Sự thức tỉnh muộn màng
Năm 2013, em tiếp nhận công tác thời kỳ sau rốt của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Thời gian đó, em rất là nhiệt tâm. Em thường xuyên đọc lời Đức Chúa Trời, đi hội họp, tích cực thông công. Không lâu sau, lãnh đạo giao cho em phụ trách mấy nhóm hội họp, còn hay động viên em mưu cầu lẽ thật và chuẩn bị bồi dưỡng em làm chấp sự chăm tưới. Lúc đó, em thích thú cảm giác được mọi người đề cao, nên đã dốc nhiều sức lực để thông công lẽ thật và giải quyết vấn đề của các anh chị em. Em muốn mọi người coi trọng và nói em có tố chất tốt, nói em mới có đức tin đây thôi mà có thể thông công lẽ thật và giải quyết vấn đề, và nói em là người mưu cầu lẽ thật.
Không lâu sau, chị Tiểu Chân chuyển đến hội thánh của chúng em. Ban đầu, em phụ trách chăm tưới và hội họp với chị ấy. Sau một thời gian, hội thánh tổ chức bầu chọn, mọi người thấy chị ấy mưu cầu tốt, có tố chất tốt, và tiếp nhận lẽ thật thuần chính, nên họ bầu chị ấy làm chấp sự chăm tưới. Lúc đó, thấy các anh chị em coi trọng và lãnh đạo đề cao chị ấy, em cảm thấy mình bị lãng quên nên rất đố kỵ và buồn phiền. Em nghĩ, “Nếu Tiểu Chân không đến đây, lãnh đạo sẽ bồi dưỡng mình, nhưng giờ chị ấy đến và cướp đi ánh hào quang của mình. Nếu chị ấy thực hành lâu hơn chút nữa, thì sẽ qua mặt mình mất, các anh chị em sẽ coi trọng chị ấy hơn mình”. Càng nghĩ em càng thêm buồn đến mức không ngủ được. Để ngăn lãnh đạo bồi dưỡng Tiểu Chân, có vài lần, trước mặt lãnh đạo, em nói, “Tiểu Chân có đức tin chưa lâu, nên không hiểu lẽ thật, không thể giải quyết vấn đề bằng lẽ thật. Chị ấy không phù hợp với công tác chăm tưới”. Lãnh đạo thấy em đang trong tình trạng đố kỵ nên đã thông công với em và chỉ ra vấn đề của em, nói em ham muốn địa vị, đố kỵ với người khác, không chịu nổi khi thấy họ vượt trội hơn, và đây là biểu hiện của nhân tính xấu. Em biết đố kỵ với Tiểu Chân là sai, Đức Chúa Trời ghét việc đó, và em không được tiếp tục như vậy. Sau đó, bề ngoài em kiềm chế bản thân và không nói về Tiểu Chân nữa, nhưng em không thể xóa bỏ được cảm giác ganh tỵ với chị ấy. Có lúc chị ấy không hiểu một số chuyện trong công tác và phải hỏi em, chị ấy còn sắp xếp cho em hỗ trợ những người mới. Việc này khiến em rất chán nản. Em nghĩ, “Tôi từng chăm tưới chị, nhưng giờ có chút địa vị thì chị lại ra lệnh cho tôi. Tôi mà phải nhận lệnh của chị à? Tôi không phải lãnh đạo hay người làm công, nhưng không thua kém chị đâu”. Em nghĩ, “Mình cần phải thông công lẽ thật nhiều hơn để giải quyết vấn đề của các anh chị em. Như thế, họ sẽ nghĩ mình giỏi hơn Tiểu Chân. Rồi mình sẽ có được sự tôn trọng của họ”. Sau đó, cứ mỗi khi thấy các anh chị em gặp khó khăn hay rơi vào tình trạng nào đó, em tích cực tìm lời Đức Chúa Trời để thông công và giải quyết. Mọi người nói em thông công hay và chuyện đó làm em rất vui.
Có lần Tiểu Chân chỉ ra vấn đề của Lương Tĩnh, Lương Tĩnh không tiếp thu, lại chia sẻ thành kiến và quan điểm về Tiểu Chân ở buổi hội họp, và em mừng thầm khi nghe thấy: “Thật tốt khi mọi người đều có quan điểm về chị ấy. Như thế chị ấy sẽ không có chỗ trong lòng các anh chị em”. Lương Tĩnh nói xong em liền nhảy vào, “Tôi cũng không có ấn tượng tốt về Tiểu Chân. Chị ấy là chấp sự chăm tưới mà tôi thấy tỏ vẻ như là quan chức ấy. Chị ấy lúc nào cũng ra lệnh cho tôi”. Em nói xong, Lương Tĩnh và một chị khác tán thành ngay. Em nói Tiểu Chân chỉ có những kinh nghiệm nông cạn, không hiểu hết mọi việc, và phát ngôn quá gay gắt. Nghe em nói xong, thành kiến của Lương Tĩnh với Tiểu Chân ngày càng lớn. Sau đó, ở những buổi hội họp, khi Tiểu Chân thông công, Lương Tĩnh vừa nghe vừa bĩu môi, có lúc chị ấy không ngừng tranh cãi với Tiểu Chân về những tiểu tiết, khiến cho Tiểu Chân cảm thấy bị kìm hãm, chuyện đó cũng quấy phá và quấy nhiễu đời sống hội thánh. Lúc đó, em thông công với Lương Tĩnh rằng chị ấy nên đối xử đúng đắn với Tiểu Chân, nhưng thực ra em rất vui. Lương Tĩnh luôn tranh cãi với Tiểu Chân, chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới tình trạng của Tiểu Trân. Nếu trở nên tiêu cực và không thực hiện tốt bổn phận, chị ấy sẽ bị thay thế, rồi các anh chị em sẽ không coi trọng chị ấy nữa. Em rất bất ngờ khi tình trạng của Tiểu Chân nhanh chóng xoay chuyển. Chị ấy vẫn gánh vác trong bổn phận, bảo vệ công tác của hội thánh, và rất công tâm. Vài tháng sau, Tiểu Chân được chọn để lãnh đạo hội thánh. Các anh chị em có chuyện gì cũng tới gặp chị ấy, và em cảm thấy rất buồn phiền, em nghĩ, “Mình cũng có thể giải quyết một số vấn đề, đâu kém gì chị ấy. Nhưng giờ chị ấy là lãnh đạo, và từ giờ trở đi, trong lòng anh chị em chỉ có chị ấy, không phải mình”. Nghĩ vậy, em cảm thấy đố kỵ và chống đối. Sau đó, ở những buổi hội họp, em không muốn nói chuyện với chị ấy. Khi thấy thông công của chị ấy không rõ ràng hay công tác nào chưa thực hiện tốt, em không cố gắng bù đắp hay sửa chữa. Em còn cố ý bới móc vấn đề và nhắm vào chị ấy để khiến chị ấy bẽ mặt.
