Tôi thu hoạch được gì từ việc bị xử lý
Bởi Tiểu Mễ, Nhật Bản Tháng 6 năm 2022, em được bầu làm lãnh đạo hội thánh. Nghĩ về những công tác được đảm nhận, thu hoạch vô số những...
Hoan nghênh tất cả những người tìm kiếm sự xuất hiện của Đức Chúa Trời!
Tháng 7 năm 2023, tôi bắt đầu làm bổn phận lãnh đạo trong hội thánh. Đến tháng 8, tôi hẹn một người anh em để nhóm họp, nhưng đêm trước buổi nhóm họp thì anh ấy bị cảnh sát bắt. Nghe tin này, lòng tôi có chút hoảng sợ, thầm nghĩ: “Nếu anh ấy đến nhóm họp và bị cảnh sát theo dõi, thì mình cũng bị bắt rồi. Thật là hú vía!”. Tôi nghĩ: “Dạo này cảnh sát đang điên cuồng bắt bớ người tin Đức Chúa Trời. Nếu mình cứ tiếp tục hẹn gặp mọi người để thông công công tác thì có thể bị bắt bất cứ lúc nào. Từ nay về sau, mình sẽ ở nhà dùng thư từ để theo dõi công tác hội thánh, như vậy sẽ khó bị bắt hơn”. Thế là tôi đã hủy mọi kế hoạch gặp gỡ anh chị em. Sau đó, tôi bị một kẻ Giu-đa bán đứng, thế là cảnh sát nắm được thông tin về thân phận của tôi và biết tôi là lãnh đạo. Ngay lập tức, tôi nhận được thư nhà nói rằng có mấy cảnh sát cầm ảnh của tôi đến nhà để bắt tôi. Cha tôi bảo tôi không có ở nhà, cảnh sát liền nói: “Bảo con gái ông trở về và ra đồn cảnh sát đầu thú đi. Nếu không về, chúng tôi sẽ phát lệnh truy nã cô ta!”. Đọc xong thư nhà, lòng tôi nặng trĩu: “Cảnh sát biết mình là lãnh đạo, còn cầm ảnh đến tận nhà để bắt mình, thậm chí còn muốn truy nã mình nữa! Nếu bị cảnh sát bắt, chúng chắc chắn sẽ tra tấn mình để ép cung, buộc mình tiết lộ thông tin về tiền bạc của hội thánh và bán đứng anh chị em. Nếu mình không khai, không bị đánh chết thì cũng bị đánh cho tàn phế! Sức khỏe mình vốn đã yếu, làm sao chịu nổi sự tra tấn dã man của Trung Cộng đây? Nếu không đứng vững làm chứng mà trở thành Giu-đa, thì mình sẽ không có kết cục tốt đẹp, tin Đức Chúa Trời cũng chẳng được cứu rỗi”. Nghĩ đến cảnh các anh chị em bị tra tấn sau khi bị bắt, tôi sợ hãi vô cùng, thầm nghĩ: “Làm lãnh đạo nguy hiểm quá. Nếu mình chỉ là một tín đồ bình thường thì đã không trở thành mục tiêu bắt giữ trọng điểm của Trung Cộng, cũng không phải đối mặt với nguy cơ mất mạng”. Suốt thời gian đó, tôi luôn sống trong lo lắng, bất an, rất sợ một ngày nào đó sẽ rơi vào tay cảnh sát, không tài nào tĩnh tâm để làm bổn phận được.
Một buổi sáng tháng 9, tôi nhận được thư của một người chị em từng tiếp đãi mình. Chị kể rằng sau khi tôi chuyển đi, vào một đêm nọ, hơn mười cảnh sát đã bao vây nhà chị lúc hơn 11 giờ. Chị không dám mở cửa, thế là chúng dùng thang nâng lên cửa sổ tầng hai rồi vào thẳng trong nhà để khám xét. Chúng lục soát suốt mấy tiếng đồng hồ nhưng không tìm thấy gì nên đã bỏ đi. Đọc được tin này, tôi điếng người. Mới tháng trước tôi còn ở nhà đó, nếu không rời đi thì tôi đã bị bắt rồi. Vừa hình dung ra cảnh cả đám cảnh sát đến bắt mình, tôi lại thấy sợ hãi, cảm thấy làm lãnh đạo quá rủi ro, và không khỏi oán trách: “Giá mà mình không làm lãnh đạo thì tốt rồi, sẽ không bị truy nã. Lỡ bị bắt thì e là mình không sống nổi. Mình còn trẻ thế này, tin Đức Chúa Trời mà vẫn chưa có được lẽ thật, nếu bị cảnh sát đánh chết thì chẳng phải sẽ mất đi cơ hội được cứu rỗi sao? Chẳng phải bao năm tin Đức Chúa Trời, bao nhiêu sự dâng mình của mình đều đổ sông đổ bể hết sao?”. Những ngày đó, tôi sống trong lo lắng và sợ hãi, chỉ muốn tìm người khác thay thế bổn phận của mình, nghĩ rằng như vậy thì có thể tránh được sự truy bắt của Trung Cộng. Thế nhưng, trong hội thánh liên tục có người bị bắt, nhiều lãnh đạo và người làm công cũng bị bắt. Nếu lúc này tôi từ chức, không những công tác của hội thánh sẽ bị ảnh hưởng, mà tôi cũng sẽ để lại sự vi phạm. Vì lương tâm cắn rứt, tôi đã không từ chức, nhưng trong lòng lại chẳng còn chút sức lực nào. Bấy giờ, hội thánh đang thiếu lãnh đạo và người làm công, một số anh chị em vì sợ bị bắt nên sống trong tiêu cực và yếu đuối, các công tác gần như đình trệ. Dù thấy hội thánh có bao nhiêu vấn đề, tôi cũng chẳng có lòng dạ nào để giải quyết, cả ngày chỉ sống trong sầu muộn, sợ rằng một ngày nào đó mình sẽ rơi vào tay cảnh sát và phải chịu nỗi khổ khôn cùng. Ngay lúc tôi đang sợ sệt và bất lực, tôi đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, khi bị cảnh sát truy bắt và truy nã, con đã không muốn thực hiện bổn phận lãnh đạo nữa. Con biết làm bổn phận như vậy là không có lòng trung thành với Ngài, nhưng con cũng sợ bị bắt. Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài hãy khai sáng và dẫn dắt để con có thể thuận phục”.
Sau đó, tôi đã mở lòng với một người chị em về tình trạng của mình. Chị ấy đã tìm cho tôi hai đoạn lời của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Khi con người không thể nhìn thấu, hiểu, tiếp nhận hoặc quy phục những hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt và quyền tối thượng của Ngài, và khi con người đối mặt với nhiều khó khăn khác nhau trong cuộc sống hằng ngày, hoặc khi những khó khăn này vượt quá những gì người bình thường có thể chịu đựng được, thì trong tiềm thức họ cảm thấy đủ mọi loại lo lắng và âu lo, thậm chí là sầu khổ. Họ không biết ngày mai sẽ ra sao, ngày kia hay vài năm nữa mọi việc sẽ thế nào, tương lai của họ ra sao, và vì vậy họ cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về đủ mọi chuyện. Bối cảnh mà con người cảm thấy sầu khổ, âu lo và lo lắng về đủ mọi chuyện là gì? Đó là họ không tin vào quyền tối thượng của Đức Chúa Trời – tức là họ không thể tin và nhìn thấu quyền tối thượng của Đức Chúa Trời. Ngay cả khi có tận mắt nhìn thấy, họ cũng sẽ không hiểu hoặc không tin. Họ không tin rằng Đức Chúa Trời nắm quyền tối thượng đối với số phận của họ, họ không tin rằng mạng sống của họ nằm trong tay Đức Chúa Trời, và vì vậy trong lòng họ nảy sinh sự nghi ngờ đối với quyền tối thượng và sự an bài của Đức Chúa Trời, rồi nảy sinh sự oán trách, và họ không thể quy phục” (Cách mưu cầu lẽ thật (3), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). “Nếu con người mưu cầu lẽ thật, họ sẽ không vướng vào những khó khăn này và không chìm vào những cảm xúc tiêu cực như sầu khổ, âu lo và lo lắng. Ngược lại, nếu con người không mưu cầu lẽ thật thì những khó khăn này vẫn tồn tại trong họ như vậy, và kết cục sẽ ra sao? Chúng sẽ vướng mắc vào ngươi khiến ngươi không thể thoát ra được, và nếu ngươi không giải quyết được chúng thì cuối cùng chúng sẽ trở thành những cảm xúc tiêu cực khiến ngươi rối rắm trong thâm tâm; chúng sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của ngươi và việc thực hiện bổn phận bình thường của ngươi, đồng thời sẽ khiến ngươi cảm thấy bị ức chế và không thể tìm được sự giải thoát – đây là kết cục mà chúng sẽ gây ra cho ngươi” (Cách mưu cầu lẽ thật (3), Lời, Quyển 6 – Về việc mưu cầu lẽ thật). Đọc xong lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng mình sống trong lo lắng và bất an là vì không hiểu sự tể trị của Đức Chúa Trời, cũng không thể thuận phục sự tể trị của Ngài. Khi bị cảnh sát truy nã và truy bắt, tôi đã sống trong nhút nhát và sợ hãi, lo rằng nếu bị cảnh sát bắt và đánh chết, mình sẽ mất đi cơ hội được cứu rỗi. Để bảo vệ bản thân, tôi đã nghĩ đến việc từ bỏ bổn phận lãnh đạo. Tôi không những không sẵn lòng thuận phục sự tể trị của Đức Chúa Trời, mà còn chẳng hề tìm kiếm tâm ý của Ngài, cũng không phản tỉnh và biết mình để rút ra bài học. Tôi nhận ra nếu tình trạng này cứ tiếp diễn thì sẽ rất nguy hiểm cho mình. Sau khi đọc hai đoạn lời này của Đức Chúa Trời, tôi đã hiểu được tâm ý của Ngài. Tôi phải tìm kiếm lẽ thật để giải quyết tình trạng của bản thân, không thể cứ sống mãi trong những cảm xúc tiêu cực, vì điều này sẽ ảnh hưởng đến lối vào sự sống và bổn phận của tôi. Sau đó, tôi đã đem tình trạng của mình đến trước Đức Chúa Trời để cầu nguyện, xin Ngài dẫn dắt tôi khi trải nghiệm hoàn cảnh này.
Cầu nguyện xong, tôi tĩnh tâm lại và suy ngẫm về tình trạng của mình trong khoảng thời gian này. Tôi đọc lời Đức Chúa Trời: “Ngoài việc suy xét cho sự an toàn của mình ra, có một số kẻ địch lại Đấng Christ còn suy xét điều gì? Họ nói: ‘Bây giờ hoàn cảnh không được tốt, chúng ta bớt lộ diện và rao truyền phúc âm đi, như vậy sẽ không dễ bị bắt và công tác của hội thánh sẽ không bị phá hoại. Chúng ta không bị bắt thì sẽ không làm Giu-đa, sau này chẳng phải vẫn có thể được sống sót sao?’. Có kẻ địch lại Đấng Christ nào tìm cái cớ như vậy để mê hoặc anh chị em không? Có một số kẻ địch lại Đấng Christ tham sống sợ chết, thà sống ô nhục, lại còn thích danh tiếng và địa vị, muốn làm lãnh đạo. Mặc dù họ biết: ‘Công tác của một lãnh đạo không dễ đảm đương. Nếu như bị con rồng lớn sắc đỏ biết thì mình sẽ nổi danh, có thể bị truy nã, một khi bị bắt thì còn nguy hiểm đến tính mạng’, nhưng vì tham hưởng lợi ích của địa vị nên họ không quan tâm đến những nguy hiểm này. Khi làm lãnh đạo, họ chỉ lo tham hưởng thụ xác thịt, không làm công tác thực tế, ngoại trừ có chút thư từ qua lại với các hội thánh ra, thì chẳng làm việc gì khác, chỉ trốn ở một nơi không gặp ai, khép mình lại, anh chị em cũng không biết lãnh đạo là ai, họ sợ hãi đến mức độ như vậy đấy. Vậy họ làm lãnh đạo có phải hữu danh vô thực hay không? (Thưa, phải.) Họ làm lãnh đạo mà chẳng làm công tác thực tế nào, chỉ lo lẩn trốn. Người ta hỏi họ: ‘Làm lãnh đạo thế nào?’. Thì họ nói: ‘Làm lãnh đạo bận rộn lắm, phải luôn chuyển chỗ ở cho an toàn, hoàn cảnh quấy nhiễu đến mức không có tâm tư làm việc’. Họ luôn cảm thấy có rất nhiều ánh mắt đang nhìn chằm chằm vào họ, không biết trốn ở đâu mới an toàn. Mỗi ngày ngoại trừ cải trang, trốn góc này góc nọ, chuyển chỗ ở khắp nơi, thì họ chẳng làm công tác thực tế gì. Có dạng lãnh đạo như vậy hay không? (Thưa, có.) Họ tuân theo nguyên tắc gì? Họ nói: ‘Thỏ khôn thì có ba hang. Vì đề phòng thiên địch đến đánh úp nên con thỏ đã chuẩn bị ba cái hang để ẩn náu. Vậy khi con người gặp nguy hiểm, muốn chạy trốn mà không có chỗ ẩn náu thì có được không? Chúng ta phải học hỏi loài thỏ! Động vật mà đức chúa trời tạo ra đều có năng lực sinh tồn này, con người cũng nên học hỏi chúng’. Từ khi làm lãnh đạo thì họ ngộ ra đạo lý như vậy, lại còn cảm thấy mình hiểu lẽ thật, nhưng thực ra là họ bị dọa cho vỡ mật rồi. Một khi nghe nói có lãnh đạo nào đó bởi vì chỗ ở không quá an toàn nên bị trình báo, hoặc là vì lúc nào cũng đi ra ngoài thực hiện bổn phận và tiếp xúc với quá nhiều người nên bị con rồng lớn sắc đỏ theo dõi, cuối cùng bị bắt, bị tuyên án, thì họ sợ hãi ngay lập tức. Họ nghĩ: ‘Ôi thôi, người tiếp theo bị bắt có thể là mình hay không? Mình phải rút ra bài học, không được quá sôi nổi, công tác của hội thánh mà có thể không làm thì mình sẽ không làm, nếu có thể không lộ diện thì mình sẽ không lộ diện. Mình sẽ cố hết sức giảm bớt công tác đến mức tối thiểu, cố hết sức không ra ngoài, không tiếp xúc với bất kỳ ai, không để bất kỳ ai biết mình là lãnh đạo. Thời buổi này ai có thể lo được cho ai chứ? Có thể sống sót là tốt rồi!’. Từ sau khi làm lãnh đạo, ngoài việc xách túi đi trốn ra, thì họ chẳng làm công tác gì, suốt ngày nơm nớp lo sợ, sợ bị bắt, sợ bị tuyên án. Khi nghe có người nói: ‘Nếu bị bắt là mất mạng đấy! Nếu không làm lãnh đạo, chỉ là tín hữu bình thường thì khi bị bắt, nộp phạt chút tiền là có thể được thả ra. Còn nếu là lãnh đạo thì khó nói lắm, quá sức nguy hiểm! Có lãnh đạo hay người làm công nào đó, sau khi bị bắt thì thà chết cũng không khai, cho nên đã bị cảnh sát đánh chết!’. Vừa nghe nói có người bị đánh chết thì họ lại càng sợ hãi, lại càng không dám làm việc. Mỗi ngày họ chỉ nghĩ trong đầu làm sao để không bị bắt, làm sao để có thể không lộ diện, không bị theo dõi, không tiếp xúc với anh chị em. Họ vắt óc để suy nghĩ những chuyện này mà quên sạch bổn phận của mình. Đây có phải là người có lòng trung thành hay không? Người như vậy có thể đảm đương công tác hay không? (Thưa, không thể.) Loại người này tuy rằng chỉ là nhát gan, không thể chỉ vì một biểu hiện này mà xác định chắc chắn họ là kẻ địch lại Đấng Christ, nhưng loại biểu hiện này của họ mang tính chất gì? Thực chất của loại biểu hiện này là thực chất của kẻ chẳng tin. Họ không tin Đức Chúa Trời có thể che chở sự an toàn của con người, càng không tin rằng con người dâng hiến bản thân, dâng mình cho Đức Chúa Trời chính là dâng mình cho lẽ thật, là chuyện được Đức Chúa Trời khen ngợi. Trong lòng họ không kính sợ Đức Chúa Trời, mà chỉ sợ Sa-tan, chỉ sợ đảng phái chính trị tà ác. Họ không tin vào sự tồn tại của Đức Chúa Trời, không tin mọi sự đều nằm trong tay Ngài, càng không tin rằng con người đánh đổi mọi sự vì Đức Chúa Trời, để tuân theo con đường của Ngài và hoàn thành sự uỷ thác của Ngài, thì sẽ được Ngài khen ngợi. Họ không thấy được tất cả những điều này, họ chỉ tin vào điều gì? Họ tin rằng rơi vào tay con rồng lớn sắc đỏ thì sẽ không có kết cục tốt đẹp, có thể bị tuyên án, thậm chí có nguy cơ mất cả tính mạng. Trong lòng chỉ suy xét cho sự an toàn của bản thân, không suy xét cho công tác của hội thánh, đây có phải là kẻ chẳng tin hay không? (Thưa, phải.) Trong Kinh Thánh nói thế nào? ‘Còn ai vì cớ ta mất sự sống mình, thì sẽ tìm lại được’ (Ma-thi-ơ 10:39). Họ có tin lời này hay không? (Thưa, không tin.) Chỉ cần bảo họ chịu nguy hiểm để thực hiện bổn phận thì họ sẽ hận là mình không trốn cho kỹ để khỏi có ai nhìn thấy, ước gì mình vô hình được thì tốt, họ sợ đến mức độ như vậy đấy. Họ không tin Đức Chúa Trời là chỗ dựa của con người, không tin mọi sự đều nằm trong tay Đức Chúa Trời, nếu thật sự xảy ra chuyện, thật sự bị bắt thì đó cũng là do Đức Chúa Trời cho phép và con người nên có lòng thuận phục. Họ không có tấm lòng này, không có nhận thức này, cũng không có sự sẵn sàng này. Đây có phải là người thật sự tin Đức Chúa Trời hay không? (Thưa, không phải.) Thực chất của biểu hiện này có phải là của kẻ không tin hay không? (Thưa, phải.) Chuyện là như vậy đấy. Loại người này cực kỳ nhát gan, bị dọa cho vỡ mật, chỉ sợ mình xảy ra chuyện, sợ xác thịt mình chịu khổ, trở thành con chim sợ cành cong và không làm được công tác” (Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ. Mục 9 (Phần 2)). Đức Chúa Trời vạch rõ rằng, hễ đối mặt với hoàn cảnh nguy hiểm trong bổn phận, những kẻ địch lại Đấng Christ chỉ nghĩ đến sự an nguy của bản thân. Họ không trung thành với bổn phận và không suy xét đến lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Loại người này trong lòng không có chỗ cho Đức Chúa Trời, cũng không tin vào sự tể trị của Ngài. Họ là những kẻ chẳng tin. Đọc xong lời Đức Chúa Trời, tôi vừa xấu hổ vừa buồn bã. Tôi không ngờ mình cũng ích kỷ và đê tiện như một kẻ địch lại Đấng Christ. Tôi đã hẹn một người anh em để nhóm họp, và anh ấy bị bắt ngay trước ngày hẹn. Tôi có thể thoát khỏi sự bắt bớ là nhờ Đức Chúa Trời bảo vệ. Thế nhưng, tôi đã không cảm tạ Đức Chúa Trời và làm bổn phận của mình một cách đàng hoàng, mà chỉ nghĩ cách để giữ an toàn cho bản thân, gạt công tác của hội thánh sang một bên. Hơn nữa, khi biết tin cảnh sát đã đến nhà tìm bắt và sắp truy nã mình, nhà tiếp đãi mà mình ở trước đây cũng bị khám xét, và thấy Trung Cộng đang huy động lực lượng lớn như vậy để bắt mình, tôi đã vô cùng sợ hãi. Để bảo vệ bản thân, tôi thậm chí không dám làm bổn phận lãnh đạo. Khi hội thánh phải chịu đựng sự bách hại và bắt bớ của Trung Cộng, với tư cách là lãnh đạo, lẽ ra tôi phải bảo vệ lợi ích của hội thánh và nhanh chóng xử lý tốt hậu quả. Thêm vào đó, kết quả của các công tác trong hội thánh đều đang đi xuống, các anh chị em thì sống trong tiêu cực và sợ sệt, cần được thông công lẽ thật để giúp đỡ và hỗ trợ. Có bao nhiêu công tác cần phải làm, nhưng để tránh bị bắt, tôi lại luôn tính toán cho sự an toàn và đường lui của mình; tôi không có lòng dạ nào để làm bổn phận, khiến các vấn đề trong hội thánh không được giải quyết kịp thời. Người ta có câu “hoạn nạn mới biết chân tình”. Bình thường, khi lợi ích cá nhân không bị ảnh hưởng, tôi có thể giữ vững bổn phận. Nhưng giờ đây khi hoàn cảnh nguy hiểm ập đến, tôi lại trở thành con rùa rụt cổ để bảo vệ bản thân. Đây chính là vóc giạc thật của tôi. Tôi đã tin Đức Chúa Trời và đọc rất nhiều lời Ngài, nhưng vào thời khắc quan trọng, tôi lại không có chút lời chứng nào về việc thực hành lẽ thật, cũng chẳng có lòng nào muốn bảo vệ lợi ích của hội thánh. Tôi ích kỷ và đê tiện như một kẻ địch lại Đấng Christ. Tôi thấy buồn bã, tự trách và căm ghét chính sự ích kỷ của mình. Tôi thật không xứng đáng với một bổn phận quan trọng như vậy! Tôi thầm cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời, con quá ích kỷ! Vào thời khắc quan trọng, con đã không thể hiện chút lòng trung thành nào. Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài hãy khai sáng và dẫn dắt để con biết mình, để con có thể giữ vững bổn phận trong hoàn cảnh này”.
Tôi nhớ đến lời Đức Chúa Trời: “Hết thảy nhân loại kẻ bại hoại đều sống cho chính mình. Người không vì mình, trời tru đất diệt – đây là khái quát về bản tính của con người. Con người tin Đức Chúa Trời đều vì bản thân họ; khi họ vứt bỏ mọi sự và dâng mình cho Đức Chúa Trời, đó là để được ban phúc lành; và khi họ trung thành với Ngài, vẫn là để được ban thưởng. Tóm lại, tất cả đều được thực hiện với mục đích được ban phước lành, được ban thưởng và được vào thiên quốc. Trong xã hội, con người làm việc vì lợi ích riêng của mình, còn trong nhà Đức Chúa Trời, họ làm bổn phận để được phúc. Con người từ bỏ mọi thứ và có thể chịu đựng nhiều đau khổ là để được ban phước lành, đây là bằng chứng tốt nhất về việc con người có bản tính Sa-tan. Những người có sự biến đổi tâm tính thì khác, họ cảm thấy rằng: con người nên sống dựa vào lẽ thật thì mới có ý nghĩa, nên thuận phục Đức Chúa Trời, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác, đây chính là gốc rễ của việc làm người, việc chấp nhận sự ủy nhiệm của Đức Chúa Trời là một trách nhiệm thiên kinh địa nghĩa, chỉ những người thực hiện bổn phận của loài thọ tạo thì mới phù hợp để được gọi là con người, và nếu họ không thể yêu kính Đức Chúa Trời và báo đáp tình yêu của Ngài thì họ không thích hợp để được gọi là con người; con người sống cho chính mình là rỗng tuếch và không có ý nghĩa, con người nên sống để làm thỏa lòng Đức Chúa Trời, để làm tốt bổn phận của mình, và để sống một cuộc đời có ý nghĩa, để ngay cả đến lúc chết, họ sẽ cảm thấy mãn nguyện, không chút hối tiếc, và cảm thấy họ đã không sống vô ích” (Phần 3, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). “Mọi người tin Đức Chúa Trời hòng để được ban phước, được tưởng thưởng, được đội mão triều thiên. Chẳng phải điều này tồn tại trong lòng mọi người sao? Thật sự là như vậy. Mặc dù mọi người không thường nói về nó, và thậm chí còn che đậy động cơ và ham muốn được phước, nhưng khao khát và động cơ sâu thẳm trong lòng người này luôn bất di bất dịch. Dù con người có hiểu được bao nhiêu lý thuyết thuộc linh, họ có nhận thức trải nghiệm gì, có thể thực hiện bổn phận gì, phải chịu đựng bao nhiêu đau khổ, hay phải trả giá thế nào, họ cũng không bao giờ buông bỏ được động lực muốn có phước lành ẩn giấu sâu trong lòng, và luôn âm thầm lao nhọc phục vụ động lực đó. Chẳng phải đây là điều sâu kín nhất trong lòng người sao? Nếu không có động cơ nhận được phước lành này, các ngươi sẽ cảm thấy thế nào? Các ngươi sẽ thực hiện bổn phận của mình và đi theo Đức Chúa Trời với thái độ ra sao? Con người sẽ ra sao nếu động cơ được nhận phước lành ẩn sâu trong lòng họ bị dẹp bỏ? Có lẽ nhiều người sẽ trở nên tiêu cực, trong khi một số người sẽ trở nên mất động lực làm bổn phận. Họ sẽ mất hứng thú trong đức tin nơi Đức Chúa Trời, như thể linh hồn của họ đã tan biến. Trông họ như thể bị mất hồn. Đó là lý do tại sao Ta phán động cơ được nhận phước lành là điều được ẩn giấu sâu kín trong lòng người” (Sáu dấu chỉ của sự phát triển trong sự sống, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi thấy rằng khi người ta chỉ làm việc vì lợi ích của riêng mình, họ đang sống theo những chất độc của Sa-tan, xem câu “Người không vì mình, trời tru đất diệt” như một quy tắc sinh tồn, chỉ làm những việc có lợi cho bản thân. Tôi chính xác là loại người này. Khi mới bắt đầu làm bổn phận lãnh đạo, tôi không gặp phải hoàn cảnh nguy hiểm nào. Tôi biết rằng khi làm bổn phận này, mình có thể hiểu thêm nhiều lẽ thật và chuẩn bị được nhiều việc lành, nên đã không do dự mà chấp nhận. Tuy nhiên, khi thấy các anh chị em bị bắt, còn mình thì bị cảnh sát truy đuổi và truy nã, tôi sợ rằng nếu bị cảnh sát bắt và đánh chết, mình sẽ mất đi cơ hội được cứu rỗi. Thế là tôi bắt đầu tính toán cho bản thân, cảm thấy làm bổn phận lãnh đạo quá nhiều rủi ro. Tôi thậm chí còn oán trách hội thánh đã sắp xếp cho tôi một bổn phận quan trọng như vậy, và muốn từ bỏ nó. Mọi lúc mọi nơi, tôi chỉ nghĩ đến đích đến của riêng mình, hoàn toàn không có chút lòng trung thành hay sự thuận phục nào đối với Đức Chúa Trời. Tôi quá ích kỷ! Nếu không bị tỏ lộ, tôi vẫn sẽ tiếp tục tin rằng việc có thể vứt bỏ và dâng mình trong bổn phận chính là thể hiện lòng trung thành với Đức Chúa Trời. Bây giờ tôi cuối cùng đã nhận ra rằng những sự dâng mình trong quá khứ của mình đều bị vấy bẩn bởi ý định và tạp chất: chúng là để nhận được phước lành, là một nỗ lực để mặc cả với Đức Chúa Trời. Điều này đã chuốc lấy sự ghê tởm và căm ghét của Đức Chúa Trời. Lúc này, tôi đã hiểu được tâm ý của Ngài. Trải nghiệm hoàn cảnh bị cảnh sát truy bắt không chỉ giúp tôi thấy rõ sự tà ác của con rồng lớn sắc đỏ, mà còn giúp tôi nhận ra ý định muốn được ban phước vốn đã ẩn giấu nhiều năm trong đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời. Từ tận đáy lòng, tôi cảm tạ Đức Chúa Trời vì đã sắp đặt hoàn cảnh này, và đã cảm nhận được rằng đây là sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho tôi.
Một buổi tối, tôi nói chuyện với một người chị em về tình trạng của mình trong thời gian này. Khi tôi đề cập đến việc sợ bị bắt và sợ chết, chị ấy đã thông công với tôi về ý nghĩa của cái chết. Tôi nhớ đến một đoạn lời của Đức Chúa Trời, và đã tìm ra để đọc. Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Các môn đồ đó của Đức Chúa Jêsus đã chết như thế nào? Trong số các môn đồ, có những người bị ném đá, bị kéo lê phía sau một con ngựa, bị đóng đinh lộn ngược xuống, bị ngũ mã phanh thây – mọi kiểu chết chóc đã xảy đến với họ. Lý do cho cái chết của họ là gì? Họ đã bị xử tử đúng luật vì tội lỗi của họ phải không? Không. Họ loan truyền phúc âm của Chúa, nhưng người đời không tiếp nhận, ngược lại còn lên án, đánh chửi, còn đẩy họ vào chỗ chết – đó là cách mà họ tử vì đạo. … Thật ra, đây là cách thể xác của họ đã chết và qua đời; đây là cách thức họ rời khỏi thế giới loài người, nhưng điều đó không có nghĩa kết cục của họ là như vậy. Bất kể những cách thức họ chết và ra đi như thế nào đi nữa, hay nó đã xảy ra làm sao, thì cũng không phải là cách Đức Chúa Trời quy định kết cục cuối cùng cho những sinh mệnh, cho những loài thọ tạo đó. Đây là một điều ngươi phải thấy rõ. Trái lại, họ đã sử dụng một cách chính xác những cách thức đó để lên án thế gian này và làm chứng cho những việc làm của Đức Chúa Trời. Những loài thọ tạo này đã sử dụng mạng sống quý giá nhất của họ – họ đã sử dụng khoảnh khắc cuối cùng của sự sống để làm chứng cho những việc làm của Đức Chúa Trời, để làm chứng cho quyền năng vĩ đại của Đức Chúa Trời và tuyên bố cho Sa-tan và thế gian rằng những việc làm của Đức Chúa Trời là đúng, rằng Đức Chúa Jêsus là Đức Chúa Trời, rằng Ngài là Chúa và là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời. Thậm chí đến giây phút cuối cùng của sự sống họ, họ không bao giờ chối bỏ danh của Đức Chúa Jêsus. Đây chẳng phải là một hình thức tuyên án thế gian này hay sao? Họ đã dùng mạng sống của mình để tuyên bố với thế gian, để xác nhận với loài người rằng Đức Chúa Jêsus là Chúa, rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, rằng Ngài là xác thịt nhập thể của Đức Chúa Trời, rằng công tác cứu chuộc toàn nhân loại mà Ngài làm khiến cho nhân loại này được tiếp tục sống sót – sự thật này đời đời không bao giờ thay đổi. Những người đã tử vì đạo vì rao truyền phúc âm của Đức Chúa Jêsus, họ đã thực hiện bổn phận của mình đến mức độ nào? Đã đến mức tối đa chưa? Mức tối đa được biểu lộ như thế nào? (Họ đã dâng mạng sống của mình.) Đúng vậy, họ đã trả giá bằng mạng sống của mình. Gia đình, của cải và những thứ vật chất của cuộc đời này đều là những thứ bên ngoài; điều duy nhất liên quan đến bản thân là sự sống. Đối với mỗi người sống, thì sự sống là thứ đáng trân trọng nhất, là thứ quý giá nhất và, thật tình cờ, những người này đã có thể dâng tài sản quý giá nhất của họ – sự sống – như một sự xác nhận và lời chứng cho tình yêu của Đức Chúa Trời đối với nhân loại. Cho đến ngày họ chết, họ không chối bỏ danh của Đức Chúa Trời, họ cũng không chối bỏ công tác của Đức Chúa Trời, và họ đã sử dụng khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời mình để làm chứng cho sự hiện hữu của sự thật này – chẳng phải đây là dạng chứng ngôn cao cả nhất sao? Đây là cách thực hiện bổn phận tốt nhất; đây là ý nghĩa của việc làm tròn trách nhiệm của một người. Khi Sa-tan đe dọa và uy hiếp họ, và cuối cùng, ngay cả khi nó khiến họ phải trả giá bằng mạng sống của mình, thì họ vẫn không từ bỏ trách nhiệm của mình. Đây là ý nghĩa của việc thực hiện bổn phận đến mức tối đa” (Rao truyền phúc âm là bổn phận không thể thoái thác của tất cả những người tin Đức Chúa Trời, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Khi suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng, nếu một người hy sinh mạng sống để đứng vững làm chứng cho Đức Chúa Trời, dù thân xác họ có chết đi, linh hồn họ vẫn sống. Một người bị bách hại đến chết vì làm chứng cho Đức Chúa Trời, đó là điều có giá trị, có ý nghĩa và được Đức Chúa Trời khen ngợi. Tuy nhiên, tôi lại tin rằng nếu bị Trung Cộng bách hại đến chết thì mình sẽ không thể được cứu rỗi, và vì vậy đã sống trong nhút nhát và sợ hãi, không dám hy sinh mạng sống để làm tốt bổn phận của mình. Thực ra, tôi không có sự thuận phục chân thật đối với Đức Chúa Trời, không có lời chứng về việc thực hành lẽ thật, và Đức Chúa Trời đã không có được tấm lòng chân thật của tôi. Dù thân xác tôi có tiếp tục sống, tôi cũng sẽ không bao giờ giành được sự khen ngợi của Đức Chúa Trời. Trong mắt Ngài, tôi đã là một người chết, và cuối cùng cả linh, hồn và xác của tôi đều sẽ bị tiêu diệt. Thêm vào đó, tôi sợ rằng nếu mình chết đi, mình sẽ không được Đức Chúa Trời cứu rỗi: đó là vì tôi không hiểu tâm tính công chính của Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ đến các môn đồ đã đi theo Đức Chúa Jêsus, những người đã bị các chính quyền Sa-tan bách hại khi rao truyền phúc âm. Có người bị ngũ mã phanh thây, có người bị ném đá đến chết, và Phi-e-rơ cuối cùng đã bị đóng đinh ngược trên thập tự giá vì Đức Chúa Trời. Họ đã trả giá bằng mạng sống để làm một lời chứng vang dội cho Đức Chúa Trời. Mặc dù bề ngoài thân xác họ đã chết, nhưng linh hồn họ đã trở về với Đức Chúa Trời và giành được sự khen ngợi của Ngài. Đây là điều có giá trị và ý nghĩa nhất. Sau khi nhìn thấu ý nghĩa của cái chết, lòng tôi cảm thấy được giải phóng hơn. Mạng sống của tôi là do Đức Chúa Trời ban cho, và tôi phải giữ vững bổn phận của mình. Tôi không thể tiếp tục sống một cách ích kỷ như vậy được nữa.
Một hôm trong lúc tĩnh nguyện, tôi đọc được một đoạn lời của Đức Chúa Trời: “Sa-tan chưa bao giờ dám vượt quá thẩm quyền của Đức Chúa Trời, và hơn nữa, luôn luôn cẩn thận lắng nghe và vâng phục những mệnh lệnh và sự căn dặn cụ thể của Đức Chúa Trời, không bao giờ dám chống lại chúng, và tất nhiên, không dám tùy tiện thay đổi bất kỳ mệnh lệnh nào của Đức Chúa Trời. Đó là những giới hạn mà Đức Chúa Trời đã đặt ra cho Sa-tan, và vì thế Sa-tan chưa bao giờ dám vượt quá những giới hạn này. Đây chẳng phải là quyền năng trong thẩm quyền của Đức Chúa Trời sao? Đây chẳng phải là một lời chứng cho thẩm quyền của Đức Chúa Trời sao? Sa-tan nắm rõ hơn nhân loại nhiều trong cách hành xử với Đức Chúa Trời và cách nhìn nhận Đức Chúa Trời, và vì thế trong cõi thuộc linh, Sa-tan nhìn thấy địa vị và thẩm quyền của Đức Chúa Trời rất rõ ràng, và có một sự lĩnh hội sâu sắc về quyền năng trong thẩm quyền của Đức Chúa Trời và các nguyên tắc phía sau sự thực thi thẩm quyền của Ngài. Nó hoàn toàn không dám xem thường chúng, cũng không dám vi phạm chúng chút nào, hoặc làm bất kỳ điều gì vượt quá thẩm quyền của Đức Chúa Trời, và nó không dám thách thức cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời chút nào. Về bản tính, dù nó tà ác và kiêu ngạo, nhưng Sa-tan chưa bao giờ dám vượt quá những ranh giới và giới hạn mà Đức Chúa Trời đã đặt ra cho nó. Trong hàng triệu năm, nó đã nghiêm túc tuân thủ những ranh giới này, tuân theo mọi sự căn dặn và mệnh cho do Đức Chúa Trời ban cho nó, và chưa bao giờ dám vượt quá giới hạn. Dù nó độc ác, nhưng Sa-tan khôn hơn con người bại hoại rất nhiều; nó biết thân phận của Đấng Tạo Hóa và biết những ranh giới của bản thân. Từ những hành động ‘vâng phục’ của Sa-tan có thể thấy rằng thẩm quyền và quyền năng của Đức Chúa Trời là những sắc lệnh thiên thượng không thể bị vượt quá bởi Sa-tan, và rằng chính vì tính độc nhất và thẩm quyền của Đức Chúa Trời mà muôn vật thay đổi và sinh sôi một cách có trật tự, rằng loài người có thể sống và sinh sôi trong tiến trình do Đức Chúa Trời thiết lập, không người nào hay vật gì có khả năng làm đảo lộn trật tự này, và không người nào hay vật gì có khả năng thay đổi luật lệ này – bởi tất cả chúng đều đến từ bàn tay của Đấng Tạo Hóa, từ tiền định và thẩm quyền của Đấng Tạo Hóa” (Chính Đức Chúa Trời, Đấng độc nhất I, Lời, Quyển 2 – Về việc biết Đức Chúa Trời). Khi suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu ra rằng, bất kể Sa-tan có tà ác đến đâu, nó vẫn luôn ở trong tay Đức Chúa Trời. Nếu không có sự cho phép hay mệnh lệnh của Ngài, nó không dám tùy tiện làm bậy. Ví dụ, Trung Cộng liên tục bắt bớ và bách hại những người tin Đức Chúa Trời, cố gắng xóa sổ hội thánh của Ngài, nhưng thực ra, Trung Cộng cũng nằm trong sự kiểm soát của Đức Chúa Trời. Bất kể dã tâm và dục vọng của nó lớn đến đâu, hay thủ đoạn hãm hại người khác của nó tài tình đến mức nào, nếu không có sự cho phép của Đức Chúa Trời, Trung Cộng cũng không thể làm gì được chúng tôi. Tôi nghĩ về việc trong suốt thời gian này, Trung Cộng đã quyết tâm bắt giữ tôi, nhưng lần nào chúng cũng bắt hụt. Nhờ sự sắp đặt kỳ diệu của Đức Chúa Trời, tôi đã hết lần này đến lần khác thoát khỏi sự bắt bớ. Giờ đây, tôi có thể bình an vô sự làm bổn phận của mình, đó là nhờ thẩm quyền và sự tể trị của Đức Chúa Trời. Nếu không có sự cho phép của Ngài, dù Trung Cộng có cố gắng bắt tôi đến đâu, tôi cũng sẽ không bao giờ rơi vào tay chúng. Việc tôi không bị bắt là do Đức Chúa Trời định sẵn, và hội thánh vẫn cần tôi phối hợp, vì vậy tôi phải dốc lòng cho bổn phận của mình. Có được những nhận thức này, những lo lắng và bất an trong tôi đã vơi đi rất nhiều. Tôi sẵn lòng thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời, và cậy dựa vào Ngài để làm tốt công tác của hội thánh. Tôi bắt đầu lên kế hoạch lại cho công tác trước mắt. Tôi nghĩ đến việc hiện tại có biết bao lãnh đạo và người làm công đã bị bắt, và có rất nhiều công tác xử lý sau sự cố cần phải thực hiện. Nhiều anh chị em đang sống trong tiêu cực và yếu đuối, không biết phải trải nghiệm hoàn cảnh này như thế nào: họ rất cần có lãnh đạo và người làm công thông công và hỗ trợ. Tôi phải hoàn thành trách nhiệm của mình. Sau đó, tôi đã dốc lòng cho bổn phận. Tôi phối hợp cùng các anh chị em, và sau một thời gian nỗ lực, hội thánh đã liên tục bầu ra những lãnh đạo và người làm công mới, nhờ đó các công tác có thể tiếp tục được triển khai. Tình trạng của các anh chị em cũng đã có chút cải thiện, và công tác của hội thánh dần dần có tiến triển.
Trải qua sự bày tỏ của hoàn cảnh này, tôi thấy rằng quan điểm tin Đức Chúa Trời của mình là không đúng đắn: đó là để nhận được phước lành, là cố gắng mặc cả với Đức Chúa Trời, và tôi đã đi sai đường. Đồng thời, tôi cũng thấy rõ bản tính tà ác của con rồng lớn sắc đỏ, và căm ghét nó từ tận đáy lòng. Thêm vào đó, tôi thấy rằng mình không có đức tin chân thật nơi Đức Chúa Trời; khi mối đe dọa bị bắt ập đến, tôi đã sợ hãi. Vóc giạc của tôi quá nhỏ bé. Từ nay về sau, tôi nguyện cậy dựa vào Đức Chúa Trời để làm tốt bổn phận của mình. Tôi không thể có được những thu hoạch này trong một môi trường thoải mái. Tôi đã thể nghiệm được rằng, Đức Chúa Trời sắp đặt hoàn cảnh này cho mình chính là Ngài đang thật sự cứu rỗi mình, và từ tận đáy lòng, tôi cảm tạ Đức Chúa Trời!
Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?
Bởi Tiểu Mễ, Nhật Bản Tháng 6 năm 2022, em được bầu làm lãnh đạo hội thánh. Nghĩ về những công tác được đảm nhận, thu hoạch vô số những...
Bởi Duong Y, Trung Quốc Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Vì số phận của các ngươi, các ngươi nên tìm kiếm sự chấp thuận của Đức Chúa Trời....
Đầu tháng 8 năm 2022, sau một buổi nhóm họp, chị Vương Tĩnh nói: “Trương Mẫn đang cách ly tại nhà để phản tỉnh”. Tôi nghe xong, liền hỏi có...
Năm 2004, tôi được Đức Chúa Trời chọn vào nhà Ngài. Họp mặt cùng các anh chị em, thi thoảng tôi nghe họ thông công về các trải nghiệm, kể...