Sự Tỉnh Ngộ Sau Khi Bị Khai Trừ

16/09/2025

Bởi Trọng Tân, Trung Quốc

Đức Chúa Trời Toàn Năng phán: “Khi ngươi chịu một chút ràng buộc hoặc khó khăn, thì điều đó tốt cho các ngươi; nếu buông lỏng các ngươi thì các ngươi sẽ tiêu tùng, và vậy thì làm sao các ngươi có thể được bảo vệ? Hôm nay, vì các ngươi bị hành phạt, phán xét, và rủa sả nên các ngươi được bảo vệ. Vì các ngươi đã chịu khổ nhiều nên các ngươi được bảo vệ. Nếu không, các ngươi đã rơi vào tình trạng suy đồi từ lâu. Điều này không phải là cố tình làm cho mọi thứ trở nên khó khăn cho các ngươi – bản tính của con người khó mà thay đổi, và phải như thế thì tâm tính của họ mới thay đổi được. Hôm nay, các ngươi thậm chí cũng không sở hữu được lương tâm hay lý trí mà Phao-lô đã sở hữu, ngay cả sự tự biết mình của ông các ngươi cũng không có. Các ngươi luôn phải chịu áp lực, và các ngươi luôn phải chịu hành phạt và phán xét để linh hồn mình được thức tỉnh. Hình phạt và phán xét là điều tốt nhất cho sự sống của các ngươi. Và khi cần thiết, cũng phải có hình phạt của những sự thật xảy đến trên các ngươi; chỉ khi đó các ngươi mới chịu phục hoàn toàn. Bản tính của các ngươi là nếu không có hình phạt và sự rủa sả, các ngươi sẽ không sẵn lòng cúi đầu, không sẵn lòng chịu phục. Không có sự thật trước mắt các ngươi, thì sẽ không đạt được hiệu quả. Nhân cách các ngươi quá thấp hèn và vô giá trị! Không có hình phạt và phán xét, các ngươi sẽ khó bị chinh phục, và sự bất nghĩa và không phục của các ngươi khó bị chế ngự. Bản tính cũ của các ngươi đã bám rễ quá sâu. Nếu các ngươi được đặt trên ngai, các ngươi sẽ không biết trời cao đất dày, càng không biết mình hướng về đâu. Các ngươi thậm chí còn không biết mình đã đến từ đâu, thế thì làm sao biết được Đấng Tạo Hóa? Không có hình phạt và rủa sả đúng thời điểm của ngày hôm nay, ngày cuối cùng của các ngươi hẳn đã đến từ lâu. Huống gì số phận của các ngươi – chẳng phải nó còn bị nguy hiểm cận kề hơn sao?(Sự thực hành (6), Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Khi đọc đoạn lời Đức Chúa Trời này, tôi nghĩ đến việc trước đây mình đã luôn không tự biết mình, sống trong tâm tính kiêu ngạo, hành ác và gây nhiễu loạn cho công tác của hội thánh, nên đã bị khai trừ khỏi hội thánh. Khoảng thời gian đó, tuy đau đớn và khổ sở, nhưng tôi cũng thể nghiệm và lĩnh hội sâu sắc rằng, hình phạt cùng sự phán xét của Đức Chúa Trời đối với con người quả thực là tình yêu, và là sự bảo vệ vô cùng lớn lao.

Năm 2007, tôi tin Đức Chúa Trời hơn một năm thì được chọn làm lãnh đạo hội thánh. Lúc đó tôi cực kỳ nhiệt huyết, mỗi ngày tích cực nhóm họp, chăm tưới người mới và rao truyền phúc âm. Sau một thời gian phối hợp, công tác phúc âm, công tác chăm tưới và bồi dưỡng con người đều đạt được chút kết quả. Sau đó, hễ nơi nào mà đời sống hội thánh yếu kém và kết quả công tác không tốt, thì lãnh đạo cấp trên sẽ bảo tôi đi hỗ trợ. Sau một thời gian tôi đến, mọi hạng mục công tác trong hội thánh đó đều vận hành bình thường, và các anh chị em cũng đặc biệt coi trọng tôi. Tôi vô cùng tự hào, đi đâu cũng ngẩng cao đầu, và thầm nghĩ: “Mình đúng là giỏi giải quyết vấn đề và có năng lực công tác hơn các lãnh đạo hội thánh khác. Những hội thánh được mình hỗ trợ một thời gian thì đều có kết quả, xem ra mình thực sự là tướng tài hiếm có trong hội thánh”. Cứ như vậy, tôi làm lãnh đạo hội thánh liên tục suốt bảy năm. Trong thâm tâm, tôi cảm thấy mình sinh ra là để làm lãnh đạo, và vì thế cũng ngày càng trở nên kiêu ngạo.

Đến mùa đông năm 2015, chị Tư Vũ và tôi cùng nhau phối hợp để phụ trách công tác của hội thánh. Chị ấy tin Đức Chúa Trời lâu năm hơn tôi, làm bổn phận một cách chu toàn và có gánh trọng trách. Nhưng sau một thời gian tiếp xúc, tôi phát hiện năng lực phân định và thông công lẽ thật của chị ấy đều không bằng tôi, hiệu suất khi làm bổn phận cũng không cao bằng tôi. Trong thâm tâm, tôi đã xem thường chị ấy, cảm thấy tuy trước đây chị ấy từng làm nhiều loại bổn phận, nhưng tôi vẫn giỏi hơn. Có lần, tôi nghe một anh em nói, rằng khi anh ấy rao truyền phúc âm không đạt kết quả và đang sống trong khó khăn, lúc đó, chị Tư Vũ không nhìn thấu được vấn đề, thông công và giải quyết cũng không đạt hiệu quả. Sau khi biết được tình hình này, trong lòng tôi vô cùng khinh thường chị Tư Vũ, và tôi đã lớn tiếng trách mắng chị ấy trước mặt các đồng sự: “Thông công kiểu của chị thì làm sao giải quyết được vấn đề? Các anh chị em làm sao tìm được hướng đi chứ?”. Chị Tư Vũ cúi đầu nói khẽ: “Là do tôi không biết thông công”. Lúc đó, tôi chẳng những không ý thức được vấn đề của mình, mà ngược lại, còn được nước lấn tới, tiếp tục trách mắng chị ấy. Tôi thầm nghĩ: “Đúng là chẳng làm nên trò trống gì! Chị vẫn còn xử lý được một số công tác sự vụ, chứ nếu không thì có chị hay không cũng chẳng sao cả!”.

Tháng 2 năm 2016, có một lần, người giảng đạo đến nhóm họp cùng các đồng sự chúng tôi, khi người giảng đạo hỏi thăm về công tác thì chị Tư Vũ trả lời trước, tôi thấy không vui trong lòng, và thầm nghĩ: “Chị đang muốn cướp lấy hào quang của tôi à? Tôi ở đây và còn chưa nói gì, thì sao lại đến lượt chị nói chứ?”. Tôi cướp lời, không cho chị ấy nói. Vào lúc này, chị Tư Vũ nói trước mặt người giảng đạo: “Tôi cảm thấy bị chị kìm kẹp”. Vừa nghe như vậy, tôi lập tức nổi nóng, nghĩ bụng: “Trước mặt các chấp sự và người giảng đạo mà chị lại tố cáo tôi, làm tôi mất hết thể diện. Sau này làm sao tôi còn đứng vững được trong hội thánh này nữa? Mọi người sẽ nhìn nhận thế nào về tôi đây?”. Tôi tức tối nói: “Chị bị tôi kìm kẹp chỗ nào chứ?”. Chị Tư Vũ không dám lên tiếng nữa. Kể từ đó, tôi bắt đầu nảy sinh thành kiến với chị ấy. Trong một buổi nhóm nọ, chị Tư Vũ thông công hơi lâu một chút, cơn giận của tôi lập tức bùng lên, tôi thẳng thừng cắt ngang lời chị ấy và nói một cách bất mãn: “Chị nói đơn giản là được rồi, đừng nói mấy chuyện lắt nhắt như vậy mà làm mất thời gian!”. Thậm chí, trong những buổi nhóm họp cùng các đồng sự, tôi cũng cố ý trách mắng chị ấy trước mặt vài đồng sự, khiến chị ấy bẽ mặt, để cho thấy mình giỏi hơn chị ấy. Bình thường, khi phát hiện chị ấy có sai lệch trong việc làm bổn phận, tôi cũng trách mắng chị ấy, khiến chị ấy càng cảm thấy bị tôi kìm kẹp. Sau đó, chị Tư Vũ cũng ít thông công trong các buổi nhóm họp, nói chuyện thì luôn nhìn sắc mặt tôi, khi gặp chuyện mà tôi không có mặt ở đó, chị ấy cũng không dám đưa ra quyết định. Một vài chấp sự có chuyện gì cũng trực tiếp tìm tôi để bàn bạc giải quyết, tất cả mọi việc trong hội thánh đều phải hỏi tôi trước và chờ tôi quyết định. Lúc đó, tôi cũng thấy không ổn cho lắm, nhưng lại cảm thấy mình làm như vậy cũng là để bảo vệ công tác của hội thánh, là đang gánh trọng trách và có tinh thần trách nhiệm. Hơn nữa, từ sau khi tôi đến hội thánh này, quả thực đời sống hội thánh đã cải thiện, các hạng mục công tác cũng đều có khởi sắc. Tôi tin rằng những gì mình làm là tích cực, nên cũng không suy nghĩ nhiều về việc này. Sau đó, tôi vẫn tiếp tục giống như trước, hễ nhìn thấy các đồng sự và anh chị em làm có sai lệch trong bổn phận, là tôi lại đứng ở vị trí cao mà chỉ trích họ. Các anh chị em vì sợ bị tôi tỉa sửa mà không muốn nhóm họp nữa. Người chị em phối hợp cùng tôi vì bị tôi kìm kẹp trong thời gian dài mà cảm thấy ức chế trong lòng, khóc lóc, tự nhận lỗi và xin từ chức. Nhìn thấy kết quả như vậy, tôi cũng cảm thấy có lỗi phần nào, nhận ra việc mình lúc nào cũng trách mắng, chỉ trích người khác như vậy là không thích hợp. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, “Tôi tỉa sửa cũng là muốn tốt cho các anh chị, tôi cũng đâu có ý đồ xấu xa gì!”. Tôi nghĩ như vậy xong, chút tự trách còn lại trong lòng cũng biến mất.

Tháng 9 năm 2016, một hội thánh khác sát nhập vào hội thánh của chúng tôi, hai chị em từ hội thánh đó là Trường Thanh và Trịnh Lộ trở thành nhóm trưởng. Lúc đó, chúng tôi cần bồi dưỡng một nhóm trưởng chăm tưới. Chúng tôi cân nhắc chị Triệu Duệ: tuy thông công lẽ thật còn hơi kém, nhưng chị ấy là người thật thà, cũng gánh trọng trách và có thể làm chút công tác thực tế, thế nên chúng tôi muốn bồi dưỡng chị Triệu Duệ. Sau khi biết chuyện, chị Trịnh Lộ có một chút phản đối. Chị ấy cho rằng có một chị em khác, tuy thời gian tin Đức Chúa Trời ngắn hơn và trẻ tuổi hơn, nhưng lại có tiềm năng để bồi dưỡng hơn và thích hợp hơn chị Triệu Duệ. Sau khi trở về, chị Tư Vũ báo cáo lại tình hình cho tôi, vừa nghe xong, tôi lập tức cảm thấy lửa giận bùng lên trong lòng, và nghĩ bụng: “Đây là hội thánh mà tôi phụ trách, mọi việc phải do tôi định đoạt. Thế mà chị lại dám chõ mũi vào. Chị là người của hội thánh khác, thế nhưng lại gây nhiễu loạn và gián đoạn một cách trắng trợn như vậy trong phạm vi phụ trách của tôi. Tôi sẽ không cho chị làm bổn phận và cách ly chị, để chị không thể gây nhiễu loạn hay gián đoạn nữa! Đây là địa bàn của tôi, chị không nghe tôi thì có thể rời đi, không được nán lại ở hội thánh của chúng tôi nữa!”. Tôi tức giận nói với vài chấp sự: “Trịnh Lộ đang làm nhiễu loạn công tác, hãy đình chỉ bổn phận và cách ly chị ấy, đừng để chị ấy ở đây mà gây nhiễu loạn và gián đoạn nữa!”. Lúc đó, có một chị em nhắc nhở tôi: “Chị làm vậy là không thích hợp. Nếu chị ấy làm không đúng, chúng ta nên thông công và chỉ dẫn cho chị ấy. Chị xử lý như vậy giống như là đang bài xích chị ấy vậy”. Tôi thầm nghĩ: “Chị ta cũng đâu phải là người của hội thánh mình. Chẳng lẽ mình lại không biết ai nên được bồi dưỡng và ai thì không sao? Hơn nữa, tuy còn thiếu sót, nhưng chị Triệu Duệ là người thật thà và có thể làm công tác thực tế. Mình vốn không ưa gì Trịnh Lộ, cũng chẳng muốn thông công gì với chị ta”. Sau đó, tôi đã không thông qua các anh chị em trong hội thánh mà đã cách ly chị Trịnh Lộ.

Khi tâm tính kiêu ngạo của tôi ngày càng bành trướng, một số anh chị em đã tố cáo tôi. Sau đó, lãnh đạo cấp trên đã sắp xếp người đến tìm hiểu tình hình, và đọc cho tôi nghe những lá thư vạch trần từ các anh chị em. Căn cứ vào biểu hiện nhất quán của tôi là kiêu ngạo, tự cho mình là đúng, thường xuyên trách mắng và kìm kẹp người khác, tôi bị xác định là lãnh đạo giả với một nhân tính tồi tệ, rồi bị cách chức và thay thế. Nhưng khi nghe hết những điều này, tôi hoàn toàn không tiếp nhận nổi. Tôi nghĩ thầm: “Sao mình lại bị cách chức và thay thế chứ? Mình tin Đức Chúa Trời đã hơn mười năm, ngày đêm lao khổ công tác và dâng mình. Mình luôn là người đi đầu trong mọi việc của hội thánh. Sao mình lại bị cách chức và thay thế chứ?”. Tôi cảm thấy rất oan ức, và không ngừng khóc trên đường về nhà. Lúc đó, vì vẫn chưa sắp xếp được người tiếp nhận công tác, nên tôi vẫn tạm thời phối hợp làm một vài việc. Tôi không nghĩ đây là cơ hội mà Đức Chúa Trời dành cho tôi để hối cải. Mà ngược lại, tôi cho rằng dù mình bị cách chức và thay thế nhưng vẫn có thể tiếp tục làm công tác, thì xem xa hội thánh vẫn không thể thiếu tôi. Chẳng bao lâu nữa thì tôi sẽ lại làm lãnh đạo hội thánh mà thôi. Khi nhóm họp với một nhóm nhỏ, một chị em nói với tôi: “Dạo này trông chị gầy đi đấy”. Tôi đáp: “Ở nhà, tôi vẫn liên tục phản tỉnh bản thân và viết ghi chép tĩnh nguyện. Tôi cũng thù hận bản thân, vừa viết mà vừa khóc”. Người chị em này nói: “Chị đúng là mưu cầu lẽ thật, bị cách chức và thay thế rồi mà vẫn viết ghi chép tĩnh nguyện”. Một đôi vợ chồng khác cũng nói: “Chị à, chị thật có thể chịu khổ và dâng mình. Chúng em đều không đồng ý với việc cách chức và thay thế chị. Thậm chí lãnh đạo cũng đặc biệt đến nhóm họp và thông công với chúng em”. Tôi giả vờ nói: “Tôi là lãnh đạo giả thì đáng bị cách chức và thay thế. Các anh chị không nên đứng về phía tôi, mà phải đứng về phía lẽ thật”. Nhưng tôi lại thấy rất vui, thầm nghĩ: “Xem ra các anh chị em vẫn hiểu mình và biết mình bị oan. Họ biết mình đã làm được rất nhiều công tác trong hội thánh. Lãnh đạo cấp trên có thể cách chức và thay thế người chị em phối hợp cùng mình, nhưng không nên làm vậy với mình!”. Tôi lại nghĩ đến hôm đó, phần lớn những bức thư vạch trần được đọc cho tôi đều đến từ các đồng sự của tôi. Chuyện này khiến tôi càng thêm chống đối và không phục: “Tôi nói như vậy cũng vì muốn tốt cho các anh chị, thế mà các anh chị lại bảo rằng tôi trách mắng các anh chị, rồi còn vạch trần tôi, khiến tôi bị cách chức và thay thế. Rõ ràng những việc tôi làm là tích cực, thế mà các anh chị lại không nhìn ra. Tôi thực sự là phí công vô ích mà! Sau này, tôi sẽ không bao giờ chỉ ra vấn đề cho các anh chị nữa, để xem không có tôi thì các anh chị sẽ xoay sở ra sao!”. Thời gian đó, bề ngoài tôi vẫn làm bổn phận, nhưng trong lòng thì luôn chống đối và hơn thua. Tôi cũng nảy sinh ý nghĩ thù hận đối với các đồng sự đã vạch trần mình. Tôi phớt lời khi họ nói chuyện với mình và gần như chẳng nói câu nào trong suốt buổi nhóm họp. Họ bị tôi kìm kẹp nên cứ liên tục nhìn sắc mặt tôi, khiến buổi nhóm họp cũng chẳng đạt được hiệu quả. Thấy cảnh tượng như vậy, tôi chẳng những không có chút hối lỗi nào, mà còn cảm thấy những đau khổ tôi đã chịu đều là do họ tố cáo và vạch trần mà ra. Chính họ đã không biết điều. Thậm chí, tôi còn trút sự bất mãn của mình ra trước mặt các anh chị em: “Tôi đã bị cách chức và thay thế rồi mà họ vẫn bắt tôi đi nhóm họp cùng các đồng sự. Tôi đâu còn là lãnh đạo nữa, bảo tôi đi làm gì chứ?”. Thậm chí, tôi còn nghĩ thầm: “Mình đã bị cách chức và thay thế rồi mà họ vẫn cứ sai mình làm cái này cái kia, chẳng phải là vẫn dựa vào mình sao!”. Một tháng sau, lãnh đạo biết tôi vẫn không phản tỉnh bản thân sau khi bị cách chức và thay thế, còn tỏ ra bất mãn trước mặt các anh chị em, nên đã thông công và vạch trần tôi. Nhưng tôi không tiếp nhận, còn ghi hận người chị em đã báo cáo tình hình, và nghĩ bụng: “Tôi xem chị là người thân, thế mà chị lại có thể phản bội tôi, đi tố cáo vấn đề của tôi. Tôi mà gặp lại chị, nhất định sẽ mắng chị một trận!”. Trong buổi nhóm họp, tôi mặt mày xám xịt, tức giận chỉ trích người chị em kia: “Sau này tôi không bao giờ dám tâm sự với chị nữa. Tôi chỉ nói ra chút bại hoại của mình mà cũng bị chị tố cáo!”. Người chị em ấy chỉ biết ngồi đó bất lực. Sau đó, tôi lại ấm ức nói: “Tôi sẽ không bao giờ làm lãnh đạo nữa. Họ cách chức và thay thế tôi rồi, còn không cho tôi về nhà, để tôi xấu mặt ở đây. Làm như vậy khác nào lấy dao cùng mà cứa người ta!”. Các đồng sự nghe tôi nói vậy thì đều kinh ngạc nhìn tôi, và buổi nhóm họp đó lại bị tôi phá hỏng. Sau đó, người chị em phối hợp nhắc nhở rằng tôi đang trút ra sự tiêu cực. Nhưng tôi lại hoàn toàn không nhận ra chuyện này.

Vì tôi luôn chống đối và không phục việc bị cách chức và thay thế, lại còn lan truyền sự bất mãn, trút ra sự tiêu cực, gây nhiễu loạn và gián đoạn đời sống hội thánh, nên hai tháng sau, các anh chị em đã vạch trần hơn hai mươi biểu hiện gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác hội thánh của tôi. Khi nghe từng lời tố cáo của các anh chị em, tôi cảm thấy như đứng trên đống lửa, chỉ muốn tìm một cái lỗ để chui xuống. Lãnh đạo nói: “Qua những gì các anh chị em tố cáo, chúng tôi thấy rằng từ đầu đến cuối, chị luôn kìm kẹp, trách mắng, thậm chí là trừng trị những người khác trong hội thánh. Chuyện gì cũng do một mình chị quyết định, tùy ý làm càn, và các anh chị em đều bị chị kìm kẹp. Chị ở trong hội thánh mà lại vô pháp vô thiên! Sau khi bị cách chức và thay thế, chị vẫn không phục, bất mãn, gây nhiễu loạn đời sống hội thánh, lan truyền quan niệm để mê hoặc người khác, khiến các anh chị em bênh vực chị. Kết hợp mọi hành động và hành vi này lại, chị bị khai trừ khỏi hội thánh như một kẻ địch lại Đấng Christ!”. Lúc đó, tôi hoàn toàn choáng váng. Đây đúng là chuyện mà tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra được. Tôi tin Đức Chúa Trời bao năm nay mà giờ lại ra nông nổi này. Tôi đau khổ tột cùng, cảm giác như bầu trời sụp đổ, chỉ biết khóc chứ chẳng biết phải làm gì. Rời xa Đức Chúa Trời, con đường sau này, tôi biết phải đi như thế nào? Tôi thật không dám tưởng tượng. Kiếp sống tin Đức Chúa Trời của tôi xem như đã kết thúc. Những ngày sau đó, tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời thì cảm thấy Ngài đã ở rất xa tôi. Tôi không còn cảm nhận được sự hiện diện của Ngài nữa. Tôi cầm lời Đức Chúa Trời trên tay, nhưng cũng chỉ lật giở trong vô định, trong lòng thì tối tăm và trống rỗng, ăn uống lời Đức Chúa Trời cũng chẳng có sự sáng. Tôi muốn tìm con đường trong lời của Ngài, nhưng cảm thấy hôm nay không còn như trước nữa. Tôi đã không còn là một thành viên trong nhà Đức Chúa Trời, Ngài cũng không muốn tôi nữa. Cứ như vậy, mỗi ngày tôi đều sống trong tình trạng sợ hãi. Rồi bệnh tật cũng ập đến với tôi. Khoảng thời gian đó, mỗi ngày tôi chỉ uống một bát canh loãng, thường xuyên khóc rống trong đau đớn, cả ngày đều sống trong mơ màng, giống như một cái xác không hồn. Tôi cảm thấy mình không thể sống nổi nữa, nên đã gấp rút cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Một buổi sáng nọ, trong đầu tôi chợt hiện ra một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Người làm mẹ hiểu con mình như thế nào thì Đức Chúa Trời cũng hiểu mỗi một người như vậy. Ngài hiểu những khó khăn, sự yếu đuối và cũng hiểu nhu cầu của mỗi người. Đức Chúa Trời càng hiểu trong quá trình bước vào sự biến đổi tâm tính, con người sẽ gặp phải những khó khăn nào, sẽ có những dạng yếu đuối và thất bại như thế nào. Đây là những điều mà Đức Chúa Trời hiểu rõ nhất(Con đường thực hành hướng đến sự thay đổi tâm tính của một người, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Tôi rõ ràng nhận ra được rằng đây là sự khai sáng của Đức Chúa Trời. Tôi cảm thấy Ngài vẫn chưa hoàn toàn vứt bỏ tôi, Ngài vẫn đang ở bên cạnh và dõi theo tôi. Tôi khóc nức nở và cầu nguyện với Đức Chúa Trời: “Lạy Đức Chúa Trời! Hóa ra Ngài vẫn chưa từ bỏ con. Ngài vẫn đang ở bên con, đồng hành, khai sáng và dẫn dắt con…”. Tôi cảm thấy lời Đức Chúa Trời vô cùng thân thương, đã kéo tôi trở lại từ bờ vực của cái chết, và cho tôi dũng khí để sống tiếp. Lòng tôi không còn tuyệt vọng nữa. Sau đó, tôi bắt đầu cầu nguyện với Đức Chúa Trời để thay đổi tình trạng của mình.

Một ngày nọ, tôi nghe được một bài thánh ca trải nghiệm có tên là “Lời Đức Chúa Trời nâng đỡ tôi dậy”: “Lời Đức Chúa Trời phán xét như lưỡi dao đâm vào tim tôi, tôi thấy mình đã bị làm bại hoại quá sâu sắc, làm gì còn hình tượng con người nữa chứ? Tôi đã kiêu ngạo đến mức không còn chút lý trí nào, đối với Đức Chúa Trời cũng không hề kính sợ hay thuận phục. Tâm tính của tôi không hề thay đổi, tôi vẫn thuộc về Sa-tan, và thực sự là loài chống đối Đức Chúa Trời. Chính nhờ Đức Chúa Trời hết lần này đến lần khác phán xét, tôi mới tỉnh ngộ, và trong lòng mới có sự hối hận và ghê tởm bản thân. Trong lúc đau đớn, lời Đức Chúa Trời đã an ủi và khích lệ tôi, giúp tôi một lần nữa đứng lên từ vấp ngã. Tôi nguyện dùng lòng trung thành và thuận phục để báo đáp tình yêu của Đức Chúa Trời, thực hành lẽ thật và làm tốt bổn phận của con người. Tạ ơn Đức Chúa Trời đã phán xét và làm tinh sạch sự bại hoại của tôi. Tôi đã đích thân trải nghiệm được tình yêu vĩ đại của Ngài – Lạy Đức Chúa Trời! Con nguyện được chăm chỉ mưu cầu lẽ thật, sống thể hiện ra một hình tượng con người mới và an ủi lòng Ngài” (Theo Chiên Con và hát những bài ca mới). Tôi nghe đi nghe lại bài thánh ca này, nước mắt không ngừng tuôn. Mỗi câu trong lời bài hát đều chạm đến trái tim tôi, và cũng chính là lời mà trong lòng tôi muốn nói. Lương tâm của tôi bị lên án sâu sắc. Tôi nghĩ lại về những tố cáo và việc bị cách chức, đây đều là hoàn cảnh mà Đức Chúa Trời sắp đặt cho tôi, mục đích là để cảnh tỉnh tôi, khiến tôi quay đầu và hối cải với Ngài. Đây là tình yêu và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho tôi. Nhưng tôi đã liên tục khước từ tất cả, chẳng một lần nào chịu tiếp nhận từ Đức Chúa Trời và rút ra bài học. Tôi hết lần này đến lần khác bỏ lỡ cơ hội mà Đức Chúa Trời ban cho, và giờ thì đã không còn cơ hội nào nữa. Tôi thấy trong lòng đầy cảm giác mắc nợ cùng hối hận, và không ngừng khóc. Sau đó, tôi nhận ra mình chỉ là một loài thọ tạo, hơi thở này cũng là do Đức Chúa Trời ban cho. Cho dù Đức Chúa Trời không cần tôi nữa, ngày nào còn sống thì tôi vẫn nên báo đáp tình yêu của Ngài. Tôi không thể vì bị khai trừ mà không tin Đức Chúa Trời nữa. Chừng nào hơi thở này của tôi chưa bị cất đi, tôi vẫn phải tiếp tục đi theo Ngài, phản tỉnh và nhận biết bản thân. Nghĩ đến đây, tôi bắt đầu suy ngẫm: Tôi tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm qua, tại sao cuối cùng lại rơi vào kết cục bị khai trừ như vậy?

Sau đó, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Nếu ngươi đã tin Đức Chúa Trời trong nhiều năm, nhưng chưa từng thuận phục Ngài, và không chấp nhận toàn bộ những lời của Ngài, mà thay vào đó, ngươi lại yêu cầu Đức Chúa Trời phục tùng ngươi và hành động theo các quan niệm của ngươi, thì ngươi là kẻ phản nghịch nhất trong tất cả, ngươi là một người không tin. Làm sao những kẻ như thế có thể thuận phục công tác và lời của Đức Chúa Trời, những điều không phù hợp với các quan niệm của con người? Phản nghịch nhất trong tất cả là những kẻ cố ý không thuận phục và chống lại Đức Chúa Trời. Họ là những kẻ thù của Đức Chúa Trời, những kẻ địch lại Đấng Christ. Thái độ của họ luôn thù địch với công tác mới của Đức Chúa Trời; họ chưa bao giờ có một chút khuynh hướng thuận phục nào, cũng chưa bao giờ vui vẻ thuận phục hay hạ mình. Trước mặt mọi người, họ cho mình là cao nhất và không bao giờ thuận phục bất kỳ ai. Trước Đức Chúa Trời, họ tự cho mình là người giỏi nhất trong việc giảng đạo, và là người khéo nhất trong việc tác động đến người khác. Họ không bao giờ vứt bỏ ‘những báu vật’ mình đang sở hữu, mà xem chúng như những vật gia truyền để thờ lạy, để giảng cho người khác nghe, và họ dùng chúng để lên lớp cho những kẻ ngu thần tượng họ. Thật sự có một số người như thế trong hội thánh. Có thể nói họ là ‘những anh hùng bất khuất’, tạm trú trong nhà Đức Chúa Trời từ thế hệ này sang thế hệ khác. Họ xem việc giảng đạo (giáo lý) là bổn phận cao cả nhất của họ. Năm này qua năm khác, thế hệ này đến thế hệ khác, họ lo thi hành mạnh mẽ bổn phận ‘thiêng liêng và bất khả xâm phạm’ của mình. Không ai dám đụng đến họ; không một ai dám công khai trách cứ họ. Họ trở thành ‘những ông vua’ trong nhà Đức Chúa Trời, họ lộng hành khi áp chế những người khác từ thời này đến thời khác. Bầy quỷ này tìm cách chung tay và phá hủy công tác của Ta; làm sao Ta có thể để mấy con quỷ sống này tồn tại trước mắt Ta?(Những ai thuận phục Đức Chúa Trời với một tấm lòng chân thật chắc chắn sẽ được Đức Chúa Trời thu nhận, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Sự phán xét trong lời Đức Chúa Trời khiến trái tim tê liệt của tôi bắt đầu có chút cảm giác, nhất là những từ như “kẻ chẳng tin”, “kẻ địch lại Đấng Christ” và “ác quỷ”, chúng khiến tôi cảm thấy đặc biệt đau lòng và khổ sở. Tôi không ngừng phản tỉnh và tự hỏi: “Mình tin Đức Chúa Trời nhiều năm nay, từ bỏ cả gia đình lẫn sự nghiệp, chịu khổ và trả giá để làm bổn phận, thì sao lại trở thành kẻ chẳngg tin, kẻ địch lại Đấng Christ, thậm chí là ác quỷ chứ?”. Hồi tưởng lại, tôi cho rằng mình đã làm lãnh đạo nhiều năm, so với vài đồng sự thì có thể làm được nhiều công tác hơn, giải quyết được nhiều vấn đề hơn, còn được lãnh đạo cấp trên đánh giá cao và coi trọng. Tôi lấy đó làm vốn liếng, tin rằng mình có tố chất tốt hơn những người khác, có năng lực công tác, là một nhân tài, và không khỏi trở nên kiêu ngạo. Đặc biệt là khi tôi được cử đến những hội thánh yếu kém để làm công tác, và khi công tác nhanh chóng có khởi sắc nhờ có sự phối hợp thực tế, tôi cho rằng đây là công lao của mình, càng cảm thấy mình làm việc gì cũng giỏi và vượt trội hơn người khác, rồi không coi ai ra gì nữa. Khi người giảng đạo đến tìm hiểu công tác, tôi cho rằng mình là người đứng đầu hội thánh và là người có quyền phát biểu nhất. Khi thấy người chị em phối hợp lên tiếng trước, tôi liền cho rằng chị ấy đang giành lấy sự nổi bật của tôi. Trong thời gian làm bổn phận, tôi không nhìn thấy điểm mạnh của các đồng sự, lại thường hay lấy thâm niên ra để giáo huấn và chỉ trích họ. Trước mặt người chị em phối hợp, tôi hành xử cứ như một lãnh đạo, hễ chị ấy làm gì không hợp ý là tôi sẽ giáo huấn cho một trận, khiến chị ấy cảm thấy bị tôi kìm kẹp, làm bổn phận cũng rụt rè, sợ sệt, và luôn phải nhìn sắc mặt của tôi mà làm việc. Tôi tự mình quyết định mọi công tác trong hội thánh, và hoàn toàn gạt các đồng sự sang một bên. Khi nhóm trưởng bày tỏ sự nghi ngờ về người mà tôi chọn, tôi cảm thấy chị ấy không coi trọng người lãnh đạo là tôi, nên không thể tha thứ cho chị ấy, tôi không bàn bạc với bất kỳ ai cả, mà đã đình chỉ bổn phận và cách ly chị ấy, để xây dựng uy tín cho bản thân. Nhìn lại những việc làm và hành vi của mình, tôi đâu có đang làm bổn phận chứ? Tôi bá đạo ngang ngược, tùy ý làm càn trong hội thánh, bắt các anh chị em phải nghe tôi, làm việc theo ý của tôi. Chẳng phải là tôi đang độc chiếm quyền lực và quyết định mọi việc trong hội thánh sao? Vì quá tê liệt và cương ngạnh, nên hành ác nhiều như vậy mà tôi vẫn không hề ý thức được. Đức Chúa Trời đã dùng các anh chị em để tố cáo tôi. Nhưng sau khi bị cách chức và thay thế, tôi không cho rằng đây là tình yêu và tâm tính công chính của Đức Chúa Trời giáng xuống mình, cũng không phản tỉnh và nhận biết bản thân. Ngược lại, tôi còn không phục và bất mãn, lấy việc mình đã vứt bỏ và dâng mình làm vốn liếng, cho rằng mình là người có công, không nên bị cách chức và thay thế. Tôi thậm chí còn nghĩ rằng, các đồng sự vạch trần tôi là vì họ muốn gây khó dễ cho tôi. Trong các buổi họp đồng sự, tôi cư xử như một người đàn bà chanh chua, làm loạn rồi kêu oan, gây nhiễu loạn nghiêm trọng đến đời sống hội thánh. Tôi còn giả vờ là nhận biết bản thân, mê hoặc các anh chị em đứng về phía tôi và bênh vực cho tôi. Tôi độc chiếm quyền lực trong hội thánh, bắt người ta phải nghe theo mình, thậm chí còn tấn công và bài xích những người đối lập. Tôi không phục và bất mãn với việc bị tố cáo và cách chức, kêu gào chống đối, còn lan truyền quan niệm để mê hoặc các anh chị em. Những việc tôi làm giống hệt như lời Đức Chúa Trời vạch rõ: “Không một ai dám công khai trách cứ họ. Họ trở thành ‘những ông vua’ trong nhà Đức Chúa Trời(Những ai thuận phục Đức Chúa Trời với một tấm lòng chân thật chắc chắn sẽ được Đức Chúa Trời thu nhận, Lời, Quyển 1 – Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời). Không ai dám động đến hay chọc giận tôi, cũng không ai dám vạch trần hay chỉ trích chỗ sai của tôi. Bản tính kiêu ngạo của tôi đã bành trướng đến mức cuồng loạn. Những gì tôi bộc lộ ra không phải là tâm tính bại hoại thông thường, mà là bản tính của Sa-tan đã bùng phát. Cho nên, xác định tính chất tôi là kẻ địch lại Đấng Christ cũng không hề quá chút nào. Nhà Đức Chúa Trời xử lý tôi như vậy chính là sự công chính của Đức Chúa Trời, khiến tôi tâm phục khẩu phục. Tôi đã làm quá nhiều việc chống đối Đức Chúa Trời, thực sự là chết chưa đền hết tội và đáng bị rủa sả! Tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời hết lần này đến lần khác, “Lạy Đức Chúa Trời! Con đã hành ác quá nhiều. Nếu con không bị khai trừ, và không có tâm tính công chính của Ngài tỏ lộ với con, con không biết còn sẽ làm ra bao nhiêu việc ác nữa. Lạy Đức Chúa Trời, con nguyện xưng tội và ăn năn trước Ngài. Thậm chí dù giờ có được ban chết, con cũng sẵn lòng thành thật thuận phục”.

Sau đó, tôi lại đọc được lời Đức Chúa Trời: “Nếu trong lòng ngươi, ngươi thực sự hiểu được lẽ thật, thì ngươi sẽ biết cách thực hành lẽ thật và thuận phục Đức Chúa Trời, và tự nhiên sẽ dấn bước trên con đường mưu cầu lẽ thật. Nếu con đường ngươi bước đi là con đường đúng và phù hợp tâm ý của Đức Chúa Trời, thì công tác của Đức Thánh Linh sẽ không rời khỏi ngươi – như thế sẽ có ngày càng ít nguy cơ ngươi phản bội Đức Chúa Trời. Không có lẽ thật thì rất dễ làm điều ác, và ngươi sẽ làm điều đó dù bản thân không muốn vậy. Chẳng hạn, nếu ngươi có một tâm tính kiêu ngạo và tự phụ, thì việc bảo ngươi đừng đối nghịch với Đức Chúa Trời sẽ chẳng kết quả gì, ngươi không thể cưỡng lại, nó nằm ngoài tầm kiểm soát của ngươi. Ngươi sẽ không chủ tâm làm điều đó; ngươi sẽ làm điều đó dưới sự chi phối của bản tính kiêu ngạo và tự phụ của mình. Sự kiêu ngạo và tự phụ của ngươi sẽ khiến ngươi coi thường Đức Chúa Trời và không xem Ngài ra gì; chúng sẽ khiến ngươi tự đề cao bản thân, không ngừng khoe khoang về bản thân; chúng sẽ khiến ngươi coi khinh những người khác, sẽ khiến ngươi không có ai trong lòng ngoài bản thân mình; chúng sẽ cướp vị trí của Đức Chúa Trời trong lòng ngươi, và cuối cùng sẽ khiến ngươi ngồi vào chỗ của Đức Chúa Trời và đòi hỏi mọi người phải thuận phục mình, khiến ngươi sùng bái suy nghĩ, ý tưởng và quan niệm của mình như là lẽ thật. Biết bao sự ác được thực hiện bởi những người chịu sự chi phối của bản tính kiêu ngạo và tự phụ của họ! Để giải quyết vấn đề hành ác, trước tiên họ phải giải quyết bản tính của họ. Nếu không có thay đổi trong tâm tính, sẽ không thể mang lại một giải pháp cơ bản cho vấn đề này(Chỉ có mưu cầu lẽ thật mới đạt được sự thay đổi trong tâm tính, Lời, Quyển 3 – Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt). Từ lời Đức Chúa Trời, tôi hiểu được, tôi có thể kiểm soát hội thánh, một mình quyết định mọi việc, có thể trách mắng, kìm kẹp các đồng sự, bài xích người bất đồng quan điểm, căn nguyên là vì tôi bị bản tính kiêu ngạo và tự đại chi phối. Chính bản tính kiêu ngạo và tự đại này khiến tôi tự thấy mình quá cao siêu, cho rằng mình làm việc gì cũng đúng, nên các anh chị em đều phải nghe lời mình. Ai không có cùng ý kiến với tôi thì bị tôi bài xích và trừng trị. Những độc tố của Sa-tan như “Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn”, “Thuận ta thì sống, chống ta thì chết” khiến tôi càng ngày càng kiêu ngạo và tự đại, trong hội thánh muốn làm gì thì làm, đã trở thành một tên cuồng đồ vô pháp vô thiên, chẳng ai quản nổi, mất hết lương tâm, lý trí và chẳng còn chút nhân tính nào! Nếu còn không thay đổi, cuối cùng thì tôi chỉ có thể vì đối địch với Đức Chúa Trời mà bị Ngài đào thải và trừng phạt. Tôi nghĩ đến việc Đức Chúa Trời đã cất nhắc mình, cho mình cơ hội rèn luyện làm lãnh đạo. Tâm ý của Ngài là để tôi mượn cơ hội như vậy mà mưu cầu lẽ thật, đồng thời có thể thông công lẽ thật để hỗ trợ và giúp đỡ anh chị em. Nhưng tôi lại làm vua và độc chiếm quyền lực trong hội thánh, hễ phát hiện các anh chị em bộc lộ bại hoại là tôi sẽ lên lớp, la mắng, xem anh chị em như những kẻ nô lệ đáng bị đánh, bị mắng. Hễ ai thắc mắc về quyết định của tôi thì tôi sẽ chèn ép và trừng trị người đó. Tôi thật quá ác độc rồi! Dù đã gây ra bao nhiêu đau đớn cho các anh chị em, gây nhiễu loạn cho đời sống hội thánh đến mức nào, thì tôi vẫn tê liệt và vô cảm. Hội thánh căn cứ vào hành động, hành vi của tôi mà cách chức và thay thế tôi, vậy mà tôi vẫn không biết hối cải, vẫn cho mình là nhân tài và nhà Đức Chúa Trời không thể thiếu mình. Tôi vẫn tiếp tục gây nhiễu loạn và gián đoạn, lan truyền sự bất mãn trong hội thánh, lôi kéo các anh chị em đứng về phía tôi và bênh vực cho tôi. Tính chất của những hành động này chính là kháng cự cách xử lý của hội thánh, là chống đối Đức Chúa Trời và đối nghịch với Ngài! Việc tôi bị khai trừ khỏi hội thánh hoàn toàn tỏ lộ sự công chính của Đức Chúa Trời, và cũng là do tôi tự chuốc lấy. Nghĩ lại từng cảnh tượng trong quá khứ, tôi cảm thấy bị lên án sâu sắc. Tôi thù hận bản thân đến mức tự tát vào mặt mình mấy cái, nhưng những vi phạm của tôi thì đã không thể cứu vãn được nữa. Nghĩ đến các anh chị em mà mình từng làm tổn thương, trước tiên, tôi đến nhà một chị em mà mình có thể liên lạc được. Tôi vừa khóc vừa nói với chị ấy: “Bây giờ tôi mới thấy bản thân thực sự chẳng có chút hình tượng giống con người nào. Lúc trước, khi phối hợp với chị, tôi chê bai chị mọi lúc mọi nơi, còn dùng những lời khó nghe để lên lớp và kìm kẹp chị. Giờ tôi nhận ra mình thật không phải là con người, và đã quá kiêu ngạo rồi! Tôi xin lỗi chị”. Chị ấy cũng thông công và an ủi tôi, khuyên tôi mau chóng rút ra bài học trong hoàn cảnh này. Khi tôi có thể thuận phục trong chuyện bị khai trừ lần này, trong lòng tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều, cảm giác sợ hãi và bất lực cũng bắt đầu vơi đi. Nghĩ lại những gì mình đã làm, tất cả như những cái gai đâm vào tim khiến tôi không dám nhìn lại. Cho dù cuối cùng không có kết cục tốt đẹp, tôi cũng sẵn lòng thuận phục, phản tỉnh và ăn năn. Để bù đắp cho những gì mình mắc nợ, tôi cố gắng hết sức để hỗ trợ những anh chị em tiêu cực và yếu đuối, cũng tiếp đãi các anh chị em đến nhà mình nhóm họp. Bản thân tôi cũng ở nhà ăn uống lời Đức Chúa Trời, viết các bài lời chứng trải nghiệm, và bắt đầu bất giác cảm nhận được sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Tôi cũng trải nghiệm sự hướng dẫn và dẫn dắt của lời Ngài, trong lòng cảm thấy viên mãn hơn rất nhiều.

Một ngày vào hai năm sau, tôi nghe một chị em nói rằng hội thánh muốn tiếp nhận tôi trở lại. Tôi rất vui mừng, nhưng vẫn chưa dám tin hẳn. Tôi thầm nghĩ: “Nếu có một ngày được trở lại hội thánh, mình sẽ không bao giờ hành ác giống như trước nữa”. Thật không ngờ hai ngày sau, lãnh đạo hẹn gặp tôi, và nói: “Sau khi tìm hiểu, thấy rằng trong thời gian bị khai trừ, chị có được biểu hiện hối cải, có tiếp đãi, hỗ trợ các anh chị em, cũng dám vạch trần sự thật về việc mình hành ác. Căn cứ theo nguyên tắc để đánh giá, hội thánh đã quyết định khôi phục đời sống hội thánh cho chị. Chị có sẵn lòng trở lại không?”. Tôi xúc động đến mức không ngừng nói: “Tôi sẵn lòng! Tôi sẵn lòng!”. Trên đường trở về nhà, lòng tôi tràn ngập niềm vui, tôi muốn hét thật lớn rằng: “Lạy Đức Chúa Trời! Lạy Đức Chúa Trời! Con lại được trở về nhà của Ngài rồi”. Lúc ấy tôi cảm thấy mọi thứ đều thật tốt đẹp, và sự cay đắng trong quá khứ cũng tan theo mây khói. Về đến nhà, tôi xúc động đến mức không biết phải nói gì với Đức Chúa Trời, chỉ vừa khóc vừa cầu nguyện với Ngài rằng: “Lạy Đức Chúa Trời, con lại có thể cùng các anh chị em sống đời sống hội thánh rồi. Lạy Đức Chúa Trời, tạ ơn Ngài! Lạy Đức Chúa Trời, tạ ơn Ngài!”. Sau đó tôi lại tiếp tục làm bổn phận. Tôi cực kỳ quý trọng cơ hội làm bổn phận lần này, không muốn như trước đây mà hành ác và chống đối Đức Chúa Trời nữa. Tôi cũng thể nghiệm và lĩnh hội sâu sắc rằng tâm tính công chính của Đấng Tạo Hóa rất sống động và chân thật. Dù Đức Chúa Trời nổi giận hay có lòng thương xót và khoan dung với con người, thì đều bày tỏ tâm tính công chính của Ngài. Tôi thấy bất kể Đức Chúa Trời làm gì với con người thì đều là tình yêu và sự cứu rỗi.

Tháng 11 năm 2020, trong cuộc bầu cử của hội thánh, tôi được chọn làm chấp sự phúc âm. Nghĩ lại trước đây, việc ác mà tôi làm đã gây nhiễu loạn và gián đoạn cho công tác của hội thánh, tôi nhận ra rằng lần này nhà Đức Chúa Trời lại cho tôi cơ hội hối cải, thì tôi nhất định phải phối hợp cho tốt. Tôi không thể lại dựa vào tâm tính kiêu ngạo mà làm bổn phận nữa. Một hôm, tôi đọc được một đoạn lời Đức Chúa Trời: “Khi làm lãnh đạo hay người làm công, nếu ngươi luôn ngồi tít trên cao, xem việc làm bổn phận của mình như một chức quan để hưởng thụ, luôn tham hưởng lợi ích của địa vị, luôn có tính toán của riêng mình, luôn quan tâm và hưởng thụ danh lợi và địa vị của riêng mình, luôn làm việc quản lý của riêng mình, và luôn muốn đạt được địa vị cao hơn, muốn quản lý và khống chế nhiều người hơn, và mở rộng phạm vi quyền lực của mình, thì phiền phức rồi. Xem một bổn phận quan trọng như cơ hội để hưởng thụ thời gian làm quan thì rất nguy hiểm. Nếu ngươi luôn hành động như vậy, không muốn hợp tác với bất kỳ ai, không muốn phân tán quyền lực của mình cho người khác, không muốn bị người khác chiếm thế thượng phong, chiếm mất hào quang, nếu ngươi chỉ muốn một mình hưởng hết, thì ngươi trở thành một kẻ địch lại Đấng Christ rồi. Nhưng nếu ngươi thường xuyên tìm kiếm lẽ thật, thực hành chống lại xác thịt, chống lại những ý định và ý nghĩ của riêng mình, và có thể chủ động hợp tác với những người khác, mở lòng để hỏi ý kiến và tìm kiếm với những người khác, chú ý lắng nghe ý kiến và đề xuất của người khác, tiếp nhận lời khuyên đúng đắn và phù hợp với lẽ thật, bất kể nó đến từ ai, thì ngươi đang thực hành theo cách khôn ngoan và đúng đắn, và ngươi có thể tránh đi sai đường, đó là sự bảo vệ cho ngươi. Ngươi phải buông bỏ các chức danh lãnh đạo, buông bỏ bầu không khí bẩn thỉu của địa vị, coi mình như một người bình thường, đứng ngang hàng với những người khác, và có tâm thái trách nhiệm với bổn phận của mình. Nếu ngươi luôn coi bổn phận của mình như một chức quan và địa vị, hay như một vòng nguyệt quế, và tưởng tượng rằng những người khác ở đó để cống hiến sức lực và phục vụ cho địa vị của ngươi, thì phiền phức rồi, Đức Chúa Trời sẽ ghê tởm và kinh tởm ngươi. Nếu trong lòng ngươi cho rằng ngươi bình đẳng với những người khác, ngươi chỉ có thêm một chút sự ủy thác và trách nhiệm từ Đức Chúa Trời, nếu ngươi có thể học cách đặt mình ngang hàng với họ, và thậm chí có thể hạ mình hỏi ý kiến của người khác, có thể nghiêm túc, chăm chú, và để tâm lắng nghe những gì họ nói, thì ngươi sẽ có sự hợp tác hài hòa với những người khác(Mục 8. Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời (Phần 1), Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ). Lời Đức Chúa Trời đã chỉ ra cho tôi con đường để thực hành. Đức Chúa Trời yêu cầu chúng ta phải buông bỏ dáng vẻ lãnh đạo mà phối hợp hài hòa với người khác, không cố chấp theo cách riêng của mình, lắng nghe đề xuất của người khác nhiều hơn và học tập từ điểm mạnh của người khác. Thực hành như vậy thì mới có thể đạt được tiêu chuẩn làm bổn phận. Nghĩ lại trước đây, tôi cho rằng mình tin Đức Chúa Trời nhiều năm, luôn làm bổn phận lãnh đạo và có kinh nghiệm làm công tác, rồi lấy đó làm vốn liếng. Tôi luôn tin rằng mình giỏi hơn người khác, không nhìn thấy điểm mạnh của các anh chị em, tất cả những gì tôi làm chỉ gây tổn hại cho người khác, và gây nhiễu loạn cho công tác hội thánh. Bây giờ nghĩ lại, chị em phối hợp làm bổn phận với tôi khá vững vàng và có gánh trọng trách. Phát hiện có ai làm việc vi phạm nguyên tắc, chị ấy đều có thể chỉ dẫn và giúp đỡ. Nhưng tôi lại không nhìn thấy điểm mạnh của chị và luôn chê bai chị ấy. Tôi không tiếp thu đề xuất của chị trong phần lớn thời gian, thậm chí còn kìm kẹp chị ấy. Nghĩ đến những điều này, tôi cảm thấy vô cùng hổ thẹn và thật có lỗi với chị ấy. Mỗi người đều có điểm mạnh của mình. Đức Chúa Trời cho chúng tôi phối hợp cùng nhau là để chúng tôi có thể giúp đỡ lẫn nhau, lấy thừa bù thiếu và kiềm chế lẫn nhau, tránh việc cả hai cùng đi sai đường. Thực hành như vậy có ích cho công tác của hội thánh. Bây giờ tôi phải thay đổi. Trong khi làm bổn phận, tôi phải tìm kiếm lẽ thật, lắng nghe đề xuất của người khác nhiều hơn, không thể tiếp tục dựa vào thâm niên hay kinh nghiệm nữa. Tôi phải thực hành theo con đường mà lời Đức Chúa Trời đã chỉ ra.

Trong một lần nhóm họp, chúng tôi cùng nhau bàn luận về những khó khăn và vấn đề của một đối tượng phúc âm. Tôi và một chị em có quan điểm không thống nhất, và khi tôi nêu ra quan điểm của mình thì bị chị ấy bác bỏ. Tôi cảm thấy hơi mất mặt, trong lòng nghĩ: “Dạo gần đây, tôi đã đạt được một số kết quả khi rao truyền phúc âm dựa theo cách nghĩ của mình, trong khi chị thì còn trẻ, lại chưa từng phụ trách công tác phúc âm. Thế chẳng lẽ tôi lại không biết cách giải quyết những vấn đề này sao?”. Tôi lại muốn kiêu ngạo và cố chấp giữ ý mình. Lúc ấy, tôi nhớ đến lời Đức Chúa Trời: “Nếu trong lòng ngươi cho rằng ngươi bình đẳng với những người khác, ngươi chỉ có thêm một chút sự ủy thác và trách nhiệm từ Đức Chúa Trời, nếu ngươi có thể học cách đặt mình ngang hàng với họ, và thậm chí có thể hạ mình hỏi ý kiến của người khác, có thể nghiêm túc, chăm chú, và để tâm lắng nghe những gì họ nói, thì ngươi sẽ có sự hợp tác hài hòa với những người khác(Mục 8. Họ khiến người khác chỉ thuận phục họ, chứ không thuận phục lẽ thật hay Đức Chúa Trời (Phần 1), Lời, Quyển 4 – Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ). Vào lúc này, tôi ý thức được rằng, việc người chị em kia bác bỏ quan điểm của tôi cũng có thể giúp tôi buông bỏ tâm thái kẻ trên của mình, học cách phối hợp hài hòa và lắng nghe đề xuất của người khác. Tôi suy ngẫm kỹ thì mới phát hiện đề xuất của chị ấy rất thích hợp và có chỗ đáng để học hỏi. Lúc đó, tôi mới cảm nhận được rằng, trước kia, toàn là tôi tự cho mình thông minh, nghĩ cho rằng mình vượt trội hơn người và không chịu tiếp thu đề xuất của người khác. Tôi đã quá kiêu ngạo rồi. Tôi cũng thấy được rằng Đức Thánh Linh công tác trên mỗi người theo một cách khác nhau. Dù là ai nêu ra đề xuất thì chúng ta cũng phải lắng nghe, tìm kiếm nhiều hơn, và lấy mạnh bù yếu thì mới có thể làm tốt công tác được. Bây giờ, điều chị ấy nói là thích hợp thì tôi nên tiếp nhận. Tôi nói: “Vậy thì làm theo phương án của chị đi”. Khi tôi buông bỏ ý kiến cá nhân, lắng nghe đề xuất của người khác và lấy công tác của hội thánh làm trọng, thì càm thấy vô cùng an tâm. Sau đó, khi làm bổn phận gặp vấn đề, mọi người đều bày tỏ quan điểm của mình. Ai trong các anh chị em đề xuất thích hợp, có thể giải quyết được vấn đề thì tôi sẽ tiếp thu. Có lúc, các anh chị em chỉ ra vấn đề của tôi, tuy trong lòng thấy khó chịu, nhưng tôi có thể tiếp nhận và phản tỉnh bản thân. Thực hành như vậy một thời gian, tôi đã có chút tiến bộ, và có thể sống chung bình thường với các anh chị em.

Lần trải nghiệm bị khai trừ này, tuy rất đau khổ, nhưng tôi đã có chút nhận biết về bản tính kiêu ngạo thâm căn cố đế của mình. Nếu không trải qua hoàn cảnh như thế, với một kẻ ngạo mạn như tôi thì thật khó mà thay đổi, có tin đến cùng thì cũng sẽ bị tỏ lộ và đào thải. Lần bị cách chức, thay thế và khai trừ này chính là tình yêu và sự cứu rỗi lớn lao mà Đức Chúa Trời dành cho tôi. Từ tận đáy lòng mình, tôi chân thành dâng lời ngợi ca lên Đức Chúa Trời!

Hồi chuông thời sau hết báo động đã vang lên, đại thảm họa đã ập xuống, bạn có muốn cùng gia đình nghênh đón được Thiên Chúa, và có cơ hội nhận được sự che chở của Thiên Chúa không?

Nội dung liên quan

Vươn lên khi đối diện thất bại

Bởi Phấn Khởi, Hàn Quốc Trước khi tin Đức Chúa Trời, tôi được giáo dục bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc, và tôi chẳng nghĩ điều gì ngoài việc...

Thảm họa bởi kiêu ngạo mà ra

Bởi Hạ Tâm, Tây Ban Nha Vào tháng 8 năm 2018, tôi phụ trách một hội thánh của những người mới. Hội thánh đó mới thành lập nên chưa đủ người...

Liên hệ với chúng tôi qua Messenger