Một lần đang hội họp, thì có hai chị cãi nhau vì trái quan điểm, việc đó quấy nhiễu đời sống hội thánh. Em đã báo cáo chuyện đó cho Tiểu Chân, nhưng chị ấy bận việc khác và không thông công kịp thời để giải quyết vấn đề, nên em chộp lấy vấn đề này và nói trước mặt mọi người rằng chị ấy không thực hiện công tác thực tế, với hy vọng các anh chị em sẽ không coi trọng chị ấy nữa. Nghe xong một số người trách chị ấy vì không giải quyết vấn đề, khiến cho Tiểu Chân cảm thấy tiêu cực và bẽ mặt. Sau đó, ở những buổi hội họp, khi có mặt Tiểu Chân, em luôn ganh đua với chị ấy. Để khiến chị ấy bẽ mặt và mọi người sẽ coi trọng em, nếu ai có vấn đề, em liền tìm ra những phần trong lời Đức Chúa Trời sẽ giải quyết được và thông công đầu tiên. Em sợ Tiểu Chân sẽ làm trước em, và như thế thì em sẽ không có cơ hội thể hiện. Khi Tiểu Chân thấy em đã giải quyết vấn đề, chị ấy không thông công thêm nữa. Vì em thường xuyên thể hiện, nên mọi người rất ngưỡng mộ em. Ở các buổi họp trưởng nhóm, anh chị em đều tập trung sự chú ý vào em, và chờ em thông công để giải quyết bất cứ tình trạng hay khó khăn họ gặp phải. Một trưởng nhóm nhắc nhở em rằng em đang mưu cầu danh tiếng và địa vị, đi theo con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng em không bận tâm mấy. Sau đó, Tiểu Chân ngày càng cảm thấy bị kìm hãm trong bổn phận, ít thông công hơn khi hội họp, và rơi vào tình trạng tiêu cực. Chị ấy nói tốt hơn cứ để em đảm nhận bổn phận của chị ấy. Chị ấy còn xin từ chức mấy lần. Cuối cùng chị ấy bị tước bổn phận vì ở trong tình trạng xấu và thực hiện bổn phận kém hiệu quả. Biết tin em rất vui. Em nghĩ, “Cuối cùng Tiểu Chân cũng bị tước bổn phận. Giờ chị ấy sẽ không giỏi giang gì hơn mình, và các anh chị em sẽ không nghĩ mình kém hơn chị ấy”.
Không lâu sau, lãnh đạo biết về biểu hiện của em và đến thông công với em. Chị ấy phơi bày em vì không đóng vai trò tích cực trong hội thánh, ganh đua với Tiểu Chân vì địa vị, thường xuyên hạ thấp, phán xét và bài xích chị ấy, khiến chị ấy cảm thấy tiêu cực và bị kìm hãm, không thể thực hiện bổn phận, cuối cùng khiến chị ấy muốn từ chức. Đây là công kích chị ấy và quấy phá công tác của hội thánh. Lãnh đạo còn chỉ ra rằng việc giải quyết vấn đề của các anh chị em chỉ giúp em trông có vẻ có trách nhiệm, nhưng thực ra là phô trương và đưa người khác đến trước mình. Cuối cùng, lãnh đạo đã tước bổn phận của em, bảo em cách lyvà tự phản tỉnh. Ngoài mặt em tiếp nhận và vâng phục, nhưng trong lòng em thấy bất công. Em nghĩ lãnh đạo đang chộp lấy sự bại hoại của em và làm lớn chuyện để trừng phạt em. Em trút sự bất mãn ở các buổi hội họp, nói rằng lãnh đạo không làm theo nguyên tắc, độc đoán trừng phạt em, vân vân, khiến mọi người ở đó về phe em và phán xét lãnh đạo. Vì em ganh đua vì địa vị, kéo bè kết phái và quấy phá nghiêm trọng công tác hội thánh, và em không chút phản tỉnh hay ăn năn sau khi bị phơi bày và xử lý mấy lần bởi lãnh đạo, người làm công và các anh chị em, nên cuối cùng em đã bị khai trừ khỏi hội thánh.
Khi nghe về quyết định này, em hết sức choáng váng. Em đau khổ tột cùng và khóc rất nhiều. Em nghĩ, “Đối với mình vậy là hết thật rồi. Mình sẽ không thể sống đời sống hội thánh và thực hiện bổn phận, và sẽ không được cứu rỗi”. Em cảm thấy bị khai trừ khỏi nhà Đức Chúa Trời nghĩa là em bị phơi bày và loại bỏ. Khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, em không cảm thấy sự hiện diện của Ngài, và cảm thấy như mình đã chết. Đối diện với sự thật rằng các anh chị em đã phơi bày mình, ngoài đau khổ và tuyệt vọng, em còn thấy ấm ức và chống đối. Em nghĩ, “Mình đã làm nhiều việc tà ác vậy sao? Nghiêm trọng thế à? Sao thế lại là phô trương? Chẳng phải những gì mình thông công đều dựa vào lời Đức Chúa Trời sao? Hơn nữa, mình mới chỉ tin vào Đức Chúa Trời 4 năm, vẫn chưa hiểu lẽ thật, nên dù mình bộc lộ chút bại hoại và làm chút việc ác, thì có thể tha thứ được mà, đâu đáng để bị khai trừ, đúng không? Chẳng phải xử lý mình như vậy là quá nghiêm khắc sao?”. Càng nghĩ, em càng thấy tiêu cực. Em nghĩ không còn hy vọng cho đức tin vào Đức Chúa Trời, và em không còn kết cục hay đích đến nào nữa. Nước mắt em rơi lúc nào không hay. Suốt mấy ngày, em mất ăn mất ngủ, lòng em đau đớn như dao cắt. Em cảm thấy khổ sở và tuyệt vọng. Em nghĩ, “Cuộc sống quá đau khổ, tốt hơn là chết đi và kết thúc mọi thứ”.
Mấy ngày sau, một chị đến gặp em. Chị ấy thấy gương mặt nhợt nhạt, nghe giọng nói yếu ớt của em, và nhận ra em vẫn trong tình trạng tiêu cực, nên chị ấy đã thông công với em. Chị ấy nói, “Khi hoàn cảnh như thế này xảy đến, Đức Chúa Trời muốn chúng ta tự phản tỉnh, hiểu nguồn cơn của sự tà ác, ăn năn và thay đổi. Nhưng nếu chúng ta không hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời, không tự phản tỉnh một cách đúng đắn, mà vẫn quan tâm đến kết cục của riêng mình, chống đối cách thụ động, nếu tiếp tục thế này, chúng ta sẽ thực sự bị Đức Chúa Trời căm ghét và loại bỏ”. Chị ấy còn nói, “Những việc ác của dân thành Ni-ni-ve đã xúc phạm Đức Chúa Trời, nhưng khi họ chân thành thú tội và ăn năn với Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời đã rút lại cơn thạnh nộ và bao dung với họ”. Nghe thông công của chị ấy, em cảm thấy nhẹ nhõm hơn.
Khi chị ấy về, em mở cuốn sách lời Đức Chúa Trời và đọc được đoạn này. “Bất kể Đức Chúa Trời đã tức giận như thế nào với người dân thành Ni-ni-ve, ngay khi họ tuyên bố nhịn ăn và mặc bao gai cùng ngồi trong tro, lòng Ngài bắt đầu dịu lại, và Ngài bắt đầu đổi ý. Khi Ngài tuyên bố với họ rằng Ngài sẽ phá hủy thành của họ – trong khoảnh khắc trước khi họ xưng tội và sám hối về tội lỗi của mình – Đức Chúa Trời vẫn giận dữ với họ. Một khi họ đã thực hiện một loạt các hành động ăn năn, cơn giận dữ của Đức Chúa Trời với người dân của Ni-ni-ve dần dần chuyển thành lòng nhân từ và sự khoan dung với họ. … Đức Chúa Trời đã dùng thái độ của Ngài để nói cho người dân rằng: Không phải Đức Chúa Trời không khoan dung với con người, hay không phải Ngài không muốn rủ lòng nhân từ với họ; mà chính là họ hiếm khi thực sự hối cải trước Đức Chúa Trời, và người ta hiếm khi thực sự rời bỏ con đường xấu ác của họ và buông bỏ bạo lực khỏi tay mình. Nói cách khác, khi Đức Chúa Trời tức giận với con người, Ngài hy vọng rằng con người có thể thực sự ăn năn và thực tình Ngài hy vọng thấy được sự ăn năn đích thực của con người, khi đó Ngài sẽ hào phóng ban cho họ lòng nhân từ và sự khoan dung. Điều này nói lên rằng cách hành xử xấu ác của con người dẫn đến cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời, trong khi đó Ngài ban lòng nhân từ và khoan dung cho những người lắng nghe và thực sự ăn năn trước Ngài, cho những người có thể rời khỏi con đường xấu ác của họ và từ bỏ bạo lực khỏi tay mình. Thái độ của Đức Chúa Trời bộc lộ rất rõ ràng qua cách Ngài đối xử với người dân thành Ni-ni-ve: hoàn toàn không khó để nhận được lòng nhân từ và khoan dung của Đức Chúa Trời; và điều Ngài cần là sự ăn năn thực sự của một người. Miễn sao con người rời khỏi con đường xấu ác của họ và buông bỏ bạo lực trong tay, Đức Chúa Trời sẽ hồi tâm chuyển ý và thay đổi thái độ của Ngài đối với họ” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất II, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Đọc xong lời Đức Chúa Trời, em rất cảm động. Người dân Ni-ni-ve đã gây ra quá nhiều tội ác và xúc phạm Đức Chúa Trời, Ngài sẽ trút thảm họa để hủy diệt họ. Nhưng khi họ nghe lời tuyên bố của Giô-na, họ đã chân thành thú tội, ăn năn và không còn hung hăng, ngừng gây tội ác, lúc đó Đức Chúa Trời đã đổi ý, tỏ lòng dung thứ và bao dung với họ. Lời Đức Chúa Trời đã cho em hy vọng. Việc em làm đã quấy phá công tác của hội thánh, xúc phạm tâm tính của Đức Chúa Trời, nên em đã bị khai trừ khỏi hội thánh. Đây là cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời dành cho em, và sự hành phạt công chính của Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời không định loại bỏ em, Đức Chúa Trời muốn em nhận ra tâm tính bại hoại và chân thành ăn năn. Nhưng em đã làm gì? Em không phản tỉnh, không thú tội với Đức Chúa Trời và ăn năn. Em vẫn tiêu cực và chống đối, em còn muốn chống lại Đức Chúa Trời bằng cái chết của mình. Em không biết cái gì là tốt cho mình. Em thật quá vô lý! Dù em bị hội thánh khai trừ, công tác cứu rỗi của Đức Chúa Trời vẫn chưa kết thúc, nên em không được từ bỏ. Em phải phản tỉnh, tìm kiếm lẽ thật để hóa giải tâm tính bại hoại của mình, và ăn năn với Đức Chúa Trời.
Sau đó em cầu nguyện và đọc lời Đức Chúa Trời để phản tỉnh. Có lần em đọc được hai đoạn lời Đức Chúa Trời này, “Một số người đặc biệt tôn sùng Phao-lô. Họ thích ra ngoài, diễn thuyết và làm việc, họ thích tham dự các buổi tụ họp và rao giảng, và họ thích mọi người lắng nghe họ, tôn thờ họ, và xoay quanh họ. Họ thích có địa vị trong tâm trí người khác, và họ đánh giá cao việc người khác coi trọng hình ảnh mà họ thể hiện. Hãy cùng phân tích bản tính của họ từ những hành vi này: Bản tính của họ là gì? Nếu họ thực sự cư xử như vậy, thì cũng đủ cho thấy họ kiêu ngạo và tự phụ. Họ không thờ phụng Đức Chúa Trời chút nào; họ tìm kiếm một địa vị cao hơn và mong muốn có quyền lực với người khác, chiếm hữu họ, và có địa vị trong tâm trí họ. Đây là hình ảnh điển hình của Sa-tan. Các khía cạnh nổi bật trong bản tính của họ là sự kiêu ngạo và tự phụ, không sẵn lòng thờ phụng Đức Chúa Trời, và tham muốn được người khác tôn thờ. Những hành vi như vậy có thể cho ngươi một cái nhìn rất rõ ràng về bản tính của họ” (“Làm thế nào để biết bản tính con người” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Chẳng hạn, nếu ngươi có một tâm tính kiêu ngạo và tự phụ, thì việc bảo ngươi đừng đối nghịch với Đức Chúa Trời sẽ chẳng kết quả gì, ngươi không thể cưỡng lại, nó nằm ngoài tầm kiểm soát của ngươi. Ngươi sẽ không chủ tâm làm điều đó; ngươi sẽ làm điều đó dưới sự chi phối của bản tính kiêu ngạo và tự phụ của mình. Sự kiêu ngạo và tự phụ của ngươi sẽ khiến ngươi coi thường Đức Chúa Trời và xem Ngài là tầm thường; chúng sẽ khiến ngươi tự đề cao bản thân, không ngừng khoe khoang về bản thân; chúng sẽ khiến ngươi coi khinh những người khác, sẽ khiến ngươi không có ai trong lòng ngoài bản thân mình; chúng sẽ khiến ngươi nghĩ rằng mình cao siêu hơn cả những người khác lẫn Đức Chúa Trời, và cuối cùng sẽ khiến ngươi ngồi vào chỗ của Đức Chúa Trời và đòi hỏi mọi người phải quy phục mình, sùng bái những suy nghĩ, ý tưởng và những quan niệm của mình như là lẽ thật. Hãy xem có bao nhiêu tội ác được thực hiện bởi những người chịu sự chi phối của bản tính kiêu ngạo và tự phụ của họ!” (“Chỉ có theo đuổi lẽ thật mới đạt được sự thay đổi trong tâm tính” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Lời Đức Chúa Trời đã vạch trần biểu hiện của em. Em có tâm tính kiêu ngạo và tự nên công chính. Em thích thể hiện khi thông công và khiến mọi người tập trung quanh em, em muốn có chỗ trong lòng mọi người và khiến họ coi trọng và sùng bái em. Em đã sống trọn một bản tính ma quỷ như Sa-tan. Ban đầu, lãnh đạo tập trung bồi dưỡng em, và em rất thích thú. Sau đó, em thấy lãnh đạo đề cao và bồi dưỡng Tiểu Chân. Em cảm thấy khủng hoảng và lo sợ chị ấy sẽ thế chỗ của em, nên em đố kỵ và ganh đua với chị ấy trong mọi việc, mong chèn ép được chị ấy. Ở những buổi hội họp, cứ mỗi khi có mặt Tiểu Chân, em cố thông công trước chị ấy sợ chị ấy sẽ cướp mất sự chú ý dành cho mình. Để khiến các anh chị em coi trọng, em tích cực dùng lời Đức Chúa Trời để thông công và giải quyết bất cứ vấn đề hay tình trạng nào anh chị em gặp phải để thể hiện rằng em hiểu lẽ thật và em có tinh thần trọng trách đối với lối vào sự sống của họ. Em còn khoe khoang khắp nơi, mê hoặc các anh chị em coi trọng và sùng bái em, khiến họ đến với em khi gặp khó khăn hay tình trạng. Chẳng phải em đang đưa mọi người tới trước mình sao? Em thấy mình đã trở nên kiêu ngạo tới mức chẳng còn tôn trọng ai và không có Đức Chúa Trời trong lòng. Không phải em tranh giành địa vị với con người nào, mà là em tranh giành mọi người với Đức Chúa Trời, xúc phạm tâm tính Ngài.
Sau đó, em lại đọc lời Đức Chúa Trời. “Bất kể những kẻ địch lại Đấng Christ thực hiện bổn phận gì, họ cũng sẽ cố gắng đặt mình vào vị trí cao cấp và đảm nhiệm. Họ không bao giờ có thể bình tĩnh làm một người đi theo bình thường. Và điều gì khiến họ hào hứng nhất? Đó là đứng trước mặt mọi người ra lệnh và mắng mỏ mọi người, bắt mọi người làm theo những gì họ nói. Họ không bao giờ nghĩ về việc làm thế nào để thực hiện bổn phận của mình một cách đúng đắn – và trong khi thực hiện bổn phận của mình, họ càng không tìm kiếm các nguyên tắc của lẽ thật để thực hành lẽ thật và đáp ứng Đức Chúa Trời. Thay vào đó, họ vắt óc tìm những cách để khiến bản thân nổi bật, khiến các lãnh đạo đánh giá cao về họ và đề bạt họ, để bản thân họ có thể trở thành lãnh đạo hoặc người làm công, và có thể lãnh đạo những người khác. Đây là điều họ suốt ngày nghĩ đến và hy vọng. Những kẻ địch lại Đấng Christ không sẵn lòng bị người khác lãnh đạo, cũng như không sẵn lòng trở thành một người đi theo bình thường, càng không lặng lẽ thực hiện bổn phận mà không phô trương ầm ĩ. Dù bổn phận của họ là gì, nếu họ không thể ở vị trí nổi bật, nếu họ không thể hơn những người khác, và là lãnh đạo, thì họ không tìm thấy mục đích nào trong việc thực hiện bổn phận, trở nên tiêu cực và bắt đầu lười biếng. Không có sự khen ngợi hay ngưỡng mộ của những người khác, thì điều đó lại càng không thú vị đối với họ và họ lại càng không muốn thực hiện bổn phận. Nhưng nếu họ có thể ở vị trí nổi bật khi thực hiện bổn phận và có tiếng nói sau cùng, thì họ cảm thấy được củng cố, và sẽ chịu đựng bất kỳ khó khăn nào. Trong thâm tâm, họ hiểu rõ bổn phận của mình là phải đứng trên vai người khác, thỏa mãn nhu cầu vượt trội hơn người khác và thỏa mãn mong muốn cũng như tham vọng của mình. Trong khi thực hiện bổn phận của mình, ngoài tính đua tranh cao – đua tranh về mọi mặt để nổi bật, để đứng đầu, để vượt lên trên những người khác – họ cũng suy nghĩ về cách để củng cố địa vị, danh tiếng và uy tín của mình. Nếu có bất kỳ ai đe dọa địa vị hoặc danh tiếng của họ, họ sẽ không từ chuyện gì, không chút khoan nhượng, để hạ bệ và loại trừ người đó. Họ thậm chí còn sử dụng những phương tiện đê hèn để tấn công những người có thể mưu cầu lẽ thật, những người thực hiện bổn phận của mình với lòng trung thành và ý thức trách nhiệm. Họ cũng đầy lòng đố kỵ và thù ghét đối với những anh chị em thực hiện bổn phận xuất sắc. Họ đặc biệt căm ghét những người được các anh chị em khác tán thành và chấp thuận; họ tin rằng những người như vậy là mối đe dọa nghiêm trọng đối với những gì họ phấn đấu, đối với địa vị và uy tín của họ, và họ thề trong lòng rằng: ‘Nếu có tôi thì không có anh, có anh thì không có tôi, chúng ta không đội trời chung, nếu tôi không hạ bệ anh và loại anh đi thì tôi không phải là tôi nữa!’ Đối với những anh chị em có quan điểm khác, những người vạch trần một số khuyết điểm của họ, hoặc những người đe dọa địa vị của họ thì họ gay gắt: Họ nghĩ ra bất cứ điều gì có thể để làm gì đó với những người ấy, để phỉ báng và hạ thấp những người ấy, và chừng nào làm được như vậy thì họ mới thôi” (“Họ thực hiện bổn phận của mình chỉ để làm bản thân nổi bật và thỏa mãn những lợi ích, tham vọng của riêng mình; họ không bao giờ xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và thậm chí bán rẻ những lợi ích ấy để đổi lấy vinh quang cá nhân (Phần 7)” trong Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). “Bất kể những kẻ địch lại Đấng Christ lừa dối mọi người và cố gắng lôi kéo họ vào bằng phương tiện nào, có một điều chắc chắn là: Vì lợi ích của quyền lực và địa vị của riêng họ, họ sẽ vắt óc và dùng mọi phương tiện tùy ý để đạt được mục đích của họ. Một điều khác cũng chắc chắn là: bất kể họ đang làm gì, họ cũng không thực hiện bổn phận của mình, càng không nhằm làm tròn bổn phận của mình, mà là nhằm đạt được mục đích của mình là nắm quyền trong hội thánh. Hơn nữa, bất kể họ đang làm gì, họ cũng không bao giờ xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời, càng không suy xét gì đến lợi ích của những người được Đức Chúa Trời chọn. Ngươi sẽ không bao giờ tìm thấy điều nào trong hai điều này trong từ điển của những kẻ địch lại Đấng Christ; cả hai đều hiển nhiên không có trong họ. Dù họ ở cấp lãnh đạo nào đi nữa, họ cũng hoàn toàn không quan tâm đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và những người được chọn. Theo suy nghĩ của họ, những lợi ích và công việc của nhà Đức Chúa Trời không liên quan gì đến họ cả. Cả hai đều bị họ khinh thị; họ chỉ suy xét đến địa vị và lợi ích của riêng họ thôi. Từ đây, chúng ta có thể thấy rằng bản tính và thực chất của những kẻ địch lại Đấng Christ không chỉ tà ác, mà còn vô cùng ích kỷ và đáng khinh. Họ hành động chỉ để phục vụ danh vọng, tiền tài và vị thế của bản thân, họ không quan tâm người khác sống hay chết, và họ sẽ sử dụng bất kỳ phương pháp vô lại nào để trấn áp, loại trừ và tấn công tàn bạo bất kỳ ai đe dọa đến địa vị của họ” (“Họ lừa dối, lôi kéo, đe dọa và kiểm soát mọi người” trong Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). Lời Đức Chúa Trời thật sự xuyên thấu tâm can. Em thấy biểu hiện và tâm tính của mình giống như kẻ địch lại Đấng Christ mà Đức Chúa Trời vạch trần. Những kẻ địch lại Đấng Christ ích kỷ, hèn hạ, và chỉ quan tâm đến danh tiếng và địa vị. Họ không bao giờ quan tâm cảm xúc của người khác hay bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời. Nếu có ai đe dọa địa vị của họ, họ sẽ ganh tỵ, căm ghét, thậm chí không ngần ngại công kích và bài xích những người đó, và không thỏa mãn cho đến khi những người đó tiêu cực và gục ngã. Em nhận ra mình cũng giống vậy. Khi Tiểu Chân được bầu làm chấp sự chăm tưới, được lãnh đạo hết sức quý trọng, và các anh chị em ngưỡng mộ, em coi Tiểu Chân là cái gai trong mắt, luôn muốn hạ thấp chị ấy. Em còn nhiều lần phơi bày thiếu sót của chị ấy trước mặt lãnh đạo, vô cùng mong muốn lãnh đạo sẽ thay thế chị ấy, để các anh chị em tập trung vào em. Là chấp sự chăm tưới, Tiểu Chân có quyền sắp xếp cho em làm mọi việc, nhưng em không thể tuân phục. Em luôn tỏ thái độ và không chịu hợp tác với công tác của chị ấy, khiến chị ấy cảm thấy bị kìm hãm trong bổn phận. Chị ấy mới bắt đầu làm lãnh đạo, nên một số công tác không chỉnh chu là chuyện bình thường. Nhưng để khiến các anh chị em phản bác và không nghe lời chị ấy, em soi mói, chộp lấy sai lầm và thiếu sót trong bổn phận của chị ấy, phơi bày thiếu sót, hạ thấp, phán xét chị ấy trước mặt các anh chị em, gây bất hòa sau lưng, khiến một số người có thành kiến với chị ấy, không hỗ trợ công tác, cô lập và bài xích chị ấy. Việc này không chỉ quấy phá đời sống hội thánh, mà còn khiến chị ấy bẽ mặt và tiêu cực, cuối cùng muốn từ chức. Nhìn Tiểu Chân thấy tiêu cực và nặng nề, em không tự trách mình, mà còn vui mừng trên sự bất hạnh của chị ấy, cảm thấy em có thể nổi trội khi chị ấy bị tước bổn phận. Em quá hiểm độc và hèn hạ! Dù Tiểu Chân mới có đức tin một thời gian ngắn, có một số khuyết điểm và thiếu sót, chị ấy có tố chất tốt, trung thực và công tâm. Khi thấy người khác có vấn đề và sai lầm, chị ấy dẫn dắt và giúp đỡ, còn có thể bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Có chị ấy làm lãnh đạo rất có lợi cho công tác của nhà Đức Chúa Trời và lối vào sự sống của các anh chị em, em nên hỗ trợ và hợp tác với chị ấy. Nhưng để bảo vệ danh tiếng và địa vị, không màng đến công tác của nhà Đức Chúa Trời, em không ngần ngại dùng mọi cách để tranh đoạt với chị ấy và chèn ép chị ấy vì lòng đố kỵ, em sẽ không chịu ngừng đến khi chị ấy không thực hiện bổn phận được nữa. Việc em làm không chỉ gây đau khổ và làm hại Tiểu Chân, mà còn quấy phá và quấy nhiễu công tác của nhà Đức Chúa Trời. Em thấy mình có nhân tính rất xấu và một tâm tính hiểm độc. Để đạt được địa vị, em sẵn sàng trừng trị người khác. Em nghĩ tới con rồng lớn sắc đỏ, để củng cố chế độ, khi có người hoặc thế lực nào đe dọa địa vị của nó, nó dùng đủ mọi cách để đánh bại và chỉ trích, thậm chí xử tử họ. Em thấy bản tính của mình hiểm độc và tà ác như của con rồng lớn sắc đỏ! Nhận ra điều này, em cảm thấy hối hận và căm ghét bản thân. Đức Chúa Trời đã cho em cơ hội thực hiện bổn phận để em có thể mưu cầu lẽ thật, loại bỏ sự bại hoại, hợp tác với các anh chị em, học hỏi từ điểm mạnh của họ, và bảo vệ công tác hội thánh. Thay vào đó, em phá hoại và nhiều lần hành ác quấy phá công tác của nhà Đức Chúa Trời. Em vô lương tâm và vô nhân tính, không xứng đáng được gọi là con người. Các anh chị em nhắc nhở em nhiều lần để giúp em, nhưng em bị danh tiếng và địa vị làm mê muội, nên không thèm để tâm đến lời của họ, thậm chí còn chống đối và không muốn ăn năn. Khi bị tước bổn phận, em không phản tỉnh, mà lại than phiền về sự bất bình của mình, thể hiện sự bất mãn với lãnh đạo, lôi kéo các anh chị em phán xét lãnh đạo, không ngừng quấy nhiễu đời sống hội thánh. Em một mực chọn con đường cùng này, em chỉ bắt đầu phản tỉnh và hiểu bản thân khi bị khai trừ khỏi hội thánh. Tâm tính của em quá cố chấp, và em căm ghét lẽ thật. Dù bị xử lý và sửa dạy nhiều lần, em vẫn không ăn năn, em vẫn cố chấp chống đối Đức Chúa Trời, em dùng đủ mọi cách hèn hạ để hạ thấp và đánh bại một người tốt mưu cầu lẽ thật, cản trở và gây rối tại nơi công tác của Đức Chúa Trời, quấy phá công tác của nhà Đức Chúa Trời, phá hỏng cơ hội Đức Chúa Trời trao cho em để đạt được lẽ thật và được cứu rỗi. Em bị khai trừ khỏi hội thánh vì sự công chính của Đức Chúa Trời. Đó chính là lỗi của em, không lầm chút nào.
Sau đó, em đọc hai đoạn lời Đức Chúa Trời. “Ta đã thực hiện rất nhiều công tác và phán rất nhiều lời giữa các ngươi – bao nhiêu trong số đó thực sự đã đi vào tai các ngươi? Ngươi đã vâng lời được bao nhiêu trong số đó? Khi công tác của Ta kết thúc, đó sẽ là thời điểm ngươi ngừng chống đối Ta, ngươi ngừng đối nghịch Ta. Khi Ta làm việc, các ngươi thường xuyên có hành động chống lại Ta; các ngươi không bao giờ tuân theo lời của Ta. Ta làm việc của Ta, còn ngươi làm ‘việc’ riêng của ngươi, tự thành lập vương quốc nhỏ của ngươi. Các ngươi chẳng là gì ngoài một bầy cáo và chó, làm mọi thứ đối nghịch với Ta! … Hình tượng của các ngươi thậm chí còn lớn hơn của Đức Chúa Trời, địa vị của các ngươi thậm chí còn cao hơn của Đức Chúa Trời, chứ đừng nói đến uy tín của các ngươi giữa con người – các ngươi đã trở thành một thần tượng mà con người tôn thờ. Chẳng phải ngươi đã trở thành thiên sứ trưởng rồi sao? Khi kết cục của con người được tỏ lộ, đó cũng là lúc công tác cứu rỗi sẽ gần đến hồi kết thúc, nhiều người trong số các ngươi sẽ là những xác chết ở ngoài tầm cứu rỗi và phải bị loại bỏ” (Sự thực hành (7), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). “Ta sẽ bắt những ai chọc giận Ta phải chịu sự trừng phạt của Ta, Ta sẽ trút toàn bộ cơn nóng giận của Ta lên những con thú đã từng muốn đứng ngang hàng bên Ta nhưng không thờ phượng hay vâng lời Ta; cây gậy Ta dùng để đánh con người sẽ giáng xuống những con vật từng vui hưởng sự chăm sóc của Ta và đã từng vui hưởng những lẽ mầu nhiệm Ta phán, và những con vật đã từng đã cố lấy những thú vui vật chất từ Ta. Ta sẽ không tha thứ cho ai cố chiếm lấy vị trí của Ta; Ta sẽ không tha cho bất kỳ ai cố moi cái ăn, cái mặc từ Ta. Hiện giờ, các ngươi vẫn chưa bị tổn hại gì và tiếp tục đi quá xa trong những đòi hỏi các ngươi đặt ra cho Ta. Khi ngày thạnh nộ đến, các ngươi sẽ không đưa ra yêu cầu nào với Ta nữa; lúc đó, Ta sẽ để các ngươi ‘tận hưởng’ cho vừa lòng các ngươi, Ta sẽ dìm mặt các ngươi xuống đất và các ngươi sẽ không bao giờ ngóc cổ dậy được nữa!” (Có một tâm tính không thay đổi là thù nghịch với Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Những lời oai nghi và thạnh nộ của Đức Chúa Trời khiến em rất xúc động. Em cảm nhận được cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời, thấy tâm tính của Đức Chúa Trời công chính và không thể bị xúc phạm. Đức Chúa Trời căm ghét những ai tranh giành địa vị với Ngài. Những người như thế sẽ bị Đức Chúa Trời rủa sả và trừng phạt, không ai thoát được. Để đạt được địa vị, em tranh giành danh lợi với người khác, công kích và loại bỏ những ai mưu cầu lẽ thật, em còn phô trương bản thân khắp nơi và đưa mọi người tới trước em. Em tranh giành địa vị và mọi người với Đức Chúa Trời, việc này xúc phạm tâm tính Đức Chúa Trời nghiêm trọng. Em cảm thấy mình đã làm việc đại ác và phạm tội không thể tha thứ. Như thể em đã mở cánh cổng địa ngục vậy. Nghĩ như thế, em hoảng sợ đến mức khó thở. Em không biết có còn nhận được sự bao dung của Đức Chúa Trời không. Đức Chúa Trời có lẽ không tha thứ cho em. Liệu Ngài có hủy diệt em bất cứ lúc nào không? Em cầu nguyện nhiều lần trước Đức Chúa Trời trong đau khổ, thú tội và ăn năn. Em thưa lên, “Đức Chúa Trời, con đã hành ác, chống đối Ngài, xúc phạm tâm tính của Ngài. Con sống trong sợ hãi mỗi ngày, sợ rằng sự trừng phạt và rủa sả sẽ đến với con bất cứ lúc nào. Lạy Đức Chúa Trời, con muốn ăn năn. Xin hãy cứu rỗi con”. Cầu nguyện xong, em cảm thấy bình tâm hơn.
Trong lúc tĩnh nguyện, em đọc được những lời này của Đức Chúa Trời, “Ngày nay, Đức Chúa Trời phán xét các ngươi, trừng phạt các ngươi, và kết án các ngươi, nhưng ngươi phải biết rằng mục đích của việc kết án ngươi là để ngươi biết được chính mình. Ngài kết án, rủa sả, phán xét và hành phạt để ngươi có thể biết được chính mình, để tâm tính của ngươi có thể thay đổi, và hơn thế nữa, để ngươi có thể biết được giá trị của mình, và thấy rằng tất cả hành động của Đức Chúa Trời đều công chính và phù hợp với tâm tính của Ngài và những yêu cầu trong công tác của Ngài, rằng Ngài làm việc phù hợp với kế hoạch cứu rỗi nhân loại của Ngài, và rằng Ngài là Đức Chúa Trời công chính, Đấng yêu thương, cứu rỗi, phán xét, và hành phạt con người. Nếu ngươi chỉ biết rằng ngươi có địa vị thấp hèn, rằng ngươi bại hoại và bất tuân, nhưng không biết rằng Đức Chúa Trời mong muốn làm rõ sự cứu rỗi của Ngài qua việc phán xét và hành phạt mà Ngài làm trong ngươi hôm nay, thì ngươi không cách nào có được kinh nghiệm, ngươi càng không có khả năng tiếp tục tiến tới. Đức Chúa Trời đã không đến để giết chóc hoặc hủy diệt, mà để phán xét, rủa sả, hành phạt, và cứu rỗi. Cho đến khi kế hoạch 6.000 năm quản lý của Ngài đi đến hồi kết – trước khi Ngài mặc khải kết cục của từng hạng người – thì công tác của Đức Chúa Trời trên đất sẽ vì lợi ích của sự cứu rỗi; mục đích của nó chỉ là làm cho những ai yêu mến Ngài được trọn vẹn – một cách toàn diện – và khiến họ quy phục dưới sự thống trị của Ngài. … Hãy nghĩ về điều đó: Nếu ý định của Ta đến là để kết án và trừng phạt các ngươi hơn là cứu rỗi các ngươi, thì đời các ngươi đã có thể nào kéo dài đến thế không? Những hữu thể tội lỗi của thịt và huyết các ngươi có thể sống sót đến ngày hôm nay không? Nếu mục tiêu của Ta đơn thuần chỉ trừng phạt các ngươi, thì tại sao Ta lại trở nên xác thịt và dấn thân vào một công trình vĩ đại đến thế? Chẳng phải việc trừng phạt những con người thế tục các ngươi có thể được thực hiện chỉ bằng cách phán một lời thôi sao? Ta sẽ vẫn cần hủy diệt các ngươi sau khi chủ ý kết án các ngươi không? Chẳng lẽ các ngươi vẫn chưa tin những lời của Ta sao? Ta có thể cứu rỗi con người chỉ bởi tình yêu thương và sự thương xót không? Hoặc Ta có thể chỉ sử dụng việc đóng đinh trên thập tự để cứu rỗi con người không? Chẳng lẽ tâm tính công chính của Ta không có lợi hơn cho việc khiến con người vâng phục hoàn toàn sao? Chẳng phải điều đó có nhiều khả năng hơn trong việc cứu rỗi con người hoàn toàn sao?” (Ngươi nên đặt các phước lành về địa vị sang một bên và hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời để mang sự cứu rỗi đến cho con người, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Đọc xong lời Đức Chúa Trời, em rất xúc động. Em cũng hiểu rằng Đức Chúa Trời đã dùng những lời nghiêm khắc để phơi bày và phán xét em, thậm chí lên án và rủa sả em, nhưng Ngài không làm vậy để hủy diệt em. Mà là để em hiểu được bản thân và thấy rõ bản tính Sa-tan chống đối Đức Chúa Trời của mình, rồi có thể ăn năn và thay đổi. Cũng là để em hiểu tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Khi mọi người tranh giành địa vị hay quấy phá và phá hoại công tác của nhà Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời căm ghét việc này và không thể dung thứ nổi. Đức Chúa Trời là nguồn gốc của mọi điều tích cực, Đức Chúa Trời không dung thứ sự hiện diện của những thứ tiêu cực và tà ác. Hội thánh là nơi những người được Đức Chúa Trời chọn thờ phượng Ngài và mưu cầu lẽ thật. Cũng là nơi ý muốn của Đức Chúa Trời không bị ngăn trở. Còn em? Em không đóng vai trò tích cực trong hội thánh. Em chỉ toàn quấy nhiễu và phá hoại mọi thứ, nên cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời giáng xuống đầu em và em bị khai trừ khỏi hội thánh, đó là sự công chính của Ngài. Bao năm nay, em không mưu cầu lẽ thật, em chỉ mưu cầu danh tiếng và địa vị. Khi có người đe dọa địa vị của em, em đố kỵ và bất mãn, quấy phá công tác của nhà Đức Chúa Trời, đó là con đường của một kẻ địch lại Đấng Christ. Em đã hành ác quá nhiều, và đáng bị Đức Chúa Trời trừng phạt, nhưng Đức Chúa Trời không đối xử với em theo những việc ác em đã làm. Khi em đau khổ và tuyệt vọng, nghĩ tới cái chết, Đức Chúa Trời sợ em sẽ mắc mưu Sa-tan, nên Ngài dùng thông công của chị đó với em và lời Ngài để khai sáng, dẫn dắt em, đưa em ra khỏi sự tiêu cực. Trong thâm tâm em cảm thấy đây là tình yêu và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Hiểu được ý muốn của Đức Chúa Trời, em không muốn buồn phiền thêm nữa. Tiếp đó, em đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời, “Là một trong những vật thọ tạo, con người phải giữ vị trí của riêng mình, và cư xử một cách thấu đáo. Hãy nghiêm túc bảo vệ những gì Đấng Tạo Hóa giao phó cho ngươi. Đừng vi phạm phép tắc, hoặc làm những điều ngoài khả năng của ngươi hoặc điều gì ghê tởm đối với Đức Chúa Trời. Đừng có cố gắng trở nên vĩ nhân, siêu nhân, hoặc trỗi vượt hơn người, mà cũng đừng cố gắng trở thành Đức Chúa Trời. Con người không nên mong muốn như thế này. Việc cố gắng trở nên vĩ nhân hoặc siêu nhân là hết sức hoang đường. Việc cố gắng trở thành Đức Chúa Trời thậm chí còn nhục nhã hơn; điều đó thật kinh tởm và đáng khinh. Điều đáng khen ngợi, và điều các vật thọ tạo nên nắm giữ hơn bất kỳ điều gì khác, là trở nên một vật thọ tạo thực sự; đây là mục tiêu duy nhất mà tất cả mọi người nên theo đuổi” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời khiến em thấy bẽ mặt và hổ thẹn. Em chỉ là một tạo vật nhỏ bé, một con người ô uế, bại hoại, nhưng lại muốn được coi trọng và ngưỡng mộ. Em khoe khoang khắp nơi, cố giành lấy sự chú ý bất cứ nơi đâu, dùng lời Đức Chúa Trời để thông công với người khác. Em không có chút lý trí nào! Em không có chút thực tế lẽ thật nào, không có hiểu biết chân thực về bản thân. Em chỉ toàn nói câu chữ và giáo điều, lại còn nói liên tu bất tận. Thực chất lời em nói là để gây sự mơ hồ. Em không hề hiểu biết về bản thân, nhưng lại công kích và bài xích Tiểu Chân. Em hết sức kiêu ngạo. Em quá xấu xa và thật ghê tởm! Em nên từ bỏ tham vọng và ham muốn, biết thân biết phận, biết mình ở đâu, thực hiện bổn phận theo cách khiêm tốn. Đây là lý trí mà một tạo vật nên có. Dù kết cục như thế nào, em thề sẽ thực hiện tốt bổn phận. Chỉ cần em còn sống, em biết mình phải mưu cầu lẽ thật, thoát khỏi sự bại hoại, và sống trọn một hình tượng giống con người để làm yên lòng Đức Chúa Trời. Sau đó, em cầu nguyện với Đức Chúa Trời mỗi ngày, xin Ngài dẫn dắt em phản tỉnh để em có thể ăn năn và thay đổi. Khi đọc lời Đức Chúa Trời, em chú tâm vào đối chiếu với bản thân, nghiền ngẫm và suy xét những gì em bộc lộ mỗi ngày. Dần dần, em đạt được sự hiểu biết về tâm tính kiêu ngạo, những việc ác, thân phận và địa vị của mình. Em cũng làm hết sức để truyền bá phúc âm cho họ hàng, bạn bè và người quen, giúp đỡ cho công tác của hội thánh ở những nơi em có thể làm, thường xuyên tiếp đãi các anh chị em. Em cảm thấy rất vui và quyết định rằng dù Đức Chúa Trời đối đãi với em ra sao hay có đích đến tốt đẹp hay không, em cũng sẽ không đổi chác hay đòi hỏi, và em sẽ thực hiện tốt bổn phận.
Thật bất ngờ, một ngày vào tháng 12 năm 2020, lãnh đạo thông báo em được tiếp nhận quay trở lại hội thánh, và em lại có thể sống đời sống hội thánh. Nghe tin này, em mừng đến nỗi rưng rưng nước mắt. Em nghĩ thầm, “Mình đã hành ác quá nhiều, nhưng khi thực sự ăn năn, mình đã được tiếp nhận trở lại hội thánh. Đây chính là tình yêu và sự bao dung của Đức Chúa Trời”. Nhìn lại, em luôn cảm thấy mình mưu cầu tốt, gánh vác trong bổn phận, và yêu thương các anh chị em. Chỉ khi bị phơi bày, khai trừ, phán xét và vạch trần bởi lời Đức Chúa Trời, em mới thấy mình bị Sa-tan làm cho bại hoại tới mức vô nhân tính và chỉ toàn nghĩ đến sự tà ác. Nếu không nhờ sự phán xét và hành phạt của Đức Chúa Trời, em vẫn tiếp tục mưu cầu địa vị để thỏa mãn tham vọng và ham muốn, không bao giờ phản tỉnh, và thức tỉnh. Em đã thực sự trải nghiệm lời Đức Chúa Trời phán, “Phải biết rằng hình phạt và phán xét của Đức Chúa Trời là sự sáng, là sự sáng của sự cứu rỗi con người, và rằng chẳng có phước lành, ân điển hay sự bảo vệ nào tốt hơn cho họ” (Các kinh nghiệm của Phi-e-rơ: Hiểu biết của ông về hình phạt và sự phán xét, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Trải nghiệm những việc này, em đã thấy tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Em cũng thấy sự bảo vệ và cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho em. Dù tâm tính bại hoại của em vẫn còn nặng nề, em sẵn sàng nỗ lực để tiếp nhận sự phán xét và hành phạt của Đức Chúa Trời, tiếp nhận sự tỉa sửa và xử lý của các anh chị em, mưu cầu sự thay đổi tâm tính và sống trọn hình tượng con người.
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?