, và những ai không làm được như vậy thì đang lăn lóc trong vũng bùn cùng với Sa-tan. Những người thực sự tin vào Đức Chúa Trời luôn luôn có Ngài trong lòng, và họ luôn luôn mang trong mình một tấm lòng kính sợ Đức Chúa Trời, một tấm lòng yêu kính Đức Chúa Trời. Những ai tin vào Đức Chúa Trời nên làm mọi việc cẩn trọng và khôn khéo, và tất cả những gì họ làm nên phù hợp với những yêu cầu của Đức Chúa Trời và có thể làm thỏa lòng Ngài. Họ không nên cứng đầu, làm bất cứ điều gì mình muốn; điều đó không hợp với sự đúng đắn thánh thiện. Con người không được chạy lồng lộn, nơi nào cũng vẫy lá cờ của Đức Chúa Trời trong khi vênh váo và bịp bợm khắp mọi nơi; đây là loại hành vi phản nghịch nhất. Quốc có quốc pháp và gia có gia quy – và chẳng phải điều đó thậm chí còn hơn thế nữa trong nhà của Đức Chúa Trời sao? Chẳng phải nó có nhiều tiêu chuẩn nghiêm ngặt hơn nhiều sao? Chẳng phải nó nhiều sắc lệnh quản trị hơn nhiều sao? Con người tự do làm những gì họ muốn, nhưng các sắc lệnh quản trị của Đức Chúa Trời không thể bị thay đổi một cách tùy tiện. Đức Chúa Trời là một Đức Chúa Trời không dung thứ cho những sự xúc phạm từ con người; Ngài là một Đức Chúa Trời xử tử con người. Chẳng phải con người thực sự đã biết điều này rồi sao?

– Lời cảnh báo cho những ai không thực hành lẽ thật, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời

Việc ngươi có thể được cứu rỗi hay không thì không tùy thuộc vào mức độ thâm niên của ngươi hay ngươi đã làm việc được bao nhiêu năm, và nó càng không tùy thuộc vào trình độ mà ngươi đã tích lũy. Thay vào đó, nó tùy thuộc vào việc theo đuổi của ngươi có đạt thành quả hay không. Ngươi phải biết rằng những ai được cứu rỗi là “những cái cây” đơm bông kết trái, chứ không phải những cái cây có cành lá tốt tươi và rất nhiều hoa nhưng lại không kết trái. Ngay cả khi ngươi đã dành nhiều năm lang thang trên đường phố, thì điều đó có nghĩa gì? Chứng ngôn của ngươi ở đâu? Lòng kính sợ của ngươi đối với Đức Chúa Trời còn ít hơn nhiều so với lòng yêu ngươi dành cho bản thân mình và những ham muốn xác thịt của mình – chẳng phải loại người này là loại người suy đồi sao? Làm sao họ có thể là một hình mẫu và kiểu mẫu cho sự cứu rỗi được? Bản tính của ngươi không thể sửa được, ngươi quá phản nghịch, ngươi ở ngoài tầm cứu rỗi! Chẳng phải những người như thế là những kẻ sẽ bị đào thải sao? Chẳng phải thời điểm công tác của Ta kết thúc là thời điểm ngày cuối cùng của ngươi đã đến sao? Ta đã thực hiện rất nhiều công tác và phán rất nhiều lời giữa các ngươi – bao nhiêu trong số đó thực sự đã đi vào tai các ngươi? Ngươi đã thuận phục được bao nhiêu trong số đó? Khi công tác của Ta kết thúc, đó sẽ là thời điểm ngươi ngừng chống đối Ta, ngươi ngừng đối nghịch Ta. Khi Ta làm việc, các ngươi thường xuyên có hành động chống lại Ta; các ngươi không bao giờ tuân theo lời của Ta. Ta làm việc của Ta, còn ngươi làm “việc” riêng của ngươi, tự thành lập vương quốc nhỏ của ngươi. Các ngươi chẳng là gì ngoài một bầy cáo và chó, làm mọi thứ đối nghịch với Ta! Ngươi không ngừng cố gắng vòng tay ôm lấy những người cho ngươi tình yêu trọn vẹn của họ – lòng kính sợ của các ngươi ở đâu? Mọi thứ ngươi làm đều là dối trá! Ngươi không có sự thuận phục hay kính sợ, và mọi điều ngươi làm đều là dối trá và phạm thượng! Liệu những người như thế có thể được cứu rỗi không? Những người đàn ông gian dâm và dâm đãng luôn luôn muốn lôi kéo những gái điếm khiêu gợi về phía mình để thỏa mãn bản thân. Ta tuyệt nhiên sẽ không cứu rỗi những con quỷ gian dâm như thế. Ta ghét những con quỷ bẩn thỉu các ngươi, sự dâm đãng và khêu gợi của các ngươi sẽ quăng các ngươi xuống địa ngục. Các ngươi có gì để giải thích không? Những con quỷ bẩn thỉu và tà ma các ngươi thật đáng ghét! Các ngươi thật kinh tởm! Làm sao thứ rác rưởi như thế có thể được cứu rỗi? Liệu những kẻ còn bị giam cầm trong tội lỗi vẫn có thể được cứu rỗi không? Hôm nay, lẽ thật này, con đường này và sự sống này không thu hút các ngươi; thay vào đó, các ngươi bị cám dỗ bởi tội lỗi; bởi tiền bạc; bởi địa vị; bởi danh lợi; bởi sự thỏa mãn xác thịt; bởi vẻ điển trai của đàn ông và sự quyến rũ của đàn bà. Điều gì làm cho các ngươi có đủ tư cách để bước vào vương quốc của Ta? Hình tượng của các ngươi thậm chí còn lớn hơn của Đức Chúa Trời, địa vị của các ngươi thậm chí còn cao hơn của Đức Chúa Trời, chứ đừng nói đến uy tín của các ngươi giữa con người – các ngươi đã trở thành một thần tượng mà con người tôn thờ. Chẳng phải ngươi đã trở thành thiên sứ trưởng rồi sao? Khi kết cục của con người được tỏ lộ, đó cũng là lúc công tác cứu rỗi sẽ gần đến hồi kết thúc, nhiều người trong số các ngươi sẽ là những xác chết ở ngoài tầm cứu rỗi và phải bị loại bỏ. Suốt trong công tác cứu rỗi, Ta nhân từ và tử tế đối với hết thảy mọi người. Khi công tác kết thúc, kết cục của những loại người khác nhau sẽ được tỏ lộ, và vào thời điểm đó, Ta sẽ không còn nhân từ và tử tế nữa, vì kết cục của con người lúc ấy đã được tỏ lộ, và từng người đã được phân chia theo loại của mình, và sẽ không có ích gì trong việc thực hiện thêm bất kỳ công tác cứu rỗi nào nữa, bởi vì thời đại cứu rỗi lúc ấy đã qua, và khi đã trôi qua, nó sẽ không trở lại.

– Sự thực hành (7), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời

Thánh ca liên quan

Chỉ bằng cách kính sợ Đức Chúa Trời mới có thể lánh khỏi điều ác

Con người nên tin vào Đức Chúa Trời với lòng kính sợ Đức Chúa Trời

Loại người nào vô phương cứu rỗi?

Chỉ người theo đuổi lẽ thật mới có thể được Đức Chúa Trời làm cho hoàn thiện

Trước: 37. Kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác là gì

Tiếp theo: 40. Tôn cao và làm chứng cho Đức Chúa Trời là gì

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger