Tôi đã tìm được vị trí của mình

24/07/2022

Bởi Tư Phàm, Hàn Quốc

Sau khi tin vào Đức Chúa Trời, chị rất nhiệt tâm mưu cầu. Dù hội thánh bố trí bổn phận nào, chị cũng vâng phục. Khi gặp khó khăn trong bổn phận, chị chịu đau khổ và trả giá, không oán trách nửa lời. Không lâu sau, chị bắt đầu bổn phận chăm tưới người mới, ở đó chị liên tục được đề bạt. Chị thấy mình là nhân tài, người được nhà Đức Chúa Trời bồi dưỡng, và thấy chị mưu cầu nhiều hơn người khác, nên chỉ cần nỗ lực trong bổn phận, chị sẽ được đề bạt và giao những vai trò quan trọng. Nghĩ vậy chị cảm thấy rất hãnh diện.

Sau đó, chị thấy nhiều anh chị em trạc tuổi mình đang thực hiện những bổn phận quan trọng như trưởng nhóm và giám sát, và chị thấy rất ganh tỵ. Chị nghĩ, “Nếu họ thực hiện được những bổn phận quan trọng ở độ tuổi trẻ như thế, được lãnh đạo coi trọng, và các anh chị em ngưỡng mộ, mình không thể thỏa mãn với hiện trạng. Mình phải mưu cầu thật tốt và phấn đấu để có đột phá lớn trong bổn phận để cũng được có vai trò quan trọng”. Nên chị nỗ lực hơn trong bổn phận. Chị chịu khó thức khuya và chịu cực khổ. Khi gặp khó khăn trong bổn phận, chị tìm kiếm lời Đức Chúa Trời để giải quyết. Nhưng nỗ lực của chị không thay đổi được gì. Vì năng lực công tác kém cỏi, chị được phân công làm công việc sự vụ chung chung. Sau đó, khi thấy những người xung quanh được đề bạt, chị càng thấy ganh tỵ hơn. Trong lòng chị biết bản thân mình thua kém họ, nên luôn động viên bản thân, “Không được nhụt chí hay thỏa mãn với hiện trạng. Phải mưu cầu và cải thiện. Mình vẫn cần đọc thêm lời Đức Chúa Trời và nỗ lực hơn trong lối vào sự sống. Khi cải thiện được năng lực nghiệp vụ và tiến bộ trong lối vào sự sống, mình sẽ được đề bạt”. Nghĩ như thế, nên chị vừa nỗ lực cải thiện, vừa mong ngóng ngày mình được đề bạt.

Thoáng chốc chị đã thực hiện bổn phận này được hai năm, các cộng sự mới cứ đến rồi đi. Một số được đề bạt, còn một số trở thành lãnh đạo và người làm công. Chị bắt đầu thắc mắc, “Mình làm bổn phận này cũng lâu rồi, những người làm bổn phận này trong thời gian ngắn hơn mà đã được đề bạt, vậy tại sao mình chưa được thay đổi bổn phận? Có phải lãnh đạo nghĩ mình không xứng đáng được bồi dưỡng, và mình chỉ hợp với công việc sự vụ chung chung? Mình không có cơ hội được đề bạt sao? Mình sẽ mắc kẹt mãi ở bổn phận vô danh này sao?”. Nghĩ về việc này, tinh thần chị tan biến đi đâu hết, như quả bóng xì hơi. Chị không còn siêng năng trong bổn phận như trước, không còn cảm thấy cần cấp thiết xử lý những công việc cần phải hoàn thành. Ngày nào chị cũng làm cho có lệ và lơ là cho đến khi nào xong thì thôi. Kết quả là công tác của chị xuất hiện một số sai lệch và thiếu sót, nhưng chị mặc kệ và không tự phản tỉnh. Sau đó, chị nghe nói có thêm nhiều anh chị em quen biết được đề bạt, và càng cảm thấy đau khổ hơn. Chị nghĩ, “Một số người từng thực hiện bổn phận giống như mình, nhưng giờ họ đều được đề bạt, trong khi mình vẫn dậm chân tại chỗ. Có lẽ mình không phải người mưu cầu lẽ thật hay là đối tượng đáng để bồi dưỡng”. Suy nghĩ này cứ đè nặng lên vai chị. Cảm giác rất khổ sở. Những ngày đó, chị rất chán nản, và không còn động lực trong bổn phận. Chị luôn cảm thấy mình không có tương lai trong đức tin vào Đức Chúa Trời. Chị rất buồn và không chấp nhận nổi. Chị nghĩ, “Mình kém cỏi thế thật ư? Mình là người duy nhất phù hợp với công việc sự vụ chung à? Bồi dưỡng mình không có giá trị gì sao? Mình chỉ muốn một cơ hội thôi mà. Sao mình cứ mãi mắc kẹt ở cái xó xỉnh chẳng ai để ý này?”. Càng nghĩ chị càng cảm thấy buồn rầu hơn, suốt ngày thở dài và đôi chân nặng trĩu. Suốt thời gian đó, đêm nào đi ngủ chị cũng khóc thầm, cứ nghĩ, “Nếu năng lực nghiệp vụ của mình thua kém người khác, thì mình phải nỗ lực để mưu cầu lẽ thật. Mình phải đọc thêm nhiều lời Đức Chúa Trời và tập trung hơn vào lối vào sự sống. Rồi một ngày, khi mình có thể thông công với hiểu biết thực tế, khi lãnh đạo thấy mình tập trung mưu cầu lẽ thật, chẳng phải họ sẽ đề bạt mình sao?”. Nhưng khi nghĩ về việc đó, chị cũng cảm thấy có chút tội lỗi. Mưu cầu lẽ thật là việc tích cực, là việc mà người tin Đức Chúa Trời nên mưu cầu. Nhưng chị lại dùng nó làm mục đích để đứng cao hơn người khác. Nếu mưu cầu bằng dã tâm và ham muốn như thế này, chẳng phải Đức Chúa Trời sẽ ghê tởm và căm ghét sao? Tại sao chị không bằng lòng thực hiện bổn phận vô danh? Chị cảm thấy rất tội lỗi nên vừa khóc vừa cầu nguyện với Đức Chúa Trời, “Lạy Đức Chúa Trời, con biết sự mưu cầu địa vị là sai trái, nhưng dã tâm và ham muốn của con quá mạnh. Con luôn cảm thấy thực hiện bổn phận vô danh là vô ích. Lạy Đức Chúa Trời, con không thoát được khỏi tình trạng này. Xin hãy dẫn dắt con hiểu được ý muốn của Ngài và hiểu bản thân”.

Cầu nguyện xong, chị đọc được hai đoạn lời Đức Chúa Trời. “Đối với những kẻ địch lại Đấng Christ, địa vị và danh tiếng là sự sống của họ. Dù họ sống như thế nào, sống trong môi trường nào, làm công việc gì, phấn đấu vì điều gì, mục tiêu của họ là gì, hướng đi của cuộc đời họ là gì, tất cả đều xoay quanh việc có một danh tiếng tốt và một vị trí cao. Và mục tiêu này không thay đổi; họ không bao giờ có thể gạt nó sang một bên. Đây là bộ mặt thật của những kẻ địch lại Đấng Christ, và là bản chất của họ. Ngươi có thể đưa họ vào một khu rừng nguyên sinh sâu trong núi, và họ vẫn không từ bỏ địa vị và danh tiếng. Ngươi có thể đưa họ vào giữa một nhóm người bất kỳ nào, và tất cả những gì họ có thể nghĩ đến vẫn là địa vị và danh tiếng. Dù những kẻ địch lại đấng Christ cũng tin vào Đức Chúa Trời, nhưng họ thấy việc theo đuổi địa vị và danh tiếng có giá trị ngang với đức tin nơi Đức Chúa Trời nên đặt cho nó tầm quan trọng tương đương. Có nghĩa là, khi họ bước đi trên con đường tin Đức Chúa Trời, họ cũng theo đuổi địa vị và danh tiếng của chính mình. Có thể nói, trong thâm tâm của những kẻ địch lại đấng Christ, họ tin rằng đức tin nơi Đức Chúa Trời và sự theo đuổi lẽ thật là sự theo đuổi địa vị và danh tiếng; theo đuổi địa vị và danh tiếng cũng là theo đuổi lẽ thật, và đạt được địa vị và danh tiếng là đạt được lẽ thật và sự sống. Nếu họ cảm thấy rằng họ không có được uy tín hay địa vị, rằng không ai ngưỡng mộ họ, tôn kính họ, hoặc theo họ, thì họ rất bực bội, họ cho rằng tin vào Đức Chúa Trời chẳng để làm gì, không có giá trị gì, và họ nhủ thầm: ‘Đức tin vào Đức Chúa Trời như vậy có phải là một sự thất bại không? Nó có phải là vô vọng không?’. Họ thường cân nhắc những điều như thế trong lòng, họ cân nhắc làm sao có thể tạo một chỗ đứng cho chính mình trong nhà Đức Chúa Trời, làm sao họ có thể có danh tiếng cao trọng trong hội thánh, để mọi người lắng nghe khi họ nói, và ủng hộ khi họ hành động, và theo họ đến bất cứ nơi nào họ đi; để họ có tiếng nói trong hội thánh, có danh tiếng, để họ được hưởng lợi ích và có địa vị – họ thường suy ngẫm về những điều như vậy. Đây là những gì mà những người như vậy theo đuổi(“Họ thực hiện bổn phận của mình chỉ để làm bản thân nổi bật và thỏa mãn những lợi ích, tham vọng của riêng mình; họ không bao giờ xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và thậm chí bán rẻ những lợi ích ấy để đổi lấy vinh quang cá nhân (Phần 3)” trong Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ). “Đối với một kẻ địch lại Đấng Christ, nếu danh tiếng hoặc địa vị của họ bị tấn công hay tước mất thì đó là một vấn đề thậm chí còn nghiêm trọng hơn cả việc cố lấy mạng họ. Dù họ có nghe bao nhiêu bài giảng hay đọc bao nhiêu lời Đức Chúa Trời đi chăng nữa thì họ cũng sẽ không cảm thấy buồn hay hối hận vì đã không bao giờ thực hành lẽ thật và vì họ đã đi con đường của kẻ địch lại Đấng Christ, cũng như vì họ sở hữu bản tính và bản chất của một kẻ địch lại Đấng Christ. Thay vào đó, họ luôn vắt óc tìm cách để đạt được địa vị và tăng danh tiếng. … Khi nhất mực theo đuổi danh tiếng và địa vị, họ cũng trơ tráo phủ nhận những điều Đức Chúa Trời đã làm. Tại sao Ta nói điều này? Trong thâm sâu đáy lòng của một kẻ địch lại Đấng Christ, họ tin rằng ‘tất cả danh tiếng và địa vị do con người tự kiếm được. Chỉ khi có chỗ đứng vững chắc trong mọi người cũng như có danh tiếng và địa vị thì người ta mới có thể được hưởng phước lành của Đức Chúa Trời. Cuộc sống chỉ có giá trị khi người ta đạt được quyền lực và địa vị tuyệt đối. Chỉ có như vậy mới đáng là sống đời người. Trái lại, sẽ là hèn nhát nếu sống theo cách quy phục, theo lời Đức Chúa Trời, theo quyền tối thượng và sự sắp đặt của Đức Chúa Trời trong mọi việc, sẵn lòng đứng vào vị trí của tạo vật, và sống như một người bình thường – sẽ không ai tôn trọng họ. Địa vị, danh tiếng và hạnh phúc của một người phải do tự mình giành lấy thông qua tranh đấu, và phải được đấu tranh và giành giật với một thái độ tích cực và chủ động. Sẽ không ai khác cho anh những điều ấy – việc chờ đợi một cách thụ động chỉ có thể dẫn đến thất bại’. Đây là cách kẻ địch lại Đấng Christ tính toán. Đây là tâm tính của những kẻ địch lại Đấng Christ. Nếu ngươi hy vọng một kẻ địch lại Đấng Christ tiếp nhận lẽ thật, thừa nhận sai lầm và có sự ăn năn thực sự, thì điều đó là không thể – họ tuyệt đối không thể làm thế(“Họ thực hiện bổn phận của mình chỉ để làm bản thân nổi bật và thỏa mãn những lợi ích, tham vọng của riêng mình; họ không bao giờ xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời và thậm chí bán rẻ những lợi ích ấy để đổi lấy vinh quang cá nhân (Phần 3)” trong Vạch trần kẻ địch lại Đấng Christ).

Đọc lời Đức Chúa Trời khiến chị rất đau lòng. Đức Chúa Trời vạch trần rằng những kẻ địch lại Đấng Christ coi trọng địa vị hơn sự sống. Họ nói gì làm gì cũng xoay quanh việc đó, họ chỉ nghĩ về việc giành được và duy trì nó. Khi đánh mất địa vị, họ đánh mất động lực sống. Vì địa vị, họ có thể chống đối Đức Chúa Trời, phản bội Đức Chúa Trời, và lập nên vương quốc riêng. Chị nhận ra chị luôn rất coi trọng địa vị. Khi còn nhỏ, gia đình đã dạy chị những điều như “Chịu được cái khổ cùng cực mới vượt lên mọi người”, và “Người vươn đến tầm cao, nước chảy về chốn thấp”. Chị luôn coi những quy tắc sống của Sa-tan là những câu nói thông thái. Chị nghĩ một cuộc đời có địa vị và được coi trọng mới là cuộc đời có giá trị và xứng đáng, còn việc bằng lòng với vị trí và làm người bình thường, thực tế chứng tỏ rằng chị không có chí khí, không có mục đích thực sự. Chị nghĩ những người như thế là vô dụng và hèn nhát. Sau khi tin vào Đức Chúa Trời, suy nghĩ và quan điểm của chị không hề thay đổi. Bề ngoài chị tỏ ra không tranh giành địa vị, nhưng dã tâm và ham muốn của chị không nhỏ. Chị chỉ muốn một bổn phận quan trọng hơn, địa vị cao hơn, để người khác coi trọng chị. Khi thấy các anh chị em xung quanh được đề bạt làm trưởng nhóm và giám sát, ham muốn của chị càng sôi sục hơn. Để được đề bạt, chị thức khuya dậy sớm, chị sẵn sàng chịu đau khổ và trả giá vì bổn phận. Khi hy vọng sụp đổ hết lần này đến lần khác, lòng chị đầy oán trách và chống đối với hoàn cảnh của mình. Chị còn cảm thấy rằng tin vào Đức Chúa Trời là vô ích và chị trở nên mệt mỏi với bổn phận. Chị chỉ làm cho có lệ và lơ là được thì cứ lơ là. Chị thấy rằng từ khi tin vào Đức Chúa Trời, con đường chị đi không phải là con đường mưu cầu lẽ thật. Mọi việc chị làm là vì danh tiếng và địa vị. Thật ra, việc chị được đến nhà Đức Chúa Trời và thực hiện bổn phận chính là Đức Chúa Trời đang cho chị cơ hội được cứu rỗi. Trong bổn phận, Đức Chúa Trời muốn chị mưu cầu lẽ thật, hiểu lẽ thật và tiến nhập thực tế của lẽ thật, thoát khỏi tâm tính bại hoại. Nhưng chị bỏ bê nhiệm vụ, không để tâm mưu cầu lẽ thật, chẳng muốn gì ngoài đạt được địa vị cao, và khi vỡ mộng, chị lại càng lún sâu hơn. Chị thực sự không có lương tâm hay lý trí! Chị nghĩ, dù đã tin vào Đức Chúa Trời nhiều năm, nhưng vì không mưu cầu lẽ thật, nên bây giờ chị không hiểu gì về tâm tính bại hoại của mình. Chị còn không thể thực hiện tốt bổn phận hiện tại. Chị vẫn lơ là, trong công tác vẫn còn nhiều sai lệch và thiếu sót. Kể cả như vậy, chị vẫn muốn được đề bạt và thực hiện công tác quan trọng hơn. Chị thật vô liêm sỉ! Khi đó chị mới hiểu rằng tin vào Đức Chúa Trời mà không mưu cầu lẽ thật và mù quáng mưu cầu địa vị, sẽ chỉ khiến chị càng có dã tâm và kiêu ngạo, luôn muốn hơn người, nhưng không thể vâng phục sự an bài của Đức Chúa Trời. Mưu cầu như thế là tự hủy hoại mình, bị Đức Chúa Trời căm ghét và rủa sả. Chị nhớ đến những kẻ địch lại Đấng Christ bị khai trừ khỏi hội thánh. Họ không mưu cầu lẽ thật, luôn mưu cầu danh tiếng và địa vị. Họ luôn muốn được sùng bái và coi trọng, cố lấy lòng và khống chế người khác, kết quả là họ hành ác quá nhiều và bị Đức Chúa Trời loại bỏ. Chẳng phải chị đang mưu cầu giống họ sao? Chẳng phải chị đang đi vào con đường chống đối Đức Chúa Trời sao? Tâm tính của Đức Chúa Trời rất công chính và không thể bị xúc phạm. Nếu chị không chịu thay đổi, chắc chắn sẽ bị Ngài cự tuyệt và loại bỏ. Với suy nghĩ đó, chị thề với lòng mình: “Từ giờ mình sẽ không mưu cầu địa vị, mình sẽ quy phục sự an bài của Đức Chúa Trời. Mình sẽ mưu cầu lẽ thật, và thực hiện bổn phận một cách đúng đắn và thực tế”.

Một hôm, trong lúc tĩnh nguyện, chị đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời nữa. “Bởi vì con người không nhận ra sự bố trí của Đức Chúa Trời và quyền tối thượng của Đức Chúa Trời, nên họ luôn bất chấp đương đầu với số phận với một thái độ phản nghịch, và họ luôn muốn gạt bỏ thẩm quyền và quyền tối thượng của Đức Chúa Trời và những thứ số phận đã an bài, hy vọng hão huyền về việc thay đổi tình cảnh hiện tại của mình và thay đổi số phận của mình. Nhưng họ không bao giờ có thể thành công và gặp cản trở ở mọi ngã rẽ. Sự tranh đấu này, diễn ra tận sâu thẳm trong linh hồn của con người, mang đến nỗi đau thâm sâu khắc cốt ghi xương, khi con người luôn luôn lãng phí cuộc đời mình. Nguyên nhân của nỗi đau này là gì? Có phải chính vì quyền tối thượng của Đức Chúa Trời, hoặc là vì một người sinh ra không may mắn không? Rõ ràng, cả hai đều không đúng. Căn bản là, nó được gây ra bởi những con đường mọi người đi, những cách họ chọn để sống cuộc đời của mình. Một số người có thể đã không nhận ra những điều này. Nhưng khi ngươi thực sự biết, khi ngươi thực sự bắt đầu nhận ra rằng Đức Chúa Trời có quyền tối thượng trên số phận con người, khi ngươi thực sự hiểu rằng mọi thứ Đức Chúa Trời đã lên kế hoạch cho ngươi và quyết định cho ngươi đều là một lợi ích và sự bảo vệ tuyệt vời, khi ấy ngươi cảm thấy nỗi đau của mình vơi dần, và toàn bản thể của ngươi trở nên thoải mái, được tự do, được giải phóng. Xét từ tình trạng của đa số mọi người, một cách khách quan họ không thể chịu chấp nhận giá trị và ý nghĩa thực tiễn của quyền tối thượng của Đấng Tạo Hóa đối với số phận con người, mặc dù ở mức độ chủ quan, họ không muốn tiếp tục sống như họ đã từng trước đây và muốn giảm bớt nỗi đau của mình; một cách khách quan, họ không thể thực sự nhận ra và đầu phục quyền tối thượng của Đấng Tạo Hóa, và càng không thể biết cách tìm ra và chấp nhận sự bố trí và an bài của Đấng Tạo Hóa. Vì vậy, nếu con người không thể thực sự nhận ra sự thật rằng Đấng Tạo Hóa có quyền tối thượng trên số phận con người và trên tất cả mọi vấn đề của con người, nếu họ không thể thực sự đầu phục sự thống trị của Đấng Tạo Hóa, thì họ khó mà không bị cuốn theo và ràng buộc bởi ý tưởng rằng ‘số phận một người nằm trong chính tay của người đó’. Họ sẽ khó rũ bỏ nỗi đau của cuộc đấu tranh kịch liệt chống lại số phận và thẩm quyền của Đấng Tạo Hóa, và không cần phải nói, họ cũng sẽ khó mà trở nên thực sự giải phóng và tự do, để trở thành những người thờ phượng Đức Chúa Trời(Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất III, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Lời Đức Chúa Trời đã lay động lòng chị. Trước kia, chị chưa từng đối chiếu tình trạng của mình với những gì lời Đức Chúa Trời vạch trần. Chị cứ tưởng những lời này ám chỉ những người ngoại đạo, còn chị đã tin vào Đức Chúa Trời, chị thừa nhận và vâng phục quyền tối thượng của Đức Chúa Trời. Nhưng khi bình tâm và suy ngẫm đoạn này, chị nhận ra việc thừa nhận quyền tối thượng của Đức Chúa Trời không có nghĩa là vâng phục nó. Nó không có nghĩa bạn hiểu quyền tối thượng của Đức Chúa Trời. Dù chị tin vào Đức Chúa Trời, quan điểm của chị vẫn giống như những người ngoại đạo. Người ngoại đạo luôn nghĩ số phận của mọi người nằm trong tay họ, và luôn muốn chống lại số phận. Họ muốn thay đổi vận mệnh bằng nỗ lực của mình và sống một cuộc đời xuất chúng. Kết quả là họ chịu nhiều đau khổ, trả giá đắt, đến khi thân tàn ma dại, họ vẫn không chịu quay đầu. Chẳng phải chị cũng vậy sao? Chị luôn muốn thay đổi hiện trạng bằng nỗ lực bản thân và cố gắng vượt lên khó khăn để được đề bạt và giao bổn phận quan trọng. Vì mục đích này, chị âm thầm chịu đựng, trả giá, và công tác để nâng cao năng lực nghiệp vụ. Khi vỡ mộng, chị trở nên tiêu cực và chống đối, rồi ngày càng lún sâu hơn. Khi đó chị mới thấy mình thật khổ sở và mệt mỏi vì đã đi sai đường và chọn sai cách sống. Chị coi những ngụy lý Sa-tan như “Vận mệnh nằm trong tay mình”, và “Con người có thể tự tay tạo quê hương đẹp cho mình” là châm ngôn sống. Chị tin rằng để đạt mục đích, phải thật nỗ lực. Nên chị đã không chịu vâng phục sự an bài của nhà Đức Chúa Trời. Chị luôn muốn chống lại Đức Chúa Trời, thoát khỏi quyền tối thượng của Ngài, và đạt được danh tiếng và địa vị bằng nỗ lực của mình. Khi đó chị mới thấy mình chỉ tin vào Đức Chúa Trời ngoài miệng. Trong lòng chị không tin quyền tối thượng của Đức Chúa Trời, và chị không vâng phục sự an bài của Ngài. Một tín hữu như chị nào khác gì một kẻ không tin? Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, Đức Chúa Trời có quyền tối thượng và kiểm soát mọi thứ. Vận mệnh của mỗi người, tố chất và kỹ năng đặc biệt của họ, bổn phận mà họ thực hiện trong nhà Đức Chúa Trời, hoàn cảnh và thời điểm mà họ trải nghiệm, vân vân đều do Đức Chúa Trời kiểm soát và định trước, không ai có thể thoát khỏi chúng hay thay đổi điều gì. Chỉ có vâng phục và tiếp nhận quyền tối thượng của Đức Chúa Trời chúng ta mới được Đức Chúa Trời bảo vệ và ban phước lành, sống một cuộc sống nhẹ nhõm và tự do. Hiểu ra điều này, chị bỗng cảm thấy đáng thương và thảm hại. Chị tin vào Đức Chúa Trời nhiều năm, ăn uống nhiều lời Đức Chúa Trời, nhưng lại chỉ như một người ngoại đạo. Chị không hiểu sự toàn năng và quyền tối thượng của Đức Chúa Trời, luôn chống đối Ngài. Chị quá kiêu ngạo và ngu ngốc! Chị đã suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, “Khi ngươi thực sự hiểu rằng mọi thứ Đức Chúa Trời đã lên kế hoạch cho ngươi và quyết định cho ngươi đều là một lợi ích và sự bảo vệ tuyệt vời, khi ấy ngươi cảm thấy nỗi đau của mình vơi dần, và toàn bản thể của ngươi trở nên thoải mái, được tự do, được giải phóng(Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất III, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Chị đã thắc mắc, làm sao biết được hoàn cảnh này tốt cho mình, và đang bảo vệ mình? Khi tìm kiếm, chị nhận ra từ khi bắt đầu tin vào Đức Chúa Trời, chị chưa từng nếm mùi thất bại, khó khăn, bị tước bổn phận hay thuyên chuyển. Chị cứ liên tục được đề bạt. Chị bắt đầu nghĩ một cách vô thức mình là người mưu cầu lẽ thật, và là đối tượng chính để nhà Đức Chúa Trời bồi dưỡng, nên chị đã mặc nhiên coi việc “đề bạt” là một mục tiêu để mưu cầu. Mỗi lần được đề bạt, chị không nhận nó như là sự ủy thác và trách nhiệm Đức Chúa Trời giao phó, và không khiêm tốn mưu cầu lẽ thật hay nghĩ cách để sử dụng nguyên tắc trong bổn phận. Trái lại, chị coi nhiệm vụ Đức Chúa Trời giao phó là công cụ để mưu cầu địa vị và được người khác coi trọng. Chị nghĩ bổn phận và địa vị càng cao, thì mọi người sẽ càng ngưỡng mộ và coi trọng chị, nên chị chỉ chú tâm đến sự đề bạt và lúc nào cũng lo lắng về việc được mất. Từ lâu chị đã quên phải mưu cầu điều gì trong đức tin vào Đức Chúa Trời. Nghĩ lại thì dã tâm của chị quá lớn. Nếu chị được đề bạt như ý muốn, chị không biết mình sẽ trở nên kiêu ngạo thế nào hay làm những việc tà ác gì nữa. Có quá nhiều tấm gương cho những thất bại như thế. Có nhiều người chân thành thực hiện bổn phận khi họ không có địa vị, nhưng ngay khi có địa vị, dã tâm của họ nảy sinh, họ bắt đầu hành ác, mê hoặc và lôi kéo mọi người. Để duy trì danh tiếng và địa vị, họ bài xích và chèn ép người khác, kết quả là tự mình hại mình. Chị thấy rằng địa vị, đối với những ai mưu cầu lẽ thật và đi đúng đường, chính là thực hành và hoàn thiện. Với những ai không mưu cầu lẽ thật và đi sai đường, thì chính là sự cám dỗ và phơi bày. Như lúc đó, chị vẫn không có địa vị, nhưng chỉ vì chưa được đề bạt, mà chị tức giận đến nỗi không muốn thực hiện bổn phận. Chị thấy rằng dã tâm và ham muốn của mình lớn hơn người bình thường. Nếu chị thực sự được đề bạt một bổn phận quan trọng, chắc chắn chị sẽ thất bại nặng nề như họ. Lúc này, chị thực sự cảm thấy rằng việc chị không được đề bạt làm trưởng nhóm hay giám sát là có ý tốt của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời dùng hoàn cảnh này để bắt chị dừng lại và phản tỉnh, để giúp chị quay đầu và đi theo con đường mưu cầu lẽ thật. Hoàn cảnh như thế mới cần cho sự sống của chị, và đó là sự bảo vệ của Đức Chúa Trời dành cho chị. Nghĩ vậy, chị cảm thấy Đức Chúa Trời đã làm một việc tốt. Chị mù quáng và ngu ngốc, không hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời, nên đã hiểu nhầm và oán trách Đức Chúa Trời. Chị đã thực sự làm Đức Chúa Trời đau lòng.

Sau đó, chị đọc một đoạn lời Đức Chúa Trời nữa. “Đức Chúa Trời muốn những loại lòng dạ nào? Trước hết phải là tấm lòng trung thực. Tấm lòng đó phải có thể thực hiện bổn phận một cách thành tâm và chân thật, có thể bảo vệ công tác của nhà Đức Chúa Trời, và không có cái gọi là khát khao lớn lao hay mục tiêu cao cả. Đó phải là tấm lòng muốn theo Đức Chúa Trời từng bước một, thờ phượng Đức Chúa Trời, và sống như một loài thọ tạo. Tấm lòng đó không được mong làm chim trên trời hay một loài thọ tạo nào trên hành tinh khác, chứ đừng nói đến muốn làm người có khả năng siêu nhiên. Hơn nữa, tấm lòng này phải yêu lẽ thật. Yêu lẽ thật chủ yếu đề cập đến điều gì? Yêu những điều tích cực, có ý thức công chính, có thể chân thành dâng mình cho Đức Chúa Trời, có thể chân thành yêu kính Đức Chúa Trời, có thể vâng lời Đức Chúa Trời, và có thể làm chứng cho Đức Chúa Trời(“Năm trạng thái cần phải đi đúng hướng trong đức tin của một người” trong Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Đọc xong lời Đức Chúa Trời, chị rất xúc động. Chị cảm nhận được hy vọng và yêu cầu của Đức Chúa Trời dành cho con người. Đức Chúa Trời không muốn người ta trở nên nổi tiếng, vĩ đại hay cao quý gì cả. Đức Chúa Trời không bảo chúng ta nhất định phải có công trạng hay thành tựu vĩ đại. Đức Chúa Trời mong mọi người mưu cầu lẽ thật và quy phục sự an bài của Ngài trong bổn phận, chu toàn bổn phận của mình một cách thực tế. Nhưng chị không hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời và không hiểu bản thân. Chị luôn muốn địa vị, trở thành bậc thầy hay vĩ nhân. Không có địa vị và sự chú ý, chị cảm thấy mình sống một cuộc sống ngột ngạt, vô ích. Chị không có chút nhân tính hay lý trí nào. Chị rõ ràng là cỏ mà muốn làm cây, chim sẻ muốn làm đại bàng, kết quả là chị gắng gượng đến khi khổ sở và kiệt sức. Nhận ra điều này, chị cầu nguyện với Đức Chúa Trời, “Lạy Đức Chúa Trời! Trước kia con luôn mưu cầu danh tiếng và địa vị. Con luôn muốn được đề cao, tán thưởng. Con không bằng lòng thực hiện bổn phận vô danh, khiến Ngài căm ghét và ghê tởm. Giờ con đã hiểu rằng đây là con đường sai trái. Con muốn quy phục sự an bài của Ngài. Cho dù sau này con có được đề bạt hay không, con vẫn sẽ khiêm tốn mưu cầu lẽ thật và thực hiện tốt bổn phận”. Cầu nguyện xong chị cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm, và gần gũi hơn với Đức Chúa Trời. Sau đó, nhờ đọc lời Đức Chúa Trời, chị đã hiểu thêm về quan điểm mưu cầu sai lầm của mình. Lời Đức Chúa Trời phán: “Khi ai đó được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng, điều đó không có nghĩa là họ có chức vụ và địa vị đặc biệt trong nhà Đức Chúa Trời, để mà họ có thể vui hưởng sự đối đãi và ưu ái đặc biệt. Mà thay vào đó, sau khi họ được đặc biệt đề cao trong nhà Đức Chúa Trời, họ có cơ hội và điều kiện tốt hơn để thực hành và bước vào thực tế của lẽ thật, để họ có thể làm nhiều công tác cụ thể liên quan đến những nguyên tắc của lẽ thật hơn. Nghĩa là, công tác này liên quan nhiều đến các nguyên tắc, và những yêu cầu và tiêu chuẩn của nhà Đức Chúa Trời sẽ cao hơn, điều này là rất có lợi cho lối vào sự sống của con người. Khi một người được đề bạt và bồi dưỡng trong nhà Đức Chúa Trời, điều này nghĩa là họ sẽ được đưa vào những yêu cầu khắt khe và sự giám sát chặt chẽ. Nhà Đức Chúa Trời sẽ kiểm tra và giám sát nghiêm ngặt công việc họ làm, và sẽ bắt đầu hiểu được và chú ý đến việc bước vào sự sống của họ. Từ những góc độ này, liệu những người được nhà Đức Chúa Trời đề bạt và bồi dưỡng có được hưởng sự đối đãi đặc biệt, địa vị đặc biệt và chức vụ đặc biệt không? Hoàn toàn không, và họ càng không hưởng được bất kỳ thân phận đặc biệt nào. Đối với những người được đề bạt và trọng dụng trong những vai trò quan trọng, nếu họ cảm thấy có vốn liếng, rồi đình trệ và ngưng mưu cầu lẽ thật, thì khi gặp phải những sự thử luyện và hoạn nạn, họ sẽ gặp nguy hiểm. Có người nói: ‘Nếu ai đó được đề bạt và bồi dưỡng làm lãnh đạo, thì họ có danh phận. Ngay cả khi họ không phải là một trong những con trai đầu lòng, thì chí ít họ cũng có hi vọng trở thành một trong những dân sự của Đức Chúa Trời. Tôi chưa bao giờ được đề bạt hay bồi dưỡng, thế tôi có hi vọng gì để được xem là một trong những dân sự của Đức Chúa Trời chứ?’. Nghĩ theo cách này là sai trật. Để trở thành một trong những dân sự của Đức Chúa Trời, các ngươi phải có kinh nghiệm sống, và các ngươi phải là người vâng lời Đức Chúa Trời. Dù các ngươi có là lãnh đạo, người làm công, hay một người đi theo bình thường, thì bất cứ ai sở hữu thực tế của lẽ thật cũng đều là một trong những dân sự của Đức Chúa Trời. Ngay cả khi các ngươi là lãnh đạo hay người làm công, nhưng nếu thiếu thực tế của lẽ thật, các ngươi vẫn là một kẻ phục vụ(“Nhận diện các lãnh đạo giả”). Từ lời Đức Chúa Trời chị hiểu rằng sự đề bạt và bồi dưỡng trong nhà Đức Chúa Trời không có nghĩa mọi người có địa vị đặc biệt, cũng không phải họ nhận được sự đối đãi đặc biệt như quan chức ngoài thế gian. Đó đơn giản là cơ hội để thực hành. Chỉ là sự ủy thác quan trọng hơn và trách nhiệm lớn hơn. Được đề bạt và bồi dưỡng có nghĩa là một người được chuyển từ bổn phận này sang bổn phận khác. Không có nghĩa thân phận và địa vị của một người cao hơn người khác, không có nghĩa bạn hiểu lẽ thật hay sở hữu thực tế của nó. Không được đề bạt không có nghĩa bạn kém cỏi, không có nghĩa bạn không có tương lai và không được cứu rỗi. Nói ngắn gọn, dù thực hiện bổn phận gì, có được đề bạt hay không, Đức Chúa Trời cũng đối đãi công bằng với mọi người. Nhà Đức Chúa Trời bố trí bổn phận hợp lý theo tố chất và năng lực của từng người, để tố chất và năng lực của mỗi người được tận dụng tối đa. Việc này có ích cho công tác của nhà Đức Chúa Trời và lối vào sự sống của chúng ta. Dù bạn được đề bạt một bổn phận quan trọng hay không, sự kỳ vọng và chu cấp của Đức Chúa Trời đối với mọi người là như nhau. Đức Chúa Trời muốn mọi người mưu cầu lẽ thật và thay đổi tâm tính khi họ thực hiện bổn phận. Vì vậy, sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho mọi người không phụ thuộc vào địa vị, phẩm chất hay tuổi tác. Mà nó phụ thuộc vào thái độ của mọi người với lẽ thật và bổn phận. Nếu đi theo con đường mưu cầu lẽ thật, khi thực hiện bổn phận, ta được thực hành nhiều hơn, tiến bộ trong sự sống. Nếu không đi theo con đường mưu cầu lẽ thật, thì dù có địa vị cao cũng không tồn tại lâu được. Sớm hay muộn, ta cũng sẽ bị tước bổn phận và loại bỏ. Trước kia chị không có hiểu biết trong sáng về sự đề bạt. Chị nghĩ được đề bạt nghĩa là có địa vị, và địa vị càng cao thì tương lai và số phận càng sáng sủa hơn. Kết quả là chị không chú tâm mưu cầu lẽ thật trong bổn phận mà chỉ mưu cầu địa vị. Khi đó chị mới nhận ra quan điểm này thật vô lý! Thực ra nhà Đức Chúa Trời đã cho chị cơ hội thực hành, nhưng tố chất của chị quá kém cho những công việc quan trọng. Chị không có nhận thức về bản thân, nên cảm thấy mình có khả năng và có thể được đề bạt để đảm nhận nhiệm vụ lớn hơn. Chị không hiểu bản thân chút nào. Bất kể làm công việc gì trong nhà Đức Chúa Trời, chúng ta đều cần hiểu lẽ thật và tiến nhập nguyên tắc của lẽ thật để công tác đạt được kết quả tốt. Nhưng chị không hiểu lẽ thật và không thực hiện công tác thực tế. Dù được đề bạt thì có thể làm tốt được việc gì đây? Chẳng phải chị sẽ chỉ cản trở thôi sao? Dù chị có cố gắng hết sức mình, thì cũng sẽ cản trở công tác của nhà Đức Chúa Trời mà thôi. Nhưng thế không xứng đáng chút nào. Cuối cùng chị cũng nhận ra rằng bổn phận hiện tại phù hợp với chị. Chị có khả năng thực hiện nó, và tận dụng được thế mạnh. Việc này có ích cho lối vào sự sống của chị và cả công tác của nhà Đức Chúa Trời. Qua sự khai sáng và dẫn dắt của lời Đức Chúa Trời, chị càng hiểu thêm ý muốn của Đức Chúa Trời và tìm được vị trí dành cho mình, tình trạng tiêu cực của chị đã được giải quyết.

Sau đó, chị không còn bị địa vị khống chế và đã gánh vác trong bổn phận. Lúc không bận công việc, chị dành thời gian rảnh để thực hành rao giảng phúc âm và làm chứng cho Đức Chúa Trời. Khi thấy những người thực sự tin vào Đức Chúa Trời và yêu lẽ thật tiếp nhận công tác của Đức Chúa Trời vào thời kỳ sau rốt, chị cảm thấy rất thanh thản và thoải mái. Cuối cùng chị đã hiểu ta được ở vị trí nào không quan trọng, quan trọng là có hoàn thành vai trò của một tạo vật khi thực hiện bổn phận hay không. Đây mới là điều quan trọng nhất. Hiện tại, dù chị hay nghe tin rằng các anh chị em quen biết được đề bạt, nhưng chị đã bình tâm hơn, không còn đố kỵ hay ganh tỵ, vì chị biết dù thực hiện bổn phận khác nhau, chúng ta đều theo đuổi mục tiêu chung, đó là truyền bá phúc âm vương quốc của Đức Chúa Trời hết khả năng có thể. Cuối cùng bây giờ chị đã tìm được vị trí của mình. Chị chỉ là một tạo vật nhỏ bé. Bổn phận của chị là vâng phục sự sắp đặt và an bài của Đấng Tạo Hóa. Sau này, cho dù bổn phận của chị là gì, chị sẵn sàng tiếp nhận, vâng phục, và làm hết sức mình để làm thỏa lòng Đức Chúa Trời!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Leave a Reply

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger